Các nhà thơ đoạt giải Nobel
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 34 bài trong đề mục
cacbac 30.11.2007 09:49:32 (permalink)

 
 
Pablo Neruda (1904-1973) là bút danh của Neftali Ricardo Reyes y Basoalto – nhà thơ Chilê đoạt giải Nobel Văn học 1971. Sinh ngày 12-7-1904 tại thị trấn Parral, miền nam Chilê. Ông học tiếng Pháp và Giáo dục học, rồi dạy tiếng Pháp, làm nhà ngoại giao, đi rất nhiều nơi trên thế giới; là một trong những nhân vật quan trọng trong chính quyền Chile. Năm 1927 ông làm lãnh sự Chilê ở Burma (nay là Myanmar), năm 1932 ở Argentina, năm 1934 ở Tây Ban Nha. Năm 1945 được bầu vào Thượng nghị viện, nhưng mấy năm sau bị buộc tội phản quốc và phải trốn sang Mexico vì đã công khai phê phán chính phủ đương nhiệm. Năm 1970 ông về nước ra tranh cử Tổng thống, là bạn và người ủng hộ nhiệt thành của tổng thống S. Agende.

Pablo Neruda bắt đầu sự nghiệp văn chương từ rất sớm; hai mươi tuổi ông xuất bản tập thơ Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng, là tập thơ bán chạy nhất ở Chile, làm cho ông trở thành một trong những nhà thơ trẻ nổi danh nhất ở Mỹ Latinh. Tập thơ Bài ca chung gồm 340 bài thơ được coi là kiệt tác đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông. P. Neruda đã đi từ trường phái biểu tượng sang siêu thực và cuối cùng trở thành hiện thực, là nhà thơ nhập cuộc, nhà thơ chiến đấu, ảnh hưởng của thơ ông đối với các dân tộc nói tiếng Tây Ban Nha là rất lớn. Năm 1971 ông được trao giải Nobel vì những lời thơ phản kháng vang khắp thế giới, có một trí tưởng tượng mãnh liệt và chất trữ tình tế nhị. P. Neruda là nhà nghệ sĩ cách mạng đấu tranh cho phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Mỹ Latinh và hòa bình thế giới, là tác giả của những kiệt tác thơ tình cuồng nhiệt, những áng thơ triết lý sâu sắc và của cả những bản tụng ca những điều giản dị, đời thường. Ông được coi là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế kỉ XX. Thơ ông được dịch nhiều và được yêu thích ở Việt Nam. P. Neruda mất ngày 23-9-1973 tại thủ đô Santiago.

Tác phẩm:
*Bài ca ngày hội (La cancion de la fiesta, 1921), thơ
*Hoàng hôn (Crepusculario, 1923), thơ
*Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng (Viente poemas de amor y una canciún desesperada, 1924), thơ
*Sự mạo hiểm của con người bất tử (Tentativa del hombre in finito, 1926), thơ.
*Trú ngụ trên trái đất (Residencia en la tierra, tập 1, 1933, tập 2, 1935), thơ
*Tây Ban Nha trong tim (Espana en el corazon, 1937), thơ.
*Bài ca Stalingrad (Canto Stalingrado, 1942), thơ.
*Bài ca chung của Chile (Canto general de Chile, 1939), chùm thơ sử thi.
*Bài ca chung (Canto general, 1950), thơ.
*Chùm nho và những ngọn gió (La uvas y el viento, 1954), thơ.
*Bài ca khởi thủy (Odas elementales, 1954_1959), thơ, 3 tập
*Bài ca chiến công (Canción de gesta, 1960), thơ.
*Đi biển và trở về (Na vegacionesy regresos, 1959), thơ.
*Một trăm bài sonnnê tình yêu (Cien sonetos de amur, 1960), thơ.
*Những viên ngọc Chile (Les piedras de Chile, 1960), thơ.
*Những bài ca nghi lễ (Cantos ceremoniales, 1961), thơ.
*Đài kỉ niệm của Isla Negra (Memorial de Isla Negra, 1964), thơ
*Biển cả và tiếng chuông (El mar y las campanas, 1973), thơ.
*Trái tim vàng (El corazon amarillo, 1974), thơ.



 
 
Ở VIỆT NAM

Ai đã gây nên chiến tranh?
Từ ngày hôm kia tôi đã nghe thấy nó.

Và tôi sợ.

Chiến tranh vang rền
tựa như đá ném vào tường
như tiếng sấm cùng với máu
như đang chết dần cả núi non.

Thế giới này
tạo ra không phải tôi.
Và không phải bạn.
Thế giới có từ xưa rồi.
Ai đe dọa cuộc đời móng nhọn?
Ai kề dao bên cổ cuộc đời?
Thế giới này chỉ sinh ra, có phải?
Còn ai đi chém giết vì điều này?
người đi xe đạp vô cùng sợ hãi
và vị kiến trúc sư.

Người mẹ nuôi đứa con thơ
trong đất bùn ẩn giấu
người mẹ ngủ trong hang
còn chiến tranh lan tràn
bằng lửa cháy
và những người chết ở đấy
là người mẹ cùng với đứa con.

Họ đã chết trong bùn.




 
Ôi đau thương!
và kế từ dạo ấy
đến bây giờ họ vẫn sống trong bùn.
Họ bắn súng và hát lên. Lạy Chúa tôi
giá mà nói cho bạn biết điều này
trước khi sáng tạo ra thế giới
giá mà, dù chỉ là lời nói nhỏ bên tai
rằng những người thân yêu nhất của bạn trên đời
cần phải chết khổ đau như vậy
không bao giờ biết được tại vì đâu?!
Chính những kẻ giết người này
sẽ đến giết tôi và bạn
chính những kẻ giết người này
sẽ đến đây đốt bạn và tôi
những kẻ phiêu lưu mạo hiểm hay cười
những kẻ huyênh hoang, rối rắm
sẽ bay đến đây
hủy diệt thế giới này.


 
Chúng đã bỏ lại trên đồng
máu của mẹ, cha, của những đứa con
bạn hãy đi tìm trong đó
xương và máu của mình
lẫn trong bùn đất của Việt Nam.
Bạn hãy tìm giữa đống xương người lạ
bị thiêu cháy, bây giờ chẳng của riêng ai
của tất cả mọi người
của chúng ta – của tôi và bạn
bạn hãy đi tìm
trong cái chết này cái chết của mình
bởi những kẻ giết người rồi sẽ săn lùng bạn
mang đến cho bạn cái chết trong bùn.



FAREWELL

1

Từ trong sâu thẳm nhìn vào mắt em
Những ước mơ chưa trở thành hiện thực

Vì cuộc đời này ta đem hoà nhập
Cuộc đời của anh và của em.

Vì những bàn tay này, những bàn tay của ta
Ta hãy học cách xây và phá bỏ

Vì những đôi mắt này em hãy chùi giọt lệ
Dù lệ không còn, sẽ đau đớn gấp ba.

2

Những điều này không cần nữa đâu em
Mặc cho hai ta không còn giữ gìn
Cái sức mạnh từng bắt hai chúng mình làm một.

Không phải lời mà em thoáng nghĩ ra
Không phải điều mà bằng lời không tả được

Không phải cơn bão lòng, thuở trước
Không phải bờ mi em run rẩy phút chia xa.

3

Anh thích tình yêu của những người đi biển
Gặp gỡ rồi chia xa

Họ hứa hẹn sẽ quay về
Nhưng họ không về, em có thấy

Và bến tàu – như cô gái
Vẫn mong rằng họ sẽ về mau

Nhưng ngoài biển khơi, nơi con sóng bạc đầu
Họ lấy cho mình cái chết.

4

Anh thích tình yêu, nơi hai người sẻ chia
Bánh mì và nơi ngủ trọ.

Tình yêu cho một thời gian
Hay tình yêu muôn thuở.

Tình yêu là sự nổi loạn ở trong tim
Chứ không phải là con tim tê liệt.

Tình yêu, có tình yêu bắt kịp
Và có tình yêu không bắt kịp bao giờ.

5

Mắt anh không còn uống đã ánh mắt em
Nỗi đau ngày nào trong tim không thành sẹo
Nhưng dù ở đâu, anh vẫn thấy mắt em nhìn
Và nỗi đau anh vẫn theo em khắp mọi nẻo.

Em đã từng của anh. Anh đã từng của em
Nghĩa là ta đã từng sống trong tình.

Anh đã từng của em. Em đã từng của anh
Khi em yêu người khác. Kẻ đó là người tình.

Anh từ giã buồn đau. Nhưng muôn đời đau khổ
Từ nơi gặp gỡ của chúng mình anh chẳng biết sẽ về đâu?

Vĩnh biệt! Một giọng nói thủ thỉ trong tim
Và anh cũng nhủ lòng: vĩnh biệt!






NỮ HOÀNG

Anh gọi em là nữ hoàng
Thực ra là cao hơn em, cao hơn
Thực ra là thanh sạch hơn, sạch hơn
Thực ra là đẹp hơn em, đẹp hơn.

Nhưng nữ hoàng là em.

Khi em đi trên đường phố
Ai cũng ngước mắt nhìn
Không thấy vương miện pha lê trong
Và thảm bằng vàng tấm
Nhưng nơi em đặt bàn chân đến
Thảm ấy không cần.

Em cứ ngỡ rằng
Trong người anh
Mọi con sông trên đời đang hát
Và ở trên trời
Tiếng chuông gióng lên
Một bài ca bay trên mặt đất.

Nhưng chỉ em và anh
Chỉ anh và em, hai đứa
Có thể nghe ra bài hát này.



 
BÀI THƠ SUÔNG MỪNG ĐÁM CƯỚI

Đôi mắt của em buồn vô hạn
tựa như hai thân thể rã rời.
Thế còn bao nỗi đau xót chưa nguôi
giấu trong bàn tay em đờ đẫn!

Ta gặp nhau. Anh cảm thấy nhiều hơn
trong cuộc đời của anh hơi ấm
từ đó mà em tin chắc chắn
rằng anh cũng buồn vô hạn, giống như em…


TÌNH TUYỆT VỜI
(100 sonnê tình yêu)

Tình tuyệt vời, trong đêm anh cảm thấy gần em
đêm vô cùng, không thấy gì trong giấc mộng
anh cố gắng chỉ hoài công, anh lẫn lộn
với những suy tư và lo lắng của mình.

Sóng mang đi ra biển trái tim của em
nhưng thân thể trên bờ, anh dễ dàng nhận thấy
đừng tìm anh, trong giấc mộng của anh đầy rẫy
bởi được nhân đôi như hoa cỏ trong đêm.

Sáng mai thức dậy đời sẽ khác mà em
nhưng từ cái giới hạn không rõ ràng đã mất
giới hạn giữa cuộc đời và cái chết, nơi hai đứa chúng mình.

Vẫn có điều gì còn lại trong ánh bình minh
tựa hồ như dấu vết của cái đêm rực lửa
sáng tạo của đêm đem đến thật vô tình.


NẾU ANH CHẾT
(100 sonnê tình yêu)

Nếu anh chết, thì em nhé, hãy lo
cho anh bằng một nỗi lo cuồng loạn
ánh mắt nhìn về phương Nam hãy ném
miệng hướng mặt trời vang như tiếng ghi ta.

Anh không muốn em cười ít đâu mà.
Em hãy vui – gia tài cho anh đó.
Đừng gọi anh, bởi anh không còn nữa.
Trong thiếu vắng anh như sống ở trong nhà.

Sự vắng mặt của anh – ngôi nhà rất to
xuyên qua tường, em vào nhà có thể
những bức tranh hãy treo như không khí.

Sự vắng mặt của anh – trong suốt ngôi nhà
anh thấy rõ ràng em sống ra sao trong đó
và anh sẽ chết lại nếu như em đau khổ.






TRĂNG

Khi tôi sinh ra mẹ tôi đã qua đời
Nỗi đau thiêng liêng đợi chờ điều tai họa.
Trong cơ thể mẹ một ngôi sao lấp lóa
Tôi sinh ra bằng cái chết của mẹ tôi.
Vây quanh tôi
một dòng sông vô hình
nụ cười của tôi muôn đời che khuất bởi
một nỗi buồn như giọng hát lên.
Mẹ trùm lên bình minh của tôi, mệt mỏi
bằng mùa lá rụng của cuộc đời mình.
Màu vàng của bàn tay mẹ khi hấp hối
giữa hồn tôi thành màu của ánh trăng.
Bởi thế mà cánh đồng buồn bã
tôi nhìn qua khung cửa sổ nhà mình
Mẹ ươm tôi thành bông lúa
còn màu vàng, màu của ánh trăng thanh…


BÓNG

Tôi hãy còn chưa quay về
hãy còn chưa quay trở lại
tôi vẫn hãy còn đang ra đi
trên thế giới này lửa cháy
bên trong tĩnh mạch này
máu của tôi đang chảy
tôi không thể nào quay lại
trở về với bản thân mình
tôi nhìn thấy con người, cây cối
kí ức của lá, của cành
thấy lời chào trong đôi mắt mùa xuân
và cái đuôi của chó.

Thấy yên lặng của ngôi nhà đang mở
cho giọng nói của tôi, không làm đổ bức tường
bằng tiếng súng hay tiếng đá kêu vang
bước chân tôi lang thang trên mặt đất
tôi sờ vào dây trường xuân quấn chặt
cổng vòm bằng đá hoa cương
tôi ở trong đồ vật, giữa khoảng không
bởi vì bóng của tôi nơi này không thơ thẩn
mà thực ra – tôi là bóng của người du lãng.


CHÀO!

Mỗi buổi sáng ta nói lời : Chào!
với mỗi người ta gặp
đấy là tấm danh thiếp
dù giả dối hay chân thật của ta
là tiếng chuông để tất cả nghe ra
ta ở đây – Chào! – nghĩa là ta có mặt
ta chào người này, kẻ khác
người có dao
kẻ cầm thuốc độc
Chào! - đấy là ta
ta như nhau nhưng không chịu đựng
ta yêu nhau, nhưng không giống
mỗi người có đam mê, công việc của mình
ta vui mừng được trở thành (hoặc không?)
cần biết bao nhiêu bàn tay xếp đặt
biết bao nhiêu bờ môi sắp xếp –
Chào!
thời gian còn quá ít
Chào!
có điều gì nhận biết –
Chào!
ta mải mê theo công việc
nếu có chút gì còn lại
chút gì còn lại sau ta
Chào!


CHỜ ĐỢI

Có những ngày hãy còn ở trên đường
những ngày này hãy còn chưa chuẩn bị
như bánh mì, thực phẩm, như chiếc ghế
từ trong xưởng thợ làm ra
có những nhà máy của những ngày xa
nơi những người thợ cân đong, đo đếm
theo từng ý thích mà xây dựng
trong ngày nắng cũng như ngày mưa
và có một lần đến gõ cửa nhà ta
để tặng ta quả cam chín mọng
hoặc từ sau ngưỡng cửa bắn vào ta.

#1
    cacbac 30.11.2007 09:59:21 (permalink)

     
    Eugenio Montale (1896-1981) – nhà thơ, nhà phê bình văn học Italia đoạt giải Nobel Văn học 1975. Sinh ngày 12-10-1896 ở Gienova, Italia. Từ nhỏ bị ốm nặng không đến trường được nên đọc rất nhiều sách văn học, triết học, thu lượm nhiều kiến thức về văn hóa, âm nhạc, hội họa, tư tưởng nghệ thuật của những triết gia hàng đầu Châu Âu. Trong thế chiến I ông là sĩ quan bộ binh, chiến đấu ở mặt trận nước Áo 2 năm. Làm giám đốc thư viện Gabinetto Vieusseux trong 10 năm.

    Năm 1925 ông xuất bản tập thơ đầu tiên Những chiếc mai cá mực được dư luận chú ý bởi giọng thơ cách tân khác biệt với những nhà thơ đương thời. Phong cách thơ của E. Montale gần gũi với T. S. Eliot, không ngẫu nhiên mà ông dịch Đất hoang của Eliot ra tiếng Italia. Năm 1948 ông bắt đầu viết phê bình văn học và âm nhạc cho tờ Corriere della Sera, một nhật báo uy tín ở Milan. Năm 1956 E. Montale cho ra đời tập thơ được đánh giá là tiêu biểu nhất của ông Giông tố và những bài thơ khác. Các tác phẩm của ông mang đậm vẻ đẹp của nền văn hóa Italia và nêu cao tinh thần chống chủ nghĩa phát xít. Ngôn ngữ thơ ông gần với tiếng Italia bình dân. Năm 1967, ông được bổ nhiệm là thượng nghị sĩ trọn đời của Quốc hội Italia. Năm 1975 E. Montale nhận giải Nobel vì các tác phẩm thơ ca đặc sắc thể hiện quan điểm và cảm xúc lớn lao về một cuộc sống bị tước bỏ ảo ảnh. Sự tìm tòi một ngôn ngữ thơ nguyên thủy khiến E. Montale trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất của Italia trong thế kỷ XX. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Eugenio Montale mất ngày 12-9-1981 tại Milan.

    Tác phẩm:
    *Những chiếc mai cá mực (Ossi di seppia, 1925), thơ
    *Ngôi nhà hải quan và các bài thơ khác (Lacasa dei doganieri edaltri versi, 1932), thơ.
    *Cơ hội (Le Occasioni, 1939), thơ
    *Cuối đất (Finisterre, 1943), thơ
    *Giông tố và những bài thơ khác (La bufera e altro, 1956), thơ
    *Xenia, (1966), thơ.
    *Satura (1971), thơ.
    *Nhật kí năm 71 và 72 (Diario del 71 del 72), thơ.
    *Thơ mới (New poem, 1976), thơ.
    *Sổ ghi chép trong bốn năm (Quaderno di quattro anni, 1977), thơ.






    XENIA (1964-1966)*

    1

    Côn trùng dễ thương ơi, anh không biết
    tại vì sao em lại gọi là ruồi
    ngày hôm nay trời hầu như tối mịt
    còn anh đọc quyển Deuteroisaia(1) phần hai
    khi em lại hiện lên trước mặt anh đây
    chỉ một điều em không đeo kính
    nên em không thể nào nhìn ngắm
    còn anh không thể thiếu kính này
    để nhận ra em trong làn khói.

    2

    Không có râu ria, không có kính
    không cánh bay, tội nghiệp quá em ơi
    em chỉ bay trong giấc mộng mà thôi
    bài hát cổ xưa trong Kinh Thánh
    có quá ít điều thú vị và đêm đen
    sấm chớp và sau đó mưa dông
    không phải mưa dông, chẳng lẽ là em có thể
    vội vàng ra đi
    không nói năng một điều gì
    dù anh vẫn nghĩ rằng đôi môi ngày ấy.

    3

    Khách sạn Saint James ở Pari anh cần thuê
    phòng một người (họ không vui
    khi khách đi lẻ), và thế rồi
    ở khách sạn Bisanzio cũng thế
    sau đó, khi đi tìm
    cái phòng của những cô nhân viên điện thoại
    là những người quen biết của em
    thì đã không còn dây máy
    khao khát có em
    dù chỉ một cử chỉ, dù chỉ một thói quen.

    4

    Ta học theo cách, để sau khi chết hai ta
    theo dấu này tìm ra nhau nhanh chóng.
    Anh thử huýt gió lên với niềm hy vọng
    rằng sự đã rồi, không biết rằng ta đã cõi hư vô.

    5

    Anh vẫn không hiểu rằng, có phải anh đã từng
    là con chó trung thành của em đau ốm
    và có phải em cũng vậy của anh.
    Còn với những người khác em chỉ là côn trùng
    bị đánh mất trong tiếng kêu rỉ rả
    cao hơn thế gian. Trong sự giản dị
    của những kẻ láu lỉnh, tinh ranh
    rằng chúng chỉ là trò chơi trong tay em
    trong bóng tối thấy rõ ràng không cần thêu dệt
    với linh cảm của em chính xác
    bằng sự định vị của chuột bay.

    6

    Em không nghĩ rằng sẽ để lại sau mình dấu vết
    trong thơ văn mà em say đắm đã từng
    chính vì thế mà sau này anh cảm thấy buồn nôn
    chính vì thế mà anh sợ rằng em, sau đấy
    quẳng anh vào nhóm các nhà thơ mới(2)
    như cái đầm.

    7

    Lòng thương mình, đau đớn tận cùng và buồn chán
    của người yêu đất đai và hy vọng
    (ai dám nói rằng “thế giới khác”?
    ………………………………
    “Lòng thương lạ lùng, kì quặc”(3) (Azucena, màn thứ hai).

    8

    Lời của em lảng bảng và khó khăn
    những gì còn, cám ơn ngành bưu điện.
    Nhưng bây giờ lời của em khó nhận
    anh học cách phân biệt giọng nói của em
    khi để ý lắng nghe tiếng tíc tắc của máy đánh tin
    trong vòng khói bập bềnh của thuốc lá
    từ Brissago(4).

    9

    Em có thể nhìn thấy bằng thính giác
    tiền điện thoại sẽ giảm được rất nhiều.

    10

    “Cô ấy cầu nguyện không?” – “Vâng cô ấy cầu Thánh Antonio(5)
    để tìm thấy chiếc ô mất và tìm thấy đồ
    từ trong tủ của Thánh Ermete”
    “chỉ thế thôi à?” – “Và cầu cho người đã chết
    và cầu cho tôi”.
    “Thế đủ rồi” – vị mục sư bảo thế.

    11

    Kí ức về tiếng khóc của em (gấp hai lần – của anh)
    không che khuất tiếng cười xưa vui vẻ
    có vẻ như báo trước ngày Tận thế
    của riêng em, nhưng thật không may mắn, đã không thành.

    12

    Giống như con chuột chũi, rảo bước mùa xuân
    anh đã không còn nghe em nói về chất độc
    của thuốc kháng sinh, về nỗi đau thường xuyên trên cơ bắp
    về sự may mắn, mà em yêu
    không sưởi ấm được bao nhiêu.

    Mùa xuân đến gần với những lớp sương mù
    ngày dài hơn, và giờ không thể chịu
    anh đã không còn nghe em đấu tranh với tiếng kêu ầm réo
    của thời gian, của dấu hiệu không giải quyết được vấn đề
    của mùa hè kia.

    13

    Bầy côn trùng từ trong đêm Strasburg
    với dao chạm đi vào khe hở nhà thờ
    Maison Rouge và chàng hầu bàn của em có tên là
    Ruggero, hơi thọt chân và nhẹ nhàng, vui vẻ
    còn Striggio, không rõ người ở đâu rất hay mổ
    hắn bị người yêu phụ bạc – cô gái Thổ Nhĩ Kì
    (mũi hắn đỏ lên vì xấu hổ
    và nếu ai nhắc đến sự xấu hổ thì mặt hắn xéo đi vì
    addition,(6) nhiều hơn trì hoãn không chịu nổi)
    khi đó hiện ra trước mặt em những gì?
    có thể chỉ vẩn vơ. Nhưng mà em chỉ nói
    “Hãy uống thuốc ngủ vào” – là lời cuối
    lời cuối cùng của em nói về anh.

    14

    Anh trai của em chết sớm, khi đó em
    là cô gái tóc xù, rằng em đứng lặng
    nhìn sang anh từ bức ảnh hình ôvan.
    Anh ấy viết nhạc mà không ai nghe tiếng đàn
    những bản nhạc này chưa in, giờ nằm trong tủ
    hay thành giấy loại. Có thể là ai đó
    viết lại những bản nhạc này mà không rõ
    chúng đã từng được viết ra.
    Dù chưa từng quen nhưng anh yêu anh ta
    giờ về anh ấy, ngoài em, không ai còn nhớ
    anh không đi tìm: bây giờ chuyện này vô bổ
    sau em, anh là kẻ cuối cùng
    nhớ về anh ấy. Nhưng anh ấy biết rằng
    có thể yêu bóng hình, bởi ta cũng là chiếc bóng.

    15

    Người ta vẫn nói rằng thơ anh
    không của ai, không thuộc về ai cả
    nhưng đã từng của em, thì nghĩa là tất cả
    là của em, bởi em không còn là bản chất, mà chỉ bóng hình.
    Người ta nói rằng thơ ca trong mức độ của mình
    vượt trội hơn tất cả
    không thừa nhận rằng tia chớp lửa
    có thể chậm hơn những chú rùa.
    Chỉ em biết rằng sự chuyển động
    không khác gì sự đứng yên
    rằng trống rỗng là đầy, rằng tĩnh lặng
    bầu trời trong – vẻ phổ biến của mây.
    còn anh hiểu hơn về con đường dài
    qua ngục tù thạch cao và vải gạc
    nhưng không mang đến cho anh vẻ lặng yên, tĩnh mịch
    rằng anh hoà nhập với em, dù một hoặc hai người.
    __________

    *Tập thơ “Xenia” là những kỉ niệm của Eugenio Montale về người vợ đã mất. “Xenia” – tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là “khách sạn”, là “món quà”.
    (1) Sách tiên tri Ê-sai trong Kinh Cựu Ước.
    (2) Các nhà thơ mới “neoteroi” – nhóm các nhà thơ La Mã thế kỉ I tr. CN, người nổi tiếng nhất là Gaius Valerius Catullus (87-54 tr. CN).
    (3) “Lòng thương lạ lùng kì quặc”- lời cô gái Digan Azuccena, màn thứ hai trong một vở Opera của Giuseppe Verdi (1813-1901).
    (4) Tên một loại thuốc lá và là địa danh ở Thuỵ Sĩ.
    (5) Theo truyền thuyết Thánh Antonio giúp tìm ra đồ bị thất lạc.
    (6) Ađition – sự thêm vào (tiếng Anh). Trong thơ của mình, đặc biệt là ở giai đoạn sau Eugenio Montale rất hay sử dụng tiếng Anh trong những bài thơ viết bằng tiếng Italia.






    CÂY SẬY

    Cây sậy
    với chiếc quạt lông màu hồng
    chia tay với mùa xuân
    con đường ở dưới đáy mương
    một bầy chuồn chuồn bay trên dòng nước đục
    những con chó vô cùng gan góc
    trèo lên những bụi cây gai

    ngày hôm nay không có gì giống ở nơi này
    nơi nọ, nơi cháy bừng lên ánh mặt trời
    và đám mây ở dưới vẫn còn tiếp diễn
    ánh mắt của em – hai tia nắng
    giao nhau ở chốn xa xăm.

    Và thời gian không đứng yên một chỗ.


    NHƯ DẤU HIỆU TỐT LÀNH

    Như dấu hiệu tốt lành
    như cái tin về ngày mới
    đường răng viền quanh lá cọ
    qua ánh sáng chiếu lên tường.

    Những ngôi nhà kính
    đang thiu thiu ngủ mơ màng
    bước chân rất nhẹ nhàng
    tựa hồ như trên tuyết trắng…
    Đấy là em – sự nhắc lại em ở trong anh.



     
     
    TRONG KHÓI

    Đã bao lần anh đợi em ở nhà ga
    trong giá buốt, đấy là chưa nói gì sương khói!
    đi tới đi lui, nhìn qua ngó lại
    rồi hút thuốc, mua những tờ báo rẻ tiền
    quả là anh thật ngớ ngẩn, phải không em?

    Chuyến tàu đã bị hoãn hay đã đi nhầm đường
    anh nhìn theo những chiếc xe chở đầy hành lý
    xem thử có không hành lý của em
    còn em luôn xuất hiện sau cùng
    bước thản nhiên theo chiếc xe sau chót.
    Cảnh tượng này luôn hiện ra trong giấc ngủ của anh.


    CÁI ÁC VÀ CÁI THIỆN

    Cái ác giữ vẻ bất di, bất dịch của mình
    Khi như sông, khi như người chết đuối
    Khi như lá vàng, khi như cá nổi
    Khi lại như con ngựa bị cùng đường.

    Còn cái Thiện tôi chưa biết một lần
    Nếu có chăng, chỉ vô tình, ngẫu hứng
    Khi trong mơ, khi trong mây xa thẳm
    Khi như chim bay về chốn xa xăm.

    #2
      cacbac 30.11.2007 11:00:52 (permalink)

       
      Vicente Aleixandre (1898-1984) - nhà thơ Tây Ban Nha, đại diện của “thế hệ 27 tuổi”, một hiện tượng của thơ ca Tây Ban Nha thế kỷ XX, giải Nobel Văn học 1977.

      Là con cả trong một gia đình kỹ sư xây dựng đường sắt; từ những năm còn nhỏ Aleixandre đã say mê đọc truyện cổ của Andersen, Grim, Iliat của Homer, tác phẩm của Arthur Conan Doyle, Dostoevsky, Schiller... Học luật và kinh tế tại Đại học Tổng hợp Madrid; ông làm phụ giảng tại trường thương mại rồi chuyển sang Cục quản lí đường sắt. Năm 1925 Aleixandre bị ốm rất nặng, không còn khả năng tham gia vào các công việc khác mà dồn toàn bộ sức lực cho văn chương. Tuyển tập thơ đầu tiên của ông Ranh giới xuất hiện năm 1928. Năm 1933, ông nhận giải thưởng văn chương quốc gia cho tác phẩm Hủy diệt hay yêu thương rồi năm 1944 xuất bản cuốn Bóng Thiên đường, một bài ca viễn tưởng về hạnh phúc và cái đẹp của một con người trước ngưỡng cửa cái chết. Năm 1950, ông trở thành thành viên Viện Hàn lâm Tây Ban Nha.

      Năm 1977 ông được trao giải Nobel “vì những tác phẩm thơ xuất sắc thể hiện vị trí của con người trong vũ trụ và trong xã hội hiện đại, đồng thời là chứng cứ thuyết phục về sự phục hồi của các truyền thống thơ ca Tây Ban Nha vào thời kì giữa hai cuộc chiến tranh”. Thơ của Aleixandr quyến rũ và mong manh, nhưng không sầu não. Đó là nguồn sống tinh thần không cạn kiệt của đất nước Tây Ban Nha. Aleixandre sống độc thân cho đến cuối đời, ông mất ngày 14-12-1984 ở thủ đô Madrid.

      Tác phẩm:
      *Môi trường quanh ta (Ambito, 1928), thơ
      *Lưỡi gươm như làn môi (Espadas como labios, 1932), thơ
      *Hủy diệt hay yêu thương (La destruccion o el amor, 1933), thơ
      *Niềm đam mê của đất (Pasion de la tierra, 1928-1929, in1935), thơ
      *Bóng thiên đường (Sombra del parasio,1944), thơ
      *Thế giới thống nhất (Mundo a solas, 1936, in 1950)
      *Truyện trái tim (Historia del corazon, 1954), thơ
      *Gặp gỡ (Los encuentros, 1958), hồi kí.
      *Thơ tình (Poemas amorosos, 1960), thơ.
      * Trong quyền lực của sự phù du (En un vasto dominio, 1962), thơ.
      *Thơ tiêu thụ (Poemas de la consumacion, 1968), thơ.
      *Đối thoại về sự nhận thức (Dialogos del conocimiento, 1974), thơ.
      *Âm thanh cuộc chiến (Sonido de la guerra, 1978), thơ
      *Thư từ (Epistolario, 1986), thơ




      SỰ THỐNG NHẤT TRONG EM

      Hạnh phúc tuôn chảy xuống tay anh
      trong gương mặt của em cuộc đời đầy ắp
      nơi bay liệng những con chim không thể nào bắt được
      bay về nơi không một thứ gì quên.

      Thân thể của người yêu, hồng ngọc, kim cương
      tia nắng mặt trời trong vòng tay ôm ấp
      bay vào trong những lời làm phép thuật
      những lời bùa phép của răng.

      Bởi vì anh muốn chết nên anh lao vào em
      bởi vì anh muốn được hồi sinh trong lửa
      vì không khí anh không cần, anh không biết thở
      chỉ đám cháy lửa bừng
      trong vực đốt môi anh.

      Em đừng lấy tay che mặt
      đừng đốt đam mê của cuộc đời mình
      hãy cho anh nhìn vào nơi dịu dàng, sâu thẳm nhất
      nơi đó, khi chết rồi anh muôn thuở hồi sinh.

      Tình yêu hay là chết, nhưng khi yêu anh muốn
      anh muốn chết, muốn trở thành máu thịt của em
      thành tầng lò thu hẹp trong thân thể ấm nồng
      cuồn cuộn dưới da, ở bên rìa cuộc sống.

      Nụ hôn trên bờ môi em như kéo dài, đau đớn
      như gương nước biển sôi lên
      như đôi cánh vẫy vùng
      những ngón tay trên làn da ve vuốt
      và ánh sáng trên mái tóc dương dương tự đắc
      ánh sáng hay là con dao trên cổ của anh
      con dao đã không thể nào chia cắt
      sự thống nhất của thế giới chúng mình.
      1934.



      GIẤC MƠ

      Có những giây phút cô đơn
      Khi con tim lặng im, bỗng nhiên hiểu rằng không yêu nữa.
      Lấy sức đứng dậy: nhìn buổi sáng tối tăm.
      Còn trên giường em, có ai đấy đang say sưa ngủ.
      Có thể là em… nhưng mà không: em thơ thẩn trong phòng
      Buồn bã, lặng im. Mưa rơi ngoài cửa sổ.
      Bình minh sương mờ. Đến đó đã cô đơn!
      Em ngó nhìn. Quần áo treo trong phòng
      Bầu trời nặng nề, nước rơi, và căn phòng nhỏ
      Giữa bình minh xám ngắt ngoài cửa sổ.

      Em ngồi im, cúi đầu xuống bàn tay
      Tay chống lên bàn. Ghế không kêu cót két.
      Chỉ nghe ra đều đều hơi thở của ai
      Của ai đó rất dịu dàng, xinh đẹp
      Quên trên giường giấc mộng về em, tình yêu đã chết
      Còn em – chỉ là giấc mộng của người.
      1954.




      NGÀY NỬA ĐÊM

      Tuổi trẻ của ta, ngươi từng là nữ hoàng
      Quả thật, không lâu. Từng yêu phương Bắc
      Hoa hồng từ trường. Hoa của gió. Bước ngoặt
      Ô, giữa ngày yêu thương.

      Yêu vực thẳm. Ngọn gió diều hâu. Lông hồng
      Yêu nửa đêm. Những ngôi sao trong vực.

      Ngọn lửa sâu của tinh cầu xanh biếc
      Ngôi sao giữa đại dương. Con cá nói trên trời
      Ngươi giẫm lên những chòm sao, yêu bầu trời
      Khi ngủ trong mây, khi ngủ say trong vực
      Đổ xuống như thác, với bọt nước mỉm cười.

      Yêu sự hài hòa trong sự hỗn mang
      Khi bay lên trời, khi lao xuống vực
      Ô, sự vẹn toàn không chia cách
      Ngày, cứ ngỡ là đêm!
      1968.




      NHÀ THƠ HỒI TƯỞNG CUỘC ĐỜI MÌNH

      Chết, ngủ. Ngủ, có thể chỉ là mơ?
      Hamlet.


      Cả đời anh thấy những giấc mơ
      Còn ngủ – là không sống. Cuộc đời cho thiên hạ
      Sống – là không thở bằng những lời buồn bã
      Những lời vẫn sống quanh ta.
      Sống trong lời? Nhưng lời không muôn thuở
      Tiếng động ngọt ngào nhưng sẽ mất đi
      Như đêm trăng này. Như bình minh xa
      Như ngày gom những tia nắng cuối
      Đập vào mắt ta.
      Hãy cứ để ngày hôn em khi khép bờ mi lại
      Em hãy ngủ.
      Đêm rất dài, nhưng đêm đã đi qua.
      1972.

      #3
        cacbac 30.11.2007 11:09:28 (permalink)

         
         
        Czeslaw Milosz (1911-2004) – nhà văn, nhà thơ Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học 1980. Sinh ngày 30-6-1911 ở Seteksniai, khi đó còn thuộc Đế chế Nga, sau đó là Ba Lan, sau nữa là Liên Xô và cuối cùng là Cộng hòa Lithuania độc lập. Kí ức về tuổi thơ của nhà văn in đậm trong tiểu thuyết Thung lũng Issy. Học Đại học King Stefan Batory ở Wilno, Ba Lan (nay là Vilnius, thủ đô Lithuania), đăng những bài thơ đầu tiên trên tạp chí của trường. Năm 1933, ông xuất bản tập thơ Bài ca về thời gian bị đóng băng ( giải thưởng Hội Nhà văn Ba Lan 1943). Từ 1935, ông làm việc cho đài phát thanh Ba Lan, in tập thơ Ba mùa đông. Trong thế chiến I, ông viết thơ chống phát xít, xuất bản trường ca Thế giới: bản trường ca ngây thơ đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác.

        Sau chiến tranh C. Milosz hoạt động ngoại giao, làm việc ở New York, Washington. Năm 1951, vì bất đồng chính trị, ông xin tị nạn tại Pháp. Tiểu luận Trí tuệ bị cầm tù là tác phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông được Phương Tây biết đến. Năm 1952, tiểu thuyết Giành chính quyền đoạt giải thưởng Văn chương Châu Âu. Năm 1960, C. Milosz sang Mỹ, trở thành giáo sư Đại học California, năm 1970 nhập quốc tịch Mỹ. Ngoài sáng tác C. Milosz còn dịch Kinh Thánh từ tiếng Do Thái cổ sang tiếng Ba Lan và thơ của nhiều nhà thơ Châu Mỹ . Năm 1980, ông nhận giải thưởng Nobel vì “các sáng tác thể hiện nỗi đau khổ của con người không được bảo vệ trong một thế giới mà họ đã phải đến sống sau khi bị đuổi khỏi thiên đường”. Trong hơn 20 năm sau giải thưởng Nobel, C. Milosz vẫn tiếp tục sáng tác, viết thơ, tiểu luận, dịch... Ông nhận được rất nhiều giải thưởng của Ba Lan, Mỹ, là tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học (California, Viện Đại học Cơ Đốc Lublin, New York,...). C. Milosz được coi là một trong những nhà thơ Ba Lan vĩ đại nhất, sánh ngang với Adam Mickiewicz. Ông mất ngày 14-8-2004 tại Krakow. Sáng tác của Milosz gồm cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh.

        Tác phẩm:
        *Bài ca về thời gian bị đóng băng (Poemat o czasie zastyglym, 1933), thơ
        *Ba mùa đông (Trzy zimy, 1936), thơ.
        * Thế giới: Bản trường ca ngây thơ (The world: a naive poem, 1943), trường ca
        *Bài ca bất khuất (Invincible song, 1943), thơ
        *Giải cứu (Rescue, 1944), thơ
        *Giành chính quyền (Zdobycie wladzy, 1952), tiểu thuyết
        *Trí tuệ bị cầm tù (Zniwolony umysl, 1953), tiểu luận
        *Thung lũng Issy (Dolina Issy, 1955), tiểu thuyết
        *Châu Âu ruột thịt (Rodzinna Europa, 1958), tự truyện
        *Thành phố không tên (Miasto bez imenia, 1969), thơ
        *Những điều nhìn thấy ở bờ vịnh San Francisco (Widzenia nad zatoka San Francisco, 1969), tập truyện kí.
        *Lịch sử văn học Ba Lan (The history of Polish literature, 1969), sách giáo khoa.
        *Mảnh đất Ulro (The land of Ulro, 1977), tiểu luận.
        *Hoàng đế trên Trái Đất: quan điểm lập dị (Emperor of Earth: modes of eccentric vision), tiểu luận.
        *Tiếng chuông trong mùa đông (Bells in winter, 1978), thơ.
        *Sách của Job (Ksiega Hioba, 1980), bản dịch Kinh Thánh.
        *Bài ca ngọc trai (Hymn of the pearl, 1982), thơ.
        *Nhân chứng thơ ca (Swiadectwo poezji, 1983), thơ
        *Trái Đất ngoài tầm với (Nieobjeta Ziemia, 1986), thơ
        *Sử biên niên (Kroniki, 1987), thơ.
        *Những tỉnh thành (Provinces, 1991), thơ.
        *Bắt đầu từ phố của tôi (Zaczynajac od moich ulic, 1992), tập truyện ký
        *Đối mặt trước dòng sông: Thơ Mới (Facing the river: New Poems, 1995), thơ




        HAI BÀI THƠ

        Hai bài thơ dưới đây mâu thuẫn với nhau. Một, phủ nhận việc đi sâu vào vấn đề mà hàng thế kỉ nay các nhà thần học, các nhà triết học quan tâm, khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới trên một hòn đảo ở vùng Caribê. Bài thứ hai, ngược lại, than phiền rằng con người tự đánh mất kí ức của mình và sống có vẻ như không có gì xảy ra, có vẻ như nỗi kinh hoàng không ẩn giấu dưới bề mặt của thiết chế xã hội.
        Chỉ có tôi biết rằng sự hoà hợp với thế giới ở bài thứ nhất che giấu trong mình không ít đắng cay, còn hơn cả sự mỉa mai như ta tưởng. Còn sự xung đột với thế giới ở bài thứ hai xuất phát từ một điều rằng sự giận dữ là một nhân tố kích thích mạnh mẽ hơn những cuộc tranh luận triết học. Cứ cho là như vậy. Cả hai bài thơ đồng thời thể hiện những mâu thuẫn của tôi, bởi vì chính kiến trong những
        bài thơ này, ở một mức độ ngang nhau, đều thuộc về bản thân tôi.
        Czeslaw Milosz.


        TRÒ CHUYỆN CÙNG JEANNE

        Ta triết lý với nhau, có để làm gì đâu hở Jeanne(1)
        Tốn bao nhiêu lời, tốn bao nhiêu giấy mực
        Anh nói thật cùng em về sự xa cách của mình
        Rằng anh không đến nỗi đắng cay vì cuộc đời này khó nhọc
        Với đau đớn đời thường không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn.

        Cuộc tranh luận của ta kéo dài không dưới ba mươi năm
        Còn bây giờ, trên đảo này, dưới bầu trời nhiệt đới
        Ta chạy trốn cơn giông, phút giây dưới mặt trời sáng chói
        Còn lại đây ngọc bích của màu xanh.

        Ta đắm chìm vào bọt biển, bơi về chốn xa xăm
        Nơi mặt trời móc vào những tàu lá chuối
        Với những lá cọ trên cối xay gió vẫn còn vẫy vẫy
        Và người ta đã buộc tội anh
        Vì không đạt đến đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình
        Rằng không đòi hỏi cho mình như Jaspers(2) đã chỉ
        Rằng đã coi thường những yêu cầu thế kỉ.

        Đung đưa trên ngọn sóng, anh ngắm nhìn những đám mây.

        Jeanne ạ, quả thế, anh không biết quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn
        Một người này có năng khiếu thì người kia cũng làm được những gì có thể
        Anh xứng đáng với những gì đã xảy ra và anh đồng ý.
        Anh không chơi cái trò biết điều theo lối cổ xưa
        Là đặc tính của cuộc đời này, sự tồn tại của ta:
        Trên bãi tắm phụ nữ cởi trần với sắc đồng trên ngực
        Hoa hồng vàng, hoa huệ đỏ, hoa phong lan… và xực
        Bằng đôi mắt, bờ môi, lưỡi và nước ép prune de Cynthere
        Rượu rum và nước đá, nước quả ép và nước xi-rô
        Những hàng cây gốc khẳng khiu trong rừng ẩm ướt
        Và em vẫn nói rằng ta đã gần cái chết
        Rằng ta khổ vì hạnh phúc quá ít chốn trần gian.

        Những luống đất của vườn rau có màu tím đen
        Em có còn ở lại đây nhìn đất, hay là chẳng
        Biển sẽ vẫn như hôm nay, thở từ trong sâu thẳm
        Biển co vào, mất hút trong bao la mà vẫn tự do hơn.

        Guadeloupe
        _________________

        (1)Jeanne Hersch – một người bạn lâu năm của Czeslaw Milosz – giáo sư triết học Đại học Geneva (Thụy Sĩ), học trò của Karl Jaspers.
        (2) Karl Jaspers (1883-1969) – nhà triết học Đức, một đại diện của chủ nghĩa hiện sinh.





        BÀI THƠ CUỐI THẾ KỈ

        Một khi đều tốt đẹp
        Thì biến mất khái niệm lỗi lầm
        Và mặt đất đã sẵn sàng
        Tiêu dùng và vui vẻ
        Khắp mọi nơi, mọi chỗ
        Không mơ tưởng, chẳng lòng tin.

        Tôi, không hiểu tại vì sao
        Đi lục tìm trong sách
        Của những tiên tri, những nhà thần học
        Những thi sĩ, những triết gia
        Đi kiếm câu trả lời
        Nhăn mặt, chau mày, thức trong đêm vắng
        Rồi kêu lên mỗi buổi sáng.

        Những gì hành hạ tôi
        Thật vô cùng xấu hổ
        Thiếu sáng suốt và tế nhị
        Là thuộc tính của chuyện này
        Chút nữa thì tôi xâm hại
        Đến sức khoẻ của loài người.

        Chỉ tiếc rằng, kí ức của tôi
        Không để cho tôi yên lặng
        Và trong đó có những điều sống động
        Với nỗi đau của mình
        Với cái chết của mình
        Và với sự ngạc nhiên tư hữu.

        Lấy đâu ra sự trinh trắng, hồn nhiên
        ở chốn thiên đàng trên mặt đất
        Để trao cho bầu trời trong sạch
        Bằng sự rửa tội của nhà thờ?
        Có phải chính vì thế mà
        Điều này tồn tại đã từ lâu lắm?

        Nói cho bậc hiền tri ngoan đạo
        Câu ngụ ngôn Arập thế này
        Thượng Đế từng nói trong cơn giận:
        “Giá mà con người khi hối hận
        Nói rằng con là kẻ lỗi lầm
        Thì ta đã chẳng hề khen.

        Còn ta khi mở cửa cho con
        Cho kẻ nhân từ xứng đáng
        - Ngài trả lời cao thượng -
        Thì ta đã coi thường”.

        Tôi biết hỏi ai
        Về những việc làm đen tối
        Những nỗi đau cùng lầm lỗi
        Trong kiến trúc cuộc đời này
        Nếu như không ở dưới đây
        Không ở trên cao đó
        Không một sức mạnh nào có thể
        Mở ra nguyên nhân và hậu quả cho tôi?

        Không suy nghĩ, không nhớ về
        Cái chết trên cây thập ác
        Dù hàng ngày đang chết
        Một người duy nhất đáng yêu
        Người mà lúc nào
        Cũng đồng ý và cho phép
        Rằng sự tồn tại trên mặt đất
        Luôn cùng với đau đớn, cực hình.

        Quả là enigmatical
        Những điều không hiểu nổi.
        Tốt nhất là lời khép lại.
        Ngôn ngữ này không phải cho người
        Ta chỉ có một niềm vui
        Là mùa thu hoạch nho và lúa
        Dù không phải cho tất cả
        Sự yên lòng được trời trao.

        Berkeley.



        KHÔNG GIAN THỨ HAI

        Chốn thiên đàng tĩnh lặng biết bao
        ta cần lên chốn đó
        theo những bậc thang không khí.
        Trên những đám mây cao
        không có gì cản trở.

        Hồn lìa khỏi xác
        và hồn rảo bước chân
        hồn ra đi, hãy nhớ rằng
        có trên trời và dưới đất.

        Chẳng lẽ lại là sự thật
        rằng ta không tin vào không gian thứ hai?
        Và đã biến mất đâu rồi
        cả thiên đàng, địa ngục?

        Thiếu những đồng cỏ êm đềm chốn ấy
        thì sự giải thoát ta biết tìm đâu?
        Và sẽ nương náu chốn nào
        những tâm hồn lầm lỗi?

        Ta khóc về sự mất mát
        ta rắc tro lên mặt
        những mái tóc ta xoã rối bời.
        Ta nài nỉ, ta thì thào khoan nhặt
        xin trả về ta không gian thứ hai.

        #4
          cacbac 30.11.2007 11:15:28 (permalink)

           
          Jaroslav Seifert sinh ở ngoại ô Praha (thời đó là đế chế Áo - Hung). Bố là công nhân và chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ. Từ bé J. Seifert đã phải giúp bố bán hàng rong khắp thành phố. Vì vậy, dù chưa học hết sơ học, ông vẫn rất am hiểu lịch sử và văn hóa quê hương, nơi vẫn được coi là một trong những trung tâm kiến trúc, văn hóa và âm nhạc của Châu Âu. Thuở nhỏ, J. Seifert học không giỏi, thậm chí chưa tốt nghiệp phổ thông, nhưng ông say mê nghiên cứu văn học, âm nhạc, ngoại ngữ và làm thơ rất hay. J. Seifert nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tiên, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nghệ thuật cách mạng Xô Viết, Thành phố trong nước mắt (1921). Năm 20 tuổi, J. Seifert đã trở thành biên tập viên của một số tạp chí, dịch văn học Pháp, Nga và làm việc tại nhà xuất bản của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Tuy nhiên, sau đó, ông bị chủ nghĩa hiện đại Pháp thu hút trong chuyến thăm Châu Âu đầu những năm 1920. Khi về nước, ông quy tụ các văn nghệ sĩ tiên phong ở Praha và cho ra đời nhiều tập thơ như Tự chính tình yêu (1923), Tuần trăng mật (1925), Họa mi hót không hay (1926).

          Tuy nhiên, sau các tập thơ này, tư tưởng sáng tác của J. Seifert bộc lộ những bất đồng với định hướng và chế độ kiểm duyệt của Đảng Cộng sản. Năm 1929, ông ra khỏi Đảng Cộng sản và gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội, tiếp tục hoạt động báo chí. Năm 1930, ông trở thành tổng biên tập nguyệt san Sân khấu mới (Nova Scena). Thời kì này J. Seifert chủ yếu viết những đề tài về giá trị nói chung của con người, đề cao vẻ đẹp phụ nữ và đắm chìm trong thế giới hoài niệm. Các tập thơ Trong bộ áo choàng màu sáng (1940), Cầu đá (1944), Chiếc mũ đất sét (1945).., của J. Seifert là tiếng nói phản kháng chiến tranh, chủ nghĩa quốc xã và chính sách kiểm duyệt tư tưởng, văn chương ở Tiệp Khắc sau thời kì dân chủ những năm 1930, thời kì Tiệp Khắc thiết lập chế độ thân phát xít.

          Thế chiến II kết thúc, thơ của J. Seifert lại trở về với những đề tài phi chính trị. Ông viết về tuổi thơ hạnh phúc, vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, tình yêu với cái đẹp và tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu. Trong tập thơ Bài ca về Viktorca (1950), một tuyệt tác trữ tình, J. Seifert đã thử tạo nên một biểu tượng của vẻ đẹp Czech - có sự kết hợp hài hòa giữa cội rễ quý tộc và bình dân - để sinh ra một huyền thoại mới có khả năng tập hợp sức mạnh dân tộc.

          Năm 1969, J. Seifert được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Tiệp Khắc. Song chỉ một năm sau ông đã phải từ chức vì phản đối chế độ kiểm duyệt. Năm 1977, thơ của J. Seifert lần đầu được dịch ra tiếng Anh. Năm 1983, ba tập thơ Đúc chuông, Tượng đài cho bệnh dịch, Chiếc ô Piccadilly của ông được xuất bản bằng tiếng Anh. Năm 1984, J. Seifert được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel, nhưng do sức khỏe kém, ông đã không thể tới nhận giải (con gái đi thay). Jaroslav Seifert được trao giải cho các sáng tác thơ nổi bật vì sự tươi mới, nhạy cảm, giàu tưởng tượng, là bằng chứng về tinh thần độc lập và sự đa dạng của con người. Thơ J. Seifert sáng rõ, thậm chí có thể nói là trong suốt, nhưng thực ra lại phức tạp, đa nghĩa. Ông đã sử dụng ngôn ngữ thơ như vũ khí hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc mình.
          Năm 1986, J. Seifert mất vì một cơn đau tim trong ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô Praha, nơi ông và vợ đã sống gần như trọn đời.
          Nhiều tác phẩm của ông với nội dung trong sáng, kĩ thuật thơ cao siêu tiếp tục được coi là hiện thân của ý thức văn hóa dân tộc, đỉnh cao của thơ ca Cộng hòa Czech, được tìm đọc và nghiên cứu nhiều ở trong nước cũng như ở nước ngoài.

          *Tác phẩm:
          - Thành phố trong nước mắt (Mesto v slzách, 1920), thơ
          - Tự chính tình yêu (Sama laska, 1920), thơ.
          - Họa mi hót không hay (Slavik zpiva spatne), 1923), thơ.
          - Tuần trăng mật (Svatebni cesta, 1925), thơ.
          - Trên những làn sóng T.S.F (Na vlnách T.S.F, 1925), thơ
          - Bồ câu đưa thư (Postovní, 1929), thơ.
          - Quả táo rơi từ vạt áo (Jablko s klína, 1933), thơ
          - Bàn tay thần Vệ nữ (Ruce Venusiny, 1936), thơ
          - Giã biệt mùa xuân (Jarosbohem, 1937), thơ
          - Tám ngày (Osm dní, 1937), thơ
          - Tắt đèn (Zhasnete svetla, 1938), thơ
          - Trong bộ áo choàng màu sáng (Svetlem odéna, 1940), thơ
          - Những người ái mộ Bozeny Nemcové (Vejír Bozeny Nemcové, 1940), thơ
          - Cầu đá (Kamenny most, 1944), thơ
          - Chiếc mũ đất sét (Prilba hlíny, 1945), thơ
          - Người họa sĩ nghèo hướng ra thế giới (Sel malír chude do sveta, 1949), thơ
          - Bài ca về Viktorca (Písen o Viktorce, 1950), thơ
          - Mozart ở Praha (Mozart v Prage, 1951), thơ
          - Mẹ (Maminka, 1954), thơ.
          - Cậu bé và những ngôi sao (Chlapec a hvezdy, 1956), thơ
          - Praha (1958), thơ.
          - Mọi vẻ đẹp trên thế giới (Vsecky krásy sveta, 1963), hồi kí
          - Buổi hòa nhạc trên đảo (Koncert na ostrove, 1965), thơ
          - Sao chổi Halley (Halleyova kometa, 1967), thơ
          - Đúc chuông (ódlesvaní zvona, 1967), thơ [The casting of bells].
          - Tượng đài cho bệnh dịch (Morovy sloup, 1967), thơ
          - Chiếc ô Piccadilly (Destník z Piccadily, 1979), thơ


           
           
          THƯỜNG TRONG PHÚT GIÂY LY BIỆT

          Thường trong phút giây ly biệt
          Ta cầm khăn màu trắng vẫy trên tay
          Có điều gì kết thúc với ngày hôm nay
          Và có điều gì bắt đầu trong ngày mai tốt đẹp.

          Chim bồ câu mang thư ai bay xa
          Giang đôi cánh giữa bầu trời xanh thắm
          Dù mới mẻ hay không, niềm hy vọng
          Dù ở đâu ta vẫn bước về nhà.

          Em đưa tay chùi nước mắt
          Nở nụ cười trong mắt lệ đầy vơi
          Có điều gì kết thúc với ngày hôm nay
          Và có điều gì bắt đầu trong ngày mai tốt đẹp.


          CẬU BÉ VỚI TẤM BẢN ĐỒ

          Cậu bé với tấm bản đồ
          Cả ngày trong phòng tìm kiếm
          Cậu chúi đầu vào mạng nhện
          Những kinh, vĩ tuyến bao la.

          Cậu bé cúi xuống sàn nhà
          Nghe ra rì rào tiếng sóng
          Và cậu nhìn thấy biển trong mơ:

          Bé bằng hạt đậu – nước Tiệp
          Praha – bé bằng hạt kê thôi
          Cứ ngỡ như là khủng khiếp
          Cậu bé ngước nhìn bầu trời.

          Đám mây bay trong giấc mộng
          Như thuyền trôi giữa đại dương
          Qua ánh sáng của cầu vồng
          Cậu nhìn ra tổ quốc yêu mến.

          Đám mây vẫn bay với Chúa Trời
          Cánh buồm giữa bầu trời vẫn lướt
          Cành táo nở hoa trắng toát
          Đưa ta về tổ quốc mà thôi.

          Ở nơi đó đan kết những cuộc đời
          Những con sóng rì rào trong xa thẳm…
          Nhưng nếu như đã không mơ về biển
          Thì mỗi chúng ta đã từng là ai?

          #5
            cacbac 30.11.2007 11:19:19 (permalink)
            [image]http://www.dradio.de/images/26319/portrait/">
             
            Joseph Brodsky (1940-1996) - nhà thơ Mỹ gốc Nga, giải Nobel Văn học năm 1987, sinh ngày 24-5-1940 tại Leningrad (Liên bang Nga). Cuộc đời của nhà thơ này từ nhỏ đã có những chi tiết thú vị. Thời thơ ấu Brodsky sống trong một căn hộ nhỏ của ngôi nhà mà trước cách mạng tháng Mười đã từng sống hai nhà thơ Nga sau đó cũng ra sống ở nước ngoài: Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Học ở trường phổ thông mà ngày trước Afred Nobel đã từng học và năm 1987 được trao giải Nobel Văn học…

            Thuở nhỏ Brodsky mơ ước trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi đã phải nghỉ học vì mưu sinh. Sau đó, tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan, nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo và triết học; 16 tuổi bắt đầu làm thơ; 17 tuổi hoàn thành tập thơ nổi tiếng Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... và được công nhận là một nhà thơ, một dịch giả tài năng . Năm 1963 J. Brodsky bị kết tội "ăn bám xã hội" và gửi đi cải tạo 5 năm ở miền bắc Nga. Nhờ sự phản đối của các nhà văn trong và ngoài nước hai năm sau ông được trở về Leningrad. Năm 1972, ông lại bị trục xuất, phải sang Vienna, London và cuối cùng là Hoa Kỳ. Từ đây, Brodsky sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn học cho trường Cao đẳng Five College ở Mount Holyoke, bang Massachusetts. Năm 1978, Đại học Yale trao cho J. Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm 1979, ông trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Nghệ thuật - Văn chương Mỹ. Năm 1981, ông được Quỹ John D. và Catherine T. MacArthur trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn tiểu luận về nghệ thuật và chính trị Ít hơn một của ông được giải thưởng của Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia (Mỹ). Năm 1987, ông nhận giải Nobel của Viện Hàn lâm Thụy Điển và năm 1991 nhận được giải thưởng của Thư viện Quốc hội Mỹ.

            Brodsky sáng tạo nên một thế giới thơ ca độc đáo được thể hiện bằng những quan niệm của nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà phê bình coi ông “là người tổng kết thơ ca thế kỷ XX”. Joseph Brodsky mất ở Mỹ ngày 28-01-1996.

            Tác phẩm:
            - Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... (Прощай, позабудь и не обессудь, 1957), thơ.
            - Khúc bi ca lớn gửi Donne John (Большая элегия Джону Донну, 1963).
            - Thơ và trường ca (Стихотворения и поэмы, 1965), thơ.
            - Trạm dừng trong sa mạc (Остановка в пустыне, 1970), thơ.
            - Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm 1964-71 (Конец прекрасной эпохи. Стихотворения 1964-71, 1977), thơ.
            - Một phần của lời nói. Thơ những năm 1972-76 (Часть речи. Стихотворения 1972-76, 1980), thơ và bài viết.
            - Những khúc bi ca La Mã (Римские элегии, 1982), thơ.
            - Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta (Новые стансы к Августе, 1983), thơ.
            - Сẩm thạch (Мрамор, 1984), kịch.
            - Ít hơn một (Меньше одиницы, 1986), tiểu luận.
            - Lịch sử thế kỉ hai mươi (History of the twentieth century, 1986), thơ.
            - Urania (Урания, 1988), thơ.
            - Bút kí dương xỉ (Заметки папоротника, 1990).
            - Trên các nẻo Atlantida (На околицах Атлантиды, 1992).
            - Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa (Набережная неисцелимых, 1992), thơ.
            - Hoa văn mờ trên giấy (Watermark, 1992), tiểu luận.
            - Nỗi đau và lí trí (Скорбь и разум, 1995), tiểu luận.

             
            BROSKY TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA BÁO MOSKOVSKIE NOVOSTI (TIN TỨC MOSKVA 7-1995)

            Phóng viên thường trú của báo “Tin tức Moskva” tại New York, Dmitry Radyshevsky trò chuyện với nhà thơ đoạt giải Nobel, Joseph Brodsky.

            Tôi buộc phải gọi điện cho Brodsky và đề nghị cuộc phỏng vấn. Ám ảnh vì một điều rằng những lời đề nghị như thế có hàng trăm; nói một cách thô kệch, đây là thể loại không phù hợp với công việc của nhà thơ; và vì đã quá biết rõ thái độ của anh ấy đối với việc phỏng vấn. “Tôi không nghĩ là điều này sẽ cần thiết cho ai đấy. Những ai thích trò chuyện với tôi, họ có thể đọc thơ tôi”.
            Đã biết rằng Brodsky chuyển từ vùng Greenwich Village ồn ào của New York về vùng Brooklyn Heights yên tĩnh, theo cách nói của anh ấy là “nâng cầu”; hiện sống cuộc sống gia đình với vợ và con gái, người phỏng vấn hiểu rằng hành động của anh ta, gọi là sự can thiệp.
            Tuy nhiên…

            _________

            MN (Moskovskie Novosti): Anh rất hay nói, viết và dạy học bằng tiếng Anh, điều này có ảnh hưởng đến việc phát âm và nói chung là việc làm thơ bằng tiếng Nga?

            – Đó là một câu hỏi tất yếu và có lẽ câu trả lời chính xác, tự nhiên hơn sẽ là “có”, ngoại trừ một điều, tôi không thể giải thích được cho chính mình là nó ảnh hưởng bằng cách nào. Giả sử, khi anh viết tiếng Nga còn xung quanh anh là những người nói tiếng Anh, thì lời nói của mình, anh sẽ để ý hơn. Sự thể hiện này có ý nghĩa hoặc đơn giản là vang lên nghe hay? Cái này không phải là quá trình hát, khi anh mở miệng mà không suy nghĩ về những gì anh phát âm ra, ở đó diễn ra một quá trình phân tích cái bắt đầu từ một tiếng hát tự nhiên. Nhưng sau đó anh viết ra giấy, bắt đầu sửa, hiệu đính, thay từ này bằng từ khác. Và điều này thì đã là một quá trình phân tích.

            MN: Thơ ca Mỹ không tiếp nhận sự ảnh hưởng từ bên ngoài. Anh có cho rằng đó là một sự thiệt thòi.

            – Không, có lẽ tôi không nói như vậy. Thơ ca Mỹ chịu thiệt thòi vì nhiều thứ bệnh khác. Nói chung trong thế kỷ XX – kể cả các nhà thơ – anh phải trở nên hết sức rõ ràng. Vì lúc nào anh cũng phải tự kiểm tra lại bản thân mình. Một phần là vì có một sự nghi ngờ thường xuyên, rằng ở đâu đó, có ai đó rất hay nhạo báng, chế giễu, thậm chí có một nhịp điệu nhạo báng, nó châm chọc những điều hứng khởi của anh. Bởi thế anh phải tinh ranh hơn cái nhịp điệu nhạo báng này. Để đạt được điều này có hai - ba cách. Một – đánh vào nó trước, khi đó anh sẽ giật được tấm thảm dưới chân kẻ nhạo báng. Tất cả đều sử dụng cách này. Frost từng nói rằng sự mỉa mai là phép ẩn dụ đi xuống. Khi anh làm thơ về cô người yêu, tất nhiên, anh có thể nói rằng đôi mắt nàng giống như những ngôi sao, và người ta sẽ coi là tầm thường, không có gì đặc sắc, mặc dù có thể nàng sẽ rất thích. Nhưng anh có thể nói rằng đôi mắt nàng toả sáng như ngọn đèn pha trên chiếc xe “Chevrolet” cũ của anh. Anh lại gây cười và câu này sẽ bay đi khắp thành phố. Có trời mới biết là cái gì nhưng ít ra đó là một cách tự vệ. Nhưng lần sau thì tâm hồn anh buộc phải leo lên trong thơ từ chính cái chỗ mà trước đó anh đã hạ xuống. Bắt đầu từ “Chevrolet” thì phải leo tiếp. Còn bắt đầu từ những ngôi sao thì không thể đi tiếp lên đâu nữa. Nói chung là trong công việc này có một phép kinh tế quỉ quái nào đấy. Và trở lại với vấn đề thơ Mỹ hôm nay, thơ ca Mỹ đang bị căn bệnh đó. Tiện thể, đây cũng là vấn đề của người Pháp. Sau Cobiere tất cả các nhà thơ Pháp đều cố gắng trở nên hóm hỉnh và sắc sảo. Nói chung, tôi không biết trong thơ ca điều gì là quan trọng nhất. Có lẽ là sự nghiêm túc của điều được thông báo. Sự tất yếu của nó. Nếu muốn – đó là bề sâu. Và tôi không nghĩ là điều này có thể học được hay đạt được nhờ vào kỹ thuật. Anh sống đến đó hay không nhờ vào may mắn.

            MN: Thế nếu hỏi một câu vật chất thô kệch: thơ ca mang lại điều gì?

            – Thơ ca không phải là sự giải trí và thậm chí cũng không phải là một hình thái nghệ thuật nhưng có lẽ nó là một loại mục đích. Nếu điều phân biệt ta với thế giới động vật là ngôn ngữ thì thơ ca là hình thức cao nhất của ngôn ngữ, đấy là sự khác biệt di truyền giữa người và thú. Chối bỏ thơ ca, ta hạ mình xuống những hình thức giao tiếp hạ cấp, dù đó là chính trị, thương mại vv. Nói chung, đấy là cách bảo hiểm duy nhất trước sự dung tục của người khác, nếu không là của mình. Hơn nữa, thơ ca là cái máy gia tốc của sự nhận thức, đối với người làm thơ cũng như người đọc thơ. Anh nhận ra mối liên hệ hay sự phụ thuộc mà anh sẽ không nghi ngờ về sự tồn tại của chúng: những thông tin trong lời nói, ngôn ngữ. Đó là một công cụ toàn năng của nhận thức.

            MN: Hầu như không ai chối cãi được rằng thơ ca hay nhất của thế kỷ XX là thơ viết bằng tiếng Nga. Điều này có phải nói rằng thơ ca nở rộ ở những xã hội mà tự do tinh thần con người bị chèn ép?

            – Đấy là sự nhầm lẫn tai hại theo nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, thơ ca thế kỷ XX chỉ riêng bằng tiếng Anh cũng đã có Frost, Yeats, Auden, Eliot – các nhà thơ Anglo-saxon có thể đối chọi với các nhà thơ lớn của Nga mà không đánh mất gương mặt của mình. Thứ hai, vấn đề không phải ở tác động tốt đẹp của sự độc tài đối với chất lượng thơ ca mà là ở chỗ sự độc tài biến toàn dân thành những người đọc thơ. Toàn dân chỉ đọc một loại báo ấy, nghe một loại đài ấy, nghĩa là khắp cả nước hình thành một lời nói như nhau. Trong điều kiện như vậy thì ai mạo hiểm đi chệch khuôn mẫu, xê dịch ra khỏi giới hạn sẽ trở thành thần tượng. Thứ ba, độc tài đặt nhà thơ vào vị trí người rao công việc chung, bởi vì trong chế độ độc tài, bất kỳ cái gì cũng là chung cả, không chỉ lời nói chung mà còn kinh nghiệm chung, đạo đức chung. Thường thường nhà thơ vô tình trở thành nhà phê bình của xã hội hay thể chế. Điều này buộc anh ta trở nên khiêu khích, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ của bộ tộc mình – những người anh em bị áp bức. Và điều này hấp dẫn nhà thơ. Nhưng đó là sự hấp dẫn rẻ tiền. Sẽ là vẻ vang hơn và phức tạp hơn khi anh cuốn hút được sự chú ý của thơ ca dân tộc, nếu như tự thân thể chế không giúp được cho anh bằng hình ảnh ngớ ngẩn của mình.

            MN: Anh có sửa soạn quay về nước Nga?

            – Tôi không nghĩ rằng có thể. Đất nước, nơi tôi sinh ra đã không còn tồn tại. Không ai tắm được hai lần trên một dòng sông. Cũng vậy, đã không còn có con đường để quay về với người vợ cũ. Tôi cũng đã từng muốn trở về nơi đó, thăm lại một vài chỗ và phần mộ của mẹ cha nhưng có điều gì đó cản trở. Điều gì cụ thể tôi không biết được. Một mặt, tôi không muốn trở thành đối tượng của sự náo động; những cảm xúc tán thành đã có phần mệt mỏi. Mặt khác, tôi không thể làm một người du lịch ở nơi mà những người đồng hương của mình trong cảnh nghèo túng. Người phương Tây thì có thể đi du lịch ở đó. Còn tôi thì tốt hơn hết là đi du lịch ở châu Á hay Mỹ – Latinh. Tất nhiên, tôi muốn có mặt ở thành phố quê hương hơn là trò chuyện qua điện thoại. Cô điện thoại viên ở Nga gọi tôi và nói: “Anh chuẩn bị nói chuyện với Saint Petersburg”. Lần đầu tiên quả là một cú sốc. Một cú sốc tuyệt vời.

            MN: Đa số các nhà thơ ở Nga đều tích cực tham gia vào những sự kiện của đất nước mình. Còn anh có cố gắng làm điều này không?

            – Thứ nhất, tôi không nghĩ rằng đây là việc làm đúng của các nhà thơ – tích cực tham gia. Bởi vì nếu anh bảo vệ, như người ta thường nói, sự nghiệp chính nghĩa thì anh tự động cho mình là người tốt. Điều này thường vẫn không đúng thực chất, mặc dù sự tin tưởng mù quáng vẫn còn. Và bây giờ ở nước Nga các nhà thơ cũng đã không thể tích cực tham gia. Chẳng lẽ tham gia với tư cách là các nạn nhân. Thứ hai, nhà thơ thì có thể tham gia được gì – đó là sự thông báo cho mọi người một sơ đồ khác của sự cảm nhận thế giới mà họ không quen. Bởi thế, nói về mình, tôi nghĩ rằng những nỗ lực của tôi đã dẫn đến những thay đổi hiện đang xảy ra ở nước Nga. Thậm chí không phải là nỗ lực mà có thể nói điều này trở thành một thứ gia vị của món xúp mới.

            MN: Thôi ta quay lại nước Mỹ. Điều gì anh thích và điều gì anh không thích ở đất nước này?

            – Điều mà tôi thích là ở đây người ta để mặc tôi một mình với những gì mà tôi có thể làm. Tôi luôn bị quyến rũ bởi cái tinh thần của trách nhiệm cá nhân và nguyên tắc sáng kiến cá nhân. Ở đây lúc nào anh cũng nghe: tôi thử làm, tôi xem có làm được gì không. Nói chung, để sống ở một đất nước xa lạ cần phải rất yêu một thứ gì đó ở đất nước này: tinh thần luật pháp hay là những khả năng làm việc, hay là văn học, hay là lịch sử. Tôi đặc biết thích hai thứ: thơ ca Mỹ và cái hồn của luật thơ. Thế hệ chúng tôi, một nhóm người, khi tôi hai mươi tuổi, những người tôi gần gũi đều là những người rất cá tính. Không nhất thiết là những người ích kỷ, nhưng cá nhân. Lý tưởng của chúng tôi, theo nghĩa này là nước Mỹ: chính vì cái tinh thần của chủ nghĩa cá nhân. Bởi thế, khi một số người đến đây chúng tôi có cảm giác như được trở về nhà: hoá ra là chúng tôi người Mỹ hơn cả dân sở tại. Và bây giờ nói về những thứ không thích. Nước Mỹ ngày nay đang có khuynh hướng từ chủ nghĩa cá nhân chuyển sang chủ nghĩa tập thể, nói một cách chính xác hơn là chuyển sang đoàn nhóm: hội những người da đen, hội những người da trắng, nhiều đảng, nhiều hội đoàn – vì đây là sự tìm kiếm mẫu số chung. Hiện tượng đại chúng này được áp dụng vào văn hoá.

            MN: Bằng cách nào?

            – Phần lớn thời gian của tôi ở các trường Đại học, ở đó bây giờ có nhiều loại phong trào, hội nhóm – mà đặc biệt là trong tầng lớp giảng viên, những người mà Thượng Đế chỉ định phải đứng bên ngoài những thứ này. Các anh không cần nói những thứ cụ thể mà cần để ý sao cho không mất lòng một nhóm nào. Và một buổi sáng thức dậy anh hiểu ra rằng, nói chung là anh sợ nói. Tôi không nói rằng tôi khổ vì điều này – người ta coi tôi như người gàn dở, bởi thế mỗi khi tôi phát biểu họ tỏ ra bao dung. Một hiện tượng khác mà tôi rất lo lắng – đó là sự thay đổi các chương trình Đại học ở Mỹ. Những người cải cách cho rằng các chương trình quá thiên về châu Âu, không tỉ lệ về mặt chủng tộc và địa lý vv. Nguyên tắc công bằng dân chủ, tất nhiên là nguyên tắc quan trọng và hấp dẫn nhất của nhân loại. Nhưng trong một số lĩnh vực nguyên tắc này không phù hợp. Một trong số đó là lĩnh vực nghệ thuật. áp dụng nguyên tắc dân chủ trong nghệ thuật có nghĩa là cào bằng kiệt tác với những cái giả mạo. Điều này cũng không thể áp dụng trong khoa học, nói chung là trong lĩnh vực tri thức và ngay cả trong lĩnh vực giải trí : theo nguyên tắc này anh sẽ không bán được vé vào sân vận động. Nhưng những người chủ trương bình đẳng trong những lĩnh vực này ngày nay, rất tiếc, rất cao giọng, không thể nói át được họ. Tiện đây, tôi ủng hộ lý thuyết cho rằng trên thang bậc tiến hoá của nhân loại cũng không hề có sự công bằng. Điều này hiện ra trong đầu khi tôi nghe lời phát biểu của ông Brezhnev. Ông nói rằng không phải tất cả mọi người đều là người. Bởi vì nếu ông ấy là người thì tôi không phải người. Ta đang ở trong những thang bậc khác nhau của sự tiến hoá. Nói một cách thô kệch, ta là những loại người khác nhau. Người ta thường nói rằng sự tiến hoá đã kết thúc và tất cả đều đứng lặng. Nhưng một loại người này cố tình hủy diệt những loại khác. Bởi thế mà sinh ra luật pháp để điều chỉnh cuộc sống không phải theo nguyên tắc của kẻ mạnh mà theo nguyên tắc cùng tồn tại của những loại người khác nhau. Để cho không còn sự cần thiết một người này nhường chỗ cho người khác. Ý tưởng nhân văn này hoàn toàn trái ngược với ý tưởng của sự tiến hóa.

            MN: Một ngày của anh trôi qua như thế nào?

            – Tôi thức dậy, uống cà-phê và nhìn xem có gì đang nằm trên bàn. Thường thường là trên bàn có những thứ không mong muốn. Hoặc là một bức thư phải trả lời, hoặc là một quyển sách phải hiệu đính, hoặc là một bài phát biểu cần phải đọc. Tôi chỉ muốn được ngồi làm thơ nhưng khi anh càng có tuổi thì cuộc sống của anh càng phức tạp.

            MN: Thế cuộc sống thượng lưu của anh thì sao?

            – Nếu người ta mời đi ăn trưa thì thường là tôi từ chối. Rất ít khi đến rạp chiếu bóng, chỉ thỉnh thoảng đi nghe nhạc Jazz. Trong cuộc sống của tôi những năm gần đây có nhiều thứ thâm nhập mà tôi hầu như không còn thời gian để làm những gì mình muốn. Tôi buộc phải cắt xén bớt thời gian ở nơi nào có thể. Thường thường điều này có vẻ bổ ích hơn là đi ra giới thượng lưu. Ngồi nhà và đọc. Không phải vì tôi là con mọt sách mà chỉ đơn giản là nó thường thú vị hơn những gì bề ngoài.

            MN: Thế nếu như có tâm trạng để làm thơ thì anh có để tất cả những bức thư sang một bên?

            – Không thể nữa rồi. Đầu những năm 80 tôi viết 50-60 bài thơ trong một năm. Bây giờ chỉ viết 10-15 bài. Đôi khi hơn nhưng không hơn nhiều và là những bài thơ ngắn. Tôi bị vây quanh như mạng nhện bởi thời hạn trả bài hiệu đính, bài viết vv… Mà tôi cũng chỉ làm được 1/20 của những thứ người ta yêu cầu. Nhưng tôi không thể từ chối toàn bộ, vì đằng sau những bức thư là những con người: họ là những nhân cách mà việc anh từ chối sẽ mang lại sự khó chịu của sự quan trọng ở những mức độ khác nhau.

            MN: Lần phát biểu ở New York tháng 5–1995 anh nói rằng “cảm thấy một sự cách biệt giữa mình và lứa tuổi 20 ngày hôm nay”. Theo nghĩa nào, “sự cách biệt” về tuổi tác? Nhưng điều này là tất yếu. Hay anh nghi ngờ rằng họ không hiểu thơ anh? Tôi sợ nhận cho mình, nhưng hình như thời chúng tôi 20 tuổi vẫn hiểu thơ của anh.

            – Đấy là sự cách biệt về tâm lý. Nhưng với những người 20 tuổi có lẽ còn ít hơn so với những người 30 hay 40 tuổi. Tôi không hiểu được tâm hồn họ. Có vẻ như là khoảng trống. Và sẽ rất hay, nếu như đó là cái tốt ăn cắp được. Nhưng mà tôi không hiểu điều này. Vì trong một xã hội bất kỳ nào - đặc biệt là xã hội ta – một khi anh ăn cắp thì ăn cắp của mình cái tương tự.

            MN: Nói về tuổi trẻ: có những đề tài nào còn lại cho họ? Một nhà văn táo bạo 20 tuổi, có lẽ không thể không bao trùm vẻ thờ thẫn và sự bất lực trong cái thư viện Quốc hội Mỹ kia. Viết về cái gì, nếu như sự thể hiện cầu kỳ không chỉ lấy tất cả những sự kết hợp có thể nhưng đã cũ, ngay cả sự mô phỏng hay pha tạp?

            – Người làm thơ không viết “về”, không “cái gì”, và thậm chí không “vì cái gì”. Nhà thơ viết theo nhu cầu bên trong, vì sự rung động bên trong, cái đó đồng thời là tâm lý, là triết học, là đạo đức, là tự phủ nhận. Và cứ thế, nhà thơ có vẻ như giải mã sự rung động này. Ngay cả khi chỉ đơn giản là một tiếng líu lo, nhà thơ thực ra không cần bạn đọc. Khác với nhà văn, do bạn đọc xác định. Bởi thế nên nhà thơ thường hỏi: về cái gì? như thế nào? Tôi rất may mắn là không phải người viết văn xuôi.

            MN: Các nhà phê bình thường viết rằng Brodsky tổng kết thơ ca không chỉ thế kỷ XX mà tất cả thơ ca nói chung – từ cổ điển đến hiện đại. Còn lại gì cho những ai đến sau khi đã tổng kết? “Tautologia, aria của con vẹt”(1)?

            – Cần đối xử thận trọng với những lời của các nhà phê bình, ngay cả phê bình có thiện chí. Nói chung, trở thành đối tượng của những tình cảm mãnh liệt – yêu hay ghét – đều không tiện. Và các nhà phê bình đáng lẽ phải hiểu điều này. Còn đối tượng của những tình cảm đó đáp lại ra sao? Tôi không hề tổng kết gì cả: lịch sử văn học không phải là một dãy những con số và một nhà thơ trẻ với tiếng ngân vang bên tai luôn nhận ra mình phải làm gì.

            MN: Anh có theo đạo nào không? Và anh sẽ mô tả nó ra sao?

            – Không biết được. Tôi nghĩ rằng, bây giờ có lẽ tôi gọi mình là tín đồ của đạo Calvin. Theo nghĩa rằng, tự anh là người xét xử mình và xét xử nghiêm khắc hơn cả Đấng Tối Cao. Anh không được phép ban cho mình ân huệ và sự tha thứ. Anh tự mình là kẻ cuối cùng, một phần của ngày phán xét.

            MN: Nhưng khi suy nghĩ về Thượng Đế, anh thường cầu xin điều gì cho mình?

            – Tôi không cầu xin. Tôi chỉ hy vọng là tôi đang làm những việc mà Ngài đồng ý.
            ________________

            (1)Đây là một câu trong bài “Thơ về chiến dịch mùa đông năm 1980” của Brodsky. Tautologia: là sự lặp lại từ cùng hoặc gần nghĩa (idem per idem), kiểu như: xa xa, xanh xanh, chiều chiều lại nhớ chiều chiều vv… aria: là một trích đoạn hoàn chỉnh trong nghệ thuật hát opera hay nghệ thuật hùng biện. Người phỏng vấn dùng câu này hỏi Brodsky với nghĩa là sau đấy có thể chỉ còn là sự lặp lại chăng?

            #6
              cacbac 30.11.2007 11:28:55 (permalink)

               
              Một số bài thơ:

              VĨNH BIỆT, HÃY QUÊN

              Vĩnh biệt
              Hãy quên
              Đừng trách cứ gì nhau.
              Còn những bức thư
              Em hãy đốt
              Như cầu.
              Con đường của em
              Sẽ trở thành can đảm
              Con đường thẳng
              Và sẽ giản đơn.
              Rồi đây trong màn sương
              Sẽ cháy lên cho em
              Một vì sao ngời sáng
              Và một niềm hy vọng
              Của bàn tay sưởi ấm
              Bên bếp lửa nhà em.
              Rồi sẽ có bão tuyết, mưa giông
              Và tiếng gào điên cuồng của lửa
              Sẽ có những thành công rực rỡ
              Phía trước đợi chờ em
              Sẽ tuyệt vời và mạnh mẽ vô cùng
              Một trận đánh
              Sẽ vang lên trong lồng ngực của em.

              Anh hạnh phúc và xin chúc mừng
              Cho người, mà có thể
              Sẽ đi cùng em
              Trên một con đường.


              KHÚC BI CA LỚN GỬI JOHN DONNE(1)

              John Donne ngủ say, xung quanh đều ngủ cả.
              Giường chiếu, sàn nhà, tường, những bức tranh
              ngủ say móc treo, then cửa, thảm, bàn
              tủ quần áo, nhà ăn, ngọn nến, rèm cửa sổ.
              Tất cả ngủ say. Cốc chén và chai lọ
              dao thái bánh mì, bát đĩa sứ, pha lê
              cả ngọn đèn đêm, tủ, kính, đồng hồ
              cả những bậc cầu thang và cánh cửa.
              Đêm ở khắp nơi: trong mắt, trong góc phòng, trong tủ
              giữa giấy trắng, trên bàn và cả trong lời
              trong củi, trong kìm, trong góc đã tắt rồi
              cái bếp lò, và trong từng đồ vật.
              Trong áo kamzon(2), trong giày, trong tất
              sau lưng ghế, trên giường và cả trong gương
              trên thập ác, trong chậu, trên vải trải giường
              trong chổi quét sân. Tất cả đều ngủ hết.
              Tất cả ngủ say. Cửa sổ rơi đầy tuyết
              Mái nhà hàng xóm trắng như vải trải bàn.
              Cả khu phố trong giấc ngủ mơ màng
              Khung cửa sổ bị cắt ra như chết.
              Những vòm cửa, bức tường đều ngủ hết
              Đá rải đường, song chắn, những khóm hoa
              ánh sáng không bừng lên, không kẽo kẹt bánh xe…
              những chiếc bàn con, rào giậu và dây xích.
              Ngủ say cửa, tay cầm, từng chiếc móc
              những ổ khóa ngủ say cả khóa lẫn chìa.
              Không còn vang lên tiếng gõ, tiếng thầm thì
              Tất cả ngủ say, chỉ tuyết kêu ken két.
              Ngủ say những chiếc cân, ngủ say nhà ngục
              ngủ say sưa cả những chiếc ghế dài.
              Cả dây xích chó, cả mái hiên ngoài.
              Mèo ngủ say, những đôi tai dựng ngược.
              Luân Đôn ngủ say, cả người lẫn chuột.
              Nước và tuyết, ngủ say những cánh buồm
              sau những thùng xe tất cả ngủ mơ màng
              cả chốn xa xăm với bầu trời ngái ngủ.
              John Donne ngủ say. Và biển cùng anh ngủ.
              Cát trắng trên bờ cũng ngủ say sưa.
              Cả hòn đảo chìm đắm trong giấc mơ.
              Mỗi khu vườn khóa bằng ba ổ khóa.
              Những con cua, cây tùng, cây phong – ngủ cả.
              Những ngọn đồi, những dòng suối, những lối mòn.
              Cáo, chó sói. Cả gấu cũng lên giường.
              Tuyết rơi đầy trước cửa hang trắng xóa.
              Chim cũng ngủ. Tiếng hót không còn nữa.
              Qụa không kêu, họa mi lặng trong đêm
              không tiếng cười. Đồng nước Anh im lìm.
              Chuột nhận lỗi lầm. Một ngôi sao lấp lóa.
              Tất cả ngủ say. Tất cả nằm trong mộ
              những kẻ chết rồi lặng lẽ ngủ yên
              kẻ đang sống ngủ say sưa trên giường.
              Ai cô đơn, ai trong tình ấp ủ.
              Cả núi rừng, những dòng sông đều ngủ.
              Ngủ say sưa cả thú dữ và chim.
              Chỉ tuyết trắng bay liệng từ trời đêm.
              Nhưng rồi lên những mái đầu sẽ ngủ.
              Cả những thiên thần cũng say sưa ngủ
              cuộc đời quên trong giấc mộng thánh thần
              Ngủ say sưa cả Địa ngục, Thiên đàng.
              Không một ai giờ này ra đi cả.
              Thượng Đế ngủ. Mặt đất giờ xa lạ.
              Mắt không nhìn và tai chẳng nghe ra.
              Quỉ sứ ngủ cùng với lòng hận thù
              trên những cánh đồng nước Anh trắng xóa.
              Thiên thần ngủ với kèn. Những người cưỡi ngựa.
              Cùng ngựa ngủ say trong giấc ngủ tròng trành.
              Tất cả thiên thần xếp thành một đám đông.
              Ôm lấy nhau dưới vòm trời của Chúa.
              John Donne ngủ say. Thơ ca đều ngủ cả.
              Mạnh yếu chẳng tìm ra, tất cả những vần
              những hình ảnh, những buồn chán, lỗi lầm
              cũng như thơ, nằm yên trong từ ngữ.
              Mỗi câu thơ như người anh em gần gũi
              dù thủ thỉ bên tai, chỉ một chút nhường.
              Nhưng ai ai cũng rất xa thiên đàng
              nên nghèo khổ, nỗi buồn đoàn kết lại.
              Thơ iambơ cũng ngủ say như vậy.
              Thơ cô-rê giống như kẻ canh chừng.
              Bên phải, bên trái, ngủ say cả cách nhìn.
              Và sự vinh quang cũng ngủ say sau đấy.
              Những tai họa ngủ say. Ngủ say đau đớn.
              Lầm lỗi ngủ say. Thiện và ác ôm nhau.
              Lầm lỗi ngủ say. Tuyết rơi trắng một màu
              trong không gian vặt vãnh tìm vết bẩn.
              Tất cả ngủ say. Sách ngủ say thành đống.
              Dòng sông lời thành băng giá lãng quên.
              Những dòng sông với sự thật của mình.
              Xiềng xích ngủ. Chỉ khua lên rất khẽ.
              Tất cả ngủ. Thượng Đế, thiên thần, quỉ sứ.
              Cả bạn bè, đầy tớ, những đứa con.
              Chỉ tuyết vang lên trong bóng tối con đường.
              Tiếng vọng trên thế gian không còn nữa.
              Nhưng. Anh có nghe trong bóng đêm băng giá
              có ai đó khóc, ai đó thì thầm.
              Có ai đó phó thác cho mùa đông.
              Và khóc lên. Trong bóng đêm ai đó.
              Giọng rất thanh. Mảnh mai như kim nhỏ.
              Nhưng chỉ không còn… Người ấy cô đơn
              bơi trong tuyết. Khắp nơi lạnh và sương…
              Khâu đêm với bình minh… Trên cao đó.
              “Thiên thần chăng? Có ai đang nức nở
              mong trở về đợi tuyết như mùa hè
              của tình yêu? Trong bóng đêm về nhà.
              Anh kêu trong bóng đêm? Câu trả lời chẳng có.
              “Dàn đồng ca buồn. Có phải thiên thần nơi đó
              nhắc cho ta những giọt lệ ngân vang.
              Có phải các ngươi từ giã giáo đường
              đang mê ngủ. Có phải các ngươi?” – Lặng lẽ.
              “Có phải ngươi, Paven? Giọng của ngươi, đúng thế
              đã chai sần bởi giọng nói khô khan.
              Có phải ngươi, mái đầu bạc trong đêm
              khóc ở đó?” Nhưng âm thầm gặp gỡ.
              “Có phải bàn tay che mắt nhìn ngó
              đôi bàn tay khắp nơi thấy lờ mờ?
              Thượng Đế chăng? Dù ý nghĩ vẩn vơ
              Nhưng tiếng khóc nghe chừng rất cao cả”.
              “Có phải thiên thần Gabriel thổi gió
              trong chiếc kèn, ai đó sủa rất to
              chỉ một mình tôi đôi mắt mở ra.
              Đang thắng yên cương những người kị sĩ.
              Tất cả ngủ say. Trong bóng đêm ấp ủ.
              Từ trời xanh chó chạy cả một đàn.
              Có phải thần Gabriel giữa mùa đông
              với chiếc kèn một mình đang nức nở?”

              “Không phải - tôi, John Donne, tôi là hồn anh đó.
              Tôi một mình buồn thấu tận trời xanh
              rằng hồn anh bằng lao động của mình
              tạo nên những tình cảm nặng nề và ý nghĩ.
              Với những thứ này anh bay lên có thể
              giữa những đam mê, giữa những lỗi lầm.
              Anh từng là chim thấy nhân dân mình
              khi bay trên những mái nhà, mọi ngả.
              Anh nhìn thấy cả bao la biển cả.
              Địa ngục kia anh nhìn thấy rõ ràng
              và sau đó anh nhìn thấy Thiên đàng
              trong khổ đau vì đam mê chối bỏ.
              Anh nhìn thấy cuộc đời như đảo nhỏ.
              Và anh từng gặp gỡ với Đại dương
              khắp bốn phía chỉ tiếng rú, bóng đêm.
              Anh giật-lùi rồi bay quanh Thượng Đế.
              Nhưng hành trang vào trời xanh không thả
              để thấy cuộc đời – trăm cái tháp mà thôi
              và dải băng sông nhìn thấy từ trời
              ngày phán xử không có gì đáng sợ.
              Và khí hậu chỉ đứng yên một chỗ.
              Tất cả như một giấc mộng rã rời.
              Thượng Đế là ánh sáng trong cửa sổ mà thôi
              màn sương đêm trong ngôi nhà xa lạ.
              Những cánh đồng không có ai cày cả.
              Không cày tháng năm. Thế kỉ cũng không.
              Chỉ rừng vây quanh bốn phía như tường.
              Chỉ mưa rơi tí tách trên hoa cỏ.
              Người tiều phu đầu tiên với con ngựa nhỏ
              chạy tới nơi rồi lạc lối trong rừng
              vì sợ hãi đã trèo lên cây thông
              trong thung lũng cháy bừng như ngọn lửa.
              Tất cả xa xôi. Ở đây nhìn không tỏ.
              ánh mắt lặng nhìn những mái nhà xa.
              ở đây sáng không nghe tiếng chó nhà
              và tiếng chuông hoàn toàn không nghe rõ.
              Người tiều phu hiểu rằng xa tất cả
              nên đã quay ngựa lại, phóng về rừng.
              Ngay lúc này cả người, ngựa, bóng đêm
              đã trở thành giấc mơ Kinh Thánh đó.

              Không có đường. Tôi khóc lên nức nở.
              Đành quay về với sỏi đá mà thôi.
              Khi còn sống không thể đến nơi này.
              Chỉ sau khi chết tôi về nơi đó.
              ánh sáng của tôi ơi, tôi quên anh nhé
              trong đất đai quên lãng đến muôn đời
              về khổ đau của mong ước tôi bơi
              để thân xác, chia ly đem khâu vá.
              Tôi ngạc nhiên tiếng khóc nơi ngủ trọ
              đang bay vào bóng tối rồi tan ra
              tuyết khâu lại ly biệt của hai ta
              giật tới-giật lùi, đang bay kim nhỏ.
              Không phải tôi thổn thức, – mà anh khóc đó.
              Một mình anh nằm trong tủ đựng đồ
              một khi tuyết còn bay vào ngôi nhà ngủ mê
              một khi tuyết còn bay vào bóng đêm từ đó”.

              Giống như chim, anh ngủ yên trong tổ
              khao khát cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn
              đến muôn thuở vào ngôi sao anh tin
              ngôi sao này tia sáng không còn nữa.
              Giống như chim, tâm hồn anh sạch sẽ
              con đường vui, đáng lẽ, phải lỗi lầm
              cái tổ quạ, đáng lẽ, tự nhiên hơn
              trên bầy xám những tổ chim làm giả.
              Giống như chim, ban ngày anh tỉnh ngủ.
              Còn bây giờ nằm dưới tuyết trắng tinh
              bằng giấc mộng, bằng tuyết trắng khâu lên
              khoảng không gian giữa hồn và xác ngủ.
              Tất cả ngủ yên. Nhưng còn chờ đợi nữa
              hai-ba dòng thơ và những miệng nhe răng
              nghĩa vụ nhà thơ - tình yêu của người trần
              còn tình yêu tâm hồn dành cho cha xứ.
              Nước không rơi lên bánh xe ai đó
              là bánh mì nơi trần thế đang vơi.
              Bởi có thể với ai chia sẻ cuộc đời
              thì cái chết ai cùng ta chia sẻ?
              Lỗ trên vải. Ai muốn thì cứ xé.
              Khắp mọi nơi. Đi. Rồi lại quay về
              Giật mạnh nữa! Và chỉ vòm trời kia
              trong bóng đêm lấy chiếc kim người thợ.
              Ngủ yên. John Donne. Ngủ yên, đừng đau khổ.
              áo thủng caftan(3) buồn bã treo cao
              Từ mây đen nhìn xuống một ngôi sao
              đã bao năm thơ của anh gìn giữ.
              1963.
              __________

              (1)John Donne (Giôn Đôn)(1572-1631) – nhà thơ Anh theo trường phái siêu hình. John Donne hơn 200 năm bị người đời lãng quên. Chỉ đến đầu thế kỷ 20 nhà thơ W. B. Yeats mới tìm thấy bậc tiền bối của mình. J. Brodsky, như ta biết qua bài thơ này, cũng đã đánh giá rất cao John Donne. Thế kỉ XX John Donne, có lẽ, là nhà thơ cổ điển thời thượng nhất ở nước Anh. Ngoài thơ ông còn để lại một quyển sách 3 tập, nổi tiếng như một người thuyết giáo. “Con người không phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa, một phẩn của tổng thể; nếu biển cuốn đi dù chỉ một hòn đất thì châu Âu sẽ trở nên ít hơn, cũng như nếu biển cuốn đi cả vùng đất mũi hay ngôi nhà của bạn anh, hay ngôi nhà của riêng anh. Cái chết của mỗi con người làm cho tôi trở thành ít lại vì tôi là một phần của nhân loại, và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai: chuông nguyện hồn anh đấy”. Những lời này của John Donne được nhà văn E. Hemingway dùng làm đề từ và tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Chuông nguyện hồn ai”.
              (2)Kamzon - áo cổ, thường là ngắn tay của đàn ông Nga.
              (3)Caftan - áo dài cổ của đàn ông Nga.




               
               
              HAI NĂM SAU

              Vâng, ta chẳng già hơn, chẳng điếc hơn.
              Ta vẫn nói những lời như ngày trước.
              Như tất cả, áo màu đen vẫn khoác
              Những phụ nữ kia vẫn ít cảm tình.

              Ta bây giờ vào vai không thường xuyên
              Trong những bậc dốc nhà hát cô đơn
              Những ngọn đèn trên đầu ta vẫn thắp
              Như tiếng hò reo, hoan hỉ của đêm.

              Ta sống bằng quá khứ, như bây giờ
              Với tương lai, thời của ta chẳng giống
              Ta không ngủ, người ngủ ta quên lãng
              Và ta vẫn làm những việc như xưa.

              Hãy giữ gìn vẻ vui nhộn ngây thơ
              Trong tuần hoàn bóng đêm và ánh sáng
              Những người vĩ đại cho vinh quang, cay đắng
              Những kẻ nhân từ cho thế kỷ hư vô.


              NGỌN NẾN CỦA TÔI

              Ngọn nến của tôi ánh sáng rất mờ đục
              chiếu vào thế giới của em – không có con đường.
              Còn bóng của tôi che lên dấu vết
              Vương quốc Chúa Trời – chốn ấy ở sau lưng.
              Con đường em dù ở đâu: trong mây, trong rừng
              khắp mọi nơi ngọn lửa kia gọi lớn.
              Khi em càng đi xa, thì ánh sáng
              ánh sáng này và bóng sẽ vang lên!
              Dù xa xôi, dù không rõ mắt nhìn
              dù đổi thay, dù cười thơ, nhạo báng
              nhưng cho em sẽ luôn luôn chiếu sáng
              dù đục mờ nhưng là ánh sáng riêng.
              Dù tắt lửa! Dù giấc mộng tử thương
              dù ngọn lửa vẫn ưa miền hoang vắng.
              Nhưng thế giới mới của em lay động
              bóng sáng ngời và gương mặt trong đêm.


              NHỮNG GIỌT NƯỚC MƯA

              Những giọt nước mưa rơi trên kính
              như trên mặt người. Em hãy nhìn xem
              trước và sau, từ bức tường lên bàn
              còn anh ở bên trong thơ thẩn.

              Bấc đèn rung. Và sáp kia chảy xuống.
              Và ánh hồi quang yếu ớt dần vơi.
              Cũng giống thế - đầu óc anh rung động
              một khi mưa còn ầm ĩ khôn nguôi.

              GỬI MỘT TRĂM NĂM ANNA AKHMATOVA

              Trang sách và lửa, lúa và cối xay
              mũi giáo nhọn và mái tóc cắt ngắn
              Chúa giữ gìn tất cả - đặc biệt là lời
              của tha thứ, tình yêu – như là giữ giọng.

              Tiếng xương kêu, mạch đập trong những lời
              tiếng xẻng rung lên đều đều, âm ỉ
              đời chỉ một – chúng từ những bờ môi
              vang lên rõ hơn ở nơi trần thế.

              Tâm hồn vĩ đại, tôi cúi chào từ bên kia đại dương
              tìm ra những gì cho mình, cho những gì tàn úa
              chị ngủ trong lòng đất mẹ, cuộc đời mang ơn
              tài thơ chị trong lặng câm Hoàn vũ.


              CÁI CHẾT NHỎ NHEN

              “… với cái chết nhỏ nhen gặp gỡ”
              Garcia Lorca.

              Cái chết nhỏ nhen của chó
              Cái chết nhỏ nhen của chim.

              Còn cái chết có kích thước bình thường
              Là cái chết của người trần mắt thịt.


              KHÔNG CÓ ĐÈN

              Đêm, khi em nhìn từ khung cửa sổ
              em có biết rằng còn xa lắm mùa xuân
              bằng hình dạng quen mắt nhìn của đá
              không gần hơn sự có mặt của thông.

              Với nụ cười vô hình, không chân thật
              xuyên qua răng em cắn chỉ xâu kim
              để những ngón tay (hay cơ trên mặt)
              trong tồn tại của mình thuyết phục cho tin.

              Và con tim bỗng thắt trong lồng ngực
              sợ lặng yên tĩnh mịch đến kinh hoàng
              của không gian đang tối dần trước mặt
              không ít hơn bóng tối ở sau lưng.


              BUỔI CHIỀU

              Tuyết rơi trên đống cỏ
              Qua khe hở mái trần
              Ta bới trong đống cỏ
              Thấy một chú bướm con.
              Con bướm nhỏ, ơi con bướm nhỏ
              Cuộc sống của mi ta giữ gìn
              Mi hãy bay vào trong đống cỏ
              Để ngủ cho qua mùa đông.

              Bướm bay đi và ngó nhìn
              Như “con dơi” khói tỏa
              Chiếu sáng rất rõ ràng
              Bức tường nhà bằng gỗ.
              Ta đưa bướm trước mặt mình
              Nhìn thấy chùm phấn bụi
              Rõ ràng hơn lửa cháy
              Rõ hơn bàn tay mình.

              Giữa buổi chiều mờ sương
              Bướm cùng ta ở đấy
              Bàn tay ta ấm nồng
              Như những ngày tháng bảy.


              SONNÊ

              Hãy sống qua tất cả
              Hãy sống qua lần nữa
              Chúng như tuyết mà thôi
              Tuyết mùa đông nhảy múa.

              Hãy sống qua nhiều góc
              Hãy chịu đựng góc phòng.
              Hãy buộc vào, tập trung
              Cái thiện và cái ác.

              Nhưng sống qua khoảnh khắc.
              Và thế kỉ của mình.
              Chịu đựng tiếng kêu rên.
              Và những gì lố bịch.

              Hãy chịu đựng thơ ca.
              Hãy sống qua tất cả.


              NGHĨA ĐỊA DO THÁI

              Nghĩa địa Do Thái ở gần Leningrad.
              Bờ rào xiêu vẹo làm từ ván mục.
              Phía sau bờ rào họ yên nghỉ bên nhau
              những nhà buôn, nhà cách mạng,
              những nhạc công, những nhà luật học.

              Họ đã từng ca hát.
              Từng dành dụm cho mình.
              Rồi đã chết vì người khác.
              Nhưng đầu tiên thuế họ đã nộp
              và họ tôn trọng chính quyền
              trong thế giới này vật chất
              họ bàn luận kinh Talmud
              và coi mình là những kẻ duy tâm.

              Có thể, họ đã nhìn thấy nhiều hơn.
              Mà, có thể, họ đã tin mù quáng.
              Nhưng họ đã dạy cho trẻ con chịu đựng
              và biết kiên tâm.
              Lúa mì họ không gieo trồng.
              Chưa bao giờ họ gieo lúa cả.
              Chỉ đơn giản họ tự nằm xuống đó
              như hạt giống trong đất lạnh, giá băng
              ngủ say trong giấc ngủ vĩnh hằng.
              Còn sau đó
              người ta đến thắp nến trên mặt đất
              trong ngày lễ Ba ngôi
              những người già đói khát, bằng lời
              kêu về sự bình yên, ngạt thở vì cơn đói.
              Và sự bình yên những người này tìm thấy
              trong thể vật chất phân hủy rã rời.

              Không có gì để quên.
              Không còn gì nhớ hết.
              Sau bờ rào xiêu vẹo từ ván mục
              bốn cây số cách bến tàu điện cuối cùng.



               
               
              BÀI THƠ VIẾNG ROBERT FROST

              Nghĩa là, anh đã ngủ yên.
              Nghĩa là, phải bay về suối
              ngọn gió ở đây đã thổi
              làm tắt ngọn nến của anh.
              Biết rằng dòng nước đã im
              gió lượn vòng quanh trên đấy
              rồi ngọn gió lại vội vàng
              đến nơi linh hồn đuổi khói.

              Xin anh hãy cho phép tôi
              giữa những bậc thềm yên ngủ
              với ngôi sao trong cửa sổ
              cho tôi được nói đôi lời
              để sao vẫn sáng xung quanh
              đi xa những đường phố vắng
              biến mất khỏi nơi im lặng
              và sẽ trở thành sáng hơn
              trong bụi, nơi có người tóc vàng
              sẽ bắt gặp cái nhìn anh đấy
              dẫn anh đến với những người vĩ đại
              một khi anh còn thơ thẩn một mình.


              BỨC THƯ GỬI A. AKHMATOVA TỪ THÀNH PHỐ SESTRORETSK(1)

              Trong những bụi cây Phần Lan bất tử
              nơi những cây thông gian khổ trị vì
              trong lòng tôi mừng vui khôn xiết kể
              khi vịnh Phần Lan và xóm Komarovo(2)
              được chiếu sáng bằng hoàng hôn tuyệt mĩ
              chiếc lá vàng vô tư lự mùa thu
              cứ mỗi giờ – bằng tình yêu của Chị
              và lòng nhân từ của Chị – thiên thu.
              _____________
              (1)Sestroresk – thành phố ở phía bắc tỉnh Leningrad.
              (2)Komarovo – khu làng nghỉ mát bên bờ vịnh Phần Lan, nơi đây có trại sáng tác của các nhà văn và mộ Anna Akhmatova.


               
              HAI NỬA CHIA ĐÔI

              Chẳng lặng yên, không buồn bã, u hoài
              không lo lắng, chẳng đau trong lồng ngực
              có vẻ như cả cuộc đời trên vai
              và tất cả chỉ nửa giờ phía trước.

              Hãy ngoái lại, và em nhìn thấy rõ
              trên phố tắc-xi nổ máy ầm ầm
              sau bờ giậu nhà thờ từng chiếc lá
              xào xạc trên đầu đứa bé ốm nhom.

              Không biết được xa xôi từ đâu đó
              người gác đồn cất tiếng huýt vang lên
              và tiếng dương cầm vang lên vô nghĩa
              có vẻ như bơi trên mái đầu em.

              Em không hiểu nhưng mà em cảm nhận
              giá được trao cho năm mảnh vòm trời
              thì tốt đẹp, dù bây giờ trống rỗng
              trăng trối đời mình hai nửa chia đôi.


              TẦNG GẦN CUỐI

              Tầng gần cuối
              Cảm nhận sớm hơn bóng tối
              Là phong cảnh xung quanh.
              Anh ôm em vào lòng
              Lấy áo che cho em khi đó
              Bởi vì bên ngoài cửa sổ
              Cơn mưa như tiếng khóc vô hình
              Khóc về em và về anh.

              Đã đến lúc ta đi xa
              Mặt kính kia đem cắt
              Cả sợi chỉ kia ánh bạc
              Và thời gian của hai ta
              Đến muôn đời đã mất.
              Ta sẽ đổi thay chế độ
              Và sẽ sống tiếp cuộc đời
              Đã định sẵn ở xứ người.


              ĐẦU TIÊN GHẾ NGỒI RƠI XUỐNG

              Đầu tiên ghế ngồi rơi xuống
              Sau đó đến giường rơi
              Sau đó – cái bàn của tôi
              Tự mình tôi đẩy xuống
              Chẳng giấu diếm gì ai.
              Sau đó nữa – sách giáo khoa “Lời mẹ”
              Rồi ảnh của cả gia đình tôi.
              Bếp và bốn bức tường sau đó.
              Chỉ còn áo khoác và tôi.
              Vĩnh biệt em yêu. Hãy tháo nhẫn ra
              Viết những dòng về mốt
              Và có thể, đi nhổ vào gương mặt
              Kẻ nào đang chiếm chỗ của tôi.


              SÁU NĂM SAU

              Ta chung sống đã từ lâu, bây giờ lại
              Mồng 2 tháng giêng nhằm đúng thứ ba
              Thật diệu kỳ khi đôi mắt mở ra
              Như thấy từ kính ôtô - cái cần gạt.
              Từ gương mặt đọng lại một nỗi buồn
              Rất rõ ràng bỏ lại chốn xa xăm.

              Ta chung sống đã từ lâu, rằng tuyết trắng
              Nếu đã rơi thì hãy đến muôn đời
              Rằng đôi mắt chẳng lim dim, cũng thế thôi
              Ta che chúng bằng bàn tay và năm tháng.
              Không tin rằng thử chúng bằng cách rơi xuống
              Rồi giãy giụa trong lòng bàn tay như bướm.

              Ta đã từng lạ lùng với những gì mới mẻ
              Rằng ôm ấp chỉ trong mộng mà thôi
              Đã từng hổ thẹn khi phân tích tâm lý
              Rằng đôi môi từng ghé xuống bờ vai.
              Với môi anh cùng thổi cho nến tắt
              Không thấy việc người ta, đi hoà nhập.

              Ta chung sống đã từ lâu, rằng dòng họ
              Của hoa hồng hai đứa đã gầy hơn
              Đem thay bằng khu rừng nhỏ bạch dương
              Và tiền bạc đã nhiều cho hai đứa.
              Ba mươi ngày trên biển nói say mê
              Bằng đám cháy hoàng hôn của Thổ Nhĩ Kỳ.

              Ta chung sống đã từ lâu không có sách
              Không đồ lề vụn vặt trên đi văng
              Rằng một điều gì xuất hiện – trước tiên
              Cần đường thẳng được xếp hình tam giác.
              Đường quen thuộc thẳng đứng được phục hồi
              Rồi gặp nhau trên hai điểm mà thôi.

              Ta chung sống đã từ lâu, cùng em đó
              Ta được làm ra từ chiếc bóng của mình
              Cánh cửa vào chính mình – dù làm việc, ngủ yên
              Nhưng hai cánh không mở ra riêng lẻ.
              Và ta đi xuyên qua chúng, hai người
              Bằng cổng sau, cùng bước tới tương lai.

              #7
                cacbac 30.11.2007 11:43:45 (permalink)

                 
                Octavio Paz (1914-1998) - nhà thơ, nhà văn Mexico, giải Nobel Văn học 1990. Sinh ngày 31-3-1914 tại Mexico City. Là con một nhà báo nổi tiếng, từ nhỏ đã đọc các tác phẩm của văn học thế giới, mười tuổi đã in thơ, 19 tuổi xuất bản tập thơ Trăng hoang khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico. Năm 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít; năm 1939 trở về Mexico viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động. Năm 1943, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kỳ này, O. Paz cho ra đời những tập thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Cội rễ con người, Giữa đá và hoa, Tự do dưới lời thề... Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hiệp quốc, làm đại sứ tại Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ ... Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn. Năm 1972, O. Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico; năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes... Năm 1984 nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ O. Paz kéo dài 5 ngày liên tục.
                O. Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
                Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều chưa từng thấy trong lịch sử giải. O. Paz mất ngày 20-4-1998 tại Mexico City.

                Tác phẩm:
                *Vầng trăng màu ánh bạc (Luna silvestre, 1933), thơ.
                *Cội rễ con người (Raiz del hombre, 1937), thơ.
                *Giữa đá và hoa (Entre la piedra y flor, 1941), thơ.
                *Nơi tận cùng thế giới (A la orilla del mundo, 1942),
                *Tự do dưới lời thề (Libretad bajo palabra, 1948), thơ.
                *Mê cung của nỗi cô đơn (El laberinto de la soledad, 1950), biên khảo
                *Chim đại bàng hay mặt trời (Aguila o sol, 1951), thơ.
                *Cây cung và đàn Lyre (El arco y la lira, 1956), biên khảo về thơ
                *Bóng mát cây du (Las peras del olmo, 1957), phê bình văn học.
                *Đá mặt trời (Piedra del sol, 1957), trường ca.
                *Salamandra (1962), thơ.
                *Dòng điện xoay chiều (Corriente alterna, 1967), tiểu luận.
                *Blanco (1967), thơ.
                *Miền dốc phía Đông (East slope, 1968), thơ.
                *Lâu đài thanh khiết (El castillo de la pureza, 1968), tiểu luận.
                *Bờ phía Đông (Ladera Este, 1969), thơ.
                *Lúa mạch (La centena, 1969), thơ.
                *Những dòng tái bút (Posdata, 1970), khảo cứu.
                *Các hình thể (Topoemas, 1971), thơ
                *Những đứa trẻ bùn lầy (Los hijos del limo, 1974), tiểu luận
                *Nhà ngữ pháp khỉ (El mono gramatico, 1974), thơ


                 
                MAITHUNA(1)

                Đôi mắt anh
                mở ra đôi cánh
                của vẻ đẹp phơi trần.
                Em
                ở trong vòng tù hãm
                bão táp, mưa giông
                của mắt nhìn âu yếm.

                Luồng âm thanh
                mở ra trong buổi sớm
                tuyết mộng của bình minh
                trắng hơn đùi em trắng.
                Tiếng cười của em
                là tiếng lá xạc xào, luống cuống
                ánh trăng thanh
                là chiếc áo của em
                trong đêm trải rộng.
                Nổ tung vào ánh trăng
                nhổm phắt dậy khỏi giường
                chiếc lò xo hay hát
                rồi bay lên
                cắt vào màu đêm trắng toát
                của mặt nước hồ.
                *
                Và đã vỡ tung ra
                tia sáng của anh
                trên mặt hồ
                bóng tối của em.
                Và tiếng thét
                vang lên
                mở ra chiếc bóng
                nhưng –
                bao nhiêu thể xác
                tất cả đều
                hòa nhập vào
                làm một…


                *
                Và đây
                đường thẳng đứng
                khao khát đường ngang
                viền khung gương rung lên
                hồi tưởng
                và bỗng nhiên rơi xuống
                hai bàn tay anh giữa những dòng sông.
                *
                Em đang bơi vào trong
                khói sương mờ mịt
                và nhanh như tia chớp
                bóng sáng của em
                trong vòng tay âu yếm của anh.
                Nhưng – tối sầm thân thể của em
                nhảy lên bờ cát
                những con cá dolphin
                hỏi: “khi nào?”
                “tại vì sao?”, “không lẽ thế?”
                từ nụ cười của em
                sáng trên người em chiếc áo trăng
                và đôi mắt anh ẩm ướt
                và cơ thể em quấn chặt
                bằng ngọn lửa bừng lên chiếc bóng của em
                những cây đu rung rinh
                như trẻ con sợ hãi
                và ngó nhìn
                từ vẻ trần truồng sâu thẳm
                đôi mắt em nhìn vào ánh sáng
                của tình yêu:
                bay trên nỗi niềm đắng cay khổ tận
                những chiếc lá, những cánh hoa hồng
                và thân thể em càng sáng hơn
                thì càng tối hơn chiếc bóng
                em cười nhạo màu vàng
                tro bụi của em…
                *
                Mặt trời Bourgogne(2)
                rượu vang và tội lỗi
                lưỡi từ lửa hồng
                máu của đảo hay là đống củi?
                Mái tóc em phủ xuống người anh
                và trên ngực của em:
                nét chữ này không dễ biết
                nơi tấm vải trải giường – thêu dệt
                bởi một trăm chiếc kim khâu
                nét chữ của tình yêu – nhìn vào
                áo quần em trút hết…
                trò chơi với anh
                suốt đời yêu chỉ một
                và giọng nói của em
                vang trong chiếc bình
                đựng đầy thuốc sắc
                là dấu hiệu của qui luật muôn đời
                vẻ oi bức và nóng
                của con rắn mệt đến rã rời
                đến tận cùng chóp ngọn
                nơi tuyết trắng tinh – nhưng quầng tán
                của cơn mưa
                dưới cơn mưa đã chín những chùm nho
                khi sờ lên mỗi ngón tay run rẩy
                cơn mưa rào sôi nổi
                như tia sáng cầu may
                cho sự báo ân, báo oán sau này
                và xác thịt, và khung cửi
                nơi trong đêm này căng ra tấm vải
                những chiếc lá tả tơi
                bởi sức ép thẳng của ai
                nơi mờ ảo giữa mặt trời
                và đêm vắng
                nơi hàng cây đứng lặng
                còn cái chết –
                như tiếng xào xạc khôn nguôi…



                 
                *
                Ngày hôm qua
                trên giường của em
                có ba người
                là anh và em, và - trăng sáng.
                *
                Đột ngột xông vào
                bờ môi đêm của em:
                một miền của nước
                và tiếng kêu ì oạp
                của ngọn sóng triều dâng
                nước xao xuyến, lâng lâng…
                *
                Ngủ quên trong em chăng
                mà tốt hơn – thức giấc
                mở mắt vào phần giữa của em
                đen trắng, trắng đen
                rõ là quỉ tha ma bắt –
                mặt trời không ngủ
                và trí nhớ đung đưa như ngọn lửa
                ngọn lửa của anh
                trong trí nhớ của em.

                *
                Và mây đen
                như xe chở nước
                và tin tức –
                trên bề mặt con dao
                trên ngọn dao
                nhỏ giọt
                và tuyết
                và bếp lò
                của cuộc truy hoan
                và ngọn lửa
                đốt lên lần gặp gỡ
                của ngôn ngữ đa thần
                với bông hồng rung rinh
                và lời bập bẹ
                thì thầm
                của những cánh hoa…
                __________

                (1)Cặp uyên ương trong văn hoá thờ cúng của người theo ấn độ giáo. Theo họ - đây là một trong những con đường để đạt đến Thượng Đế; sự hòa nhập thể xác dẫn con người về Nguồn Sáng…
                (2)Một tỉnh của nước Pháp nằm ở lưu vực sông Seine, nơi sản xuất những loại rượu vang hảo hạng nổi tiếng thế giới.



                THÂN THỂ PHÔ BÀY

                Và bóng tối mở ra, một thân thể phô bày
                Suối tóc của em
                Rừng rậm mùa thu với dòng nước mặt trời lấp lóa
                Miệng em, và hàm răng trắng xóa
                Bị giam cầm trong lửa thú nhe răng
                Làn da em có màu của một cục đường nung
                Những nơi chốn thời gian không biết đến
                Môi anh chỉ quen với miền thung lũng
                Hẻm đầy trăng giữa hai bầu vú nhô lên
                Bụng của em là một vùng cao nguyên
                Gáy là thác nước đã hóa thành thác đá
                Một bãi biển bao la trải xuống bên sườn.

                Đôi mắt của em như mắt hổ gườm gườm
                Sau phút chốc – lại là mắt ướt buồn của chó.

                Lưng em dưới mắt anh nhìn trải đều lặng lẽ
                Tựa như lưng sông trong lửa cháy bập bùng.

                Cả ngày đêm dòng nước ngủ mơ màng
                Vỗ vào eo lưng có màu đất sét
                Còn trên bãi biển của em dài không hết
                Như cát ở dưới ánh trăng
                Gió thổi vào miệng anh và lời gió thở than
                Choàng đôi cánh của mình màu xám
                Lên những thân thể trong đêm vắng
                Như chiếc bóng của đại bàng
                Cô đơn trên những cánh đồng hoang.

                Móng chân của em như ánh thuỷ tinh mùa hạ.

                Giữa hai chân em một giếng nước ngủ im lìm
                Đó là vịnh, nơi biển đêm lặng ngừng
                Là con ngựa đen sùi bọt mép
                Là hang động dưới chân núi giấu đầy báu vật
                Là miệng bếp lò nướng bánh tế thần tiên
                Là đôi môi mỉm cười ác độc của em
                Là sự lên ngôi của ánh sáng và bóng tối
                Của cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy
                (ở đó da thịt hồi sinh và cuộc sống kéo dài).

                Xứ sở của máu, miền đất có một không hai
                Từng biết đến anh và anh đã từng biết đến
                Là xứ sở duy nhất mà anh tin tưởng
                Là lối vào duy nhất dẫn tới vô cùng.



                HÃY NGHE ANH NHƯ LÀ NGHE MƯA

                Hãy nghe anh như là nghe mưa
                và hãy nghe anh – một chút hững hờ –
                nước, như không khí, rơi tí tách, xào xạc
                và như không khí, thời gian
                ngày không tàn
                đêm không đến
                cái mặt nạ hoàng hôn
                treo sau cổng
                cái mặt nạ thời gian
                trong nếp gấp của dòng thơ kìm hãm
                hãy nghe anh như là nghe mưa
                em hãy lắng nghe mà chẳng nghe ra
                vào chính bản thân mình, em hãy ngắm
                rồi thiếp ngủ khi canh chừng tình cảm
                tí tách mỗi giọt lời
                lời nhẹ tênh, còn nước đang sôi:
                ta là những người đã từng, là những người đang sống
                giây phút này và năm tháng
                thời gian nhẹ hơn, nỗi buồn không biết lấy gì đo
                hãy nghe anh như là nghe mưa
                tất cả ánh lên như nhựa đường ẩm ướt
                bốc lên, rồi bơi trong hơi nước
                màn đêm buông xuống bằng hình dáng của em
                bằng đôi mắt của em nhìn vào anh
                còn đêm giống như khuôn mặt
                của tia chớp, bập bềnh trên mái tóc
                chạy qua đường, em đến với anh
                từng giọt nước rơi từ thế kỷ của mình…
                hãy nghe anh như là nghe mưa
                em đi qua đường phố sương mờ
                đó là màn sương bơi trên đường phố
                đó là đêm trên chiếc giường em đó
                là con sóng vỗ bờ trong hơi thở của em
                những ngón tay em ép vào mắt, vào vầng trán của anh
                những ngón tay em mí mắt của thời gian đang mở
                những ngày cuối tuần, những lần gặp gỡ
                hãy nghe anh như là nghe mưa
                năm tháng đi qua rồi lại về trong từng khoảnh khắc thôi mà
                em có nghe ra tiếng bước chân của mình đâu đó?
                ta nghe tiếng bước chân cả nơi này, nơi nọ
                cả bây giờ, cả trong ngày tháng xa xăm
                em hãy nghe bước chân của thời gian
                trên những con đường không còn dấu vết
                em hãy nghe trên thềm mưa rơi tí tách
                đêm đang chuyển màu hồng
                tia sáng bện vào chiếc lá như tổ ong
                khu vườn rùng mình thức dậy
                - Em hãy bước vào, bóng của em nằm trên trang giấy(1).
                ________________

                (1) Octavio Paz quả là khó cảm nhận. Có thể, chìa khóa để hiểu thơ ông là chính những lời ông: “Hiểu thơ - trước hết là phải nghe thơ. Đọc thơ - nghĩa là nghe bằng mắt; nghe thơ - nghĩa là đọc bằng tai. Thơ phải khiêu khích người đọc, buộc người đọc phải lắng nghe – và nghe ra”.


                HAI THÂN THỂ

                Hai thân thể kề bên
                Tựa hồ như hai ngọn sóng
                Giữa biển, trời đêm.

                Hai thân thể kề bên
                Như hai gốc rễ
                Mọc giữa trời đêm.

                Nhưng mà hai thân thể kề bên
                Là hai hòn đá lạnh
                Và hoang vắng – suốt đêm.

                Nhưng lúc này hai thân thể kề bên
                Là hai con dao sắc lạnh
                Và phản chiếu – suốt đêm.

                Và lúc này hai thân thể kề bên
                Là hai ngôi sao rụng xuống
                Giữa hoang vắng – trời đêm.



                BÊN BIỂN

                Hình thù của sóng ra sao?
                Sóng nhào nặn mình, lấp lóa
                Sóng rì rào, mệt lử
                Lên con sóng khác xô vào
                Sự chuyển động – là hình thù của sóng.

                Biển không thể nào khao khát
                Biển trăn trở đến bình minh
                Trên chiếc giường bằng đá của mình
                Khát khao gió, rồi biển chết.


                ĐÔI BÀN TAY ANH

                Đôi bàn tay anh
                Vén tung bức màn trên cơ thể của em
                Mặc vào cho em một vẻ trần trụi mới
                Mở ra những thân thể trong thân thể của em.

                Đôi bàn tay anh
                Bày đặt cho em một thân thể mới.


                #8
                  cacbac 30.11.2007 11:49:13 (permalink)

                   
                  Derek Walcott (sinh năm 1930) - nhà thơ, nhà soạn kịch Saint-Lucia đoạt giải Nobel Văn học 1992 Được thừa hưởng sự kết hợp nền văn hóa Caribe cùng với di sản thuộc địa Anh, Derek Walcott trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thi ca đương đại.

                  Derek Walcott sinh ngày 23-01-1930 ở Castries, đảo Saint Lucia. Học trường cao đẳng St. Mary's College ở quê hương Saint Lucia. Tốt nghiệp Đại học West Indies ở Jamaica năm 1953, D. Walcott làm giáo viên trường phổ thông rồi phóng viên của các tờ báo “Public Opinion” và “Trinidad Guardian”. Năm 18 tuổi in 25 bài thơ bán trên đường phố Castries nhưng thực sự nổi tiếng với tập thơ Đêm xanh (1962). Với tập thơ này D. Walcott được đánh giá là nhà thơ của xứ thuộc địa đã sáng tạo ra tác phẩm ngang hàng với các nhà thơ nổi tiếng nhất ở chính quốc. Thơ của D. Walcott chủ yếu được viết bằng tiếng Anh, đôi khi mang sắc thái ngôn ngữ địa phương. Ngoài những tác phẩm thơ, ông còn nổi tiếng trong lĩnh vực sáng tác kịch, trong đó phải kể đến vở Lễ tưởng niệm và vở kịch câm (1980). Một số vở kịch của ông được viết bằng thơ. Năm 1959 ông thành lập nhà hát Trinidad và viết nhiều vở kịch cho nhà hát này.

                  D. Walcott đi du lịch rất nhiều nước nhưng các tác phẩm của ông mang nặng các yếu tố của xã hội Jamaica với sự du nhập văn hóa từ Châu Phi, Châu Á, Châu Âu. Trong nhiều năm ông sống ở Trinidad, dạy văn học và cách viết văn sáng tạo ở đại học Boston. D. Walcott từ chối danh hiệu công dân Anh quốc và nhập quốc tịch Saint - Lucia - một quốc đảo có đường kính 25 dặm với gần 25.000 người dân. Cho đến nay ông đã xuất bản hơn 40 tập thơ và kịch. Kinh nghiệm sống tại một đất nước thuộc địa của Anh đã có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời và sáng tác của ông. Nhà thơ Mỹ gốc Nga Brodsky (giải Nobel 1987) là người bạn gần gũi thân thiết của D. Walcott đã viết về quê hương xứ sở của ông như sau: "Colombo đã tìm ra nó, người Anh đã chiếm nó làm thuộc địa và Derek Walcott làm cho nó trở thành bất tử."

                  Năm 1981, D. Walcott được nhận giải "Giành cho các thiên tài" 250.000 USD của quỹ John và Katrin Makartuz. Năm 1992 ông nhận giải Nobel vì đã sáng tạo nên những mẫu mực thơ ca tuyệt vời của xứ Caribe.

                  Tác phẩm:
                  - 25 bài thơ (25 poems, 1948), thơ.
                  - Văn mộ chí cho chàng trai trẻ (Epitaph for the young, 1949), thơ.
                  - Đêm xanh. Thơ 1948-1960 (In a green night. Poems 1948- 1960), thơ.
                  - Người đắm tàu và những bài thơ khác (The castaway and other poems, 1965) thơ.
                  - Vịnh và những bài thơ khác (Gulf and other poems, 1969), thơ.
                  - Cuộc đời khác (Another life, 1973), thơ.
                  - Nho biển (Sea grapes, 1978), thơ.
                  - Vương quốc Star-Apple (The Star-Apple kingdom, 1979), thơ.
                  - Lễ tưởng niệm và kịch câm (Remember and pantomime, 1980), kịch.
                  - Người lữ hành may mắn (The fortunate traveller, 1981), thơ.
                  - Giữa mùa hè (Midsummer, 1984), thơ.
                  - Giấc mơ trên đồi khỉ và những vở kịch khác (Dream on monkey mountain and other plays, 1970), kịch.
                  - Thịt bò, không thịt gà (Beef, no chicken, 1985), kịch.
                  - Chúc thư Arkansas (The Arkansas testament, 1987), thơ.
                  - Omeros (Omeros, 1990), thơ.
                  - Odyssey (The Odyssey, 1993), kịch.
                  - Đứa con phóng đãng (The prodigal, 2004), thơ.


                   
                  JOSEPH BRODSKY NÓI VỀ DEREK WALCOTT

                  Năm 1992, khi Derek Walcott đoạt giải Nobel Văn học, báo chí phương Tây hầu như đều trích dẫn lời của Brodsky: “Đó là nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh hiện tại”. Đây không chỉ là chuyện một nhà thơ Nobel khen một nhà thơ Nobel khác, không chỉ vì họ là những người bạn thân của nhau… mà những lời này mang tính dự báo và trở thành hiện thực. Joseph Brodsky viết những lời này trước đó 10 năm, sau đó in trong cuốn “Ít hơn một”(Less than one, 1986).

                  Derek Walcott sinh ở Saint Lucia (thuộc địa Anh), một hòn đảo nhỏ trong quần đảo Antilles ở vùng biển Caribê. Năm 1979, khi Saint Lucia tuyên bố độc lập Walcott đổi từ quốc tịch Anh - đất nước mặt trời không bao giờ lặn - thành công dân Saint Lucia. Quốc đảo bé nhỏ này, xét về mặt giải thưởng Nobel là nhất thế giới, dù tính theo đầu người hay diện tích cũng vậy. Derek Walcott là người thứ hai. Arthur Lewis (1915-1991) người đầu tiên của Saint Lucia đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1979.

                  Một hòn đảo có diện tích 616 km2 với hơn 150 ngàn dân (năm 2000), thu nhập quốc dân chủ yếu dựa vào nguồn xuất khẩu chuối mà có một người đoạt giải Nobel Kinh tế, mới nghe qua, ta thấy không thuyết phục. (Tất nhiên là mới nghe qua vì nếu xét về những đóng góp hay xem qua một số tác phẩm của ông như: Những nguyên tắc của kinh tế kế hoạch – Principles of economic planning, 1949; Lý thuyết tăng trưởng kinh tế – Theory of economic growth, 1955; Quy hoạch sự phát triển – Development planning, 1966; Phương thức phát triển – The Development process, 1970; Những nhân tố động lực của tăng trưởng kinh tế – Dynamic factors in economic growth, 1974 vv… thì sẽ thấy rằng Viện Hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển có lý).

                  Dù giải Nobel Kinh tế có thuyết phục hay không nhưng thơ ca của giải Nobel Văn học thì không một ai nghi ngờ. Đọc những lời trò chuyện của Brodsky ta sẽ càng hiểu thêm về điều này.


                  - Anh có một thói quen thật là hay - lẽ ra đi kết bạn với những "người đoạt giải Nobel" thì anh kết bạn với những kẻ mà sau đó trở thành "người đoạt giải Nobel".

                  - Quả là tôi vui khủng khiếp. Vui vì đó chính là Derek.

                  - Các anh làm quen với nhau ra sao?

                  - Năm 76 hay 77 gì đấy. Có nhà thơ Mỹ - Robert Lowell là chỗ thân quen với tôi. Một ngày đẹp trời, hai chúng tôi ngồi tranh luận về chuyện - ai đáng gì trong thơ ca viết bằng tiếng Anh. Robert Lowell đưa cho tôi xem tập thơ của Derek Walcott, đó là bài thơ dài "Star - Apple Kingdom", nghe như là "Vương quốc Quả Táo – Ngôi Sao", một cách dịch ngớ ngẩn. Tôi có ấn tượng mạnh với tác phẩm này. Mặt khác thì tôi vẫn nghĩ: bài thơ hay thật đấy nhưng ai mà chả có thơ hay.
                  Sau đó một thời gian R. Lowell chết, trong đám tang anh ấy tôi gặp D. Walcott lần đầu. Và, hoá ra là chúng tôi cùng chung một nhà xuất bản - Farrar, Straus & Giroux. Nếu bây giờ thêm D. Walcott nữa thì nhà xuất bản này in sách của 20 nhà văn đoạt giải Nobel. Thế rồi tôi lấy được tác phẩm của Walcott ở nhà xuất bản và hiểu ra rằng bài thơ dài nọ, như người ta vẫn hay nói, không phải là một thành công riêng biệt, không phải là ngoại lệ. Tôi đặc biệt thích tác phẩm "Another Life", (Cuộc đời khác).
                  Anh biết không, một nền văn học nào cũng vậy, đặc biệt là trong một giai đoạn nhất định, có những tác phẩm nền. Ở ta (Nga- ND) đó là "Trừng phạt" của Blok, sau đó là "Trung uý Smith" của Pasternak, hoặc còn những tác phẩm khác. Đó là tác phẩm tạo nên cho thơ ca một thời tiết mới. Cũng vậy "Cuộc đời khác" - một địa phận mới như vậy. Không hẳn về địa phận được mô tả trong tác phẩm mà cái khác - là tâm lý, là địa lý. Và phương pháp mô tả cũng rất đặc thù. Sau đó, năm 78 hay 79 gì đó cả Walcott và tôi đều là thành viên ban giám khảo của tạp chí "Văn học thế giới hôm nay", một tạp chí xuất bản ở Oklahoma (Mỹ – ND) và cứ hai năm một lần tổ chức trao giải thưởng, Eugnio Montale, Elizabeth Bishop và một số người khác được giải thưởng này. Ban giám khảo gồm 13 người và mỗi người đưa ra ứng cử viên của mình. Tôi đề cử Milosz còn Walcott đề cử Naipaul, gần như là đồng hương. Tiện thể, nghe nói ở Stockholm họ cũng sát điểm nhau. Walcott tranh thủ được thêm và họ cũng là những người bạn lớn.

                  - Giờ thì vùng Caribe còn lâu mới được giải Nobel, Naipaul dù còn trẻ hơn Walcott hai tuổi nhưng cũng đã tròn sáu chục.

                  - Nhưng đấy là trong ngoặc. Còn ở Oklahoma về đích - ở đó theo nguyên tắc Olympic - là Milosz và Naipaul, cuối cùng Milosz được. Tôi hiểu là Walcott nhường ứng cử viên của mình cho ứng cử viên của tôi và hỏi anh ta tại vì sao? Walcott trả lời rằng "tôi nhường không theo nguyên nhân có thể hình dung. Vấn đề không ở chỗ là Đông Âu, là chủ nghĩa Quốc xã, là tai họa vv... Những gì hiện tại đang xảy ra ở quần đảo chúng tôi không kém gì tai họa của người Ba Lan hay người Do Thái, đặc biệt là về phương diện đạo đức. Mà những tiêu chuẩn hoàn toàn khác: tôi thích rằng sau khi đọc - dù là thơ hay văn xuôi - tôi nghe thấy một sự ngân vang. Ngân vang của hình cầu, nếu tiện. Thế mà ở Naipaul tôi không cảm thấy điều này, còn ở Milosz thì có". Từ đó, từ cái dạo Oklahoma ấy hai chúng tôi trở nên những người bạn vô cùng thân thiết.

                  - Anh có dùng chính cái từ này? "Druk", dù sao cũng thân thiết hơn "Friend" chứ. (Druk: bạn - tiếng Nga; Friend: bạn - tiếng Anh. ND)

                  - Anh biết không, đó là một con người rất nồng nhiệt. Nghĩa là từ anh ấy có một luồng xạ khí. Hoàn toàn không phải như chuyện trong nhà thờ ở Kiev mà thực tế là có một con sóng ấm áp, vâng. Khi gần anh ấy tôi luôn cảm thấy điều này. Anh ta như người vừa sưởi ngoài nắng - ta nên nhớ là anh ấy người ở đâu.

                  - Tôi cũng có một lần cùng hội với Walcott và tôi nhớ rất rõ một điều xung quanh anh ấy luôn có tiếng cười.

                  - Quả là như vậy. Anh ấy có đầu óc hài hước rất kỳ lạ. Mà sống động khủng khiếp, lúc nào cũng có một cái gì đó mới trong đầu. Nói chung là chuyện anh ấy nằm, ốm, buồn chán, uể oải thì tôi không hề nhớ. Hai mươi năm nay đó là người bạn thân nhất của tôi trong số các nhà văn tiếng Anh. Chúng tôi cùng có mặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cùng ở trong nửa bán cầu này.

                  - Trong tất cả những bài viết về việc trao giải Nobel đều trích những lời của anh: " nhà thơ hay nhất viết bằng tiếng Anh"...

                  - Quả là tôi đã nói như vậy. Mà người ta buộc phải trích dẫn tôi là vì tôi viết về anh ấy rất nhiều. Chẳng phải vì điều này mà tôi tự hào... Mặc dù không, tôi tự hào mình là ai? Tôi tự hào, mà thậm chí, có thể khoe khoang điều này.

                  - Trong quyển "Ít hơn một" có bài về Walcott "The Sound of the Tide" (Tiếng sóng vỗ bờ), anh viết rằng Walcott - ngoài mọi trường phái. Đâu là ý nghĩa "nền" như anh thể hiện? Anh nói về những "địa phận mới" nào vậy?

                  - Trong bài này tôi nói phỏng theo Mandelshtam: "Đã một phần tư thế kỷ, kể từ ngày <... > tôi bơi vào thơ Nga". Walcott cũng bơi vào thơ Anh và bây giờ đã bơi đến. Anh ấy hay ở chỗ nào? Đó là phong cách cổ điển, không trái ngược với chủ nghĩa hiện đại mà hoà nhập với nó. Walcott làm thơ có vần điệu rất phong phú. Tôi nghĩ rằng, không ai gieo vần thơ bằng tiếng Anh hay hơn Walcott. Tiếp tục: thơ rất màu sắc, bởi vì màu sắc, thực tế là thông tin tâm hồn. Nếu nói về động vật thì đó là mimicry (bắt chước, mô phỏng) - điều này còn hơn là sự thích ứng, vâng? Sau tất cả những điều này là cả một câu chuyện dài - là một sự tiến hoá - còn nhiều hơn là lịch sử. Derek là nhà thơ thời Adam, có nghĩa là anh ấy đến từ thế giới nọ, nơi tất cả chưa được nghĩ ra, nơi tất cả chưa được đặt tên. Thế giới này có người ở chưa lâu lắm. Người phương Tây da trắng chưa khai hoá hết. Nơi này đa số dùng những khái niệm hãy còn chưa được nhận biết đầy đủ bằng kinh nghiệm và nhận thức.

                  - Có điều gì đó tương tự ta nhận ra trong hiện tượng tiểu thuyết Mỹ Latinh, nơi gần gũi với huyền thoại hơn là châu Âu hay bắc Mỹ đã được tinh luyện.

                  - Derek xét về chủng tộc là người da đen. Quả thực là trong máu anh ấy có trộn lẫn nhiều. Nhưng khi anh sinh ra là công dân của Liên hiệp Anh và là người da màu thì sẽ rơi vào tình trạng rất lạ lùng. Nếu môi trường hoạt động của anh là văn hoá thì sự lựa chọn sẽ rất hạn chế. Hoặc là đắm chìm trong hoài niệm về nguồn gốc không còn tồn tại vì chẳng còn chút truyền thống gì ngoài những lời truyền miệng. Hoặc là đi tìm nơi trú ẩn trong văn hoá của những người chủ. Trường hợp thứ nhất - dễ hơn, vì rằng ở đó chẳng có gì ngoài tình cảm.

                  - Và sau đó thì trở thành người số một. Tôi hồi trẻ đã tiếc rằng sao mình không là người của một dân tộc thiểu số phương bắc nào đấy: mới 30 tuổi đã có một tuyển tập tác phẩm.

                  - Trong mọi trường hợp, sự ủng hộ anh sẽ tìm ra cho mình và không cần suy nghĩ nhiều mà quan trọng là cần cảm nhận.

                  - Trong trường hợp thứ hai mà anh nói trên sự cạnh tranh, tất nhiên, hoàn toàn khác.

                  - Không đơn giản như vậy. Anh đang đi vào lịch sử văn hoá mà cần phải nắm vững và phải đấu tranh với nó. Thế giới này rộng lớn, có nhiều thứ đã được hình thành. Điều này có thể sẽ giẫm đạp lên. Đấy là chưa nói chuyện những đồng bào của anh vẫn thường xuyên trách móc rằng anh đã bán mình cho những người Bôn-sê-vích.

                  - Trong trường hợp này – cho những người Da trắng.

                  - Vâng, cho những người Da trắng. Cho nền văn hoá lớn. Nhưng tài năng mạnh mẽ như Walcott, cũng như Naipaul, họ không đến từ đâu cả và họ nắm vững không chỉ văn hóa Anh. Họ mong muốn tìm ra cho mình một chỗ đứng và một trật tự thế giới thay vì có được một chốn nương náu ở văn hóa Anh, xuyên qua nó và đi ra từ phía khác, trở thành những người xa lạ hơn trước khi vào.

                  - Họ không đo cao trình trong truyền thống mạnh mẽ mà chỉ tôi luyện và tăng cường sự đặc trưng của mình. Nghĩa là, trước đó sự đặc trưng này là thiên bẩm từ nguồn gốc xuất thân – sự ảnh hưởng của vùng Caribê, châu Phi, Ấn Độ – còn sau đó thì trở thành nhân cách thực sự. Nhưng nếu như Walcott và Naipaul viết bằng tiếng Anh thì trước hết có lợi cho người Da trắng chứ.

                  - Những người này đã khác. Và thế giới này đã khác. Nhờ có những người như Walcott, như Naipaul. Mà Derek nhận được nền giáo dục cổ điển Anh. Nền giáo dục cổ điển thuộc địa Anh.

                  - Tiện thể, cái đảo Saint Lucia này là một nơi rất kỳ lạ. Thu nhập tính theo đầu người chỉ bằng 1/10 của dân Mỹ mà người biết chữ là 90%, đấy là một tỉ lệ cao của thế giới.

                  - Derek học ở Đại học Đông Ấn, sau đó học tiếp ở Anh, nhiều con đường khác nhau. Nhưng lĩnh vực của anh ấy là thơ ca.

                  - Một công việc rất riêng tư. Nhưng mà Walcott còn là một nhà soạn kịch.

                  - Anh ấy viết kịch thơ bởi vì: a) say mê sân khấu và b) là để tạo việc làm cho nhiều người đồng hương tài năng của mình. Trong kịch anh ấy nhiều âm nhạc, rất sôi nổi còn say mê thì như kịch của Shakespeare.

                  - Tôi cứ ngỡ rằng Derek Walcott là người đại diện toàn quyền của nhóm Thất tinh thời nay. Trước hết là người phù hợp nhất với những dòng của anh viết: “Nếu phải sinh ra trong đế chế thì tốt nhất là được sống ở bên bờ biển nơi tỉnh lẻ xa xôi”. Này là Walcott, Naipaul – từ những hòn đảo ở vùng biển Caribê. Một năm trước đó giải Nobel Văn học được trao cho Nadine Gordimer từ Nam Phi. Cũng ở Nam Phi có Coetzee, người mà anh nhiều lần gọi là một trong những nhà văn viết bằng tiếng Anh hay nhất. Có Salman Rushdie. Còn ở Stockholm nghe nói đang xét trao giải cho Seamus Heaney. Tất cả đều là văn xuôi và thơ ca bằng tiếng Anh và tất cả đều không phải người Anh, không phải người Mỹ, tất cả đều người ngoài. Điều gì xảy ra vậy?

                  - Xảy ra cái điều mà Yeats đã từng nói: “Trung tâm đã không còn giữ nổi”. Và quả là trung tâm đã không còn giữ nổi.

                  - Đế chế tốt đẹp lên bởi những đống hoang tàn?

                  - Không chỉ những đống hoang tàn mà còn là những vùng biên cương xa xăm. Mà vùng biên cương xa xăm hay một điều, có thể, là nơi kết thúc Đế chế, nhưng là nơi bắt đầu của thế giới còn lại. Và ở nơi biên cương xa xăm của Đế chế, trên một hòn đảo nhỏ trong biển Caribê có một người bắt đầu đọc Shakespeare và những người còn lại. Người ấy không nhìn thấy những người lính lê dương nhưng nhìn thấy sóng biển và những cây cọ, những cây dừa bên bờ biển như những cái mũ sắt của những người lính đổ bộ đã chết năm nào.

                  - Walcott viết rằng: “Biển là lịch sử của chúng tôi”. Và ở một chỗ khác: “Dân tộc tôi sinh ra trên biển, không tên gọi, chẳng có những chân trời". Còn anh, ở vùng tây-bắc của một Đế chế khác cũng có biển, cũng có ý nghĩa đầu tiên, nếu xét theo những câu thơ này:
                  Tôi sinh ra và lớn lên trong những đầm lầy Baltic
                  bên những con sóng bạc đầu ùa lên bờ cát từng đôi
                  giọng nói héo hon và tất cả những vần điệu từ đây
                  cuộn vào nhau, tựa như mái tóc xoăn đẫm ướt…
                  Nếu vùng biên cương xa xăm của Đế chế mà trung tâm “đã không còn giữ nổi”, Đế chế đang tan rã như Đế của ta, hay đã tan rã như Đế chế Anh, nếu tất cả đều tốt đẹp đến vậy thì liệu có nên chờ đợi điều bất ngờ từ những vùng biên cương xa xăm của nước Nga?

                  - Nên hy vọng một điều gì tương tự sẽ đến. Mặc dù những vùng biên cương xa xăm của ta không tách biệt với nhau về địa lý, mà là một lục địa toàn vẹn. Bởi thế không có cảm giác tách biệt hẳn với trung tâm. Mà theo tôi, cảm giác này này rất quan trọng. Những người nói tiếng Anh cám ơn địa lý vì có những hòn đảo này. Tuy nhiên, trường hợp với nước Nga để có những điều tương tự không ngoại trừ điều này.

                  - Tôi nghĩ rằng sự trẻ trung của nền văn hóa mà con người ở vùng biên cương của Đế chế mang trong mình cùng với truyền thống gắn liền với sự can đảm, nếu không nói là táo bạo. Ví dụ như Walcott cả gan viết cả thiên sử thi: 325 trang “Omeros” – cải biên “Iliat” và “Odyssey” theo kiểu Caribê. Sử thi trong thời đại của ta không còn phù hợp chăng?

                  - Không biết được. Đối với nhà văn – không hợp. Đối với bạn đọc – cũng không hợp.

                  - Tại sao sử thi hiện đại không tồn tại, hoặc hầu như không có?

                  - Là bởi vì ruột của ai cũng nhỏ cả. Là bởi vì ta vẫn thích những hình thức ngắn gọn hơn: tất cả đều tự nhiên thôi. Thời gian có ít, cả nhà văn lẫn bạn đọc. Và tất nhiên trong sử thi có chỗ lếu láo. Nhưng mà “Omeros” là tác phẩm thơ hay, đôi chỗ rất lạ kỳ. Nhưng “Cuộc đời khác” mới đúng là sử thi của Walcott.

                  - Và một câu hỏi truyền thống: Walcott có biết nhiều về văn học Nga không?

                  - Anh ấy biết nhiều qua những bản dịch sang tiếng Anh tác phẩm của Pasternak và Mandelstam và chịu sự ảnh hưởng của họ. Theo tôi biết được thì Walcott ở giữa hai nhà thơ kia. Walcott là nhà thơ dùng thủ pháp, chi tiết và điều này gần với Pasternak. Còn ở mặt khác – giọng teno tuyệt vọng của Mandelstam… Tôi nhớ lần ở Oklahoma, hai chúng tôi ngồi trò chuyện. Mỗi thành viên ban giám khảo mỗi ngày được phát một chai Whisky “Ballantyne” mà Derek khi đó đã bỏ rượu nên anh ấy trao cho tôi, còn tôi làm vui anh ấy bằng cách dịch theo trí nhớ thơ của Mandelstam. Tôi nhớ câu thơ: “Và trên sông Nê-va màu vàng chanh, sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp/ Cô gái Digan trước mặt tôi đã không còn nhảy múa nữa bao giờ” đã gây cho Derek một ấn tượng rất mạnh. Anh ấy đánh mất mình vì khoái chí. Sau đó làm thơ về sự ân huệ của tôi sử dụng xảo thuật gây ấn tượng của những dòng thơ này. Anh ấy còn giúp tôi dịch thơ của mình.

                  - Tôi nghĩ rằng Walcott trong thơ của Mandelstam và trong thơ anh mang một nét cổ điển. Không ngẫu nhiên mà anh ấy thích so sánh quần đảo của mình với quần đảo của người Hy Lạp.

                  - Quả là đúng như vậy, khuynh hướng này ở anh ấy rất mạnh mẽ, suy nghĩ về quần đảo của mình ở Đông Ấn như về Hy Lạp. Derek lật từng trang sách như ngọn sóng - giật lùi.
                  <1992>



                   
                   
                  TÌNH YÊU SAU MỘT TÌNH YÊU

                  Rồi sẽ đến một ngày
                  Khi nhìn vào gương
                  Với chính mình, em cười mỉm.
                  Rồi sẽ đến một ngày
                  Con tim em hồi hộp
                  Khi nghe tiếng bàn chân em bước
                  Bên ngưỡng cửa nhà em.

                  Thì em hãy mời vào nhà chính bản thân mình
                  Thết rượu vang, bánh mì và trả lại con tim
                  Và hãy nhận về cho mình – một người quen xa lạ
                  Người ấy với em chung thủy
                  Yêu em suốt cả cuộc đời
                  Người ấy vì em mà mệt mỏi rã rời.

                  Em hãy cất khỏi chiếc bàn chân dung của những kẻ xa vời
                  Những bức thư tình, những bài thơ tuyệt vọng…
                  Rồi ngồi xuống bên bàn. Mở tiệc mừng long trọng
                  Mừng cho bản thân mình. Mừng cho cuộc đời em.


                  KHÔNG CẦN GÌ NGOÀI LÒNG CHÂN THẬT

                  Tôi sống gần bên bờ biển
                  Một mình. Không vợ, không con
                  Và bằng rất nhiều con đường
                  Để đi và đến.
                  Ngôi nhà thấp bên biển
                  Cửa sổ bao giờ cũng mở toang
                  Về phía biển thân quen.
                  Không ai có thể chọn cho mình công việc
                  Ta chỉ là thành qủa của những việc ta làm.
                  Năm tháng đi qua, ta quên điều lo sợ
                  Nhưng còn lại khát khao được vượt qua
                  Tình yêu – như tảng đá
                  Rơi vào đáy biển bao la
                  Bây giờ tôi không còn đòi hỏi gì ở thơ ca
                  Ngoài lòng chân thật
                  Không sự vinh quang, không thương xót
                  Nếu vợ lặng im thì có thể cùng ngồi bên bờ biển với nhau
                  Vách đá vẫn còn giữa những con sóng bạc đầu
                  Sóng sẽ mang lên bờ rác rưởi của những gì hèn kém
                  Và tôi phải quên đi thói quen cảm nhận
                  Quên đi tài năng của mình
                  Nhưng điều này còn khó khăn hơn
                  Là nhận về cho mình cuộc sống.

                  #9
                    cacbac 30.11.2007 11:58:16 (permalink)

                     
                    Seamus Justin Heaney (1939-) - nhà thơ Ireland đoạt giải Nobel Văn học 1995. Sinh ngày 13-4-1939 tại một làng quê Bắc Ireland, mười hai tuổi nhận được học bổng và đến học tại trường cao đẳng St. Columb, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ năm 1975 – 1980 ông dạy học tại Carysfort College (Dublin). Năm 1982 dạy Đại học Harvard, năm 1984 được phong hàm giáo sư và từ 1989-1994 dạy ở Đại học Oxford. Những vần thơ đầu tiên ông viết khi còn là giáo viên ở Belfast, tập thơ đầu tay Cái chết của nhà tự nhiên học ra đời năm 1966. Các tập thơ Cánh cửa mở vào bóng đêm (1969), Hết mùa đông (1972) tiếp tục những mô-típ quen thuộc: cái chết và đất đai. Đất đai là biểu tượng của số phận, là nguồn gốc của tất cả, là sự kết hợp giữa tàn phá và dựng xây, của sự yên nghỉ muôn đời và sự hồi sinh lại. Các tiểu luận của ông Quyền lực của ngôn từ và Thơ ca đứng lên bày tỏ những suy nghĩ về trách nhiệm công dân đối với số phận của đất nước bị chia cắt và tàn phá. Bản dịch thiên sử thi thời trung cổ Boewulf của ông ra tiếng Anh hiện đại được xếp là cuốn sách best-seller năm 2000 ở Anh và Mỹ.
                    Seamus Heaney là thành viên của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Ireland; thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, được nhận nhiều bằng danh dự của các trường đại học. Năm 1996, Seamus Heaney là người thứ tư của đảo quốc nhỏ bé Ireland được trao giải Nobel Văn học, vì ông đã sáng tạo ra 9 tập thơ mang vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu thẩm mỹ, tôn vinh những phép lạ của đời thường và của quá khứ sống động. Đối với Seamus Heaney, nhiệm vụ của nhà thơ là bảo vệ cái đẹp đặc biệt là khi các chế độ độc tài tiêu diệt nó.Ngoài ra, ông còn nhận được giải thưởng nghệ thuật và văn chương do Bộ Văn hóa Pháp trao tặng. S. Heaney được coi là nhà thơ số một trên đảo quốc Ireland nhiều tài năng văn học.

                    Tác phẩm:
                    *Cái chết của nhà tự nhiên học (Death of a naturalist, 1966), thơ
                    *Cánh cửa mở vào bóng đêm (Door into the dark, 1969), thơ
                    *Hết đông (Wintering out, 1972), thơ
                    *Miền Bắc (North, 1975), thơ
                    *Công việc đồng áng (Field work, 1979), thơ
                    *Những mối bận tâm (Preoccupations, 1980), tập tiểu luận của thời kì 1968-1978.
                    *Lạc đường (Sweeney astray, 1984), thơ
                    *Đồn đảo (Station Island, 1984), thơ
                    *Ngọn đèn sơn tra (The haw lantern, 1987), thơ
                    *Quyền lực của ngôn từ (The government of the tongue, 1988), tiểu luận
                    *Thấy sự vật (Seeing things, 1991), thơ
                    *Việc chữa bệnh ở Troy (The cure at Troy, 1991), kịch
                    *Tiểu luận về thơ ca đương đại Bắc Ireland (Essays on the contemporary poetry of Northern Ireland, 1992), nghiên cứu phê bình.
                    *Tập tiểu luận phê bình (A collection of critical essays, 1993), tiểu luận
                    *Điều chỉnh lại thơ ca (The redress of poetry, 1995), tiểu luận
                    *Cấp độ của tâm hồn (The spirit level, 1996), thơ
                    *Ánh điện (Electric light, 2001), thơ


                     
                    ANTAEUS(1)

                    Tôi thức dậy buổi bình minh
                    Như bông hoa hồng – tươi và sáng
                    Thì mối đe doạ của ngoại bang
                    Trong cuộc chiến này tôi sẽ thắng.

                    Những sức mạnh của đất đai
                    Những dòng nước ngầm sôi nổi
                    Tôi sẽ mang theo trong người
                    Khi tôi lăn vào trong đất bụi.

                    Nơi phát sinh của tôi – là bóng tối
                    Là đá ngầm, là gốc rễ của cây
                    Là cơn lốc ngầm và sự vần xoay
                    Là hang động, đất đai và nước nổi.

                    Cứ xuất hiện thêm một anh hùng mới
                    Hecrales trên đường đến khu vườn.
                    Nhưng để giết được tôi trong cuộc chiến tranh
                    Thì đánh nhau là điều không tránh khỏi.

                    Và giờ đây tôi nằm trong đất bụi
                    Nhưng sức mạnh mới tràn đầy
                    Dù nó biết rằng cần xua tôi đi khỏi
                    Mặt đất quê hương rất mạnh mẽ này.
                    ____________

                    (1)Antaeus (Antaios) – theo thần thoại Hy Lạp là một trong số thần khổng lồ, là con trai của Poseidon và nữ thần Gaea Libia. Là thần không thể đánh bại một khi còn chạm vào mẹ mình là thần đất Gaea thì luôn lấy lại được sức mạnh. Hecrales trên đường đến khu vườn để lấy cắp quả táo của các nàng Hesperides đã giết được Antaeus bằng cách nhấc bổng thần lên cao rồi bóp chết (kì công thứ 11).

                    THEN CỬA BUÔNG

                    Then cửa buông – một tia nắng mỏng
                    Cắt vào sân chẳng nhìn ra.
                    Hành lang màu vàng chúng đi qua
                    Rồi lặng lẽ mất hút vào đêm vắng.

                    Ngày e ấp chiếu sáng lên
                    Khung cửa, bậc thềm và đá
                    Khi quay trở về, đêm lặng lẽ
                    Chùi lên sân đã thấy rõ rành.



                    GIÃ BIỆT

                    Cô em mặc váy kẻ ô
                    Và chiếc áo choàng đơn giản
                    Từ ngày cô bỏ nhà đi
                    Ngôi nhà tiêu điều, hoang vắng.

                    Khi em có mặt
                    Thời gian thả neo
                    Trên nụ cười, nhưng em đi mất
                    Nhổ neo, choáng váng tình yêu.

                    Tháng ngày vội vàng, gấp rút
                    Đi qua hết gần cuốn lịch
                    Dồn vào lặng lẽ âm thanh
                    Của giọng nói em dịu dàng.

                    Thiếu em, tan tác bến bờ anh
                    Em đi rồi, anh một mình trên biển
                    Đến một ngày em chưa bỏ lệnh
                    Thì anh vẫn còn nổi loạn, cuồng điên.


                    YÊU DẤU ARAN(1)

                    những con sóng muôn đời, sạch sẽ, trắng trong, kính vỡ
                    đi vào vách đá, làm cho mắt lóa, sững sờ
                    những con sóng đến từ hai châu Mỹ.

                    chinh phục Aran. Hay là Aran vội vã
                    giang rộng vòng tay của đá bên con nước thủy triều
                    có phải chết con nước ròng và nhẹ nhàng tan vỡ?

                    biển vạch ranh giới với đất liền, hay đất với biển?
                    biển xâm phạm đất liền để hòa quyện vào nhau
                    theo cách của mình, ý nghĩa từng con sóng.
                    __________

                    (1)Aran – một hòn đảo ở bờ tây của Ai-len

                    #10
                      cacbac 30.11.2007 12:04:11 (permalink)

                       
                      Wislawa Szymborska (1923-) - nữ nhà thơ Ba Lan đoạt gải Nobel Văn học năm 1996. Sinh ngày 2-7-1923 tại Bnin (nay là Kurnik, gần Poznan). Năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Học xong bậc tiểu học năm 1935 và học xong trung học ở trường bí mật năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Một thời gian ngắn W. Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ năm 1945-1947 học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellonian; năm 1945 khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào với bài thơ đăng báo Tôi tìm lời, năm 1952 in tập thơ đầu tiên Vì lẽ này chúng ta đang sống và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan. Phong cách thơ W. Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, Tổ quốc. Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Đời sống văn học, các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Từ 1952-1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ Pháp, Nga ra tiếng Ba Lan.W. Szymborska đã được nhiều giải thưởng văn học cao quý. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; giải thưởng Goethe của Đức (1991) và giải thưởng Herder của áo (1995). Bà được trao bằng Tiến sĩ Văn chương Đại học Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996 W. Szymborska được trao giải Nobel cho “những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại”. Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

                      Tác phẩm:
                      * Vĩ lẽ này chúng ta đang sống (Dlatego zyjemy, 1952), thơ
                      *Những câu hỏi cho mình (Pytania zadawane sobie, 1954), thơ
                      *Lời kêu gọi đối với người tuyết (Wolanie do yeti, 1957), thơ
                      * Muối (Sols, 1962), thơ
                      *Sili (1965), thơ
                      *Tuyển thơ (Poezje wybrane, 1967), thơ
                      *Một trăm trò hề (Sto pociech, 1967), thơ
                      * Thơ (Poezje, 1970), thơ
                      *Trường hợp bất kì (Wszelki wypadek, 1972), thơ
                      * Tarsius và những bài thơ khác (Tarsjusz i inne wiersze, 1976), thơ
                      *Số lớn (Wielka liczba, 1976), thơ
                      *Những người trên cầu (Ludzie na moscie, 1985), thơ
                      *Buổi chiều của tác giả (Wieczúr autorski, 1992), thơ
                      *Kết thúc và mở đầu (Koniec i poczatek, 1993), thơ


                       
                      NHÀ GA

                      Sự không có mặt của em đến thành phố N
                      Đã theo đúng thời gian biểu.

                      Em đã báo trước với anh
                      Bằng bức điện mà rồi em không gửi.

                      Và anh đã không kịp tới
                      Theo thời gian hẹn hò.

                      Con tàu đi vào đường thứ ba
                      Có rất nhiều người ra đón.

                      Trong đám đông, em hướng về phía cổng
                      Không có người đưa đón của mình.

                      Một vài người phụ nữ vội vàng
                      Nhìn theo em
                      Bước đi vội vã.

                      Có ai đấy chạy đến bên một người phụ nữ
                      Người này em không quen
                      Nhưng người phụ nữ nhận ra người đàn ông
                      Chỉ trong khoảnh khắc.

                      Họ hôn nhau thắm thiết
                      Không bằng nụ hôn của chúng mình
                      Và chiếc va li bị lấy cắp
                      Không phải là chiếc va li của em.

                      Nhà ga thành phố N
                      Đã trả thi rất giỏi
                      Về sự tồn tại khách quan.

                      Cái chung vẫn còn nguyên vẹn
                      Cái riêng đã hoàn thành
                      Theo như số trời định sẵn.

                      Và ngay cả lần hò hẹn
                      Cũng đã định trước rồi.

                      Nhưng, than ôi
                      Sau khi chúng mình có mặt.

                      Và thiên đường đã mất
                      Giống như chân lý cuộc đời.

                      ở đâu, chứ không phải ở đây
                      ở đâu, chứ không phải ở đây
                      Vang lên những lời thánh thót.


                      TRƯỜNG HỢP BẤT KỲ

                      Đã xảy ra điều có thể
                      Đã xảy ra điều phải xảy ra.
                      Sớm hơn. Muộn màng hơn thế.
                      Gần hơn. Xa hơn.
                      Đã xảy ra – nhưng không phải với anh.

                      Còn nguyên vẹn, bởi anh người đầu tiên.
                      Còn nguyên vẹn, bởi anh người sau cuối.
                      Bởi do mọi người. Bởi anh tự mình
                      Bởi vì bên phải. Bởi vì bên trái
                      Bởi vì bóng rơi. Bởi vì mưa xối
                      Và bởi vì nắng đẹp, trời xanh.

                      Thật may mắn, ở đó là rừng
                      Thật may mắn, không một thân cây gỗ
                      Thật may mắn, khe núi, đường ray, sự cách trở
                      Milimét, phút giây và chỗ quay vòng
                      Thật may mắn, cọng rơm bơi trên nước.

                      Nhưng kết cục, thật khó mà nói được
                      Tuy thế, dù sao, giá mà tay, chân
                      Kẽ tóc chân tơ, theo mỗi bước chân
                      Tránh khỏi trùng phùng cơ hội.

                      Bởi thế, anh tồn tại?
                      Mang ơn mỗi phút giây
                      Lưới có một mắt. Còn anh ở trong mắt ấy
                      Em không lặng im và chẳng ngạc nhiên lắm vậy
                      Xin anh hãy nghe em
                      Để vì em
                      Con tim anh rộn ràng hãy đập.



                       
                      BỐN GIỜ SÁNG

                      Thời khắc từ đêm sang ngày
                      Thời khắc trở mình trằn trọc
                      Thời khắc của tuổi ba mươi.

                      Thời khắc, khi đất đai chối bỏ con người
                      Thời khắc bật lên trong giờ gà gáy
                      Thời khắc, khi ngôi sao tắt ngấm giữa trời
                      Thời khắc, thế sau ta có những gì còn lại?

                      Thời khắc lặng im
                      Thời khắc trống vắng
                      Tận cùng đáy của ngày đêm.

                      Lúc bốn giờ sáng chẳng có ai bình yên
                      Nếu bầy kiến lúc bốn giờ thanh thản
                      Ta mừng cho kiến. Và năm giờ sẽ đến
                      Nếu như ta sống tiếp cuộc đời mình.



                       
                      TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN

                      Cả hai người vẫn tin rằng
                      tình cảm của họ bất ngờ, đột ngột
                      lòng tin này rất đẹp
                      nhưng sự hoài nghi còn tuyệt vời hơn.

                      Họ cho rằng, nếu trước đó chưa từng quen
                      thì đã không có gì xảy ra với họ.
                      Thế sẽ nói gì những bậc thang, những hành lang, đường phố
                      những nơi mà họ gặp nhau không chỉ một lần?

                      Tôi muốn hỏi họ xem
                      liệu họ còn có nhớ
                      có thể, trong những vòng xoay cánh cửa
                      họ từng đối mặt ra sao?
                      Những lời “xin lỗi” khi va vào người nhau
                      giọng “anh nhầm rồi” trong ống nghe điện thoại
                      nhưng tôi biết câu trả lời như vậy.
                      Không, họ chẳng nhớ gì.

                      Mà họ sẽ ngạc nhiên nhiều hơn kia
                      khi biết rằng đã từ lâu lắm
                      với họ đang đùa giỡn
                      một trường hợp ngẫu nhiên.

                      Trường hợp này còn chưa sẵn sàng
                      trở thành số phận
                      xích họ lại gần, làm cho xa vắng
                      chạy qua đường, né sang bên
                      và tiếng cười khúc khích kìm nén.

                      Đã từng có những dấu hiệu
                      không quan trọng là đã chẳng hiểu ra
                      có thể từ ba năm trước kia
                      hay là, thứ ba tuần trước
                      khi từ vai này sang vai khác
                      một chiếc lá vương?
                      Một thứ gì người này làm rơi người khác nhặt lên
                      ai biết được, có thể là trái bóng
                      trong bụi cây từ thuở thiếu niên.

                      Đã có những chiếc chuông con và những tay cầm
                      mà ở đó rất lâu trước lần gặp gỡ
                      những dấu tay đã từng chồng lên.
                      Hai chiếc va li trong kho để kề bên.
                      Có thể, trong đêm có một giấc mơ giống hệt
                      khi thức giấc thì đã vội vàng quên.

                      Bởi vì mỗi sự mở đầu
                      chỉ là một hồi kế tiếp
                      và cuốn sách
                      của cuộc đời luôn mở giữa chừng trang.


                      AI ĐÓ YÊU THƠ

                      Ai đó
                      có nghĩa: không mỗi người.
                      Không phải nhiều, mà là thiểu số.
                      Ngoại trừ những em trò nhỏ
                      và các nhà thi sĩ
                      trong nghìn người, may ra chỉ có hai.

                      Yêu
                      như người đời yêu khoai tây với nấm
                      những lời khen, những sắc thái của hoàng hôn
                      với chiếc khăn nhỏ của mình
                      đứng trên chỗ của mình
                      trước khi đi ngủ dẫn ra đường con chó lớn.

                      Thơ
                      thơ ca là gì thế?
                      Bao nhiêu câu trả lời
                      tôi từng nghe được về điều này.
                      Cũng may: chúng đều lời nhẹ
                      bởi nếu không, sao tôi viết những dòng này.


                      BA LỜI KỲ LẠ

                      Tôi nhắc lại rằng thời gian không ở
                      Thì lời đầu tiên đã kịp đi qua.

                      Tôi thì thầm trời yên, lặng gió
                      Thì trở nên không lặng yên cho.

                      Tôi cẩn thận nói lời không cái gì
                      Thì có một cái gì bao la hiện rõ…


                      #11
                        cacbac 30.11.2007 12:12:30 (permalink)

                         
                        Nelly Sachs (1891-1970) - nữ nhà thơ Đức đoạt giải Nobel Văn học 1966, sinh ngày 10-12-1891 trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin. Từ nhỏ đã yêu thích âm nhạc, văn chương, làm thơ đăng trên một số báo và in một cuốn sách bao gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm lên 15 tuổi Nelly Sachs đọc tiểu thuyết Gostar Berlings Saga của nữ nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlof (1858 - 1940), cuốn sách đã để lại trong lòng Nelly Sachs một ấn tượng vô cùng sâu sắc và cô đã viết thư cho Selma Lagerlof. Kể từ đó hai người tiếp tục thư từ cho đến khi Selma Lagerlof mất.

                        Năm lên 18 tuổi Nelly Sachs bắt đầu làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu chuyện cổ tích, một số bài thơ được đăng trên các báo. Sau khi bố mất và Hitler lên nắm quyền ở Đức, Nelly Sachs cùng mẹ sống một cuộc sống thu mình, không tiếp xúc với xã hội bên ngoài.

                        Năm 1940, nước Đức đánh chiếm Châu Âu và khủng bố người Do Thái, Nelly Sachs trốn sang Thụy Điển và ở đây tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà Trong ngôi nhà của tử thần xuất bản tại Đông Đức năm 1947. Thơ Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, thường nói về nỗi thống khổ và niềm hi vọng của dân tộc Do Thái, chịu ảnh hưởng bởi thơ ca truyền thống Do Thái và chủ nghĩa thần bí cổ đại Đức. Từ sau chiến tranh bà còn viết một số vở kịch, nhưng tác phẩm khiến bà nổi tiếng nhất là Trốn chạy và biến đổi (1959). Sau tập thơ này bà được trao giải thưởng Anetta von Droste Hulsoff và chính quyền Dortmund đã lập ra một giải thưởng văn học hàng năm mang tên Nelly Sachs và cấp cho bà một chế độ trợ cấp trọn đời.

                        Nelly Sachs được tặng nhiều giải thưởng, trong đó giải Nobel Văn học bà nhận cùng với nhà văn Do Thái khác là Shmuel Agnon. Nelly Sachs mất tại Stockholm ngày 12-05-1970.

                        Tác phẩm:
                        - Trong ngôi nhà của tử thần (In den Wohnungen des Todes, 1946), thơ.
                        - Che mờ các ngôi sao (Stern ver dunkelung, 1949), thơ.
                        - Không ai biết được sẽ ra sao (Und niemand weiss weiter, 1957), thơ.
                        - Trốn chạy và biến đổi (Fluch und Verwandlung, 1959), thơ.
                        - Bí kịch về những đau khổ của Israel (Ein Mysterienspiel vom Leiden Israels, 1951), kịch.
                        - Những dấu hiệu trên cát (Zeichen im Sand, 1962), tập kịch.


                         
                        CÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỜI

                        Các dân tộc trên đời
                        hãy bằng sức mạnh những vì sao xa xôi
                        quấn vào như búp sợi
                        hãy đan, rồi tháo, rồi đan lại
                        cho trộn lẫn những lời
                        như cái tổ ong
                        châm chích cho thoả lòng
                        và để cho ong cắn lại.

                        Các dân tộc trên đời
                        chớ hủy hoại những lời hoàn vũ
                        chớ chia cắt bằng dao lòng thù hận khắp nơi
                        tiếng động sinh ra cùng hơi thở!

                        Các dân tộc trên đời
                        có ai không hiểu ngầm cái chết
                        khi nói “cuộc đời”
                        có ai không hiểu rằng máu thịt
                        khi nói “vành nôi”!

                        Các dân tộc trên đời
                        những lời nói nơi ngọn nguồn bỏ lại
                        bởi chúng sẽ quay về với
                        những chân trời
                        bằng mặt trái của mình
                        sự sơ suất che đêm lại
                        để những vì sao sẽ hồi sinh.


                        NHỮNG NGƯỜI GIÀ

                        Ở đây
                        Trong kho chứa của những ngôi sao này
                        Trời đêm che lên từng mảng
                        Họ đứng và đợi Chúa Trời.
                        Những móc sắt han gỉ cùm miệng họ
                        Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời
                        Trong những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy
                        Ô, những người già mang những đứa trẻ bị thiêu trong mắt
                        Như tài sản duy nhất của họ trên đời…

                        Những người già đứng đấy
                        Đêm cắt vào giấc ngủ
                        Vào bầu trời đêm họ dõi mắt nhìn
                        Họ đợi Chúa Trời với vì sao cháy lên.

                        Những bàn tay giơ vào trời xanh
                        Những đôi môi cháy sém
                        Những đôi môi câm nín
                        Trong tiếng kêu lạc lối những hành tinh.

                        Chỉ những đôi mắt không ngủ bao giờ
                        Bầy quạ đen trên đám mồi bay liệng
                        Chìm trong nước mắt và luôn tái hiện
                        Quạ canh chừng những đứa trẻ cháy thành tro.

                        Ô, những người già mang những nấm mồ:
                        Kí ức đắng cay của những ngày khiếp đảm!
                        Họ vẫn đợi, kiên gan, dù Chúa Trời im lặng
                        Không vội vàng từ xứ sở những vì sao…




                         
                        *Năm 1966 Nell Sach được trao giải Nobel Văn học cùng với Agnon. Trong lời đáp ở buổi tiệc chiêu đãi Nelly Sachs nói rằng: “Agnon đại diện cho nhà nước Israel, còn tôi đại diện cho thảm kịch của dân tộc Do Thái”.

                        Ngày 10-5-1933 ở Berlin, Đức quốc xã đem đốt hàng loạt sách “độc hại” do những tác giả người Do Thái viết ra. Trong số này có sách của H. Heine, S. Freud. S. Zweig, A. Einstein… Nhưng từ giữa thế kỉ 19, nhà thơ vĩ đại Heinrich Heine đã viết những lời tiên tri: “Nơi mà người ta đem đốt sách, rồi họ sẽ đốt người!”

                        Trong suốt những năm chiến tranh thế giới thứ hai Đức quốc xã thi hành chính sách giết hết người Do Thái. Bất kể đàn ông, phụ nữ, người già, trẻ con… Sáu triệu người Do Thái bị giết ở Đức và các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng. Đây là trang bi thảm nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc Do Thái.

                        Trong những năm kinh hoàng này Nelly Sachs cùng với mẹ đã kịp rời nước Đức trên chuyến tàu cuối cùng sang Thụy Điển. Đến Thụy Điển những năm đầu bà làm đầu bếp, sau đó là dịch thuật và tiếp tục sáng tác. Bà viết trong hồi kí của mình: “Tôi viết để mà tồn tại. Tôi cháy lên trong lửa với những ai ở đấy… Nhưng tôi phải sống để cho những người khác biết về tất cả…” Khi nghe tin về cái chết của người yêu, những người bà con, bạn bè thì phong cách thơ của bà thay đổi hẳn. Những lò thiêu, nhà hỏa táng và những nỗi cực hình luôn có mặt trong thơ bà…

                        Thơ của Nelly Sachs độc đáo ở hình thức lạ. Dường như toàn bộ thơ bà tạo thành một khúc tưởng niệm. Dưới những vẻ khác nhau chúng hợp thành một bài thơ lớn. “Những khúc Khải huyền tôn giáo này – nhà thơ, nhà phê bình Anh, Stephen Spender (1909-1995) viết – là sự thể hiện tính cách Do Thái, vô cùng mạnh mẽ, cuộc đời sánh ngang với cái chết và ngược lại…” Thơ của Nelly Sachs, có lẽ, là câu trả lời cho câu nói nổi tiếng của nhà triết học, nhà phê bình Đức, Theodor Adorno (1903-1969): “Sau Oswiecim(1) không nên làm thơ nữa”. Nghĩa là thơ ca, bằng cách nào đấy, phải viết khác đi… Quả vậy, thơ của Nelly Sachs không dễ đọc (dịch sang tiếng Việt lại càng khó khăn hơn). Đấy là sự khó nhọc của tâm hồn nhưng nếu xuyên qua được bức tường thì sẽ hiểu hơn về con người nói chung, hiểu về bản thân mình nhiều hơn, hiểu hơn về sự tồn tại cao cấp và đầy bi kịch của con người.

                        “Những người già” là một bài thơ không có vần bắt đầu bằng tiếng kêu “ở đây”. Những người già đứng ở đây. Họ không làm gì cả, họ chỉ đứng và đợi Chúa Trời. Chúa Trời ở đây không giống với Chúa Trời trong Kinh Thánh – là vị cứu tinh đối với con người trong những tình huống tuyệt vọng, còn ở đây, những người ở “trong kho chứa của vì sao” thì Ngài không thể cứu được họ. Những người già cũng không giống với Job đã gọi Chúa Trời, kêu với Ngài về những đau khổ của mình. Những người già chỉ biết đứng chờ trong tuyệt vọng. Họ đã mất không chỉ hy vọng mà cả lời nói “những cùm sắt han gỉ cùm miệng họ”. Những cùm sắt này hiểu theo truyền thống tôn giáo cho ta liên tưởng với cái mũ gai người ta đã đội lên đầu Chúa Jêsus trước khi đem Chúa đi đóng đinh (Tân Ước_Ma-thi-ơ 27:28). “Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời…” Chỉ đôi mắt – cửa sổ tâm hồn – có thể biểu hiện được nỗi đau, nỗi tuyệt vọng tràn ngập trong lòng họ. Nelly Sachs mô tả: “những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy”. Giếng là nơi con người lấy nước, giếng cần cho sự sống của con người. Nhưng giếng xác chết chất đầy thì không thể còn sử dụng được nữa. Giếng cũng bị tước mất chức năng của mình là cung cấp nước cho người…

                        Những người già được nói đến trong bài thơ này không hẳn là những người già cả mà chỉ đơn giản họ là những người sống sót qua những năm tháng khủng khiếp kia và bây giờ họ trở thành những người già. Họ bị mất tất cả: tài sản, gia đình, cả tiếng nói và cả niềm hy vọng. Họ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ nên đã không còn cảm nhận được nỗi đau, nước mắt đã không còn trong những đôi mắt của họ. Chỉ còn lại một thứ duy nhất trong đó – “những đứa trẻ bị đốt thành tro”. ở đây qui luật tự nhiên bị phá vỡ – những đứa trẻ đáng lẽ phải sống tiếp sau bố mẹ mình nhưng vì chúng bị thiêu trong lò gas nên chỉ còn lại những người già… Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh Đức Chúa Trời, mặc dù Chúa đã không can thiệp, không giúp được gì cho họ nhưng họ vẫn đợi, vẫn kiên gan và vẫn tin rằng Ngài đang ở đâu đó. Hình tượng Chúa ở đây nói lên nhiều điều. Một mặt, cho thấy tình trạng tuyệt vọng đến tận cùng. Người ta đợi mà không còn mong một điều gì - đây là tình trạng mong manh giữa sự sống và cái chết. Mặt khác, sự tuyệt vọng được gắn liền với hình tượng Chúa – là Đấng Tối Cao mà con người vẫn đặt vào tất cả hy vọng (không quan trọng là sự tồn tại hay sự có mặt của Ngài). Và trái ngược với những điều được nói đến trong bài thơ, thức dậy ở người đọc một tình cảm, một ý nghĩ rằng, dù sao vẫn tồn tại Đức Chúa Trời, chỉ đơn giản là lúc đó Ngài không có mặt. Tồn tại – bởi vì người ta vẫn gọi tên Ngài, còn không có mặt – là bởi vì người ta vẫn đợi.
                        _____________
                        (1)Oswiecim (tiếng Ba Lan); Auschwitz (tiếng Đức) – thành phố ở miền nam Ba Lan. Trong những năm 1940-1945 là trại giam của phát xít Đức. Hơn 4 triệu người bị giết chết trong trại giam này.

                         
                         
                        #12
                          cacbac 30.11.2007 12:20:14 (permalink)

                           
                          Giorgos Seferis (1900-1971) tên thật là Giorgos Stilianu Seferiadis - nhà thơ, nhà ngoại giao Hy Lạp, giải Nobel Văn học năm 1963. Sinh ngày 19-2-1900 tại Smyrna (nay là Thổ Nhĩ Kỳ). Lên 14 tuổi theo gia đình chuyển về Athen, năm 1918 theo bố sang Paris. Năm 1922 quân đội Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Smyrna, người Hy Lạp từ giã vùng đất họ đã sống 2000 năm. Seferis học luật và say mê văn chương, làm việc tại Bộ ngoại giao Hoàng gia Hy Lạp. Trong thế chiến II Hy Lạp bị Đức chiếm đóng, Giorgos Seferis cùng chính phủ Hy Lạp sống lưu vong ở nước ngoài.

                          Sau chiến tranh, G. Seferis tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại giao Hy Lạp, giữ các trọng trách ở Ankara (1948 - 1950), London (1951 - 1953), Lebanon, Syria, Jordan và Iraq (1953 - 1956) và là Đại sứ Hoàng gia Hy Lạp ở Anh từ năm 1957 tới 1961. Ông nhận được rất nhiều bằng danh dự và giải thưởng, trong đó có bằng Tiến sĩ danh dự của các trường đại học Cambridge (1960), Oxford (1964), Salonika (1964) và Princeton (1965).

                          Tập thơ đầu tiên Điểm ngoặt (Strofi, 1931) chỉ in 150 bản, tên sách trong nguyên tác vừa có nghĩa "Khổ thơ", vừa có nghĩa "Điểm ngoặt", tượng trưng cho một bước chuyển mới trong thơ Hy Lạp. Tiếp đó là tập thơ trữ tình theo chủ nghĩa tượng trưng Cái bể nước (1932) đề cập đến những ước mơ trong sâu thẳm tâm hồn con người, những ước mơ bị quên lãng trong cuộc sống ngày thường. Trong những tác phẩm sau này, G. Seferis nói nhiều đến sự hiện hữu của quá khứ trong hiện tại, bắt đầu bằng Thần thoại (1935). Ngoài các tác phẩm thơ, năm 1962 ông xuất bản tập Tiểu luận, và năm 1965 là tuyển tập dịch thơ của các nhà thơ Anh, Pháp, Mỹ mang tên Bản sao. Sáng tác thơ của G.Seferis giai đoạn 1924 - 1955 được in cả ở Hy Lạp và Mỹ.
                          Thơ của Seferis về những đề tài như: cái chết, sự mất mát và hỗn mang. Nhân vật trong thơ ông thường là những người lãng du muôn thuở buồn nhớ về thiên đường đã mất. Năm 1963 ông được trao giải Nobel Văn học “vì những tác phẩm thơ trữ tình xuất sắc”. Giorgos Seferis mất tại Athen ngày 20-9-1971.

                          Tác phẩm:
                          - Điểm ngoặt (Strofi, 1931), thơ
                          - Cái bể nước (Sterna, 1932), thơ
                          - Thần thoại (Mythistorema, 1935), thơ
                          - Cuốn sách bài tập (Tetradio gymnasmaton, 1940), thơ
                          - Nhật kí hải trình I (Imerologio Katastromatos I, 1940), thơ
                          - Nhật kí hải trình II (Imerologio Katastromatos II, 1944), thơ
                          - Xô đẩy (Kichli, 1947), thơ
                          - Vua Assine và những bài thơ khác (The king of Assine and other poems, 1948)
                          - Nhật kí hải trình III (Imerologio Katastromatos III, 1955), thơ [Logbook III].
                          - Ba bài thơ bí mật (Tria Kryfa Poiimata, 1966), thơ
                          - Tiểu luận (Dokimes, 1962), tiểu luận
                          - Bản sao (Antigrafes, 1965), thơ dịch



                          HÃY HÁT LÊN ĐÀN UKULELE(1)

                          “Say it with a Ukulele…”

                          “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
                          Từ máy hát vang lên lời hát cũ
                          Em yêu ơi, anh biết hát bài gì
                          Để cho em hiểu rằng anh buồn bã.

                          Kẻ hành khất chơi cây đàn phong cầm
                          Tay chạm lên phím đàn rất cẩn trọng –
                          Hãy đi xuống đây những thiên thần
                          Nhưng thiên thần ngồi khóc trong lo lắng.

                          Thiên thần đã sẵn sàng đi
                          Nhưng mặt đất mây che kín
                          Ta nghèo khó đến ngày cuối tận
                          Bởi thiên thần quên đến với ta.

                          Cuộc đời ta lạnh lùng như biển
                          Sống ra sao ư? Như ở trong sương
                          Chìm đắm những linh hồn
                          Như đá chìm trong biển.

                          Cây run rẩy tựa san hô
                          Màu xanh trở thành màu xám
                          Đang ngủ yên những chiếc xe thồ
                          Từ lâu trên mặt đất quên lãng.

                          “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
                          Lời ca không còn sức mạnh nữa
                          Tình yêu ơi, đâu ngôi đền của em muôn thuở?
                          Sao nơi này ta lạnh lẽo nhường kia!

                          Giá mà cuộc đời đi theo đường thẳng
                          Anh và em không biết đến ưu phiền
                          Nhưng trò chơi số phận
                          Bước ngoặt trong đời thay đổi triền miên.

                          Đợi đến khi nào? Không ai biết
                          Lửa cháy lên trong sương khói hoàng hôn
                          Trong màn sương ta đánh mất con đường
                          Giữa hai ngọn lửa tâm hồn đau thắt.

                          Số kiếp ta. Đâu hạnh phúc chúng mình
                          Ngày chết dần trong vương quốc đêm tối
                          Xung quanh bóng đêm. Em hãy đi tìm
                          Hãy đi tìm cho con đường ngắn lại!

                          “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
                          Những móng tay em ánh lên màu đỏ
                          Dưới ánh sáng sao trời anh bỗng nhớ
                          Vật trang sức bằng đá muộn màng kia.

                          London, Giáng sinh 1924.
                          __________________

                          (1)SAY IT WITH A UKULELE
                          Word & Music: Art Conrad
                          Artist: Irving Politzer
                          Shapiro, Bernstein & Co., New York.
                          (tên đĩa hát hiện vẫn có bán trên mạng Internet)

                          * Ukulele: Đàn ghi ta Hawaii.




                          NỖI BẤT HẠNH DỊU DÀNG

                          Nỗi bất hạnh dịu dàng
                          Như cát trên bờ, màu trắng
                          Cơn khát làm môi khô khan
                          Nhưng mà nước mặn.

                          Cái tên em màu trắng
                          Anh viết khi ở trên bờ
                          Những ngọn gió mang chữ đi xa
                          Và thầm thĩ bên tai rằng: “quên lãng”.

                          Nghe những lời trách cứ xì xào
                          Từ mọi con đường: ta bước vào cuộc sống
                          Con đường ta - đầy ắp những khát khao
                          Nhưng ta sẽ làm đổi thay cuộc sống.


                          TẮT GIỌNG NÓI CỦA EM

                          Tắt giọng nói của em - ánh nắng chiều
                          Hoàng hôn đã tắt
                          Số phận của anh, ôi em yêu
                          Đêm đến là em biến mất.

                          Chỉ một lần, trong giờ khắc
                          Thế giới hoang vu. Anh còn lại một mình
                          Tình đã chết, còn lại chiếc bình
                          Trong bình không giọt sương hay nước.

                          Đêm đến, và đã không còn
                          Cái miền quê em đã tắm
                          Đâu rồi miền quê, đâu rồi bờ biển
                          Vĩnh biệt em! Niềm hạnh phúc của anh.



                           
                          DƯỚI TIẾNG SÓNG BIỂN RÌ RÀO

                          Dưới tiếng sóng biển rì rào
                          Tình yêu và nỗi khát khao vẫn sống
                          Con tim anh rung động –
                          Như cái vỏ ngao
                          Trên lòng bàn tay sưởi ấm.

                          Dưới tiếng sóng biển rì rào
                          Vào đôi mắt của em anh ngắm
                          Nhưng mà ta không nhận ra nhau.


                          TRANG GIẤY TRẮNG

                          Trang giấy trắng này như là một tấm gương
                          phản chiếu hình anh như đã sống.

                          Trang giấy trắng tinh chứa đựng
                          giọng nói của anh
                          chứ không phải cái người mà anh yêu mến.
                          Nhạc của anh - đó là cuộc sống
                          mà anh đã xài hoang.
                          Nếu anh muốn trả nó lại cho mình
                          thì phải xếp đặt với điều lãnh đạm
                          cứ mỗi ngày không ngừng
                          kéo anh về xuất phát điểm.

                          Anh đã từng đi nhiều phương
                          từng nhìn thấy nhiều mặt trời, nhiều trăng lạ
                          động đến cả những gì sống động, cả những gì băng giá
                          anh nhận thức ra nỗi đau khổ của đàn ông
                          tiếng nức nở của phụ nữ, của những cô gái chưa chồng
                          và nhận thức ra nỗi giận hờn con trẻ –
                          nhưng tất cả đó – chỉ là một đống vô sinh
                          nếu anh không tin vào điều trống rỗng.
                          Có thể, anh sẽ tìm ra trong đó những mất mát của mình:
                          màu sắc trẻ trung và chiều sâu tuổi già theo năm tháng.

                          Tất cả những gì anh đã cho – là cuộc đời anh
                          Tất cả những gì anh đã cho – là trống rỗng
                          là trang giấy trắng tinh.




                          KHI NHỮNG GIẤC MƠ

                          Khi những giấc mơ trở thành hiện thực
                          Trong ánh sáng ngọt ngào của buổi bình minh
                          Những bờ môi hiện ra, tôi thấy được
                          Những cánh hoa tiếp những cánh hoa xinh.

                          Lưỡi liềm mỏng treo lơ lửng trên trời
                          Tôi sợ lưỡi liềm cắt hết chúng mất thôi.

                          #13
                            cacbac 30.11.2007 12:24:05 (permalink)

                             
                            Salvatore Quasimodo sinh ngày 20-8-1901 tại Sicily, học ở các trường kỹ thuật theo ý muốn của cha mẹ nhưng từ năm 1938 dạy văn học ở Nhạc viện Milan. Năm 1916, S. Quasimodo vào học trường kĩ thuật ở Palermo và sau đó theo học trường Bách khoa ở Roma với mong muốn trở thành một kĩ sư. Ngoài ra, ông còn học tiếng Latinh và tiếng Hi Lạp tại đó. Tuy nhiên, vì lý do kinh tế, ông không thể hoàn thành việc học tập. Từ khi là học sinh ông đã say mê và đọc nhiều sách văn học, bắt đầu đăng báo những bài thơ đầu tiên, nhưng thời gian đầu do không tự tin lắm với khả năng văn học của mình nên ông đã vào làm việc ở Bộ Xây dựng. Năm 1930 S. Quasimodo xuất bản tập thơ đầu tiên Nước và Đất.

                            Trong giai đoạn từ 1930 tới 1938, ông làm quen với rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức nổi tiếng Italia, xuất bản hàng loạt tập thơ được chú ý. Năm 1938, ông xin thôi việc ở Bộ Xây dựng và làm biên tập viên cho tạp chí Tempo, 3 năm sau trở thành giáo sư văn học Italia ở Nhạc viện Milan.

                            Trong sáng tác thơ của ông cũng có nhiều sự thay đổi: đầu tiên theo chủ nghĩa hiện thực, những năm 30 theo trường phái Hermetic, khi chiến tranh thế giới II nổ ra lại hướng về những đề tài xã hội. Năm 1946 Salvatore Quasimodo gia nhập Đảng cộng sản nhưng sau đó đã ra khỏi đảng vì không muốn làm thơ về chính trị. Đối với S. Quasimodo, vai trò của nhà thơ phải mang tính tích cực: nhà thơ dùng tài năng của mình để tham gia vào cuộc đấu tranh trong xã hội hiện đại. Các tác phẩm về sau của S. Quasimodo càng thể hiện sự thay đổi, đi từ phản ánh nội tâm cá nhân sang tính xã hội, và hơn nữa còn khẳng định đặc điểm tích cực của cuộc sống thậm chí trong một thế giới mà cái chết là nỗi ám ảnh thường trực. Trong tập thơ Đất vô song (1958) ông đã phát triển một ngôn ngữ mới thể hiện hoạt động mới của con người và các khám phá mới.

                            Năm 1953 ông được trao giải thưởng Thơ quốc tế Etna Taormina, bằng danh dự Đại học Oxford và nhiều giải văn chương khác. Năm 1959, S. Quasimodo được trao giải Nobel vì “những tác phẩm thơ trữ tình xuất sắc phản ánh kinh nghiệm bi thảm của thời đại bằng một nghệ thuật trác tuyệt".
                            Ngoài sáng tác, Quasimodo còn là một dịch giả thơ nổi tiếng. Ông dịch thơ trữ tình Hy Lạp (I lirici greci), Shakespeare và nhiều nhà thơ đương đại của Thế giới. Salvatore Quasimodo mất ngày 14-7-1968 tại Naples (Napoli).

                            Tác phẩm:
                            - Nước và đất (Acque e terre, 1930), thơ.
                            - Kèn ô boa (Oboe sommerso, 1932), thơ.
                            - Hương khuynh diệp và các bài thơ khác (Odore di eucalyptus e altri versi, 1933), tập thơ.
                            - Thơ trữ tình Hy Lạp (I lirici greci, 1940), thơ dịch.
                            - Các bài thơ mới (Nuove poesie, 1942), thơ.
                            - Bàn chân kẻ xa lạ đặt trên trái tim tôi (Con il piede straniero sopra il coure, 1945), tập thơ.
                            - Ngày lại ngày (Giorno dopo giorno, 1946), thơ.
                            - Cuộc đời không phải là giấc mộng (La vita non è sogno, 1949), thơ.
                            - Màu xanh giả và màu xanh thật (Il fallo e vero verde, 1956), tập thơ.
                            - Bàn về thơ (Discorso sulla poesia, 1956), tiểu luận.
                            - Đất vô song (La terra impareggiabile, 1958), thơ .
                            - Nhà thơ, nhà chính trị và các tiểu luận khác (Il poeta, e il politico e altrri saggi, 1960), tiểu luận.
                            - Cho và có (Dare e avere, 1966), tập thơ.



                            MÀU MƯA VÀ RỈ SẮT

                            Ngươi nói rằng: sự im lặng, cái chết, sự cô đơn
                            cũng như người ta nói tình yêu và cuộc sống
                            đó là những lời trung chuyển.
                            Và ngọn gió mỗi buổi sáng rung lên
                            và màu mưa, rỉ sắt của thời gian
                            mang về trên đá
                            trên những lời nguyền rủa
                            đến sự thật hãy còn quá xa xôi.
                            Thì hãy nói cho ta nghe, con người
                            con người bị đóng đinh trên thập ác
                            và ngươi - đôi bàn tay máu còn dính chặt
                            ta biết trả lời làm sao những câu hỏi này?
                            và giờ đây
                            trước khi sự im lặng ùa vào đôi mắt
                            trước khi ngọn gió mới lại rung lên, và rỉ sắt
                            lại dâng đầy.


                             
                            TUYẾT

                            Ngọn gió cúi xuống, chia tay với các ngươi
                            những bóng hình yêu quí của đất đai – cây cối
                            con người, súc vật
                            trùm lên những chiếc áo khoác
                            những bà mẹ không biết làm sao khóc lên
                            và như trăng, tuyết chiếu sáng cho ta từ những cánh đồng.
                            Ôi những linh hồn chết trong con tim gõ nhịp.
                            Dù cho ai đấy phá vỡ sự lặng im bằng tiếng khóc nức nở của mình,
                            như áo quan, màu tuyết trắng khắp nơi như màu chết.



                            TRÊN NHỮNG RẶNG LIỄU

                            Chẳng lẽ ta có thể hát lên dưới gót dày
                            của ngoại bang, khi mà trên những quảng
                            trường mùa đông chất đầy xác chết
                            đã nhiều ngày, và con tim tan nát
                            vì không im tiếng khóc, tiếng nức nở của
                            những mẹ già có những đứa con trai bị treo
                            trên dây thép? Lúc này ta phải hát làm sao?
                            Trên những rặng liễu, giữa đồng hoang và
                            những cây đàn của ta nhẹ tênh, đung đưa
                            trong ngọn gió giá băng vô cùng buồn bã.


                            HÒN ĐẢO ODYSSEY

                            Giọng nói cổ xưa quyết đoán
                            Và anh nghe theo tiếng vọng phù du
                            Cùng sự lãng quên đêm vắng
                            Giữa vực thẳm sao trời.

                            Từ ngọn lửa trời xanh
                            Hòn đảo Odyssey xuất hiện
                            Cây cối, bầu trời bơi trong đêm yên tĩnh
                            ở giữa bờ sông trăng.

                            Em yêu ơi, những con ong mang đến cho ta vàng
                            Thời gian âm thầm biến đổi.


                            #14
                              cacbac 30.11.2007 12:37:11 (permalink)

                               
                              Nhà thơ, nhà văn Nga Boris Leonidovich Pasternak sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ tài năng gốc Do Thái, theo học hội họa, âm nhạc triết học và lịch sử rồi quyết định theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1914 in tập thơ đầu tiên Người anh em sinh đôi trong mây đen. Năm 1922, ông cho ra đời tác phẩm văn xuôi đầu tiên Thời thơ ấu của Lyuvers. Năm sau, B. Pasternak kết hôn với nữ họa sĩ Evghenia Muratova và in tập thơ Những chủ đề và biến tấu được đánh giá là một trong những đỉnh cao của thơ ông. Năm 1931, tự truyện Chứng chỉ hộ thân ra đời, bộc lộ rõ quan điểm của B. Pasternak với nghệ thuật, thiên nhiên và cuộc sống. Là người biết nhiều ngoại ngữ, những năm không có việc làm ông đã làm nghề dịch để kiếm sống - ông đã dịch thơ cổ điển Anh, Pháp, Đức, Gruzia, đặc biệt các bản dịch bi kịch Shakespeare được coi là hay nhất trong tiếng Nga. Từ năm 1945 đến 1955, B. Pasternak sáng tác cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của ông, Bác sĩ Zhivago, nhưng không được in ở Liên Xô, đến năm 1957 tác phẩm này được xuất bản ở Italia. Cuối năm sau, cuốn sách được dịch ra 18 thứ tiếng. Cũng trong năm này, B. Pasternak là người Nga thứ hai được trao giải Nobel Văn học vì những thành tựu lớn lao ông đã đạt được trong nền thơ trữ tình hiện đại, cũng như vì công lao tiếp nối các truyền thống của nền tiểu thuyết sử thi Nga vĩ đại, mà nổi bật nhất là Bác sĩ Zhivago - một trong những cuốn tiểu thuyết Nga hiện đại được đọc nhiều nhất ở nước ngoài. Do những áp lực chính trị, B. Pasternak buộc phải từ chối nhận giải (30 năm sau con trai ông mới nhận thay ông tấm bằng cao quý đó).

                              * Tác phẩm:
                              - Những bài thơ đầu tay, in trong quyển Thơ trữ tình (Лирика, 1913).
                              - Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах, 1914), thơ.
                              - Phía trên rào cản (Поверх барьеров, 1917), thơ.
                              - Cuộc sống là chị tôi (Сестра моя жизнь, 1922), thơ.
                              - Thời thơ ấu của Lyuvers Детство Люверс (, 1922), truyện.
                              - Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации, 1923), thơ.
                              - Bệnh cao sang (Высокая болезнь, 1924), trường ca.
                              - Trung úy Smidt (Лейтенант Шмидт, 1926), trường ca.
                              - Đường trên không (Воздушные пути, 1924), truyện.
                              - Chứng chỉ hộ thân (Охранная грамота, 1931), tự truyện.
                              - Năm chín trăm lẻ năm (Девятьсот пятый год, 1927), trường ca.
                              - Truyện vừa (Повесть, 1929), truyện.
                              - Tái sinh (Второе рождение, 1932), tập thơ.
                              - Trên những chuyến tàu sớm (На ранних поездках, 1943), thơ.
                              - Khoảng bao la trái đất (Земной простор, 1945), thơ.
                              - Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго, 1957), tiểu thuyết.
                              - Con người và cảnh ngộ (Люди и положения, 1957), tự truyện.
                              - Bút kí tiểu sử (Биографический очерк, 1959).



                               
                              NGÀY HÔM NAY TẤT CẢ MẶC BÀNH TÔ

                              Ngày hôm nay tất cả mặc bành tô
                              Những mầm cây khoác trên mình giọt nước
                              Nhưng tất cả không một ai nhận ra
                              Rằng anh uống say tiết trời vẩn đục.

                              ánh bạc ngời những chiếc lá mâm xôi
                              Mặt sau lá hướng lên trời, ngửa mặt
                              Ngày hôm nay em buồn như mặt trời
                              Còn mặt trời như em – người phương bắc.

                              Ngày hôm nay tất cả mặc bành tô
                              Nhưng với ta không có gì bất lợi
                              Không có gì thay nổi cho hai ta
                              Thứ nước uống có màu hơi sẫm tối.
                              1913.



                               
                              ĐỪNG HỒI HỘP

                              Đừng hồi hộp, đừng làm, đừng khóc nữa
                              Sức hết rồi, chớ làm khổ con tim
                              Anh giữ em trong lồng ngực của mình
                              Như một dịp, như bạn thân, trụ đỡ.

                              Lòng tin vào tương lai anh không sợ
                              Em ngỡ anh như một kẻ hay lời
                              Ta chẳng liên minh, không phải cuộc đời
                              Điều gian dối hai người đem chặt bỏ.

                              Từ nỗi buồn của những người do dự
                              Anh mang ra giữa thoáng đãng trời xanh
                              Như bàn tay, người anh em của anh
                              Như bức thư gửi dành riêng em đó.

                              Em xé toang vào giữa, như bức thư
                              Với nhận biết ở trong từng dòng chữ
                              Hãy bỏ qua những tháng ngày mệt lử
                              Và chuyện trò theo kiểu núi An-pơ.

                              Rất rõ ràng trên mặt nước của hồ
                              Với óc núi chính xác vào xương tuỷ
                              Hãy tin rằng anh không người chơi chữ
                              Đem đặt vào đúng chỗ những dòng thơ.

                              Hãy lên đường. Mối ràng buộc hai ta
                              Và danh dự không còn dưới mái nhà
                              Như mầm cây đang hướng về ánh sáng
                              Em bây giờ nhìn tất cả khác xưa.
                              1931.


                              YÊU NGƯỜI KHÁC

                              Yêu người khác – cây thập ác nặng nề
                              Em tuyệt vời, không quanh co, khúc khuỷu
                              Và điều bí ẩn của vẻ đẹp kia
                              Lời giải đáp tìm ra anh xin chịu.

                              Giữa mùa xuân anh nghe tiếng thì thầm
                              Tiếng xạc xào của những điều chân lý
                              Em sinh ra từ dòng dõi trâm anh
                              ý nghĩ em vô tư như không khí.

                              Rất dễ thức giấc và rất dễ nhìn
                              Những lời bẩn từ trong tim rũ sạch
                              Sống mà không xả rác theo thời gian
                              Tất cả đấy chỉ là điều khôn vặt.
                              1931.



                              ĐÊM ĐÔNG

                              Khắp mặt đất màu trắng
                              Trắng xóa đến tận cùng.
                              Một ngọn nến cháy trên bàn
                              Cháy trên bàn ngọn nến.

                              Như trong mùa hè, một đàn ruồi nhỏ
                              Vào ngọn lửa đang bay
                              Những bông tuyết từ sân rơi vào đây
                              Bám vào khung cửa sổ.

                              Bão tuyết vẽ lên trên kính
                              Những vòng tròn và những mũi tên.
                              Một ngọn nến cháy trên bàn
                              Cháy trên bàn ngọn nến.

                              Trên trần nhà chiếu sáng
                              Những chiếc bóng nằm lên
                              Đan chéo những bàn tay, bàn chân
                              Đan chéo nhau số phận.

                              Và rơi xuống hai chiếc guốc
                              Với tiếng cộc cộc trên sàn
                              Và sáp từ cây đèn chong đêm
                              Như nước mắt vào áo quần nhỏ giọt.

                              Thổi vào ngọn nến từ trong góc
                              Cơn nóng quyến rũ đến lạ lùng
                              Giương đôi cánh giống như thiên thần
                              Đôi cánh có hình cây thập ác.

                              Cả tháng hai một màu tuyết trắng
                              Kể ra, chỉ là chuyện đương nhiên
                              Một ngọn nến cháy trên bàn
                              Cháy trên bàn ngọn nến.
                              1946.




                              MÙA THU

                              Anh đã chia tay với những người nhà
                              Tất cả người thân từ lâu không hợp
                              Với một nỗi cô đơn như mọi khi
                              Trong thiên nhiên và trong lòng dâng ngập.

                              Giờ ngồi đây cùng em trong lều gác
                              Giữa hoang vu, trong rừng vắng không người.
                              Những lối mòn, như lời trong bài hát
                              Cây cỏ chỉ còn một nửa mà thôi.

                              Và giờ đây với một vẻ u sầu
                              Nhìn vào hai ta những bức tường gỗ.
                              Anh và em chẳng có gì cách trở
                              Hai đứa chân thành sẽ chết cùng nhau.

                              Ta ngồi canh một, đứng dậy canh ba
                              Em với bức thêu còn anh với sách
                              Đến gần sáng sẽ không hề nhận ra
                              Ta thôi hôn nhau lúc nào không biết.

                              Hãy ngang tàng và lộng lẫy xa hoa
                              Rắc đầy lên hỡi lá rừng xào xạc
                              Chén khổ tận cay đắng ngày hôm qua
                              Nỗi buồn hôm nay tràn trề hãy rót.

                              Nỗi lưu luyến, niềm say mê, vẻ đẹp!
                              Tan biến vào trong ầm ĩ mùa thu!
                              Em hãy vùi trong mùa thu xào xạc!
                              Và sẽ ngất ngây hay sẽ điên rồ!

                              Và em hãy vứt quần áo mình ra
                              Như rừng nhỏ trong mùa thu trút lá
                              Khi vào vòng tay của anh em ngã
                              Trong áo choàng với nét vẽ nhung tơ.

                              Em là hạnh phúc của bước thương đau
                              Khi cuộc sống chán chường hơn bệnh tật
                              Còn can đảm là ngọn nguồn cái đẹp
                              Chính điều này xích ta lại gần nhau.



                              GIÓ

                              Anh đã chết rồi, em vẫn sống
                              Còn gió than phiền, khóc nỉ non
                              Gió lay biệt thự, lay rừng rậm.
                              Không gì riêng lẻ mỗi cây thông
                              Mà gió lung lay cả cánh rừng
                              Với tất cả tận cùng xa thẳm
                              Như lay những chiếc thuyền buồm
                              Trong vũng tàu nước lặng.
                              Đấy không phải là tại vì ngạo mạn
                              Hay tại vì giận dữ cuồng điên
                              Mà để, trong nỗi buồn vô hạn
                              Tìm những lời gió hát ru em.
                              1953.


                              TA MUỐN ĐẾN TẬN CÙNG

                              Trong tất cả ta muốn đến tận cùng
                              Đến tận cùng của bản chất sự vật
                              Trong tìm kiếm con đường, trong công việc
                              Và trong cơn náo loạn chân thành.

                              Ngày đã qua muốn hiểu tận căn nguyên
                              Đến tận cùng nguyên nhân của chúng
                              Đến nguồn gốc, căn cơ tường tận
                              Đến cốt lõi, đến trọng tâm.

                              Tất cả thời gian bằng sợi chỉ của mình
                              Bao trùm lên sự biến thiên, số phận
                              Ta sống, yêu và nghĩ suy, cảm nhận
                              Và ta tạo ra những phát minh.

                              Ôi, giá mà ta có thể theo ý muốn
                              Dù là chỉ được một phần
                              Thì ta sẽ viết ra tám dòng
                              Về tính chất của đam mê, say đắm.

                              Về những giấc mơ, những điều vi phạm
                              Những cuộc trốn chạy, truy lùng
                              Về sự hấp tấp không chủ tâm
                              Về những cùi tay, những bàn tay lành lặn.

                              Ta sẽ chỉ ra qui luật riêng của nó
                              Chỉ ra sự bắt đầu
                              Và nhắc lại tên sau
                              Bằng những chữ đầu tiên của họ.

                              Ta chia câu thơ như chia khu vườn
                              Bằng run rẩy mọi đường gân thớ thịt
                              Những cây gia sẽ mọc lên tươi tốt
                              Và nối đuôi nhau theo một lối mòn.

                              Ta mang vào thơ hơi thở của hoa hồng
                              Hơi thở bị làm cho nhàu nát
                              Bởi mùa cắt cỏ trên đồng những cây cỏ lác
                              Và tiếng rì rầm của những cơn giông.

                              Từng có một thời ông nhạc sĩ Sô-panh
                              Đã viết ra những giai điệu diệu kì như thế
                              Là của những nấm mồ, công viên, những khu
                              rừng nhỏ
                              Ông đem chúng vào trong những tác phẩm của mình.

                              Để đạt đến sự vinh quang
                              Thì trò chơi và sự đau đớn –
                              Như mũi tên bắn thẳng
                              Chỉ từ cung nỏ rất căng.
                              1956.



                              LÀM NGƯỜI NỔI TIẾNG LÀ KHÔNG ĐẸP

                              Làm người nổi tiếng là không đẹp
                              Đâu phải vì nổi tiếng mới lên cao
                              Những giấy tờ, lưu trữ đừng tích cóp
                              Trước những trang bản thảo chớ nôn nao.

                              Mục đích của sáng tạo là dâng hiến
                              Đâu phải vì thành tích, tiếng ồn ào
                              Đem biến mình thành những lời truyền miệng
                              Cho người đời, thật xấu hổ làm sao.

                              Ta cần sống khiêm nhường, không tự bạch
                              Phải sống sao, bởi suy xét cho cùng
                              Để tiếng gọi tương lai nghe thấy hết
                              Nhận về tình luyến ái của không trung.

                              Cần phải biết để chừa ra khoảng trống
                              Trong số phận mình, không phải trong thơ
                              Trong cuộc đời có những chương, những đoạn
                              Cần tô đậm lên cho khỏi lu mờ.

                              Và phải biết đắm chìm vào quên lãng
                              Trong vô danh giấu những bước chân ta
                              Như làng mạc ẩn mình trong sương sớm
                              Sương khói mịt mù không thể nhìn ra.

                              Những kẻ khác theo bước chân sống động
                              Bám gót ta đi qua chặng đường mình
                              Nhưng đành ngậm ngùi nhìn lên chiến thắng
                              Mặc người đời, ta không phải bận tâm.

                              Và phải biết không một tấc ngắn ngủi
                              Đừng để đánh mất gương mặt con người
                              Cần phải sống làm một người sôi nổi
                              Và vui tươi cho đến cuối cuộc đời.
                              1956.


                              TUYẾT RƠI

                              Tuyết rơi, tuyết rơi
                              Trong bão tuyết hướng về ngôi sao nhỏ
                              Hoa trúc quì hướng lên trời
                              Ngoài khung cửa sổ.

                              Tuyết rơi, tất cả đều luống cuống
                              Tất cả lên đường
                              Những bậc cầu thang đen thẫm
                              Rẽ ngoặt ngã tư đường.

                              Tuyết rơi, tuyết rơi
                              Có vẻ như từng bông không rơi xuống
                              Còn trong chiếc áo bành tô rộng
                              Rơi xuống đất – bầu trời.

                              Có vẻ như gương mặt kẻ dở hơi
                              Từ trên gác thượng
                              Chơi trò ú tim vụng trộm
                              Và rơi xuống – bầu trời.

                              Bởi vì cuộc đời không chờ đợi
                              Em đừng nhìn - đã lễ Giáng sinh(1)
                              Chỉ khoảng cách ngắn ngủi
                              Và năm mới – hãy nhìn.

                              Tuyết rơi dày đặc
                              Thành đống dưới chân ta
                              Với nhịp điệu hững hờ
                              Hay là nhanh chóng mặt
                              Như thời gian trôi qua?

                              Năm tháng, có thể là
                              Như tuyết rơi, nối tiếp
                              Hay như lời trong thơ?

                              Tuyết rơi, tuyết rơi
                              Tuyết rơi, tất cả đều luống cuống
                              Người bộ hành tuyết trắng
                              Hoa cỏ ngạc nhiên
                              Rẽ ngoặt ngã tư đường.
                              1957.
                              ___________
                              (1)Lễ Giáng sinh ở Nga (Chính thống giáo) vào ngày 7 tháng 1.






                              GIẢI THƯỞNG NOBEL

                              Tôi mất hút, sa vào như con thú
                              Đâu đó tự do, ánh sáng, con người
                              Tiếng thét gào, xua đuổi sau lưng tôi
                              Nhưng lối thoát bên ngoài không hiện rõ.

                              Khu rừng tối và bên hồ nước
                              Gỗ thông già chất đống khắp nơi
                              Cả bốn phía chặn bước con đường tôi
                              Tôi chịu đựng, dù thế nào cũng được.

                              Có phải tôi làm điều chi thô bỉ
                              Tôi là tên ác độc, kẻ giết người?
                              Tôi chỉ làm cho lệ thế gian rơi
                              Trước vẻ tuyệt vời của đất đai quê mẹ.

                              Cái chết đã cận kề, nhưng dù thế
                              Tôi vẫn tin rồi sẽ đến một thời
                              Khi tinh thần thánh thiện sẽ lên ngôi
                              Sẽ chiến thắng thói đê hèn, phẫn nộ.
                              1959

                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 34 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9