Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT

Tác giả Bài
hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 26.11.2007 09:05:11



RUBÁIYÁT
OF
OMAR KHAYYÁM.


I.
Awake! for Morning in the Bowl of Night
Has flung the Stone that puts the Stars to Flight:
And Lo! the Hunter of the East has caught
The Sultán’s Turret in a Noose of Light.
*
Dậy! Buổi sáng ném Đá vào Chén của Đêm
Đá đuổi Sao Di chuyển. Và hãy nhìn!
Người đi săn của Phương Đông cài bẫy
Tháp của Vua trong Thòng lọng Bình minh.


II.
Dreaming when Dawn’s Left Hand was in the Sky,
I heard a Voice within the Tavern cry,
“Awake, my Little ones, and fill the Cup
Before Life’s Liquor in its Cup be dry.”
*
Khi Tay Trái Bình minh giữa Trời xanh
Ta mơ màng nghe từ Quán rượu kêu lên:
“Dậy, các Con, dậy rót cho đầy Chén
Trước khi Rượu Đời khô trong Chén của mình”.


III.
And, as the Cock crew, those who stood before
The Tavern shouted—“Open then the Door!
You know how little while we have to stay,
And, once departed, may return no more.”
*
Gà gáy sáng, người ta kêu trước cửa
Của Quán rượu rằng: “Hãy mau mở Cửa!
Ngươi có biết, đời ngắn ngủi lắm thay
Một lần đi, không còn quay về nữa”.


IV.
Now the New Year reviving old Desires,
The thoughtful Soul to Solitude retires,
Where the White Hand of Moses on the Bough
Puts out, and Jesus from the Ground suspires.
*
Năm Mới hồi sinh Lòng khát khao xưa cũ
Hồn đầy ý nghĩ đi về nơi Vắng vẻ
Nơi giơ ra Bàn tay Trắng của Mose
Nghe từ dưới Đất tiếng thở dài của Chúa.


V.
Irám indeed is gone with all its Rose,
And Jamshýd’s Sev’n-ring’d Cup where no one knows:
But still the Vine her ancient Ruby yields,
And still a Garden by the Water blows.
*
Irám quả là biến mất với Hoa hồng
Chén Jamshýd ở đâu, có ai biết chăng
Nhưng Nho còn cho màu Hồng xưa cũ
Và bên Sông vẫn tươi tốt khu Vườn.


VI.
And David’s Lips are lockt; but in divine
High-piping Péhlevi, with “Wine! Wine! Wine!
Red Wine!”—the Nightingale cries to the Rose
That yellow Cheek of hers to incarnadine.
*
Trên môi David còn dấu, nhưng giọng thánh thần
Của Péhlevi – Họa mi gọi Hoa hồng:
“Rượu! Rượu! Rượu vang đỏ!” để gợi
Màu hồng tươi trên đôi Má màu vàng.

VII.
Come, fill the Cup, and in the Fire of Spring
The Winter Garment of Repentance fling:
The Bird of Time has but a little way
To fly—and Lo! the Bird is on the Wing.
*
Ngươi hãy đến và rót cho đầy Chén
Và hãy ném vào ngọn Lửa của mùa Xuân
Áo quần mùa Đông của sự ăn năn
Con chim Thời gian đã vẫy vùng đôi Cánh.


VIII.
And look—a thousand blossoms with the Day
Woke—and a thousand scatter’d into Clay:
And this first Summer Month that brings the Rose
Shall take Jamshýd and Kaikobád away.
*
Ngày đến với cả ngàn hoa – hãy xem
Cả một nghìn đã tan vào Đất sét
Tháng đầu Hè mang đến những bông Hồng
Nở hoa xa Jamshýd và Kaikobád.


IX.
But come with old Khayyám and leave the Lot
Of Kaikobád and Kaikhosrú forgot:
Let Rustum lay about him as he will,
Or Hátim Tai cry Supper—heed them not.
*
Với Khayyam già, quên đi Số kiếp
Của Kaikhosrú và Kaikobád
Và Rustum cứ để cho mặc lòng
Hay Hátim Tai gọi ăn trưa – cứ mặc.


X.
With me along some Strip of Herbage strown
That just divides the desert from the sown,
Where name of Slave and Sultán scarce is known,
And pity Sultán Máhmúd on his Throne.
*
Đi cùng ta, theo lối Cỏ Hoa xanh
Để cách ngăn sa mạc với đồng bằng
Nơi không cần Đế vương hay Nô lệ
Thương Vua Máhmúd ngự trên Ngai vàng.


XI.
Here with a Loaf of Bread beneath the Bough,
A Flask of Wine, a Book of Verse—and Thou
Beside me singing in the Wilderness—
And Wilderness is Paradise enow.
*
Ở nơi đây dưới bóng lá bóng Cành
Với Bánh, Rượu, Quyển sách Thơ – và Em
Hát bên anh, thì dù cho Sa mạc
Đối với anh cũng vẫn cứ Thiên đàng.


XII.
“How sweet is mortal Sovranty”—think some:
Others—“How blest the Paradise to come!”
Ah, take the Cash in hand and waive the Rest;
Oh, the brave Music of a distant Drum!
*
Ai đấy nghĩ: “Thật sung sướng cõi trần!”
Còn ai: “Hạnh phúc được đến Thiên đàng!”
Ta cứ giữ Hầu bao và quên hết
Có khác gì tiếng Trống cõi xa xăm!


XIII.
Look to the Rose that blows about us—“Lo,
Laughing,” she says, “into the World I blow:
At once the silken Tassel of my Purse
Tear, and its Treasure on the Garden throw.”
*
Hãy nhìn xem, hoa Hồng nở xung quanh
Hoa cười, nói: Ta đến cõi Trần gian
Rồi phút giây Kho báu từ tơ lụa
Bỗng tan ra rải rác khắp cả Vườn”.


XIV.
The Worldly Hope men set their Hearts upon
Turns Ashes—or it prospers; and anon,
Like Snow upon the Desert’s dusty Face
Lighting a little Hour or two—is gone.
*
Hy vọng Trần gian trong trái Tim người
Thành Tro bụi, hoặc tan biến ngay thôi
Như Tuyết trên gương Mặt hồng Sa mạc
Một hai Giờ, rồi sẽ biến mất ngay.


XV.
And those who husbanded the Golden Grain,
And those who flung it to the Winds like Rain,
Alike to no such aureate Earth are turn’d
As, buried once, Men want dug up again.
*
Và ai người gìn giữ Bông lúa Vàng
Ai người ném ra Gió, như Mưa giông
Về với Đất, không còn như vàng bạc
Đã chôn rồi, Thiên hạ chẳng đào lên.


XVI.
Think, in this batter’d Caravanserai
Whose Doorways are alternate Night and Day,
How Sultán after Sultán with his Pomp
Abode his Hour or two and went his way.
*
Hãy nghĩ xem, trong cái Lễ hội này
Liên tục đổi thay, hết Đêm đến Ngày
Vua tiếp Vua, trong cái vòng xoay ấy
Một hai Giờ rồi lại biến mất ngay.


XVII.
They say the Lion and the Lizard keep
The Courts where Jamshýd gloried and drank deep:
And Bahrám, that great Hunter—the Wild Ass
Stamps o’er his Head, and he lies fast asleep.
*
Nghe nói Thằn lằn với Sư tử đâu
Giữ Cung điện, nơi Jamshýd uống rượu lâu
Và Bahrám, Người đi săn vĩ đại
Ngủ say, trong khi Lừa Hoang đạp trên Đầu.


XVIII.
I sometimes think that never blows so red
The Rose as where some buried Cæsar bled;
That every Hyacinth the Garden wears
Dropt in its Lap from some once lovely Head.
*
Đôi khi ta nghĩ rằng không có hoa đỏ hơn
Hoa Hồng ở nơi chôn ông Vua vĩ đại
Và mỗi bông Lan dạ hương trong vườn
Mọc ra từ Đầu người yêu nào đấy.


XIX.
And this delightful Herb whose tender Green
Fledges the River’s Lip on which we lean—
Ah, lean upon it lightly! for who knows
From what once lovely Lip it springs unseen!
*
Hoa cỏ tuyệt đẹp, Màu xanh dịu dàng
Trải khắp Bờ Sông, nơi ta nằm lên
Hãy nhẹ nhàng, vì rằng ai biết được
Từ bờ Môi yêu dấu, cỏ hồi sinh.


XX.
Ah, my Belovéd, fill the cup that clears
To-day of past Regrets and future Fears—
To-morrow?—Why, To-morrow I may be
Myself with Yesterday’s Sev’n Thousand Years.
*
Em cứ rót rượu cho đầy, để rửa
Nỗi sợ tương lai, Tiếc thương quá khứ
Còn Ngày mai? Tại sao, trong Ngày mai
Anh đã cùng Bảy Nghìn năm Hôm qua đó.


XXI.
Lo! some we loved, the loveliest and the best
That Time and Fate of all their Vintage prest,
Have drunk their Cup a Round or two before,
And one by one crept silently to Rest.
*
Hãy xem! Người ta yêu, những gì tốt nhất
Mà Số phận và Thời gian từ Nho đã ép
Họ uống Chén mình một hai lượt trước đây
Rồi theo nhau về Ngủ yên dưới đất.


XXII.
And we, that now make merry in the Room
They left, and Summer dresses in new Bloom,
Ourselves must we beneath the Couch of Earth
Descend, ourselves to make a Couch—for whom?
*
Giờ ta đang vui vẻ trong phòng này
Họ bỏ lại, Hè trải ra Hoa mới
Ta rồi phải xuống dưới Giường Đất ấy
Và sẽ thành Giường – là để cho ai?


XXIII.
Ah, make the most of what we yet may spend,
Before we too into the Dust descend;
Dust into Dust, and under Dust, to lie,
Sans Wine, sans Song, sans Singer, and—sans End!
*
Tìm lấy điều gì đấy tốt cho ta
Bởi rồi đây Cát bụi cả thôi mà
Thành Cát bụi ta nằm trong Cát bụi
Chẳng Cuối cùng, chẳng Rượu, chẳng Bài ca.


XXIV.
Alike for those who for To-day prepare,
And those that after a To-morrow stare,
A Muezzín from the Tower of Darkness cries,
“Fools! your Reward is neither Here nor There!”
*
Với những người chỉ sống ngày Hôm nay
Và những người chỉ sống với Ngày mai
Ông Muezzín kêu lên từ Tháp Tối:
“Đừng ngóng trông chi nơi Nọ, nơi Này!”


XXV.
Why, all the Saints and Sages who discuss’d
Of the Two Worlds so learnedly, are thrust
Like foolish Prophets forth; their Words to Scorn
Are scatter’d, and their Mouths are stopt with Dust.
*
Những Thánh thần và những nhà Thông thái
Từng tranh luận về chuyện Hai Thế giới
Những lời Tiên tri dại dột bị khinh thường
Miệng họ đã im, tất cả về Cát bụi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 21:18:06 bởi hoangai >

hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
RE: Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 26.11.2007 09:07:44



XXVI.
Oh, come with old Khayyám, and leave the Wise
To talk; one thing is certain, that Life flies;
One thing is certain, and the Rest is Lies;
The Flower that once has blown for ever dies.
*
Theo Khayyam già, Khôn ngoan bỏ lại
Chỉ có một điều: Cuộc đời đi mãi
Chỉ có một điều: Hoa nở một lần
Rồi tàn lụi, còn lại đều Gian dối.


XXVII.
Myself when young did eagerly frequent
Doctor and Saint, and heard great Argument
About it and about: but evermore
Came out by the same Door as in I went.
*
Thời tuổi trẻ, ta sung sướng biết bao
Nghe theo Thầy, theo Thánh được rất lâu
Họ tranh luận về chuyện này chuyện khác
Nhưng luôn ra theo cánh Cửa khi vào.


XXVIII.
With them the Seed of Wisdom did I sow,
And with my own hand labour’d it to grow:
And this was all the Harvest that I reap’d—
“I came like Water, and like Wind I go.”
*
Cùng với họ, ta gieo hạt Giống Khôn
Lao động làm cho hạt giống lớn lên
Và đây là Kết quả khi thu hoạch:
“Đến như Nước, rồi đi như Gió rừng”.


XXIX.
Into this Universe, and why not knowing,
Nor whence, like Water willy-nilly flowing:
And out of it, as Wind along the Waste,
I know not whither, willy-nilly blowing.
*
Vào Vũ trụ, không biết được tại sao
Và như Nước, không biết được từ đâu
Rồi như Gió lướt bay trên Sa mạc
Dù muốn dù không, chẳng biết về đâu.


XXX.
What, without asking, hither hurried whence?
And, without asking, whither hurried hence!
Another and another Cup to drown
The Memory of this Impertinence!
*
Xin đừng hỏi ta rằng: đến từ đâu?
Và xin đừng hỏi gì chuyện: về sau?
Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa
Để ta quên điều Sỉ nhục trong đầu.


XXXI.
Up from Earth’s Centre through the Seventh Gate
I rose, and on the Throne of Saturn sate,
And many Knots unravel’d by the Road;
But not the Knot of Human Death and Fate.
*
Từ lòng Đất ta xuyên qua Bảy Cổng
Rồi ta ngồi lên Ngai vàng Số phận
Và ta lẫn lộn Đầu mối trên Đường
Nơi đan kết Cái chết và Số phận.


XXXII.
There was a Door to which I found no Key:
There was a Veil past which I could not see:
Some little talk awhile of Me and Thee
There seemed—and then no more of Thee and Me.
*
Trước mặt ta cánh Cửa khoá im lìm
Và tấm Lưới, ta không thể nhìn xuyên
Về Em, về Anh, có lời to nhỏ
Nhưng sau chẳng còn Em cũng như Anh.

XXXIII.
Then to the rolling Heav’n itself I cried,
Asking, “What Lamp had Destiny to guide
Her little Children stumbling in the Dark?”
And—“A blind Understanding!” Heav’n replied.
*
Ta hướng về bầu Trời xanh, kêu lên
Hỏi: “Ngọn đèn nào của Số phận dẫn đường
Cho bầy Trẻ vấp váp trong Bóng tối?”
Câu trả lời: “Mù quáng!” tự Trời xanh.


XXXIV.
Then to the earthen Bowl did I adjourn
My Lip the secret Well of Life to learn:
And Lip to Lip it murmur’d—“While you live
Drink!—for once dead you never shall return.”
*
Khi đó ta ép Môi vào Chén đất
Để mong hiểu ra Ngọn Đời bí mật
Môi kề Môi, chén bảo: “Cứ uống đi
Kẻo không quay về sau khi đã chết”.

XXXV.
I think the Vessel, that with fugitive
Articulation answer’d, once did live,
And merry-make; and the cold Lip I kiss’d
How many kisses might it take—and give!
*
Ta nghĩ rằng Bình chứa nguồn rượu sống
Trả lời ta, từng một thời đã sống
Từng vui tươi, còn Môi lạnh ta hôn
Biết bao nụ hôn đã tan – và tặng.


XXXVI.
For in the Market-place, one Dusk of Day,
I watch’d the Potter thumping his wet Clay:
And with its all obliterated Tongue
It murmur’d—“Gently, Brother, gently, pray!”
*
Một hôm trong Chợ, vào giờ cuối ngày
Ta nhìn Thợ gốm, Đất sét trong tay
Và ta nghe tiếng thì thào, nức nở:
“Hỡi người Anh em, xin hãy nhẹ tay!”


XXXVII.
Ah, fill the Cup:—what boots it to repeat
How Time is slipping underneath our Feet:
Unborn To-morrow and dead Yesterday,
Why fret about them if To-day be sweet!
*
Rót đầy Chén, chuyện có để làm gì
Nhắc rằng Thời gian lướt dưới chân ta
Ngày mai chưa về, Hôm qua đã chết
Tiếc thương gì, Hôm nay đẹp nhường kia!


XXXVIII.
One Moment in Annihilation’s Waste,
One Moment, of the Well of Life to taste—
The Stars are setting and the Caravan
Starts for the Dawn of Nothing—Oh, make haste!
*
Một phút giây, trong Hoang mạc Điêu tàn
Một phút giây, để nếm vị Đời ngon
Sao sẽ tàn, Đoàn người trên sa mạc
Vào cõi Hư không – Ô, hãy vội vàng!


XXXIX.
How long, how long, in definite Pursuit
Of This and That endeavour and dispute?
Better be merry with the fruitful Grape
Than sadden after none, or bitter, Fruit.
*
Bao nhiêu lâu còn theo Đuổi mông lung
Để chuyện Này, Kia tranh luận thỏa lòng
Tốt hơn hết đi nếm mùi Rượu ngọt
Còn hơn buồn vì Trái đắng, hoặc không.


XL.
You know, my Friends, how long since in my House
For a new Marriage I did make Carouse:
Divorced old barren Reason from my Bed,
And took the Daughter of the Vine to Spouse.
*
Bạn biết không, ta đây đã từ lâu
Làm cuộc Hôn nhân, Uống rượu ồn ào
Xua khỏi giường bà già tên Lý trí
Và bây giờ, Con gái Rượu – Nàng dâu.


XLI.
For “Is” and “Is-not” though with Rule and Line,
And “Up-and-down” without, I could define,
I yet in all I only cared to know,
Was never deep in anything but—Wine.
*
Bằng thước ta đo được “Có” và “Không”
Hoặc “Lên-và-Xuống” chính xác như mong
Nhưng tất cả bây giờ ta chỉ biết
Mỗi một điều rằng uống Rượu là hơn.


XLII.
And lately by the Tavern Door agape,
Came stealing through the Dusk an Angel Shape
Bearing a Vessel on his Shoulder; and
He bid me taste of it; and ’twas—the Grape!
*
Mới gần đây, bên cánh Cửa mở toang
Trong buổi hoàng hôn có một Thiên thần
Ôm Bình rượu, và ngài mời ta nếm
Ta nhận ra rằng thứ Rượu thật ngon!


XLIII.
The Grape that can with Logic absolute
The Two-and-Seventy jarring Sects confute:
The subtle Alchemist that in a Trice
Life’s leaden Metal into Gold transmute.
*
Trong Rượu có thứ Logic tuyệt đối
Bác Bảy hai Giáo phái đang tranh cãi
Rượu là Nhà giả kim tuyệt trần
Trong phút giây biến Sắt thành Vàng thỏi.


XLIV.
The mighty Máhmúd, the victorious Lord
That all the misbelieving and black Horde
Of Fears and Sorrows that infest the Soul
Scatters and slays with his enchanted Sword.
*
Máhmúd tối cao, Chúa tể oai hùng
Nếu tất cả những nỗi Sợ màu đen
Và nỗi Buồn trong lòng ta dâng ngập
Ngài xua đi, chặt đầu chúng bằng gươm.

XLV.
But leave the Wise to wrangle, and with me
The Quarrel of the Universe let be:
And, in some corner of the Hubbub coucht,
Make Game of that which makes as much of Thee.
*
Bỏ lại Khôn ngoan và hãy cùng ta
Về Hỗn mang trong Vũ trụ bao la
Và ẩn vào một góc miền Hubbub
Để thử xem cho bạn được những gì.


XLVI.
For in and out, above, about, below,
’Tis nothing but a Magic Shadow-show,
Play’d in a Box whose Candle is the Sun,
Round which we Phantom Figures come and go.
*
Trong và ngoài, trên, dưới, xung quanh
Đấy chẳng khác gì chiếc Bóng Thần thông
Còn Mặt trời – cây Nến trong chiếc Hộp
Và ta – Bóng ma đi, đến vòng quanh.

XLVII.
And if the Wine you drink, the Lip you press,
End in the Nothing all Things end in—Yes—
Then fancy while Thou art, Thou art but what
Thou shalt be—Nothing—Thou shalt not be less.
*
Và nếu Rượu bạn uống, Môi ép vào
Cuối cùng Hư không, Vật chất như nhau
Bạn hãy vui, vì bây giờ bạn có
Bạn sẽ - Hư không – và chẳng ít hơn đâu.

XLVIII.
While the Rose blows along the River Brink,
With old Khayyám the Ruby Vintage drink;
And when the Angel with his darker Draught
Draws up to Thee—take that, and do not shrink.
*
Khi Hoa hồng còn nở bên Bờ Sông
Cùng Khayyam già hãy uống Rượu Hồng
Còn khi Thiên thần đem cho rượu Tối
Bạn hãy uống đi và chớ hoang mang.


XLIX.
’Tis all a Chequer-board of Nights and Days,
Where Destiny with Men for Pieces plays:
Hither and thither moves, and mates, and slays,
And one by one back in the Closet lays.
*
Đây bàn Cờ của Đêm và của Ngày
Số phận coi Người là con Tốt thôi
Đưa xuống, đẩy lên rồi đem chiếu tướng
Người tiếp người đưa vào Chỗ nghỉ ngơi.

L.
The Ball no Question makes of Ayes and Noes,
But Right or Left as strikes the Player goes;
And He that toss’d Thee down into the Field,
He knows about it all—He knows—HE knows!
*
Quả Bóng thì không nói Có và Không
Sang Phải, Trái theo Cầu thủ trên Sân
Chỉ Người ném bạn ra sân biết được
Ngài biết tất cả, Ngài biết được rằng!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 21:24:01 bởi hoangai >

hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
RE: Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 26.11.2007 09:12:14


LI.
The Moving Finger writes; and, having writ,
Moves on: nor all thy Piety nor Wit
Shall lure it back to cancel half a Line,
Nor all thy Tears wash out a Word of it.
*
Tay Số phận viết và tiếp trang sau
Lòng mộ đạo, Trí khôn, ích gì đâu
Không xóa nổi nửa dòng, và Nước mắt
Cũng không rửa đi Lời viết lúc đầu.


LII.
And that inverted Bowl we call The Sky,
Whereunder crawling coop’t we live and die,
Lift not thy hands to It for help—for It
Rolls impotently on as Thou or I.
*
Chén lật úp mà ta gọi Bầu trời
Ta bò trườn, sống rồi chết đấy thôi
Đừng giơ tay cầu xin Trời giúp đỡ
Chẳng giúp được gì cho Bạn và Tôi.


LIII.
With Earth’s first Clay They did the last Man’s knead,
And then of the Last Harvest sow’d the Seed:
Yea, the first Morning of Creation wrote
What the Last Dawn of Reckoning shall read.
*
Đất sét đầu, Họ nặn ra Người cuối
Và sau đó gieo hạt Giống mùa Sau
Buổi sáng đầu của Tạo thành viết vội
Rồi Bình minh tính sổ đọc sau này.


LIV.
I tell Thee this—When, starting from the Goal,
Over the shoulders of the flaming Foal
Of Heav’n Parwín and Mushtara they flung,
In my predestined Plot of Dust and Soul.
*
Nói với bạn – Khi ta ra khỏi Cổng
Con Ngựa Trời rực lửa chở ta vào
Nơi Linh hồn cùng Đất đai bụi bặm
Do Parwín và Mushtara ném vào.


LV.
The Vine had struck a Fibre; which about
It clings my Being—let the Súfi flout;
Of my Base Metal may be filed a Key,
That shall unlock the Door he howls without.
*
Cây Nho đâm rễ, cứ mặc Sufi
Chê sự Tồn tại của ta bám rễ
Từ Sắt của ta có thể đúc Chìa
Để mở Cánh cửa, kẻo người la ó.


LVI.
And this I know: whether the one True Light
Kindle to Love, or Wrath consume me quite,
One Glimpse of It within the Tavern caught
Better than in the Temple lost outright.
*
Ta biết rằng thứ Ánh sáng Trung thành
Đốt lên Tình yêu hoặc là Tức giận
Thà tận hưởng chút thoáng qua trong Quán
Cũng còn hơn để mất ở Thánh đường.


LVII.
Oh, Thou, who didst with Pitfall and with Gin
Beset the Road I was to wander in,
Thou wilt not with Predestination round
Enmesh me, and impute my Fall to Sin?
*
Ô, Ngươi là kẻ đặt Bẫy ở bên Đường
Là nơi mà ta thường vẫn lang thang
Có lẽ nào héo hon vì tiền định
Qui tội cho ta Đổ đốn, Lỗi lầm?


LVIII.
Oh, Thou, who Man of baser Earth didst make
And who with Eden didst devise the Snake:
For all the Sin wherewith the Face of Man
Is blacken’d, Man’s Forgiveness give—and take!
*
Ô, Ngươi lấy Đất nặn ra Con người
Nghĩ ra Thiên đường, đồng thời con Rắn
Vì lầm lỗi hiện trên gương mặt người
Ngươi tha thứ, và khoan dung được nhận.

LIX.
Listen again. One Evening at the Close
Of Ramazán, ere the better Moon arose,
In that old Potter’s Shop I stood alone
With the clay Population round in Rows.
*
Hãy nghe thêm. Vào một buổi chiều hôm
Tháng Ramazan, Trăng mới lưng chừng
Ta đứng một mình ở trong lò Gốm
Với Dân cư đất sét xếp thành Hàng.


LX.
And, strange to tell, among that Earthern Lot
Some could articulate, while others not:
And suddenly one more impatient cried—
“Who is the Potter, pray, and who the Pot?”
*
Nói nghe lạ lùng nhưng trong bao Số phận
Ai giỏi nói năng còn ai đó không
Bỗng đột ngột, một ai đó kêu lên:
“Ai là Thợ gốm, còn ai – đồ Gốm?”


LXI.
Then said another—“Surely not in vain
My substance from the common Earth was ta’en,
That He who subtly wrought me into Shape
Should stamp me back to common Earth again.”
*
Người khác bảo: “Thân xác ta, quả thật
Do bàn tay Ngài nặn ra từ Đất
Rồi Ngài trao cho đường nét, Dáng hình
Sau đấy lại nhồi ta về với Đất”.


LXII.
Another said—“Why ne’er a peevish Boy,
Would break the Bowl from which he drank in Joy;
Shall He that made the Vessel in pure Love
And Fancy, in an after Rage destroy!”
*
Một người khác: “Dù chàng Trai hay giận
Cũng chẳng bao giờ uống xong đập Chén
Tại sao Ngài đầy Tưởng tượng, Tình yêu
Làm ra Bình rồi đập khi tức Giận?”


LXIII.
None answer’d this; but after Silence spake
A Vessel of a more ungainly Make:
“They sneer at me for leaning all awry;
What! did the Hand then of the Potter shake?”
*
Không ai trả lời cho câu hỏi này
Một chiếc Bình vội vàng lên tiếng ngay:
“Họ cười ta vì thân ta méo xệch
Tại vì sao? Do Thợ gốm run tay?”


LXIV.
Said one—“Folks of a surly Tapster tell,
And daub his Visage with the Smoke of Hell;
They talk of some strict Testing of us—Pish!
He’s a Good Fellow, and ’twill all be well.”
*
Một người nói: “Bà con Chủ quán rằng:
Gương mặt ông với Khói từ Địa ngục
Họ nói về thử thách – nghe mà khiếp!
Ông tốt bụng, tất cả đều tuyệt trần”.


LXV.
Then said another with a long-drawn Sigh,
“My Clay with long oblivion is gone dry:
But, fill me with the old familiar Juice,
Methinks I might recover by and bye.”
*
Thì khi đó, một người khác thở dài:
“Đất tôi khô vì để quên lâu ngày
Nhưng nếu rót đầy cho tôi rượu cũ
Thì tôi nghĩ rằng sẽ phục hồi ngay”.


LXVI.
So while the Vessels one by one were speaking,
One spied the little Crescent all were seeking:
And then they jogg’d each other, “Brother! Brother!
Hark to the Porter’s Shoulder-knot a-creaking!”
*
Khi Bình và Chén đáp lời liên tiếp
Một kẻ nhìn thấy mảnh Trăng lưỡi liềm
Tất cả kêu lên: “Hỡi người Anh em!
Có nghe vai Thợ gốm rên - cót két!”


LXVII.
Ah, with the Grape my fading Life provide,
And wash my Body whence the Life has died,
And in a Winding-sheet of Vine-leaf wrapt,
So bury me by some sweet Garden-side.
*
Ô, hãy dùng Rượu để củng cố Đời ta
Khi ta chết, khâm liệm bằng lá Nho
Và trước đó, tắm rửa ta bằng Rượu
Rồi đem chôn đâu đó sau Vườn nhà.


LXVIII.
That ev’n my buried Ashes such a Snare
Of Perfume shall fling up into the Air,
As not a True Believer passing by
But shall be overtaken unaware.
*
Dù thân xác của ta chôn dưới đất
Nhưng trong Không khí mùi Thơm ngào ngạt
Không một người ngoan Đạo đi ngang qua
Mà lại có thể làm như không biết.


LXIX.
Indeed the Idols I have loved so long
Have done my Credit in Men’s Eye much wrong!
Have drown’d my Honour in a shallow Cup,
And sold my Reputation for a Song.
*
Quả thực, Thần tượng mà ta yêu mến
Đã đem lòng tin con người cho ta
Đã dìm Danh dự của ta trong Chén
Và bán Danh tiếng để lấy Bài ca.


LXX.
Indeed, indeed, Repentance oft before
I swore—but was I sober when I swore?
And then and then came Spring, and Rose-in-hand
My thread-bare Penitence apieces tore.
*
Quả thực, trước khi Hối hận đã thề
Nhưng liệu có tỉnh khi nói lời kia?
Và Mùa xuân với Hoa hồng lại đến
Đã làm cho tan lời Sám hối kia.


LXXI.
And much as Wine has play’d the Infidel,
And robb’d me of my Robe of Honour—well,
I often wonder what the Vintners buy
One half so precious as the Goods they sell.
*
Dù rượu xử sự như người vô Đạo
Khoác cho ta chiếc Áo choàng Danh dự
Những Người bán rượu làm ta ngạc nhiên
Họ bán Hàng giá chỉ bằng một nửa.


LXXII.
Alas, that Spring should vanish with the Rose!
That Youth’s sweet-scented Manuscript should close!
The Nightingale that in the Branches sang,
Ah, whence, and whither flown again, who knows!
*
Than ôi, tàn héo cả Mùa xuân, Hoa hồng!
Cuốn sách Tuổi trẻ đành phải sang trang!
Và Họa mi trên cành giờ im tiếng
Bay về đâu, có ai biết được chăng!


LXXIII.
Ah, Love! could you and I with Fate conspire
To grasp this sorry Scheme of Things entire,
Would not we shatter it to bits—and then
Re-mould it nearer to the Heart’s Desire!
*
Ô, Tình yêu! Liệu ta và em có vần xoay Phận số
Để thay đổi trật tự này quả thật đáng thương
Để ta sẽ đập chúng ra từng mảnh nhỏ
Rồi nhập vào, xếp lại đẹp như mong.

LXXIV.
Ah, Moon of my Delight who know’st no wane,
The Moon of Heav’n is rising once again:
How oft hereafter rising shall she look
Through this same Garden after me—in vain!
*
Ô, Trăng của lòng ta không biết đến tàn
Trăng của Trời, trăng lại sẽ mọc lên
Và trăng lại sẽ đung đưa nhìn ngắm
Tìm ta trong Vườn – nhưng chỉ hoài công!


LXXV.
And when Thyself with shining Foot shalt pass
Among the Guests Star-scatter’d on the Grass,
And in thy joyous Errand reach the Spot
Where I made one—turn down an empty Glass!
*
Và khi Trăng soi sáng những đám đông
Những Người khách Số phận ném xuống trần
Trong vui sướng, khi trăng tìm đến Chỗ
Xưa ta ngồi – hãy úp ngược Chén không!



Bản tiếng Anh của Edward Fitzgerald (in lần thứ nhất năm 1859)
Bản dịch nghĩa tiếng Việt của Nguyễn Viết Thắng.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 21:42:50 bởi hoangai >

hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
RE: Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 05.04.2008 15:37:18

 
Omar Khayyám và thơ Rubáiyát

Trong các nhà thơ cổ phương Đông nổi tiếng thế giới Omar Khayyam chiếm vị trí số 1. Hàng triệu quyển thơ ông được in ra đều đặn từ hơn 100 năm nay cho đến bây giờ vẫn thế.
Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam được dịch ra tất cả các ngôn ngữ châu Âu. Còn châu Á, theo tư liệu chưa đầy đủ, ngoài các ngôn ngữ trong thế giới Hồi giáo, đã có bản tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Hoa, tiếng Việt, tiếng Hindi, tiếng Uốc-đu…
Thơ Khayyam về ý nghĩa cuộc đời người, về sự bất lực của con người trước số phận và thời gian, về những sung sướng và đau khổ của kiếp người, về tuổi trẻ và tình yêu, tuổi già và cái chết, về những lời khuyên răn mà trong đó mỗi người có thể tìm thấy cho mình một điều gì thầm kín chưa từng được nói ra – tất cả đã trở thành tài sản tinh thần của toàn nhân loại.

* * *

Omar Khayyam sinh năm 1048 tại thành phố Nisapur, tỉnh Khorasan, miền đông bắc Iran. Nisapur, theo lời của các nhà sử học, là thành phố lớn, trung tâm văn hoá, thương mại của Ba Tư thế kỷ thứ 11. Khayyam bắt đầu đi học ở trường dòng Nisapur, sau đó tiếp tục tại Balkh và Samarkand, trở thành nhà bác học nổi tiếng thời đó. Khayyam được người đời gọi là nhà bác học, người chứng minh chân lý, ông hoàng triết học Đông-Tây…
Sự nghiệp khoa học của Khayyam có một thời kỳ gần 20 năm phát triển rực rỡ. Đó là kể từ năm 1074 Khayyam được vua Malik-Shah mời về triều đình theo lời đề nghị của quan đại thần Nizam al Mulk. Khayyam được giao lãnh đạo đài thiên văn mới xây dựng hiện đại, nơi mà theo lời các nhà sử học “tập trung những nhà thiên văn giỏi nhất thế kỷ” và được giao nhiệm vụ lập ra lịch mới.
Ở Iran và Trung Á trong thế kỷ 11 tồn tại đồng thời hai hệ thống lịch: dương lịch từ thời Bái hỏa giáo và âm lịch được người Arập phổ biến cùng với Islam. Cả hai lịch trên đều có những nhược điểm. Dương lịch Bái hỏa giáo một năm có 365 ngày, việc điều chỉnh chỉ được thực hiện một lần trong vòng 120 năm khi mà sai số đã lên đến một tháng. Âm lịch Hồi giáo có 358 ngày không thuận tiện cho việc nông nghiệp.
Trong vòng 5 năm tiến hành nghiên cứu ở đài thiên văn cùng với một nhóm các nhà thiên văn học Khayyam đã lập ra lịch mới mang tên “Niên đại Malik-Shah”. Lịch do Omar Khayyam lập ra có độ chính xác cao hơn lịch Gregorian, nơi mà sai số trong một năm là 26 giây. Theo tính toán của các nhà khoa học thế kỷ 20 lịch của Khayyam chính xác hơn lịch Gregorian 7 giây. Chỉ tiếc rằng “Niên đại Malik-Shah” đã không bao giờ được áp dụng vào thực tế.
Cũng trong thời kỳ này Khayyam viết nhiều công trình toán học. Các tác phẩm về toán học của ông bị thất lạc nhiều và chỉ đến thế kỷ 19 mới được các nhà khoa học châu Âu phát hiện và đánh giá. Chính Omar Khayyam là người đầu tiên nêu lên mối liên hệ giữa đại số và hình học. Trong một công trình toán học của ông các nhà khoa học tìm thấy cốt lõi của Nhị thức Newton.
Ngoài toán học, thiên văn học trong thời kỳ ở thủ đô Esfahan Khayyam còn nghiên cứu các vấn đề triết học. Ông dịch triết học của Avicenna (Ibn-Sina) từ tiếng Arập sang tiếng Ba Tư và viết 5 tác phẩm triết học còn được lưu giữ đến ngày nay. Sau khi vua Malik-Shak bị đầu độc và Nizam al Mulk bị giết hại trong triều đình bắt đầu một thời kỳ hỗn độn. Cuộc đời của Omar Khayyam bắt đầu một thời kỳ phiêu bạt. Gần cuối đời ông trở về quê hương Nisapur sống bằng nghề dạy học. Năm mất của Khayyam được xác định là 1123. Theo một giả thuyết khác là năm 1131.
Omar Khayyam nổi tiếng khắp thế giới là một nhà thơ thế nhưng trên quê hương của mình ông chỉ được biết đến là nhà triết học, nhà toán học, thiên văn học. Khayyam trở thành nhà thơ nổi tiếng thế giới là do công của Edward Fitzgerald khi ông in bản dịch “Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam” vào năm 1859. Fitzgerald là người mở đầu trong việc phát hiện Omar Khayyam và sau đấy các nhà khoa học khắp thế giới bắt tay vào việc nghiên cứu Omar Khayyam, mở ra một môn khoa học nghiên cứu gọi là Khayyam học. Trong số những nhà nghiên cứu đi đầu và có những công trình đáng kể nhất về Omar Khayyam có thể kể đến: Nicolas của Pháp, Arberry của Anh, Zhukovsky của Nga, Christensen của Đan mạch, Govinda Tirtha của Ân Độ…
Omar Khayyam chỉ làm thơ theo thể rubai (trong văn học Ba Tư thế kỉ 11 còn có Baba Taher cũng là người chỉ làm thơ rubai, tuy vậy, rubai của Baba Taher khác với rubai của Khayyam về hình thức cũng như về phong cách). Thơ rubai được gieo vần theo sơ đồ aaba (một ít bài aaaa) là thể thơ có nguồn gốc dân gian Ba Tư.

* * *

Tư tưởng chủ đạo trong thơ của Omar Khayyam là đề cao nhân phẩm con người, khẳng định rằng mỗi con người sống trên đời có quyền được hưởng những lạc thú của đời sống ở chốn trần gian. Chỉ với điều này cho phép chúng ta gọi ông là một nhà nhân văn vĩ đại của quá khứ.
Omar Khayyam cho rằng cuộc đời người là vốn quí, mỗi người cần được nhận về phần hạnh phúc của mình. Hạnh phúc không phải ở chốn thiên đàng hay nơi cực lạc sau khi chết như tôn giáo vẫn khẳng định mà hạnh phúc trên cõi đời này và trong ngày hôm nay.
Mỗi sáng dậy ta lại bắt tay nhau
Trong phút giây ta quên mọi khổ đau
Ta khoan khoái thở khí trời buổi sáng
Ngực đầy căng ta sung sướng thở phào.
***
Tôi chẳng mong sung sướng ở “sau này”
Tôi chỉ cần có rượu uống “hôm nay”
Tôi chẳng tin vào chuyện đời vay trả
Có khác gì tiếng trống gõ vào tai.
Cuộc đời người ngắn ngủi. Cái chết không ai tránh khỏi. Đôi khi Khayyam cảm thấy sự vô nghĩa của cuộc đời này. Nhưng Khayyam không tin vào cuộc đời ở thế giới bên kia mà chỉ mong nhận hết những gì có thể ở cuộc đời này.
Tôi hỏi già về thế giới bên kia
Trong góc nhà đang uống rượu say sưa.
“Cứ uống đi! Tới đó còn xa lắm
Những kẻ ra đi chưa thấy ai về”.
***
Gương mặt dịu dàng và hoa cỏ xanh tươi
Tôi vẫn ham mê một khi còn sống trên đời.
Tôi đã, đang và có lẽ vẫn còn uống rượu
Uống đến giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi.
Không tin vào thiên đàng ở trên trời Khayyam vẽ ra thiên đàng dưới mặt đất. Đó là bãi cỏ xanh bên bờ suối, là buổi chiều tà, là gương mặt dịu dàng của người tình cùng chén rượu, là khi mà không còn phân biệt được được màu môi của người tình hay hay màu của rượu hồng hơn, say người tình hay rượu say hơn.
Suối róc rách và hoa cỏ ngát hương
Có khác chi phong cảnh chốn thiên đường
Muốn bao nhiêu hãy nằm lăn trên cỏ
Uống rượu nồng, âu yếm với người thương.
***
Rượu, người đẹp, ngồi trong vườn hoa tươi
Thiên đàng đâu cũng chẳng cần nữa rồi.
Không ai thấy thiên đàng trên trời cả
Đành tạm bằng lòng dưới mặt đất thôi.
Hoặc cảnh sum vầy quanh bạn bè, bên chén rượu, đêm trăng
Bên nhau vui vẻ dưới trăng này
Rượu nồng xin hãy uống cho say
Mai mốt ta về thân cát bụi
Trăng vàng muôn thuở vẫn còn đây
***
Em yêu ơi ai biết được ngày mai
Ta hãy quên phiền muộn dưới trăng này
Uống đi em kẻo một ngày nào đó
Trăng lại về còn ta đã xa bay.
Nhưng rồi cũng có lúc ta thấy chỉ còn lại một mình Khayyam và rượu – người bạn hiền duy nhất không bao giờ từ giã Khayyam.
Hãy cho tôi một bình rượu thật đầy
Cô bán hàng cứ rót, chớ dừng tay.
Giờ chỉ rượu người bạn hiền duy nhất
Cả bạn và tình đều đã đổi thay.
***
Chẳng còn người ta có thể giãi bày
Chỉ còn rượu cho ta những cơn say
Đừng rời tay khỏi chiếc quai bình rượu
Nếu tuổi già không còn ai để bắt tay.
Trong thơ Khayyam ta bắt gặp thật nhiều bài ca ngợi rượu. Hình tượng rượu trong thơ ông có rất nhiều nghĩa, nhiều cách giải thích. Những bài sau đây có nghĩa thông thường.
Kẻ hành khất uống rượu ngỡ ông hoàng
Cáo uống rượu thành sư tử hiên ngang
Già uống vào thành trẻ vô tư lự
Trẻ uống vào thành chín chắn, khôn ngoan.
***
Cuộc đời ta đầy thất vọng, chán chường
Chỉ còn rượu ta quí trọng, yêu thương
Rượu – máu của đời, đời là bể khổ
Nên ta ngồi uống nước mắt quê hương.
Rượu trong thơ Khayyam là hình tượng thi ca dùng để thể hiện, khẳng định mình. Rượu là tượng trưng cho hạnh phúc của con người, là sự phản kháng đối với những cấm đoán khắt khe của tôn giáo, ca ngợi tự do của con người. Khayyam không đồng tình với học thuyết Hồi giáo về thiên đàng: nếu ngoan đạo là phải từ chối những lạc thú ở đời này để sau khi chết sẽ được lên thiên đàng có tiên, có rượu, có suối mát, có mật ngọt chảy thành sông và một cuộc sống hạnh phúc đời đời. Còn logíc của Khayyam là tại sao trên đời này cũng có người đẹp, có rượu, có thơ, có nhạc, có buổi chiều tà, có suối róc rách và chim hót trên cành thì không hưởng đi mà phải đợi đến sau khi chết.
Nghe nói rằng sẽ có rượu và tiên
Và bao nhiêu sung sướng ở thiên đường
Nhưng đời này ngươi không tình, không rượu
Chỉ đợi chờ chẳng lẽ thế là khôn?
***
“Lên thiên đàng sẽ được uống rượu nồng
Có tiên hầu, được sung sướng, thong dong…”
Nhưng dưới này tôi vẫn em, vẫn rượu
Suy cho cùng là những thứ đời mong.
Khayyam không hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của thiên đàng mà thường nói “chắc gì” nhưng theo Khayyam con người phải là sự kết hợp của hồn và xác. Nếu có thiên đàng thì chỉ cho “hồn” còn “xác” vĩnh viễn nằm lại trên mặt đất, trở thành đất cát cho người đời sau đem đóng gạch xây nhà hoặc cho thợ gốm đem nặn thành bình, thành chén.
Ý tưởng về sự vĩnh cửu của vật chất (theo quan niệm thời đó) trong thơ Khayyam được thể hiện qua đề tài thợ gốm và nghề làm gốm. Con người từ cát bụi mà ra sau khi chết lại trở về cát bụi. Từ cát bụi (đất cát) có thể được làm thành gạch hoặc thành bình đựng rượu hoặc cũng có thể từ cát bụi mọc lên cây cỏ, hoa lá…
Có một lần tôi mua chiếc bình nói được
“Xưa ta là ông hoàng – bình nức nở khóc –
Trở thành đất người thợ gốm nặn ta
Thành thứ đồ mua vui cho kẻ khác.
***
Ngươi biết không từng chiếc lá, bông hoa
Từng một thời là tóc của người xưa
Ai qua đường hãy thương từng chiếc lá
Bởi hoa lá từ người đẹp sinh ra.
Đọc thơ Khayyam ta cảm nhận được cái băn khoăn của một con người trí tuệ trước những câu hỏi muôn thuở. Những bài thơ này có lẽ được viết ra trong những năm cuối của cuộc đời ông. Khayyam nêu ra những câu hỏi với loài người: Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta đi về đâu? Trong cuộc đời ngắn ngủi đâu là ý nghĩa của đời ta? Và ông đi đến những kết luận thật bi quan.
Ta từ đâu đến? Ta đi về đâu?
Ý nghĩa cuộc đời đành chịu vò đầu
Bao nhiêu hồn dưới vòng xoay con tạo
Cháy thành tro, thành bụi, khói ở đâu?
***
Tôi đến đây đời giàu lên có phải?
Tôi ra đi đời có gì thiệt hại?
Có ai người giải thích vì sao tôi
Từ cát bụi lại trở về cát bụi?
Một khía cạnh khác là triết lý về sự hoài nghi của Omar Khayyam. Nhà toán học, nhà triết học có những ý tưởng vượt xa thời đại của mình. Nhà bác học từng phát minh ra cốt lõi của nhị thức Newton, nhà thiên văn lập ra lịch có độ chính xác cao hơn lịch của người thế kỷ 21 đang sử dụng đã tỏ ra là kẻ hoài nghi về khả năng nhận thức những qui luật của tồn tại.
Khi còn nhỏ đến thầy tìm chân lý
Rồi lớn lên về gõ đầu con trẻ.
Chân lý ở đâu? Ta từ nước mà ra
Rồi thành gió. Đấy, chuyện đời là thế.
***
Sau cánh cửa kia còn giấu điều gì
Ta đoán mò, ta lạc giữa u mê
Chỉ sau khi cánh cửa đời đã khép
Mới biết rằng ta đã lộn đường đi.
 
 


Thế giới quan của Omar Khayyam rất phức tạp và huyền bí mà phạm vi bài viết này không thể đề cập hết. Chúng tôi xin trích một đoạn hội thoại giữa Khayyam với cô người tình trong một cuốn truyện về ông mà theo chúng tôi đã thể hiện đầy đủ về cái nhìn của ông đối với cuộc đời.
“- Thưa ông, trà đã chuẩn bị xong và món ăn mà ông thích: bánh và mật.
- Thế con có nhớ không, có lần ta đã bảo con rồi, tốt
hơn trà là rượu…
- Vâng, và tốt hơn rượu là phụ nữ, còn tốt hơn phụ nữ là chân lý.
- Ừ, ta đã từng nói vậy. Nhưng hôm nay ta đi dạo trong vườn chợt hiểu ra rằng: tất cả đều nhảm nhí, vớ vẩn hết. Tất cả mọi thứ trên đời đều có khối lượng, trọng lượng, thể tích và thời gian tồn tại nhưng không có thước đo của một thứ – chân lý. Điều mà hôm qua tưởng đã đúng rành rành thì hôm nay lại hoá thành sai. Điều mà hôm nay người ta cho rằng giả dối thì ngày mai em trai con sẽ học trong nhà trường. Không phải lúc nào thời gian cũng là thước đo mọi khái niệm. Ta đã từng nghe bao nhiêu lời đồn đại của người đời về ta. Khayyam – người chứng minh chân lý, Khayyam – người keo kiệt, Khayyam – nghiện rượu, Khayyam – mê gái, Khayyam – vô thần, Khayyam – thần thánh… Thế mà ta chỉ là ta.
- Thế còn con thì sao, thưa ông?
- Con tốt hơn rượu và quan trọng hơn chân lý. Từ lâu ta
đã muốn cho con tiền để mua cái dây chuyền vàng có đeo một cái chuông nhỏ để khi con đang đi từ xa ta đã biết rằng con đang đi đến”.

* * *

Trong thơ Khayyam người đẹp, rượu, hoa cỏ, thiên nhiên dưới mặt đất đối trọng với tiên nữ, rượu, vườn hoa, suối mật trên thiên đàng, kẻ hoài nghi với người tin vào giáo điều mù quáng, lòng chân thành với sự giả dối, cuộc sống với cái chết, thực tại với hư vô.
Như đã nói ở phần đầu Omar Khayyam có một vị trí đặc biệt trong các nhà thơ cổ phương Đông. Có thể ông không phải là nhà thơ lớn nhất (mà người viết cũng không hề có ý định xếp hạng) nhưng có thể nói rằng Khayyam là nhà thơ độc đáo nhất, không giống một nhà thơ nào khác trong khi ông lại mang những nét chung nhất của mọi con người.
 
Nguyễn Viết Thắng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 21:54:33 bởi hoangai >
Attached Image(s)

hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
RE: Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 25.10.2010 14:52:07
Dưới đây là quyển RUBÁIYÁT OF OMAR KHAYYÁM do họa sĩ Edmund Joseph Sullivan (1869-1933) vẽ minh họa cho từng bài thơ.



I.
Awake! for Morning in the Bowl of Night
Has flung the Stone that puts the Stars to Flight:
And Lo! the Hunter of the East has caught
The Sultán’s Turret in a Noose of Light.
*
Dậy! Buổi sáng ném Đá vào Chén của Đêm
Đá đuổi Sao Di chuyển. Và hãy nhìn!
Người đi săn của Phương Đông cài bẫy
Tháp của Vua trong Thòng lọng Bình minh.





II.
Dreaming when Dawn’s Left Hand was in the Sky,
I heard a Voice within the Tavern cry,
“Awake, my Little ones, and fill the Cup
Before Life’s Liquor in its Cup be dry.”
*
Khi Tay Trái Bình minh giữa Trời xanh
Ta mơ màng nghe từ Quán rượu kêu lên:
“Dậy, các Con, dậy rót cho đầy Chén
Trước khi Rượu Đời khô trong Chén của mình”.





III.
And, as the Cock crew, those who stood before
The Tavern shouted—“Open then the Door!
You know how little while we have to stay,
And, once departed, may return no more.”
*
Gà gáy sáng, người ta kêu trước cửa
Của Quán rượu rằng: “Hãy mau mở Cửa!
Ngươi có biết, đời ngắn ngủi lắm thay
Một lần đi, không còn quay về nữa”.





IV.
Now the New Year reviving old Desires,
The thoughtful Soul to Solitude retires,
Where the White Hand of Moses on the Bough
Puts out, and Jesus from the Ground suspires.
*
Năm Mới hồi sinh Lòng khát khao xưa cũ
Hồn đầy ý nghĩ đi về nơi Vắng vẻ
Nơi giơ ra Bàn tay Trắng của Mose
Nghe từ dưới Đất tiếng thở dài của Chúa.






V.
Irám indeed is gone with all its Rose,
And Jamshýd’s Sev’n-ring’d Cup where no one knows:
But still the Vine her ancient Ruby yields,
And still a Garden by the Water blows.
*
Irám quả là biến mất với Hoa hồng
Chén Jamshýd ở đâu, có ai biết chăng
Nhưng Nho còn cho màu Hồng xưa cũ
Và bên Sông vẫn tươi tốt khu Vườn.





VI.
And David’s Lips are lockt; but in divine
High-piping Péhlevi, with “Wine! Wine! Wine!
Red Wine!”—the Nightingale cries to the Rose
That yellow Cheek of hers to incarnadine.
*
Trên môi David còn dấu, nhưng giọng thánh thần
Của Péhlevi – Họa mi gọi Hoa hồng:
“Rượu! Rượu! Rượu vang đỏ!” để gợi
Màu hồng tươi trên đôi Má màu vàng.





VII.
Come, fill the Cup, and in the Fire of Spring
The Winter Garment of Repentance fling:
The Bird of Time has but a little way
To fly—and Lo! the Bird is on the Wing.
*
Ngươi hãy đến và rót cho đầy Chén
Và hãy ném vào ngọn Lửa của mùa Xuân
Áo quần mùa Đông của sự ăn năn
Con chim Thời gian đã vẫy vùng đôi Cánh.





VIII.
And look—a thousand blossoms with the Day
Woke—and a thousand scatter’d into Clay:
And this first Summer Month that brings the Rose
Shall take Jamshýd and Kaikobád away.
*
Ngày đến với cả ngàn hoa – hãy xem
Cả một nghìn đã tan vào Đất sét
Tháng đầu Hè mang đến những bông Hồng
Nở hoa xa Jamshýd và Kaikobád.





IX.
But come with old Khayyám and leave the Lot
Of Kaikobád and Kaikhosrú forgot:
Let Rustum lay about him as he will,
Or Hátim Tai cry Supper—heed them not.
*
Với Khayyam già, quên đi Số kiếp
Của Kaikhosrú và Kaikobád
Và Rustum cứ để cho mặc lòng
Hay Hátim Tai gọi ăn trưa – cứ mặc.





X.
With me along some Strip of Herbage strown
That just divides the desert from the sown,
Where name of Slave and Sultán scarce is known,
And pity Sultán Máhmúd on his Throne.
*
Đi cùng ta, theo lối Cỏ Hoa xanh
Để cách ngăn sa mạc với đồng bằng
Nơi không cần Đế vương hay Nô lệ
Thương Vua Máhmúd ngự trên Ngai vàng.




XI.
Here with a Loaf of Bread beneath the Bough,
A Flask of Wine, a Book of Verse—and Thou
Beside me singing in the Wilderness—
And Wilderness is Paradise enow.
*
Ở nơi đây dưới bóng lá bóng Cành
Với Bánh, Rượu, Quyển sách Thơ – và Em
Hát bên anh, thì dù cho Sa mạc
Đối với anh cũng vẫn cứ Thiên đàng.





XII.
“How sweet is mortal Sovranty”—think some:
Others—“How blest the Paradise to come!”
Ah, take the Cash in hand and waive the Rest;
Oh, the brave Music of a distant Drum!
*
Ai đấy nghĩ: “Thật sung sướng cõi trần!”
Còn ai: “Hạnh phúc được đến Thiên đàng!”
Ta cứ giữ Hầu bao và quên hết
Có khác gì tiếng Trống cõi xa xăm!





XIII.
Look to the Rose that blows about us—“Lo,
Laughing,” she says, “into the World I blow:
At once the silken Tassel of my Purse
Tear, and its Treasure on the Garden throw.”
*
Hãy nhìn xem, hoa Hồng nở xung quanh
Hoa cười, nói: Ta đến cõi Trần gian
Rồi phút giây Kho báu từ tơ lụa
Bỗng tan ra rải rác khắp cả Vườn”.





XIV.
The Worldly Hope men set their Hearts upon
Turns Ashes—or it prospers; and anon,
Like Snow upon the Desert’s dusty Face
Lighting a little Hour or two—is gone.
*
Hy vọng Trần gian trong trái Tim người
Thành Tro bụi, hoặc tan biến ngay thôi
Như Tuyết trên gương Mặt hồng Sa mạc
Một hai Giờ, rồi sẽ biến mất ngay.





XV.
And those who husbanded the Golden Grain,
And those who flung it to the Winds like Rain,
Alike to no such aureate Earth are turn’d
As, buried once, Men want dug up again.
*
Và ai người gìn giữ Bông lúa Vàng
Ai người ném ra Gió, như Mưa giông
Về với Đất, không còn như vàng bạc
Đã chôn rồi, Thiên hạ chẳng đào lên.






XVI.
Think, in this batter’d Caravanserai
Whose Doorways are alternate Night and Day,
How Sultán after Sultán with his Pomp
Abode his Hour or two and went his way.
*
Hãy nghĩ xem, trong cái Lễ hội này
Liên tục đổi thay, hết Đêm đến Ngày
Vua tiếp Vua, trong cái vòng xoay ấy
Một hai Giờ rồi lại biến mất ngay.






XVII.
They say the Lion and the Lizard keep
The Courts where Jamshýd gloried and drank deep:
And Bahrám, that great Hunter—the Wild Ass
Stamps o’er his Head, and he lies fast asleep.
*
Nghe nói Thằn lằn với Sư tử đâu
Giữ Cung điện, nơi Jamshýd uống rượu lâu
Và Bahrám, Người đi săn vĩ đại
Ngủ say, trong khi Lừa Hoang đạp trên Đầu.





XVIII.
I sometimes think that never blows so red
The Rose as where some buried Cæsar bled;
That every Hyacinth the Garden wears
Dropt in its Lap from some once lovely Head.
*
Đôi khi ta nghĩ rằng không có hoa đỏ hơn
Hoa Hồng ở nơi chôn ông Vua vĩ đại
Và mỗi bông Lan dạ hương trong vườn
Mọc ra từ Đầu người yêu nào đấy.





XIX.
And this delightful Herb whose tender Green
Fledges the River’s Lip on which we lean—
Ah, lean upon it lightly! for who knows
From what once lovely Lip it springs unseen!
*
Hoa cỏ tuyệt đẹp, Màu xanh dịu dàng
Trải khắp Bờ Sông, nơi ta nằm lên
Hãy nhẹ nhàng, vì rằng ai biết được
Từ bờ Môi yêu dấu, cỏ hồi sinh.





XX.
Ah, my Belovéd, fill the cup that clears
To-day of past Regrets and future Fears—
To-morrow?—Why, To-morrow I may be
Myself with Yesterday’s Sev’n Thousand Years.
*
Em cứ rót rượu cho đầy, để rửa
Nỗi sợ tương lai, Tiếc thương quá khứ
Còn Ngày mai? Tại sao, trong Ngày mai
Anh đã cùng Bảy Nghìn năm Hôm qua đó.



XXI.
Lo! some we loved, the loveliest and the best
That Time and Fate of all their Vintage prest,
Have drunk their Cup a Round or two before,
And one by one crept silently to Rest.
*
Hãy xem! Người ta yêu, những gì tốt nhất
Mà Số phận và Thời gian từ Nho đã ép
Họ uống Chén mình một hai lượt trước đây
Rồi theo nhau về Ngủ yên dưới đất.






XXII.
And we, that now make merry in the Room
They left, and Summer dresses in new Bloom,
Ourselves must we beneath the Couch of Earth
Descend, ourselves to make a Couch—for whom?
*
Giờ ta đang vui vẻ trong phòng này
Họ bỏ lại, Hè trải ra Hoa mới
Ta rồi phải xuống dưới Giường Đất ấy
Và sẽ thành Giường – là để cho ai?






XXIII.
Ah, make the most of what we yet may spend,
Before we too into the Dust descend;
Dust into Dust, and under Dust, to lie,
Sans Wine, sans Song, sans Singer, and—sans End!
*
Tìm lấy điều gì đấy tốt cho ta
Bởi rồi đây Cát bụi cả thôi mà
Thành Cát bụi ta nằm trong Cát bụi
Chẳng Cuối cùng, chẳng Rượu, chẳng Bài ca.






XXIV.
Alike for those who for To-day prepare,
And those that after a To-morrow stare,
A Muezzín from the Tower of Darkness cries,
“Fools! your Reward is neither Here nor There!”
*
Với những người chỉ sống ngày Hôm nay
Và những người chỉ sống với Ngày mai
Ông Muezzín kêu lên từ Tháp Tối:
“Đừng ngóng trông chi nơi Nọ, nơi Này!”






XXV.
Why, all the Saints and Sages who discuss’d
Of the Two Worlds so learnedly, are thrust
Like foolish Prophets forth; their Words to Scorn
Are scatter’d, and their Mouths are stopt with Dust.
*
Những Thánh thần và những nhà Thông thái
Từng tranh luận về chuyện Hai Thế giới
Những lời Tiên tri dại dột bị khinh thường
Miệng họ đã im, tất cả về Cát bụi.






XXVI.
Oh, come with old Khayyám, and leave the Wise
To talk; one thing is certain, that Life flies;
One thing is certain, and the Rest is Lies;
The Flower that once has blown for ever dies.
*
Theo Khayyam già, Khôn ngoan bỏ lại
Chỉ có một điều: Cuộc đời đi mãi
Chỉ có một điều: Hoa nở một lần
Rồi tàn lụi, còn lại đều Gian dối.






XXVII.
Myself when young did eagerly frequent
Doctor and Saint, and heard great Argument
About it and about: but evermore
Came out by the same Door as in I went.
*
Thời tuổi trẻ, ta sung sướng biết bao
Nghe theo Thầy, theo Thánh được rất lâu
Họ tranh luận về chuyện này chuyện khác
Nhưng luôn ra theo cánh Cửa khi vào.






XXVIII.
With them the Seed of Wisdom did I sow,
And with my own hand labour’d it to grow:
And this was all the Harvest that I reap’d—
“I came like Water, and like Wind I go.”
*
Cùng với họ, ta gieo hạt Giống Khôn
Lao động làm cho hạt giống lớn lên
Và đây là Kết quả khi thu hoạch:
“Đến như Nước, rồi đi như Gió rừng”.






XXIX.
Into this Universe, and why not knowing,
Nor whence, like Water willy-nilly flowing:
And out of it, as Wind along the Waste,
I know not whither, willy-nilly blowing.
*
Vào Vũ trụ, không biết được tại sao
Và như Nước, không biết được từ đâu
Rồi như Gió lướt bay trên Sa mạc
Dù muốn dù không, chẳng biết về đâu.





XXX.
What, without asking, hither hurried whence?
And, without asking, whither hurried hence!
Another and another Cup to drown
The Memory of this Impertinence!
*
Xin đừng hỏi ta rằng: đến từ đâu?
Và xin đừng hỏi gì chuyện: về sau?
Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa
Để ta quên điều Sỉ nhục trong đầu.



XXXI.
Up from Earth’s Centre through the Seventh Gate
I rose, and on the Throne of Saturn sate,
And many Knots unravel’d by the Road;
But not the Knot of Human Death and Fate.
*
Từ lòng Đất ta xuyên qua Bảy Cổng
Rồi ta ngồi lên Ngai vàng Số phận
Và ta lẫn lộn Đầu mối trên Đường
Nơi đan kết Cái chết và Số phận.





XXXII.
There was a Door to which I found no Key:
There was a Veil past which I could not see:
Some little talk awhile of Me and Thee
There seemed—and then no more of Thee and Me.
*
Trước mặt ta cánh Cửa khoá im lìm
Và tấm Lưới, ta không thể nhìn xuyên
Về Em, về Anh, có lời to nhỏ
Nhưng sau chẳng còn Em cũng như Anh.





XXXIII.
Then to the rolling Heav’n itself I cried,
Asking, “What Lamp had Destiny to guide
Her little Children stumbling in the Dark?”
And—“A blind Understanding!” Heav’n replied.
*
Ta hướng về bầu Trời xanh, kêu lên
Hỏi: “Ngọn đèn nào của Số phận dẫn đường
Cho bầy Trẻ vấp váp trong Bóng tối?”
Câu trả lời: “Mù quáng!” tự Trời xanh.





XXXIV.
Then to the earthen Bowl did I adjourn
My Lip the secret Well of Life to learn:
And Lip to Lip it murmur’d—“While you live
Drink!—for once dead you never shall return.”
*
Khi đó ta ép Môi vào Chén đất
Để mong hiểu ra Ngọn Đời bí mật
Môi kề Môi, chén bảo: “Cứ uống đi
Kẻo không quay về sau khi đã chết”.





XXXV.
I think the Vessel, that with fugitive
Articulation answer’d, once did live,
And merry-make; and the cold Lip I kiss’d
How many kisses might it take—and give!
*
Ta nghĩ rằng Bình chứa nguồn rượu sống
Trả lời ta, từng một thời đã sống
Từng vui tươi, còn Môi lạnh ta hôn
Biết bao nụ hôn đã tan – và tặng.





XXXVI
For in the Market-place, one Dusk of Day,
I watch’d the Potter thumping his wet Clay:
And with its all obliterated Tongue
It murmur’d—“Gently, Brother, gently, pray!”
*
Một hôm trong Chợ, vào giờ cuối ngày
Ta nhìn Thợ gốm, Đất sét trong tay
Và ta nghe tiếng thì thào, nức nở:
“Hỡi người Anh em, xin hãy nhẹ tay!”





XXXVII.
Ah, fill the Cup:—what boots it to repeat
How Time is slipping underneath our Feet:
Unborn To-morrow and dead Yesterday,
Why fret about them if To-day be sweet!
*
Rót đầy Chén, chuyện có để làm gì
Nhắc rằng Thời gian lướt dưới chân ta
Ngày mai chưa về, Hôm qua đã chết
Tiếc thương gì, Hôm nay đẹp nhường kia!





XXXVIII.
One Moment in Annihilation’s Waste,
One Moment, of the Well of Life to taste—
The Stars are setting and the Caravan
Starts for the Dawn of Nothing—Oh, make haste!
*
Một phút giây, trong Hoang mạc Điêu tàn
Một phút giây, để nếm vị Đời ngon
Sao sẽ tàn, Đoàn người trên sa mạc
Vào cõi Hư không – Ô, hãy vội vàng!





XXXIX.
How long, how long, in definite Pursuit
Of This and That endeavour and dispute?
Better be merry with the fruitful Grape
Than sadden after none, or bitter, Fruit.
*
Bao nhiêu lâu còn theo Đuổi mông lung
Để chuyện Này, Kia tranh luận thỏa lòng
Tốt hơn hết đi nếm mùi Rượu ngọt
Còn hơn buồn vì Trái đắng, hoặc không.





XL.
You know, my Friends, how long since in my House
For a new Marriage I did make Carouse:
Divorced old barren Reason from my Bed,
And took the Daughter of the Vine to Spouse.
*
Bạn biết không, ta đây đã từ lâu
Làm cuộc Hôn nhân, Uống rượu ồn ào
Xua khỏi giường bà già tên Lý trí
Và bây giờ, Con gái Rượu – Nàng dâu.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 20:58:56 bởi hoangai >

hoangai
  • Số bài : 62
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2007
RE: Rubáiyát of Omar Khayyám. Song ngữ ANH-VIỆT - 25.10.2010 14:57:48


XLI.
For “Is” and “Is-not” though with Rule and Line,
And “Up-and-down” without, I could define,
I yet in all I only cared to know,
Was never deep in anything but—Wine.
*
Bằng thước ta đo được “Có” và “Không”
Hoặc “Lên-và-Xuống” chính xác như mong
Nhưng tất cả bây giờ ta chỉ biết
Mỗi một điều rằng uống Rượu là hơn.



XLII.
And lately by the Tavern Door agape,
Came stealing through the Dusk an Angel Shape
Bearing a Vessel on his Shoulder; and
He bid me taste of it; and ’twas—the Grape!
*
Mới gần đây, bên cánh Cửa mở toang
Trong buổi hoàng hôn có một Thiên thần
Ôm Bình rượu, và ngài mời ta nếm
Ta nhận ra rằng thứ Rượu thật ngon!




XLIII.
The Grape that can with Logic absolute
The Two-and-Seventy jarring Sects confute:
The subtle Alchemist that in a Trice
Life’s leaden Metal into Gold transmute.
*
Trong Rượu có thứ Logic tuyệt đối
Bác Bảy hai Giáo phái đang tranh cãi
Rượu là Nhà giả kim tuyệt trần
Trong phút giây biến Sắt thành Vàng thỏi.




XLIV.
The mighty Máhmúd, the victorious Lord
That all the misbelieving and black Horde
Of Fears and Sorrows that infest the Soul
Scatters and slays with his enchanted Sword.
*
Máhmúd tối cao, Chúa tể oai hùng
Nếu tất cả những nỗi Sợ màu đen
Và nỗi Buồn trong lòng ta dâng ngập
Ngài xua đi, chặt đầu chúng bằng gươm.




XLV.
But leave the Wise to wrangle, and with me
The Quarrel of the Universe let be:
And, in some corner of the Hubbub coucht,
Make Game of that which makes as much of Thee.
*
Bỏ lại Khôn ngoan và hãy cùng ta
Về Hỗn mang trong Vũ trụ bao la
Và ẩn vào một góc miền Hubbub
Để thử xem cho bạn được những gì.




XLVI.
For in and out, above, about, below,
’Tis nothing but a Magic Shadow-show,
Play’d in a Box whose Candle is the Sun,
Round which we Phantom Figures come and go.
*
Trong và ngoài, trên, dưới, xung quanh
Đấy chẳng khác gì chiếc Bóng Thần thông
Còn Mặt trời – cây Nến trong chiếc Hộp
Và ta – Bóng ma đi, đến vòng quanh.




XLVII.
And if the Wine you drink, the Lip you press,
End in the Nothing all Things end in—Yes—
Then fancy while Thou art, Thou art but what
Thou shalt be—Nothing—Thou shalt not be less.
*
Và nếu Rượu bạn uống, Môi ép vào
Cuối cùng Hư không, Vật chất như nhau
Bạn hãy vui, vì bây giờ bạn có
Bạn sẽ - Hư không – và chẳng ít hơn đâu.




XLVIII.
While the Rose blows along the River Brink,
With old Khayyám the Ruby Vintage drink;
And when the Angel with his darker Draught
Draws up to Thee—take that, and do not shrink.
*
Khi Hoa hồng còn nở bên Bờ Sông
Cùng Khayyam già hãy uống Rượu Hồng
Còn khi Thiên thần đem cho rượu Tối
Bạn hãy uống đi và chớ hoang mang.





XLIX.
’Tis all a Chequer-board of Nights and Days,
Where Destiny with Men for Pieces plays:
Hither and thither moves, and mates, and slays,
And one by one back in the Closet lays.
*
Đây bàn Cờ của Đêm và của Ngày
Số phận coi Người là con Tốt thôi
Đưa xuống, đẩy lên rồi đem chiếu tướng
Người tiếp người đưa vào Chỗ nghỉ ngơi.





L.
The Ball no Question makes of Ayes and Noes,
But Right or Left as strikes the Player goes;
And He that toss’d Thee down into the Field,
He knows about it all—He knows—HE knows!
*
Quả Bóng thì không nói Có và Không
Sang Phải, Trái theo Cầu thủ trên Sân
Chỉ Người ném bạn ra sân biết được
Ngài biết tất cả, Ngài biết được rằng!




LI.
The Moving Finger writes; and, having writ,
Moves on: nor all thy Piety nor Wit
Shall lure it back to cancel half a Line,
Nor all thy Tears wash out a Word of it.
*
Tay Số phận viết và tiếp trang sau
Lòng mộ đạo, Trí khôn, ích gì đâu
Không xóa nổi nửa dòng, và Nước mắt
Cũng không rửa đi Lời viết lúc đầu.




LII.
And that inverted Bowl we call The Sky,
Whereunder crawling coop’t we live and die,
Lift not thy hands to It for help—for It
Rolls impotently on as Thou or I.
*
Chén lật úp mà ta gọi Bầu trời
Ta bò trườn, sống rồi chết đấy thôi
Đừng giơ tay cầu xin Trời giúp đỡ
Chẳng giúp được gì cho Bạn và Tôi.




LIII.
With Earth’s first Clay They did the last Man’s knead,
And then of the Last Harvest sow’d the Seed:
Yea, the first Morning of Creation wrote
What the Last Dawn of Reckoning shall read.
*
Đất sét đầu, Họ nặn ra Người cuối
Và sau đó gieo hạt Giống mùa Sau
Buổi sáng đầu của Tạo thành viết vội
Rồi Bình minh tính sổ đọc sau này.




LIV.
I tell Thee this—When, starting from the Goal,
Over the shoulders of the flaming Foal
Of Heav’n Parwín and Mushtara they flung,
In my predestined Plot of Dust and Soul.
*
Nói với bạn – Khi ta ra khỏi Cổng
Con Ngựa Trời rực lửa chở ta vào
Nơi Linh hồn cùng Đất đai bụi bặm
Do Parwín và Mushtara ném vào.




LV.
The Vine had struck a Fibre; which about
It clings my Being—let the Súfi flout;
Of my Base Metal may be filed a Key,
That shall unlock the Door he howls without.
*
Cây Nho đâm rễ, cứ mặc Sufi
Chê sự Tồn tại của ta bám rễ
Từ Sắt của ta có thể đúc Chìa
Để mở Cánh cửa, kẻo người la ó.





LVI.
And this I know: whether the one True Light
Kindle to Love, or Wrath consume me quite,
One Glimpse of It within the Tavern caught
Better than in the Temple lost outright.
*
Ta biết rằng thứ Ánh sáng Trung thành
Đốt lên Tình yêu hoặc là Tức giận
Thà tận hưởng chút thoáng qua trong Quán
Cũng còn hơn để mất ở Thánh đường.




LVII.
Oh, Thou, who didst with Pitfall and with Gin
Beset the Road I was to wander in,
Thou wilt not with Predestination round
Enmesh me, and impute my Fall to Sin?
*
Ô, Ngươi là kẻ đặt Bẫy ở bên Đường
Là nơi mà ta thường vẫn lang thang
Có lẽ nào héo hon vì tiền định
Qui tội cho ta Đổ đốn, Lỗi lầm?





LVIII.
Oh, Thou, who Man of baser Earth didst make
And who with Eden didst devise the Snake:
For all the Sin wherewith the Face of Man
Is blacken’d, Man’s Forgiveness give—and take!
*
Ô, Ngươi lấy Đất nặn ra Con người
Nghĩ ra Thiên đường, đồng thời con Rắn
Vì lầm lỗi hiện trên gương mặt người
Ngươi tha thứ, và khoan dung được nhận.





LIX.
Listen again. One Evening at the Close
Of Ramazán, ere the better Moon arose,
In that old Potter’s Shop I stood alone
With the clay Population round in Rows.
*
Hãy nghe thêm. Vào một buổi chiều hôm
Tháng Ramazan, Trăng mới lưng chừng
Ta đứng một mình ở trong lò Gốm
Với Dân cư đất sét xếp thành Hàng.





LX.
And, strange to tell, among that Earthern Lot
Some could articulate, while others not:
And suddenly one more impatient cried—
“Who is the Potter, pray, and who the Pot?”
*
Nói nghe lạ lùng nhưng trong bao Số phận
Ai giỏi nói năng còn ai đó không
Bỗng đột ngột, một ai đó kêu lên:
“Ai là Thợ gốm, còn ai – đồ Gốm?”




LXI.
Then said another—“Surely not in vain
My substance from the common Earth was ta’en,
That He who subtly wrought me into Shape
Should stamp me back to common Earth again.”
*
Người khác bảo: “Thân xác ta, quả thật
Do bàn tay Ngài nặn ra từ Đất
Rồi Ngài trao cho đường nét, Dáng hình
Sau đấy lại nhồi ta về với Đất”.




LXII.
Another said—“Why ne’er a peevish Boy,
Would break the Bowl from which he drank in Joy;
Shall He that made the Vessel in pure Love
And Fancy, in an after Rage destroy!”
*
Một người khác: “Dù chàng Trai hay giận
Cũng chẳng bao giờ uống xong đập Chén
Tại sao Ngài đầy Tưởng tượng, Tình yêu
Làm ra Bình rồi đập khi tức Giận?”





LXIII.
None answer’d this; but after Silence spake
A Vessel of a more ungainly Make:
“They sneer at me for leaning all awry;
What! did the Hand then of the Potter shake?”
*
Không ai trả lời cho câu hỏi này
Một chiếc Bình vội vàng lên tiếng ngay:
“Họ cười ta vì thân ta méo xệch
Tại vì sao? Do Thợ gốm run tay?”




LXIV.
Said one—“Folks of a surly Tapster tell,
And daub his Visage with the Smoke of Hell;
They talk of some strict Testing of us—Pish!
He’s a Good Fellow, and ’twill all be well.”
*
Một người nói: “Bà con Chủ quán rằng:
Gương mặt ông với Khói từ Địa ngục
Họ nói về thử thách – nghe mà khiếp!
Ông tốt bụng, tất cả đều tuyệt trần”.





LXV.
Then said another with a long-drawn Sigh,
“My Clay with long oblivion is gone dry:
But, fill me with the old familiar Juice,
Methinks I might recover by and bye.”
*
Thì khi đó, một người khác thở dài:
“Đất tôi khô vì để quên lâu ngày
Nhưng nếu rót đầy cho tôi rượu cũ
Thì tôi nghĩ rằng sẽ phục hồi ngay”.





LXVI.
So while the Vessels one by one were speaking,
One spied the little Crescent all were seeking:
And then they jogg’d each other, “Brother! Brother!
Hark to the Porter’s Shoulder-knot a-creaking!”
*
Khi Bình và Chén đáp lời liên tiếp
Một kẻ nhìn thấy mảnh Trăng lưỡi liềm
Tất cả kêu lên: “Hỡi người Anh em!
Có nghe vai Thợ gốm rên - cót két!”





LXVII.
Ah, with the Grape my fading Life provide,
And wash my Body whence the Life has died,
And in a Winding-sheet of Vine-leaf wrapt,
So bury me by some sweet Garden-side.
*
Ô, hãy dùng Rượu để củng cố Đời ta
Khi ta chết, khâm liệm bằng lá Nho
Và trước đó, tắm rửa ta bằng Rượu
Rồi đem chôn đâu đó sau Vườn nhà.





LXVIII.
That ev’n my buried Ashes such a Snare
Of Perfume shall fling up into the Air,
As not a True Believer passing by
But shall be overtaken unaware.
*
Dù thân xác của ta chôn dưới đất
Nhưng trong Không khí mùi Thơm ngào ngạt
Không một người ngoan Đạo đi ngang qua
Mà lại có thể làm như không biết.




LXIX.
Indeed the Idols I have loved so long
Have done my Credit in Men’s Eye much wrong!
Have drown’d my Honour in a shallow Cup,
And sold my Reputation for a Song.
*
Quả thực, Thần tượng mà ta yêu mến
Đã đem lòng tin con người cho ta
Đã dìm Danh dự của ta trong Chén
Và bán Danh tiếng để lấy Bài ca.





LXX.
Indeed, indeed, Repentance oft before
I swore—but was I sober when I swore?
And then and then came Spring, and Rose-in-hand
My thread-bare Penitence apieces tore.
*
Quả thực, trước khi Hối hận đã thề
Nhưng liệu có tỉnh khi nói lời kia?
Và Mùa xuân với Hoa hồng lại đến
Đã làm cho tan lời Sám hối kia.





LXXI.
And much as Wine has play’d the Infidel,
And robb’d me of my Robe of Honour—well,
I often wonder what the Vintners buy
One half so precious as the Goods they sell.
*
Dù rượu xử sự như người vô Đạo
Khoác cho ta chiếc Áo choàng Danh dự
Những Người bán rượu làm ta ngạc nhiên
Họ bán Hàng giá chỉ bằng một nửa.





LXXII.
Alas, that Spring should vanish with the Rose!
That Youth’s sweet-scented Manuscript should close!
The Nightingale that in the Branches sang,
Ah, whence, and whither flown again, who knows!
*
Than ôi, tàn héo cả Mùa xuân, Hoa hồng!
Cuốn sách Tuổi trẻ đành phải sang trang!
Và Họa mi trên cành giờ im tiếng
Bay về đâu, có ai biết được chăng!





LXXIII.
Ah, Love! could you and I with Fate conspire
To grasp this sorry Scheme of Things entire,
Would not we shatter it to bits—and then
Re-mould it nearer to the Heart’s Desire!
*
Ô, Tình yêu! Liệu ta và em có vần xoay Phận số
Để thay đổi trật tự này quả thật đáng thương
Để ta sẽ đập chúng ra từng mảnh nhỏ
Rồi nhập vào, xếp lại đẹp như mong.





LXXIV.
Ah, Moon of my Delight who know’st no wane,
The Moon of Heav’n is rising once again:
How oft hereafter rising shall she look
Through this same Garden after me—in vain!
*
Ô, Trăng của lòng ta không biết đến tàn
Trăng của Trời, trăng lại sẽ mọc lên
Và trăng lại sẽ đung đưa nhìn ngắm
Tìm ta trong Vườn – nhưng chỉ hoài công!





LXXV.
And when Thyself with shining Foot shalt pass
Among the Guests Star-scatter’d on the Grass,
And in thy joyous Errand reach the Spot
Where I made one—turn down an empty Glass!
*
Và khi Trăng soi sáng giữa đám đông
Những Người khách Số phận ném xuống trần
Trong vui sướng, khi trăng tìm đến Chỗ
Xưa ta ngồi – hãy úp ngược Chén không!

<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2011 21:08:06 bởi hoangai >