Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều viếng mộ Đạm Tiên
Ngày xuân con én đưa thoi,
40./ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.
45./ Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50./ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55./ Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: "Sao trong tiết thanh minh,
60./ "Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?"
Vương Quan mới dẫn gần xa:
"Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
"Nổi danh tài sắc một thì,
"Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
65./ "Kiếp hồng nhan có mong manh,
"Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
"Có người khách ở viễn phương,
"Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
"Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70./ "Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.
"Buồng không lạnh ngắt như tờ,
"Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
"Khóc than khôn xiết sự tình,
"Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
75./ "Đã không duyên trước chăng mà,
"Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
"Sắm xanh nếp tử xe châu,
"Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
"Trải bao thỏ lặn ác tà,
80./ "Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!"
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
"Đau đớn thay phận đàn bà!
"Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85./ "Phũ phàng chi bấy hoá công,
"Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
"Sống làm vợ khắp người ta,
"Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
"Nào người phượng chạ loan chung,
90./ "Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
"Đã không kẻ đoái người hoài,
"Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
"Gọi là gặp gỡ giữa đường,
"Họa là người dưới suối vàng biết cho."
95./ Lầm dầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100./ Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài.
105./ Vân rằng: "Chị cũng nực cười,
"Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!"
Rằng: "Hồng nhan tự nghìn xưa,
"Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
"Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110./ "Thấy người nằm đó biết sau thế nào?"
Quan rằng: "Chị nói hay sao,
"Một lời là một vận vào khó nghe.
"Ở đây âm khí nặng nề,
"Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa".
115./ Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,
"Thác là thể phách, còn là tinh anh,
"Dễ hay tình lại gặp tình,
"Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ."
Một lời nói chửa kịp thưa,
120./ Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125./ Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: "Này thực tinh thành chẳng xa.
"Hữu tình ta lại gặp ta,
"Chớ nề u hiển mới là chị em".
Đã lòng hiển hiện cho xem,
130./ Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Chú giải:
39. Con én đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như chiếc thoi đưa.
40. Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.
43. Thanh minh: Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.
44. Tảo mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên.
Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.
45. Yến anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân.
48. Ngựa xe như nước: Ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác.
áo quần như nêm: ý nói người đông đúc, chen chúc.
49. Ngổn ngang gò đống kéo lên: Những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi gò đống.
50. Vàng - vó: Một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ hội.
53. Tiểu khê: Ngòi nước nhỏ.
62. Ca nhi: Con hát.
65. Hồng nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.
66. Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, ví với người đẹp.
70. Trâm gãy bình rơi: ý nói người đẹp đã chết.
72. Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời trước đấy.
74. Bấy: Biết bao nhiêu.
77. Nếp tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. Ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chôn cất Đạm Tiên một cách chu đáo.
78. Bụi hồng: do chữ hồng trần, nghĩa là đám bụi đỏ.
Đây muốn ám chỉ nấm mộ nằm bên đường, một nấm mồ lưu lại trong cõi trần gió bụi.
79. Thỏ bạc, ác vàng: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
82. Châu: Hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.
85. Hóa công: Thợ tạo hoá, tức là trời.
86. Phượng: Chim phượng trống. Loan: Chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phượng dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. Ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.
90. Tiếc lục tham hồng: ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.
94. Suối vàng: Do chữ Hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.
97. Áy: Vàng úa.
112. Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.
113. Âm khí: Cái khí cõi âm, cõi chết, ở đây chỉ không khí bãi tha ma.
116. Thể: Thể xác (hữu hình). Phách: Chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.
118. Hiển linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.
126. Tinh thành: Lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.
128. U hiển: U là tối, chỉ cõi chết. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. ý nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cõi âm , người cõi dương.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2007 10:00:09 bởi Thu Hien >