Nhà thơ yêu nước: Học Lạc
rongxanhag 29.10.2007 03:44:57 (permalink)
Nhà thơ yêu nước:
Học Lạc (1842-1915) 
 
I.Tiểu sử sơ lược:
 
Học Lạc tên thật là Nguyễn Văn Lạc, có biệt hiệu là Sầm Giang.
Ông có trí thông minh từ thuở nhỏ, nhà nghèo nên được tuyển thẳng vào ngạch học sinh, ngạch do triều đình nhà Nguyễn đặt ra, được cấp lương và được học tại trường của quan Đốc học địa phương.
Do đó, người ta mới gọi là Học sinh Lạc, dần dần lại bỏ mất chữ "sinh", còn lại hai chữ  "Học Lạc" chắc là để tiện xưng hô.
 
Ông người làng Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ông học rất giỏi, nhưng không đỗ đạt.
Theo báo Mai số 58 ngày 24/4/37, Học Lạc mất vào năm 1915, niên hiệu Duy Tân thứ IX, nhằm năm Ất Dậu âm lịch.
Nhiều người truyền tụng bài ca trù sau đây mà người ta bảo là do Học Lạc sáng tác:

Năm Kỷ Sửu tuổi vừa bốn tám,
Lấy gương soi ngẩm lại luống cười thầm.
Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm,
Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ.
Thân hạt lúa nổi chìm trên mặt bể,
Cánh chim hồng cao thấp dưới chân trời.
Thôi từ đây đến năm mươi, sáu, bảy, tám, chín, mười mươi.
Già một kiếp, cũng ngày tàn chó mãn kiếp.
Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp,
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.
Nhưng mà lúc thiếu niên đã lỡ bước thanh vân,
Giờ lão cảnh phải an bề bạch bố.
Say dựa gối ngâm thơ ngâm thơ cho vợ ngủ,
Buồn chong đèn đánh kiệu với con chơi.
Gia đình này đã sẳn có thú vui,
Lọ là phải Nam, Bắc thương hoàng cho nhọc xác.
Nhìn thế sự nay đà đổi khác,
Ngẫm bất tái nên há dễ bôn chôn.
Co tay một giấc hành môn.

Nếu căn cứ vào bài ca trù trên đây đúng là của Học Lạc, lấy ngày ông mất ở báo Mai là năm Ất Dậu (1915), so với lúc làm bài ca trù trên vào năm Kỷ Sửu, Học Lạc được 48 tuổi, tính ngược lại thì ông sinh vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ hai (1842). Như vậy ông sinh vào năm Nhâm Dần (1842), mất vào năm Ất Dậu (1915), hưởng thọ 73 tuổi.

 
Và vì thi mãi không đậu, buồn vì vận nước chông chênh, khi quân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Phần, triều đình Huế phải ký hòa ước năm 1862 nhường đứt 3 tỉnh này cho Pháp, và phải trả 4 triệu về tiền quân phí, Học Lạc không còn trông mong gì đến việc thi cử nữa. Ông liền rời bỏ làng Mỹ Chánh, dời nhà về chợ Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) lấy nghề dạy học và bốc thuốc độ thân.
 
II.Giới thiệu một số bài thơ cùng một số tư liệu viết về ông:
 
Vốn có tính ngông ngạo của một nhà nho lỡ vận, bên cạnh một số bài ông viết về quê hương để qua đó gửi gấm tình ý, Học Lạc còn  dùng văn thơ để châm biến thói đời, những trò đạo đức giả; mỉa mai, bỡn cợt bọn hương lý, bọn người làm tay sai cho giặc… bằng những vần thơ tả cảnh gợi tình rất sinh động.
Trong khuynh hướng thi văn, người ta xếp Học Lạc vào các nhà thơ có khuynh hướng trào phúng như Nguyễn Quý Tân, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến...
Xét về nhân cách, phẩm chất; nhà văn Sơn Nam đã xếp Học Lạc bên cạnh Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị...trong đề mục: Những kẻ sĩ hòa mình và đứng về phía bình dân. trong sách Nói về miền Nam…
 
***
Sách Bảng lược đồ văn học Việt nam, quyển hạ, Thanh Lãng viết về Học Lạc như sau:
Cũng như thơ hài hước của Tú Xương, tác giả đã chua cay phác họa bộ mặt thực của xã hội đương thời. Ngoài việc cảm kích cái cảnh nước mất nhà tan như trong bài Ăn cao lâu, Mỹ Tho tức cảnh… phần nhiều ông đều dành tất cả các mũi tên để bắn vào đám quan lại “bản xứ”mất gốc mà ông coi chúng như là bọn phường tuồng:
 
Ăn cao lâu
 
Dễ muốn ăn chơi thế vậy a?
Người đời thắm thoát bóng câu qua.
Tháng ngày thoi trở năm cùng thúc,
Tơ tóc sương bay tóc đã già.
Khiễn hứng no nê mùi Quảng tống,
Tiêu sầu quay mặt rượu lang sa.
Trải xem ai nấy đều mê mệt,
Há dễ mình ta tỉnh đặng mà.


Mỹ Tho tức cảnh

Trên Saigon dưới Mỹ Tho,
Đâu đâu phong cảnh cũng nhường cho.
Lớn ròng chung rạch, chia đôi ngã,
Cũ mới phân nhau cũng một đò.
Phố cất vẽ vời xanh tựa lục,
Buồm dong lên xuống trắng như cò.
Đắc tình trạo tử nên mưa nắng,
Dắn dỏi đua nhau tiếng hát đò.

 
Ông làng hát bội

Chi chi trong khám sắp ngang hàng
Nghĩ lại thì ra các bợm làng
Trong bụng trống trơn mang cổ giữa,
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang
Vào buồn gọi tổ châu đầu lạy,
Ra rạp rằng con nịt nách mang
Dám hỏi hàm ân người lớp trước,
Hay là một lũ những quân hoang?

Con trâu

Mài sừng cho lắm cũng là trâu,
Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu.
Trong bụng lam nham ba lá sách.
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu,
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,
Năm giây đàn gẫy biết chi đâu

Con tôm

Chẳng phải vương công chẳng phải hầu
Học đòi đái kiếm lại mang râu.
Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích,
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.
Dễ muốn ăn chơi thế vậy a?

 
Tức cảnh ban chiều
 
Ngó ra ngoài ngõ gió hiu hiu,
Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều
Hăm hở trẻ con múa lại hát,
Đứa thì làm tướng, đứa làm yêu.
 
Chó chết trôi
 
Sống thời bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc còn phơi lẩn dẩn,
Thốt tha danh hỡi, nổi lêu bêu
Tới lui bịn rịn, bầy tôm tép,
Đưa đón lau xao, lũ quạ diều
Một trận sóng dồi cùng gió dập,
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.10.2007 13:43:49 bởi rongxanhag >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9