Các nhà thơ Đức+Ba Lan
cacbac 08.12.2007 12:16:15 (permalink)
 


Johann Wolfgang von Goethe (28/8/1749 – 23/2/1832) – nhà bác học, nhà tư tưởng, nhà thơ Đức, tác giả của “Faust” vĩ đại.

Tiểu sử:
Goethe sinh ở Frankfurt am Main. Bố là Johann Caspar Goethe, một vị quan của triều đình, mẹ là Catharina Elisabeth Textor, con gái của Thị trưởng thành phố. Từ nhỏ được bố và các thầy tư dạy các môn học phổ thông và các thứ tiếng: Hy Lạp, Latinh, Anh, Pháp. Goethe yêu thích hội họa và văn chương từ bé, 8 tuổi đã biết làm thơ. Từ năm 1765 đến năm 1768, Goethe học luật ở Đại học Leipzig nhưng ông tỏ ra không thích môn luật mà chỉ yêu thích thơ ca. Thời kỳ này Goethe yêu cô Käthchen Schönkopf và làm nhiều bài thơ tặng cô gái này. Năm 1767 ông xuất bản tập thơ đầu tiên: Das Buch Annette, một số bài thơ ông viết thời kỳ này bị thất lạc vì ông không lưu lại. Năm 1768 ông trở về Frankfurt và bị bệnh, phải nằm viện một thời gian dài. Năm 1770 ông tốt nghiệp Đại học luật ở Strasbourg. Ở đây, ông gặp và kết bạn với Johann Gottfried Herder, người có sự ảnh hưởng đến việc phát triển tài năng của Goethe sau này. Chính Herder là người đã khơi dậy lòng yêu thích Shakespeare, Ossian và thơ ca dân gian ở Goethe. Trong một chuyến đi về làng Sesenheim, Goethe đem lòng yêu mến cô Friederike Brion, nhiều bài thơ nổi tiếng như: Willkommen und Abschied (Gặp gỡ và chia ly); Mailied (Khúc hát tháng năm), được viết trong thời kỳ này.

Những năm từ 1775 đến 1785, Goethe sống ở Weimar, vừa là bạn, vừa là cố vấn cho quận công Carl August, ông tham gia vào nhiều công việc quan trọng trong bộ tài chính, bộ giao thông và nghiên cứu nhiều môn khoa học khác ngoài thơ ca. Thời gian này ông hai lần đi sang Ý du lịch và nghiên cứu các nhà thơ cổ La Mã. Năm 1794 ông kết bạn với Friedrich Schiller và chủ yếu sống ở Weimar. Năm 1806, một lần dạo chơi trong công viên ở Weimar, Goethe gặp người đẹp Christiane Vulpius, chính xác hơn là người đẹp đã bước đến nhờ Goethe đọc thơ của anh trai mình. Thơ của anh trai không hay nhưng Christiane Vulpius rất đẹp, và con tim nhà thơ đã rung động. Cuộc hôn nhân của ông với Christiane Vulpius là nguồn cảm hứng cho ông viết Römische Elegien (Những khúc bi ca La Mã) và nhiều bài thơ tình nổi tiếng. Ngoài thơ (gần 1600 bài), Goethe còn viết tiểu thuyết, truyện, giai thoại và danh ngôn. Đỉnh cao sáng tạo của ông là kiệt tác “Faust”, tác phẩm mà ông viết xong vào những ngày tháng cuối của cuộc đời. Goethe mất ở Weimar ngày 23 tháng 2 năm 1832.

Tác phẩm chính:
*Das Buch Annette, 1767
*Die Laune des Verliebten, 1767
*Götz von Berlichingen mit der eisernen Hand, 1773
*Clavigo, 1774
*Die Leiden des jungen Werthers, 1774
*Egmont, 1788
*Iphigenie auf Tauris, 1787
*Torquato Tasso, 1790
*Wilhelm Meisters Lehrjahre, 1796
*Xenien, 1796
*Die Wahlverwandtschaften, 1809
*Urworte. Orhisch, 1817
*Faust, 1832





GỬI MIGNON

Bay trên trời chiếu sáng
Xe mặt trời màu vàng
Tỏa sáng tận xa xăm
Nhưng than ôi, gần sáng
Trong con tim sâu thẳm
Thức dậy nỗi đau buồn.

Đêm nghiệt ngã cùng ta
Vỗ về những giấc mơ
Giờ khắc trôi chầm chậm
Nhưng than ôi, gần sáng
Trong con tim sâu thẳm
Đan kết nỗi buồn xưa.

Tưởng nhớ tháng ngày qua
Dưới bầu trời mờ xa
Những con tàu cập bến
Nhưng ở trong lòng ta
Một nỗi buồn cay đắng
Không đi khỏi bao giờ.

Ta ngỡ là khỏe mạnh
Mặc áo quần sang trọng
Chỉ dành cho ngày vui
Nhưng những ai chào đón
Có ai người cảm nhận
Trong tim ta ngậm ngùi.

Mặc lòng khóc cay đắng
Nhưng nước mắt ta chùi
Giá như đau khổ này
Đưa ta về ngôi mộ
Thì từ lâu ta đã
Ngủ yên trong đất rồi.

 
 
 

 
 
TÌNH YÊU MỚI, CUỘC ĐỜI MỚI
 
Con tim của ta ơi, có điều gì
Đã xảy ra làm mi buồn đến thế?
Cuộc đời mới lại hồi sinh mạnh mẽ
Làm cho ta không thể nhận ra.
Những gì xưa yêu giờ đã trôi qua
Xưa khát khao để giờ mi rầu rĩ
Đâu rồi tĩnh lặng, đâu vẻ vô tư
Con tim ơi, sao mi buồn đến thế?
 
Vẻ đẹp trẻ trung biến mi thành nô lệ
Vẻ dịu dàng, thùy mị, nét thơ ngây
Ánh mắt rực lửa, khao khát, gọi mời
Quyến rũ mi cho đến ngày xuống mộ
Liệu mi có muốn quay về lần nữa
Hay mong thoát ra khỏi cảnh tù đày
Nhưng vẻ đam mê, ánh mắt gọi mời
Chao ôi, muốn được quay về lần nữa!
 
Ta bất lực, bị bùa mê quyến rũ
Vây quanh ta dù sợi chỉ mong manh
Nhưng làm cho ta không nhận ra mình
Và ta vui với cuộc đời nô lệ.
Không mong muốn, không còn sức lực nữa
Ta thèm yêu, ta khao khát nỗi buồn
Muốn sống trong câu chuyện cổ thần tiên
Tình yêu ơi, thôi ta đành vậy nhé.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.09.2009 10:19:03 bởi cacbac >
#1
    cacbac 08.12.2007 12:18:21 (permalink)
     


    Christian Johann Heinrich Heine (13/12/1797 – 17/2/1856) – nhà thơ, nhà văn Đức, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XIX. Tên tuổi của Heine đặt ngang hàng với Goethe, Schiller…

    Tiểu sử:
    Heinrich Heine sinh ở Düsseldorf, Đức trong gia đình một thương gia gốc Do Thái.Heine học ở các trường Đại học Göttingen, Bonn và Berlin, chịu ảnh hưởng của Hegel. Năm 1825 nhận bằng tiến sĩ luật và hành nghề luật nhưng say mê văn chương, cả thơ ca lẫn văn xuôi. Tác phẩm đầu tay Reisebilder, nhiều tập, xuất bản năm 1826 đг mang lại danh tiếng cho фng vа tiếp đу, фng đг cу thể sống được bằng nghề văn. Thаnh cфng nаy cho phйp Heine cộng tбc lвu năm với một nhа xuất bản ở Hamburg. Thời gian nаy фng đi sang Anh, Э tмm kiếm cảm hứng để viết tiếp cбc tập sau. Quyển thơ đầu tiкn Gedichte (Những bài thơ), sáng tác năm 1821, về một tình yêu cuồng si với người em họ Amalie. Tình yêu này đã truyền cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ tình hay nhất. Tập Buch der Lieder (Quyển sách thơ) là tuyển tập thơ đầu tiên có đầy đủ các bài thơ ông viết. Năm 1831. Heine rời Đức, sang Paris, Pháp và sống ở đó cho đến hết đời, ngoại trừ một lần trở lại Đức năm 1843. Ở Pháp, ông đã liên kết với nhóm chủ nghĩa xã hội không tưởng của Count Saint-Simon, người tuyên truyền một thiên đường theo chủ nghĩa quân bình không giai cấp dựa trên những người có tài thực sự. Dù sống ở Pháp nhưng ông sáng tác về nước Đức. Thập niên 1840 ông liên tục cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng: Atta Troll: Ein Sommernachtstraum (Atta Troll: Giấc mộng đêm hè, 1843); Neue Gedichte (Những vần thơ mới, 1844); Deutschland, ein Wintermrchen (Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông, 1844).

    Những năm tháng cuối đời, Heine bị bệnh nằm liệt giường trong suốt 8 năm trời, tuy vậy ông vẫn tiếp tục sáng tác. Bằng chứng là nhiều tuyệt tác của ông được viết trong thời gian này như Romanzero, 1851; Gedichte 1853–1854…Heinrich Heine mất ngày 17 tháng 2 năm 1856 ở Paris, mai táng tại nghĩa trang Montmartre. Thơ của Heine dễ đọc vì ông biết cách diễn đạt giản dị và ngắn gọn nhưng sâu sắc về ý nghĩa. Với gần 10.000 tác phẩm đủ mọi thể loại, Heine còn là nhà thơ được phổ nhạc nhiều nhất mọi thời đại. Heine nổi tiếng là một nhà tiên tri với dòng thơ: “Ở nơi mà người ta đốt sách, rồi họ sẽ đốt người”, ông viết những lời này từ năm 1821, dự báo về cảnh lò thiêu của Đức Quốc xã trong thế chiến II.

    Tác phẩm:· Auf Flügeln des Gesanges
    · Gedichte, 1821
    · Tragödien, nebst einem lyrischen Intermezzo, 1823
    · Reisebilder, 1826-31
    · Die Harzreise, 1826
    · Ideen, das Buch le Grand, 1827
    · Englische Fragmente, 1827
    · Buch der Lieder, 1827
    · Französische Zustände, 1833
    · Zur Geschichte der neueren schönen Literatur in Deutschland, 1833
    · Die romantische Schule, 1836
    · Der Salon, 1836-40
    · Ludwig Börne: Eine Denkschrift, 1840
    · Neue Gedichte, 1844 - New Poems
    · Deutschland. Ein Wintermärchen, 1844 - Germany
    · Atta Troll. Ein Sommernachtstraum, 1847
    · Romanzero, 1851
    · Der Doktor Faust, 1851
    · Les Dieux en Exil, 1853
    · Die Harzreise, 1853
    · Lutezia, 1854
    · Vermischte Schriften, 1854
    · Letzte Gedichte und Gedanken, 1869
    · Sämtliche Werke, 1887-90 (7 Vols.)
    · Sämtliche Werke, 1910-20
    · Sämtliche Werke, 1925-30
    · Werke und Briefe, 1961-64
    · Sämtliche Schriften, 1968

    Một số bài thơ:



    NÓI LỜI RỒI CHẾT

    Bao kiếp người đều chết
    Năm tháng vẫn qua mau
    Chỉ tình yêu không hết
    Ngự trong trái tim sầu.

    Xin một lần tôi được
    Quì xuống dưới bàn chân
    Nói một lời rồi chết:
    Tôi yêu nàng, madame!


    HỌ ĐÃ CHẾT TỪ LÂU

    Họ đã yêu nhau vô cùng thắm thiết
    Nhưng hai người đều không muốn gặp nhau
    Họ đau khổ vì tình yêu mỏi mệt
    Nên hai người ngăn cách bởi niềm đau.

    Họ chia tay chỉ còn trong giấc mộng
    Cả hai người được nhìn thấy hình nhau
    Và tự họ không thể nào biết đến
    Một điều rằng họ đã chết từ lâu.


    EM NHƯ BÔNG HOA QUÍ

    Em như bông hoa quí
    Đẹp sáng tỏ, dịu hiền
    Anh nhìn em, ngắm nghía
    Hồn lại nổi sóng lên.

    Hãy cho anh được nhé
    Đưa tay đặt lên đầu
    Để cầu xin Thượng Đế
    Cho em đẹp dài lâu.



    ĐÔI MẮT EM

    Em có cả kim cương và ngọc bích
    Cả những gì thiên hạ vẫn đi tìm
    Và em có đôi mắt vô cùng đẹp
    Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?

    Vì đôi mắt của em vô cùng đẹp
    Anh gửi về nguyên cả một đoàn quân
    Những bài hát của trái tim tha thiết
    Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?

    Trong tim anh, đôi mắt này tuyệt đẹp
    Đã đặt vào dấu vết của đau thương
    Vì đôi mắt anh sẵn sàng xin chết
    Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?


    ÁNH TRĂNG

    Ánh trăng soi sóng sánh
    Trên sóng biển rì rào
    Trăng trên trời yên lặng
    Và sáng tỏ biết bao.

    Em cũng vậy, lặng yên
    Đi trên đường sáng tỏ
    Nhưng bóng em rung lên
    Trong tim này run rỡ.


    DÙ EM Ở ĐÂU

    Dù em ở đâu thì anh vẫn thế
    Ơ khắp nơi, anh vẫn gặp hàng ngày
    Em càng muốn xa anh, càng khó dễ
    Anh lại càng yêu em đến mê say.

    Cơn giận của em làm anh dễ chịu
    Trước mặt em anh luống cuống, ngại ngùng.
    Nếu em muốn cho anh thôi quấy nhiễu
    Hãy nhớ rằng em cần phải yêu anh.


    CON TIM TAI ÁC

    Anh chẳng tin điều gì ở trời xanh
    Chẳng đọc kinh dù Tân hay Cựu ước
    Mà anh chỉ tin ở đôi mắt em
    Trong đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc.

    Anh chẳng hề tin vào chuyện thánh thần
    Chẳng đọc kinh dù Tân hay Cựu ước
    Mà anh chỉ tin ở trái tim em
    Ngoài trái tim chẳng có thần nào khác.

    Anh chẳng tin ác độc những linh hồn
    Chẳng hề tin vào khổ đau địa ngục
    Mà anh chỉ tin ở đôi mắt em
    Anh chỉ tin con tim em tai ác.


    BÂY GIỜ TÔI MỚI NÓI

    Cái chết về. Bây giờ tôi mới nói
    Đành bỏ qua thề thốt một lời nguyền
    Rằng con tim đã bao năm nhức nhối
    Một nỗi buồn mòn mỏi chỉ vì em.

    Quan tài đợi. Và bóng đen cau có
    Tôi ngủ quên trong giấc ngủ muôn đời
    Chỉ mình em, Maria, hãy nhớ
    Chỉ mình em khóc thương tiếc cho tôi.

    Bàn tay đẹp em nhớ đừng làm hỏng
    Chỉ thế thôi số phận của con người
    Ai chỉ sống với cuộc đời cao thượng
    Khi chết rồi chỉ còn tiếc mà thôi.


    NGƯỜI ĐANG YÊU

    Ai là kẻ mới biết yêu lần đầu
    Cứ đau khổ đi – ngươi là Thượng Đế
    Nhưng ai người đã yêu lại lần sau
    Còn đau khổ qủa là không biết nghĩ.

    Tôi đang yêu – tôi người không biết nghĩ
    Đi yêu người nhưng người chẳng yêu tôi.
    Sao cười tôi, cả mặt trời cũng thế
    Tôi cũng cười nhưng cười để chết thôi.


    EM CHẲNG THẤY ĐÂU

    Trong nhà em đêm hội
    Cửa sổ sáng chói loà
    Bóng dáng em sôi nổi
    Anh đứng nhìn từ xa.

    Nhưng em không nhìn thấy
    Anh đang đứng trong đêm
    Lại càng không nhìn thấy
    Trong mắt anh nỗi buồn.

    Con tim yêu đau đớn
    Dòng máu nóng tuôn trào
    Tim vỡ ra từng mảng…
    Em cũng chẳng thấy đâu.




    CHỈ LÀ BÓNG

    Chỉ là bóng – tất cả về cát bụi
    Cả nụ hôn, cuộc sống, ái tình
    Vâng, em ơi, tất cả đều qua nhanh
    Những gì đã qua không còn quay trở lại.

    Những gì đã yêu, những gì đã có
    Đều là giấc mơ, tiếng động, bóng ma
    Và con tim quên lãng tự bao giờ
    Và đôi mắt đã từ lâu mê ngủ.


    SAU ĐÓ – VÀ MỘT MÌNH

    Hai người trước lúc chia xa
    Cùng bắt tay nhau tạm biệt
    Cả hai cùng thổn thức
    Và những giọt lệ tuôn ra.

    Khi chia xa cả em và anh
    Hai ta không nức nở
    Nhưng nước mắt đau khổ
    Đã tuôn ra sau đó – và một mình.
    #2
      cacbac 08.12.2007 12:20:51 (permalink)





      Rainer Maria Rilke (tên đầy đủ: René Karl Wilhelm Johann Josef Maria Rilke, 4 tháng 12 năm 1875 – 29 tháng 12 năm 1926) – nhà thơ Áo viết bằng tiếng Đức, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX.

      Tiểu sử:
      Rainer Maria Rilke sinh ở Prague, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là cộng hoà Czech) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Prague, sau đó ở Munchen (Munich), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học văn học, lịch sử nghệ thuật, triết học ở Đại học Prague, Đại học Munchen, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt ( Những giấc mộng đăng quang, 1897).. là sự thể hiện những đề tài của chủ nghĩa suy đồi cuối thế kỉ XIX. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Leo Tolstoy và chịu sự ảnh hưởng của văn học Nga, chuyển sang khuynh hướng nhân đạo trong sáng tác. Năm 1901 cưới Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến I xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở Munchen, năm 1919 sang Thụy Sĩ. Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Geneva. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Hậu quả là Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ khắc trên bia mộ:

      Rose, oh reiner Widerspruch, Lust,
      Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern.

      Hoa hồng, ôi vẻ hai mặt trắng trong, đỏng đảnh
      Làm một giấc mộng không của ai dưới gánh nặng của bao đời.


      Tác phẩm:
      Thơ:
      *Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894)
      *Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897)
      *Advent (1898)
      *Erste Gedichte (Những bài thơ đầu tiên, 1903)
      *Mir zur Feier (Cho tôi trong ngày lễ, 1909)
      *Buch der Bilder (Quyển sách những hình tượng, 1902)
      *Stundenbuch (Nhà nguyện, 1905)
      *Neue Gedichte (Những bài thơ mới, 1907-08)
      *Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser, 1912/1922)
      *Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus, 1923)
      *Das Marien-Leben (Cuộc đời của trinh nữ Marie, 1912)
      *Die Weise von Liebe und Tod des Kornets Christoph Rilke, (Bài ca về tình yêu và cái chết của Kornets Christoph Rilke 1906).
      Văn xuôi:
      *Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Những ghi chép Malte Laurids Brigge 1910)



      CHO GIẤC MỘNG NGÀY MAI

      Anh muốn hát ru em như ngày cũ
      Hát đưa nôi mẹ từng hát ru ta.
      Để ru em vào giấc mộng và chờ
      Em trở về với anh từ giấc ngủ.

      Rồi anh anh sẽ lắng nghe từng hơi thở
      Anh nép mình bên cửa sổ lặng yên
      Để sáng ra anh biết, chỉ một mình
      Ôi, cái đêm vừa qua sao lạnh thế.

      Khu vườn khẽ rùng mình sau cửa sổ
      Khi ngôi sao trên chiếc lá rơi lên
      Trong giấc mơ em hãy ngó nhìn xem:
      ánh mắt anh như bàn tay dịu nhẹ.

      Những bàn tay giữ gìn em rất khẽ
      Và ít khi đặt em ở trên giường
      Trong khoảnh khắc, khi trong sự lặng yên
      Anh nghe ra tiếng thì thào ai đó.


      BẦU TRỜI ĐÊM

      Bầu trời đêm mờ mờ trong ánh bạc
      Đêm muốn khoe vẻ đặc biệt của mình
      Ta thật xa, để cùng đêm hoà nhập
      Và quá gần, để không hiểu về đêm.

      Ngôi sao rụng!... Và em hãy vội nhìn
      Em hãy đoán ra trong giờ phút ấy…
      Điều gì “có” và “không” chốn trần gian
      Ai có lỗi? Ai người không có lỗi?…


      TA YÊU EM, MÙA XUÂN

      Ta yêu em, mùa xuân
      Cả trăm điều huyền bí
      Không mùa xuân thành thị
      Mà mùa xuân trong rừng.

      Chỉ những ai lang thang
      Chỉ những ai đôi lứa
      Sẽ tìm thấy mùa xuân
      Trong từng bông hoa nhỏ.



      TRÊN THUNG LŨNG GIỜ HOÀNG HÔN

      Trên thung lũng giờ hoàng hôn
      Ta lang thang, không hiểu vì đâu đấy…
      Và bỗng nhiên giữa trời xanh
      Một ngôi sao bừng cháy.

      Ngôi sao giữa trời xanh mệt mỏi
      Ánh lửa cháy rung rinh
      Ngôi sao cũng khát khao về nơi xa ấy
      Và cũng một mình…


      ANH SẼ CÙNG EM

      Anh sẽ cùng em, khi năm tháng
      Tạo nên những sự diệu kì
      Từ cành thông sẽ nhỏ xuống hồn ta
      Niềm ân huệ như giọt sương buổi sớm.

      Khi hoa nhài nở trong tháng năm
      Bên đường, quanh cây thập ác
      Bàn tay màu trắng của hoa xoã lấp
      Vầng trán của Chúa đau thương.
      #3
        cacbac 08.12.2007 12:23:46 (permalink)
         


        Nelly Sachs (1891-1970) - nữ nhà thơ Đức, giải Nobel Văn chương 1966, sinh ngày 10-12-1891 trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin. Từ nhỏ đã yêu thích âm nhạc, văn chương, làm thơ đăng trên một số báo và in một cuốn sách bao gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm lên 15 tuổi Nelly Sachs đọc tiểu thuyết Gostar Berlings Saga của nữ nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlof (1858 - 1940), cuốn sách đã để lại trong lòng Nelly Sachs một ấn tượng vô cùng sâu sắc và cô đã viết thư cho Selma Lagerlof. Kể từ đó hai người tiếp tục thư từ cho đến khi Selma Lagerlof mất.
        Năm lên 18 tuổi Nelly Sachs bắt đầu làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu chuyện cổ tích, một số bài thơ được đăng trên các báo. Sau khi bố mất và Hitler lên nắm quyền ở Đức, Nelly Sachs cùng mẹ sống một cuộc sống thu mình, không tiếp xúc với xã hội bên ngoài.
        Năm 1940, nước Đức đánh chiếm Châu Âu và khủng bố người Do Thái, Nelly Sachs trốn sang Thụy Điển và ở đây tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà Trong ngôi nhà của tử thần xuất bản tại Đông Đức năm 1947. Thơ Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, thường nói về nỗi thống khổ và niềm hi vọng của dân tộc Do Thái, chịu ảnh hưởng bởi thơ ca truyền thống Do Thái và chủ nghĩa thần bí cổ đại Đức. Từ sau chiến tranh bà còn viết một số vở kịch, nhưng tác phẩm khiến bà nổi tiếng nhất là Trốn chạy và biến đổi (1959). Sau tập thơ này bà được trao giải thưởng Anetta von Droste Hulsoff và chính quyền Dortmund đã lập ra một giải thưởng văn học hàng năm mang tên Nelly Sachs và cấp cho bà một chế độ trợ cấp trọn đời.
        Nelly Sachs được tặng nhiều giải thưởng, trong đó giải Nobel Văn học bà nhận cùng với nhà văn Do Thái khác là Shmuel Agnon. Nelly Sachs mất tại Stockholm ngày 12-05-1970.

        Tác phẩm:
        - Trong ngôi nhà của tử thần (In den Wohnungen des Todes, 1946), thơ.
        - Che mờ các ngôi sao (Stern ver dunkelung, 1949), thơ.
        - Không ai biết được sẽ ra sao (Und niemand weiss weiter, 1957), thơ.
        - Trốn chạy và biến đổi (Fluch und Verwandlung, 1959), thơ.
        - Bí kịch về những đau khổ của Israel (Ein Mysterienspiel vom Leiden Israels, 1951), kịch.
        - Những dấu hiệu trên cát (Zeichen im Sand, 1962), tập kịch.




        CÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỜI

        Các dân tộc trên đời
        hãy bằng sức mạnh những vì sao xa xôi
        quấn vào như búp sợi
        hãy đan, rồi tháo, rồi đan lại
        cho trộn lẫn những lời
        như cái tổ ong
        châm chích cho thoả lòng
        và để cho ong cắn lại.

        Các dân tộc trên đời
        chớ hủy hoại những lời hoàn vũ
        chớ chia cắt bằng dao lòng thù hận khắp nơi
        tiếng động sinh ra cùng hơi thở!

        Các dân tộc trên đời
        có ai không hiểu ngầm cái chết
        khi nói “cuộc đời”
        có ai không hiểu rằng máu thịt
        khi nói “vành nôi”!

        Các dân tộc trên đời
        những lời nói nơi ngọn nguồn bỏ lại
        bởi chúng sẽ quay về với
        những chân trời
        bằng mặt trái của mình
        sự sơ suất che đêm lại
        để những vì sao sẽ hồi sinh.



        NHỮNG NGƯỜI GIÀ

        Ở đây
        Trong kho chứa của những ngôi sao này
        Trời đêm che lên từng mảng
        Họ đứng và đợi Chúa Trời.
        Những móc sắt han gỉ cùm miệng họ
        Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời
        Trong những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy
        Ô, những người già mang những đứa trẻ bị thiêu trong mắt
        Như tài sản duy nhất của họ trên đời…

        Những người già đứng đấy
        Đêm cắt vào giấc ngủ
        Vào bầu trời đêm họ dõi mắt nhìn
        Họ đợi Chúa Trời với vì sao cháy lên.

        Những bàn tay giơ vào trời xanh
        Những đôi môi cháy sém
        Những đôi môi câm nín
        Trong tiếng kêu lạc lối những hành tinh.

        Chỉ những đôi mắt không ngủ bao giờ
        Bầy quạ đen trên đám mồi bay liệng
        Chìm trong nước mắt và luôn tái hiện
        Quạ canh chừng những đứa trẻ cháy thành tro.

        Ô, những người già mang những nấm mồ:
        Kí ức đắng cay của những ngày khiếp đảm!
        Họ vẫn đợi, kiên gan, dù Chúa Trời im lặng
        Không vội vàng từ xứ sở những vì sao…


        *Năm 1966 Nell Sach được trao giải Nobel Văn học cùng với Agnon. Trong lời đáp ở buổi tiệc chiêu đãi Nelly Sachs nói rằng: “Agnon đại diện cho nhà nước Israel còn tôi đại diện cho thảm kịch của dân tộc Do Thái”.

        Ngày 10-5-1933 ở Berlin, Đức quốc xã đem đốt hàng loạt sách “độc hại” do những tác giả người Do Thái viết ra. Trong số này có sách của H. Heine, S. Freud. S. Zweig, A. Einstein… Nhưng từ giữa thế kỉ 19 nhà thơ vĩ đại Heinrich Heine đã viết những lời tiên tri: “Nơi mà người ta đem đốt sách, rồi họ sẽ đốt người!”
        Trong suốt những năm chiến tranh thế giới thứ hai Đức quốc xã thi hành chính sách giết hết người Do Thái. Bất kể đàn ông, phụ nữ, người già, trẻ con… Sáu triệu người Do Thái bị giết ở Đức và các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng. Đây là một trang bi thảm nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc Do Thái.
        Trong những năm kinh hoàng này Nelly Sachs cùng với mẹ đã kịp rời nước Đức trên chuyến tàu cuối cùng sang Thụy Điển. Đến Thụy Điển những năm đầu bà làm đầu bếp, sau đó là dịch thuật và tiếp tục sáng tác. Bà viết trong hồi kí của mình: “Tôi viết để mà tồn tại. Tôi cháy lên trong lửa với những ai ở đấy… Nhưng tôi phải sống để cho những người khác biết về tất cả…” Khi nghe tin về cái chết của người yêu, những người bà con, bạn bè thì phong cách thơ của bà thay đổi hẳn. Những lò thiêu, nhà hỏa táng và những nỗi cực hình luôn có mặt trong thơ bà…
        Thơ của Nelly Sachs độc đáo ở hình thức lạ. Dường như toàn bộ thơ bà tạo thành một khúc tưởng niệm. Dưới những vẻ khác nhau chúng hợp thành một bài thơ lớn. “Những khúc Khải huyền tôn giáo này – nhà thơ, nhà phê bình Anh, Stephen Spender (1909-1995) viết – là sự thể hiện tính cách Do Thái, vô cùng mạnh mẽ, cuộc đời sánh ngang với cái chết và ngược lại…” Thơ của Nelly Sachs, có lẽ, là câu trả lời cho câu nói nổi tiếng của nhà triết học, nhà phê bình Đức, Theodor Adorno (1903-1969): “Sau Oswiecim(1) không nên làm thơ nữa”. Nghĩa là thơ ca, bằng cách nào đấy, phải viết khác đi… Quả vậy, thơ của Nelly Sachs không dễ đọc (dịch sang tiếng Việt lại càng khó khăn hơn). Đấy là sự khó nhọc của tâm hồn nhưng nếu xuyên qua được bức tường thì sẽ hiểu hơn về con người nói chung, hiểu về bản thân mình nhiều hơn, hiểu hơn về sự tồn tại cao cấp và đầy bi kịch của con người.
        “Những người già” là một bài thơ không có vần bắt đầu bằng tiếng kêu “ở đây”. Những người già đứng ở đây. Họ không làm gì cả, họ chỉ đứng và đợi Chúa Trời. Chúa Trời ở đây không giống với Chúa Trời trong Kinh Thánh – là vị cứu tinh đối với con người trong những tình huống tuyệt vọng, còn ở đây, những người ở “trong kho chứa của vì sao” thì Ngài không thể cứu được họ. Những người già cũng không giống với Job đã gọi Chúa Trời, kêu với Ngài về những đau khổ của mình. Những người già chỉ biết đứng chờ trong tuyệt vọng. Họ đã mất không chỉ hy vọng mà cả lời nói “những cùm sắt han gỉ cùm miệng họ”. Những cùm sắt này hiểu theo truyền thống tôn giáo cho ta liên tưởng với cái mũ gai người ta đã đội lên đầu Chúa Jêsus trước khi đem Chúa đi đóng đinh (Tân Ước_Ma-thi-ơ 27:28). “Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời…” Chỉ đôi mắt – cửa sổ tâm hồn – có thể biểu hiện được nỗi đau, nỗi tuyệt vọng tràn ngập trong lòng họ. Nelly Sachs mô tả: “những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy”. Giếng là nơi con người lấy nước, giếng cần cho sự sống của con người. Nhưng giếng xác chết chất đầy thì không thể còn sử dụng được nữa. Giếng cũng bị tước mất chức năng của mình là cung cấp nước cho người…
        Những người già được nói đến trong bài thơ này không hẳn là những người già cả mà chỉ đơn giản họ là những người sống sót qua những năm tháng khủng khiếp kia và bây giờ họ trở thành những người già. Họ bị mất tất cả: tài sản, gia đình, cả tiếng nói và cả niềm hy vọng. Họ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ nên đã không còn cảm nhận được nỗi đau, nước mắt đã không còn trong những đôi mắt của họ. Chỉ còn lại một thứ duy nhất trong đó – “những đứa trẻ bị đốt thành tro”. ở đây qui luật tự nhiên bị phá vỡ – những đứa trẻ đáng lẽ phải sống tiếp sau bố mẹ mình nhưng vì chúng bị thiêu trong lò gas nên chỉ còn lại những người già… Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh Đức Chúa Trời, mặc dù Chúa đã không can thiệp, không giúp được gì cho họ nhưng họ vẫn đợi, vẫn kiên gan và vẫn tin rằng Ngài đang ở đâu đó. Hình tượng Chúa ở đây nói lên nhiều điều. Một mặt, cho thấy tình trạng tuyệt vọng đến tận cùng. Người ta đợi mà không còn mong một điều gì - đây là tình trạng mong manh giữa sự sống và cái chết. Mặt khác, sự tuyệt vọng được gắn liền với hình tượng Chúa – là Đấng Tối Cao mà con người vẫn đặt vào tất cả hy vọng (không quan trọng là sự tồn tại hay sự có mặt của Ngài). Và trái ngược với những điều được nói đến trong bài thơ, thức dậy ở người đọc một tình cảm, một ý nghĩ rằng, dù sao vẫn tồn tại Đức Chúa Trời, chỉ đơn giản là lúc đó Ngài không có mặt. Tồn tại – bởi vì người ta vẫn gọi tên Ngài, còn không có mặt – là bởi vì người ta vẫn đợi.
        _____________
        (1)Oswiecim (tiếng Ba Lan); Auschwitz (tiếng Đức) – thành phố ở miền nam Ba Lan. Trong những năm 1940-1945 là trại giam của phát xít Đức. Hơn 4 triệu người bị giết chết trong trại giam này.
        #4
          cacbac 08.12.2007 12:26:07 (permalink)
          Các nhà thơ Ba Lan


          Nhà thơ Giáo hoàng John Paul II


          Bức hoạ thành Rôm phần II - Theo sách "Sáng thế ký"


          NGÀI (ĐỨC CHÚA TRỜI)

          Ta sống, đi lại, hít thở bằng Ngài
          Nhưng chẳng lẽ Ngài chỉ là Đức Chúa?
          Ngài sáng tạo ra muôn loài, và sau đó
          Ngài cho tất cả có hơi thở, cuộc đời
          Bàn tay Ngài là trụ đỡ cho những ước mơ.
          Ta là nòi giống của Ngài – cuộc đời của Chúa.
          Giáo chủ trong dàn đồng ca đứng giữa
          Cất giọng hát lên, những lời trong Kinh
          Con người hồi tưởng trong buổi hoàng hôn:
          "Nhìn thấy Đức Chúa Trời, và đó là tốt đẹp".

          Tâm hồn trong đời sáng tỏ nhường kia
          Đức Chúa Trời soi sáng cho tất cả
          Khởi thuỷ là Lời – Lời mở ra cánh cửa
          Ta bước vào – hít thở, sống và đi.



          CON NGƯỜI (TÔI)

          Kêu lên trong sáng tạo của mình:
          - "Hoan hô!"
          Nhưng lịch sử trái ngược với ý muốn của ai?
          Thế kỉ hai mươi thật vô cùng khiếp đảm!
          Có thể chỉ là thế kỷ hai mươi?
          Nhưng chân lý trăm năm không hạ mình tranh luận.
          Và hình dáng, sự tương tự - của Ngài!

          Người làm thuê của chân lý – thầy Buonarroti(1)
          Suốt cả đời những gian phòng ở Vatican đã vẽ
          Và chỉ mở cửa ra đi, ngôi nhà từ giã
          Sau khi đã vẽ xong nhà thờ Sistina(2).

          "Và Ngài đã tạo ra
          Con người theo hình của Chúa
          Ngài đã tạo ra
          Đàn ông và phụ nữ
          Ngài đã tạo ra họ.
          Và cả hai đều trần truồng
          Và không hề xấu hổ".
          Và Đức Chúa Trời khi đó
          Ngắm nhìn những gì Ngài đã tạo ra
          Và nói: "Tất cả đều tốt đẹp cả mà!"

          Không một sinh linh nào tránh khỏi con mắt Ngài
          Trước mắt Ngài tất cả đều sáng tỏ.



          SỰ PHÁN XÉT

          Bảo tàng Sistina có bức tranh ngày phán xử
          ở Capella(4) có toà án cho tất cả mọi người
          Trong những con mắt đớn đau – cùng chung phận số
          Điểm tận cùng là điểm kết đó thôi
          Cứ như vậy, lần lượt những cuộc đời.

          Non omnis morriar
          Không, ta không chết bao giờ
          Trong ta là cuộc sống
          Đấy chỉ là phần xứng đáng
          Đối diện với Ngài
          Ngài đã tạo ra sự sống!
          Đám đông trong bức tranh luống cuống.
          Ngươi chưa quên chứ, Adam?
          Ngài đã từng gọi:
          - Con ở đâu rồi?
          Và ngươi trả lời:
          - Con sợ, con trần truồng
          Con trốn vì điều ấy.
          Ai nói rằng ngươi trần truồng?
          Và ngươi đã trả lời, có nhớ?
          - Ngài đã trao cho con người vợ
          Và vợ con trao trái cấm cho con...

          Đám đông chen chúc trong bức hoạ trên tường
          Trước câu trả lời con người còng lưng xuống
          Câu hỏi đã ghi, câu trả lời cũng đúng
          Tất cả ra về theo một đường chung.
          _____________________-
          Bức hoạ thành Rôm là bài thơ dài gồm 3 phần, mỗi phần có nhiều mục. Chúng tôi chỉ trích dịch 3 mục của phần 2.
          (1) Michelangelo Buonarroti (1475-1564) – nhà điêu khắc, hoạ sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ Italia.
          (2) Sistina (Capella Sistina) – nhà thờ ở Vatican, nay là bảo tàng, nơi có những bức tranh nổi tiếng của Michelango Buonarroti
          (4) Tháp chuông nhà thờ ở Vatican.



          #5
            cacbac 08.12.2007 12:28:30 (permalink)
             


            Adam Bernard Mickiewicz (24 tháng 12 năm 1798 – 26 tháng 11 năm 1855) – nhà thơ dân tộc Ba Lan, được coi là một trong những nhà thơ lón nhất của thơ ca lãng mạn thế giới.

            Cuộc đời:
            Adam Mickiewicz sinh ở Zaosie gần Navahrudak, Đế quốc Nga (nay là Belarus), là con trai của Mikołaj Mickiewicz một luật sư nghèo. Học Đại học Vilnius từ năm 1815. Tham gia vào việc thành lập nhóm thanh niên yêu nước và làm thơ cổ vũ cho phong trào này. Sau khi tốt nghiệp Đại học, làm giáo viên dạy học. Năm 1823 bị bắt vào tù vì tham gia hoạt động chính trị, năm 1824 được trả tự do. Từ năm 1824 đi đến nhiều thành phố như Sankt-Peterburg, Odessa, Moskva, Cremia.. làm quen với nhiều nhà cách mạng Tháng Chạp ở Nga. Từ năm 1829 đi ra nước ngoài. Sống ở Đức, Thụy Sĩ, Ý. Năm 1832 sang Paris, cộng tác với các nhà chính trị sống lưu vong của Ba Lan và Litva. Năm 1840 được phong giáo sư các ngôn ngữ Slavic của trường College de France. Năm 1855 Adam Mickiewicz đến Constantinople với ý định thành lập đội quân người Ba Lan giúp Anh, Pháp chống lại Nga hoàng nhưng ý định đang dở dang thì bị bệnh dịch tả và mất ngày 26 tháng 11.

            Thơ ca:
            Bài thơ dầu tiên Zima miejska in ở báo Tygodnik Wileński năm 1818. Tập thơ đầu Poezje (Thơ), xuất bản năm 1822 có bài giới thiệu O poezji romantycznej (Về thơ lãng mạn) trở thành tuyên ngôn của phái lãng mạn trong văn học Ba Lan. Sau đó in 4 tập thơ khác ở Nga. Thiên sử thi Pan Tadeusz czyli Ostatni zajazd na Litwie viết trong các năm 1832-1834 in ở Paris năm 1834 được coi là kiệt tác. Adam Mickiewicz là người thể hiện ý chí của dân tộc Ba Lan, người đầu tiên nâng thơ ca Ba Lan lên ngang tầm các nền thơ khác của châu Âu.

            Tác phẩm:
            *Poezje (Thơ, 1822)
            *Sonety krymskie (Những bài sonnet Cremia, 1826), thơ
            *Konrad Wallenrod, 1828, trường ca
            *Księgi narodu polskiego i pielgrzymstwa polskiego», 1832, văn xuôi
            *Pan Tadeusz czyli Ostatni zajazd na Litwi, 1834, thiên sử thi
            Các tuyển tập:
            *Dzieła. Wydanie narodowe, t. 1-16, Warszawa, 1949—1955
            *Dzieła. Wydanie jubileuszowe, t. 1-16; Warszawa, 1955
            *Dzieła wszystkie, t. 1, 4, Warszawa, 1969-72




            NGHI NGỜ

            Anh đau khổ khi không nhìn thấy em
            Khi gặp em – rối bời anh đã chẳng
            Nhưng nếu hai đứa ở hai đầu xa thẳm
            Thì anh buồn, anh cảm thấy cô đơn
            Không làm sao trả lời được cho mình:
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

            Khi ở xa nụ cười, ánh mắt của em
            Hình bóng em, anh đã không tưởng tượng
            Dù cố gắng, chỉ hoài công, phí uổng
            Hình bóng rất gần tuyệt đẹp, lung linh
            Anh không đoán ra đến tận bình minh:
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

            Anh chịu đựng đã nhiều, nhưng dù thế
            Em trong nỗi niềm cay đắng chẳng hình dung
            Không mục đích, em không giữ con đường
            Anh chẳng biết tìm đâu ra cánh cửa
            Ai dẫn đường? Sao chẳng có lời khuyên:
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

            Anh trao em sức khỏe, nếu em cần
            Vì yên lặng của em, khổ đau anh chịu đựng
            Và chẳng phải bằng những lời trống rỗng
            Anh mong lặng yên, mong sức khỏe cho mình
            Nhưng nguyên nhân của hẹn ước thề nguyền:
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

            Có chạm đến chăng bàn tay kín thầm
            Có lãng quên trong giấc mơ êm ái
            Anh khó nhọc đến muôn đời, mãi mãi
            Và nghi ngờ thức dậy giữa con tim
            Và lí trí đòi hỏi một lời khuyên:
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?

            Bài thơ sáu khổ, không đọc cho anh
            Người bạn nhà thơ - linh hồn báo mộng
            Không biết từ đâu trên trang giấy trắng
            Những tứ thơ, những vần điệu hiện ra?
            Làm nức lòng, làm hứng khởi nhà thơ?
            Tình yêu chăng? Hay chỉ là tình bạn?




            HÃY NGỦ NGON

            Hãy ngủ ngon! Anh chia tay với em
            Để thiên thần đưa em vào giấc mộng
            Hãy ngủ ngon! Đắm chìm vào quên lãng
            Vẻ lặng yên sẽ mang đến trong lòng.

            Từng phút giây em hãy ở bên anh
            Một bước đi, một lời, em hãy nhớ
            Để hình dung theo từng đường nét nhỏ
            Gọi anh về từ bóng tối đêm đen!

            Hãy ngủ ngon! Cho anh nhìn mắt em
            Và gương mặt, cho anh nhìn có được?
            Hãy ngủ ngon! Cho anh hôn lên ngực!

            Em đừng đi, cho anh nói hai lời
            Hãy ngủ ngon!… Em đóng cửa mất rồi
            Anh nói trăm lần: “ngủ ngon” - để em không ngủ được.


            GỬI VÀO ALBUM S. B.

            Đã qua phút giây hạnh phúc của mùa hè
            Khi ta nhẹ nhàng dạo chơi trên đồng cỏ
            Ngắt những bông hoa, ta bó thành một bó
            Hoa bây giờ nơi đó chẳng tìm ra.

            Quên bão giông, bóng tối giữa trời xanh
            ở nơi đó ánh vàng lên đồng cỏ
            Tìm trang giấy cho bàn tay em nhỏ
            Nhưng em ơi trang giấy thật khó tìm.

            Thấy trang giấy, anh mang nó theo mình
            Dù điều này em không còn trân trọng
            Trang giấy này bàn tay anh sưởi ấm
            Quà tặng cuối cùng anh gửi về em.
            1824.



            PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG BẮC

            Nơi ta sống trị vì cơn bão tuyết
            Có ghen chăng, những kẻ ở phương nam?
            Miền đất mêng mông, không có tận cùng
            Hoa trong bình minh và con tim rực lửa
            Nhưng ở đó họa mi giờ đang ngủ
            Những bông hồng, phút chốc đã ngắn hơn
            Lục địa khô khan nhưng ký ức giữ gìn
            Về những kẻ nằm trong mồ yên ngủ
            Quí đất đai những ai nằm trong mộ
            Và nhân gian muôn thuở chẳng hề quên.
            1825.


            LẠI TÌM VỀ EM

            Khi giữa trời chim bay đi từng dãy
            Tránh mùa đông, chim cất tiếng thở than
            Em đừng trách chim, bởi đến mùa xuân
            Theo đường quen chim lại bay về đấy.

            Nhưng nghe giọng của chim buồn, em hãy nhớ
            Hy vọng trong anh vẫn tỏa sáng nhọc nhằn
            Trên đôi cánh vui mừng anh từ phương nam
            Theo hướng bắc lại tìm về em đó!
            1829.
            #6
              cacbac 08.12.2007 12:30:38 (permalink)
               


              Konstanty Ildefons Gałczyński (23 tháng 1 năm 1905 – 6 tháng 12 năm 1953) là nhà thơ Ba Lan. Một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của Ba Lan thế kỷ XX.

              Tiểu sử:
              Konstanty Ildefons Gałczyński sinh ở Warsaw. Học văn học và ngôn ngữ ở Đại học Warsaw. Bắt đầu in thơ từ năm 1923. Năm 1928 tham gia nhóm thơ Kwadryga. Năm 1930 ông cưới Natalia Avalov. Những năm 1939-1940 bị bắt vào trại giam của Đức. Năm 1946 trở về Ba Lan, ông cộng tác với các tạp chí Przekrój, Tygodnik Powszechny.

              Konstanty Ildefons Gałczyński là tác giả của nhiều tập thơ châm biếm và thơ trữ tình rất nổi tiếng ở Ba Lan cũng như ở nước ngoài qua bản dịch. Thơ ông thể hiện tình yêu Tổ quốc, quê hương, yêu lao động và nghệ thuật. Thơ ông giàu hình tượng, phong phú vần điệu và nhiều ý tưởng mới lạ, độc đáo. Ngoài sáng tác, ông còn là một dịch giả thơ nổi tiếng.
              Tác phẩm:
              *Liryka i groteska / Wybór N. Gałszyńskiej. — Warszawa: Czytelnik, 1975
              *Poezje. — Warszawa: Czytelnik, 1976
              *Dzieła, t. 1-5, [Warsz.], 1957-60

              Thư mục:
              *Drawicz A. Konstanty Ildefons Całczyński. — Warszawa: Państw, zakł. wyd. szkolnich, 1972
              *Szymański W. P. Konstanty Ildefons Gałczyński. - Warszawa: PIW, 1972
              *Wyka М. Gałczyński a wzory literackie. — Warszawa: PIW, 1970



              CHUYỆN TRÒ

              - Anh yêu em như thế nào, anh hãy nói?
              - Anh sẽ nói bây giờ…
              - Anh nói đi.
              - Anh yêu em ngày dưới mặt trời, đêm dưới nến
              Yêu em khi em đội mũ, quàng khăn
              Yêu em trong nhà hát, giữa ngã tư đường
              Trong tím tử đinh hương, trong bạch dương, phúc bồn tử
              Yêu em cả khi em đi làm, khi em ngủ
              Và khi em đập quả trứng vỡ rất dễ thương
              Ngay cả khi chiếc thìa nhỏ em buông.
              Trong xe tắc xi, khi gần, khi xa thẳm
              Và cả khi em đi bộ đến
              Yêu em cả bắt đầu, cả ở cuối con đường
              Khi em chải tóc bằng chiếc lược con.
              Cả dưới biển, trên rừng, cả khi em khó xử
              Yêu bây giờ. Yêu hôm qua, ngày mai. Cả ngày và đêm cũng thế
              Và khi chim én bay về báo hiệu mùa xuân.
              - Thế mùa hè anh có yêu em không?
              - Cháy bừng như nắng hạ.
              - Thế mùa thu mây đen khắp nơi, cây rụng lá?
              - Anh yêu, ngay cả khi em đánh mất chiếc ô!
              - Thế mùa đông, khi tuyết rơi bên cửa sổ trắng mờ?
              - Ô! Mùa đông anh yêu em như ngọn lửa
              Luôn ở trong tim em. Khi gần, khi xa cũng thế
              Dù ở bên ngoài cửa sổ tuyết trắng rơi
              Còn quạ đen bay dưới tuyết, giữa trời.


              #7
                cacbac 08.12.2007 12:35:34 (permalink)




                Leopold Staff (1878-1957)

                KHI Ở TRONG RỪNG ANH GẶP EM

                Khi ở trong rừng anh gặp em
                Tựa như trong giấc mộng êm đềm
                Sao em không nói cùng anh vậy
                Chỉ nghe tiếng vọng của lời em?

                Khi ở trong vườn anh gặp em
                Nơi mùi hương ngan ngát bốc lên
                Tại sao em không ôm anh nhỉ
                Chỉ phảng phất gần gũi của em?

                Khi bên giếng nước anh gặp em
                Bầu trời trong giếng nước màu xanh
                Tại sao mắt em anh không thấy
                Chỉ ánh nhìn từ nước chiếu lên?

                Khi ở trong mơ anh gặp em
                Chỉ đêm khuya khoắt với lặng yên
                Sao em không sống trên đời vậy
                Chỉ hồn anh tràn ngập hồn em?



                TÔI XÂY NGÔI NHÀ TRÊN CÁT

                Tôi xây ngôi nhà trên cát
                Ngôi nhà đổ nhào
                Tôi xây ngôi nhà trên đá
                Ngôi nhà vẫn đổ nhào
                Nên bây giờ tôi bắt đầu
                Xây nhà trên khói.

                HOÀNG HÔN

                Ôi hoàng hôn! Ngươi thật tuyệt vời thay
                Cổ xưa như bầu trời, muôn đời – như bí ẩn
                Trước băng giá của những ảo ảnh này
                Mọi thứ của con người đều cô đơn và ngắn.

                Nhưng khi hoàng hôn lặng yên trên biển
                Và trở nên hoang vắng chốn trần gian
                Thì theo ngọn đồi bước chân ta đến
                Và những bước chân – có vẻ cả trăm năm.
                #8
                  cacbac 08.12.2007 12:37:59 (permalink)
                   


                  Czeslaw Milosz (1911-2004) – nhà văn, nhà thơ Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học 1980. Sinh ngày 30-6-1911 ở Seteksniai, khi đó còn thuộc Đế chế Nga, sau đó là Ba Lan, sau nữa là Liên Xô và cuối cùng là Cộng hòa Lithuania độc lập. Kí ức về tuổi thơ của nhà văn in đậm trong tiểu thuyết Thung lũng Issy. Học Đại học King Stefan Batory ở Wilno, Ba Lan (nay là Vilnius, thủ đô Lithuania), đăng những bài thơ đầu tiên trên tạp chí của trường. Năm 1933, ông xuất bản tập thơ Bài ca về thời gian bị đóng băng ( giải thưởng Hội Nhà văn Ba Lan 1943). Từ 1935, ông làm việc cho đài phát thanh Ba Lan, in tập thơ Ba mùa đông. Trong thế chiến I, ông viết thơ chống phát xít, xuất bản trường ca Thế giới: bản trường ca ngây thơ đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác.

                  Sau chiến tranh C. Milosz hoạt động ngoại giao, làm việc ở New York, Washington. Năm 1951, vì bất đồng chính trị, ông xin tị nạn tại Pháp. Tiểu luận Trí tuệ bị cầm tù là tác phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông được Phương Tây biết đến. Năm 1952, tiểu thuyết Giành chính quyền đoạt giải thưởng Văn chương Châu Âu. Năm 1960, C. Milosz sang Mỹ, trở thành giáo sư Đại học California, năm 1970 nhập quốc tịch Mỹ. Ngoài sáng tác C. Milosz còn dịch Kinh Thánh từ tiếng Do Thái cổ sang tiếng Ba Lan và thơ của nhiều nhà thơ Châu Mỹ . Năm 1980, ông nhận giải thưởng Nobel vì “các sáng tác thể hiện nỗi đau khổ của con người không được bảo vệ trong một thế giới mà họ đã phải đến sống sau khi bị đuổi khỏi thiên đường”. Trong hơn 20 năm sau giải thưởng Nobel, C. Milosz vẫn tiếp tục sáng tác, viết thơ, tiểu luận, dịch... Ông nhận được rất nhiều giải thưởng của Ba Lan, Mỹ, là tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học (California, Viện Đại học Cơ Đốc Lublin, New York,...). C. Milosz được coi là một trong những nhà thơ Ba Lan vĩ đại nhất, sánh ngang với Adam Mickiewicz. Ông mất ngày 14-8-2004 tại Krakow. Sáng tác của Milosz gồm cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh.

                  Tác phẩm:
                  *Bài ca về thời gian bị đóng băng (Poemat o czasie zastyglym, 1933), thơ
                  *Ba mùa đông (Trzy zimy, 1936), thơ.
                  * Thế giới: Bản trường ca ngây thơ (The world: a naive poem, 1943), trường ca
                  *Bài ca bất khuất (Invincible song, 1943), thơ
                  *Giải cứu (Rescue, 1944), thơ
                  *Giành chính quyền (Zdobycie wladzy, 1952), tiểu thuyết
                  *Trí tuệ bị cầm tù (Zniwolony umysl, 1953), tiểu luận
                  *Thung lũng Issy (Dolina Issy, 1955), tiểu thuyết
                  *Châu Âu ruột thịt (Rodzinna Europa, 1958), tự truyện
                  *Thành phố không tên (Miasto bez imenia, 1969), thơ
                  *Những điều nhìn thấy ở bờ vịnh San Francisco (Widzenia nad zatoka San Francisco, 1969), tập truyện kí.
                  *Lịch sử văn học Ba Lan (The history of Polish literature, 1969), sách giáo khoa.
                  *Mảnh đất Ulro (The land of Ulro, 1977), tiểu luận.
                  *Hoàng đế trên Trái Đất: quan điểm lập dị (Emperor of Earth: modes of eccentric vision), tiểu luận.
                  *Tiếng chuông trong mùa đông (Bells in winter, 1978), thơ.
                  *Sách của Job (Ksiega Hioba, 1980), bản dịch Kinh Thánh.
                  *Bài ca ngọc trai (Hymn of the pearl, 1982), thơ.
                  *Nhân chứng thơ ca (Swiadectwo poezji, 1983), thơ
                  *Trái Đất ngoài tầm với (Nieobjeta Ziemia, 1986), thơ
                  *Sử biên niên (Kroniki, 1987), thơ.
                  *Những tỉnh thành (Provinces, 1991), thơ.
                  *Bắt đầu từ phố của tôi (Zaczynajac od moich ulic, 1992), tập truyện ký
                  *Đối mặt trước dòng sông: Thơ Mới (Facing the river: New Poems, 1995), thơ



                  HAI BÀI THƠ

                  Hai bài thơ dưới đây mâu thuẫn với nhau. Một, phủ nhận việc đi sâu vào vấn đề mà hàng thế kỉ nay các nhà thần học, các nhà triết học quan tâm, khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới trên một hòn đảo ở vùng Caribê. Bài thứ hai, ngược lại, than phiền rằng con người tự đánh mất kí ức của mình và sống có vẻ như không có gì xảy ra, có vẻ như nỗi kinh hoàng không ẩn giấu dưới bề mặt của thiết chế xã hội.
                  Chỉ có tôi biết rằng sự hoà hợp với thế giới ở bài thứ nhất che giấu trong mình không ít đắng cay, còn hơn cả sự mỉa mai như ta tưởng. Còn sự xung đột với thế giới ở bài thứ hai xuất phát từ một điều rằng sự giận dữ là một nhân tố kích thích mạnh mẽ hơn những cuộc tranh luận triết học. Cứ cho là như vậy. Cả hai bài thơ đồng thời thể hiện những mâu thuẫn của tôi, bởi vì chính kiến trong những bài thơ này, ở một mức độ ngang nhau, đều thuộc về bản thân tôi.
                  Czeslaw Milosz.



                  TRÒ CHUYỆN CÙNG JEANNE

                  Ta triết lý với nhau, có để làm gì đâu hở Jeanne(1)
                  Tốn bao nhiêu lời, tốn bao nhiêu giấy mực
                  Anh nói thật cùng em về sự xa cách của mình
                  Rằng anh không đến nỗi đắng cay vì cuộc đời này khó nhọc
                  Với đau đớn đời thường không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn.

                  Cuộc tranh luận của ta kéo dài không dưới ba mươi năm
                  Còn bây giờ, trên đảo này, dưới bầu trời nhiệt đới
                  Ta chạy trốn cơn giông, phút giây dưới mặt trời sáng chói
                  Còn lại đây ngọc bích của màu xanh.

                  Ta đắm chìm vào bọt biển, bơi về chốn xa xăm
                  Nơi mặt trời móc vào những tàu lá chuối
                  Với những lá cọ trên cối xay gió vẫn còn vẫy vẫy
                  Và người ta đã buộc tội anh
                  Vì không đạt đến đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình
                  Rằng không đòi hỏi cho mình như Jaspers(2) đã chỉ
                  Rằng đã coi thường những yêu cầu thế kỉ.

                  Đung đưa trên ngọn sóng, anh ngắm nhìn những đám mây.

                  Jeanne ạ, quả thế, anh không biết quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn
                  Một người này có năng khiếu thì người kia cũng làm được những gì có thể
                  Anh xứng đáng với những gì đã xảy ra và anh đồng ý.
                  Anh không chơi cái trò biết điều theo lối cổ xưa
                  Là đặc tính của cuộc đời này, sự tồn tại của ta:
                  Trên bãi tắm phụ nữ cởi trần với sắc đồng trên ngực
                  Hoa hồng vàng, hoa huệ đỏ, hoa phong lan… và xực
                  Bằng đôi mắt, bờ môi, lưỡi và nước ép La prune de Cynthere
                  Rượu rum và nước đá, nước quả ép và nước xi-rô
                  Những hàng cây gốc khẳng khiu trong rừng ẩm ướt
                  Và em vẫn nói rằng ta đã gần cái chết
                  Rằng ta khổ vì hạnh phúc quá ít chốn trần gian.

                  Những luống đất của vườn rau có màu tím đen
                  Em có còn ở lại đây nhìn đất, hay là chẳng
                  Biển sẽ vẫn như hôm nay, thở từ trong sâu thẳm
                  Biển co vào, mất hút trong bao la mà vẫn tự do hơn.

                  Guadeloupe
                  _________________
                  (1)Jeanne Hersch – một người bạn lâu năm của Czeslaw Milosz – giáo sư triết học Đại học Geneva (Thụy Sĩ), học trò của Karl Jaspers.
                  (2) Karl Jaspers (1883-1969) – nhà triết học Đức, một đại diện của chủ nghĩa hiện sinh.




                  BÀI THƠ CUỐI THẾ KỈ

                  Một khi đều tốt đẹp
                  Thì biến mất khái niệm lỗi lầm
                  Và mặt đất đã sẵn sàng
                  Tiêu dùng và vui vẻ
                  Khắp mọi nơi, mọi chỗ
                  Không mơ tưởng, chẳng lòng tin.

                  Tôi, không hiểu tại vì sao
                  Đi lục tìm trong sách
                  Của những tiên tri, những nhà thần học
                  Những thi sĩ, những triết gia
                  Đi kiếm câu trả lời
                  Nhăn mặt, chau mày, thức trong đêm vắng
                  Rồi kêu lên mỗi buổi sáng.

                  Những gì hành hạ tôi
                  Thật vô cùng xấu hổ
                  Thiếu sáng suốt và tế nhị
                  Là thuộc tính của chuyện này
                  Chút nữa thì tôi xâm hại
                  Đến sức khoẻ của loài người.

                  Chỉ tiếc rằng, kí ức của tôi
                  Không để cho tôi yên lặng
                  Và trong đó có những điều sống động
                  Với nỗi đau của mình
                  Với cái chết của mình
                  Và với sự ngạc nhiên tư hữu.

                  Lấy đâu ra sự trinh trắng, hồn nhiên
                  ở chốn thiên đàng trên mặt đất
                  Để trao cho bầu trời trong sạch
                  Bằng sự rửa tội của nhà thờ?
                  Có phải chính vì thế mà
                  Điều này tồn tại đã từ lâu lắm?

                  Nói cho bậc hiền tri ngoan đạo
                  Câu ngụ ngôn Arập thế này
                  Thượng Đế từng nói trong cơn giận:
                  “Giá mà con người khi hối hận
                  Nói rằng con là kẻ lỗi lầm
                  Thì ta đã chẳng hề khen.

                  Còn ta khi mở cửa cho con
                  Cho kẻ nhân từ xứng đáng
                  - Ngài trả lời cao thượng -
                  Thì ta đã coi thường”.

                  Tôi biết hỏi ai
                  Về những việc làm đen tối
                  Những nỗi đau cùng lầm lỗi
                  Trong kiến trúc cuộc đời này
                  Nếu như không ở dưới đây
                  Không ở trên cao đó
                  Không một sức mạnh nào có thể
                  Mở ra nguyên nhân và hậu quả cho tôi?

                  Không suy nghĩ, không nhớ về
                  Cái chết trên cây thập ác
                  Dù hàng ngày đang chết
                  Một người duy nhất đáng yêu
                  Người mà lúc nào
                  Cũng đồng ý và cho phép
                  Rằng sự tồn tại trên mặt đất
                  Luôn cùng với đau đớn, cực hình.

                  Quả là enigmatical
                  Những điều không hiểu nổi.
                  Tốt nhất là lời khép lại.
                  Ngôn ngữ này không phải cho người
                  Ta chỉ có một niềm vui
                  Là mùa thu hoạch nho và lúa
                  Dù không phải cho tất cả
                  Sự yên lòng được trời trao.

                  Berkeley.
                  #9
                    cacbac 08.12.2007 12:41:06 (permalink)
                     


                    Wislawa Szymborska (1923-) - nữ nhà thơ Ba Lan đoạt gải Nobel Văn học năm 1996. Sinh ngày 2-7-1923 tại Bnin (nay là Kurnik, gần Poznan). Năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Học xong bậc tiểu học năm 1935 và học xong trung học ở trường bí mật năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Một thời gian ngắn W. Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ năm 1945-1947 học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellonian; năm 1945 khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào với bài thơ đăng báo Tôi tìm lời, năm 1952 in tập thơ đầu tiên Vì lẽ này chúng ta đang sống và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan. Phong cách thơ W. Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, Tổ quốc. Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Đời sống văn học, các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Từ 1952-1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ Pháp, Nga ra tiếng Ba Lan.W. Szymborska đã được nhiều giải thưởng văn học cao quý. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; giải thưởng Goethe của Đức (1991) và giải thưởng Herder của áo (1995). Bà được trao bằng Tiến sĩ Văn chương Đại học Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996 W. Szymborska được trao giải Nobel cho “những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại”. Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

                    Tác phẩm:
                    * Vĩ lẽ này chúng ta đang sống (Dlatego zyjemy, 1952), thơ
                    *Những câu hỏi cho mình (Pytania zadawane sobie, 1954), thơ
                    *Lời kêu gọi đối với người tuyết (Wolanie do yeti, 1957), thơ
                    * Muối (Sols, 1962), thơ
                    *Sili (1965), thơ
                    *Tuyển thơ (Poezje wybrane, 1967), thơ
                    *Một trăm trò hề (Sto pociech, 1967), thơ
                    * Thơ (Poezje, 1970), thơ
                    *Trường hợp bất kì (Wszelki wypadek, 1972), thơ
                    * Tarsius và những bài thơ khác (Tarsjusz i inne wiersze, 1976), thơ
                    *Số lớn (Wielka liczba, 1976), thơ
                    *Những người trên cầu (Ludzie na moscie, 1985), thơ
                    *Buổi chiều của tác giả (Wieczúr autorski, 1992), thơ
                    *Kết thúc và mở đầu (Koniec i poczatek, 1993), thơ



                    NHÀ GA

                    Sự không có mặt của em đến thành phố N
                    Đã theo đúng thời gian biểu.

                    Em đã báo trước với anh
                    Bằng bức điện mà rồi em không gửi.

                    Và anh đã không kịp tới
                    Theo thời gian hẹn hò.

                    Con tàu đi vào đường thứ ba
                    Có rất nhiều người ra đón.

                    Trong đám đông, em hướng về phía cổng
                    Không có người đưa đón của mình.

                    Một vài người phụ nữ vội vàng
                    Nhìn theo em
                    Bước đi vội vã.

                    Có ai đấy chạy đến bên một người phụ nữ
                    Người này em không quen
                    Nhưng người phụ nữ nhận ra người đàn ông
                    Chỉ trong khoảnh khắc.

                    Họ hôn nhau thắm thiết
                    Không bằng nụ hôn của chúng mình
                    Và chiếc va li bị lấy cắp
                    Không phải là chiếc va li của em.

                    Nhà ga thành phố N
                    Đã trả thi rất giỏi
                    Về sự tồn tại khách quan.

                    Cái chung vẫn còn nguyên vẹn
                    Cái riêng đã hoàn thành
                    Theo như số trời định sẵn.

                    Và ngay cả lần hò hẹn
                    Cũng đã định trước rồi.

                    Nhưng, than ôi
                    Sau khi chúng mình có mặt.

                    Và thiên đường đã mất
                    Giống như chân lý cuộc đời.

                    ở đâu, chứ không phải ở đây
                    ở đâu, chứ không phải ở đây
                    Vang lên những lời thánh thót.




                    TRƯỜNG HỢP BẤT KỲ

                    Đã xảy ra điều có thể
                    Đã xảy ra điều phải xảy ra.
                    Sớm hơn. Muộn màng hơn thế.
                    Gần hơn. Xa hơn.
                    Đã xảy ra – nhưng không phải với anh.

                    Còn nguyên vẹn, bởi anh người đầu tiên.
                    Còn nguyên vẹn, bởi anh người sau cuối.
                    Bởi do mọi người. Bởi anh tự mình
                    Bởi vì bên phải. Bởi vì bên trái
                    Bởi vì bóng rơi. Bởi vì mưa xối
                    Và bởi vì nắng đẹp, trời xanh.

                    Thật may mắn, ở đó là rừng
                    Thật may mắn, không một thân cây gỗ
                    Thật may mắn, khe núi, đường ray, sự cách trở
                    Milimét, phút giây và chỗ quay vòng
                    Thật may mắn, cọng rơm bơi trên nước.

                    Nhưng kết cục, thật khó mà nói được
                    Tuy thế, dù sao, giá mà tay, chân
                    Kẽ tóc chân tơ, theo mỗi bước chân
                    Tránh khỏi trùng phùng cơ hội.

                    Bởi thế, anh tồn tại?
                    Mang ơn mỗi phút giây
                    Lưới có một mắt. Còn anh ở trong mắt ấy
                    Em không lặng im và chẳng ngạc nhiên lắm vậy
                    Xin anh hãy nghe em
                    Để vì em
                    Con tim anh rộn ràng hãy đập.


                    BỐN GIỜ SÁNG

                    Thời khắc từ đêm sang ngày
                    Thời khắc trở mình trằn trọc
                    Thời khắc của tuổi ba mươi.

                    Thời khắc, khi đất đai chối bỏ con người
                    Thời khắc bật lên trong giờ gà gáy
                    Thời khắc, khi ngôi sao tắt ngấm giữa trời
                    Thời khắc, thế sau ta có những gì còn lại?

                    Thời khắc lặng im
                    Thời khắc trống vắng
                    Tận cùng đáy của ngày đêm.

                    Lúc bốn giờ sáng chẳng có ai bình yên
                    Nếu bầy kiến lúc bốn giờ thanh thản
                    Ta mừng cho kiến. Và năm giờ sẽ đến
                    Nếu như ta sống tiếp cuộc đời mình.




                    TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN

                    Cả hai người vẫn tin rằng
                    tình cảm của họ bất ngờ, đột ngột
                    lòng tin này rất đẹp
                    nhưng sự hoài nghi còn tuyệt vời hơn.

                    Họ cho rằng, nếu trước đó chưa từng quen
                    thì đã không có gì xảy ra với họ.
                    Thế sẽ nói gì những bậc thang, những hành lang, đường phố
                    những nơi mà họ gặp nhau không chỉ một lần?

                    Tôi muốn hỏi họ xem
                    liệu họ còn có nhớ
                    có thể, trong những vòng xoay cánh cửa
                    họ từng đối mặt ra sao?
                    Những lời “xin lỗi” khi va vào người nhau
                    giọng “anh nhầm rồi” trong ống nghe điện thoại
                    nhưng tôi biết câu trả lời như vậy.
                    Không, họ chẳng nhớ gì.

                    Mà họ sẽ ngạc nhiên nhiều hơn kia
                    khi biết rằng đã từ lâu lắm
                    với họ đang đùa giỡn
                    một trường hợp ngẫu nhiên.

                    Trường hợp này còn chưa sẵn sàng
                    trở thành số phận
                    xích họ lại gần, làm cho xa vắng
                    chạy qua đường, né sang bên
                    và tiếng cười khúc khích kìm nén.

                    Đã từng có những dấu hiệu
                    không quan trọng là đã chẳng hiểu ra
                    có thể từ ba năm trước kia
                    hay là, thứ ba tuần trước
                    khi từ vai này sang vai khác
                    một chiếc lá vương?
                    Một thứ gì người này làm rơi người khác nhặt lên
                    ai biết được, có thể là trái bóng
                    trong bụi cây từ thuở thiếu niên.

                    Đã có những chiếc chuông con và những tay cầm
                    mà ở đó rất lâu trước lần gặp gỡ
                    những dấu tay đã từng chồng lên.
                    Hai chiếc va li trong kho để kề bên.
                    Có thể, trong đêm có một giấc mơ giống hệt
                    khi thức giấc thì đã vội vàng quên.

                    Bởi vì mỗi sự mở đầu
                    chỉ là một hồi kế tiếp
                    và cuốn sách
                    của cuộc đời luôn mở giữa chừng trang.


                    AI ĐÓ YÊU THƠ

                    Ai đó –
                    có nghĩa: không mỗi người.
                    Không phải nhiều, mà là thiểu số.
                    Ngoại trừ những em trò nhỏ
                    và các nhà thi sĩ
                    trong nghìn người, may ra chỉ có hai.

                    Yêu –
                    như người đời yêu khoai tây với nấm
                    những lời khen, những sắc thái của hoàng hôn
                    với chiếc khăn nhỏ của mình
                    đứng trên chỗ của mình
                    trước khi đi ngủ dẫn ra đường con chó lớn.

                    Thơ –
                    thơ ca là gì thế?
                    Bao nhiêu câu trả lời
                    tôi từng nghe được về điều này.
                    Cũng may: chúng đều lời nhẹ
                    bởi nếu không, sao tôi viết những dòng này.


                    BA LỜI KỲ LẠ

                    Tôi nhắc lại rằng thời gian không ở
                    Thì lời đầu tiên đã kịp đi qua.

                    Tôi thì thầm trời yên, lặng gió
                    Thì trở nên không lặng yên cho.

                    Tôi cẩn thận nói lời không cái gì
                    Thì có một cái gì bao la hiện rõ…

                    Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải
                    "Các nhà thơ Đức+Ba Lan".

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.08.2008 10:04:46 bởi cacbac >
                    #10
                      cacbac 27.08.2008 10:13:30 (permalink)

                      Czesław Miłosz

                      KHÔNG GIAN THỨ HAI

                      Chốn thiên đàng tĩnh lặng biết bao
                      ta cần lên chốn đó
                      theo những bậc thang không khí.
                      Trên những đám mây cao
                      không có gì cản trở.

                      Hồn lìa khỏi xác
                      và hồn rảo bước chân
                      hồn ra đi, hãy nhớ rằng
                      có trên trời và dưới đất.

                      Chẳng lẽ lại là sự thật
                      rằng ta không tin vào không gian thứ hai?
                      Và đã biến mất đâu rồi
                      cả thiên đàng, địa ngục?

                      Thiếu những đồng cỏ êm đềm chốn ấy
                      thì sự giải thoát ta biết tìm đâu?
                      Và sẽ nương náu chốn nào
                      những tâm hồn lầm lỗi?

                      Ta khóc về sự mất mát
                      ta rắc tro lên mặt
                      những mái tóc ta xoã rối bời.
                      Ta nài nỉ, ta thì thào khoan nhặt
                      xin trả về ta không gian thứ hai.





                      #11
                        cacbac 07.09.2009 10:25:22 (permalink)

                        Johann Wolfgang von Goethe (tiếp)
                         
                         
                        CHÚA RỪNG
                         
                        Người phóng ngựa dưới sương, trong rừng tối
                        Trong tay người đứa con trai bé dại
                        Người vỗ về, sưởi ấm đứa con trai
                        Đứa con sợ hãi, nức nở khôn nguôi.
                         
                        “Con trai ơi sao con lo lắng vậy?”
                        “Chúa rừng trước mắt con, cha có thấy?
                        Ngài đội vương miện, khoác áo choàng đen?”
                        “Con ơi đấy là chiếc bóng trong sương”.
                         
                        “Con trai ơi, con hãy nghe lời cha
                        Nhiều niềm vui trong xứ sở bao la
                        Hoa cỏ, bạc vàng cùng bao châu ngọc
                        Và trong rương có bao quần áo đẹp”/
                         
                        “Cha ơi Chúa rừng ghé bên tai con
                        Rằng nhiều niềm vui, châu báu, bạc vàng”
                        “Con ơi đấy đâu phải lời của Chúa
                        Mà tiếng lá rì rào theo ngọn gió”.
                         
                        Về theo cha, dưới bóng mát cây sồi
                        Con sẽ gặp những chị gái tuyệt vời
                        Trên sông Reihn có các nàng tiên cá
                        Sẽ múa hát, ru con vào giấc ngủ”.
                         
                        “Cha ơi cha có nhìn thấy Chúa rừng
                        Gọi các nàng tiên từ trong bóng đêm?”
                        Không đâu con ơi, cha nhìn thấy hết
                        Những cây ánh bạc cúi mình xuống đất”.
                         
                        “Cha yêu con, vẻ đẹp quyến rũ cha
                        Cha sẽ dùng sức mạnh nếu không nghe”.
                        “Cha ơi, cha ơi Chúa rừng đã tới
                        Ngài ôm choàng làm con không thở nổi!”
                         
                        Người cha sợ hãi, thúc ngựa vội vàng
                        Trong tay người đứa bé đang kêu rên...
                        Về đến nhà với vẻ đầy gấp gáp
                        Và đứa con trên tay người đã chết.
                         
                         

                         
                         
                        LÒI CHÀO CỦA HỒN MA
                         
                        Với tháp cổ trên sông
                        Một con thuyền đơn lẻ
                        Hồn hiệp sĩ vẫy vùng
                        Nhắn lời cùng hậu thế:
                         
                        “Xem, thân xác đã từng
                        Và con tim, khối óc
                        Mạnh mẽ tận trong xương
                        Và chén đầy đã rót.
                         
                        Nửa đời trên sóng nước
                        Rồi năm tháng cạn dần.
                        Hãy đi về phía trước!
                        Dù số kiếp phù vân.
                         
                        #12
                          Chuyển nhanh đến:

                          Thống kê hiện tại

                          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                          Kiểu:
                          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9