zhang
-
Số bài
:
155
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 14.12.2003
|
Ba bài thơ Đường
-
07.10.2004 02:21:29
1. Khúc thanh bình Lý Bạch Tưởng mây là áo mặt là hoa Gió xuân sương sớm níu hiên nhà Nếu chẳng gặp người trên Quần Ngọc Thì hẹn Dao Đài dưới ánh Nga. Một đóa hồng tươi, ngát lệ sương Núi Vu thần nữ uổng buồn vương Hỏi trong cung Hán ai nào sánh Thương Triệu ái phi cậy phấn hương. Người đẹp cùng vui với chúa hoa Vua ngắm cười hoài, mãi kiêu sa Khỏa đi muôn hận xuân đưa gió Tựa song đình bắc thưởng trầm xa. Dịch năm 1999 Thanh bình điệu Âm Hán – Việt Vân tưởng y thường hoa tưởng dung Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường Tá vấn Hán cung thùy đắc tự Khả lân Phi Yến ỷ tân trang Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan Trường đắc quân vương đới tiếu khan Giải thích xuân phong vô hạn hận Trầm hương đình bắc ỷ lan can Chú thích: Một hôm nhân lúc hoa Thược Dược nở, Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi tụ hội để đàn hát. Lý Bạch đang say rượu vẫn bị khiêng tới để làm thơ. Trong men nồng, ông múa bút thành bài ca trên. Chính vì ngầm so sánh Dương Quý Phi với Triệu Phi Yến trong thơ, về sau ông bị thất sủng. Mối giao cảm giữa thi sĩ và thân phận Triệu Phi Yến hóa ra là ý thức về chính mình của Lý Bạch, ông chẳng khác nào phấn hương của vua chúa. Quần Ngọc, Dao Đài: nơi ở của Tây vương mẫu, đại khái là thiên đường cực lạc vậy. Vu sơn: Sở Tương Vương đi chơi ở đất Cao Đường, nằm mộng ái ân với thần nữ núi Vu. Vị thần này sớm làm mây, khuya làm mưa ở Dương Đài. Từ đó “Mây – Mưa” mang thêm nghĩa giao hoan, hưởng lạc. 2. Thu hứng Đỗ Phủ Ngọc sương rải khắp rừng phong Vu sơn, Vu hiệp chập chùng khói bay Dòng sông bụi sóng ken dày Âm u mặt đất gió mây nối vần Cúc khơi dòng lệ hai lần Cô thuyền vườn cũ buộc chân tim này Áo đông dao thước đã bày Bạch thành rộn rã chiều đầy tiếng châm Dịch năm 1995 Thu hứng (kỳ 1) Âm Hán – Việt Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm Vu sơn, Vu hiệp khí tiêu sâm Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố viên tâm Hàn y xứ xứ thôi dao xích Bạch đế thành cao cấp mộ châm Chú thích: Đỗ Phủ làm bài thơ này khi ở Quì Châu, nay là huyện Phụng Tiết, Tỉnh Tứ Xuyên, trong mùa thu 766. Tiếng châm là tiếng dao thước thợ may đập vào miếng đe kê phía dưới khi cắt vải. 3. Xúc cảm Trương Cửu Linh Xuân lá lan xum xuê Thu quế hoa thanh khiết Mạch sống cứ tràn trề Làm nên vòng thời tiết Ai hay kẻ ẩn mình Ngồi nghe gió thao thiết Cây cỏ cũng có lòng Chẳng cần người đẹp biết Dịch năm 1994 Cảm ngộ Âm Hán – Việt Lan diệp xuân uy nhuy Quế hoa thu hạo khiết Hân hân thử sinh ý Tự nhĩ vi giai tiết Thùy tri lâm thê giả Văn phong tọa tương duyệt Thảo mộc hữu bản tâm Hà cầu mỹ nhân chiết Chú thích: Trương Cửu Linh (673-740) người Triều Châu. Làm quan lớn trong triều nhà Đường, ngay thẳng, có khí tiết, vì dèm pha và mếch lòng vua, ông bị bãi chức. Về quê ông đứng ra tổ chức, đốc thúc khai thông đèo Mai Lĩnh để tiện việc đi lại cho công chúng. Ông mất thụy là Văn Hiến, người ta kính trọng, tránh húy mà gọi ông là Khúc Giang Công. Nhân dân nhớ ơn ông lập miếu thờ trên núi, có biển đề bốn chữ ''Phong Độ Thiên Thu''. Tôi cùng dân tộc, cùng họ với ông, triệt để tôn kính Khúc Giang Công nên thường hay đọc thơ và cố gắng trau dồi tinh thần của ông. Ở đây tôi mạn phép xếp Trương Cửu Linh đứng thứ ba sau Thi Tiên Lý Bạch và Thi Thánh Đỗ Phủ. Trương Thái Du Sưu tầm và dịch thơ.
|
|