Một Huyền Thoại Thi Ca
Thay đổi trang: << < 161718 > >> | Trang 16 của 20 trang, bài viết từ 226 đến 240 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Nhân văn 11.04.2017 12:26:15 (permalink)
 
 
 
             CÁNH CỬA QUỐC TẾ
                                             Kịch ngắn
                            PHẠM NGỌC THÁI
 
                 NHÂN VẬT:


1.   Ông Hoàng               Chuyên viên ngoại thương Việt Nam

2.   Thanh                       Trợ lý giám đốc Công ty VN

3.   Smit                          Giám đốc Công ty Tư bản Nhật  

4.   Andrây Côhen         Giám đốc Công ty Tư bản Pháp

5.   Gien Ny                    Nữ phóng viên báo Quốc tế

6.   Hippy                       Cô bán hàng ở hotet Hồng Kông

7.   Martin                     Nữ ca sĩ

                    Cùng một số khách ăn chơi tại quầy hàng của khách sạn.

                 Kịch xẩy ra tại một khách sạn của người Việt Nam
                          ở Hồng Kông thời nay.
 
 
                      MỞ MÀN
                             Tại một hotel Hồng Kông. Vắt vẻo ngồi trên quầy bán hàng là cô nhân viên Hippy béo tốt, son phấn và cám dỗ. Phía dưới, mấy tay chơi đang ngồi chè chén, bia rượu. Nữ ca sĩ Martin dáng điệu uyển
       chuyển hát lượn qua các bàn.Bên này là lối cửa ra vào. Bên kia một cửa khác thông vào trong. Nhìn ra một hành lang. Theo hành lang có đường lên gác thượng. Nhạc rộ. Ca sỹ Martin đang hát, thỉnh thoảng có tiếng trêu của các gã tay chơi.Gien Ny, một nữ phóng viên xinh đẹp bước vào khách sạn. Cô đưa mắt nhìn quanh rồi tiến về phía Hippy.
GIEN NY -   (chào) Good morning Hippy! Họ vẫn chưa đến đây cơ à?
HIPPY -    (lắc đầu) Chắc là chị Gien Ny hôm nay có một cuộc phỏng vấn quóc tế
            quan trọng?
                                        (Hippy chỉ về phía bàn ghế còn để trống. Trên bàn có đặt
                                        một lọ hoa đẹp)
                 Bàn khách dành cho họ đấy! Đã được đặt từ hôm qua, nhưng sáng nay
 chưa thấy quan khách tới.
GIEN NY -   Quan khách đến đây hôm nay có những ba nước cơ đấy! Cả Á và Âu.
 Trong đó có cả ngài chuyên viên, thương gia Việt Nam của chúng ta. Hãy
 tiếp đón họ cho cẩn thận, Hippy nhé!
HIPPY -   Em biết rồi. Thì chính người đại diện của công ty Việt Nam đến đây đặt
            tiệc, nói là để tiếp khách quốc tế mà lị.
                 Chúc chị Gien Ny sẽ có một bài phóng sự thật kêu, đăng trên trang nhất
 báo Quốc tế đấy!
GIEN NY -   Thôi, chào Hippy! Chị cũng đi đây. Lát nữa chị sẽ quay lại.
                                       (Tiếng gọi rượu từ đám khách chơi. Hippy mang rượu tới.
                                       Gien Ny đi ra phía cửa thì gặp một thanh niên Việt Nam ăn
                                        mặc lịch sự bước vào – Đó là Thanh.)
THANH -   Ô… good morning Miss Gien Ny!
GIEN NY -   Good morning (bắt tay). Anh cũng biết tên tôi?
THANH -    Một nữ phóng viên xinh đẹp và nổi tiếng như cô Gien Ny, có quan
 khách ngoại giao nào đến Hồng Kông mà lại không biết? Nhưng dù đã sang
 sinh sống ở Hồng Kông, cô Gien Ny vẫn là một thiếu nữ Việt Nam đấy!
GIEN NY -   (cười) Cám ơn anh đã nhắc khéo.
THANH -   Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là Thanh, trợ lý của giám đốc công ty Việt
 Nam. Tôi sang Hồng Kông lần này là để giúp việc cho ông chuyên viên
 Hoàng.
GIEN NY -    (ngắt lời) Xin lỗi…
THANH -   Sao cô Gien Ny vội vã thế? Mời nữ phóng viên vào trong này đã…
                                        (Thanh chỉ về phía bàn có đặt lọ hoa và hỏi Hippy):
               - Chắc kia là bàn đặt tiệc của chúng tôi?
HIPPY -   Đúng vậy. Xin mời ngài!
GIEN NY -  (với Thanh) Để lát nữa quan khách đông đủ cả, tôi sẽ quay lại.
                            (Gien Ny đến gần cửa chợt lưỡng lự, quay lại hỏi Thanh):
             -  Nghe nói, các ông đến Hồng Kông lần này còn để gặp công ty tư bản Nhật,
            giải quyết một vụ bị tổn thất hàng hoá lớn lắm?
THANH -  (chột dạ) Ấy… cô Gien Ny đừng đưa vấn đề đó lên báo chí. Nếu
 không thì??? Chả là, chúng tôi cũng đang tìm cách tháo gỡ, nên không
 muốn làm rùm beng.
GIEN NY -   Thế!... Ngài Smit giám đốc công ty Nhật đã đồng ý nhận hàng cho các
 ông chưa?
THANH -   (lắc đầu) Còn găng lắm! Ông chuyên viên Hoàng vẫn đang tiếp tục
 thương thuyết với họ.
                           ( thái độ Thanh có vẻ dò hỏi)
               Nói thật là… tôi vội về đây cũng có ý muốn tìm cô Gien Ny, nhờ trợ giúp!?
GIEN NY -   ủa, liệu tôi có thể làm được gì để giúp cho các ông?
THANH -   Chúng tôi biết ảnh hưởng của nữ nhà báo Gien Ny, đối với các thương
 gia quốc tế ở Hồng Kông này là rất lớn! Nhất là… được sự mến mộ của
 nhiều quan chức các công ty tư bản Nhật.
GIEN NY -   Các vị đánh giá quá cao về tôi, làm tôi xúc động quá!
THANH -   Hãy dùng ảnh hưởng của Gien Ny….
GIEN NY -   Để làm xúc động trái tim ngài giám đốc Smit! Có phải ý anh trợ lý
 Thanh muốn nói với tôi như thế không?
THANH -   Nếu một khi giám đốc Smit đã có thân tình với cô Gien Ny rồi – Thì tôi
 tin: việc ông ta nới tay chấp nhận cái lô hàng của chúng tôi, sẽ không còn là
vấn đề khó khăn.
GIEN NY -   Nghĩa là… tôi cần phải đóng vai một người tình, theo mỹ nhân kế của
 các ông?
THANH -   Thời gian có ít, tôi xin đi vào việc ngay! Ông giám đốc công ty của chúng
            tôi ở Việt Nam, đã hứa là sẽ không để cho cô Gien Ny bị thiệt.
GIEN NY -   Tôi muốn biết tôi sẽ được gì nào?
THANH -    Một khoản tiền đô la đáng kể sẽ được chuyển vào tài khoản của cô Gien
 Ny, tại ngân hàng Hồng Kông này. Nếu cô làm lay chuyển được trái tim của
Ngài giám đốc Smit, nhận lại lô hàng cho chúng tôi?
GIEN NY -   (cười lớn) Nghĩa là, tôi cần phải ngủ với ngài giám đốc Smit? Cần thiết
 nữa, thì ngủ với tất cả ban hội đồng quản trị của công ty tư bản Nhật?
THANH -   Đó lại là tài của cô Gien Ny! Ông giám đốc công ty Việt Nam của
            chúng tôi, đã hứa là sẽ rất sòng phẳng.
GIEN NY -   (phẫn kích) Thôi đi! Một nữ phóng viên báo quốc tế biến thành kẻ đi
 làm trò tình dục kế, để kiếm chác lấy một món hời béo bở?
THANH –   Việc làm của Gien Ny còn thể hiện tinh thần vẫn yêu quê hương đất
  nước,  đối với những người Việt Nam… tuy đã ra sống ở nước ngoài.
GIEN NY -   (sẵng giọng)   Các anh không thể mang những quan hệ tình cảm với
  quê hương đất nước, áp đặt cho chúng tôi làm cái trò dơ dáy ấy được.
THANH -   Đấy là cô Gien Ny cứ suy diễn ra thế chứ? Chúng tôi nào… Mà, nếu có
phải dùng chút nữ tính để cứu một sự tổn hại lớn cho quốc gia, tôi nghĩ cô
 Gien Ny cũng nên làm.
GIEN NY -   Cứu cho quốc gia khỏi bị tổn hại, hay là để cứu cho mấy ông trong ban
 lãnh đạo các người khỏi bị mang tội? Thôi, xin chào anh trợ lý!
               (Gien Ny đi ra đến cửa, song quay lại nói nhỏ vào tai Thanh):
 -   Các anh vẫn chả hiểu gì về tư bản? Cho dù tôi có ngủ với ông giám đốc
 Smit đi chăng nữa. Cũng chẳng vì tình cảm với tôi mà họ chịu thiệt hại,
 nhân nhượng cho các anh đâu! Làm ăn kinh tế mà lại cứ lèm nhèm, vô
 nguyên tắc như mấy ông, thì ngang bằng… phá hoại!
            (với Hippy) bye-bye Hippy!
HIPPY -   Bye-bye chị Gien Ny!
                                  (Gien Ny ra khuất. Nhạc rộ lên. Martin hát. Tiếng trêu đùa của
                                 mấy tay chơi. Thanh chán chường ngồi phịch xuống ghế)
THANH -   (một mình) Cái con nữ phóng viên cao đạo.
                                   (ít phút sau, chuyên viên Hoàng từ ngoài cửa bước vào)
Ô. HOÀNG -   Anh Thanh này! Tôi nhìn thấy, như cô nữ phóng viên Gien Ny vừa ở
 đây đi ra. Chắc là anh đã có tác động?...
THANH -   Tôi đã nói rã cả bọt mép mà chẳng ăn thua gì.
Ô. HOÀNG -   Người ta chịu giúp thì tốt, còn không… cũng không thể trách người
 ta được.
THANH -   Thế còn việc ông thương lượng với ngài Smit?
Ô. HOÀNG -   Cũng hết cách.
                                   (không khí trầm hẳn. Chuyên viên Hoàng ngồi xuống ghế rót
                                   rượu ra uống.)
THANH -   Thế mà ở trong nước lại cứ ca ngợi: chuyên viên Hoàng là một nhà
 ngoại thương tài ba? khả năng giao thiệp quốc tế rất giỏi?
Ô. HOÀNG – (hơi gắt) Không phải lỗi do tôi.
THANH - Tất nhiên. Nhưng dù sao thì… trước khi đi, ông cũng đã được giám đốc
công ty là chú tôi… giao trách nhiệm việc tới Hồng Kông lần này.
Ô. HOÀNG -   Anh là cháu của ông giám đốc. Vừa chân ướt chân ráo về công ty,
 làm ngay cái chức trợ lý. Là một trong những người phụ trách về quản lý
kinh doanh, các anh hời hợt thiếu trách nhiệm, đến mức để cho thời hạn giao
 hàng quá chậm trễ so với hợp đồng. Bị công ty tư bản Nhật từ chối không
 nhận hàng. Mới gây ra sự tổn thất tiền của như thế này! Anh còn nói cái
 gì?
THANH -   (xuê xoa) Dù sao, ngài chuyên viên cũng là bạn thân thiết của chú tôi
 cơ mà?
Ô. HOÀNG -  Bao nhiêu lần tôi khuyên giải chú anh về việc cất nhắc, sử dụng
 người. Nào, chú anh có nghe?
THANH -   Bây giờ ngài chuyên viên có trách cứ đến mấy, sự việc cũng đã thế!
Tốt nhất là suy nghĩ để tìm cách cứu.
Ô. HOÀNG -   Nhưng người ta nhất định không chấp nhận, thì cứu bằng cách nào?
               Chỉ còn cách là bỏ ra bán rẻ, bán tháo cho dân ở trong nước. Lấy lại được
 đồng nào hay đồng đó.
THANH -   Nếu thế thì chú tôi sẽ bị kỷ luật cách chức giám đốc. Bị đuổi về nhà mất.
Ô. HOÀNG -   Chưa phải đi tù, vẫn còn là cái phúc.
THANH -    Thôi… tôi xin ngài chuyên viên đừng nản lòng. Tìm mọi cách mà cứu?
Ô. HOÀNG -   Cứu cả chính anh… cùng một bầy đoàn thân tín, mà chú anh lôi kéo
 vào trong ban lãnh đạo nữa… chứ gì?
THANH -   (lúng túng) Thì… thì…
                              (vừa lúc ấy giám đốc Smit xuất hiện ở cửa khách sạn)
Ô. HOÀNG -   Ô kìa, giám đốc Smit đã đến rồi! Chúng tôi đang chờ ngài!
                                                (đón khách)
SMIT -   Good morning! Còn dở chút công việc phải giải quyết nốt ở công sở, giờ
 mới tới dự tiệc với các ông được.
THANH – (kéo ông Hoàng ra nói nhỏ) Ông chuyên viên nhớ nhé! Dù sao thì vẫn
 phải cố thuyết phục ông ta, may ra vẫn còn…
Ô. HOÀNG -   (gạt đi) Anh không phải dậy tôi!
                                       (quay lại gọi cô bán hàng)
               Miss Hippy, two champagne please! (cho 2 sâm banh)
HIPPY -    (quay gọi vào phía trong) Two champagne please!
                                    (một anh bồi đi ra đặt lên bàn hai chai sâm banh.
                               Thanh lùi lại phía sau. Có tiếng chuông điện thoại ở quầy)
HIPPY -   (nghe điện thoại) Vâng, tôi xin báo ngay ạ!
            (với ông Hoàng) Thưa ngài chuyên viên Việt Nam! Điện thoại ở sân bay báo
 về cho ngài: nói là, ông giám đốc công ty tư bản Pháp Andrây Côhen đã
 đến sân bay. Ngài cho người ra đón ạ!
THANH -   (lại phía ông Hoàng) Để tôi thuê xe của khách sạn ra đón ngài Andrây
 Côhen!
Ô. HOÀNG -    Đường phố Hồng Kông đông xe cộ, chú ý lái xe cho cẩn thận.
                                 (Thanh chào Smit rồi vội đi ra)
SMIT -   Người Việt Nam ở Hồng Kông hay từ nơi khác đến đây, thường hay tới
 hotel này!
Ô. HOÀNG -   Bởi vì, đây là khách sạn của người Việt Nam sang sống ở Hồng Kông.
 Từ ông chủ khách sạn đến nhân viên: như cô bán hàng Hippy, cô ca sĩ
 Martin… đều là người Việt Nam!
SMIT -   Ô kê! Hôm nay chúng ta sẽ nói chuyện thật thoải mái bằng tiếng Việt
 Nam, tiếng mẹ đẻ của các bạn. Tôi đã từng sống và làm việc nhiều ở Việt
 Nam, nên thông thạo tiếng Việt Nam không kém gì tiếng Nhật Bản.
Ô. HOÀNG -   Giữa tôi và ngài Smit, chúng ta đã quá biết về nhau.
SMIT -   Chốc nữa, cả ông Andrây Côhen đều là những bạn thương gia quen cũ,
 chúng ta lại có dịp hàn huyên.
Ô. HOÀNG -   Thị trường Nhật và khối liên minh châu Âu, đều là hai thị trường
 tiêu thụ hàng may mặc lớn đối với Việt Nam chúng tôi.
SMIT -   Xu thế của ngành dệt may bây giờ là liên doanh sản xuất và kinh doanh
 thương mại quốc tế!
Ô. HOÀNG -   Đúng như vậy! Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường, nên
 cánh cửa quốc tế của chúng tôi cũng rộng mở.
SMIT -   May every thing be happy! (cầu chúc cho mọi sự tốt đẹp)       
               Uống đi ông chuyên viên. Một lần nữa, chúng ta cạn cốcđể chúc mừng cho
 cuộc gặp gỡ này!
                          (chạm cốc vui vẻ. Nhạc rộ. Ca sĩ Martin uốn éo hát
                          lượn qua bàn của họ.)
SMIT -   (chỉ về phía cô ca sĩ) Ông Hoàng thấy thế nào?
Ô. HOÀNG -   Một cô ca sĩ xinh đẹp, giọng hát cũng rất hay!
                                   (chuyên viên Hoàng rót một ly sâm banh mời Martin. Cô ca sĩ
                                   đón ly rượu, nghiêng mình cảm ơn và tiếp tục hát qua các bàn
                                   khác. Smit mải ngắm cô ca sĩ, chuyên viên Hoàng khẽ gọi đến
                                   mấy lần vẫn không để ý.)
Ô. HOÀNG -   Ngài Smit!... Ngài Smit!...
SMIT -   Cô ca sĩ Việt Nam đẹp thật! Ông chuyên viên cứ ngắm kỹ cô ta mà xem, cả
 thân hình mềm mại rất hoà nhập với dáng điệu uyển chuyển.
                   (ông Hoàng vẫn đăm chiêu suy nghĩ, không để ý đến lời Smit)
Ô. HOÀNG -   Vì tình hữu hảo Nhật-Việt và quan hệ quốc tế lâu dài. Cũng vì sự
 thân thiện riêng đã có giữa tôi và ngài… Tôi vẫn mong ngài giám đốc Smit
 xem xét, để chấp nhận lại lô hàng vừa rồi?
SMIT -   (chợt hiểu. Phá lên cười) Thì ra ông chuyên viên vẫn lẩn quẩn nghĩ về cái
             lô hàng, mà công ty Nhật buộc phải từ chối không nhận vừa qua?
Ô. HOÀNG -   Dù sao thì… về chỉ tiêu kỹ thuật hàng may mặc, vẫn được công ty
 Việt Nam đảm bảo chất lượng tốt đấy chứ!? Chỉ do chúng tôi sơ ý giao hàng
 bị…hơi chậm…
SMIT -   Vấn đề là ở chỗ đó. Hàng may gia công mà giao hàng chậm, quá hạn so với
 hợp đồng. Thị trường Nhật bị lỗi thời, hết mốt. Có bán hạ giá, dân Nhật họ
 cũng không mua đâu.
Ô. HOÀNG -   Thế cho nên… tôi mới phải sang tận Hồng Kông này để thương
 thuyết với ngài Smit? Nếu các ngài không nhận hàng, thì thiệt hại lần này
 đối với công ty của chúng tôi lớn quá!
SMIT -   (cười) Nhưng tiền bạc mà công ty các ông bị tổn thất, là tiền bạc của nhà
 nước Việt Nam mất, đã có nhân dân Việt Nam gánh chịu. Cùng lắm thì ông
 giám đốc công ty chỉ bị… cách chức. Mọi sự vẫn chả sao?
Ô. HOÀNG -   Nói như ngài Smit như thế thì…
SMIT -   Mà biết đâu... Ông giám đốc công ty Việt Nam, lại có thân thiện nhiều với
các quan chức cấp trên… ông ta sẽ được thuyên chuyển sang  một tổ chức khác, rồi lại được đề bạt làm cái chức vụ phó, vụ trưởng rất oách nào đó?
Ô. HOÀNG -   Tôi đang chóng cả mặt mà ngài Smit vẫn còn giễu cợt.
SMIT -   Tôi nói thật chứ không giễu cợt đâu. Nếu vì quí và nể chuyên viên Hoàng
 để nhận lô hàng đó? Nghĩa là, công ty Nhật sẽ phải chấp nhận tổn thất hàng
 triệu đô-la về phần mình. Kinh doanh kiểu như thế, trước sau cũng sẽ bị phá
 sản.  Khi ấy chúng tôi phải tự bắn vào đầu mình mà tự sát.
Ô. HOÀNG -   (thở dài)  Thế thì biết làm như thế nào?     
                              (vừa lúc đó, nữ phóng viên Gien Ny xuất hiện ở cửa)
SMIT -   (reo lên) Cô phóng viên nhà báo xinh đẹp Gien Ny đến với chúng ta, kìa!
 (gọi) Miss Gien Ny!
GIEN NY -   Oh, very happy to meet you again dear sirs!
                                                  (rất hân hạnh được gặp lại các ngài)
SMIT -   (với ông Hoàng) Đây là cô Gien Ny, nữ phóng viên của toà báo Quốc tế tại
 Hồng Kông!
GIEN NY -   Ngài Smit không cần phải giới thiệu. Tôi cũng đã có dịp được làm quen
 với ông Hoàng.
                     ( ông Hoàng tiến lại bắt tay thân mật chào Gien Ny)
SMIT -   À, thì ra các vị cũng đã biết nhau.
GIEN NY -   Xin lỗi! Tôi đã làm gián đoạn câu chuyện của các ngài.
SMIT -   Không sao. Mời cô Gien Ny vào đây cùng uống rượu với chúng tôi.
                           (Smit rót một ly sâm banh đưa mời Gien Ny):
               Chắc là tôi và chuyên viên Hoàng sắp có vinh dự được cô phóng viên hành
 hạ?
GIEN NY -   Đúng thế, thưa ngài Smit! Xin được phỏng vấn ngài?
SMIT -   Chúng tôi rất vui được làm vừa lòng Gien Ny.
GIEN NY -   Thưa ngài giám đốc: Bí quyết nào đã giúp cho công ty Nhật của
 ngài trở thành một trong những công ty tư bản nổi tiếng nhất thế giới?
SMIT -   Các bậc tiền bối đã truyền lại dậy con cháu rằng: Muốn công ty hay quốc
 gia luôn phát triển, thì phải tìm người giỏi hơn mình để làm lãnh đạo.
                              (quay sang phía ông Hoàng)
     Như ông chuyên viên đã biết: Ông chủ của công ty này không phải là tôi!
 Rất tiếc là hôm nay ông ấy đang có cuộc viễn du sang các nước phương Tây,
 nên không đến để hội ngộ với các vị được. Tôi chỉ may mắn được ông chủ tin
 cậy mời về làm giám đốc công ty.
Ô. HOÀNG -   Theo như tôi biết, ngài được ông chủ rất tin cẩn giao toàn quyền
 điều hành mọi công việc của công ty?
SMIT -   Không tin nhau thì làm kinh doanh thế nào được.
GIEN NY -   Bởi vì, ngài Smit là một nhà kinh doanh thương mại quốc tế tầm cỡ, tài
 ba!
SMIT -   (cười)  Đấy là bí quyết thứ nhất, thưa cô phóng viên xinh đẹp!
GIEN NY -   Thế còn bí quyết thứ hai, thưa ngài?
SMIT -   Không lôi kéo anh em họ hàng vào trong tổ chức để chia nhau phần lãnh
 đạo. Chúng túng thiếu, có thể giúp chúng ít tiền. Tuyệt nhiên không được vì
 tình thân, dòng họ… mà kéo nhau vào. Nó chỉ làm hỗn loạn tổ chức công ty,
 đi đến chỗ bị phá sản, diệt vong thôi!
GIEN NY -   Thật là những bí quyết đáng được trân trọng.
SMIT -   Cái tệ nạn: hễ ông cha làm một chức quyền lớn, thì họ hàng con cháu lôi
 bè, kéo đảng để chiếm hết quyền này, chức khác. Rất tệ hại! Rất tệ hại! Đó
 là một sự phá hoại chứ không phải xây dựng, phát triển đâu.
GIEN NY -   (với ông Hoàng) Thưa ngài chuyên viên Việt Nam! Ngài nghĩ như thế
 nào về ý kiến của giám đốc Smit?
Ô. HOÀNG -   (lúng túng) Thì… bây giờ ở Việt Nam cũng đang sửa đổi.
GIEN NY -   Xin có sự chất vấn nho nhỏ với ngài về vấn đề này?
Ô. HOÀNG -   Cô Gien Ny cứ hỏi.
GIEN NY -   (quay về phía Smit) Rất cám ơn ngài Smit!
SMIT -   Gien Ny cứ tự nhiên.
GIEN NY -   (với ông Hoàng) Tôi nghe nói: Hậu quả xẩy ra đối với lô hàng mà công
 ty Việt Nam đã gia công vừa rồi, để công ty Nhật từ chối không nhận hàng –
 Lỗi cũng do tệ nạn thuộc về ban lãnh đạo công ty, phải không ạ?
Ô. HOÀNG -   À… à… về phía lãnh đạo công ty cũng đã tién hành kiểm điểm…
SMIT -   Chuyên viên Hoàng nói đúng! Chủ yếu là do lãnh đạo. Chứ… những ngày
 sang Việt nam, tôi đã xuống trực tiếp các phân xưởng sản xuất hàng gia
 công. Phải nói là, tôi rất có thiện cảm với anh chị em công nhân.
GIEN NY –   (với Smit) Ngài thấy những công nhân Việt Nam thế nào ạ?
SMIT -   Thật là những con người lao động đầy thông minh, sáng tạo. Họ rất cần cù,
  chịu khó làm việc.
Ô. HOÀNG -   Cám ơn lời khen của ngài Smit!
SMIT -   Này, nhưng tiền công những sản phẩm hàng gia công… mà lãnh đạo đã trả
 cho công nhân còn ít quá thì phải?
Ô. HOÀNG -   (ấp úng) Vấn đề này…
SMIT -   Tiền hàng gia công phía Nhật Bản đã trả cho công ty rất sòng phẳng,
 nhưng lãnh đạo Việt Nam lại khấu trừ quá nhiều, rồi mới trả cho công
 nhân?
Ô. HOÀNG -   Ngài Smit cũng phải thông cảm, có rất nhiều khoản mà công ty phải
 chi phí xung quanh những sản phẩm gia công ấy.
SMIT -   (cười lớn) Chuyên viên Hoàng muốn giảng giải cho tôi về điều kiện cần tổ
 chức kinh doanh đó sao?
Ô. HOÀNG -   Tôi đâu có ý múa rìu qua mắt thợ.
SMIT -   Nếu lãnh đạo ăn bớt tiền của công nhân nhiều quá. Công nhân phải lao
 động  với một giá quá rẻ mọn. Như thế không khuyến khích được sản xuất
 đâu?
GIEN NY -   (với ông Hoàng) Nghĩa là ở Việt Nam chúng ta, vẫn còn tình trạng ở
 một số xí nghiệp hay công ty – Lãnh đạo ăn chẹn hoặc bóc lột công nhân,
 phải không ạ?
Ô. HOÀNG -   Không thể giải thích một cách đơn giản được đâu, cô Gien Ny ạ!
GIEN NY -   (với Smit) Thưa ngài giám đốc Smit! Theo tôi được biết, giá nhân công
 lao động ở Việt Nam hiện nay vẫn thuộc vào loại rẻ trên thế giới. Thí dụ như
 đem so với giá thuê nhân công Nhật Bản, thì các ngài phải trả tiền công cho
 công nhân Nhật Bản cao hơn nhiều?
SMIT -   Đúng là giá thuê nhân công ở Việt Nam cũng rẻ hơn nhiều nước trên thế
 giới. Nhưng ta không thể coi họ như những kẻ hành khất, rớt cho họ những
 đồng tiền công quá thấp, mà lại đòi hỏi họ làm việc với tinh thần và ý thức
 cao nhất được.
                      (quay lại phía ông Hoàng)
     Ông chuyên viên có đồng ý với tôi như thế không?
Ô. HOÀNG -   Thì chúng tôi vẫn đang đổi mới.
SMIT -   Ồ tất nhiên! Tất nhiên! Quy luật là phải phát triển để tồn tại, nếu không là
 chết!
GIEN NY -   (nói riêng với ông Hoàng) Ngay như cái anh trợ lý mà tôi đã được nói
 chuyện ban nẫy, nghe nói… là cậu cháu ruột ông giám đốc công ty của các
 ông. Chả có tư cách gì cả?
Ô. HOÀNG -   (cắt ngang) Chúng ta không nên đem vấn đề nội bộ riêng ra để chất
 vấn ở đây!
                             (Gien Ny cười mỉm rồi lảng sang chuyện khác)
GIEN NY -   Rất cám ơn các ngài đã giành cho báo Quốc tế chúng tôi một cuộc
 phỏng vấn quí giá.
                 (chào ông Hoàng rồi quay lại phía Smit):
     Thank you very much, good-bye Mr.Smit! (hôn gió)
MARTIN -   (chạy đến) Chị Gien Ny!
GIEN NY -   Ô, chào Martin! How are you? (sức khoẻ em thế nào?)
MARTIN -   Beautiful! (tuyệt vời)… Lần nào đến hotel này chị Gien Ny cũng nhảy
 với em. Chị Gien Ny nhảy một vũ điệu quốc tế với em đi?
                  (một gã tay chơi tiến gần đến quầy chỗ Hippy. Hắn gọi một cốc
                  rượu rồi lả lơi đùa rỡn với Hippy. Một gã say khác nói hướng về
                  phía Martin):
GÃ SAY -   (gọi) Martin! Lets sing! Sing as sweet as you are Martin!
                                        (Hát đi! Hát cho thật hay vào Martin!)
                      (hắn tiến đến đút một đồng bạc vào áo trong cô ca sĩ. Cả bọn cười
                   ồ. Martin đập vào tay gã)
GIEN NY -   (Với Martin) Gien Ny cũng đang ngứa ngáy tay chân đây. Nào, nhảy
 đi!
                    (quay về phía ông Hoàng và Smit):
     -  Xin lỗi các ngài!
SMIT -   Cô Gien Ny cứ tự nhiên!
                                 (nhạc. Gien Ny và Martin nhảy. Không khí sôi động, say sưa.
                                 Smỉt thì đắm say nhìn Gien Ny khiêu vũ. Ông Hoàng vẫn
                                 trầm ngâm suy tư uống rượu. Lúc này từ ngoài cửa tiến vào hai
                                 người khách mà không ai để ý: Đó là Andrây Côhen và trợ lý
                                 Thanh)
ANDRÂY CÔHEN -   (nhìn Gien Ny nhảy. Vỗ tay) Hoan hô! Gien Ny múa đẹp lắm!
                                (nhạc dừng. Martin tiến lại phía bàn của đám khách chơi rót
                                 rượu uống. Gien Ny thôi khiêu vũ quay lại phía Andrây Côhen)
GIEN NY -   Ô, chào ngài Andrây Côhen! Very happy to meet you again dear sir!
                                                                             (rất hân hạnh được gặp lại ngài!)
ANDRÂY CÔHEN -   Tôi cũng rất vui được gặp lại Gien Ny!
MARTIN -   Ôm hôn đi Gien Ny! Hôn cho thắm thiết vào!
HIPPY -   (Phụ hoạ) Hôn đi! Hôn đi!
ANDRÂY CÔHEN -   Lần này Gien Ny có theo tôi về Pháp không?
GIEN NY -   Chả lẽ ông vẫn sống độc thân?
ANDRÂY CÔHEN -   Tôi vẫn chờ em Gien Ny!
                            (vừa nói Andrây Côhen vừa tiến lại chào Smit cùng
                             chuyên viên Hoàng. Họ bắt tay nhau thân mật)
Ô. HOÀNG -   Chào ngài giám đốc công ty tư bản Pháp!
ANDRÂY CÔHEN -   (với ông Hoàng) Nhận được điện báo của chuyên viên Hoàng,
 tôi lập tức thu xếp công việc của công ty Pháp, rồi đáp máy bay đến Hồng
 Kông ngay.
Ô. HOÀNG -   Cũng đã gần mười năm rồi mới gặp lại ngài.
ANDRÂY CÔHEN -   Khi đó buộc phải đình lại. Tạm dừng quan hệ hợp tác với
 công ty Việt Nam, rút về pháp. Tôi cũng rất tiếc.
Ô. HOÀNG -   Chỉ bởi vì trình độ kỹ thuật may hàng xuất khẩu của công ty Việt
 Nam, khi đó có phần còn non yếu.
SMIT -   Tôi xác nhận: Kỹ thuật may mặc của công ty Việt Nam hiện nay đã rất
 khá. Nếu như lần này họ tổ chức ban lãnh đạo lại cho tốt, thì cả công ty Nhật
 với Pháp cùng đầu tư liên doanh với công ty Việt Nam để sản xuất hàng may
 quốc tế!
Ô. HOÀNG -   Rất cám ơn thịnh tình của các ngài!
                            (quay về phía cô bán hàng)
                 Miss Hippy, three whisky please! (cho 3 whisky!)
HIPPY -   (gọi vào trong) Three whisky!
                                  (một người bồi bàn mang rượu ra đặt lên bàn)
Ô. HOÀNG -   (với Andrây Côhen) Lần này, công ty Pháp đồng ý quay trở lại liên
 doanh với công ty Việt Nam chúng tôi chứ?
ANDRÂY CÔHEN - Nếu không, tôi đã không gấp rút sang Hồng Kông để gặp gỡ
 chuyên viên Hoàng.
                   (CôHen quay về phía Smit):
-         Mặc dù tôi biết công ty của họ, vừa để xẩy ra một vụ tổn thất hàng may
 gia công khá lớn với công ty Nhật của ngài.
SMIT -   Do bộ máy quản lý lãnh đạo còn hơi tạp. Nhưng về kỹ thuật làm hàng may
 của nhiều công ty may Việt Nam bây giờ, ta có thể yên tâm được.
ANDRÂY CÔHEN -   (với ông Hoàng) Phải sửa! Phải sửa thật kiên quyết! Chuyên
 viên Hoàng đồng ý với tôi như thế chứ?
Ô. HOÀNG -   sẽ không còn tái diễn những sai phạm như thế nữa đâu, các ngài cứ
 yên tâm.
SMIT -   Nào! Hãy nâng cốc chúc mừng cho những liên doanh hợp tác quốc tế giữa
 Pháp-Nhật-Việt ngày càng triển vọng tốt đẹp!
Ô.HOÀNG -   Việt Nam chúng tôi sẽ còn mở nhiều những mối liên doanh quốc tế
 trên mọi lĩnh vực: như du lịch, hải sản, viễn thông, công nghiệp, nông-lâm-
nghiệp, hầm mỏ, v.v…
ANDRÂY CÔHEN -   Ô kê! Ô kê! Các công ty tư bản Pháp rất sẵn sàng.
SMIT -   Đó cũng chính là xu thế phát triển kinh tế thương mại toàn cầu của thế giới
 hiện nay.
                         (chạm cốc vui vẻ)
GIEN NY -   (bước lại)  Thưa ngài giám đốc công ty tư bản Pháp Andrây Côhen!
 Xin được phỏng vấn ngài?
ANDRÂY CÔHEN -   Xin mời Gien Ny!
GIEN NY -   Ngài có thể cho biết: các công ty tư bản Pháp nói riêng và liên minh
 châu Âu nói chung, đánh giá đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
 sang đó như thế nào?
ANDRÂY CÔHEN -   (cười) Các doanh nghiệp may của Việt Nam vẫn cần phải nỗ
 lực nhiều. Để có nhiều hàng đẹp, hàng tốt và nhiều hàng cao cấp mà giá
 thành còn phải hạ nữa… Thị trường quốc tế là phải cạnh tranh! Cạnh tranh
 rất quyết liệt!
Ô. HOÀNG -   Nhưng những năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng may Việt Nam
 vào EU vẫn tăng trưởng đấy chứ!? Điều đó chứng tỏ năng lực và kỹ thuật
 sản xuất của Việt Nam chúng tôi, cũng đã dần bắt kịp được thị trường thế
 giới!
ANDRÂY CÔHEN -   Thí dụ như hàng Trung Quốc họ xuất khẩu vào EU chẳng
 hạn: Có những mặt hàng may mặc của họ, có khi phẩm chất còn thấp hơn
 so với hàng Việt Nam các bạn. Nhưng họ lại vẫn đánh bạt được Việt Nam?
 Bởi vì giá hàng của họ rất hạ, rất rẻ. Và các bạn còn nhiều những đối thủ
 láng giềng khác nữa đấy! Như Phi Lip Pin, Thái Lan, Inđônêxia… Đồ may
 của họ rất đẹp! Lại thích ứng với mốt thị trường rất nhanh, rất sinh động.
 Dân tiêu dùng châu Âu  rất chuộng.
GIEN NY -   Thế còn những chính sách thiện chí đối với Việt Nam - về phía chính
 phủ các nước EU như thế nào, thưa ngài?
ANDRÂY CÔHEN -   EU vẫn là một thị trường lớn, một thị trường rất quan
 trọng… luôn mở cửa chào đón hàng dệt may Việt Nam. Hiện tại và càng
 quan trọng hơn trong tương lai.
                                            (Andrây Côhen quay về phía ông Hoàng)
                 Nhưng yêu cầu của khách hàng châu Âu thường rất cao. Các công ty may
 Việt Nam phải cẩn thận.
SMIT -   Người tiêu dùng hàng may Nhật Bản cũng khá khó tính. Đặc biệt về mốt
 thời trang. Giới trẻ họ rất nhậy bén. Quảng cáo các mốt thế giới trong
 những thành phố Nhật Bản quay đến chóng mặt. Sản xuất hàng xuất khẩu
 vào Nhật Bản phải rất kịp thời. Chậm trễ, hết mốt sẽ không còn người mua.
 Các bạn sẽ phải chấp nhận những tổn thất không nhỏ - Như lô hàng gia
 công vừa rồi?
Ô. HOÀNG -   Bài học này chúng tôi sẽ không bao giờ quên.
GIEN NY -   Với tư cách một nữ nhà báo, xin chúc cho quan hệ liên doanh hợp
 tác của các ngài thành công tốt đẹp!
                (nhạc rộ lên. Không khí vui vẻ cùng với tiếng hát của Martin)
GIEN NY -   Bây giờ Gien Ny xin chụp vài pô ảnh về cuộc gặp gỡ quốc tế của các
 ngài, để đăng trên trang báo Quốc tế.
HIPPY -   Chị Gien Ny đưa khách lên tầng gác thượng mà chụp ảnh. Trên đó có
 thiên nhiên, có đầy đủ phông cảnh và cả vườn hoa nữa đấy!
GIEN NY -   Phải đấy, xin mời các ngài lên trên tầng thượng!
HIPPY -  (chỉ cho khách) Các ngài đi theo đường hành lang ấy ạ!
MARTIN -   (chạy lại) Chụp cho Martin vài kiểu ảnh,chị Gien Ny!
GIEN NY -   Chị chụp cho khách đã. Lát nữa chị sẽ chụp riêng cho Martin.
GÃ SAY -   (đến chỗ Martin) Cứ về theo anh Martin! Về với anh, anh sẽ thuê một
 gã thợ ảnh tầm cỡ, chụp cho em toàn nuy.
MARTIN -   Đồ nỡm, đây không thèm.
                                 (cả đám khách cười ồ)
GÃ SAY -   (đến bên Hippy) Rót rượu cho anh, cô em! Con bé ca sĩ nó không đi với
 anh, thì em đi với anh vậy! Ôi, bộ ngực phóng túng của em, ngon như trái
 táo tây.
HIPPY -   (hẩy tay gã ra) Có muốn gẫy tay không thì bảo?
                                  (cả bọn lại cười)
GÃ SAY -   Cô em làm gì mà đáo để thế!
                             (đám quan khách lần lượt đi ra phía hành lang lên tầng thượng.
                 Chuyên viên Hoàng đi sau - Trợ lý Thanh từ nẫy vẫn lầm lì ngồi
                 riêng một chỗ rót rượu uống, lúc này tiến về phía ông Hoàng)
THANH -   (gọi) Ngài chuyên viên, xin ngài dừng lại ít phút!
Ô. HOÀNG -   Có chuyện gì vậy anh Thanh?
THANH -   Tôi thấy ông toàn bàn với họ về liên doanh với hợp tác? Ông chả quan
 tâm gì đến chuyện giải quyết lô hàng gia công đã bị Nhật từ chối ? Thế là
 là… nghĩa là như thế nào?
Ô. HOÀNG -   Anh đi theo để giúp việc cho tôi, hay anh định chỉ thị cho tôi đấy?
THANH -   Tôi chỉ xin nhắc lại…
Ô. HOÀNG -   Tôi cũng đã thuyết phục hết cách rồi, nhưng không cứu được. Ngay
            khi còn ở trong nước, tôi biết cũng không hy vọng.
THANH -   Sao ông không từ chối đừng đi, để cho người khác sang đây? Đằng này
 ông lại nhận với chú tôi…
Ô. HOÀNG -   Tôi nhận chỉ thị trực tiếp của đồng chí bộ trưởng, chứ không phải
 riêng của chú anh! Trọng tâm là phải ký bằng được hợp đồng liên doanh với
 công ty tư bản Nhật và Pháp, để mở rộng cánh cửa sản xuất kinh doanh
 quốc tế!
THANH -   Nhưng cứu vụ bị tổn thất vừa rồi, cũng là một nhiệm vụ hết sức quan
 trọng?
Ô. HOÀNG -   Nhiệm vụ là phải tạo cơ hội để phục hồi và phát triển công ty! Còn
 lỗi tại mình gây ra, người ta không chấp nhận thì phải chịu. Không thể vì
 thế mà bất cần, rũ tuột tất cả đi được.
THANH -   Thế này thì ông giám đốc – chú tôi, chết chắc rồi!?... Tôi chắc cũng sẽ
 chết theo luôn.
Ô. HOÀNG -   Chú anh sẽ được trên chiếu cố có nhiều công lao, cùng lắm thì bị
 đình chỉ công tác, về hưu. Còn anh, chú đã được tha thì cháu chắc cũng
 chỉ xuống làm công nhân, có gì mà chết!
THANH -   Nói như ông… còn nước mẹ gì nữa.
                                   (Gien Ny quay lại giục ông Hoàng)
GIEN NY -   Mời ngài chuyên viên lên chụp ảnh, tất cả đang chờ ngài.
Ô. HOÀNG -   Tôi sẽ lên ngay!
                                   (ông Hoàng vội vã theo Gien Ny đi khuất.)
THANH -   (một mình lẩm nhẩm) Ta phải điện ngay về trong nước, báo cho
 chú ta biết tình hình mới được.
                       (Hippy cũng vừa ở phòng trong trở lại bên quầy)
THANH –   (gọi) Hippy! Cô Hippy!
HIPPY -   Ông gọi em ạ?
THANH -   Phòng gọi điện thoại quốc tế của khách sạn, ở đâu cô nhỉ?
HIPPY -   (chỉ vào trong) Ông cứ đi theo lối này vào trong đó. Phòng điện thoại có
 treo biển đấy, ông vào mà gọi!
                       (Thanh vào khuất. Lớp quan khách vừa chụp ảnh cũng từ trên
                       tầng thượng xuống)
SMIT -   (vừa đi vừa nói với ông Hoàng) Hy vọng những năm tới, công ty của bạn
 cũng như ngành dệt may Việt Nam, sẽ đạt được sự phát triển thật mỹ mãn.
ANDRÂY CÔHEN -   Liên minh châu Âu cũng dành nhiều thuận lợi cho Việt Nam.
 Mong rằng Việt Nam sẽ thắng lợi trong cuộc cách mạng kinh tế thị trường.
Ô. HOÀNG -   Chúng tôi vô cùng cảm kích trước thiện chí của những công ty tư
 bản các ngài.
SMIT -   Chốc nữa, mời chuyên viên Hoàng và ngài Andrây Côhen về trụ sở của
 công ty tư bản Nhật. Chúng ta sẽ đi đến phần bàn cụ thể, về kế hoạch liên
 doanh với công ty may của Việt Nam.
GIEN NY -   Xin chúc cho các ngài đặt được quan hệ quốc tế cao cả và hữu nghị.
                          (nhạc rộ. Martin hát. Một lát, Thanh hớt hải từ phòng điện thoại
                          chạy ra)
THANH -   (với ông Hoàng) Tôi vừa gọi điện thoại về trong nước.
Ô. HOÀNG -   Có tin tức mới à?
THANH -   Xin mời ông chuyên viên ra ngoài này!
                           (Thanh kéo ông Hoàng ra ngoài phía hành lang, rồi nói tiếp):
Chú tôi nói: báo lại với ông chuyên viên rằng - Nếu công ty Nhật không
chấp nhận lại lô hàng gia công, thì cũng không cần thiết quan tâm đến việc liên doanh hợp tác gì hết!
Ô. HOÀNG -   Các anh gây ra tội. Không đưa các anh ra truy tố trước toà, thế đã là
 quá nhân đạo. Nay vì cá nhân, các anh muốn phá cả công ty à? Cho tất cả
 tan nát theo các anh, thì các anh mới thoả à?
THANH -   Chú tôi nói, ông cứ về nước… tội vạ đâu chú tôi chịu.
Ô. HOÀNG -   Nhiệm vụ Bộ giao cho tôi, tôi phải hoàn thành. Nếu cần thì anh cứ về
 trước, tôi phải ở lại để thực hiện những hợp đồng liên doanh.
                       (nói xong ông Hoàng quay trở lại phía mọi người. Thanh bực
                       bội đi ra phía cửa khách sạn)
THANH -   (lảm nhảm) Cái lão này, chẳng ra cái gì! (ra khuất)
Ô. HOÀNG -   (với khách) Tôi xin thay mặt cho công ty Việt Nam, cám ơn tinh
 thần hữu nghị hợp tác của các ngài!
ANDRÂY CÔHEN -   Chúng ta nâng cốc vì sự phát triển trong hoà bình của nền
 kinh tế thế giới!
SMIT -   Chúc cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam được tốt đẹp!
                                 (mọi người chúc tụng trong tiếng nhạc. Andrây Côhen tiến về
                                  phía Gien Ny)
ANDRÂY CÔHEN -   Chuyến này Gien Ny có đồng ý theo tôi về Pháp không?
GIEN NY -   Ngài muốn em theo ngài về ở hẳn bên Pháp à? Em còn phải suy nghĩ?
MARTIN -   (phụ họa) Về làm bà phu nhân Andrây Côhen đi, chị Gien Ny!
                                       (lại phía Andrây):
   Hay là, nếu chị Gien Ny không đi, ngài cho em theo ngài về Pháp vậy? Suốt
 ngày em sẽ hát cho ngài nghe!
HIPPY -   (cũng tiến lại) Em đồng ý theo ngài Andrây Côhen đấy! Em sẽ hầu hạ
 ngài. Chị Gien Ny mà không theo ngài thì thật uổng.
ANDRÂY CÔHEN -   Đừng đùa nữa Hippy!
HIPPY -   Em tình nguyện về ở với ngài thật mà. Em sẽ làm phu nhân cho ngài.
 Ngài thấy đấy, bộ ngực nở nang này của em bao nhiêu người thèm khát.  
MARTIN -   (với Hippy) Này thôi, cô đừng đòi tranh của người ta!
MỘT GÃ -   (lại kéo Martin)Cô em theo anh, anh nhận cô em làm phu nhân.
MARTIN -   Bỏ ra, đồ khỉ.
GÃ SAY -   (hát) “Anh theo nàng về quê…”
                                    (gã kéo Martin đi…)
MARTIN -   (nói với lại) Ông Andrây Côhen! Nếu ông đồng ý thì cứ gọi em nhá!
                                    (theo gã say ra khỏi khách sạn)
MỘT GÃ -   (với Hippy) Còn cô em thì phần anh.
                                    (Hippy ngúng nguẩy đi vào trong. Gã cũng ra)
GIEN NY -   (với mọi người) Chào các ngài, em đi đây!
ANDRÂY CÔHEN -   (nói với theo) Tối nay, tôi sẽ đón Gien Ny ở đâu?
GIEN NY -   Ở nơi mọi lần ngài vẫn đón em ấy!
                           (khách khứa tản ra hết. Chỉ còn lại 3 người thương gia)
SMIT -   May every thing be happy! (chúc cho mọi sự tốt đẹp!)
                … và chuyến đi của chuyên viên Hoàng thắng lợi!          
                                  (chạm cốc)
ANDRÂY CÔHEN -   Phải, đã thay đổi không thể thay đổi nửa vời. Thiên niên kỷ
 mới, tư duy mới.
SMIT -   Nào, bây giờ thì xin mời các vị về công ty Nhật. Chúng ta sẽ  bàn bạc
 để tiến hành kí kết hợp đồng!
                     (Mọi người vui vẻ. Thanh lảo đảo từ ngoài vào. Hắn nhìn cảnh
                     tượng lắc đầu đi về phía hành lang)
THANH -   (than vãn) Thế này thì hết cách gỡ rồi!
                                            (nói như hét lên):
                 Hết cáh gỡ rồi. Chết chắc rồi, chú ơi!...
 
                                 (Hắn thiểu não bước ra. Ngoài cửa Martin trở lại, vừa đi vừa hát
                                    trong tiếng nhạc hoạ)
 
                                              HẠ MÀN.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2017 12:28:03 bởi Nhân văn >
Nhân văn 17.05.2017 11:49:54 (permalink)
 
             NHỮNG ÁNG VĂN CHƯƠNG
                   LÊN ÁN CỘNG SẢN
 

                                                  PHẠM NGỌC THÁI
 
                                          Phần 1.
                                   THƠ ĐẤU TRANH
 
                   NƯỚC ĐÃ MẠT RỒI

                               I.

Thế đã chết những tháng năm đẹp đẽ
Bầu trời không còn xanh. Mây phủ kín linh hồn.
Tim nhỏ xuống những dòng thơ cào xé
Tổ quốc ơi! Bọn ưng khuyển hoành hoành.
 
Nhân dân tôi như cá dưới dao, nằm trên thớt
Kẻ thù kề cận ngoại bang, kẻ phản bội nhân dân
Chúng trâng tráo nhe nanh, nhe vuốt
Nước mạt rồi quằn quại dân đen.

Thằng Tàu đó, chính kẻ thù vạn thuở
Lẫn giặc trong nhà hại nước cầu vinh
Miệng nói vì dân nhưng tâm địa sói lang
Đảng cộng sản ư? Xin thắt vòng tang trắng!

Lũ quan lại địa phương cướp đất của dân, đủ điều độc đoán
Cấu kết với quan trên - Tiếng ai oán đau lòng!
Thành một bầy quan bọ cạp dày đen tổ quốc
Xưa bần cố nông, giờ "vô sản hoá lưu manh". (1)

                             II.

Cùng với Mỹ kết anh em bè bạn
Cuộc chiến tranh nào cũng chỉ chết nhân dân?
Con đường Phan Châu Trinh xưa "đề huề Pháp-Việt" (2)
Nay nhập vào khối Hoa Kỳ 
mà tiến về phía "Tượng thần tự do" bất khả muôn năm!

Vừa để chống giặc Tàu vừa nâng nước lên ngang tầm thời đại
Con đường "tư bản" mới chính là chủ nghĩa dân sinh
Xã hội lắm bọ dòi, nhà nhà thì vô phúc
Đó là kết cục đường lối cũ suy vong.

Đảng xã hội, đảng dân chủ hay một đảng nào tích cực
Đảng nào tốt thì cầm quyền!
Chẳng phải cũng qui luật cạnh tranh của Marx - Ăng Ghen? (3)
Chính qui luật để bảo vệ non sông gấm vóc
Nếu chỉ một đảng độc quyền: sẽ thành hùm beo cắn xé nhân dân.

Tổ quốc ta yêu! Ngàn năm thương xót
Có nhìn nay chính phủ đang hoá những yêu tinh?
                                          Hà Nội - 4/6/2013
 
(1)  Tầng lớp giai cấp vô sản trong guồng máy lãnh đạo nhà nước XHCN biến chất thành "những tập đoàn tham nhũng, lũng loạn" hoặc… "vô sản hoá lưu manh".                          
2)  Đường lối cách mạng của cụ Phan Châu Trinh là không theo con đường bạo động, để tránh đổ máu nhân dân - Cụ chủ trương: "Pháp - Việt đề huề"...
3)   Cũng theo Marx - Ăng Ghen: "cạnh tranh" chính là qui luật của sự tiến bộ!... Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trong chính trị cũng như các lĩnh vực khác.                                        
 
      NÓI THẬT THÌ PHẢI VÀO TÙ
 
Nói thật thì phải vào tù, nên đành sống giả?
Thơ viết mãi về tình yêu và đàn bà,
                                            cũng đã chán rồi!
Mười năm chiến trường huân chương đầy ngực
Nay lặng nhìn vận nước khôn nguôi.
 
Ta ủng hộ ai? Ủng hộ chính thể nào?
XHCN ư…
Marx đã thành hoang tưởng.
Theo Lê-nin…
Hoá ra lại  gây tổn hại cho dân tộc, giống nòi (*)
Con đường này cả thế giới đều sai.
 
 “Độc lập” gì mà nhân quyền sụp đổ?
“Tự do” gì mà đàn áp lương tri cả nhân dân?
 
                                         Tháng 2-2014
 
(*) Chủ nghĩa Marx hoang tưởng đã đành - Ngay cả lãnh tụ Lê Nin cũng ngộ tưởng khi tuyên bố: Những nước nhược tiểu như Việt Nam ở châu Á, hay châu Phi, Mỹ la-tinh... vừa ra khỏi ách thuộc địa, có thể tiến thẳng lên CNXH - đốt cháy giai đoạn không cần qua TBCN, khi có Liên bang Xô Viết làm chỗ dựa - Thì chính Liên Xô cùng các nước XHCN ở Đông Âu lại sụp đổ đầu tiên.
     Sự ngộ tưởng của Lê Nin không chỉ trở thành một hệ quả đối với nhân dân Nga, đất nước Nga... mà còn kéo theo sự lầm lạc của những nước như Việt Nam và các nước nhược tiểu đó!  Trên con đường tiến lên CNXH, nó dẫn đến sự thoái hoá của bộ máy nhà nước và xã hội: 
      Nay nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Ukraine từng thuộc Liên bang Xô viết cũ, hàng loạt tượng đài Lê Nin bị nhân dân đập phá - Cảnh báo CNCS đã và đang hoàn toàn bị sụp đổ.
 
                  BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
 
                    Hãy cứ đo bể ta bằng luật-điều quốc tế
                      Trời xanh ta xanh bao nhiêu hải lý
                      Nhưng chớ đo lòng căm giận chúng ta
                      Máu hơn ba chục năm trời ta đã đổ ra.
                                       Chế Lan Viên

                      I-

Chúng muốn cướp biển ta - Lũ Tàu khốn kiếp!
Anh em gì? răng với chả môi…
Từ thuở nghìn năm cha ông đã nói rồi:
“Phải coi chúng muôn đời là giặc”.

Nếu bị mất lòng dân thì mất hết!
Sao lại đàn áp người biểu tình
                             khi họ chống giặc Trung?
Nếu ta mà sợ sệt luồn mình
Cũng có nghĩa là hại dân, hại nước.

Rất hoan nghênh ông Thủ tướng đã lên tiếng
                              bảo vệ chủ quyền Tổ quốc (*)
Lên án bọn Tàu xâm phạm địa phận biển Đông ta!...
Tội lỗi thay những ai chỉ biết co ro,
                      khi giặc vào để chiếm nhà?
Nếu Đảng không còn đủ đức tin với giống nòi
Cấp thiết phải thay bằng con đường dân chủ.

Sinh mạng bao chiến sỹ hải đảo và máu nhân dân
                                    vẫn đổ nơi biển trời xứ sở
Nhìn cảnh bọn Tàu cậy mạnh ức hiếp mình,  
                             không khác gì một lũ sói lang
Hoà bình đấy mà bao hờn căm uất hận
Với thằng Tàu - Bản chất chúng là không có anh em!
                            II-

Ta sẵn sàng đối xử hiền hoà
Nếu chúng biết tôn trọng chủ quyền ta,
                                 hòa hảo làm ăn đều có lợi.
Không cần úp mở gì: Chúng chỉ lui nhường,
                              một khi không nuốt nổi ta!
Ừ, thì cả hai bên cùng đóng kịch, diễn trò
Miễn rằng: Nếu anh biết tôn trọng tôi…
                  tôi cũng sẽ tôn trọng anh, là được.

Cậy nước lớn
Chúng chỉ muốn nuốt sống, ăn tươi người khác.
Kẻ thù lớn kề sát cạnh ta
       vừa thâm độc, tính lại bẩn như loài cầm thú.
Muốn đất nước, dân tộc mình
Không phải nhấn chìm mãi
                          trong cảnh máu xương nhuộm đỏ?
Xã hội phải thật sự có nhân quyền
Để liên minh với nước Mỹ hùng cường
              cùng bầu bạn, anh em trên trường quốc tế!

Bản thân tôi đã vào đảng nơi chiến trường
Trải qua ba lần đạn bom bắn vào cơ thể
Là ba lần máu đổ với mấy mảnh xương tan
May không chết, được Đảng kết nạp ngay trên chốt.
Nếu ở đến bây giờ,
Cũng phải hơn 40 năm là người trong tổ chức?
Nhưng tôi đã xin ra khỏi Đảng.

"Tượng thần tự do" một đỉnh cao sáng lạn
Ở ngay nước Hoa Kỳ!
Của nhân loại vĩnh hằng…
Con đường ta cần đến, cần đi
Không có đảng độc quyền:
- Trước hết, không phải vì đảng
Mà phải vì Nhân dân - Tổ quốc!

ÔI, biển đảo quê hương ta ngàn năm tha thiết
Chưa bao giờ được yên bình, đầy bão táp phong ba.
 
                                                Hà Nội - 6/2014
      
(*)   Trong cuộc họp báo quốc tế tại Philippines ngày 22/5/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có tuyên bố trước toàn thế giới, rằng: “ Việt Nam không đánh đổi chủ quyền lấy một thứ hoà bình, hữu nghị viển vông…” - Nhưng rồi lời nói của ông cũng chỉ là sáo rỗng?
 
 
 
         NGƯỜI LÍNH TRẬN NĂM XƯA
             NGHĨ VỀ NGÀY 30-4


Tôi không bật vô tuyến để coi lễ duyệt binh ở Sài Gòn
Cũng không xem bắn pháo hoa ngoài Hà Nội
Sống giữa Thủ đô mà lòng buồn không tả nổi
" 30 - 4 " đâu có phải là ngày chung của dân tộc Việt Nam?

Chỉ là dân mình giết nhau
                    lập lên một chính thể chưa có nhân quyền
"Chủ nghĩa xã hội" gì đâu? "mèo mả gà đồng"…
Nước non đầy rẫy những quan tham
Cưỡng chế, chiếm đất của dân, đục khoét trăm đường,
                            tàn phá quốc gia hơn những thằng phá hoại.
Cái tên Nhà nước do dân, vì dân...
                             phải chăng cũng chỉ là giả dối?

Chí ít hãy trả cho ta một bầu trời
                      có luật pháp, nhân quyền, tự do như nước Mĩ
Văn nghệ sĩ ta không cần "đảng trị" trên tác phẩm của mình
"Nhân văn giai phẩm" xưa, chính là ngọn cờ
                                                     đòi quyền sống thiêng liêng
Thôi ! Bỏ Tổng bí thư đi
Hoặc giả như hàng loạt nước Âu Châu mà bầu ra Tổng thống. (1)

Lấy ngọn cờ tư bản mà đi...
Thế lực nào không mang lại quyền sống cần thiết cho dân nghèo
Đạp bỏ.
Nguyên thủ nào yếu hèn, cấu kết, uốn gối trước giặc Tàu
Mở đường cho dân Tàu tràn vào
                            ngông cuồng chiếm đất, lấn át dân ta
Đạp bỏ.
Kẻ nào lợi dụng thế lực chính quyền
                                bức chế sự tự do của văn nghệ sĩ
Đạp bỏ.
.....

Nghĩa là ông Tổng thống phải đem sinh mạng mình ra
                                                          hành trình trước quốc dân
Nếu làm tổn hại nước non,
                                            sẽ phải xử như một tội nhân dân tộc.

Ôi đất nước,
Con úp mặt lên mảnh đất của Người
                        thấm đầy máu giống nòi và nước mắt
Tổ quốc có bao giờ buồn thế này không?
Tôi đã đi suốt Trường Sơn
                                         đến khi kết thúc chiến tranh
Hiến cả tuổi thanh xuân. Cứ ngỡ
                          mình đã góp phần hy sinh vì Tổ quốc
Có ai ngờ lại mang mối thảm sầu
                          cho hàng triệu người, nửa nước? (2) 
 
Hãy mở một "Hội nghị Diên Hồng" để hỏi dân:
Có nên cho Đảng cộng sản vẫn nắm quyền
Hay chính phủ cần đa đảng?
Thế kỉ XXI rồi
Xã hội con người phải có mọi quyền tự do cuộc sống
Chính thể nào trấn áp nhân quyền của ta
                                         thì đào mồ chôn lấp nó đi.

                                     * * *
 
Người lính trận năm xưa
                                 lớn lên trên mảnh đất nghèo quê
Mơ một giấc mơ bình thường, rằng:
Dân mình sẽ được sống tự do bằng con đường Tư bản.

                           Hà Nội - Đêm 30/4/2015
 
(1)   Cuối năm 1990-1991 toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Âu Châu bị sụp đổ,
      để thay bằng một thể chế khác.
(2)   Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói về ngày 30- 4 rằng :
          "Có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn".     
 
 
 
       HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐÃ TRỞ THÀNH
                  NỖI NHỤC CỦA QUỐC GIA


Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
Khi cái danh hội viên Hội nhà văn đã trở thành nhơ nhớp
Hàng loạt các nhà văn cội gạo tuyên bố từ bỏ Hội
Như rũ bỏ một chiếc áo lâu ngày lấm lem, rơm rác. (1)
Ý Nhi không thể ở lại, vì kẻ lãnh đạo Hữu Thỉnh
Chỉ là hiện thân của một con "biến hình trùng"...    
Chúng lồng lộn dã tâm tim cách thanh trừng
Những anh em trong "Văn đoàn độc lập"...  (2)
Như Nhà nước và Đảng cộng sản từng đàn áp
                                nhân văn giai phẩm năm xưa
Ngọn cờ đầu sáng chói ngàn thu
            của văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do.

Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
Nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo:
Lãnh đạo Hội đã vi phạm hiến pháp,
                 sự tự do sáng tác, nhân quyền của nhà văn
Kẻ thì bảo: người tử tế không ở lại làm bia chắn cho Hội nhà văn
Dư Thị Hoàn tuyên bố:
                            Hội nhà văn đã biến ra... "sợt rác".
Ôi, cái gọi là Hội nhà văn Việt Nam
Thảm hại hơn bao giờ hết!
 
Nhà thơ Bùi Minh Quốc lên án
                                    HNVVN ngày càng sa đọa
Tiêu xài phung phí tiền thuế đóng góp của nhân dân
Hội viên càng đông thì chất lượng càng thấp.
Nhưng "con biến hình trùng" Hữu Thỉnh
                                             vẫn phồng mang trợn mắt:
Chúng ta nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng?
Chúng ta hãnh diện khi được làm...
                                   nô lệ tiên phong cho Đảng?
Hãy đổi tên thành Hội nhà văn của Đảng cộng sản.
Để khỏi làm nhục nhã quốc gia
Khỏi làm ố danh cho cả Tổ quốc Việt Nam ta!

Hội nay như quái thai của Đảng cộng sản cầm quyền
Sặc sụa mùi nô bộc
Chúng coi đường hướng văn chương
                       chỉ là nói theo Đảng như con vẹt
Nên cả một thời tác phẩm văn học hầu hết thấp ngang bồn-toa-lét
Nhổ bọt vào cái danh hội viên HNVVN đã thành nhơ nhớp.

Mồm hô hào yêu nước
Nhưng khi biển Đông bị giặc Tàu xông vào ăn cướp
                                   đánh phá dân chài, bắn giết chiến sỹ ta 
Lãnh đạo Hội lại sợ sệt né tránh
                                 không dám động đến lũ Tàu-ô...
Có nghĩa là để cầu thân mà bỏ nước?
Có khác gì phản lại nhân dân?
 
Nghĩa là HNVVN thành "cái đít" của Đảng!
Nghĩa là cái đít của Đảng
                      là cái mồm văn nghệ sĩ của Hội nhà văn
Nghĩa vụ của Hội nhà văn là phải ca ngợi... "cái đít"!
Tác phẩm của Hội nhà văn trọng tâm là ca ngợi... "cái đít"!
Đảng bảo thơm là thơm
Đảng bảo thối là thối
Mà dẫu có thối nhưng Đảng bảo rằng... thơm,
                    văn nghệ sĩ của Hội vẫn phải nói là “thơm”.

Các nhà thơ, nhà văn của Hội phải thi nhau ngửi mà ca ngợi
Phải tuyên truyền cho mọi người cùng ngửi và ca ngợi
Thối đấy! Nhưng vẫn phải nói
                          nó đẹp như hoa hồng, thơm tựa hoa lay-ơn
Tóm lại, tác phẩm của Hội nhà văn chỉ được phép ngợi ca... "cái đít"!

Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
Khi cái danh hội viên Hội nhà văn đã trở thành nhơ nhớp
Chắc rồi Hội sẽ tuyển mộ hàng loạt hội viên
Là những mớ văn chương xóm, phường, ba-lăng-nhăng hợp tác
Đứa đốn mạt nào còn định đút tiền
                                để chạy vào Hội nhà văn sọt rác
Nó phải ngu hơn lợn!

                                           Hà Nội, tháng 6 - 2015

(1)   Ngày 11- 5 - 2015 đồng loạt 20 nhà văn, nhà thơ đã tuyên bố... từ bỏ  HNVVN.
(2)   Ngày 5 - 5 - 2015 tại Hội nghị của Hội nhà văn TP. HCM - Lãnh đạo HNVVN đã chỉ đạo
gạch tên 9 người đang sinh sống tại TP. HCM (trong tổng số 26 người toàn quốc), đã tham gia "Văn đoàn độc lập"... không được làm đại biểu đi dự Đại Hội HNVVN sẽ diễn ra vào tháng 7/2015 - Nhằm "loại bỏ" để thanh trừng những hội viên tham gia trong Văn đoàn độc lập Việt Nam.
 
 
           NGƯỜI CHƠI MƯA
                      Tặng Chủ tịch Hữu Thỉnh
                      và Ban chấp hành HNVVN

Mưa dại, mưa khôn, mưa rừng, mưa rú
Mưa mãi rồi võng mái nhà tôi
Tiểu tiện vào mưa làm cái thú người
Nước này trắng hơn hay các thứ mưa
                     của Hội nhà văn qua làng, qua phố?

Ta lấy mưa chơi cho thoả chí
Sao lu hết rồi, ếch nhái nhảy tứ tung
Ngẫm khúc mưa nay mà thấy lạ lùng
Khi gió giật lung tung,
                   lúc lại lầm rầm như thằng lẫn.
 
Xem các thứ mưa hò reo làm trò quẫn
Điệp khúc nào nghe mãi cũng nhàm tai
Mới lấy mưa để mưa chơi
Nhìn các loại: Chủ tịch, Hội đồng…
          rặt những phường chèo múa may thơ phú.

Hữu ý - vô tình: ai biết ai nhân bản?
Họ lên diễn đàn còn tôi đứng chơi mưa
Tiểu tiện vào mưa như một trò đùa
Oàm oạp quanh hồ tai nghe toàn chão chuộc.
 
                                     Mùa xuân, 2014
 
 
 
  BÀI CA ÔNG TÂN CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN

Ông Tân Chủ tịch ơi! Sao ông tham lam thế?
Hay sợ hết quyền rồi, đời sẽ dẫm đạp lên ông...
Gọi ông là "tân", thật ra thì đã cũ mèm.
Bốn khóa - hai mươi năm
Cả linh hồn, trí não ông đều rách nát.

Ông trơ trẽn tới mức không cần nhân cách
Mặt ông mo rồi, máu cũng đã hơi tanh...
Ông lãnh đạo Hội nhà văn mà suy yếu toàn phần
Tổ chức thì hỗn mang,
                          nền văn học nước nhà thấp kém.

Ông giỏi nịnh Đảng để lấy tiền nhà nước
Khéo bầy trò tổ chức tiêu pha
Hãy nhớ! Đây là tiền đóng thuế, tiền máu của dân ta
Không phải để cho Hội nhà văn tiêu xài, không kết quả?

Khi dùng trao giải thưởng văn chương
            thì tư lợi, cửa quyền, đầy những mánh mung
Thẩm định tác phẩm đa phần thấp kém và bậy bạ.
Lúc hội thảo thơ "tân con cóc" (1)
                         lại hùa nhau hò reo, hỉ hả
Ai muốn vào Hội nhà văn... phải chạy chọt, đút tiền
Xem ra, ông có tội nhiều hơn công thì phải?

Hàng loạt các hội viên
                  ngán ngẩm ông mà bỏ ra khỏi Hội (2)
Vì quyền sống tự do chân chính của con người
Không phải lũ nô bộc viết thuê!
Hội nhà văn giờ bung bét
                                 có khác gì một bãi tha ma?
Ông trát trấu, bôi tro vào mặt mình
Ngẩng lên thẹn trời, cúi đầu ngượng đất.

Ham hố quyền vị nhất thời, thơ phú vứt vào sọt rác
Là văn nghệ sĩ thường cầu danh thơm để nghìn thu ?
Phải chăng ông cũng chỉ một tên cơ hội "đục nước béo cò"...
Mãi mãi về sau nền văn học này
Đời sẽ bêu riếu tên ông...
Dấu hoen nhục, ông định rửa bao giờ cho sạch ?
 
                                                  Hà Nội, tháng 7- 2015

(1)  Thơ "tân con cóc": mượn chữ của Trần Mạnh Hảo
(2)   Ngày 11- 5 - 2015 đồng loạt 20 nhà văn, nhà thơ... sau này tiếp tục còn một số hội viên khác nữa, đã tuyên bố từ bỏ  HNVVN.
 
 
                 BÀI CA TƯỢNG ĐÀI HỒ CHÍ MINH

Tôi lại viết bài thơ đất nước
Đất nước đã mạt và buồn
Nhìn lên bầy quan tham
Chế độ thì băng hoại
Trông xuống oan khuất chốn dân tình
                              ngập trong bao kiếp đời khổ ải.

Ông Hồ Chí Minh ơi! Ông khóc hay ông cười?
Chúng đang đua nhau lấy trăm nghìn tỷ
                                                 dựng tượng đài ông...
Đấy là tiền thuế, máu của nhân dân
Con cháu đang bám vào cái xác của ông
Để đầu cơ chính trị, tàn phá nước non.
 
Ông có nghe tiếng dân bao miền oán than
Bao làng quê vẫn vô cùng nghèo khổ
Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc
Trẻ thơ chưa đủ trường để học
Người ốm đau bệnh tật thiếu bệnh xá, thuốc men
Mà chúng còn định dùng 1.400 tỷ
                                         để dựng tượng đài ông
Máu và nước mắt dân đen ngập tràn trong đó...
Làm sao nuốt nổi, ông ơi?

Ông khóc hay ông cười?
Bọn tham nhũng đang bám vào tượng đài ông mà phá nước
Đẩy nền kinh tế xã hội tới kiệt cùng
Nợ vay nước ngoài ngày càng chồng chất
Có ai nghĩ: Theo chủ nghĩa Marx - Lenin lại sai đường, lạc bước?  (*)
Có ai nghĩ: Chính chủ nghĩa tư bản
                                   mới là con đường đưa dân tộc đi lên!
Giá khi đó ông đừng thân Tàu,
                                  mà thân Mỹ có hơn không!?

Hôm nay chúng định dùng 1.400 tỷ dựng tượng đài ông
Giáo sư Ngô Bảo Châu thì bảo:
-  Nếu không thần kinh cũng là đồ khốn nạn!
Mà không phải chỉ một thằng khốn nạn
Trong chính phủ, trung ương liệu đếm có hết tên?

Ông có thấy không? Những bọn cẩu quan
Tàn hại giống nòi
Nên khóc hay nên cười…
Chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít
                         đang hoàn toàn sụp đổ, ông ơi! (*)
1.400 tỷ để dựng tượng đài
Liệu ông có nuốt trôi?

Mà ông cũng chỉ được một phần
Ai nói chúng sẽ không chia nhau, lại quả?
Hậu duệ giờ quá nhiều "phường mèo mả..."
Ông Hồ Chí Minh ơi!

                       Hà Nội. Tháng 8 - 2015
 
(*) Chính đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: đến cuối thế kỉ XXI này, không biết có còn CNXH không?
 
 
        NGHĨ VỀ NHỮNG TƯỢNG ĐÀI LÊ NIN
                      BỊ GIẬT ĐỔ Ở NGA


Ukraine, Kharkiv, Kiev... cùng các quốc gia vùng Baltic...
Hàng trăm tượng đài Lê Nin
                          bị nhân dân giật đổ không thương tiếc
Chủ Nghĩa Mác-Lê chưa thành thân đã hết thời
Cả xã hội loài người lên án.

                                    I-

Cách mạng vô sản: một cuộc chiến tranh phi lý
                                                      đời đời còn phỉ báng
Tắm nhân loại vào những vũng máu tàn khốc, đau thương
Vì ông - Lê Nin: nhân dân Nga phải đổ bao máu xương
Để giành lại
Một nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo, cầm quyền
Chính phủ, trung ương biến thành những tập đoàn lũng loạn
Tham nhũng, cửa quyền, vô nhân đạo
Hành tiến con đường xã hội chủ nghĩa tha hoá, hủ lậu
Đời sống xã hội dân Nga trở nên tồi tệ, bần cùng
Kéo lùi lịch sử nước Nga...
             không bằng thời Nga tư bản dã thú ngày xưa.

Vào những năm 90 - Xô Viết Nga và toàn bộ
                                      khối XHCN Đông Âu sụp đổ.
Nếu không có ông - Lê Nin
Nước Nga... cứ tiến theo con đường tư bản Nga lúc đó
Thì giờ chắc cũng sẽ không thua kém Mỹ!
Chính ông - Lê Nin: đã kéo nước Nga tụt lại hàng thế kỷ...
Chính ông - Lê Nin: đã đẩy nước Nga vào con đường "chết"...
Chính ông - Lê Nin: một trùm cộng sản
                              trở thành tội đồ hại nước, hại non.

Cho dù nay nhân dân Nga đã và đang
                        giật đổ hàng trăm tượng đài ông
Những tượng đài
Khi đó người ta phải bỏ ra hàng triệu triệu đô-la
Bằng tiền thuế, máu của dân Nga mà xây dựng
Chỉ còn lại một đống phế liệu hoang tàn
Ôi, những tượng đài Lê Nin
Đến chết vẫn còn làm
                              tổn hại tiền của của nhân dân.

Không chỉ nước Nga
Mà bao quốc gia
Bao dân thuộc địa theo ông làm cuộc chiến tranh
Cuộc cách mạng vô sản đẫm máu, đau thương và phi lý
Tắm máu triệu triệu người dân
Để xây dựng một chính thể XHCN vô nhân, bất nghĩa
Chính ông - Lê Nin: đã trở thành một tội đồ quốc tế!

                                        II-

Nhớ khi xưa Đảng vẫn dậy ta:
" Chủ nghĩa tư bản dẫy chết - Chủ nghĩa xã hôi ưu Việt " ???
Xem ra toàn những lời ma
Ma cà rồng
CNTB không những không dẫy chết mà thăng hoa
CNXH lần lượt bị đánh đổ và thối nát
Cho nên
Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng (1)
Phải lần lượt sang Mỹ cầu cứu Obama
Vì sao?
Vì CNXH như con rắn nhiều đầu phun nọc độc
Sinh ra những lớp quan lại hoá lưu manh
Đảng cộng sản cầm quyền
Những "đầy tớ nhân dân" giàu nứt đố đổ vách
                                                   như các đế vương
Tham nhũng, độc quyền
Kẻ bám gót giặc Tàu hại nước
Chà đạp lại giai cấp cần lao
Đàn áp dân chủ và nhân quyền dân tộc.

Bản cáo chung toàn nhân loại vang lên:
Rằng, chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít phải hoàn toàn sụp đổ!
Goóc Ba Chốp , Đặng Tiểu Bình
                           đều đã được tặng thưởng giải nobel
Vì đã có công góp phần với loài người
                          sớm đánh gục chủ nghĩa Marx - Lenin ! (2)
Chỉ còn lại Việt Nam, Cu Ba
Chủ nghĩa xã hội hiện hình như những bóng ma
Thoi thóp và dẫy chết.

                                        *

Không chỉ tượng đài Lê Nin
Mà nhiều tượng đài
          các lãnh tụ Đảng cộng sản trên thế giới (3)
Bị nhân dân giật đổ cả rồi.
Người ta đặt câu hỏi:
Vậy tượng đài Hồ Chí Minh rồi sẽ ra sao
 Một khi CNXH ở Việt Nam đã không còn?
Như hồi 1990 - Đông Đức mất vào tay Tây Đức
Người ta cũng giật đổ những tượng đài của Marx.

" Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá
Những nhiệt tình xuống quá độ âm! " (4)
Hỡi những nhà lãnh đạo chóp bu
                            của Đảng cộng sản Việt Nam!
Có tham nhũng cũng không nên
                          bám vào cái xác của người đã chết?
Mà lại quả, chia nhau…
Nhất là khi nhân dân còn quá khổ nghèo, đói khát
Thì dẫu linh hồn có sa xuống chín tầng địa ngục sâu
Cũng không gột sạch được lỗi lầm.

                                   Hà Nội tháng 9/2015
 
(1)   Khi đó họ đều là đương kim Thủ tướng, Chủ tịch nước và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.  
(2) -  Goóc Ba Chốp nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô. Ông đã được nhận giải nobel hoà bình 1990.
     -  Đặng Tiểu Bình một lãnh tụ tối cao của Đảng cộng sản Trung Quốc, xoá bỏ tư tưởng chủ nghĩa xã hội với câu nói của một chính trị gia, thành một danh ngôn nổi tiếng thế giới: "Mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt chuột tốt".
(3)    Theo tin trên mạng: Từ cuối năm 1989 - không chỉ ở 15 nước thuộc Liên Xô cũ, còn nhiều quốc gia khác tại Đông Âu, Mông Cổ, Ghana, Ethiopia, Afghanistan - Hàng ngàn tượng đài các lãnh tụ của Đảng cộng sản đã bị đập phá hoặc giật sập.
(4)   Thơ Chế Lan Viên
 
  RƯỚC GIẶC VÀO NHÀ  
  
Chúng dám mang nghĩa nước non
                                  rước giặc vào nhà
(Tập Cận Bình - Tên Thái thú Trung Hoa)
Khác nào Lê Chiêu Thống?
Tôi là một người lính
Thuở chiến tranh đã từng cầm súng
Nhìn chính phủ Việt Nam ươn hèn, đổ đốn
Lại nhớ câu thơ Trần Dần:
" Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ ".

Việt Nam quê hương tôi!
Có bao giờ nhục như thế này không?
Ở trong nước mà như người vong quốc
Máu ta đổ xuống đất này
                         đã thành suối, thành sông
Xương dân tộc chất cao như núi
Để bọn chúng hôm nay
Cắt từng mảnh đất cha ông
                             nhượng đem cho giặc
Tàn hại nước non vơ vàng, vơ bạc
Bán biển trời, bán đảo, phản dân.
Tên Bộ trướng Quốc phòng thì ôm gối Hán gian
Lão Tổng bí thư quì sụp, dạ vâng...
Mà chúng gọi đấy là "hữu nghị"?

Tầu của quân Tàu vào biển đảo mình
                                        bắn giết ngư dân
Đánh phá chiến tầu hải quân ta
Máu bao chiến sỹ trên Trường Sa, Hoàng Sa
                                         ngày đêm vẫn đổ
Thế mà chúng lại coi giặc Tàu là "bố" !?

Hèn với giặc, ác với dân
Công an như thể lũ sài lang
Đàn áp những người biểu tình yêu nước
Một nhà nước mà...
Cơ quan hành pháp như bầy ăn cướp
Giả dạng côn đồ
Đánh đổ máu nhân dân, hành hung các bloger ái quốc
Một quốc thể không còn chính nhân luật pháp.

Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!
Tên Thái thú giặc Tàu
Dám trâng tráo,
            huênh hoang trước Liên Hiệp Quốc
Do tổ tiên cổ đại của hắn - Người Trung Hoa để lại?
Thế mà bọn chúng vẫn đón hắn vào nhà
Rước voi giày mả tổ.
 
Linh hồn muôn ức triệu người dân
Người đang sống và những người đã khuất
Nhìn Chính phủ dẫm đạp lên cả cha ông
Việt Nam
Có bao giờ hèn, nhuc thế này không ?

                        *

Đảng cộng sản Việt Nam
Cái tàn dư cuối cùng
         của chủ nghĩa Marx - Lê trên trái đất
Thực ra nó đã quá thối nát
Chỉ còn lại bộ khung
                      bên trong toàn bọ mà thôi.
Tổng bí thư cuối cùng chăng ?
                               của Đại hội Đảng XII
Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng...
Trên chính trường kẻ nào thắng thế?  (*)

Nhân dân mong đợi
Có một Goóc Ba Chốp mới ở Việt Nam
Để hoả táng cái tàn dư cuối ấy
                                      của Đảng cộng sản
Như đã từng đạp đổ
            cả khối XHCN Đông Âu khi trước.
Nhân dân không mong đợi
Tổng bí thư mới lại là
            một tên Lê Chiêu Thống hèn nhát?
Bám đít giặc Tàu
Biến Tổ quốc Việt Nam thành địa phương Đại Hán.

Các tổ chức chính trị
Nếu còn yêu giang sơn, nòi giống
Hãy làm một cuộc cách mạng bất bạo động
Để thực hiện một chính phủ đa nguyên, đa đảng
Chôn vùi sự độc tài chính trị của Đảng cộng sản
Vì nền tự do, dân chủ, nhân quyền
Vì quê hương yêu dấu, bờ cõi được yên bình
Tổ quốc Việt Nam ơi!

                              Viết đúng ngày
              Tên Thái thú Tập Cận Bình vào Việt Nam
                             Hà Nội, 5/11/2015
 
(*) Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam XII vào cuối tháng 1/2016 phái thân Tàu đã thắng thế: Nguyễn Phú Trọng được tái nhiệm làm Tổng bí thư đảng - Thủ tướng Nguyễn Tần Dũng bị thất thế phải về vườn.
 
 
   BARACK OBAMA NGƯỜI BẠN LỚN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Giá như ông Tổng bí thư của Việt Nam
Có được tấm lòng với nhân dân
                                bằng một phần ông ấy?

Hỡi những kẻ hại dân, hại nước!
Hãy dỏng ai mà nghe

Mở mắt mà nhìn
Bài diễn văn ông Obama đọc ở Mỹ Đình
Hôm 24 tháng 5
Trước 4.000 trí thức, sinh viên
Rằng:
-  Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận
Tự do báo chí
Quyền hội họp và quyền biểu tình...
Đó cũng là trong hiến pháp Việt Nam.
Rằng, cũng ông Obama nói:
-  Duy trì các quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất
Của nền độc lập
Rất nhiều quốc gia trân trọng
Kể cả tại đây,
Một quốc gia tự tuyên bố là
            "của Dân, do Dân và vì Dân".


Giờ chúng phản lại nhân dân
Đi ngược lại cả hiến pháp Việt Nam.

                    ***

Sao có thứ lực lượng vũ trang
Mặc quần áo thanh niên xung phong
Hung hãn như lũ hồng-vệ-binh Tàu cộng
Vặn cổ, đè đầu, đánh đập nhân dân
Cả bà già, trẻ con
Như loài chó má!
Đấy là cha, là mẹ, là vợ, là anh, là chị,
                                         là em của các ngươi
Ai nuôi các ngươi nên người?
Sao còn dám mệnh danh là công an nhân dân?
Ôi, cái bộ máy công quyền
Của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam
Bức áp dân tình,
Đục khoét tàn phá quốc gia khác nào phản tặc?

Biển bị đầu độc
Hàng nghìn tấn cá chết xác ngập đầy bờ cát
Dân 4 tỉnh miền Trung bị đầu độc
Cả dân tộc Việt Nam đang bị đầu độc
Người dân đấu tranh
"Cá cần nước sạch. Dân cần Nhà nước minh bạch"
Đó là tiếng kêu thét của một dân tộc đang bức bách...
Đó là tiếng kêu thét của những người yêu nước...
Bọn bay là ai?
Bạn bay là lũ cầm thú gì?
Nhân dân biểu tình, đấu tranh
Còn chính vì sự phản bội lại dân tộc, nước non
Của bè lũ nhà ngươi nữa đấy!

                        ***

"Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá
Những nhiệt tình xuống quá độ âm
" (*)

Tên bám gót theo Tàu lòng dạ vô lương
Trâng trâng tuyên bố:
       "Dân chủ đến thế là cùng"...
Mở mồm nói hữu nghị Việt-Trung
Nhưng bản chất việc làm
           có khác nào thằng Hán gian hèn nhát?
Còn báo chí, truyền hình
Mang danh là cơ quan ngôn luận chính thống của Đảng
Mà không trung thực
Đến bài diễn văn của Tổng thống Hoa Kỳ trước nhân dân
Cũng cố tình cắt xén...
Sợ công lý như loài dơi sợ ánh sáng.
Bưng bít sự thật
        Như vụ biển bị đầu độc
        Nạn cá chết đã trở thành thảm kịch của non sông
        Cuộc sống triệu triệu người dân đang bị đe doạ
        Truyền hình không dám nói
        Không dám đưa tin
Đáng lý phải lên tiếng đấu tranh
Đòi Nhà nước có biện pháp kịp thời khắc phục?
Thì lại hùa nhau đấu tố người đã lên tiếng vì yêu nước...
- Chúng vì dân hay theo lãnh đạo hại dân?
 
Biển Đông giặc Tàu vào đánh chiếm liên miên
Máu các chiến sỹ ngoài hải đảo và ngư dân vẫn đổ
Chính phủ cộng sản đang cắt dần
                 biển đảo và đất đai cho chúng?
Chính phủ cộng sản đang biến dần
                cả dân tộc này thành nô lệ cho Tàu Cộng?
Sự việc để mất đảo Gạc Ma
Thiếu tướng Lê Mã lương đã nói:
Một vị tướng lãnh đạo cấp rất cao của Đảng
Ra lệnh cho các chiến sỹ hải quân ta
Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được đánh trả
( Nghĩa là, nếu quân Tàu vào chiếm đảo
          thì phải đầu hàng, chứ không được đánh??? )
Đó là lệnh của kẻ phản quốc!  
64 chiến sỹ hải quân Việt nam phải bỏ mạng
Và đảo Gạc Ma rơi vào tay địch.
Hãy đem treo cổ tên tướng đã ra lệnh đó lên
Giữa sơn hà
Cùng với tên "nãnh tụ" đảng của nó
Để cảnh báo cho những kẻ nhận giặc là bố !?

                             ***

Chủ nghĩa cộng sản dẫy chết
Nhà nươc XHCN sinh ra
Những tập đoàn vô sản lãnh đạo
                   lũng loạn, tham nhũng, lưu manh
Con đường chính trị Phan Chu Trinh bất diệt!
Chính ông Obama cũng nói:
Sẽ mở trường Đại học Fulbright phi lợi nhuận ở Việt Nam
Để học từ Nguyễn Du đến tư tưởng Phan Chu Trinh...

Chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố
Xoá bỏ lệnh cấm vận
Bán vũ khí sát thương cho Việt Nam
Để bảo vệ Tổ quốc!
Mỹ sắn sàng hỗ trợ nhiều mặt
Một khi Chính phủ Việt Nam
     thực thi đầy đủ các cam kết của mình
Như quyền ứng cử, bầu cử phải tự do và công bằng
Đảm bảo chế độ dân chủ, nhân quyền...

Tổ phụ Lập quốc Lý Thường Kiệt của ta đã nói:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở..."
Ông Obama cũng nhắc lại những lời như thế!
Chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng
Không một kẻ nào được xâm phạm.
 
Nước non này cha ông ta gìn giữ cả nghìn năm
Máu giống nòi bao đời đã đổ
Mà nay Đảng Cộng sản hại nước, hại dân
Bọn bay hãy dỏng tai mà nghe
Mở mắt mà nhìn
Bài diễn văn ông Obama đọc ở Mỹ Đình
Hôm 24 tháng 5
Tổng thống Hoa kỳ, một chính phủ ngoại bang
Dậy cho bọn bay đó
Bọn bay có biết không?

Barack Obama người bạn lớn của dân tộc Việt Nam ./.
                   Bài viết nhân ngày Tổng thống Mỹ B.Obama
                          sang thăm VN 23-25/5/2016
 
  (*)  Thơ Chế Lan Viên


                      
              XỬ TỘI FORMOSA

Formosa
Nó là tội đồ của dân tộc Việt Nam ta!
Gây thảm hoạ đến long trời, lở đất
Đầu độc biển và nạn cá chết
Di họa dân sinh không biết đến bao giờ.


Phải xử tội tên lãnh đạo
                       đã dẫn dắt Formosa vào đất nước
Chỉ vì lòng tham giết cả nước non
Đem nó ra vạch mặt trước nhân dân
Tống tù chung thân.

Ta lên án nhà cầm quyền
Lên án Bộ chính trị của Đảng cộng sản Viêt Nam
Sau một thời gian đã dài thảm họa nước non
Mà vẫn lấp liếm...
Không có một phán quyết nghiêm chỉnh nào
                                        về thủ phạm tội ác
Vẫn để cho Formosa ung dung tồn tại
Đó là mưu đồ của bộ máy quan lại
Cố tình trục lợi trên lưng của nhân dân
Cái chết của biển, của cá
Chính là cái chết của đạo đức, lương tâm...
Nhân dân yêu cầu Đảng cộng sản Việt Nam
Phải đem Formosa
Truy tố trước pháp luật và đóng cửa vĩnh viễn.

                                      *

Phải xử tội
Kẻ đã ra lệnh cho các cơ quan
                               báo chí, truyền thông
Cố tình bưng bít sự thật
Cố tình lừa gạt nhân dân
Tiếp tay cho những tâm địa hại nước
                        trong Chính phủ, Trung ương
Cùng lũ phản động nước ngoài
Lôi cổ chúng ra trước vành công lý
Chiểu theo pháp luật
Truy xét từng tên.                                    
                      *

Tại sao ông Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam?
Khi biển cả bị đầu độc, hàng trăm tấn cá chết
Nhân dân 4 tỉnh miền Trung lâm vào thảm khốc
Không tới thăm dân? Tìm cách cứu dân?
Lại tới thăm Formosa
Vỗ an kẻ thù
Rằng: "Hãy an tâm..."
Hành động khác gì một tên
                                 phản dân, phản nước?
Chỉ có một tên phản dân, phản nước
Mới đồng loã với kẻ làm hại Tổ quốc,
                                Dân tộc mình như thế!
 
                                    *

Bô y tế thì vô nhân bất nghĩa?
Khi dân bj ngộ độc biển, ngộ độc cá
Do Formosa gây ra
Chúng lại cấm tất cả các bệnh viện
Cấm các bác sĩ không được xét nghiệm
Cũng không được thông báo kết quả xét nghiệm
Phụ họa với chủ trương lừa gạt của trên   
Nói láo rằng: " Biển cơ bản là sạch..."
Ngày 24 tháng tư
Người thợ lặn đầu tiên Lê Văn Ngày đã chết
Rồi hàng loạt thợ lặn ở khu công nghiệp Sơn Dương
Cũng nguy cơ bị nhiễm
Chúng bỏ mặc
Không xét nghiệm
Không kiểm tra sức khoẻ
Còn đe dọa chấm dứt hợp đồng...
"Lương y như từ mẫu"
Chúng lại trở thành những kẻ hút máu dân mình
Những tên lãnh đạo nào?
Phải lôi ra trước vành móng ngựa
Mà trừng trị.

                              *

Bộ công an thì đàn áp nhân dân như thổ phỉ
Những người lâm nạn xuống đường
Yêu cầu Nhà nước phải có biện pháp cứu giúp
Chúng dùng lực lượng vũ trang
                         thẳng tay dã man, đè bẹp
Đánh đập cả phụ nữ, trẻ thơ
Bắt giữ những phóng viên đi làm phóng sự điều tra
Đồng loã với Chính phủ
Che dấu cho bọn tội phạm Formosa
Cấm không được quay phim, chụp ảnh
Ai nói chuyện với ngư dân lâm nạn
Chúng cũng đe nạt
Mua chuộc cả lũ côn đồ
Hành hạ các luật sư yêu nước
Mang danh là "công an nhân dân..."
Mà không khác gì bọn cướp ngày
Vô nhân, thất đức.
 
Nói theo cách nói của ông Hồ Chí MInh
Hỡi tên Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng!
Ngươi hãy công khai trả lời trước toàn thế giới rằng:
- Nhân dân yêu nước
Hay Bộ máy của Chính phủ 
              Đảng cộng sản Việt Nam phản dân, phản nước?
Chính các ngươi đang cúi nạp trước bọn Tàu
Từng bước rước chúng vào
Chiếm cả biển đảo, đất đai, thành phố Việt Nam ta!

                                  *

Phải xử tội formosa
Dân tộc ta là dân tộc biển
Quốc gia ta là quốc gia biển
Bảo vệ bờ biển dài
Là bảo vệ sự sinh tồn của ngư dân,
                         của cả dân tộc tự nghìn năm
Hãy hợp lực toàn dân bên trong và bên ngoài
Cần có cả thế giới và Hoa Kỳ hợp lực
Đánh cho tan bè lũ quan chức Đảng công sản
                                                   trục lợi, tham lam
Đã lộ rõ bộ mặt vô tổ quốc và vô dân tộc.

500 triệu đô-la bồi thường để bịt công luận
Với thảm họa giáng xuống đầu
                   1 triệu dân 4 tỉnh miền Trung
Tức là bồi thương 500 đô ($) một người...
Là cái giá diệt dân quá rẻ mạt
Di hại biển nhiễm độc
             và sự tồn sinh của các loài thuỷ sản
Phải 50 năm mới trở lại đươc như xưa...
Không thể để cho Chính phủ đứng ra dàn xếp
Thông đồng với Formosa
Mà phải để người dân giải quyết.

Luật sinh tồn bảo rằng:
Dân ta phải đấu tranh
Không chỉ với Chính phủ - Nhà nước
Mà với cả chính sách diệt chủng dân tôc Viêt Nam
                                           của bọn giặc Trung...
Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam
Thì lại quá hèn hạ, cúi đầu tiếp tay cho chúng.

Chúng muốn ép ngư dân ta phải đổi nghề
Là dã tâm
Giúp cho Formosa cùng với bọn Tàu chiếm biển.
Hãy lấy giải pháp giúp ngư dân bám biển
Duy trì ngành nghề truyền thống lâu dài
Mới là liệu pháp bảo vệ dân,
                    bảo vê đất nước, giống nòi.
 
Dân tôc gặp đại nạn
             mà chế độ vẫn cố tình bưng bít
Dùng bạo lực hành xử với nhân dân
Tàn độc đủ đường và vô liêm sỉ
Với Chính phủ này
Mất nước đến nơi rồi - Việt Nam ơi!

Đã đến lúc không thể dung tha cho Đảng cộng sản
Giành quyền dân chủ, tự do
Nhân dân phải đứng lên truy tố Formosa
Khởi kiện chúng ra Toà!
Bảo vệ biển, bẩo vệ cá
Là bảo vệ sư tồn sinh của dân tộc, nước nhà.
Formosa phải bồi thường thiệt hại,
Phải khắc phục hậu quả và làm sạch biển...
Rồi tống cổ nó cút khỏi Việt Nam ta!

                                       Tháng 7-2016
 
 
         ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÌNH ĐỂU QUÁ,
                  PHẢI KHÔNG EM
                                                 Tặng cô giáo Trần Thị Lam
                               Tác giả bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh”
 
Đảng cộng sản Việt Nam mình đểu quá, phải không em
Bẩn hơn cả “đít” thằng Formosa mang chất độc
Làm cho cá và biển quê mình phải chết
Tội Đảng lần này trời đất chẳng dung tha...
 
Những chiếc bánh trưng em kể đã xa xưa
Như chuyện cọc sóng Bạch Đằng
                cha ông ta đánh tan giặc Nguyên cũng cũ
Đảng cộng sản bây giờ phản nước, buôn chế độ
Lũ quan tham Chính phủ thời nay toàn đứa hại giống nòi
 
Em thương dân bốn nghìn năm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...” (1)
Thì đến trí thức, văn sĩ giờ
                                phần lớn uốn lưng sống nhục
Nhà báo như những con chó mực... (2)
Gã Chủ tịch Hội nhà văn chỉ là tên cơ hội,
                               làm tay sai cho bọn Việt Gian
 
Đảng cộng sản Việt Nam mình kinh tởm quá, phải không em
Cái “chủ nghĩa xã hội” thối tha
Hàng nghìn tượng đài Lê Nin
                               ở thế giới và bị chính dân Nga đạp đổ
Kể làm gì Việt Nam mình dựng tượng đài nghìn tỷ
Giành cho ông Hồ một phần,
                              chúng chia nhau đục khoét đấy, em ơi!
 
Em nói “sinh mạng con người chỉ như cái móng tay” thôi
Thế mà chúng lại rêu rao
                      “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, em ạ!
Quốc Hội toàn những ông bà nghị gật đầu
Để chiếm đất và vét vơ của nả…
Kẻ tìm đường chạy ra nước ngoài
Đứa về hưu hạ cánh an toàn
                     sau khi đã hút kiệt máu xương dân…
 
Anh cũng không biết Việt Nam mình rồi sẽ đi về đâu? như em
Nhưng anh biết chắc chắn một điều
Dân mình phải vùng lên đấu tranh
                                   để giành quyền tự do, dân chủ
Đánh cho chính thể Đảng cộng sản độc tài này phải đổ
Lôi lũ quaan hại giống nòi kia ra trước vành công lý nước nhà
 
Đảng cộng sản Việt Nam mình đáng phỉ nhổ quá, hỡi em xa!
Anh chỉ phát triển bài thơ em cho thêm sâu, thêm rộng
Để gửi cho thế giới yêu chuộng hoà bình
                                                          và gửi cả trời xanh
Nỗi đau dân tộc này không biết đến bao năm…
 
                                                              25-7-2016
 
(1)  Thơ của Trần Thị Lam
(2)  Nguyễn Như Phong, một nhà báo của Đảng cộng sản đã phát biểu: “Chó khôn nhờ chủ - nghĩa là nhờ sự dậy dỗ của Đảng – Nhà báo là phải như những con chó!”
 
 
                                          Phân 2.
                         VĂN CHƯƠNG PHẢN BIỆN
               PHÊ PHÁN CNXH VÀ SỰ THOÁI HOÁ
 
 
                   BẰNG VIỆT PHÊ PHÁN XÃ HỘI BẰNG THƠ
                    

                                                      PHẠM NGỌC THÁI
 
         - Tôi xin bình luận qua tập thơ "Nheo mắt nhìn thế giới" của Ông.
   "Nheo mắt nhìn thế giới" - Nxb Văn học 2008, là một tập thơ có tiếng vang và hay nhất của Bằng Việt. Trong lời giới thiệu tập thơ, ông đã viết:
-  Thơ đối với tôi (tức tác giả) không chỉ là thơ mà còn là một thái độ sống. Đã là một thái độ sống, thì bút pháp thể hiện cốt sao nói được hết điều mình cần nói, cần tỏ thái độ...
      Một đoạn khác cũng lời giới thiệu ấy, Ông còn nhấn mạnh:
    "Nheo mắt nhìn thế giới" - đầu đề tập thơ này thoạt nghe có vẻ hơi kênh kiệu, thậm chí có phần xấc lược! Nhưng đọc kỹ các bạn sẽ thấy, thực ra là một thái độ, một tâm trạng khá kìm nén, đến mức có phần nhẫn nhịn, lặng lẽ chiêm nghiệm, đôi khi chua chát, ngậm ngùi...”.
      Nhìn tổng thể tập thơ bắt nguồn từ một cách nhìn của một cõi lòng có phần u uẩn, dồn ứ cảm xúc mà tạo thành thi phẩm, mang tính phê phán xã hội sâu sắc. Vậy ta hãy xem, qua những bài thơ Bằng Việt đã phê phán xã hội thế nào? Xin mở đầu trang bình luận này bằng việc:
*  phân tích bài "Nhớ Trịnh"-
                   Có khi
                   Một ngày ruổi rong, một ngày tất bật
                   Cũng không làm xong một việc ra hồn!
                   Có khi 
                   Cả tuần lao lung, cả tuần suy ngẫm
                   Cũng không nhìn thấu bản thể mình!
     Tôi nói về đoạn thơ giữa trước:
                   Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội
                   Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già
                   Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
                   Được chuyển động - làm bù nhìn của gió...
      Bằng Việt không chỉ là nhà thơ, mà còn thuộc hàng thủ lĩnh chính trị trong cơ quan tuyên huấn Đảng, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thủ đô, phó Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật VN, đồng Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN. Có thể nói: suốt cuộc đời ông luôn tỏ ra trung thành, mẫn cán, phụng sự chế độ như một cái ..."chong chóng quay" ( thơ đã viết). Vậy sao lại phải thốt lên: Chong chóng quay, rút cuộc được gì? /- Rồi ông tự trả lời: Được chuyển động - làm bù nhìn của gió...
      Có nghĩa là, tất cả sự phụng sự không biết mệt mỏi ấy: Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội/-  Cả đến những bổng lộc, vinh quang mà ông đã có (tôi xin nói về ý nghĩa của sự "vinh quang" này sau), cũng chỉ để làm..."một bù nhìn"! Nhưng là bù nhìn của ai: bù nhìn của gió...?

      Gió thổi thì chong chóng phải quay! "gió" ở đây nó biểu thị cho một thế lực - Đó chính là bộ máy nhà nước. Ta đọc tiếp những câu thơ dưới:
                      Và gió, quẩn quanh đầu sông, cuối bãi,
                      Cũng một kiểu bù nhìn của nóng lạnh, Âm-Dương      
     Khí trời thay đổi lúc nóng, khi lạnh thì tạo thành gió - Vậy "gió" lại cũng chỉ là "một thứ bù nhìn"... của trời đất ( tức Âm-Dương)! Hình tượng "Âm-Dương" tác giả sử dụng, chính là để chỉ về chế độ, cũng chỉ như... "một thứ bù nhìn" - theo chủ nghĩa Marx hoang tưởng mà thôi! Nó vận hành như gà mắc tóc:                                   
                      cứ quẩn quanh nơi đầu sông, cuối bãi
      Đó là một bộ máy cổ hủ, thậm chí còn bị tha hoá...
    (nếu ta suy xét ở các bài khác thì thấy ý nghĩa này rõ hơn: như bài "Ngô đồng", "Người của thế kỷ trước", hay "Ngôn ngữ và chính trị" v.v...). Rồi tác giả kết luận:
                      Còn Âm-Dương có từ đâu, tồn tại tới đâu
                      Thì mở hết giác quan, ta vẫn là mù tịt!
      Với kiến thức của một học giả, sự từng trải một đời người và chân dung của một văn nghệ sĩ có tầm vóc, mà Bằng Việt phải than: Mở hết các giác quan, ta vẫn là mù tịt!/ -  Ông hoài nghi? Nói chính xác là ông không còn tin vào thể chế của chủ nghĩa Marx là đúng nữa! Ôi, nhưng đó lại chính là lý tưởng mà cả đời ông cống hiến, để bây giờ sụp đổ thế ư? rồi tác giả buồn bã kết luận:
                      Rầu rĩ trở về câu thơ của Trịnh:
                      "Đêm thấy ta là thác đổ..."
                      Vậy ngày ơi, ta là gì?
      Nghĩa là, hôm nay chỉ là đêm trường - Còn ngày mai khi trời sáng lạn thì sao? Ông chợt thấy mình rồi sẽ chẳng là gì cả! Mai ngày khi thời thế đổi thay, chủ nghĩa Marx đã không còn, xã hội đi theo một hướng khác đúng đắn và hợp lý hơn! Nói một cách cụ thể, tên tuổi với niềm vinh quang mà ông có hôm nay sẽ chỉ giả ảo nhất thời. Nó giống như một "bóng ma" trong chốn quan trường, một thứ bù nhìn của cái thế thời này! Lòng Bằng Việt tan nát, nên mới  nhắc đi nhắc lại mãi câu thơ:
                     "Đêm thấy ta là thác đổ..."
                      Có lẽ nào, chỉ thế thôi sao?
*   Tôi phân tích sang bài "Ngô đồng"-
                     Thất vọng với ngàn xưa hay thương xót ngô đồng
                     Trót được tôn quá cao, đẩy mãi vào lịch sử 
                     Để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá
                     Lưu luyến thưở vàng son xa lạ với đời thường!
      Ngay vào câu thơ đầu ta đã thấy: Phải chăng như vua Ngô xưa, ngồi ở quá cao không nghe lời ai, có mắt như đui… để đến lúc cả thành trì bị đốt cháy mới chịu tỉnh ra? Thì nước đã mất, nhà đã tan rồi! Đồng thời còn tồi tệ hơn, thất vọng và chua xót bởi cả đến lớp hậu duệ giờ cũng theo đó... mà bị đổ đốn và tha hoá. Tức là ông thất vọng cho guồng máy nhà nước đương đại đó! Hình tượng"ngô đồng" mà Bằng Việt dùng trong bài thơ, là để chỉ cho lớp quan chức chốn cung đình. Luận theo ý nghĩa thực tiễn thì ta thấy, từ trên cao nhà nước xuống đến dưới các cấp địa phương… vẫn bao tệ nạn, tha hoá. Không ít vùng nông thôn Việt Nam ngày nay, chính quyền bạo hành, đè nén dân tình, lại hình thành các kiểu địa chủ phong kiến ngày xưa. Bằng Việt đã lên án, Ông chỉ trích sự xuống cấp về cả nhân cách, phẩm giá của những lớp "ngô đồng" ấy, giờ chỉ còn là:
                      Những chậu cảnh rẻ tiền, bầu cây thô tháp
                     Lá nhăn nhúm răng cưa, xoè rẻ quạt
                     Giống lai tạp bình dân, xa rời danh giá cũ
                     Chỉ khiến nguội tanh trí tưởng tượng ngàn đời! 
      Đã cổ hủ, thoái hoá mà vẫn cố bám lấy quyền vị và những vàng son để hưởng lợi lộc, vinh hoa, thì tất yếu sẽ sinh ra ung nhọt trong xã hội. Xét ra nhiêù nước ở thế giới, trên con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp giai cấp vô sản trong guồng máy lãnh đạo nhà nước, từ giai cấp vô sản thuần tuý biến chất thành "Tầng lớp giai cấp vô sản hoá lưu manh", hoặc "Tập đoàn giai cấp vô sản tham nhũng, lũng loạn..."! Đó cũng là kết quả tất yếu để đến cuối thập kỷ 90, sang 1991 của thế kỷ XX, hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu bị sụp đổ. Hệ thống chủ nghĩa cộng sản tan rã, lan rộng trên phạm vi toàn thế giới. Ông than:
                      Ngô đồng ơi, ngô đồng
                      Có phải nhầm không đấy?
                      Giờ hoá hèn mọn vậy
                      Biết trách ai, ngô đồng?                    
     Ta nói như thế không phải là thương xót cho những sự đổ vỡ ấy, mà để nhìn thấy sự hoang tưởng của chủ nghĩa Marx - khi Người đã vạch ra một viễn vọng của chủ nghĩa cộng sản? Viễn vọng cùng chủ nghĩa đó đã tan tành!
 *  Tôi phân tích bài "Người của thế kỷ trước" - Nói về những gương mặt đặc trưng cho một chế độ của một thế kỷ đã đi qua, song những con người cổ hủ của thế kỷ đó vẫn tiến tới, cùng với lớp hậu duệ kế thừa trong guồng máy đương đại cũng bị thoái hoá (như đã phân tích ở bài trên): Để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá/ - đang ngất ngưởng phán xét, điều hành xã hội ở thế kỷ mới này:
                     Anh đâu cần ai thương,
                      Anh bình giá mọi điều bằng cái nhìn khinh bạc
                     Anh đứng trên mọi điều để xét nét thời gian/
                     Nhưng có ích gì đâu!
                     Khi trên khuôn mặt anh đã in vết thẫm mầu...
      Với những con người đã bất chấp cả điều hay, lẽ dở - Tức là khinh bạc cả quyền lợi cộng đồng, coi thường luân lý... để xét nét mà phán quyết! Thì đâu còn phải là người của nhân dân, của đất nước nữa? Đó chính là lớp quan lại đang dẫm đạp lên quyền lợi dân tộc mà chúng ta thấy không ít trong xã hội ngày nay. Nếu lớp quan lại  đó chiếm nhiều trong bộ máy nhà nước, thì tất dẫn đến lúc bọn họ sẽ bán cả nước để cầu vinh! Như thơ ông viết:
                    Anh đầy khôn ngoan, đầy so đo, đầy tránh né
                    Anh sống đến hôm nay, dương dương tự đắc
                    Nhưng than ôi!
                     ...Tôi ngồi uống với anh như uống cùng ảo ảnh
                     Uống cùng bao nhiêu khát vọng không thành?                        
      Đó cũng chính là hình ảnh của cái guồng máy "như một thứ bù nhìn" mà Bằng Việt  đã tả trong bài "Nhớ Trịnh".
*  "Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông" – Là một bài thơ chế nhạo những kẻ hợm hĩnh. Đó là phường ngu dốt, kệch cỡm... lại luôn luôn lên mặt dậy dỗ, thuyết giáo cho đời. Tác giả không có ý bôi xấu hoặc chế giễu những người bị khuyết tật, như thơ đã  viết:
                       Không phải ngọng bẩm sinh
                       Chúng đánh lưỡi, chúm môi... dần hoá ngọng.
      "ngọng" cũng chỉ là biểu tượng, tác giả dùng để ám chỉ lớp quan cách dởm đời. Đó chính là những thứ quan hay hống hách thường thấy nhan nhản thời nay. Chúng như phường trưởng giả học làm sang. Có khác nào Tú Xương cũng đã từng giễu cợt những phường như thế ở thời xưa:
                      Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
                      Đứa thì mua tước, đứa mua quan
                      Phen này ông quyết đi buôn lọng
                      Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
      Đọc bài thơ của Bằng Việt ta thấy cả một sự nực cười và chua chát. Những loại quan ngọng đó càng tỏ ra oai vệ, càng lên cao giọng, ỷ quyền đe nạt mọi người, thì chúng lại càng "ngọng", ngọng đặc quánh lại. Người đời bây giờ biết nhiều loại quan ngọng như thế lắm! Người ta không dại gì nói chuyện tử tế, đứng đắn với chúng, có khi lại mang vạ vào thân. Cho nên:
                     Người đời thừa hơi nói mãi chuyện khôn
                     Thì ngọng hùa nhau cùng dồn đến dại...
      Có thể chúng sẽ đổ xô vào cấu xé, dẫm đạp lên cả những người dân yêu nước? Và nếu một khi luật pháp lại thuộc về những kẻ quan lại cầm quyền như thế, thì xã hội này đâu có còn là của nhân dân?
 *  Tôi nói đến bài "Sự kiện tày đình" - Tác giả chỉ đi từ sự việc thay đi, đổi lại của pháp luật: Cấm đăng kí xe, xong rồi lại cũng pháp luật - cho đăng kí xe thoải mái? Nhưng đây cũng chỉ là một hiện tượng lấy ra làm minh chứng. Thực tế sự thay đổi pháp luật ở xã hội ta nó diễn ra tuỳ tiện tới mức, như ông viết:
                    Mình tự trói tay mình, rồi lại tự cởi ra
                    Tự biểu quyết xong, lại tự chê mình phạm vào hiến pháp!
                    Khi quyết đáp, cũng viện đủ lý do quyết đáp
                    Khi huỷ đi lại cười trừ: "Chưa hợp lòng dân!"
     Ông muốn chỉ trích sự méo mó, một sự ẩm ương đến nực cười của lớp quan chức nhà nước đương thời, những người làm ra pháp luật, cầm cương nẩy mực ở xã hội. "pháp luật" có khác nào thứ trò và những thứ trò đó cứ ngang nhiên diễn đi, diễn lại. Một bài thơ mang tính chất rất điển hình của thời thế hôm nay.
*  Giờ tôi phân tích về bài "Ngôn ngữ và chính trị" - Tác giả đứng trên bình diện của thời đại, thế giới mà phân tích nhân tình thế thái:
                    Tôi đến Vácsava khi Liên Xô đã đổ
                    Thấy tiếc toà nhà cao như trường Lômônôxốp
                    Kiến trúc thời Xtalin, giờ bỗng bị bỏ hoang!
      Khi Liên Xô còn vững, nước Nga trở thành thành trì trung tâm của khối XHCN. Nhưng khi Liên Xô bị đổ rồi, thì than ôi!... đến cái tiếng Nga cũng không ai muốn dùng. Ngay cả người Nga lúc ra nước ngoài cũng không muốn sử dụng cái tiếng nói mẹ đẻ của họ nữa. Thứ ngôn ngữ của một dân tộc lớn như thế, mà nay cả thế giới khinh miệt nó. Ông đã phải than lên:
                 Ngôn ngữ tội tình gì?...
                 Mà dâu bể khó lường, mà giậu đổ bìm leo?
                 Hay cũng nhiễm thói đời, như đồng tiền đen bạc
                 Lúc thắng thế vung vinh, lúc tủi phận bọt bèo?!
    Thế mới biết thế thời "Được làm vua, thua làm giặc" là vậy!
    Sự sụp đổ của Liên Xô cùng hàng loạt các nước XHCN ở châu Âu - Nó báo hiệu sự tan vỡ của Chủ nghĩa Marx-Lenin! Một số lãnh thổ trong Liên bang Nga rơi vào cảnh nội chiến tương tàn, không biết khi nào mới hồi phục được như trước? Lại trở về thời kỳ của "tư bản dã thú" đã qua từ hàng trăm năm trước. Marx hoang tưởng đã đành, mà ngay cả lãnh tụ Lê Nin cũng ngộ tưởng khi tuyên bố rằng: Những nước vừa ra khỏi ách thuộc địa như Việt Nam, Trung Quốc... ở châu Á, hay các nước nhược tiểu ở các châu lục khác trên thế giới, có thể tiến thẳng lên CNXH không cần qua TBCN (nghĩa là đốt cháy giai đoạn) - Khi đã có Liên bang Xô viết làm chỗ dựa. Thì chính Liên Xô lại đổ đầu tiên!
      Như thế là sự ngộ tưởng của Lê Nin không chỉ trở thành một hệ quả đối với nhân dân Nga, đất nước Nga - mà còn kéo theo sự lầm lạc trên con đường đi tới của lịch sử các nước vừa giải phóng ra khỏi ách đô hộ của thực dân hay đế quốc? Nó sẽ dẫn đến sự thoái hoá của bộ máy nhà nước và xã hội đó!
      Đứng trước thực tế ấy, Bằng Việt hoài nghi về Học thuyết Marx? Ông không còn lòng tin vào thể chế, dù cả đời ông đã phụng sự cho thể chế ấy! Khi ông nhận ra mình cũng chỉ là... "thứ bù nhìn" của một guồng máy bù nhìn, trong cái chủ nghĩa hoang tưởng kia mà thôi - như ở bài "Nhớ Trịnh":
                   Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
                   Được chuyển động - làm bù nhìn của gió,
                   Và gió, quẩn quanh đầu sông, cuối bãi,
                   Cũng một kiểu bù nhìn của nóng lạnh, Âm-Dương...
 *  Giờ ta xem xét đến bài thơ "Nheo mắt nhìn thế giới" - mà ngay cái đầu đề của bài cũng được lấy để đặt tên cho cả tập thơ của ông.
      Bài thơ gồm có ba đoạn ngắn. Hai đoạn trên chỉ là sự tả: Ở trên máy bay với độ cao 3000m nhìn xuống - người thì như hạt bụi, các cao ốc như hộp diêm, rừng già như tóc rối. Còn trông ra cả vũ trụ kia... toàn mây trắng mây, như vẩy rồng, vẩy cá, một màu xanh da trời vô cùng, vô tận. Thực ra ông chỉ lấy đó làm hình tượng. Ý nói, ta hãy rút ra một tầm xa mà nhìn và suy xét cả thời đại mà xem ? Sau mỗi đoạn ấy tác giả đều bung ra một câu kết, thán rằng:
               -  Kết đoạn 1/.  Nheo mắt biết buồn gì?
               -  Kết đoạn 2/.  Nheo mắt biết vui gì?
      Có nghĩa là: Khi đứng trên một tầm để bao quát cả xã hội cùng thế giới, thì… chẳng biết nên vui hay buồn? Tức là lòng ông hoang mang. Nhưng ông hoang mang vì cái gì? Chính là "Thế sự"! Như đã phân tích: ông không biết, cả chủ nghĩa Marx cùng thế chế mà ông đã suốt đời phụng sự đó, rồi sẽ đi về đâu? đến đâu? Bài thơ mang ý nghĩa ẩn dụ.
    ình hình xã hội tác động lên tư tưởng, nhân sinh quan Bằng Việt, lý tưởng trở nên mờ mịt. Bằng Việt thảng thốt cảm thấy đời ông có thể sẽ trở thành vô nghĩa? Bởi thế ở đoạn thơ thứ 3, ông viết với một tâm trạng nửa vời và mang đầy sự phẫn chí:
                   Nheo mắt vì rợn ngợp
                   Nheo mắt vì bất cần
                  Có thể đầy phấn kích 
                  Có thể đầy phân vân
                  Hay nhuốm màu khinh bạc
                  Hay chan hoà bao dung...
      Để cuối cùng dồn nén vào một câu tổng quát: Nheo mắt nhìn thế giới/ -  Bằng Việt "rợn ngợp" trước bao sự kiện lớn thế giới đã đành, nhưng cũng vì cả những điên đảo, sự rối loạn của xã hội và thế thời đang bao phủ lên tâm hồn cùng nhỡn quan… Bởi vậy Bằng Việt than:
                  Có mở hết giác quan, ta vẫn là mù tịt!
      Ông "bất cần" vì chán cái thời thế có quá nhiều sự đen bạc, giả tạo này! Tôi xin chép ra đây những vần thơ của Chế Lan Viên:
                   Lũ ta là con rối
                   Cho cuộc đời giật dây...
      Phải chăng, bởi không muốn làm một con rối và thứ "bù nhìn" như thế nữa? Cái lý tưởng cùng chủ nghĩa suốt đời ông theo đuổi bỗng trở thành bong bóng. Vừa hoang tưởng lại vừa chìm trong sự tha hoá, nên tâm trạng mới:
                   Có thể đầy phấn kích
                   Có thể đầy phân vân
      Nghĩa là, không biết mình nên "khinh bạc" hay nên "độ lượng mà bao dung"? Với tâm trạng ấy, trong một bài thơ khác Bằng Việt tự thán:
                   Người đàn ông đã đến tuổi gàn
                   Đã đến tuổi không còn gì để mất
                   Mới hiểu được góc nhìn ngoài sự vật
                   Thấy rõ hình hài những thứ vô vi...
      "những thứ vô vi" ở đây chính là sự vô nghĩa bao quanh cuộc đời. Những "đạo nghĩa" tưởng như cao cả mà ông tâm huyết, nay tất cả đã… tan vỡ! Cũng giống như nỗi lòng của Tú Xương ngày xưa, tự vỗ an mình:
                     Ngủ đi! Ngủ đi...
                     "Ngủ quách sự đời thây kẻ thức"
                       ...
                       Ngủ đi!... Ngủ ư?... lại mất ngủ rồi!
      Bằng Việt muốn ngủ để quên tất cả mà không ngủ được, bởi thế mới... "bất cần"! Ông không muốn mở to mắt nhìn ra xã hội và thế giới nữa, nên:
                      "Nheo mắt nhìn thế giới"...
     Đó là một thái độ phủ nhận và phủ nhận một chủ nghĩa hoang tưởng, cùng guồng máy  hiện hành của Bằng Việt.
     Trang viết đã dài, tôi chỉ xin bình thêm một bài nữa:
*   "Rượu của Nguyễn Cao Kỳ" - Thuộc trong những bài thơ có tiếng tăm nhất của tập Nheo Mắt Nhìn Thế Giới này. Hơn 30 năm sau chiến tranh, Nguyễn Cao Kỳ từ Mỹ trở về Việt Nam thăm quê, có tặng cho vị thiếu tướng công an một chai rượu. Vị thiếu tướng mang ra cho anh em uống. Mọi người thì vui vẻ:
-  Ồ, rượu ngon thì cứ uống! Đâu cần cố chấp mãi chuyện xưa.
-  Nhưng một người thì nhất quyết: "không"!
      Đấy, câu chuyện diễn tả lại chỉ có thế. Bài thơ đặt ra trước chúng ta một câu hỏi: Chiến tranh qua lâu rồi, trong chúng ta những người ở hai chiến tuyến, có nên giữ thái độ hận thù và mặc cảm nữa hay không? Một câu hỏi không phải dễ trả lời. Nhưng đọc lên ta thấy cũng phân vân: Không thể trách những người bỏ qua tất cả, cứ uống tràn - Nhưng cũng không thể trách anh chàng đã nhất định không chịu uống kia? và thế là:
                    Bữa rượu bỗng dưng trở thành đắng đót.
    Nó khoáy vào một vết thương của cả hai bên, chưa sao lành lại được:
                    Vì sao không?
                    Chẳng cố chấp quá ư!
                    Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều cựu chiến binh cả chứ!
                    Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử
                    Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù!
      Nhưng rượu dù ngon mà sao vẫn đắng? Thế đấy! Sự đời, chuyện đất nước, chuyện con người:
                    Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm
                    Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa,
                    Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ
                    Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...
      Thái độ của nhà thơ trung thành với hiện thực. Tác giả giữ sự khách quan với ý nghĩ của các nhân vật trong việc mô tả. Ông chỉ đặt ra câu hỏi, chứ không có ý định phê phán ai, hay lên tiếng ủng hộ ai - Bởi vì, chính Bằng Việt cũng có trả lời được câu hỏi đó đâu?
      Ông cũng uống, nhưng chẳng qua là muốn quên đi tất cả: cứ uống! Ông không thể trả lời được về cả cuộc chiến tranh xưa cùng những bối rối của hôm nay?
-  Ừ thì giải phóng xong rồi, nhưng để phụng thờ cái gì và... " lý tưởng" gì đây? Chủ nghĩa Marx ư? Hoang tưởng! Thế thời này đâu còn phải là của dân tộc, của nước non? Ta lại trở về với bài thơ Nhớ Trịnh - Và ông thấy mình bỗng nhiên đã trở thành một "con rối", một thứ bù nhìn quay như 'chong chóng"... trong cái guồng máy có phần phi nhân nghĩa của đương đại này.
      Bài thơ trăn trở trong đó một câu hỏi: Chúng ta đang ở đâu và... phải đi đến đâu đây?
      Tôi đã được xem một bức tranh lớn nổi tiếng của danh hoạ Pháp Henri Paul Gauguin (1848-1903), có một cái tên rất dài, tôi nhớ đại để là: Chúng ta là ai? đang ở đâu? và sẽ đi đến đâu? -  Nhân sinh quan chủ đạo của nhà thơ trong tập thơ này chính là ở câu hỏi đó! Hơn thế, về một phương diện nhất định - Bằng Việt đã phủ nhận chính cái thế thời mà chúng ta đang sống hôm nay!
      Đến đây - Tôi xin tặng Bằng Việt đôi khúc thơ nhỏ, trích ra từ trong thiên sử thi gọi là: "Tiểu trường ca Thế Giới Tự Do - Phạm Ngọc Thái", như sau:
                  Khúc 1 -   Năm xưa ta đã trải thảm đỏ cho Mỹ rút về nước
                                   Nay ta lại trải thảm đỏ để Mỹ vào Việt Nam
                                    Nếu Mỹ không mang bá mộng xâm lăng...
                                    (Chuyện thời thế - Thế thời: Phải thế!).
                  Khúc 2 -   Thằng Tàu - ta cố tranh thủ kết đồng minh
                                   Nhưng bản chất chúng là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam...
                                    Ngàn năm trước đã thế!
                                    Ngàn năm sau vẫn thế!
                                    (Nếu một khi ta không đủ mạnh).
     "Nheo mắt nhìn thế giới" là một tập thơ mở - Nó mở cái gì? Nó mở ra một câu hỏi: Chúng ta là ai? đang ở đâu? và chúng ta sẽ đi đến đâu đây?
       Bằng Việt đáng quí ạ:
                   Chúng ta đi về phía "Tượng thần tự do" - Nước Mỹ.
                   Việt Nam đi về phía "Tượng thần tự do" - Nước Mỹ.
                    "Tượng thần tự do" muôn năm!!!

                                                       Hà Nội, mùa thu 2012
                                                                       PNT.
 
 
         HỮU THỈNH CHỦ TỊCH HNVVN - MỘT CHÂN DUNG THƠ TẦM THƯỜNG, NHÂN CÁCH KÉM, THAM LAM, XẰNG BẬY…

                                                          PHẠM NGỌC THÁI
 
       Hữu Thỉnh rất nhỏ mọn, lòng dạ tham lam, làm việc khuất tất… đã kéo nền thi ca đương đại trở nên bát nháo chi khươn. Biến một Hội nhà văn cấp quốc gia và cả Ban chấp hành trở nên tầm thường.
    Trước hết xin nhận định về chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn thuộc loại nào?      
              CHÂN DUNG THƠ HỮU THỈNH CƠ BẢN
              THUỘC LOẠI THƠ TẦM THƯỜNG, KHÔNG TỒN TẠI
     Như tôi đã từng bình luận: Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài viết kém, tư duy bát nháo, mới chỉ ở dạng nháp hoặc tư liệu trong bản thảo, cũng bê hết ra để in thành tập, sau đó tranh giành lấy giải thưởng.
     Chưa một ông Chủ tịch nào tham lam, thơ phú thì xoàng xĩnh mà lại vơ nhiều giải thưởng quốc gia đến như vậy? Trần Mạnh Hảo đã viết:
-   Ông Hữu Thỉnh đạt kỷ lục ăn giải văn chương trong thời đại ngày nay là... vô địch thế giới! Người ta tính đến nay ông đã 05 lần "ăn" giải thưởng văn học quốc gia, kể cả giải thưởng Vua Thái Lan gọi là "Giải Asean - 1000 USD" mà chính ông Chủ tịch tự đề cử cho mình... cùng với nhiều giải khác...Trong một thành phần ban giám khảo do chính Hữu Thỉnh đã thiết kế... rồi ông Chủ tịch "tế nhị khách quan?..." xin rút ra khỏi Hội đồng xét giải.
     Hay như nhà văn Nguyễn Quang Thân lên tiếng phê phán:
-    Ông Hữu Thỉnh ăn tham, kiểu tự mình cho mình giải thưởng là vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng vừa khen ban chấm giải... công minh!
     Thí dụ như việc ông ta đem "Thương lượng với thời gian" - Một tập thơ hỏng, tư duy nhăng nhố, tứ nghĩa lung tung.. rồi cũng chỉ để vứt vào... sọt rác, cùng với một trường ca biển viết hỗn độn, xô bồ, làng nhàng, nhạt nhẽo - Mặc dù bị dư luận chê bai chỉ trích rất nhiều, nhưng Hữu Thỉnh vẫn bất chấp, trơ tráo lấy bằng được cái giải lớn của quốc gia. Thật là một Chủ tịch Hội nhà văn đáng mỉa mai.
      Tôi đã từng bình tập "Thương lượng với thời gian", nay xin trích giới thiệu lại trong bài viết này để càng thấy rõ hơn cái chân dung non yếu, mà không biết tự thẹn của ông Chủ tịch Hội:
                     "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN"
                     MỘT TẬP THƠ LÀM NHÀM, NHIỀU BÀI VIẾT HỎNG
          Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ rất ẩu, tư duy lung tung, rồi tìm những từ hay hình ảnh hoa hoét hoặc có nỗi đoạn trường ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng... cũng thấy là lạ, nhưng rồi gấp lại thì bài thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc đó cũng chỉ là một ý tưởng nhạt thếch, nông choèn. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
 *   Thí dụ bài "Bóng mát":
                    Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
                     Giữa gió bụi cõi người
                     Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
                     Bóng mát mà không che nổi chính tôi.
    Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
                    Bóng mát mà không che nổi chính tôi
     Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa. Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản, chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa!
     Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu, chính là vậy.
     Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lôgich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu.
*   Thí dụ một bài thơ khác:
                     Đôi luống thời gian
                     Ai ải mùi đời
                     Hì hục câu thơ
                     Gieo chỗ không người
                     Tấm chăn ngôn từ
                     Dầy sao không ấm 
                     Thi nhân dậy chưa
                     Gà đang chuyển sớm
                                ( Mồ hôi đón ngõ )
       Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia, chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi" mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ? Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. 
     Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
     Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại. Đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hứu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó, hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu - Bất cần hình ảnh đó, ý nghĩa có hợp với bài thơ không? xào xáo nó lên, lại được thêm một bài thơ nữa, gộp lại thành tập… để lấy giải thưởng văn chương.
 *  Ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
                    Những người đi lại phía tôi
                    Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
                    Mặc ai xô dạt mỗi ngày
                    Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.
      Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình, nỗi đời - Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa! Nó "vô nghĩa", bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng.
      Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" ? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ, đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
                      ...  một lời lá bay
      Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông, tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng, ông chỉ cần đáp lại cho họ, tức là cho cộng đồng... "một lời lá bay" ư? – Tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều… một đôi lời ve vuốt suông, hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi? sau đó ông thoảng qua như là ...lá bay…
     Rồi ông cứ việc ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông -  Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
                     Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
    Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ thì: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi. Ông mặc xác tất cả. Rồi bài thơ kết:
                     Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
      Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì?
-  Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời: Ông cứ việc múc đau lòng đời, tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cho cái nửa đời chiều của ông mà: vẫn đầy sao hôm /-  là vậy.
 -   Còn nếu ta giả sử hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ: Ông múc đau ông,  nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"???... Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý, hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.                    
     Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình? và có lẽ cũng không phải là không biết sự kém cỏi của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú…
*  Ta hãy đọc bài "Người làm mùa":
                     Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi
                     Mùa hoàn hảo? Thiên nhiên bầy kiệt tác
                     Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác
                     Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?
       Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn - Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay. Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia, rồi lại  mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng nữa đấy?
* Tôi ví dụ bài "Vô thanh":
                     Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
                     Gió đi tìm khói chon von mấy đồi
                     Mây kia ham sự nhất thời
                     Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
    
Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo, tư duy nửa chừng, chưa ra đâu vào đâu và chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để... loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy, đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong một bài viết, Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy! Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, tôi chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế!

*  Bài "Lời mẹ": Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời Mẹ của Hữu Thỉnh thì phải nói, thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 8 câu, tổng cộng toàn bài là 24 câu.
     Khúc I-  Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý, tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế. Tạm gọi là cũng được:
                     Mẹ đã sinh ra tôi
                     Đặt tên cho tôi nữa
                     Một cái tên nõn nà
                     Hồn nhiên như sói nhỏ
                     Cái cối và cái chày
                     Con mèo và con cún
                     Yêu mấy vẫn chưa vừa
                     Thoắt trở thành người lớn.
           Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa… rồi ghép lại thành một khúc. Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu? Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu, chỉ có hai câu đầu là khác - còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau. Ý tứ vơ váo, chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào, cứ như là viết đại cho xong. Đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ, xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
      Khúc II -  Tôi bước ra ngoài ngõ
                       Gió thổi. Nước triều lên...
                       Đi hoài không gặp tiên
                       Đành quay về hỏi mẹ
                       Hãy yêu lấy con người
                       Dù trăm cay nghìn đắng
                       Đến với ai gặp nạn
                       Xong rồi, chơi với cây!
   Khúc III-    Tôi lại bước dưới trời
                       Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
                                    (6 câu sau giống hệt ở khúc 2)
                        Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
                        Hãy yêu lấy con người/   Dù trăm cay nghìn đắng/
                        Đến với ai gặp nạn/   Xong rồi, chơi với cây!
      Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết:
                       "Xong rồi chơi với cây"?
     Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường, đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? Hay như thi sĩ Tản Đà, chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành? Đằng này, Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà!
     Đọc thơ ta có thể hiểu: Mẹ từng dặn anh ta rằng, con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều, đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!...
      Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta: Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn thì phải đến cứu vớt họ! - Như ở câu thơ trên đó đã viết: Đến với ai gặp nạn"/ - Xong rồi lại về... "chơi với cây"!
      Lời mẹ dặn vậy - Hữu Thỉnh đã cao thượng đến thế nào mà sao còn  tham lam thế? Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu… nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng.
     Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ, đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về - Thế là bê luôn vào thơ, mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
      Thế đấy, thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến 4 khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
      Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về  tập thơ "Thương lượng với thời gian" thấp kém - Cũng như tầm vóc thơ Hữu Thỉnh: Một chân dung trung bình!
 -  Không phải là không có lý, trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố" - Đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán là dở vô cùng? là không biết làm thơ? là tào lao chi khươn?... ngay trên báo Văn Nghệ. (trích bài TMH).
-   Cũng không phải là không có lý, trong lần thứ 2 ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát.
 *  Còn với tập "Trường ca biển": Nếu tôi bình thêm nữa thì dài quá! Song như dư luận hiện nay đã phê phán rất nhiều, giá trị tác phẩm làng nhàng, tầm thường. Tôi chỉ nói thêm: Ý tưởng và cấu tứ thơ luộm thuộm, nội dung ý nghĩa thơ vụn vặt, có nhiều chỗ viết nói dông dài, nghĩ ra cái gì viết cái đó ào đi. Lời nhiều nghĩa ít. Thơ viết dài dặc, lan man và hầu như không có cảm xúc. Nghĩa là, một trường ca viết ẩu.
     Tôi cam đoan rằng: Loại trường ca này không tồn tại với thời gian và không lưu lại  được đối với nền văn học nước nhà.
      Thế mà Hữu Thỉnh vẫn cố tình mang nó ra, để đoạt lấy giải thưởng văn chương lớn không một chút ngượng ngùng. Đúng là rất thiếu tự trọng! Tôi xin dừng bài bình của mình ở đây.
     Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thứ thơ tạp-pí-lù, câu cú lắp ghép vớ vẩn - Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ?  như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn?
     Xin thưa:
              HỮU THỈNH KHÔNG CÓ MỘT BÀI THƠ NÀO
                  THỰC SỰ LÀ THƠ HAY CỦA THI ĐÀN?    
     Hầu hết thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa, không đứng được với thời gian - Song cũng có được đôi bài thơ gọi là kha khá, đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ kha khá đó... vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.

        TRƯỚC HÊT NÓI VỀ MỘT NGUYÊN TẮC 
         TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
      Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
      Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng, nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi! Nói cho có chút động viên để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn nghệ nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi!
      Vậy thì hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.
      THÍ DỤ VỀ HỮU THỈNH - Đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Xin phân tích ít dòng về vầi bài thơ được gọi là khá nhất của Hữu Thỉnh.
      1/. "Thơ viết ở biển"- Bài thơ chứa rất nhiều khuyết tật? Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
                      Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
                      Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
     Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Hình ảnh thơ dùng không đúng nghĩa, nên tính lôgic của ý thơ bị kém đi.
      Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh?... Hình tượng ví von này còn gượng gạo - Tại sao em lại là… "chiều"? Hình ảnh "chiều" không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ.  Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa chính xác. Về phương diện sáng tác thi ca, nhất là đối với một nhà thơ chuyên nghiệp, sử dụng hình tượng như thế là… dùng bừa.
      Mấy hình ảnh thơ đầu thì hay:
                    Anh xa em
                    Trăng cũng lẻ
                    Mặt trời cũng lẻ
    
  Nhưng đến hai câu sau:

                   Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
                   Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
     Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này được. Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt. Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái? Trong văn học người ta thường ví: Em là biển cả mênh mông… tình em biển cả… hay “Trên biển cả tình em, anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi”... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong thơ Hữu Thỉnh - Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" -  Thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em!
     Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển cả" còn em như... "cánh buồm" ???  Sự ví von lộn ngược như thế hơi buồn cười, thơ trở thành khập khiễng. 
-  Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
                   Lòng thuyền nhiều khát vọng
                   Và tình biển bao la...
     Hay là:
                   Những đêm trăng hiền từ
                   Biển như cô gái nhỏ
                   Thầm thì gửi tâm tư
                   Quanh mạn thuyền sóng vỗ
     Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
                  Cũng có khi vô cớ
                  Biển ào ạt xô thuyền
     Rồi nhà thơ giải thích:
                  Vì tình yêu muôn thuở

                  Có bao giờ đứng yên?
    Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong. Nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
                 Chỉ có thuyền mới hiểu
                 Biển mênh mông nhường nào  
                 Chỉ có biển mới biết
                 Thuyền đi đâu, về đâu...
     Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lôgic! Khi nói về sự xa cách hoặc có thể rạn vỡ tình yêu? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
                Những ngày không gặp nhau
                Biển bạc đầu thương nhớ
                Những ngày không gặp nhau
                Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự… "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái. Còn sự rạn vỡ của con thuyền trong biển cả tình yêu, chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình.
      Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới được coi là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học nước nhà.
     Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài.
 -  Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
                 Vì sóng đã làm anh
                 Nghiêng ngả
                 Vì em...
     Cảm xúc đến đây Hữu Thỉnh bị bí, nên hình ảnh thơ dùng bị quẫn - Vì là một bài thơ viết ở biển, tác giả mới lấy hình tượng “sóng” để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng câu:
                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
      Như phân tích ở đoạn trên: "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai! Mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi!... Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em ???...
     Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh - tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ cũng chưa được viên mãn, bài thơ kết bị đuối.
     Ta hãy xét đến đoạn thơ kết  trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng thuyền-biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái,  nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
                        Nếu từ giã thuyền rồi
                        Biển chỉ còn sóng gió
                        Nếu phải cách xa anh
                        Em chỉ còn bão tố...
    Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
    Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca của hai thơ về biển trên, có thể nói: Thơ Hữu Thỉnh kém Xuân Quỳnh gần một tầm.
         2/.  Xin nói đôi nét về "Sang thu"- Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ khá nhất của Hữu Thỉnh. Tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
                       Vẫn còn bao nhiêu nắng
     Nhưng:
                       Sương chùng chình qua ngõ
                       Hình như thu đã về.
     Cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó có khéo. Nào là:
                       Bỗng nhận ra hương ổi
                       Phả vào trong gió se
     Rồi:

                       Sông được lúc dềnh dàng
                       Chim bắt đầu vội vã
                       Có đám mây mùa hạ
                       Vắt nửa mình sang thu
     Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
                       Sấm cũng bớt bất ngờ
                       Trên hàng cây đứng tuổi
      Tức là, tác giả mới cảm nhận về một khung cảnh thiên nhiên mà miêu tả nó ra. Tuy sự miêu tả có gợi cảm, nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận về một “tình đời” hay “nỗi người”, là không có!
     Trong nền văn hiến nghìn năm Thăng Long xưa nay, chưa từng có bài thơ nào chỉ tả cảnh suông, “nỗi đời” - “tình người” không có hoặc nhạt nhẽo mà lại được gọi là thơ hay? Xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng.
* Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan - Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau bốn câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá  thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi,  thưa thớt vài quán chợ bên sông… Chỉ bằng hai câu ở giữa bài, mượn cảnh vật để mô tả nhưng đã ôm bọc cả nỗi nước, tình nhà của lòng bà gửi trong đó:
                         Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                         Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
   Cuối cùng, tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu, hạ một câu kết tuyệt bút:
                          Một mảnh tình riêng ta với ta
    Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích. Cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà.
    *  Dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là  một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
                           Trong làn nắng ửng khói mơ tan
                           Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
                           Sột soạt gió trêu tà áo biếc
                           Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
      Tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy, hết sức đời và sống động:
                           Bao cô thôn nữ hát trên đồi
                           Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
                           Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
     Hay là khi tả về tiếng hát:
                           Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
                           Hổn hển như lời của nước mây...
      Không phải chỉ là nước mây “hổn hển”, mà chính là lòng thi nhân… “hổn hển” vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
                           Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
                           Xem ra ý vị và thơ ngây...
     Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân. Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
                          Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                          Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
                          -  Chị ấy năm nay còn gánh thóc
                          Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
     "Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân, hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh "nắng chang chang" chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
     Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh: 
                       Vẫn còn bao nhiêu nắng
                       Đã vơi dần cơn mưa
                       Sấm cũng bớt bất ngờ
                       Trên hàng cây đứng tuổi.
     Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình gì đâu? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử...  mà có tiếng. Trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình.                   
    * Lại ví dụ "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình hiu hắt với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ, khi ông chán nơi quan trường… từ quan về nương náu chốn thôn hương:
                        Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
                        Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
   Nhất là hai câu kết:
                        Tựa gối buông cần lâu chẳng được
                        Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
     Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả nỗi niềm bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời. Một tâm trạng khắc khoải, chênh vênh  trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!
       3/. Nói về "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu hùng tráng của một thời. Giọng điệu từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường. Qua thời gian  thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
* KẾT LUẬN: Chắc rằng, mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ. May ra có vài ba tình thơ đứng lại được trong những năm tháng nào đó, nhưng cũng nhạt nhoà.. Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào?
           BÀN THÊM VỀ BÀI THƠ "HỎI",
         MỘT BÀI THƠ ĂN CẮP CỦA HỮU THỈNH
   Thời gian trước, bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh đã bị tác giả Đại Lãng Du Tử tố cáo trên vietnamnet.vn, vạch trần là đạo thơ bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig.  Trong sáng tác thơ ca, ăn cắp thơ của người khác rồi biến tấu làm thơ mình là điều rất thối tha, đê tiện đối với một nhà thơ chuyên nghiệp. Thế mà ông Chủ tịch Hội nhà văn, kẻ tham lam đủ thứ cũng mắc luôn vào.
       Như Nguyễn Trọng Tạo đã ví về sự đạo thơ của Hữu Thỉnh như sau :
    “Đặt 2 bài thơ của 2 tác giả một Đức một Việt cạnh nhau sao nó giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy...        
     Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?”.
    Tôi chỉ nói thêm: Thật ra bài thơ "Hỏi" cũng đâu có phải là bài thơ hay? Nói như nhà phê bình văn học Đặng Tiến đã nhận xét: Nó là một bài thơ xoàng, không hay không dở / - Nhưng cái giống văn sĩ đương đại bây giờ, nhất là một số trong Hội nhà văn vo ve xung quanh Hữu Thỉnh tâng bốc, tung hoả mù, hoa giấy loạn xạ... ca mãi nó lên tận mây xanh.
    Nói cho đúng mức: Cái làm nên giá trị đối với bài thơ là tính nhân văn trong những câu thơ “nói về người” ở cuối bài - Thì giá trị nhân văn ấy, Hữu hỉnh đã bê nguyên si từ bài thơ của nữ văn sĩ Christa Reinig vào, làm thành bài thơ “Hỏi” của mình !?
     Chắc Hữu Thỉnh chủ quan cho rằng: chẳng ai biết đấy là đâu? Đúng là lưới trời lồng lộng, khuất tất, đen tối rồi cũng bị phơi bày ra ánh sáng.Thật là nhục nhã cho cả Hội nhà văn quốc gia, có một ông Chủ tịch đổ đốn đến như thế!
              CHƯA CÓ GIAI ĐOẠN NÀO MÀ CHÂN DUNG
           CÁC NHÀ THƠ HỘI NHÀ VĂN THẤP KÉM NHƯ BÂY GIỜ
  Trong đương đại hiên nay, không ít những nhà thơ loại kỳ cựu như Hữu Thỉnh, dẫu có tên tuổi nhưng chẳng ai có nổi một - hai bài thơ thực sự được gọi là thơ hay thi đàn! Thí dụ, Hữu Thỉnh thì tôi vừa phân tích trên - Thanh Nhàn là "Hương thầm" - Vũ Quần Phương "Đợi" - Bằng Việt "Nghĩ lại về Pauxtôpxky" (chứ không phải Bếp Lửa)... đều mới đạt ở bài thơ khá, chưa đựơc vào loại thơ hay của nền văn học nước nhà, như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Mùa Xuân Chín hay Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử, Thu Điếu của Nguyễn Khuyến, Tranh Loã Thể - Bích Khê, Thuyền và biển của Xuân Quỳnh...
      Kể từ 1975 đến nay, hầu hết trong lớp nhà thơ đương đại chưa ai vượt qua nổi xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh tuy chưa đạt được là một nhà thơ lớn, nhưng chí ít bà cũng lưu lại được cho thi đàn Việt một mảng thơ, trong đó có "Thuyền và biển” là một bài thơ tình hay cùng một số tình thơ đặc sắc khác. Còn phần lớn các nhà thơ đương đại của Hội nhà văn, tuy viết nhiều nhưng thơ ca nham nhúa, chân dung thấp và không có khả năng tồn tại. Một số ít, may ra mỗi người có vài ba bài tạm được. Theo con mắt thơ của tôi: Gần như cả một đương đại thơ ca, hầu hết các nhà thơ HNVVN… không một nhà thơ nào có nổi một tập thơ sống được với đời, để có thể lưu lại cho nền văn học nước nhà?
     Tôi từng nói với Trần Đăng Khoa rằng: Chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN hiện nay, thấp nhất trong lịch sử thi ca của nước nhà! Từ lớp nhà thơ vào thời hậu chiến như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, đến nhiều các nhà thơ đương đại khác.... rồi thơ phú sẽ sổ toẹt hết! Chết đi là mang theo thơ xuống mồ. Như Gớt nói “tầng tầng bụi phủ” - Kể cả lớp kế cận sau như lớp nhà thơ Nguyễn Quang Thiều… thơ cũng chưa đứng được!... mà thơ không tồn tại thì làm gì có chân dung thi nhân cơ chứ? Nói gì đến "lớn" với chả "cao"...
           CHÂN DUNG & TÁC PHẨM THƠ ĐƯƠNG ĐẠI THẤP KÉM
                               NHƯNG LẠI QUÁ NHIỀU TẠP DỊCH
   Chưa bao giờ Hội nhà văn lại nhiều uế tạp như dưới triều đại lãnh đạo của ông Chủ tịch Hữu Thỉnh? Chỉ kể vài chuyện gần - Nào "Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều" tháng 6/2012, mà ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp bốc thơm lên tận mây xanh, với một ý thức cá nhân đầy thiển cận. Bị dư luận trên văn đàn trong và ngoài nước phê phán, bài xích rất nhiều.
      Một hội thảo thơ lợi dụng danh nghĩa quốc gia của hai ông đứng đầu hai tổ chức văn học lớn nhất nước, mà những đàm luận của các nhà văn, nhà thơ, phê bình lý luận văn chương… quá bát nháo chi khươn. Chẳng có nổi một tầm thước nào khả dĩ để có thể nể trọng, về cả tài lẫn nhân cách bình phẩm văn học. 
        Như nhà bình luận Nguyễn Đình Chúc đã đánh giá: "Hội thảo thơ hay là thổi kèn đám ma nền thi ca việt Nam?”.
      Hoặc theo cách nói của nhà bình luận văn học Trần Mạnh Hảo, đó là một "Hội thảo thơ Tân con cóc Nguyễn Quang Thiều", nhận định:
-  Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ phải đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xoá mọi hàm ngôn (tâm hồn lạnh tanh máu cá/ Nhiệt tình xuống quá độ âm - Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều hoà trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ trương phải độc âm hay độc dương - ... Rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo, v.v...
     Nói như thế có thể hơi nặng quá! Vậy thực chất thì sao? Thực chất Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều để lại cho văn đàn một kết quả… rất là ba lăng nhăng. Với cái đám văn sĩ tham gia hội thảo, khen nhặng xị thơ Nguyễn Quang Thiều. Kẻ lý luận thì huyên thuyên với mớ kiến thức cận thị rất sách vở, đứa sáng tác cụ thể thì nông cạn, kém cỏi - đến thơ của mình viết ra rồi mai đây cũng chỉ để... cho vào sọt rác. Thử hỏi làm sao có thể đủ khả năng đánh giá được thơ hay với chả không hay? nhất lại là thi ca hiện đại! Cùng hai ông: Một viện trưởng, một Chủ tịch Hội nhà văn - nhận thức thẩm định tác phẩm thơ ca vẫn còn rất mông muội. Thật là lắm kiểu "dổm". 
     Khi một bình luận viên hỏi Nguyễn Quang Thiều:
-    Ông có nghĩ về tác phẩm của mình như một di sản để lại?                                
     Ta hãy nghe Nguyễn Quang Thiều trả lời:
-    Tôi không xem những điều mình viết như một di sản để lại... những tác phẩm? Thật khó có thể trường tồn. Tôi không dám nghĩ điều gì cả - Tôi chỉ mong hậu duệ của mình sau này đọc những bài thơ tôi viết ngày nay có thể nghĩ về năm tháng trong gia đình ấy, mọi người đã sống như thế nào? Mọi thứ rồi sẽ có thể bị quên lãng...                                        Kể ra Nguyễn Quang Thiều nghĩ thế cũng phải. Thơ Nguyễn quang Thiều trường tồn làm sao được? Sẽ cát bụi thôi! Nhưng ngay cả cái ước nguyện mà Thiều muốn "được hậu duệ sau này đọc thơ của mình..."? E, cũng chỉ là một sự hoang tưởng - Muốn hậu duệ chúng còn giở thơ Thiều ra đọc, để ngẫm nghĩ về những gì Thiều đã sống hôm nay ư? Hoạ chăng Thiều phải trở thành nhà thơ lớn của đất nước, của dân tộc. Còn thì chúng chẳng bận tâm đến quá nhiều cái mớ hỗn độn, bùng nhùng hôm nay đâu?
     Đời thế đó! Lịch sử rồi sẽ công bằng. Là đại bàng thì rồi đại bàng sẽ bay, còn nếu chỉ là chim cu hay chim sẻ? dù hôm nay có được cho vào trong lồng son chăm sóc, hoặc tung hứng lên tận mây xanh...  thì nó vẫn cứ chỉ là chim cu, chim sẻ thôi!  
        LẠI BÀN ĐẾN VIỆC ÔNG CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN TRƠ TRẼN
        NGỢI CA THỨ THƠ ĂN CẮP, LOÈ BỊP HOÀNG QUANG THUẬN
       Bị dư luận văn đàn trong nước và hải ngoại lên án, phỉ báng - rằng:
    " Trong cuộc hội thảo của Hội nhà văn Việt Nam do ông Hữu Thỉnh chủ trì để tuyên truyền, tụng ca thơ viết về Yên Tử của Hoàng Quang Thuận lên hàng thơ thần, thơ phật, thơ tiên, thơ thánh nhằm tìm mọi cách dành giải Nobel cho ông Viện trưởng công nghệ thông tin.... Hoá ra, ông viện trưởng "gà sống thiến sót” này đã nói dối, rằng thơ thẩn của ông là thơ ăn cắp... Tội lừa đảo cả thế giới, lừa đảo cả trời phật này của liên danh thơ thẩn Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh to lắm, nặng nghiệp lắm, đê tiện lắm... Mục tiêu của liên danh thơ thẩn này trước hết là danh sau đó là tiền. Hữu Thỉnh từng nổi tiếng về chuyện ăn cắp thơ nên ông vẫn rất hạp, rất nghiền một ông thơ thẩn viện trưởng đại ăn cắp khác. Cho hay, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã... Hữu Thỉnh, vua xin dự án, vua xin tiền trợ cấp sáng tác, nhân đà này, chắc chắn sẽ xin nhà nước trợ cấp hàng nhiều tỉ đồng làm phim về thi thánh thi tiên Hoàng Quang Thuận... Nếu không có các anh Trần Trương, Nguyễn Hoà, Nguyễn Minh Tâm... những người chân chính vạch rõ trò lừa đảo của liên danh thơ thẩn bẩn thỉu này, chắc chắn hàng trăm tỉ đồng của nhân dân sẽ mất toi để quảng bá cho một sản phẩm thơ ăn cắp thành thơ tiên thơ thánh thơ phật thơ trời để đánh lừa nhân dân, lừa thế giới và lừa cả trời phật của Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh..."
                                                                                         (theo Trần Mạnh Hảo)                  
     Như thế càng thấy rõ bộ mặt thật của Hữu Thỉnh - thực sự đã trở thành một kẻ phá hoại, hại dân, hại nước. Trên địa bàn văn học nói chung, Hữu Thỉnh với cương vị một Chủ tịch Hội nhà văn quốc gia nhưng chẳng khác nào thủ lĩnh của một đám người "gian manh cơ hội".  
                    Dẫn chứng thêm về:
            GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NĂM 2012 CỦA HỘI NHÀ VĂN
                                                      rất tạp? 
      Xin nói riêng những xàm bậy về giải thưởng thơ - Ngoài hai tác phẩm "Trường ca chân đất" của Thanh Thảo và "Giờ thứ 25" của Phạm Đương mà dư luận chê bai là viết dở nhạt như nước ốc.
     Giải thưởng cho tập thơ “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy bị dư luận lên án nhiều nhất. Trần Mạnh Hảo gọi đó là một "Tập thơ nước cống". Lời chỉ trích như sau:
    "Tại sao chúng tôi gọi thơ của Trần Quang Qúy là thơ nước cống vì nó viết quá dễ dãi, quá nhạt nhẽo, viết lăng nhăng, lảm nhảm, thô tục, phi cảm xúc, phi hình ảnh, phi hình tượng, phi hàm súc, phi nội hàm, nói toẹt ra những câu nói thường nhật tào lao chi khươn, hoàn toàn phi truyền cảm, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi thơ…".
     Nào là:
     "Trần Quang Qúy làm thơ như là nhái thơ Nguyễn Quang Thiều, phó bản của Nguyễn Quang Thiều. Nếu Nguyễn Quang Thiều là giáo chủ của trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM thì Trần Quang Qúy đã trở thành phó giáo chủ của trường thơ nước cống này…".
     Tôi chỉ nói thêm:  "Màu tự do của đất" của Trần Quang Quý là thứ thơ học đòi theo kiểu làm thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng vẫn còn vụng. Ngôn ngữ thơ viết cứ như thể cố làm bộ làm tịch. Nhiều chỗ đọc nó ngô nghê, ngọng nghịu, giả cầy, giả cáo… đến buồn cười. Ý tứ vặn vẹo? triết lý thế này, thế nọ? cứ như một cô gái vô duyên nhưng lại hay thích ưỡn ẹo, làm đỏm. Sự bắt chước viết thơ như thế là một điều ngu xuẩn nhất của một thằng làm thơ! Có mất công rồi cũng chỉ để... vứt đi! Huống hồ thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã thành công đâu? Quý học mót theo kiểu làm thơ ấy... thật là một thứ trò cười của một gã nhà thơ "dổm" của HNVVN vậy.
     Cũng chẳng hiểu Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng bậu xậu giám khảo của Ban chấp hành xét giải kiểu gì? Cho giải kiểu đó có khác chi là... phóng uế bừa bãi?
   Mấy năm trước Trần Quang Quý nguyên là Tổng biên tập báo "Gia đình & Xã hội" - Nghe dư luận hồi đó: Quý mắc vào một vụ bê bối tiền bạc ở toà báo, hình như là "tiền tình nghĩa" gì đó? Khi ấy có tin đồn: có thể Quý sẽ bị truy tố? Nhưng sau nghe đâu là nhờ Hữu Thỉnh đã lo lót, chạy đỡ nên Quý thoát  khỏi vòng lao lý, nhưng bị trục xuất ra khỏi toà báo "Gia đình & Xã hội". Sau đó Hữu Thỉnh định đưa Quý về làm phó tổng biên tập báo Người Hà Nội, nhưng bị Ban tuyên huấn Thành Uỷ Hà Nội (cơ quan chủ quản của báo Người Hà Nội) không chấp nhận vì đã có tỳ vết, không còn trong sạch. Cuối cùng thì Quý được Hữu Thỉnh đưa về làm phó giám độc Nhà xuất bản Hội nhà văn cho đến nay.
     Đấy, cái kiểu sử dụng người của Hữu Thỉnh thường hay theo lề thói đó. Nghe anh em trong giới báo chí nói: Trần Quang Quý thuộc những đệ tử ngoan ngoãn nhất của ông Chủ tịch Hội nhà văn - Cho nên một tập thơ, dù là "nước cống hay nước rãnh" được giải thưởng như vừa qua cũng chẳng có gì lạ? Như Trần Mạnh Hảo nói:  Hội nhà văn quốc gia bây giờ là "Hội nhà văn Hữu Thỉnh", còn giải thưởng văn học của Hội cũng trở thành "giải đểu" mà? Ý nghĩa, giá trị của nó đã trở thành giải bèo, giải bọ...
     Ngay cả việc kết nạp hội viên vào HNVVN bây giờ cũng vậy. Dư luận bao năm nay vẫn chỉ trích rất nhiều, muốn vào Hội thì phải đút lót? nhất là đối với Ông Hữu Thỉnh - cũng theo Trần Mạnh Hảo đã tố cáo:
     " Việc ông Hữu Thỉnh kết nạp "nhà thơ Hùng Anh" (tức Hùng Tấn, giám đốc công ty dược Cà Mau) - một kẻ làm thơ con cóc nhưng lắm tiền do tham nhũng vào Hội, là ông đã ném đá lên khát vọng vào Hội của các nhà văn chưa hội viên. Hùng Tấn  - Hùng Anh kết nạp vào Hội do tiền mới được hai tháng đã bị bắt vì tham nhũng hàng trăm tỉ đồng..."    
     Hồi còn nhà thơ Phạm Tiến Duật đã từng viết bài trên báo Công an nhân dân, lên án ông Chủ tịch kết nạp hội viên vào HNVVN có hành vi không trong sáng. Cũng cố tình kết nạp một gã giám đốc nào đó ở phía nam, trình độ thơ ca tầm thường - mặc dù có số người không đồng ý... nhưng Hữu Thỉnh vẫn nhất quyết chỉ đạo đưa vào Hội. Sau đó hắn cũng phải vào tù vì tham nhũng.
     Có lẽ từ khi có Hội nhà văn Việt Nam đến nay, chưa từng có một ông chủ tịch Hội nào lại nhiều xấu xa, nhân cách kém như Hữu Thỉnh? Chẳng những biến Hội nhà văn, một tổ chức văn chương cấp quốc gia thành nơi chứa quá nhiều sự ô uế tạp dịch. Càng làm cho nền thi ca nước nhà trở nên tầm thường, thấp kém! Thật là đáng hổ thẹn và nhục nhã thay?
                           Hà Nội, mùa hè 2013
                                                                                                               PNT.
 
 
 
 
            NGUYỄN KHOA ĐIỀM HAY TÊN LÝ THÔNG ĐĨ BỢM
 
                                  PHẠM NGỌC THÁI

     Tôi có ý định bình tổng hợp một số bài thơ gần đây nhất, Nguyễn Khoa Điềm đã viết sau thời gian hết đường quan lộ về làm thường dân - Nhưng khi đọc bài "Sự tầm thường" thì lại muốn bình luận riêng trong trang này, số bài thơ khác xin để viết sau.
      Nói về bài "Sự tầm thường"? Bắt đầu vào thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
                    Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
                    Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
     Hình ảnh "vợ chồng sớm chiều..." ở đây, là ý nói sau khi Nguyễn Khoa Điềm đã bị thất sủng, buộc phải rời Ban bí thư Trung ương và Bộ Chính trị... về sống nơi thôn hương với gia đình. Dầu tác giả có"treo mình" lên cái đinh mắc màn, mắc áo… hay gì gì đi nữa -  Nhưng với người vợ má kề gối ấp của mình, đáng lẽ đó vẫn phải là hình ảnh đẹp, thân thương trong đời thường của nhân dân. Năm xưa quen chốn quan trường, ông không thể nào cảm thấy sự quý giá đó? Bởi vậy không nên dùng chữ "sự tầm thường", đánh đổ đồng láo nháo như ở trong bài thơ này .
     Xin xét vào các đoạn thơ sau, rồi ta sẽ trở lại phán xét tiếp về những câu thơ đầu tiên ấy.
                      Bàn chuyện chạy chọt
                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
                      Mơ ước nào cũng có giá.
                      Đôi người nhắc nhở rằng
                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
     Qua hình ảnh về những "sự tầm thường", để Nguyễn Khoa Điềm lên án một hiện thực xã hội? Đó là một xã hội chưa có "độc lập tự do" thực sự:
                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
      Phải chăng đó cũng chính là sự phản ứng chế độ trong tư tưởng của ông Uỷ viên Bộ chính trị một thời? Tôi muốn hỏi cả một thời làm quan to, sao ông không có ý nghĩ này nhỉ? Khi chế độ chưa có độc lập tự do thực sự, thì đừng nên "gieo mơ ước vào đầu con trẻ" - vì mơ ước nào cũng sẽ phải trả giá?
      Thí dụ: Ở xã hội đó, nếu đấu tranh cho lẽ công bằng? cho sự tự do hay quyền sống chính đáng của con người? Thì sẽ bị đàn áp! Sẽ phải vào tù! Bởi vậy, con trẻ lớn lên chỉ nên biết: ...nhẫn nhục để ổn định/-  Nghĩa là, chấp nhận cuộc đời như con lươn, con trạch thôi. Đấy, ý thơ phản biện lại xã hội đương thời của Nguyễn Khoa Điềm như vậy.
     Thế thì, thực sự bản chất của xã hội ấy là gì? Chẳng lẽ, những năm tháng khi Nguyễn Khoa Điềm còn là Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, xã hội vẫn còn rất tốt đẹp sao? Nó chỉ vừa mới xấu xa, tha hoá… khi ông trở về làm một thường dân? Hay bởi, khi đó đang còn là một ông quan cách mạng, ông cần phải sống giả tạo để hưởng cho xả láng những thứ bổng lộc, vinh hoa phú quý… mà đảng cộng sán và cái nhà nước độc quyền này đã ban tặng cho ông?
     Hôm nay đường quan lộ thất thế rồi, Nguyễn Khoa Điềm mới phản thùng? Hay, ông muốn ăn năn hối lỗi trước nhân dân về quá khứ của mình chăng? Ta đặt ra câu hỏi:
1.  Có thể khi trở về với cuộc sống thường dân, Nguyễn Khoa điềm mới nhận ra sự còn phi nhân, phi nghĩa của thể chế, nên đã tự sám hối về mình?
2.   Hoặc là, trước đây không phải ông không biết sự bất chính của guồng máy chính trị ấy? nhưng ông vẫn giả bộ như bao kẻ cơ hội khác: Tỏ ra cao đạo, đục nước béo cò, để tận hưởng cho thoả mãn sự sung sướng, phè phỡn của một ông quan lớn!
     Có bao giờ ông cần quan tâm đến chuyện một đứa trẻ mới vào lớp một cũng đã phải chạy chọt... như thơ ông viết:
                      Bàn chuyện chạy chọt
                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
   Ông cũng đâu cần quan tâm đến việc nhân dân đã phải chịu đựng bao sự "nhẫn nhục”,  để ổn định và vượt qua cuộc sống... “tầm thường”?
      TA SANG ĐOẠN THƠ THỨ HAI - Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một loạt những "sự tầm thường", nào là:
                   ...Với tờ giấy bạc trên miệng.
                   Sự tầm thường thật kín kẽ
                   Mặc những tấm áo đúng thời tiết
                   Tụ tập trên các diễn đàn
                   Nói lời rỗng...
     Ối, ông Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương! Chắc cái thời mà chính ông vẫn thường liên tục thuyết giáo trên diễn đàn? Khi ấy ông toàn nói những lời đẹp đẽ, quí hoá, lại vô cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn với vận mệnh non sông đất nước chăng? chứ không lăng nhăng, xàm tiếu như những phường ông nghị bây giờ? Rồi:
                     Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
                     Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
     Thí dụ, như các cuộc "thảo luận đại sự" trong các Hội nghị Trung ương đảng hay là họp Quốc hội vừa qua chẳng hạn? Nghĩa là, những ông nghị thì chỉ toàn... "nghị gật"! Còn đại biểu phần lớn là… "đại biểu bù nhìn"! Rồi đẻ ra những thứ nghị quyết tào lao chi khươn, sáo rỗng, phản dân chủ tự do của nhân dân. Mặc cho nước mạt, quan thi nhau tham nhũng, xã hội xuống cấp, đạo đức tha hoá - Đấy chính là ý nghĩa của câu thơ:
                    Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
     Rồi ông kết luận:
                    Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
                    Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
                    Tai quái.
      Thế là đã rõ: Nguyễn Khoa Điềm phủ nhận toàn bộ các phong trào? Dù đó là phong trào có tính chất quốc dân, cùng tất cả mọi kiểu hội nghị thời nay - Mục đích làm gì?
- Để chỉ nhõn sắm.../-  tức là vơ vét… tạo ra: "sự tầm thường tai quái" /- Nghĩa là các phong trào hay hội nghị đó toàn ba lăng nhăng, hoặc mục đích trục lợi giống như những sự loè bịp quái thai vậy.
     Chẳng phải cũng chính Nguyễn Khoa Điềm đã phủ nhận toàn bộ bộ máy nhà nước, dù thời của ông hay hiện nay đó sao?
    Ta cần phải hiểu nhân cách ông bí thư T.Ư & Uỷ viên Bộ chính trị Nguyễn Khoa Điềm thế nào? Có phải cũng chỉ là một kẻ trục lợi quốc gia… cơ hội, đục nước béo cò… trong một guồng máy còn phi nhân, phi nghĩa! Để bây giờ hết lợi lộc rồi, về làm thường dân… ông mới buông ra những lời nguyền rủa, bài xích? 
      Xin trở lại với những câu thơ đầu tiên, khi ông nói về cuộc sống thường dân bên người vợ:
                       Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
                       Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
     Nếu Nguyễn Khoa Điềm coi sự trở về với gia đình, bên người vợ hiền là một hạnh phúc đời thường vô giá. Trước đây khi còn làm quan to trong đảng cộng sản, ông không cảm nhận nổi? Thì ông đã không đánh đổ đồng tuốt tuồn tuột với mọi loại "tầm thường"  mà ông đã nêu ra.  Bởi vì, những sự việc trong thường dân dẫu là tầm thường, nhưng những người dân… họ đâu có xuất phát từ những ý nghĩ “đen tối tầm thường”, như những kẻ làm trong Ban T.Ư và Bộ chính trị các ông? Bản chất việc làm của họ xuất phát từ sự lương thiện, lương tri của con người! Ông đánh lộn tất cả một cách hổ lốn như cám heo trong một bài thơ, thì bài thơ của ông có khác gì chỉ là một mớ chữ... hoà trộn cả phân tro, vào trong phẩm chất nhân sinh của con người? "Sự tầm thường" là một bài thơ sáng tác… cũng rất tầm thường.
     Một bài thơ sáng tác xô bồ như kiểu thông tin. Ngôn ngữ lèng xèng… nửa văn xuôi, nửa có tí vần. Chẳng có một hình tượng thơ nào đáng nói, thì làm gì có nghệ thuật để bàn xét về "nghệ thuật thi ca" cơ chứ?
     Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ dưới:
                         Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
                         Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
                         Cứ bày ra chuyện đâu đâu
                         Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
                         Nói nhiều hơn tất cả!
                         Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
                         - Thay vì bước vào phòng họp -
                        Để xua các cán bộ làm việc.
                        Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
                        Để tham gia nhóm lợi ích.
                        Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
                        Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
     Tôi không rõ: đại từ "chúng ta" ở đây, ông định biểu thị cho tầng lớp nào? - Cho tầng lớp nhân dân trí thức, hay chỉ cho một lớp quan lại đương thời mà ông muốn chỉ trích?
     Bởi vì, câu trên thì viết: Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ/-  Rõ ràng đây ý tác giả sử dụng nghĩa "chúng ta" để chỉ vào lớp quan chức. Có ý mỉa mai chúng là những kẻ bảo thủ, dốt nát, nhưng hay dìm dập những phát kiến tiến bộ, trù úm các tài năng...
     Nhưng câu dưới:
                       Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
                       Cứ bày ra chuyện đâu đâu...
     Thì hai từ "chúng ta" ở đây, ngả sang nghĩa biểu thị cho cộng đồng nhân dân. Cái bọn "chơi trội hay bày những chuyện đâu đâu" này, không thể biểu thị cho những hình ảnh đẹp đẽ được. Những chuyện đâu đâu ấy… là những sự việc có thể rất hợm hĩnh, bày ra để lấy công, tính thành tích dổm, hoặc bày chuyện để ăn tiền, tham nhũng. Rồi để kết luận về những chuyện đâu đâu... tác giả viết:
                       Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
                       Nói nhiều hơn tất cả!
      Vậy tiếng "keng" của sự cụng ly kia... để chỉ về những cuộc nhậu vui thú đời thường nơi dân dã? Hay là "tiếng keng" chạm cốc của những đám công thần nghị sự trong các bàn tiệc, được bày ra sau những cuộc "thảo luận đại sự" ... rỗng tuếch, như đã nói ở trên? Một loạt hình ảnh tác giả vơ váo hết cả vào rồi nói đại, thành ra chẳng hiểu tiếng "keng" cụng ly ấy  thuộc kiểu gì... mà ý nghĩa hơn tất cả? Bài thơ viết còn rất lộn xộn.
     Một số hình ảnh khác: Nào là những bí thư thay vì các cuộc họp liên miên, cần phải thúc giục cán bộ tích cực làm việc hơn nữa; nào các cô ca-ve thì tập ăn nói những lời tốt đẹp và làm những việc có ích cho xã hội hơn; đến các bậc lão thành cũng phải nên thé này, thế nọ - Đó cũng chỉ là mấy cái băng rôn khẩu hiệu sáo, nhàm.
     Trước đây còn quyền chức, tiếng nói của ông là tiếng nói của một quan lớn. Ông có thể nói những lời nói giả tạo, để tuyên huấn cho lớp này, lớp nọ? rồi ra chỉ thị cho tổ chức các cấp phải răm rắp theo. Mặc dù tiếng nói trên diễn đàn khi đó của ông, cũng chỉ là những lời... rỗng tuếch. Bây giờ hết thời, thất thế đường quan - Nếu nói như trước thì chẳng những không ai nghe, mà họ còn chửi ông là "dổm" nữa? Ông mới "đổi giọng"...
      Theo nhà thơ Đỗ Hoàng đã bình luận trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm..." đăng trên blog Bà Đầm Xoè rằng:        
     "Thời còn Ban Tư tưởng Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay cho lắm. Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội Nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho), làng văn hoá Đồng Mô (làng bỏ hoang), Bác Hồ với văn nghệ sĩ...
     Đường hoan lộ của Nguyễn Khoa Điềm khá hanh thông. Nguyễn Khoa Điềm quan quá to. Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi đứt gánh giữa chừng. Ông quan to Nguyễn Khoa Điềm phải về vườn... còn một hai nhiệm kỳ trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nữa, nhưng lại bị ông cậu ruột của vợ là Nguyễn Đức Đạo viết đơn tố Nguyễn Khoa Điềm không phải là đảng viên và có thời gian bị tù ở lao Thừa Phủ - Huế khai báo với địch".
     Tôi cũng không rõ độ chính xác về những thông tin của bài viết trên đến mức nào?
Nhưng có một điều thực tế rằng: Nguyễn Khoa Điềm là một quan lại cấp trung ương đã lên đến cỡ Bộ chính trị của đảng cộng sản, nhưng bị thất sủng phải về làm thường dân. Đương thời quan lộ, Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một ông trùm thực thi nhiều vụ đe nẹt sự tự do văn chương của giới văn nghệ sĩ, cũng như sự đấu tranh cho quyền tự do dân chủ xã hội. Nhân cách và đạo nghĩa ông đâu được trong sạch? Tâm hồn tư tưởng sống của ông đâu được thanh cao?... như hàng bậc thi nhân Nguyễn Khuyến, không thèm làm ông quan phi nhân, phi nghĩa. Chán chường cảnh dơ dáy chốn cung đình, phẫn uất với tầng lớp gian thần hại dân, hại nước... từ quan về sống thanh bạch nơi dân dã. Đằng này ông tận hưởng vinh hoa phú quý… đục nước béo cò... đến tận phút chót. Nào có cao đạo hay hớm gì? Nay thành thường dân, lại đổi giọng thơ quay ngược "180 độ" để ve vuốt  lòng người? Giả dối thay! E rằng, nếu bây giờ cuộc cờ nơi cung đình ở trung ương, bộ chính trị ấy thay đổi. Nhóm người hay tổ chức, phe phái của ông lại thắng thế trong cục diện. Họ lại dọn đường cho ông trở lại làm quan? Chắc rằng ông ta sẽ lại đổi giọng, lại như trước đây, thời vẫn còn làm trong Bộ chính trị - Ông sẽ lại tiếp tục lên diễn đàn, lại huênh hoang múa mép, phồng mang, lớn tiếng, trong các hội nghị và các cuộc "thảo luận đại sự"... Cũng lại để soạn thảo ra những mớ nghị quyết "tầm thường tai quái".
     Ta hãy xem đoạn thơ cuối, Nguyễn Khoa Điềm đã kết:
                       Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
                       Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
                       Tốt tươi hơn
                       Mãnh liệt hơn
                       Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
                       Tang chế, nhạt nhoà
                       Cúi đầu
                       Đi sau cái chết.
     Ông nói rằng chúng ta, tức là "nhân dân" thua cỏ, không bằng cỏ - Vì cỏ còn biết đấu tranh để vươn lên với sức sống mãnh liệt, cho sự sống tốt đẹp hơn? Đằng này, chúng ta quá tầm thường khoác bộ áo tang chế nhạt nhoà, chấp nhận cúi đầu nhẫn nhục đi sau cái chết? Nghĩa là, ông muốn ngầm bảo với mọi người rằng: chúng ta, nhân dân cần phải đứng lên đấu tranh để lột bỏ cái cũ thay bằng cái mới tốt đẹp! Nếu không đấu tranh là chết!...
  - Kể ra từ sự bức xúc mà ông có được những ý tưởng tiến bộ như thế, cũng là tốt: Nếu xuất phát bởi một tâm hồn trong sáng, tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp? 
     Vấn đề là ở chỗ: Phải chăng đây lại chỉ là tiếng nói của một kẻ hai mặt? Hai giọng? Khi làm quan thì sẵn sàng cùng chính quyền, dùng bạo lực trấn áp những tư tưởng đấu tranh, vì quyền sống tự do của con người. Là một ông trùm Tư tưởng Văn hoá Trung ương, cưỡng chế tiêu huỷ những tác phẩm máu xương của các văn sỹ đấu tranh cho quyền sống chính đáng. Đành rằng như kinh Phật đã truyền: "Quay đầu lại là bờ..." - Được thế thì cũng đáng hoan nghênh! Nhưng liệu ông có phải thực lòng là kẻ ăn năn hối lỗi, quay đầu lại phía nhân dân? Hay đó chỉ là bộ mặt của một tên cơ hội?
     Xin hỏi ông nguyên Bí thư của Đảng: Xã hội này đâu phải bây giờ mới sa sút? Đất nước cũng đã mạt lâu rồi! Từ cái thuở ông vẫn đang chễm chệ quan trên tác oai, tác quái ở trong Ban chính trị ấy cơ? Tại sao khi còn quyền lực đó, ông lại không kêu gọi "chúng ta phải đứng lên thay đổi! Để có một xã hội tốt đẹp hơn! Mà phải đợi cho tới khi đã về vườn làm một thường dân, ông mới nói ra những lời lẽ… lấy lòng những người dân đang phẫn uất trăm bề? Cài lời nói cho có vẻ mang tính nhân văn ấy của ông, nó cũng dẻo quẹo như cái mồm dẻo quẹo của ông ở cái thời làm quan vậy.
     Người ta nói "lưỡi không xương trăm đường lắt léo" - Ông uốn lưỡi giỏi lắm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ạ! Thậm chí còn giỏi hơn, có kinh nghiệm hơn cả cái thời ông làm quan nữa.
     Thể chế này phải đâu bây giờ mới hỏng? Hiện thực xã hội xuống cấp, phải đâu chỉ khi ông thất sủng đường quan lại trở về làm thường dân, nó mới xuống cấp?  Từ hàng chục năm nay nó đã nát rồi! Khi ấy sao ông không kêu gọi mọi người: hãy vùng lên như loài cỏ, sống mãnh liệt để xã hội lại tốt tươi lên? Chúng ta phải bài bỏ các thứ đang hủ bại này, để thiết lập nên một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn?
      Trong một bài thơ mới viết gần đây tên là "Thời sự cuối ngày", có mấy câu ông đã viết rằng:
                      Tôi mừng cho nước tôi
                      Vẫn còn Thạch Sanh
                      Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm...
     Vậy xin đặt ra câu hỏi:
-   Liệu Nguyễn Khoa Điềm có phải cũng chỉ là một trong những tên Lý Thông đĩ bợm ấy không?
                                                                                     Hà Nội - 6/2013
                                                                                            PNT.
 
                  SỰ TẦM THƯỜNG

Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn
Bàn chuyện chạy chọt
Những đứa trẻ phải vào được lớp một
Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
Mơ ước nào cũng có giá.
Đôi người nhắc nhở rằng
Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.

Đức Phật từ bi
Xin người đừng mắng tôi
Khi tôi nói lắm kẻ muốn ngài ngậm miệng ăn tiền
Với tờ giấy bạc trên miệng.
Sự tầm thường thật kín kẽ
Mặc những tấm áo đúng thời tiết
Tụ tập trên các diễn đàn
Nói lời rỗng
Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
Tai quái.
Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
Cứ bày ra chuyện đâu đâu
Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
Nói nhiều hơn tất cả!
Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
- Thay vì bước vào phòng họp -
Để xua các cán bộ làm việc.
Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
Để tham gia nhóm lợi ích.
Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
Tốt tươi hơn
Mãnh liệt hơn
Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
Tang chế, nhạt nhoà
Cúi đầu
Đi sau cái chết.

            Thơ  NGUYỄN KHOA ĐIỀM
 
 
                  THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU SẼ RA RÁC
          VÀ CHỦ TỊCH HNVVN HỮU THỈNH "ĂN ỐC NÓI MÒ"
          . Qua nhận định và đánh giá "Sự mất ngủ của lửa"


                                        PHẠM NGỌC THÁI
     Muốn đọc và hiểu được thơ Nguyễn Quang Thiều cho dễ, trước hêt phải nhìn ra cách Nguyễn Quang Thiều thường hành trình để xây dựng cấu tứ cho một bài thơ. Thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là loại thơ tượng trưng, siêu thực hay cách tân, cách tiếc gì hết? Một số người nói: nó "tây" quá! Chỉ vì họ đọc thơ Thiều thấy khó hiểu. Nhiều bài ngôn ngữ, giọng điệu nghe từa tựa như kiểu người nước ngoài nói lơ lớ, ngọng nghịu... khi phát âm tiếng Việt.
     Tôi đã đọc khá nhiều thơ của Thiều, cả thơ đã xuất bản thành sách và đăng trên mạng. Theo nhận định của tôi: "Sự mất ngủ của lửa" là tập thơ hơn cả so với các tập thơ khác, trong đời thi ca Nguyễn Quang Thiều. Được tác giả cho xuất bản lần đầu vào năm 1992 và nay, sau 23 năm lại cho tái bản.  
     Phần nhiều các bài thơ của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả. Khi tả cảnh, lúc miêu tả sự việc. Hầu hết là tả nổi... ít tư duy trong. Không ít bài đến hết thơ cũng chỉ dừng lại ở sự miêu tả đó. Nhiều bài đọc mãi, đọc mãi... mà vẫn không hiểu thơ nói cái gì? Sau đây, khi phân tích một số bài cụ thể, tôi sẽ dẫn chứng về vấn đề này.
     Giờ xin đi vào bình - "Sự mất ngủ của lửa" bao gồm 25 bài thơ, phụ thêm 22 bức tranh họa của 15 hoạ sĩ, không kể bức tranh họa bìa sách. Nhưng với 22 bức tranh minh họa đó cũng chỉ có ý nghĩa trang trí, hoặc tăng thêm sự quảng cáo mà bán sách, hoặc để đọc cho đỡ rức mắt. Nhất là với loại thơ viết câu cú thường rất dài của Nguyễn Quang Thiều. Bởi vậy, những bức hoạ đó tôi không bàn đến trong bài bình luận này.
      Khuôn khổ của một bài viết không thể bình tất cả các bài được, vì quá dài. Nhưng để cho khách quan, trong 25 bài thơ của cả tập… tôi sẽ bình hẳn 10 bài. Thế đã là nhiều lắm rồi! Năm bài đầu và năm bài cuối. Những bài đầu và cuối thường là các bài thơ trội nhất, các tác giả hay chọn để sắp xếp khi cho in. Sau đó sẽ nhận định, đánh giá chung cho cả tập. 
                                              NĂM BÀI THƠ ĐẦU TIÊN
   1.  Mở đầu tập là bài "Sông Đáy":  Quả nhiên, tuy Sông Đáy chưa được gọi là bài thơ thật sự hay, nhưng đã là bài khá nhất tập. Tôi để lại sẽ bình cuối cùng.
  2.  Sang bài "Ban mai":  Chia làm năm khúc với 20 câu. Tác giả tả khung cảnh một buổi sáng sớm ở làng quê.
*  Khúc một - Tả bóng đêm dần tan như bóng một con mèo nhung khổng lồ bước đi. Anh ta tỉnh giấc dậy mỉm cười với sớm ban mai.
*  Khúc hai -  Những tiếng xôn xao từ cánh đồng mờ sương lùa về. Có tiếng xe trâu chất đầy hương cỏ tươi lặng lẽ đi qua.
*  Khúc ba -  Nghe như có tiếng ai gọi ơi... ơi... ơi... từ những con đường quen thuộc. Anh ta lách mình qua khe cửa nhòm ra.
*  Khúc bốn - Tác giả mường tượng...  người nông dân bế anh ta lên đặt vào thùng xe. Người nông dân cất cái giọng trầm trầm lên hát, như tiếng thóc khô chảy vào trong cót, như đất ấm trào lên trong loé sáng của lưỡi cày.
*  Khúc năm -  Vẫn là hình ảnh chiếc xe trâu một nửa đã ra ngoài sáng, một nửa còn trong đêm. Sau cái tiếng gọi huầy ơ như người chợt thức ấy, những ngọn ban mai mơn mởn rướn mình.
       Đấy là toàn bộ bài thơ mà tôi đã diễn giải ra. "Ban mai” là bài thơ tả cảnh một buổi sớm quê, qua sự xuất hiện của chiếc xe trâu chở đầy cỏ tươi và người nông dân theo xe đi trên đường. Ngôn ngữ diễn tả thuộc ngôn ngữ nói thông thường. Tức là, không phải ngôn ngữ bắn ra từ trong tâm linh hay cảm xúc của tư duy trong - Nên các hình ảnh thường cứng khô, không có thần.
       Tôi xin đưa ra vài thí dụ để minh họa.
- Bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử:  Mặc dù là bài thơ tả cảnh mùa xuân, khi thi nhân da diết một nỗi lòng thương nhớ làng quê. Mô tả qua hình ảnh trong hồi ức:
                       ... Chị ấy năm nay còn gánh thóc
                       Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
     Sắc điệu "... trắng nắng chang chang" vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Hình tượng của những câu thơ đó được mô tả bằng thứ ngôn ngữ trào ra từ tâm linh, một thứ tư duy cảm xúc đã thăng hoa... mà tạo nên sự rung cảm mãnh liệt, đẩy tình thơ đi đến viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc cả nỗi tình đời sâu sắc, bằng một nghệ thuật ngôn ngữ siêu đẳng, mới có thể trở thành bài thơ hay!
     Hoặc khi ông tả về bóng trăng với nỗi lòng hiu hắt:
                        Với sao sương anh nằm chết như trăng
     Đây chính là một câu thơ thần cảm tuyệt hay! Bóng trăng mà chứa cả linh hồn cùng số phận thi nhân bên trong - Thứ ngôn ngữ siêu đẳng của thi ca, xuất thần từ trong tâm linh... như Chế Lan Viên từng viết trong Di cảo:
                       Ở bên kia bờ hư ảo - bờ thơ.
     Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Quang Thiều là thứ ngôn ngữ diễn tả theo lối kể lể thông thường, ngôn ngữ đại trà. Đơn giản là tả nổi bên ngoài, nên hồn thơ không có thần cảm. Thí dụ, cũng ở bài "Ban mai" - khi tác giả muốn nói về sự gắn bó thân thiết giữa mình với người nông dân ở quê, nhưng hình ảnh diễn tả khô cứng:
                       Người nông dân bế tôi lên và đặt vào thùng xe
                                                                 (câu thơ 13)
     Hoặc khi tả cảnh trời đêm đang sáng dần, anh ta cũng dùng hình ảnh ví nhưng kể như văn xuôi:
                      Bóng tối đêm dần sáng như con mèo nhung không lồ bước đi uyển chuyển
                                                                (câu thơ thứ nhất)
     Nếu trong thi ca mà dùng toàn loại ngôn ngữ diễn tả nông nổi, sơ đẳng này - Thứ ngôn ngữ không cần tư duy, thần cảm... thì khó lòng sáng tác nổi một câu thơ hay, chứ đừng nói đến bài thơ hay? Thơ Nguyễn Quang Thiều hầu như chỉ dùng loại ngôn ngữ kể lể sơ đẳng này.
     Một ví dụ nữa, nói về những ngôn ngữ thi ca tầm bậc của các thi nhân.
- "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến chẳng hạn? Tả về một đêm thu ngồi thuyền câu cá, cảnh tình thì hiu hắt với nỗi cô đơn:
                      Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
                      Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
                      Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
                      Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
     Nhất là đến hai câu kết:
                     Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
                     Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
     Ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng, một tâm trạng khắc khoải chênh vênh của người ẩn sĩ, chán nơi quan trường… từ quan về nương náu chốn thôn hương. Hình ảnh của hai câu thơ kết ấy thật sống động, như có thần... chứa cả nội tâm ở bên trong. Đó chính là thứ ngôn ngữ bậc cao của thi ca.
-  Tôi ví dụ thêm bài "Qua Đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan - Bốn câu đầu bà tả cảnh đèo:
                     Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
                     Cỏ cây chen đá, lá chen hoa,
                     Lom khom dưới núi tiều vài chú,
                     Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
     Cảnh đã rất sinh động và đẫm hồn, nhưng vẫn chỉ là để tả cảnh trí. Sang đến hai câu sau:
                     Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                     Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
     Thì cảnh tả ở đây đã ôm bọc cả nỗi nước tình nhà, sự da diết của bà giữa chốn Đèo Ngang hoang vu. Ý, tình trong hình ảnh thơ bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Điển hình đến mức hoàn bích, cho nên tình thơ mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà. Những câu thơ thần cảm ấy phải được đẩy ra từ trong tâm linh. Như nữ sĩ Lâm Thị Mỹ Dạ từng viết:
                      Những câu thơ run rẩy
                      Những câu thơ trốn chạy...
                      Những câu thơ... cháy rôi !
     Thứ ngôn ngữ tả cảnh vật theo lối kể bên ngoài như của Nguyễn Quang Thiều không thể có được những câu thơ ôm chứa sâu sắc và hay đến như thế!
 - TRỞ LẠI VỚI BÀI "BAN MAI":  Như tôi đã nói ở trên " Phần nhiều các bài thơ của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả" con người hoặc sự việc diễn ra. Ý nghĩa bên trong chưa sâu xa. Độc giả khi đọc thơ Thiều cũng rất khó hiểu? Không dễ nắm bắt như tôi đã trải rạch ròi ra như ở trên. 
     "Ban mai" là một bài thơ tả cảnh vào loại bình thường, ý nghĩa cũng chưa có gì.
  3. "Tiếng cười":  Bài thơ dài 24 câu, nói về sự bỏ nhà ra đi của người cha. Tác giả tả từ lúc còn tuổi hai mươi cha đã bỏ mặc người vợ trẻ với một nỗi buồn đầy nước mắt, đứng vùi chân trong cát... ra đi không ngoảnh lại. Chỉ có tiếng chó rộ lên từ xóm tới đầu làng và con đò cô độc ở bến sông quê.
     Khi cha trở về thì tóc... đã trắng. Đêm đêm cha lại ngồi hút thuốc lào:
                    Tiếng điếu rít lên muốn khoan thủng nỗi buồn
                    Khoan vào phận con buốt nhức
     Nhưng lý do ông buồn vì vợ con... hay tại hoàn cảnh như thế nào? Bài thơ không nói. Chỉ thấy tác giả than:
                   Bốn anh em con...
                   ... không phải là đích cuối cùng của đời cha
     "Chỉ là bốn cột số"... trong nỗi buồn dằng dặc của ông. Bởi thế, tuổi 70 rồi cha lại bước lên con đò chao đảo, bỏ gia đình ra đi... trong sự hoảng hốt của những người con. Tiếng chó lại sủa từ đầu làng về ngõ.
     Nghĩa là, không thể bàn về tính nhân văn hay ý nghĩa xã hội... trong bài thơ này?
     Bởi vì, việc ông bỏ gia đình ra đi không phải vì nước non? mà cũng chẳng phải tại gia đình? Như ý thơ thì... vợ con ông vẫn yêu thương ông cơ mà? Chỉ biết là... 4 người con với ông không có nghĩa gì hết. Người vợ nhìn ông bỏ nhà đi với một nõi buồn đầy nước mắt, đứng chôn chân trong cát. Còn do... "tại phận" mà ông buồn? Thì phận làm sao? Bài thơ mới chỉ vẽ lên cái cảnh cha rời nhà vào lúc nửa đêm, không giống người say rượu. "Đom đóm bay quanh ông" như những vòng dây thép nung đỏ đứt tung ra, rồi tiếng chó sủa v.v... để tác giả kết luận:
                   Tóc cha trắng một tiếng cuời ngửa mặt
     "... tiếng cười ngửa mặt" là một tiếng cười tự mãn, tiếng cười thách đố! Kết luận như thế này có vẻ cường điệu, cho kêu, cho thật... oách! Chứ không hợp lý? Cái tính cách có vẻ dở người của một ông bó như thế, có gì mà tự mãn? mà thách đố? Người ta có thể suy luận: đó là một người cha kỳ cục, thậm chí là khùng... mới có cái "tiếng cười ngửa mặt" như thế? Ngôn ngữ và tình ý thơ chưa có sự thuyết phục. Theo tôi, tác giả viết chưa thành. Tuy có màu sắc của một bài thơ tự sự, nhưng Nguyễn Quang Thiều chưa diễn đạt nổi tư duy ra thơ, vẫn còn ở trong dạng bản thảo.
     Bài thơ hỏng.
     4.  Bài "Cái đẹp":  Một bài thơ gồm 15 câu thơ ngắn. Tác giả tả mấy gương mặt, cả đàn ông lẫn đàn bà với một con bò đang kéo chiếc xe nặng nề đi trên đường - Qua đó để xây dựng hình tượng về... "cái đẹp"? Song bài thơ không lột nổi ý tưởng. Câu cú, hình ảnh, ý nghĩa chưa có gì đáng bàn - Tôi bỏ qua cho bớt dài.
     5.  "Xô-nát hoàng hôn trên biển":  Đến bài này thì mới thực là rối rắm. Một bài thơ dài tới 54 câu. Tác giả chợt loé lên ý tưởng của cảnh đánh cá biển trong hoàng hôn, rồi dẫn dụ mặt trời như cái vòng quay lửa đang lăn. Khi thì anh ta ví con sóng chìm tan trước mặt là con sóng chết; Lúc gọi những con sóng vỗ triệu năm đó điên cuồng, mệt mỏi; Rồi những dây buộc chèo xiết đến toé máu; Những tấm lưới bung ra và cả lũ cá dại khờ... vào cuộc chia ly! Nghĩa là chia ly với sự sống, bị bắt và chết.
     Thế thôi! Trong cái vòng ấy, mặt trời lăn thêm một vòng, một vòng nữa thì chạm vào mặt biển... và đó là cơn đau đớn vĩ đại, nỗi khát khao vĩ đại của lửa... và lúc đó lòng anh ta đau đớn nhất? Ngôn ngữ thơ nói phóng đại, nói to tát, nhưng ý nghĩa hình ảnh chẳng ra đâu vào đâu? Chủ đề không rõ ràng. Đọc chán chê, rức cả mắt mà vẫn không biết Nguyễn Quang Thiều định nói về cái gì? Tứ còn loạn nên rất khó bình. Rồi anh ta than rằng: Không chịu nổi lúc có một bài ca lưu lạc trở về... Nhưng vì sao như vậy? Thì chịu. Phải gọi diêm vương dưới âm phủ về giàng nghĩa.
-  Nào là bài ca con thuyền vỡ.
-  Bài ca những tấm lưới rách.
-  Cả bài ca của những người đã chết rơi xuống đáy biển... mà rơi như một chiều đang buồn ngủ... nhưng, không đau khổ và không ân hận ???
      Thật vô lý và vô tâm !... Anh ta vơ tất cả những số phận bị hiểm hoạ, phải rơi xuống đáy biển ấy làm thành một bài ca, rồi bảo họ chết không đau khổ và không ân hận? Tình cảnh ra sao? Hiểm họa thế nào? Tại sao tất cả họ, ai cũng... vui vẻ chết? Đấy là nhà thơ vui vẻ ca, chứ có phải ai cũng sẵn sàng chết đâu?
     Cái mà người ta gọi thơ Thiều như... "thơ tây"? Cái mà Hữu Thỉnh, ông Chủ tịch HNVVN chắc gì đã hiểu mô tê về thơ của Thiều? nhưng cứ nói quàng: Đọc xong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông trở thành một con người khác - và ông Chủ tịch kết luận: "như thế gọi là thơ hay!" ? Đúng là "ăn ốc nói mò". Một ông Chủ tịch Hội, trình độ thẩm định thơ ca đã yếu lại hay nói bậy, làm bậy.
    Trở lại với bài thơ. Tất cả cái mớ hình ảnh được miêu tả như thế, Nguyễn Quang Thiều vơ vào mà tạo thành " Xô-nát hoàng hôn biển". Tả đủ mọi kiểu như một tập an-bom hỗn độn. Suy lý tuỳ tiện, thả phanh. Đọc cứ nhoằng nhoằng, thấy có vẻ kêu kêu... kêu kêu... chứ chả có hình ảnh hoặc câu thơ nào được gọi là súc tích và hay.
    Kết luận: Bài này cũng chỉ là một thứ thơ... ra rác !!! Ai nói không ra rác, hãy bình thử tôi nghe?
                          TÔI BÌNH SANG NĂM BÀI THƠ CUỐI
    6.  "Câu hỏi cuối ngày" tr.75-76:  Trước hết, phải nói đây là một bài thơ viết rất vớ vẩn. Không những thế, tác giả còn tỏ ra... hợm. Dù có bị dài, nhưng với bài thơ này tôi cũng xin chép cả ra đây:
                      Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
                      Đợi chuyến xe tan tầm
                      Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

                      Phía bên kia đường tôi đợi
                      Những chiếc lá tôi không biết tên phủ đầy bụi
                      Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
                      Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng lên
                      Trong cơn mơ đói và buồn
                      Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
                      Như dao sắc phất vào tôi
                      Tôi nhói lên một câu hỏi
                      Như người ứa máu
                      Rằng nếu tôi lấy họ
                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào.

                      Và chuyến xe tan tầm lại đến
                      Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
                      Tôi vội vã bước vào trong đó
                      Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
                      Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
                      Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
                      Và lòng tôi nấc một câu hỏi
                      Như một người sặc khói
                      Rằng nếu tôi lấy họ
                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào.
     Có gì đâu, anh ta tả về một buổi chiều đợi chuyến xe tan tầm, chắc là để về nhà. Nội dung của bài thơ chỉ tả rằng: Anh ta tựa lưng vào một bức tường xám mốc, đợi xe trong sự đói và buồn. Ở bên kia đường chả có gì... ngoài những chiếc lá phủ đầy bụi.
     Nhưng có điều kì quặc là, những chiếc lá "phủ đầy bụi" mà lại... "dịu dàng rụng" ?... trong cái tâm trạng... "vừa đói vừa buồn"?
- Đói và buồn... lại thấy những chiếc là phủ đầy bụi... dịu dàng rụng xuống? Nguyễn Quang Thiều viết thơ với một cảm xúc thật quái gở và giả tạo.
     Nguyễn Du từng viết:
                       Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
    Chưa hết, khi những chiếc lá phủ đầy bụi ấy... "dịu dàng rụng"? Thì: Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng lên /  (câu thơ 7) -  "Cơn mơ vàng thẳm"  là hình ảnh của một cơn mơ đẹp...  ("vàng vọt" hay "vàng bủng" mới là màu biểu tượng cho sự úa tàn, buồn chán)
 - Đói và buồn mà lại có một... cơn mơ đẹp? khi những chiếc lá "phủ đầy bụi"... "dịu dàng rụng" - Thơ ơi là thơ?... Thiều ơi là Thiều?... Quả tình Nguyễn Quang Thiều viết thơ văng mạng. Người ta bảo thơ Thiều đọc như "tây" cũng vì tả như thế này chăng? Một cách tả chẳng những vô lý, vô nghĩa mà lại còn sai bét cả.
     Thế rồi, nhìn thấy mấy cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua... lòng anh ta nhói đau "như có dao sắc phất vào... như kẻ ứa máu" - Anh ta than:
                      Rằng nếu tôi lấy họ
                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào ???
     Có phải ai người ta cũng muốn lấy cái anh chàng nhà thơ làm nhàm Nguyễn Quang Thiều đâu? Họa chăng phải là kẻ lắm tiền, nhiều của như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chẳng hạn?...  Hoặc nguyên Tổng bí thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh... " liêm khiết và đạo đức" đến mức, khi về hưu rồi mới xây cả một cơ ngơi nhà cửa dát vàng, dát bạc hoành tráng, sàn lát đá hoa cương... nguy nga như cung vua, phủ chúa, rồi chiếm cả nhân tình của con trai về làm vợ?
     Tôi nói tiếp phần cuối của bài - Hết cái đoạn anh ta tả về các cô gái phóng xe máy qua rồi thì, chuyến xe tan tầm đến. Anh ta lại tả về chiếc xe tan tầm đó: Nó "ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ" - vào trong thấy:
                      
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ

                       Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
     C
ũng một ý nghĩ như trên, nhưng lần này Thiều không "ứa máu" nữa, mà:

                       ... nấc lên một câu hỏi
                       Như một người sặc khói
     - Rằng nếu lấy họ, thì anh ta sẽ phải ngủ với họ thế nào ??? Hết thơ!
     Đúng là thơ với chả thẩn? Ai cũng đòi ngủ. Lại còn tỏ ra kênh kiệu, kệch cỡm:
                    Không hiểu: Tôi sẽ ngủ với họ thế nào?
     Thế mà một số trong Hội nhà văn cứ khen rối, khen rít... Thơ hay?
     Hữu Thỉnh thì buông lời phán bậy: Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc cao? Rồi tuyên bố: Sắp tới tập thơ "Sự mất ngủ của lửa " sẽ được tặng giải thưởng nhà nước là hoàn toàn xứng đáng? Đúng là một lão Chủ tịch Hội nhà văn hài hước hết mức.
     Mà cũng chẳng có gì là lạ: Nước đã mạt thì Hội nhà văn quốc gia cũng suy, cũng mạt. Chẳng thế, ngay chính Hữu Thỉnh từng đem cả tập "Thương lượng với thời gian" thấp kém chỉ để vứt đi, cùng với tập trường ca biển làng nhàng, tranh giành lấy cái giải thưởng Hồ Chí Minh đó sao? Thì tập thơ "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều, chúng có đem trao cho nhau cái giải thưởng nhà nước... cũng đâu phải chuyện bất ngờ? Ngay nhà thơ Việt Phương, một Hội viên HNVVN đã phải buồn chán từng than rằng: "Hội nhà văn Việt Nam" đang bị thao túng bởi nhóm lợi ích". Đúng là những kẻ mất nhân cách và đáng phỉ báng.
  7.  Bài "Thời gian":  Là bài thơ Nguyễn Quang Thiều tự sự về đứa con gái đang ốm của mình. Với tình phụ tử ấy nên tôi không muốn bình nhiều, chỉ xin nói ít lời khái quát. Bài thơ chia làm bốn  khúc, 15 câu thơ.
-  Khúc đầu, giới thiệu tác giả ngồi bế cô con gái đang sốt. Bố cũng sốt và con cũng sốt:
                      Trò chuyện với nhau bằng những cơn ho
-  Khúc hai, tả cái bếp lửa gần đó và tiếng bẻ củi. Ngọn lửa linh thiêng cựa mình, hình như có bước chân đi quanh đống lửa, làm những làn tro ấm bay lên.
-  Khúc ba, tác giả tưởng tượng ra một mùa thu thắm đỏ... có con rắn nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng... rồi anh ta bỗng khóc cùng mùa hạ, khi thấy bóng mình quanh khu vườn đó?... Hoài niệm về tuổi thơ hay quá khứ chăng? Không biết. Ý nghĩa khi tả những hình ảnh ấy để nói cái gì? Con rắn nâu kia biểu tượng cho cái gì? Có quan hệ gì tới đứa con gái đang sốt? Như " thơ kín mít " Âu Châu thế kỷ XIX vậy.
-  Khúc bồn, trở lại với hình ảnh ban đầu: Tác giả đang ngồi ôm con trước lửa. Một cơn sốt ôm một cơn sốt: Những tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi / - Hết thơ.
     Hình ảnh, ngôn ngữ và ý nghĩa thơ còn làng màng, sơ giản bên ngoài... chưa rung cảm được trái tim đời. Bài thơ không đứng được với thời gian.
   8.  Bài "Âm nhạc":  Cũng là một bài thơ tác giả tả về ngày đưa tang con gái. Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận! Bài thơ này tôi bỏ qua, không động vào.
   9.  "Tha phương":  Bài thơ gồm 22 câu ngắn và thuộc trong những bài thơ ngắn nhất tập. Tác giả nói về tâm trạng của người sống tha phương, chắc là ở nước ngoài.
-  Khúc thứ nhất tả con đường lạ, ngơ ngác... vừa bước vừa vấp.
-  Khúc thứ hai có 3 câu tả về "nỗi khóc" - Ba câu là ba kiểu khóc: Khóc trong cỏ gai? Khóc trong rơm rạ? và cuối cùng... khóc thành rêu? Tình thơ rất khó suy luận. Những hình ảnh nhặt nhạnh này không có tính đặc trưng, điển hình... nên thơ không thoát ý. Phân tích kỹ thì như tác giả cố bịa ra để thơ thêm màu sắc, chứ không phải thơ ra từ trong cảm xúc? Còn nỗi khóc thư ba "Khóc thành rêu": Tức là khóc liên miên, ngày này qua tháng khác - Ý nói, những ngày sống tha phương tác giả...  chỉ toàn khóc mà thôi !? Hình tượng tả bị hỏng.
     Đoạn thơ sau cũng tả vài hình ảnh để nói về nỗi đau, nỗi nhớ của kẻ tha phương, rồi tác giả kết thơ:
                      Chỉ mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa
                      Ngăn ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương.
     Nói chung bài thơ bình thường, dưới trung bình. Từ nội dung ý nghĩa đến ngôn ngữ nghệ thuật... nhàng nhàng, nhàn nhạt.
10. Cuối tập là "Bài hát về cố hương": Một bài thơ dài 33 câu, chia làm bốn khúc. Mỗi khúc đều được tác giả bắt đầu bằng câu thơ:
                      Tôi hát bài hát về cố hương tôi
-   Khúc mở đầu: Tác giả giới thiệu hát bài cố hương này vào lúc tất cả đã ngủ say, chỉ còn những vì sao và ngọn gió hoang cùng thức.
    Sau đó đến một só hình ảnh còn đọng trong tiềm thức - Nào là, có tiếng nói mê của đàn ông bên mé tóc đàn bà; thoảng mùi sữa mẹ tràn vào đêm; rồi những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên; cả tiếng ho khúc khắc của người già với vườn cỏ khuya vẫn thức một mình
     Đấy, toàn bộ hình ảnh cố hương được gợi ra trong khúc một là thế!
-   Khúc hai:  Nói về ánh sáng của ngọn đèn dầu để tác giả sáng tác văn thơ... cũng là ngọn đèn của cố hương mà ông bà để lại, đẹp và buồn, cho tác giả biết yêu, biết khóc.
-   Khúc ba:  Nói về khúc ruột, ( tức là cái cuống rốn khi người mẹ sinh ra anh ta ) đã chôn ở đó. Nó thành con giun đất bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao, quằn quại qua khu mồ dòng họ, qua bãi tha ma người làng chết đói, đất đùn lên máu chảy ròng ròng.
-   Khúc bốn:  Khúc cuối cùng để kết thơ, nói về những chiếc tiểu sành bên lò gốm. Một mai anh ta chết cũng sẽ nằm trong đó - Và chí nguyện của tác giả là kiếp này là người, nhưng kiếp sau phải là vật. Anh ta chỉ xin làm một con chó nhỏ... để canh giữ nỗi buồn, báu vật của cố hương.
     Tôi cứ đọc đi, đọc lại mãi bài thơ và luôn đặt ra một câu hỏi: Bài thơ viết về vấn đề gì nhỉ? Ừ, thì viết về cố hương - Nhưng ý của bài thơ muốn nói đến cái gì?
     Khi nói về hình ảnh của làng quê Việt Nam, người ta thường dùng hình tượng về "Cây đa, bến nước, sân đình..." hay các hình ảnh mang tính đặc trưng, đặc thù của quê hương đó.
     Nhưng hình ảnh cố hương của Nguyễn Quang Thiều lại chỉ là: Tiếng nói mê của những người đàn ông về đàn bà, những bầu vú của con gái tuổi mười lăm đang mơn mởn, rồi tiếng ho khúc khắc của mấy ông bà già...
- Những hình ảnh này nhặt nhạnh ở cuộc sống... nơi nào mà chẳng thấy, đâu phải là những hình ảnh để làm biểu tượng? Chỉ có hình tượng về "dòng sữa thơm của mẹ" là chấp nhận được.
     Đến đoạn thơ tác giả nói về khúc ruột, nó không tiêu tan mà thành con giun đất bò đi khắp nơi, khắp chốn... máu chảy ròng ròng? - Vậy ta cũng có thể nói: khúc ruột đó nó không tiêu tan mà hoá thành... con gián. Con gián bò khắp nhà, từ xó này qua xó khác - Hoặc hoá thành con cào cào bay khắp đồng trên, xóm dưới, phủ kín bầu trời cố hương v.v...
     Nghĩa là, những hình tượng trong "Bài hát về cố hương" của Nguyễn Quang Thiều còn mang tính lặt vặt, manh mún. Tác giả chưa khai thác được những nét riêng biệt, để bài thơ có tính đặc trưng hay đặc thù của cố hương. Tầm vóc thi ca thường, chưa gây được cảm xúc đối với người đọc.
   *  Giờ tôi quay trở lại bình vào bài "Sông Đáy": Chính là bài thơ in đầu tiên của tập. Như tôi đã nói, Sông Đáy tuy chưa đạt được là thơ hay, nhưng là bài thơ khá nhất tập. Tính đến nay, Thiều chưa có một bài thơ hay nào.
     Một bài thơ về quê hương dài 24 câu, phần lớn là những câu thơ dài. Thơ dễ đọc, cũng dễ hiểu. Cấu tứ bài thơ chia làm hai phần:
-  Phần 1/.   Tình cảm khi xa quê, tức là xa sông Đáy.
-  Phần 2/.   Trở về.
     Cái được của bài thơ là giầu cảm xúc, ngôn ngữ giản đơn hơn nhiều so với những bài thơ khác. Tuy nhiên, liệu bài thơ có tồn tại nổi với tháng năm không? Nó có giá trị về mặt thi ca như thế nào đối với nền văn học? Tôi sẽ bàn sau. Giờ xin đi vào phân tích một số nét cụ thể.
a. Phần 1/.  Xa quê - Tác giả ví dòng sông Đáy đi vào cuộc đời như hình ảnh người mẹ vất vả, sau mỗi chiều đi làm về người đẫm mồ hôi. Anh ta dụi mặt vào lưng áo người thấy mát một mảnh sông đêm. Những năm tháng sống xa quê, vẫn nhớ đến hình ảnh mái tóc của người mẹ trên bến mòn đứng đợi đã xoa dịu nỗi đau của lòng anh. Mẹ như cây ngô cuối vụ khô gầy:
                        Suốt đời buồn trong tiếng lá reo
     Lòng anh ta như người hụt hẫng. Trong cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu, như một tiếng nấc âm thầm vỡ...
     Rồi chiều chiều mong hình ảnh dòng sông dâng lên ngang trời. Đôi mắt nhớ thương của anh ta trở thành như hai hốc đất, nơi những con cá bống đến làm tổ giàn giụa nước sông.
b. Phần 2/.  Trở về gặp lại sông -  Tác giả reo lên:
                        Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
     Cảm xúc như những cánh buồm cổ tích bay xa về tức tưởi trong lòng - Phần này tách ra làm hai đoạn:
*  ĐOẠN MỘT:  Nghĩ về em. Tưởng tượng em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò vào một ngày sông bến vắng - Nhưng anh lại chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi... nhớ về một trăng xưa, chiếc áo em tuột rơi trên bến...
*  ĐOẠN HAI:  Trở lại với hình ảnh người mẹ. Mẹ giờ đã già như cát bên bờ. Ngỡ mùi cát khô như mùi tóc của mẹ, quì xuống vốc cát áp vào mặt và... khóc! Cát từ mặt chảy xuống dòng dòng.
     Đấy, toàn bộ bài thơ Sông Đáy mà tôi đã diễn giải ra. Tuy khá nhưng bài thơ chưa có gì đặc biệt. Từ hình tượng đến ngôn ngữ cũng chưa có một câu thơ nào thật hay - Với bài thơ này, Thiều cũng đã được một cái gì đó!... Nhưng liệu rồi bài thơ có đứng nổi với thời gian không? Thì tôi nghĩ rằng cũng khó.  So với các bài thơ hay của thi đàn như: Mùa Xuân Chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bẽn lẽn của Hàn Mặc Tử - Thu Điếu của Nguyễn Khuyến - Tương Tư hay Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính - Tràng Giang Huy Cận - Tranh Loã Thể Bích Khê - Hay như với Thuyền Và Biển của Xuân Quỳnh v.v... Thì Sông Đáy của Nguyễn Quang Thiều còn kém rất xa.
    KẾT LUẬN:  "Sự mất ngủ của lửa" là tập thơ vào loại trung bình và không có khả năng tồn tại đối với nền văn học nước nhà.
   -  Nghĩa là thơ của Nguyễn Quang Thiều sẽ ra rác - Vậy mà Hữu Thỉnh cứ trâng trâng tâng bốc: Như thế mới gọi là thơ hay! Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc cao, xứng đáng được tặng giải thưởng nhà nước? Thật là, một ông Chủ tịch Hội nhà văn toàn "ăn ốc nói mò".

                       Hà Nội, 1/2016 
                                                                                                  PNT.  
 
       CHẾ LAN VIÊN VỚI BA BÀI THƠ PHÊ PHÁN SÂU SẮC

                                     PHẠM NGỌC THÁI


        Trong lời giới thiệu tập sách " Chế Lan Viên - Thơ chọn lọc", Nxb Văn học 2014 - Dương Phong, người tuyển chọn khi nói về ba bài thơ này đã viết:
 -    Ba thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di cảo Chế Lan Viên - chính là:  "Ai ? Tôi!"  -  "Bánh vẽ"  -  "Trừ đi"... là những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời.
     Thực ra, nếu nói "Đó là... những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời", là Dương Phong đã lựa lời nói cho nhỏ nhẹ đi, tránh khâu kiểm duyệt, sợ không cho xuất bản. Theo tôi, xác đáng hơn thì phải nói: Ba thi phẩm đó đã... lật trái lại mặt sau của xã hội và chính trị - Người đã tự phê phán, thậm chí tự lên án mình! Cả ba bài thơ đều nằm trong Di cảo. Khi còn sống Người đã không cho xuất bản, không dám công bố. Tôi xin phân tích từng bài một.
      Trong bài "Ai? Tôi!" - Bài thơ viết vào những ngày sau khi nước nhà đã hoàn toàn giải phóng. Có lẽ một thực trạng xã hội đã tác động vào tâm can, tư tưởng, dầy vò làm ông đau đớn. Ông chạnh nghĩ về những hy sinh của những người lính trong cuộc chiến tranh xưa. Những bi thương mà dân tộc đã phải trả giá. Bắt đầu vào thơ... bằng sự phê phán chính mình, ông chỉ ra:
                      Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
     Cái nguyên nhân đó chỉ là sự tự vấn lương tâm. Người tự kết tội mình: Vì những câu thơ cổ võ của Người làm cho những người lính xung phong, nên mới để 2.000 người đi thì 1.970 người bỏ mạng không trở về. Nhưng tại sao Người nói vậy???
    Ta vẫn biết thơ Chế Lan Viên là loại thơ bình luận. Thơ triết lý. Về phương diện nghệ thuật, nó có tính triết học cao. Tính tư tưởng trong thơ rất sâu sắc, cả về ý nghĩa cuộc sống cũng như sự phê phán xã hội và cuộc đời. Mỗi câu thơ ông đều hàm súc ý nghĩa ở bên trong. Thơ đọc càng sâu càng thấm thía. Về tính nhân văn, ông là một nhà thơ của nhân dân.
     Nhà thơ của nhân dân ấy từng viết những bài thơ nổi tiếng một thời, như: Sao chiến thắng, Người đi tìm hính của nước... Ông đã sáng tác cả một tập "Ánh sáng và phù sa" danh tiếng. Đầy hoài vọng với một tương lai huy hoàng của đất nước về ngày chiến thắng:
                      Xưa phù du mà nay đã phù sa
                      Xưa bay đi mà nay không trôi mất
                      Cho đến được... lúa vàng đất mật...
                      Anh đã mất gì? Đã mất bóng đêm.
      Không tiếc lời ca ngợi lãnh tụ. Ca ngợi Đảng quang vinh:
                      Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
                      "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
                      Hình của Đảng lồng trong hình của nước
                                    (Người đi tìm hình của nước)
     Hết lời ca ngợi chủ nghĩa. Tin vào ngọn cờ khi theo Đảng quang vinh:
                      Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
                      Khi tự do về chói ở trên đầu
                      ......
                      Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
                      Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
                      Sao vàng bay theo liềm búa công nông
    Thế mà giờ đây, những năm tháng sau chiến tranh, đất nước đã hoà bình. Một thực tế xã hội với bao nhiêu mảng đen về sự bất công, thiếu nhân quyền. Đầy rẫy những quan lại tham nhũng đủ kiểu, tiếp tay cho chính quyền địa phương chèn ép, chiếm đoạt cả đất đai của dân lành, đẩy họ vào sự cùng quẫn. Chính quyền như thế đâu có phải còn của dân? Cái băng rôn Nhà nước do dân, vì dân... âu cũng chỉ là khẩu hiệu? Tâm hồn ông bị đổ vỡ. Người đổ vỡ về Đảng chăng?... Người thất vọng về chủ nghĩa chăng?...  Người không nói. Nhưng rõ ràng đọc: "Ai?Tôi!", lật mặt sau của những câu thơ ta thấy: Cái thần tượng về một Đảng mác-xít trong ông đã bị sụp đổ! Ông không còn niềm tin thật sự vào thể chế của ngày hôm nay nữa.
       Nghĩ lại cuộc chiến xưa. Bao sinh mạng những người lính xung phong cho sự tốt đẹp của đất nước, hạnh phúc của dân tộc... lại như thế này sao? - mà chính thơ ông đã góp phần thúc giục họ xung phong. Hàng vạn, hàng vạn người lính chết cho một cuộc chiến... đã trở thành phi lý ư? Ông đau đớn mà thốt lên. Không, phải nói là ông đã thét lên khi viết những câu thơ:
                     Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
     Ở đây ta thấy một Chế Lan Viên quay ngược lại hoàn toàn, không còn phải là tâm hồn như khi Người đã viết "Ánh sáng và phù sa" nữa. Trái tim ông quằn quại. Sau đó Người lý giải về kết quả những câu thơ mà Người đã cổ võ những người lính xung phong đó: 2.000 người đi... thì 1.970 người bỏ mạng, chỉ 30 người sống sót. Để cuối cùng dân tộc được gì?... Tổ quốc được gì?... Thông qua một hiện thực cuộc sống, Người viết:
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                      Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                      Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                      Lại chính là tôi!
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                      Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                      Mà tôi xấu hổ
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
     Ta đặt câu hỏi: Nếu sự hy sinh kia... cũng vì Tổ quốc, tại sao Người lại phải xấu hổ?... dẫu cho là chính thơ Người cũng đã cổ võ những người lính ấy xung phong chăng nữa. Vấn đề là ở chỗ, bật ra những câu thơ như thế, Trong thẳm sâu trái tim Người đã phải rên rỉ, đớn đau vì tình hình của đất nước hôm nay. Mặc dù ông chỉ giải nghĩa nguyên nhân làm ông xấu hổ, rằng:
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
     Hay là:
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
     Chỉ có thể giải thích rằng: mặc dù đất nước đã hoà bình, nhưng tình hình xã hội lại ngày càng suy. Rền xiết trong ông một nỗi niềm u uẩn: về chế độ còn nhiều sự giả trá, bất công chăng? Thực tế một Nhà nước xã hội chủ nghĩa đâu có được tốt đẹp trong tâm hồn như ông hằng tâm niệm? Ông trăn trở... máu dân tộc đã đổ cho cuộc chiến ấy, chỉ để giành lại một chính thể phi lý này ư? Thế mà 1.970 người lính phải chết trong một đêm Mậu Thân - đấy mới chỉ là một cuộc xung phong. Nếu nói đến mọi cuộc xung phong thì phải hàng vạn, hàng vạn những người lính nữa đã phải chết... cho một cuộc sống với bao sự phi nghĩa như thế này?
     Ta lật lại mặt kia của câu thơ: Nếu như sự xung phong của những người lính, là để giành lại độc lập, tự do cho một đất nước... có một xã hội công bằng, ấm no và hạnh phúc của dân tộc. Thì việc gì Người phải xấu hổ? Như Người từng viết:
                       Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
                       Như cha mẹ ta, như vợ như chồng
                       Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
                       Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
                                                       (Sao chiến thắng)
       Máu của dân tộc đã đổ. Cái chết của những người lính ngoài chiến trận, cho ngày hôm nay ra sao?
 -  Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?...  Khi trung ương và chính phủ đầy những quan tham nhũng. Một xã hội tràn lan bao lớp quan lại địa phương cấu kết với quan trên chèn ép, ức hiếp dân lành. Chỗ nào cũng bất công. Chỉ chết những kẻ thấp cổ, bé họng - có oan trái mà không tiền, đi kiện cáo cũng chẳng ai thèm quan tâm.
-   Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?... Khi những "đầy tớ của dân" ấy thì giàu nứt đố, đổ vách. Có nguyên Tổng bí thư Đảng làm hai khoá cả chục năm. Đứng đầu của một Đảng cộng sản quang vinh - Thời ông ta còn đương nhiệm... thì Đảng yếu kém, xã hội tạp dịch bung bét, kinh tế quốc dân sa sút. Nếu không tham nhũng mà khi ông ta mãn nhiệm trở về, giàu như một đế vương? Nhà cửa, biệt thự nguy nga như cung vua phủ chúa, sàn lát đá hoa cương. Đạo lý chẳng khác gì những kẻ tha hoá? Cha thì đoạt lấy nhân tình, bồ bịch của con trai. Nhân cách rất rẻ tiền. Con gái với mẹ kế cũng bới móc, kiện cáo nhau vì giành giật tiền bạc của nả. 
-   Một nhà nước, một chính thể chân chính của dân, do dân, vì dân ư? Ngay cuối tháng 3/2015 vừa qua, trong bài viết "Chả lẽ ông Chủ tịch thành phố Hà Nội không có lỗi gì trong vụ chặt cây", đăng trên laokhoa.blogtiengviet.net - chính nhà thơ Trần Đăng Khoa đã lên tiếng cảnh báo những lãnh đạo Đảng và Nhà nước, rằng:
   ... “Bởi chúng tôi chỉ là nhân dân. Nhân dân là mác là chông. Là sông là núi nhưng cũng không là gì... Vâng nhân dân là thế đấy. Khi có giặc thì chúng tôi là mác là chông, là sông là biển ngăn giặc, đánh giặc, rồi hy sinh thành hàng vạn, hàng triệu những nấm mồ vô danh ở Điện Biên, ở Thạch Hãn, ở Hoàng Sa, Trường Sa, ở Biển Đông, ở khắp mọi nơi trên đất nước này. Còn khi yên hàn, chúng tôi chẳng là gì cả”.
     Liên tưởng những năm qua - Ở ngoài biển đảo thì bọn Tàu khựa cướp biển, cướp đảo ta. Chúng hung hăng bắn giết những người dân đánh cá và chiến sĩ ta... đang phải ngày đêm canh giữ biển trời. Khắp nơi trong nước, nhất là ở các thành phố... nhân dân xuống đường biểu tình lên án giặc Tàu - Thì chính quyền lại đi trấn áp, bắt bớ. Rồi hăm dọa, tống giam cả các bloger yêu nước.
     Ta trở lại với bài thơ của Chế Lan Viên: Trong thẳm sâu tâm linh của Người, điều làm cho Người xấu hổ - Như Người nói, bởi chính thơ Người đã kêu gọi những người lính kia... và họ đã phải chết đi trong những cuộc xung phong ấy?... cho tương lai của đất nước với một thể chế thiếu nhân đạo như hôm nay.
        Tôi xin nói tiếp sang bài thơ "Bánh vẽ".

                                                BÁNH VẼ
                      Chưa cần cầm lên nếm,
                                                  anh đã biết là bánh vẽ
                      Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
                      Cầm lên nhấm nháp.
                      Chả là nếu anh từ chối
                      Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      Đêm vui
                      Bảo anh không còn có khả năng nhai
                      Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
                      Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
                      Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
                      Như không có gì xảy ra hết
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                      Nhai ngồm ngoàm...
     Chả cần phải khó nghĩ ta cũng hiểu ngay: Những "bánh vẽ" mà Chế Lan Viên nói ở đây thuộc các chủ trương, chính sách hay đường lối của Nhà nước, của Đảng. Có những thứ bánh vẽ chỉ gây tổn hại lớn nhỏ đối với nền kinh tế hay đời sống dân sinh, làm cho nhân dân đói khổ. Nhưng cũng có loại bánh vẽ thì lại làm... chết người. Có khi giết hàng nghìn, hàng vạn người lương thiện và vô tội.
     Xin lược lại mấy cái bánh vẽ đã gây ra những tội ác kinh hoàng trong lịch sử của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Như cái bánh vẽ:
-   Về Cải cách ruộng đất của Đảng và chính phủ 1946-1957.
-   Sự kiện hay còn gọi là "vụ án nhân văn giai phẩm" 1955-1958.
                  1.  Sơ lược về thảm hoạ của cuộc Cải Cách Ruộng Đất. 
     Cái bánh vẽ của Đảng Lao động VN (tức Đảng Cộng sản VN bây giờ) và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hòa - Người ta gọi đó là "chiến dịch đấu tố thảm sát tàn bạo". Nồi da xáo thịt kinh hoàng. Đồng bào, đồng loại thảm sát, tận diệt lẫn nhau. Những người cùng huyết thống trong gia đình bị tuyên truyền, cưỡng chế vu cáo ám hại nhau. Con đấu tố cha, vợ vu cáo chồng... là địa chủ cường hào, là phản động, là bóc lột. Giẫm đạp lên luân thường đạo lý. Người ta chưa biết thật chính xác về số người đã bị giết trong CCRĐ. Có nguồn tin thì nói khoảng 120.000 người bị giết, nhưng cũng có thông tin những người bị giết lên đến trên 170.000 người. Vậy chí ít cũng phải trên chục vạn người bị giết ở cuộc CCRĐ ấy. Trong đó, cứ 10 người đem ra kết án rồi bắn chết thì có 7 người bị vu oan.
     Bao nhiêu người cách mạng - hy sinh cả một đời, hy sinh cả gia đình, cống hiến của cải cho kháng chiến... cuối cùng cũng bị đội cải cách của chính phủ qui tội, xử bắn rất tàn ác. Nói về những hành động giết chóc khủng khiếp thời kỳ ấy, thấy nổi trôi trên mạng mấy vần thơ của nhà thơ Tố Hữu - một ông quan cách mạng mà sau này lên tới chót đỉnh, uỷ viên trong Bộ chính trị của Đảng cộng sản, viết tuyên truyền trong thời ký CCRĐ. Thơ rằng:
                      Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
                      Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
                      Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
                      Thờ Mao Chủ tịch, thơ Sít-ta-lin bất diệt!
     Chẳng hiểu có đúng vậy không? Nghe vần thơ, giọng thơ thì rất giống thơ Tố Hữu. Nếu đúng thế thì - Chao ôi!  Một ông quan cấp cao của Đảng cộng sản nhưng thơ khát máu quá!... mà lại là máu cùng đồng loại, giống nòi.
                   2.  Đôi nét về vụ nhân văn giai phẩm.
-   Là phong trào đấu tranh của những văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do văn hoá và trong sáng tác văn học nghệ thuật.
-   Những văn nghệ sĩ trong Nhân văn giai phẩm tuyên bố: văn học nghệ thuật không để phục vụ cho chính trị, đó là quyền tự do sáng tác của họ. Với khẩu hiệu "trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
-   Họ phản đối sự chuyên chính của Đảng, đòi xoá bỏ sự đảng trị, độc đoán trên lĩnh vực văn hoá và sáng tác văn học nghệ thuật. Theo họ, chủ nghĩa cộng sản là không nhân văn, chà đạp con người. Họ chống sùng bái cá nhân. Phong trào nhân văn giai phẩm này đã bị Đảng và Nhà nước dùng bạo lực thanh trừng, bắt bớ, tù đầy. Hàng loạt các văn nghệ sĩ phải đi cải tạo, hoặc bị quản thúc, cấm sáng tác... kéo dài hàng chục năm. Trần Dần phẫn uất cứa cổ tự tử mà không chết. Từ một trào lưu đấu tranh đòi dân chủ, tự do trong văn học nghệ thuật - trở thành một vụ án "nhân văn giai phẩm", đẩy thành một vụ án chính trị. Phong trào được khởi xướng 1955 và chính thức bị dập tắt tháng 6/1958. Đến khi được cởi trói cho văn nghệ sĩ thì nhiều người đầu đã bạc, kẻ thì bệnh hoạn ốm đau... nào bại liệt, tâm thần, hoặc chết trước khi được cởi trói. Như nhạc sĩ Văn Cao được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh một năm sau khi mất (1996). Tháng 2/2007 các nhà văn trong nhóm Nhân văn giai phẩm như Phùng quán, Trần Dần, Yến Lan, Lê đạt, Hoàng Cầm thì được tặng giải thưởng Nhà nước... vì đã có công trong sự nghiệp sáng tác văn học của nước nhà.
     Chao ôi, mới thấy kiểu lãnh đạo của chế độ XHCN chúng ta, có khác gì bánh vẽ? Đúng là những thứ trò. Thậm chí những thứ trò và bánh vẽ ấy đầy giả tạo, lừa dân và vô nhân thất đức... "cởi ra rồi lại buộc vào như không".
     Xin quay trở lại với bài thơ "Bánh vẽ" của Chế Lan Viên. Tại sao một nhà thơ lớn của chúng ta cũng như bao văn nghệ sĩ khác, biết là "bánh vẽ" rồi... mà vẫn phải ngồi vào bàn, vẫn phải... ăn??? Như Người đã viết:
                      Chả là... nếu anh từ chối
                      Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      .....
                      Và đưa anh ra khỏi bàn tiệc
     Nghĩa là: nếu anh không ăn cái bánh vẽ của chúng, thì chúng sẽ "đánh"anh. Sẽ qui tội và sẽ... triệt anh. Cũng như "vụ án Nhân văn giai phẩm" vậy thôi.
    Ngay như Nguyễn Khải - một nhà văn có danh tiếng và tầm vóc. Đương thời ông đã phải kìm nén, nhẫn nhịn biết bao sự nhiễu nhương của thể chế. Sự vô đạo của những kẻ điều hành xã hội - Ông có dám viết lên cái hiện thực ấy đâu? Đến khi mất, ông mới để lại một cuốn di cảo, tập tùy bút chính trị... gọi là "Đi tìm cái tôi đã mất". Phê phán, phanh phui những cái mất tự do, dân chủ, chưa có nhân quyền của chế độ. Như người ta nói: Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật.
     Không phải chỉ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải... mà cùng bao văn nghệ sĩ khác thời nay - Nếu muốn còn được cầm bút để viết. Nếu muốn còn được sống để hoạt động văn học nghệ thuật, thì phải chấp nhận ăn... "bánh vẽ". Lương tri dẫu bị dằn vặt? Họ vẫn phải - như Chế Lan Viên đã viết:
                     Rốt cuộc anh lại phải ngồi vào bàn
                     Như không có gì xẩy ra hết
     Và:
                     Nhai ngồm ngoàm...
     Nếu anh không chịu ngồi vào bàn nhai cái bánh vẽ ấy? Nếu trái tim nhà văn bức bối mà không kìm nén được nữa, cố viết nó ra - thì sẽ bị... triệt ngay. Thí dụ như cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" của nhà văn Hoàng Minh Tường chẳng hạn?
     "Thời của thánh thần", Nxb Hội nhà văn 2008 - Là một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh tổng thể của xã hội. Nhà văn phục lại những hiện thực, qua những số phận chìm nổi của một gia đình. Những trận đấu tố đầy chất bi hài. Những chiến dịch cưỡng bức nhuộm máu... để tái hiện lại sự đen tối của thời Cải cách ruộng đất. Vụ án Nhân văn giai phẩm... những người trí thức và văn nghệ sĩ bị nhà cầm quyền vùi dập, bắt tù đầy, khủng bố tư tưởng, bị vô hiệu hoá trở thành những cái bóng dặt dẹo. Rồi cuộc đấu tranh với xét lại hiện đại đến vấn đề Hoà hợp dân tộc?...  Các nhà bình luận nhận xét rằng: "Thời của thánh thần" là bi kịch của một gia đình thông qua tấn đại bi kịch của dân tộc. Đọc Thời của thánh thần phải rùng mình vì sự bất ổn của một xã hội, trong cơn bão loạn thời thế. Bạo lực được xây dựng trên những thứ triết lý không tưởng, vừa cuồng tín vừa tàn bạo.
     Sách bị qui là bôi xấu chế độ. Mới phát hành được vài ngày thì bị Nhà nước ra sắc lệnh thu hồi. Nghe nói ngày 28/8/2008, chính nhà văn Hoàng Minh Tường đã phải đi tất cả các cửa hiệu gửi... để thu hồi sách.
    Năm qua, nhà văn Đỗ Hoàng cũng một lần nữa lên tiếng vạch trần những hành động phi nhân nghĩa của ông Trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương một thời - Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Uỷ viên Bộ chính trị của Đảng cộng sản. Khi còn đương chức đương quyền, ỷ thế vào bộ máy quyền lực của Đảng đã bóp nghẹt sự tự do dân chủ các văn nghệ sĩ và thẳng tay trấn áp những ai không chịu... "ăn bánh vẽ" của Đảng. Trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm" đăng trên trang vannghecuocsong.com - Nhà văn Đỗ Hoàng vạch rõ:
     " Nguyễn Khoa Điềm - Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam, đứt gánh giữa chừng... phải về vườn - Thời còn Trưởng ban tư tưởng văn hoá,  Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay: Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyên kể năm 2000 của Nguyễn Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: Phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho)..." v.v.
     Như thế có thể thấy rằng: cái bánh vẽ mà Đảng và Nhà nước XHCN của chúng ta vẫn liên tục vẽ ra suốt từ hồi CCRĐ đến giờ. Các văn nghệ sĩ muốn tồn tại bình yên thì đều phải... “ăn”? Như cách nói của Chế Lan Viên:
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                      Nhai ngồm ngoàm...
     Nếu ai không "nhai ngồm ngoàm..." thì Đảng sẽ cho chính quyền đến... "hỏi thăm"? Sự tự do, dân chủ của chế độ ta vẫn chỉ là giả hiệu: như việc đàn áp, đe nẹt, bắt bớ những người biểu tình chống giặc Tàu. Những kẻ quá khích chỉ là số ít. Chủ yếu đó là dân tình và những trí thức yêu nước. Bóp nghẹt nhân quyền sống của con người qua việc trấn áp, giam hãm tù đầy các bloger yêu nước... dám nói lên sự thật.
      Giờ tôi xin nói thêm ít lời về bài "Trừ đi":
                      Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
                      Có phải tôi viết đâu? Một nửa
                      Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
                      Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
                      Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
                      Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
                      Tôi giết bão táp ngoài khơi
                                               cho được yên ổn trên bờ
                      Và giết luôn mặt trời trên biển,
                      Giết mưa và giết luôn cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
                      Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
                      Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
                      Và thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?

                      Không phải!
                      Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
                      Đã giết đi bao nhiêu cái
                      Có khi không có tội như mình!
     Đọc mấy câu thơ kết trong bài 'Trừ đi" này, thấy tâm trạng Chế Lan Viên có khác gì Nguyễn Khải và một số văn nghệ sĩ?... chỉ dám viết một nửa sự thật - Còn một nửa thì phải viết theo sự cưỡng chế của... Đảng và chế độ - Người nói:
                      Thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?
                      Không phải!
     Người phủ nhận chăng? Không, để rồi cũng chính Người thừa nhận:
                     Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
     Câu thơ viết thổ lộ như thế - để nói lên những xót xa trong lòng ông, trăn trở và đau đớn. Có thể nói đó là sự quằn quại, dầy vò lương tâm của những người cầm bút, những văn nghệ sĩ sống bằng lương tri. Những con người yêu đất nước và dân tộc - Nay chỉ vì thờ phụng cho một chính thể đã mọt ruỗng mà phải giết đi bao nhiêu cái tốt đẹp. Giết đi cả những tình cảm, lòng nhân ái và tư tưởng trong sáng. Cái tội ấy của nhà thơ, nhà văn... còn lớn hơn cả bao nhiêu thứ mà Người đã qui tội kia? Người - tức Chế Lan Viên đã bảo vậy:
                     Chính tôi đã giết đi bao nhiêu thứ
                     Có khi không có tội như mình!
     Đấy, ông đã viết như thế đấy! Vậy "trừ đi" là trừ đi cái gì? Ông nói, sau này đọc thơ ông thì hãy trừ đi một nửa - Chỉ đúng một nửa thôi, còn lại là giả...
     Có phải cái "giả" mà ông muốn nói ấy... có khi là cả những bài thơ mà ông đã từng ca ngợi chế độ, ca ngợi Đảng? Bởi vì: nếu ông phê phán Đảng, lên án chế độ, thì ông sẽ bị... "đánh", bị triệt... như vụ án Nhân văn giai phẩm. Gia đình, vợ con sẽ khốn khổ, khốn nạn theo ông. Nghĩa là, nếu ông mà nói thật... thì Đảng và Nhà nước cũng lắm tội lắm chứ!?
     Tôi xin dừng lại bài bình luận về ba bài thơ của Người ở đây.

                                                                       Hà Nội, tháng 4/2015   
                                                                                       PNT.
-----------------
       Hai bài "Bánh vẽ" - "Trừ đi" đã viết đầy đủ như ở trong bài bình. Xin chép lại toàn bộ bài thơ "Ai? Tôi!" dưới đây, để bạn đọc xem cho mạch lạc:

                                    AI? TÔI!


                      Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                      Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                      Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                      Lại chính là tôi!
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                      Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                      Mà tôi xấu hổ
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
                                                                    ( Thơ Chế Lan Viên)
 
 
                                  MỤC LỤC
 
                                               Phần 1.    
                                    THƠ ĐẤU TRANH
 
Nước đã mạt rồi    ---------------------------------------------------------------
Nói thật thì phải vầo tù
Biển đảo quê hương
Người lính trận năm xưa nghĩ về ngày 30-4
Hội nhà văn Việt Nam đã trở thành nỗi nhục của quốc gia
Người chơi mưa
Bài ca ông tân Chủ tịch Hội nhà văn
Bài ca tượng đài Hồ Chí Minh
Nghĩ về những tượng đài Lê Nin bị giật đổ ở Nga
Rước giặc vào nhà
Brack Obama người bạn lớn của dân tộc Việt Nam
Xử tội Formosa
Đảng cộng sản Việt Nam mình đểu quá, phải không anh
 
                                          Phân 2.
                         VĂN CHƯƠNG PHẢN BIỆN
                  PHÊ PHÁN CNXH VÀ SỰ THOÁI HOÁ
 
Bằng Việt phê phán xã hội bằng thơ   .......................................................
Hữu Thỉnh Chủ tịch HNVVN - Một chân dung thơ tầm thường,
          nhân cách kém, tham lam, xằng bậy  ----------------------------------
Nguyễn Khoa Điềm hay tên Lý Thông đĩ bợm .......................................
Thơ Nguyễn Quang Thiều sẽ ra rác
       và Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh « ăn ốc nói mò » .........................
Chế Lan Viên với ba bài thơ phê phán sâu sắc .......................................
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2017 12:06:41 bởi Nhân văn >
Nhân văn 30.06.2017 11:52:44 (permalink)
 
 
          MỐI TÌNH HOA HỒNG BẠCH 
 
 
                                               KỊCH NGẮN
                                          Phạm Ngọc Thái
 
           NHÂN VẬT:
1-   Ông Ngọc                        Đại tá về hưu, góa vợ.
                                                        Khoảng 65 tuổi.
2-   Bà Hồng                          Mẹ của Đông, góa chồng.
                                                                     60 tuổi
3-   Ông Đức                         Em trai bà Hồng, nhà giáo.

4-   Đông                              Con trai bà Hồng, chồng của Hạnh.
                                                     Cán bộ công nhân viên chức nhà nước.
5-   Hạnh                              Vợ Đông, buôn bán.

6-   Hoa                                Con dâu ông Ngọc.
                                                      Nhân viên nhà nước.

                          Kịch xẩy ra tại thành phố - Thời hiện tại.
                                       MỞ MÀN

                                             ( Một buổi sáng mùa thu mát mẻ, tại nhà bà Hồng .
                                         Gian nhà ngoài làm phòng khách của một gia  
                                         đình thành phố tương đối khá giả, có kê một bộ  
                                          salon tiếp khách. Bà Hồng từ ngoài cửa đi vào,
                                         lau chùi dọn dẹp, sau đó lôi ra một lọ hoa bé xíu
                                         bằng sứ... lau sạch sẽ, cho nước rồi đặt lên bàn.
                                         Bà đi lại bồn chồn như đang chờ một ai đó? )
        BÀ HỒNG - (khẽ thở dài) Cũng chẳng biết rồi có thu xếp ổn thỏa không?
                             Thôi thì, mặc cho số phận.
        HẠNH -   (ngoài cửa vào ) Mẹ! Nhà con vẫn chưa về hả mẹ?
        BÀ HỒNG - Chắc là chưa, mẹ cũng vừa đưa cháu Thắm đến trường mẫu
                          giáo về. Cái con bé, bà đã dẫn vào lớp giao cho cô giáo, cứ
                          nằng nặc đòi mua một phong kẹo mới chịu để cho bà về.
        HẠNH -  Tại bà cứ chiều cháu quá, nó được thể càng nhõng nhẽo.
        BÀ HỒNG -  Ồi, trẻ con! Đứa nào mà chẳng hay vòi vĩnh. Nhưng có
                           việc gì mà sáng ra vừa mới dọn hàng, con đã bỏ chợ về nhà
                             vậy?
        HẠNH -  Con về để gọi nhà con.
        BÀ HỒNG -  Mấy ngày nay anh ấy được nghỉ phép năm, cứ để anh ấy
                         ngủ cho đẫy mắt.
        HẠNH -  7,8 giờ sáng rồi còn sớm sủa gì nữa đâu ạ!
        BÀ HỒNG -  Thì nhà cũng đâu có công việc gì mà cần anh ấy phải dậy
                          sớm.
        HẠNH -  Con đang có món làm ăn. Nhân tiện anh ấy được nghỉ phép,
                          phải tận dụng mà chạy thêm hàng. Buôn bán mà gặp món
                         khách thế này, không nhanh chân, thì đứa khác nó nẫng tay trên
                         ngay. Để con vào gọi nhà con dậy!
        BÀ HỒNG - Ừ! Nhà cũng hết cả tăm, mẹ chạy ù ra phố mua, mẹ
                      sẽ về ngay.
                           ( Nói rồi bà Hồng đi ra cửa, Hạnh vào nhà trong. Lát sau Đông và
                                Hạnh ra. Đông đi sau, vừa đi vừa cài mấy cái cúc áo )
        ĐÔNG -  ( càu nhàu ) Mang tiếng được nghỉ phép năm mà... muốn ngủ muộn
                      một tý cũng không được thoải mái.
        HẠNH -  Bây giờ vẫn chưa phải là muộn chắc? ( làm lành ) Có chuyện làm
                         ăn, em mới phải chạy từ chợ về đây để gọi mình. Nếu không
                         thì... có ngủ đến sáng mai, cũng chẳng ai thèm đụng đến.
        ĐÔNG -  Chuyện gì?
        HẠNH -  Có khách đặt mua một số vải. Mình lấy cái Dream chở em lên
                          chợ Liên Hiệp, em vơ đủ số lượng để giao cho khách. Xong
                          mình về lại tha hồ mà ngủ.
        ĐÔNG -  Tưởng chuyện gì quan trọng.
        HẠNH -  Không quan trọng à? Chỉ một chuyến hàng này cũng kiếm bằng
                         cả tuần đi chợ đấy!
        ĐÔNG -  Thế cái người áp tải hàng có được sơ múi gì không đấy? Hay
                         chỉ là vừa phải nai lưng ra mà thồ, vừa tốn tiền xăng.
        HẠNH -   Lần này em sẽ chi tiền, bồi dưỡng tử tế. Thôi, đi kẻo muộn.
        ĐÔNG -  Muốn đi thì ngựa thồ cũng cần phải có cái gì ăn lót dạ buổi
                        sáng, mới có sức mà kéo chứ?
        HẠNH -  Ra quán em khao, mình muốn ăn bao nhiêu thỏa sức.
        ĐÔNG -  Thì cũng để cho người ta uống chén nước, hút điếu thuốc cho
                         tỉnh táo. Đâu sẽ có đó, việc gì phải vội!
        HẠNH -  Ôi dời!... Làm ăn mà cứ dềnh dàng như cánh đàn ông các anh
                         thì... chỉ có xơi tóp mỡ.
                                          ( nói vậy, nhưng vẫn lại phía bàn rót nước cho chồng )
        HẠNH -  ( tiếp ) Đây, nước mẹ pha sẵn rồi đấy, mời chàng uống! Còn
                        thuốc thì vừa đi vừa hút cũng được.
        ĐÔNG -  ( rút thuốc châm lửa hút ) Sáng nay mẹ pha trà sớm quá hay sao mà
                        nguội tanh hết cả?
        HẠNH-  Có anh ngủ dậy muộn thì có. Sáng nào mẹ chẳng pha sẵn cho
                      anh như thế!
        ĐÔNG - Thì được nghỉ phép mà lị.
        HẠNH -  Có cậu con trai, tóc đã chớm bạc rồi mà mẹ vẫn chăm như con
                       nít ! ( giọng hơi chua ) Nếu nay mai mà để cho bà đi lấy chồng
                       thì... không biết ai sẽ có thời gian mà chăm sóc cho phò mã?
        ĐÔNG -  Chỉ nói xằng. Mẹ nói chơi thế đấy, không có chuyện đó đâu!
        HẠNH -  Nói chơi à? Thế, anh có biết cái gì đây không?
        ĐÔNG -  Cái lọ hoa chứ còn cái gì?
        HẠNH -  Ai chẳng biết là cái lọ hoa, nhưng để làm gì anh có biết không?
        ĐÔNG -  Cô buôn bán nhiều quá hóa mụ mẫm. Lọ hoa thì để cắm hoa chứ
                       còn để làm gì? Cô toàn hỏi những chuyện lẩn thẩn.
        HẠNH -  Này, đây còn lâu mới lẩn thẩn nhé! Lọ hoa này chỉ để cắm hoa
                      " hồng bạch ", mà chỉ cắm độc một bông thôi!
        ĐÔNG-  Thì hồng bạch, hồng đen, hồng vàng... hoa gì mà chẳng được.
        HẠNH -  Chứng tỏ anh chẳng biết những chuyện gì đang xẩy ra trong nhà
                       này. Người đâu mà cứ như người ngoài chợ?
         ĐÔNG -  Thì trong nhà có hàng trăm việc vụn vặt, ai hơi đâu mà để ý.
        HẠNH - ( dài giọng ) vụn vặt... Đáng lý với một việc trọng đại như thế, bà
                         già phải hỏi ý kiến của anh mới đúng chứ?
        ĐÔNG -  ( ngớ ra ) Sao mẹ lại phải xin ý kiến của anh? Về việc gì?
        HẠNH -  Lại còn việc gì? Anh đúng là người rừng.
        ĐÔNG -  À... hiểu! Hiểu! Mẹ cũng có nói, nhưng chỉ sơ sơ thôi. Này, mẹ
                        thử lòng mình đấy, làm gì có chuyện đó.
        HẠNH -  Nghĩa là, nếu có chuyện đó thật thì mình nhất định
                        không đồng ý chứ?
        ĐÔNG -  Tất nhiên! Tất nhiên là không! Già sáu mươi tuổi đầu rồi,
                         ai lại tính cái chuyện đi lấy chồng. Có mà để cho thiên hạ họ
                      cười vào mũi. Mà này, thế mẹ cũng nói với cô như thế à?
        HẠNH -  Em thì là cái quái gì, chỉ là cô con dâu. Khi bà già đã muốn, em
                        có ngăn chắc bà cũng chẳng chịu nghe. Bà chỉ sợ ông con trai
                        thôi! Nhất định là mình không được đồng ý cho mẹ rời khỏi cái
                        nhà này, để theo cái ông đại tá về hưu ấy đấy!
        ĐÔNG -  Tất nhiên không đời nào.
        HẠNH -  Thế thì em hết lo rồi. Nếu như không có mẹ chăm nom công
                          việc gia đình cho mình, mới rảnh rang mà kiếm tiền. Một bà
                          mẹ già bằng ba mẫu ruộng, anh hiểu không?
        ĐÔNG -  Hiểu! Nhưng... thế chẳng hóa ra mình giữ mẹ lại, chỉ vì mình
                       tính toán ích kỷ à? Không được nói như thế, người ta sẽ chê
                       bai mình lợi dụng mẹ.
        HẠNH -  Thì vợ chồng, em nói cho mình biết thế! Mới lại, cái thời buổi
                         này mà không tính toán, thì có khối mà mở mày, mở mặt
                         lên được.
        ĐÔNG -  Biết thế. Biết thế. Nhưng vẫn phải nói cho có... nghĩa là, có vẻ
                       vẻ một tý, kẻo thiên hạ chê cười.
        HẠNH -  Mặc xác thiên hạ, nhà nào thì biết nhà ấy, việc ai người ấy lo.
        ĐÔNG -  Thôi, thôi. Có gì đâu mà cô cứ suy diễn làm cho chuyện thêm to
                        tát. Thế có đi chợ nữa hay không, để anh còn vào nhà ngủ tiếp?
        HẠNH -  Ấy chết, có chứ! Mà này, mình xem đây này? 
        ĐÔNG -  Lại còn chuyện gì nữa đấy?
        HẠNH -  ( bước tới cầm bình hoa khẽ nghiêng, ít nước rớt xuống bàn ) Cứ nhìn
                          đây thì biết! Chắc hôm nay thế nào ông ấy cũng mò đến.
        ĐÔNG -  Ông nào mò đến?
         HẠNH -  Ông Ngọc! Cái ông đại tá, người tình của bà già nhà này chứ
                        còn ông nào? Cứ sáng nào bà già đem rửa cái lọ hoa này tử tế,
                        là đến chiều về thế nào cũng đã được cắm một bông hoa hồng
                        bạch. Hừ, hai ông bà già còn lãng mạn hơn cả bọn thanh niên.
        ĐÔNG -  Có khi chỉ là chuyện tặng hoa bình thường, em cứ hay soi mói.
        HẠNH -  Có anh ít để ý thì có. Mọi việc xẩy ra ở cái nhà này, chẳng cái gì
                       lọt khỏi mắt của đứa này. Anh phải biết tình cảm của hai ông
                       bà già đã sâu sắc, thắm thiết lắm rồi đấy!
        ĐÔNG -  Thế... sâu sắc, thắm thiết đến độ nào?
        HẠNH -  Có một buổi sáng thấy mẹ cũng rửa lọ hoa như hôm nay, nửa
                      buổi chợ… em liền để cho chúng nó trông hộ hàng, chạy về nhà
                       xem thử? Quả nhiên, em bắt gặp hai ông bà già đang tình cảm
                      với nhau.
        ĐÔNG -  Cô cứ kể như là chuyện tình kiếm hiệp.
        HẠNH -  Thì còn tha thiết hơn cả kiếm hiệp ấy chứ. Hai ông bà già ngồi
                        sát vào với nhau như thế này này... Tay cầm tay, chân khoèo
                        chân. Mình chưa bắt được hai ông bà già ôm hôn nhau nữa thôi.
        ĐÔNG -  Đến thế thì quá đáng lắm. Em phải tìm cách ngăn cản lại chứ!
                        Để người ngoài biết thì còn ra cái thể thống gì?
        HẠNH -  Có anh đi mà ngăn. Mà nghe đâu, ông đại tá nhất quyết đón
                         bằng được bà già nhà ta về bên ấy với ông ta.  Mà bà già nhà
                        mình thì yêu quá mất rồi!
        ĐÔNG -  Dẫu thế, nhưng mẹ có đi đâu thì cũng phải được sự đồng ý của
                           anh! Không làm gì có chuyện đó. Nhất định anh không để
                              chuyện đó xẩy ra. Mà mẹ nói với em như thế à?
        HẠNH -  Mẹ không nói, nhưng cái Hoa con dâu ông đại tá, nó nói hết với
                        em.
        ĐÔNG -  Cô ta đến tận nhà này, gặp em để nói?
        HẠNH -  Em vẫn đưa hàng đến cơ quan của nó luôn, nên mới quen biết
                        nó. Hôm nọ, chính nó nói với em như thế! Mà ý của vợ chồng
                       chúng nó cũng không muốn để cho bà mẹ mình về bên đó đâu.
        ĐÔNG -  Về là về thế nào được! Để anh hỏi bà già cho cụ thể.
        HẠNH -  Anh phải ngăn cho bằng được đấy! Nếu để bà già mà đi lấy
                        chồng, là mình gay lắm.
        ĐÔNG -  Căn bản là giữ lấy cái danh dự, cái tư cách.
        HẠNH -  Căn bản là không có ai trông nom nhà cửa, quét dọn, rồi cả
                          chuyện rửa ấm pha trà buổi sáng cho anh.
         ĐÔNG -  Chuyện vặt, pha trà thì có thể mình pha lấy.
        HẠNH -  Lấy ai giặt giũ quần áo chăn màn? Ai cơm nước? Lại còn ai sẽ
                         đưa con Thắm đến trường mẫu giáo? Ai đón nó về? Cái việc
                         nhà, việc cửa này... ai quán xuyến để mình rảnh rang buôn
                       bán kiếm tiền?
        ĐÔNG -  Nếu chỉ có việc ấy thì... cùng lắm là thuê một con ở?
        HẠNH -  Nhưng có bà mẹ già lo vẫn hơn! Anh mà để mẹ đi lấy chồng
                       thì... có khối mà được ăn no, ngủ kỹ.
        ĐÔNG - Nhưng đã bảo là đừng có hở cái giọng như thế ra! Phải biết giữ
                      ý tứ, có người ta lại tưởng...
        HẠNH -  Chẳng có tưởng gì hết. Dứt khoát là anh không được đồng ý để
                         bà già ra khỏi cái nhà này.
        ĐÔNG -  Thì dứt khoát. Nhưng, có lẽ mình làm thế thì hơi phải tội?
        HẠNH -  Tội là tội cái gì? Còn son trẻ gì đâu...
        ĐÔNG -  Mình làm thế cũng hơi quá đáng! Nếu ông đại tá thực tình
                        thương mẹ... Mà xem ra ông đại tá ấy cũng có nhân cách đáo để
                        đấy chứ? Hai bên cùng góa: Ông ta góa vợ, mẹ mình thì góa
                        chồng, mình cố tình ngăn cách thì...
        HẠNH -  Anh thay đổi ý kiến cứ như là thay áo. Tôi đã bảo không, là nhất
                       định không.
        ĐÔNG -  Ừ, thì nhất định không!
        HẠNH -  Còn bây giờ, anh hãy lấy chiếc Dream để chở vợ anh lên chợ
                          Liên Hiệp mua vải cho khách. Ra phố , đến ngay nhà hàng bún
                         ốc nổi tiếng của bà Lý Sự kém mắt, tôi sẽ khao anh một bữa
                          ăn sáng cho thật nhòe.
                                                       ( Họ ra khuất. Bà Hồng từ cửa bước vào )
         BÀ HỒNG -  ( một mình ) Chúng nó đi cả rồi ! ( thở dài ) Chả biết nên nói với
                             các con thế nào nữa. Nhưng sao lần này ông ấy đến muộn
                            thế?
                                ( bà định vào nhà, ông Ngọc mặc bộ quân phục cũ, tay cầm ba bông hồng bạch
                                                       từ cửa bước vào )
        ÔNG NGỌC -  Kìa bà Hồng ! ( nhìn quanh ) Bọn chúng nó đi vắng cả rồi à?
        BÀ HỒNG -  Phải! Chả lẽ chúng nó phải ngồi ở nhà, chờ ông đến báo
                              cáo rồi mới được đi chắc? Gớm, sao mà hôm nay ông đến
                              sớm thế?
        ÔNG NGỌC -  Mọi khi, cứ ra ngay đầu phố đã thấy hàng hoa, tha hồ mà
                             chọn. Hôm nay...
        BÀ HỒNG -  Chắc cái người bán hoa họ cũng nghỉ phép năm như thằng
                             Đông nhà này?
         ÔNG NGỌC -  Vẫn đầy người bán hoa. Nhưng chẳng có hàng nào bán
                             hoa hồng bạch.
        BÀ HỒNG -  Thế, tay ông cầm hoa gì vậy?
        ÔNG NGỌC -  Cũng vẫn là hoa hồng bạch, nhưng phải đi mấy phố... mãi
                                mới tìm mua được mấy bông này đấy! Này, bà cắm vào lọ
                               đi.
        BÀ HỒNG - Mọi khi ông mua có một bông, lần này ông phá lệ à? Những
                              ba bông.
        ÔNG NGỌC -  Thế, bà không nhớ hôm nay là ngày gì hay sao?
        BÀ HỒNG -  Ông bảo là ngày gì?
        ÔNG NGỌC -  Nào bà đã già đến mức độ nào đâu mà lú lẫn vậy. Hôm
                              nay là ngày sinh nhật của bà, bà cũng không còn nhớ?
        BÀ HỒNG -  Thế ra ông còn nhớ cả đến ngày sinh nhật của tôi à?
        ÔNG NGỌC -  Tôi làm sao mà quên được. Ấy mới thế mà đã 5-6 chục
                               năm qua rồi nhỉ? Thoắt cái mình đã già, chẳng trách tụi
                              trẻ nó mau khôn.
        BÀ HỒNG -  Mấy năm trước không thấy lần nào ông mang hoa đến?
        ÔNG NGỌC -  Khi ông nhà còn sống thì phải giữ gìn. Sau này thì lại
                            không muốn cho con cháu nó hiểu sai về mình. Mấy năm
                             trước không phải vì tôi không muốn mang hoa đến, mà vì tôi
                           giữ ý, mới lại kỷ niệm cũ đã xa xôi quá... Trước đây tôi có biết
                           cái tình của bà giành cho tôi ra sao đâu?
        BÀ HỒNG -  Bây giờ thì ông nghĩ khác rồi phải không?
        ÔNG NGỌC -  Nghĩ khác đã lâu rồi. Cứ ngồi mà nhớ lại cái thưở bà cắp
                          sách tới trường, ngày nào tôi cũng qua nhà để gọi bà đi học.
                           Nhất là năm cuối cấp, mình cứ bàng hoàng như đánh mất một
                           cái gì lớn lắm!
                                               ( có thể có cảnh hồi tưởng lại - tùy đạo diễn )
        BÀ HỒNG -  Thưở đó sao mà đẹp thế ông nhỉ?
        ÔNG NGỌC -  Hồi trẻ bà đẹp lắm ! Tôi, tôi cũng phải mê mẩn nữa là...
        BÀ HỒNG -  Còn bây giờ chắc là tôi xấu lắm?
        ÔNG NGỌC -  Với tôi, bao giờ bà cũng là cô Hồng 16 tuổi trẻ đẹp ngày
                             xưa. Bà vẫn đẹp tuyệt!
        BÀ HỒNG -  Ông đừng có mà khéo nịnh.
        ÔNG NGỌC -  thưở ấy đến ngày sinh nhật của bà, lần nào tôi chả đem
                            tặng cho bà một bông hoa hồng bạch.
        BÀ HỒNG -  Nhưng hôm nay ông lại đem đến những ba bông? 
        ÔNG NGỌC -  Nghĩa là ta phải sống gấp ba lần, bù lại những ngày ta xa
                              nhau, ta mất mát... bà hiểu không?
         BÀ HỒNG -  Ông chỉ nói gở. Đấy là cái duyên, cái số chưa được gần
                          nhau. Nhưng rồi ông có vợ, tôi cũng có chồng, ai có phận
                         người đó !
        ÔNG NGỌC -  Thì hôm nay cái duyên, cái phận chả đến với tôi và bà rồi
                            còn gì. Này, nhưng sao bà không bảo vợ chồng thằng Đông
                            nó làm một chút gì đó, dù không to tát, nhưng cũng gọi là để
                            kỷ niệm ngày sinh nhật của mẹ?
        BÀ HỒNG -  Có ông nhớ chứ con cái chúng nó nhớ gì đến ngày sinh nhật
                           của mẹ? Cũng chỉ âm thầm vậy thôi, ông ạ!
        ÔNG NGỌC -  Ấy thế mà ngày sinh nhật của con cái chúng nó, thì chúng
                            nó cứ tổ chức linh đình như là ngày cưới. ( thở dài ) Mình cũng
                            chẳng tỵ nạnh với các cháu, nhưng con cái ngày nay đối với
                           bố mẹ...
        BÀ HỒNG -  Cũng chả trách chúng nó làm gì.
        ÔNG NGỌC -  Bà nói đúng. Mình chăm sóc con cái, chứ mong chi chúng
                            chăm sóc lại mình? ( ngập ngừng ) Ta thương nhau, chăm sóc
                          lấy nhau vậy bà ạ!
        BÀ HỒNG -  Nhưng ông ngồi ra xa một tý... xa thêm tý nữa, kẻo người ta
                        cười chết!
        ÔNG NGỌC -  Ai cười? Chỉ có tôi với bà, ai biết mà cười.
        BÀ HỒNG - Nhưng ông cũng chưa được phép làm như thế! Ông... ông là
                           ông chỉ vội.
        ÔNG NGỌC - Tôi đã chờ cái ngày này lâu quá rồi! Bây giờ thì bà đã là
                          của tôi.
        BÀ HỒNG - Ai đã là của ông? Rõ dơ! Ông thế này, nhỡ tụi trẻ nó về thì
                           ngượng mặt.
        ÔNG NGỌC -  Thế thì sang tháng, tới giờ lành tháng tốt, tôi sẽ đón bà về
                           bên đó sống với tôi. Khi đó ta tha hồ thoải mái...
        BÀ HỒNG -  Chết…tháng tới thì mau quá, chưa được. Còn chán thời
                            gian, việc gì phải gấp.
        ÔNG NGỌC -  Ta mà không gấp thì già quá mất, bà ạ!
        BÀ HỒNG -  Già thì cũng già rồi. Tôi với ông về với nhau chẳng qua là
                            thương nhau, để chăm sóc, đỡ đần nhau. Có... Có phải giống
                            như tụi trẻ đâu nào?
        ÔNG NGỌC -  Đành thế! Nhưng tình cảm của tôi và bà có thua gì chúng
                            nó đâu?
        BÀ HỒNG -  Ông nhẹ nhẹ cái tay một tý... Tôi nói cho ông biết, còn là
                            nhiều vướng mắc lắm đấy!
         ÔNG NGỌC - Vướng mắc cái gì? Vướng gì thì nhất định tôi cũng lấy bà!
                           Em nhất định sẽ là vợ anh!
        BÀ HỒNG -  ( kêu ) Giời ơi! Ông cứ thế này thì... Ông bỏ tay ra!
        ÔNG NGỌC -  Sao bà... bà không anh em một tý cho nó tình cảm? Chả lẽ
                          em không muốn...
        BÀ HỒNG -  Không phải là không muốn, nhưng các con chúng nó chưa
                           nghe! Mới lại, tôi thấy nó ngượng ngượng thế nào ấy?
        ÔNG NGỌC -  Việc gì mà phải ngượng. Tôi còn yêu em hơn cả ngày xưa
                             ấy chứ!
        BÀ HỒNG -  Hồi trẻ khác. Bây giờ chẳng hóa ra mình cưa sừng làm nghé
                               à?
        ÔNG NGỌC -  Mặc kệ đời, miễn là ta thương nhau.
        BÀ HỒNG -  Ông cũng mãnh liệt vừa vừa chứ ! Già gần 70 mươi tuổi đầu
                                rồi mà...
        ÔNG NGỌC -  Còn kém 5 tháng nữa tôi mới đầy 66 tuổi !
        BÀ HỒNG -  Thì 66 cũng là gần 70.
        ÔNG NGỌC - Chưa đến 66.
        BÀ HỒNG -  Thì chưa đến 66. Nhưng ông nhớ: lúc đông người giữ lấy
                          cái mồm, cái miệng... đừng có quen cứ anh anh em em ngọt xớt
                         như thế?
        ÔNG NGỌC -  Bà không phải dậy. Nhưng nhất định là bà phải về sống
                         với tôi đấy!
        BÀ HỒNG -  Nhưng... nhỡ chúng nó không đồng ý thật?
        ÔNG NGỌC - Đến bây giờ mà bà vẫn loanh quanh như thế thì hỏng!
                         Hỏng rồi! Không được, chúng nó không đồng ý cũng không
                         được. Có tôi bà lo gì? Tôi sẽ chăm sóc bà suốt đời.
        BÀ HỒNG -  Thế cũng không được. Chúng là con trai, con dâu tôi, tôi
                          làm sao có thể...
        ÔNG NGỌC -  Nghĩa là bà không thương tôi?
        BÀ HỒNG -  Không phải thế đâu ông ạ! Ông nghĩ về tôi như thế phải tội,
                          tôi khóc lên đây này...
        ÔNG NGỌC -  Thôi em lau nước mắt đi! Ta sẽ bàn nhau... mà tìm cách
                            vậy.
        BÀ HỒNG -  Còn anh chị bên nhà, đã chấp thuận để tôi về bên ấy với ông
                              à?
        ÔNG NGỌC -  Với tôi thì chúng nó không dám cãi. Tôi đã tuyên bố với
                             chúng nó, là sẽ đón bà về ở với tôi. Nhà ở cũng là tiêu chuẩn
                              của tôi! Với cái lương đại tá của tôi thì, cả bà và tôi ăn tiêu
                              cũng chưa hết! Không phải nhờ vả đến chúng.
          BÀ HỒNG -  Như thế cũng chưa được ông ạ! Cuộc sống còn nhiều vấn
                              đề lắm, mình làm sao bỏ qua được các con?
                                ( lúc này, ông Đức - Em trai bà Hồng bước vào )
        ÔNG ĐỨC -  Chào anh! Chào chị! Hôm nay bác Ngọc rảnh rang lại
                               sang thăm chị Hồng em?
        ÔNG NGỌC -  Tôi thì rảnh rang cho tới lúc vào sáu tấm ấy chứ? Hưu trí
                               mà lỵ.
        BÀ HỒNG -  Hôm nay cậu Đức không phải lên lớp dậy học à?
        ÔNG ĐỨC -  Hôm nay em không có tiết dậy ở trường, tranh thủ sang
                              thăm chị và các cháu. ( lại gần lọ hoa )Nhìn thấy mấy bông hoa
                             hồng bạch này, em đoán ngay là bác Ngọc tặng chị.
        ÔNG NGỌC -  Thấy tôi ở đây nên chú đoán mò chứ gì?
        ÔNG ĐỨC -  Bác vẫn còn giữ thói quen của những kỷ niệm ngày xưa!
        BÀ HỒNG -  Cả cậu cũng vẫn còn nhớ những kỷ niệm ấy đến thế cơ à?
        ÔNG ĐỨC -  Chả có kỷ niệm nào là em quên. Hồi ấy anh chị vẫn còn
                       đang đi học với nhau, cứ vào ngày này, là các bạn trai, bạn gái
                        của chị lại kéo đến đầy nhà... để chúc mừng sinh nhật của chị,
                      vui tới nửa đêm. Mà anh Ngọc là người em có nhiều thiện cảm
                        nhất.
        ÔNG NGỌC -  Vì thế nên hôm nay chú cũng đến để chúc mừng sinh nhật
                          của chị Hồng chứ gì?
        ÔNG ĐỨC -  Em mang cả quà sinh nhật cho chị Hồng đây này.
                              ( Ông Đức lấy ra một tấm vải may áo quàng lên vai bà Hồng )
        BÀ HỒNG -  Vải đẹp quá! Nhưng với chị thì hơi trẻ, vải này chỉ để may
                          áo cưới là hợp.
        ÔNG ĐỨC -  Thì em cũng mục đích tặng chị để may đồ cưới mà lỵ.
        BÀ HỒNG -  Cưới!... Cưới!... Cậu nói quàng, nói ghép, làm chị ngượng
                           chín cả mặt.
        ÔNG ĐỨC -  Cháu Hạnh sang nhà em, nó kể cho vợ chồng em nghe hết
                           rồi. Chuyện của anh, của chị...
        BÀ HỒNG -  Bằng này tuổi đầu lại còn tính chuyện cưới xin? Cậu nói thế
                             mà thiên hạ nghe được, họ đồn đại thì chị chỉ còn nước chui
                          xuống đất.
        ÔNG NGỌC -  Dẫu không cưới xin, nhưng tôi cũng sẽ làm mâm cơm để
                         đón bà ấy về bên nhà sống với tôi đấy chú ạ ! Ý chú Đức thấy
                            thế nào? 
          BÀ HỒNG -  (gạt đi ) Đã có chuyện gì đâu nào.
        ÔNG NGỌC -  Chú ấy đã biết rồi, bà còn dấu diếm làm gì? Cứ nói toạc
                              ra để xem ý kiến chú Đức thế nào?
          ÔNG ĐỨC -  Nếu anh chị có ý định như thế thì tốt quá đi ấy chứ! Em là
                               em tán thành cả hai tay.
        ÔNG NGỌC -  Bà thấy chưa? Chú Đức đã nói như vậy, việc gì bà còn
                            phải phân vân.
        ÔNG ĐỨC -  Thời đại văn minh, tân tiến. Không cần phải thủ cựu, e dè
                          như chị. Cốt yếu là lo cho cuộc sống của chính mình được
                            yên ả, tốt đẹp chị ạ!
        ÔNG NGỌC -  Chị của chú còn thiếu cứng rắn lắm!
        ÔNG ĐỨC -  Tuy chị đã nghỉ hưu, nhưng cũng đã là một nhà giáo nhiều
                        năm, tư tưởng của chị cần phải cách mạng, cần phải tư duy mới.
        ÔNG NGỌC -  Là nhà giáo có khác! Chú nói chí lý, chí lý, sâu sắc lắm.
        ÔNG ĐỨC -  (cười ) Thì em bắt đúng vào tim đen của anh rồi còn gì?
        ÔNG NGỌC -  Nói thật với chú Đức: Mấy năm trước, tôi tuy vẫn đi lại
                                bên này để trò chuyện, thăm hỏi bà ấy... Nhưng tôi chưa
                            nghĩ đến việc này. Tất nhiên, về tình cảm tôi vẫn mến chị của
                            chú từ hồi còn trẻ. Nhưng thời gian qua, tôi thấy mấy đứa
                           bên này nó tận dụng bà mẹ già quá đáng quá! Bà ấy cặm cụi
                           làm suốt ngày chẳng khác gì con ở. Bà ấy cũng nên về ở với
                           tôi mà hưởng một chút sung sướng lúc tuổi già?
        ÔNG ĐỨC -  Được bác mà nghĩ cho chị em như thế, em cũng thấy yên
                         tâm.
        BÀ HỒNG -  ( với ông Đức ) Thế ý của cháu Hạnh lúc nói chuyện với cậu
                         mợ, nó cũng nhất trí như thế à?
        ÔNG ĐỨC -  Em nói thật nhé ! Xem ý tình... thì cả hai vợ chồng nó
                         không muốn để chị về sống với anh Ngọc đâu?
        ÔNG NGỌC -  Chúng nó không muốn cũng không được.
        BÀ HỒNG -  Thế thì... chưa thể quyết định như ông nghĩ được đâu? Với
                          lại...
        ÔNG NGỌC -  Bà còn với lại... với liếc gì nữa, bà nhiều lý do quá!
        BÀ HỒNG -  Ơ hay, thì ông cũng phải để cho tôi nói chứ! Chưa về
                          với ông mà ông đã " cả vú lấp miệng em " như thế, giá chừng
                           mai sau tôi về thật, có khi ông ăn thịt tôi chắc?
        ÔNG NGỌC -  Phải chờ đến mai sau, thì có mà rụng hết răng... bà ạ!
        BÀ HỒNG -  Rụng hết răng thì thôi.
        ÔNG ĐỨC -  ( dàn hòa ) Thì anh Ngọc đã nói gì với chị quá đáng đâu nào!
                           Nào, bây giờ chị nói đi: Ý của chị thế nào?
        BÀ HỒNG -  Lại còn cháu Thắm , con gái của vợ chồng thằng Đông nữa
                        cậu ạ ! Cháu nó còn bé quá, mà nó quyến bà nó lắm! Tôi mà
                       sang ở với ông ấy bên đó, thì ai chăm sóc nó? Lòng chị
                       không đành.
         ÔNG NGỌC -  Thì có ai cấm bà đi lại bên này để thăm nom cháu đâu?
        BÀ HỒNG -  Nhưng...
        ÔNG ĐỨC -  Em nghĩ chị cần phải lo cho cái thân của chị. Cháu thắm
                      còn có bố mẹ nó . Chị già rồi, cuộc đời cũng không sung sướng
                       gì, nên nghĩ một chút cho mình chị ạ! 
        ÔNG NGỌC -  Đấy, chị của chú suốt đời cứ nghĩ lẩn quẩn như thế đấy!
        ÔNG ĐỨC -  Thực ra, thì tình ý của chị em... cũng không phải là không
                           muốn về sống với anh, nhưng chị ấy còn e ngại đấy thôi!
        ÔNG NGỌC -  Tôi là tôi... chỉ muốn chăm sóc cho bà ấy đỡ khổ.
        BÀ HỒNG -  Có tôi chăm sóc, hầu hạ ông thì có! Chưa chi đã ra vẻ?...
        ÔNG ĐỨC -  Thì hai anh chị đều chăm sóc cho nhau. Em có đề nghị thế
                            này…
        ÔNG NGỌC -  Chú nói nghe xem nào?
        BÀ HỒNG -  Nhưng nếu không hợp với tôi, thì dứt khoát tôi không chịu.
        ÔNG NGỌC -  Thì bà cứ để yên nghe chú ấy nói, xem nào?
        ÔNG ĐỨC -  ( với ông Ngọc ) Vấn đề này cũng hết sức tế nhị! Bốp chát quá
                            như anh, có khi hỏng việc.
        ÔNG NGỌC -  Nhưng nếu con cái chúng nó cứ nhất quyết không đồng ý
                             thì sao? Ta chịu à?
        ÔNG ĐỨC -  Anh cứ yên tâm. Nhưng bây giờ, theo em thì anh cứ tạm lui
                              gót về nhà, em sẽ tìm cách khuyên nhủ các cháu.
        ÔNG NGỌC -  Thôi được... tùy chú! Nhưng dù sao thì mình quyết định,
                              vẫn cứ phải là chính.
        ÔNG ĐỨC -  Em biết rồi, anh cứ yên tâm như thế nhé!
        BÀ HỒNG -  ( với ông Ngọc ) Ông làm cứ như ai cũng như ông ấy?
        ÔNG NGỌC -  Cả như bà thì... chẳng bao giờ làm được việc gì.
        BÀ HỒNG -  Chỉ có thế thôi! Ông không cần thì thôi!
        ÔNG ĐỨC -  Thôi! Hai bác cứ để mọi việc em sẽ liệu liệu lo cho
                     chuyện được êm. Em tin là  mọi việc rồi cũng sẽ xong thôi! Kìa,
                    hình như chúng nó về đấy. Bác Ngọc về bên nhà đi, có bác ở đây...
                     thêm khó nói chuyện.
        ÔNG NGỌC -  Chú nhớ qua nhà báo cho tôi biết tin!
        ÔNG ĐỨC -  Xong việc, em sẽ chạy sang nhà bác ngay.
                                     ( Ông Ngọc ra khuất )
        ÔNG ĐỨC - ( với bà Hồng ) Hai chị em mình cũng vào nhà trong đi! Em
                      phải bàn bạc với chị trước, rồi sẽ tìm cách nói chuyện với chúng
                      nó sau.
                               ( Nói xong, ông Đức và bà Hồng bước vào nhà trong. Lúc này: Hạnh
                            với Hoa - Cô con dâu ông Ngọc, từ ngoài phố đi vào ) 
        HOA -  Chị Hạnh này, em thoáng thấy có ông nào từ đây đi ra, trông cứ
                        hao hao như bố chồng nhà em ấy?
        HẠNH -  Chả ông bố chồng nhà cô thì nhà ai vào đây, ( lại gần lọ hoa ) Cứ
                       nhìn mấy bông hồng bạch này là tôi biết ngay!
        HOA -  Bố chồng nhà em thích hoa hồng bạch lắm hả chị? Thế mà chả
                      bao giờ em thấy ông mua hoa hồng bạch mang về nhà.
        HẠNH -  Không phải là ông thích hoa hồng bạch, mà là bà thích hoa hồng
                      bạch. Ông mua để tặng bà! Sáng nay tôi thấy bà già rửa lọ
                    hoa sớm lắm, tôi đoán ra ngay! Y như rằng...
        HOA -  Tình cảm của ông bà già còn tươi trẻ thật đấy!
        HẠNH -  Cái mốt bây giờ là ông bà già thì thích hoa hồng bạch, thích
                     chuyện tình ái, gió trăng... Còn bọn trẻ thì, cơ bản là thích nhiều
                     tiền.
        HOA -  Nhưng tình cũng quan trọng lắm chứ chị!
        HẠNH -  Quan trọng thì vẫn cứ phải là có nhiều tiền. Không có tiền thì tất
                    cả đều hết quan trọng! Thế, hôm nay cô Hoa cũng nghỉ
                     phép à?
        HOA - Em quyết định xin nghỉ hẳn một ngày làm việc, để ra chợ tìm gặp
                     chị.
        HẠNH -  May cô đấy, đến sớm một tý nữa thì không gặp. Tôi và anh ấy
                       vừa xuống chợ Liên Hiệp mua ít hàng, tôi về đến đây thì gặp
                      cô.
        HOA -  Anh ấy đi đâu rồi hả chị?
        HẠNH -  Còn tạt vào quán bia, chắc cũng chỉ tý nữa là về. Cô Hoa tìm
                      gặp tôi chắc có chuyện hệ trọng?
        HOA -  Thì vẫn là chuyện…em và chị đã trao đổi mấy bữa trước đấy!
        HẠNH -  Nhưng lần này thì cấp bách lắm rồi phải không?
        HOA -  Hôm qua ông bố chồng em đã tuyên bố: sẽ đón bà già bên này về
                      bên em ở hẳn. Nghĩa là ông bà già nhất quyết sẽ lấy nhau đấy
                    chị ạ!
        HẠNH -  Sao hai cô chú bên đó không tìm cách ngăn ông ấy lại?
        HOA -  Ồi, ông bố chồng em mà đã nói... thì ai mà dám ngăn.
        HẠNH -  Thì cứ không đồng ý cho ông già lấy vợ nữa là xong?
        HOA - ( Lắc đầu ) Không đồng ý cũng không được đâu, nếu ông mà lại nổi
                      cáu lên thì...
        HẠNH -  Ông ấy ghê đến thế kia à?
        HOA-  Đối xử không cẩn thận, ông già lại chẳng tống cả vợ chồng em ra
                     khỏi nhà ấy chứ!
        HẠNH -  Ông ấy cũng to đấy nhỉ?
         HOA -  Cấp bậc đại tá cơ mà chị.
        HẠNH -  Cấp bậc nào thì cũng mặc ông ấy, tôi quan tâm làm gì. Tôi nói
                     to, là nói đến cái quyền hành của ông ấy trong gia đình?
        HOA - Nhưng cấp chức quan trọng lắm, cấp càng cao thì lương bổng lại
                    càng cao!
        HẠNH -  À, thì ra thế !Với cái lương đại tá về hưu, hàng tháng thế nào
                       mà ông bố chồng lại chả cho vợ chồng cô được ít nhiều?
        HOA -  Ông chỉ giữ lại một ít để tiêu, còn thì đưa cho vợ chồng em tất.
        HẠNH -  Và một khi bà già bên này đã về với ông già bên ấy, thì ắt vợ
                    chồng cô cũng phải mất teo cái xuất trợ cấp hậu hĩnh ấy của ông
                    già?
        HOA -  Thì chị tính, nếu ông già đã có bà già thì... vợ chồng em còn sơ
                     múi gì? Lương tháng của ông già, bà già lại không quản hết ấy
                      chứ! Mà vợ chồng em đều là cán bộ, nhân viên nhà nước... khoản
                   tiền đỡ hàng tháng của bố chồng em quan trọng lắm !
        HẠNH -  Cũng biết tính toán đáo để đấy chứ!
        HOA -  Chị bảo, cuộc sống này mà không tính toán thì chết.
        HẠNH -  Cái ăn đã đành lại còn chỗ ở? Nghe nói, hiện nay nhờ có tiêu
                     chuẩn của ông già: Vợ chồng cô được một cơ ngơi ở rộng rãi
                       lắm?
        HOA -  Thêm một bà già coi như thêm một hộ khẩu: Thế nào ông già
                      cũng cắt mất của bọn em một phòng! Thật là...
        HẠNH -  nghĩa là vợ chồng cô cũng nhất trí là kiên quyết không để cho
                      hai ông bà già lấy nhau?
        HOA -  Nhưng bọn em chả dám nói với bố chồng em như thế đâu! Đang
                      sống thoải mái, tự nhiên lại phải rước thêm một bà mẹ chồng...
        HẠNH -  Thế tôi thì sao? Tôi chả đang sống trong cảnh con dâu mẹ chồng
                      là gì! Sao tôi vẫn thoải mái?
        HOA -  Chị khác, ông cụ nhà ta không còn, thì có một bà mẹ già như nhà
                       chị hóa ra lại càng có lợi, có người đỡ đần việc nhà, việc
                       cửa... rảnh rang mà làm ăn. Thế chả tốt hơn à? Đằng này...
        HẠNH -  Nghĩa là: ta tìm cách ngăn không cho hai ông bà già lấy nhau.
                     Người nào cứ ở nguyên vị trí của người ấy, thì cả tôi và cô đều
                    có lợi?
        HOA -  Chị nói rất hợp ý em ! Thế em mới phải sang để bàn với chị.
        HẠNH -  Nhưng vợ chồng cô là có lợi hơn vợ chồng tôi đấy nhé !
        HOA -  Em biết tỏng đi rồi, chị tính toán cũng vào loại siêu! Thế nhá,
                       chị em mình cứ thống nhất với nhau như thế nhá? Anh chị kiên
                       quyết không cho bà già về bên em là xong.
                      ( Đông đã về từ trước... nhưng cứ im lặng nghe chuyện của hai người phụ
                         nữ, lúc này mới bước tới )
        ĐÔNG -  ( với Hoa ) Vợ chồng tôi không đồng ý  để mẹ tôi sang nhà cô ở
                       với ông bố chồng cô, nhưng không phải theo cái kiểu tính
                        toán ích kỷ của cô!
        HOA -  Dạ, anh về! Anh về từ lúc nào mà chúng em không hay biết?
        ĐÔNG -  Cô cần phải có những ý nghĩ cho đúng đắn với các bậc cha, mẹ
                      mình?
        HOA -  Ông anh ăn nói có vẻ đạo lý gớm nhỉ?
        ĐÔNG - Cái thói con dâu mà chỉ tính toán có lợi cho mình thì vứt đi!
                        Này, tôi nói cho cô biết: Sở dĩ tôi không muốn để cho mẹ tôi đi
                      lấy chồng thêm một lần nữa, là vì phải giữ lấy cái nề, cái nếp của
                        một gia đình có gia giáo. Với lại, cũng không muốn mẹ tôi
                      sang đó sẽ phải khổ hơn ...
        HOA -  Em tưởng, bà mẹ anh mà vớ được một người như ông bố chồng
                      của em, thì lại không sướng quá đi ấy chứ? Bằng chuột sa
                        chĩnh gạo!
        ĐÔNG -  Nghĩa là, cô khinh vợ chồng tôi không nuôi nổi mẹ già, nên
                        mới đẩy đi phải không? Cô, cô không được phép... 
        HOA -  Em chỉ nói sự thật.
        ĐÔNG -  Sự thật là vợ chồng cô tính toán, ích kỷ bản thân.
        HOA -  Thế dễ vợ chồng anh thì không tính toán với bà mẹ già của mình?
        HẠNH -  Ai cũng tính toán. Nhưng cách tính toán của vợ chồng tôi nó
                       hợp lý , hợp tình. Còn cô, căn bản chỉ là cầu lợi cho bản thân.
        HOA - ( cười to ) Nghe cả hai anh chị nói sao mà tử tế tệ!
        ĐÔNG -  Cô cười cái gì? Mẹ tôi không thể sang đấy ở với thứ con dâu
                     như cô. Tôi sẽ không để cho cô lợi dụng, hành hạ bà già!
        HOA -  Sao nghe nói ở nhà này bà già làm cũng tối mày, tối mặt?
        HẠNH -  Đấy không phải là phận sự của cô, cô đừng có chõ vào nhà
                       người ta.
        HOA -  Bà già ở với chị cũng quá bằng con ở!
        HẠNH -  Có về bên cô mới là con ở thì có.
        HOA -  Ở với anh chị là con ở.
        HẠNH -  Ở với vợ chồng cô là con ở.
        HOA -  Ở với chị, với anh! Với chị, với anh!
        HẠNH -  Có với cô, với cô thì có!
        ĐÔNG -  Có im mồm tất cả đi không nào?
        HẠNH -  Đấy, anh xem: nó nói mới thật buồn cười?
         HOA -  Có chị buồn cười thì có. Anh cũng buồn cười thì có. Người ta đến
                   nói chuyện hẳn hoi...
        HẠNH -  Cô dám nói vợ chồng tôi không phải là hạng người hẳn hoi hả?
                       Này, đây nói cho mà biết...
        HOA -  Thì đây cũng bảo cho mà biết đấy! Này, hiền thì hiền đấy, nhưng
                   nếu bắt nạt đây là không xong đâu. Ra cái vẻ...
        HẠNH -  Cô bảo ai ra vẻ?
        HOA -  Tôi bảo chị, tôi bảo anh!
        HẠNH -  Có cái nhà cô ra vẻ thì có.
        HOA -  Nhà chị!
        HẠNH -  Nhà cô!
        HOA -  Nhà chị, nhà anh, nhà chị, nhà anh...
        ĐÔNG -  Thôi! Thôi!...Tôi xin lép vế với cả hai bà rồi!
        HẠNH -  ( tức tối ) Nói cho mà biết: Nhà này có bớt đi một người, sẽ lại
                      càng rộng lên. Bên đấy, mà thêm một người sẽ phải chật chội đi.
        HOA -  Đã thế thì tôi cũng nói cho chị biết: Có một bà mẹ chồng chịu
                      thương, chịu khó như bà già nhà chị - nếu sang nhà tôi, vợ chồng
                      tôi sẽ càng được nhờ, càng nhàn.
        HẠNH -  Này, đừng có mà cái thói định ăn dưng, ăn không như thế? Bà
                      già nhà tôi có sang đó, là để ở với ông già bên đó, chứ không
                       phải là để hầu hạ hai cô, cậu? Đừng có mà lợi dụng!
        HOA -  Chúng tôi không lợi dụng.
        HẠNH -  Như thế là lợi dụng !
        HOA -  Có chị lợi dụng thì có.
        HẠNH -  Vợ chồng cô lợi dụng.
        HOA -  Anh chị lợi dụng.
        ĐÔNG -  Thôi, thôi, thôi... Hai bà im đi! Im ngay đi! Trời ơi, thế này thì
                      tôi phát điên lên mất! Nhà cô kia, đi đi! Về đi!...
        HOA -  Đây cũng không thèm ở với cái thá nhà anh, nhà chị nữa! ( định ra ).
        HẠNH -  ( nói theo ) Đã thế thì đây không để cho bà già sang bên ấy nữa,
                       xem cô làm được cái gì?
       HOA -  Nhưng ông già nhà tôi cứ lấy bà già về bên tôi, thì chị ngăn được
                    à?
        HẠNH -  Nhất định là tôi sẽ không cho bà già nhà tôi sang bên đó đấy!
        HOA - Tôi cam đoan là có!
        HẠNH -  Nhất định không!
        HOA -  Có. Nhất định có! Thế nào cũng có!...
                          ( Hoa vùng vằng rồi đi ra khỏi nhà )
         HẠNH -  Xéo đi cho rảnh mắt !
                          ( chỉ còn lại hai vợ chồng Đông )
        ĐÔNG -  ( thở dài ) Hôm nay là cái ngày gì mà xui xẻo thế không biết?
        HẠNH -  Thì cũng tại anh! Người ta với nó đã ăn dơ với nhau rồi... câu
                      chuyện đã xong xuôi đâu đấy, êm ru... Ở đâu về, lý thuyết hão?
        ĐÔNG -  Tôi cũng xin cả cô! Vâng, tôi lý thuyết! Nhưng có bà nào tử tế
                          hơn bà nào đâu cơ chứ?
                         ( Lúc này ông Đức từ trong nhà đi ra )
        ÔNG ĐỨC -  ( chỉ vào buồng ) Mẹ các cháu đang nằm khóc trong nhà ấy!
        ĐÔNG -  Cậu đến lúc nào mà chúng cháu không biết?
        ÔNG ĐỨC -  Các cháu không bắc ngay cái loa phóng thanh mà thông báo
                        cho cả phố biết? Cậu và mẹ các cháu ở nhà trong, nghe tiếng
                         các cháu cãi nhau mà thấy xót xa.
        ĐÔNG -  Cô đã thấy tai hại chưa?
        HẠNH -  Thôi đi ông! Lại còn chì chiết người ta.
        ĐÔNG -  Nếu cậu đã biết, nhân tiện có cậu ở đây cháu cũng xin hỏi ý kiến
                       cho nó quang minh, chính đại. Theo ý cậu: Nên giải quyết
                       việc của mẹ cháu với ông đại tá về hưu ấy thế nào ạ?
        ÔNG ĐỨC -  ( thở dài ) Còn như thế nào nữa? Cứ cái cảnh vừa diễn ra trong
                        cái nhà này, thì đến cậu cũng chẳng biết nên nói như thế nào?
        ĐÔNG -  Chúng cháu cũng biết chúng cháu có tội!
        HẠNH -  Nhưng cái con Hoa ấy nó tội nhiều hơn! Tự nhiên nó...
        ĐÔNG -  Cô không bớt mồm, bớt miệng đi một tý, thì sợ bị thiệt à?
        HẠNH -  Nhưng không nói, ruột tôi nó tức anh ách.
        ÔNG ĐỨC -  Các cháu có biết hôm nay là ngày gì không?
        HẠNH -  ( nhanh nhảu ) Dạ, thưa cậu: Hôm nay là ngày thứ 5 ạ ! Thế nào,
                     trên vô tuyến tối nay cũng có chương trình thể thao bóng đá
                    quốc tế, trích đoạn. Cháu biết cậu mê xem bóng đá lắm!
        ĐÔNG -  Hay là, Tối nay cậu ở đây xem bóng đá với vợ chồng cháu?
        ÔNG ĐỨC -  Nhà cậu không có vô tuyến truyền hình chắc?
        ĐÔNG -  Cháu biết cậu vừa sắm cái JVC mới cứng!
        HẠNH -  Chiều nay cháu sẽ làm một bữa ra trò thết cậu?
        ÔNG ĐỨC -  Còn bụng dạ nào mà tiệc với tùng hả cháu? Hôm nay là
                  ngày sinh nhật của mẹ cháu, mà không đứa nào quan tâm đến mẹ
                      cả?
        ĐÔNG -  Thế mà mẹ cháu cấm nói cho chúng cháu biết! Nếu biết,
                   cháu đã làm một bữa thật thịnh soạn để mời cả họ hàng.
         ÔNG ĐỨC -  Thế đấy! Các cháu đã chúc mừng ngày sinh nhật
                       của mẹ , bằng một câu chuyện... không khác gì của bọn bán
                   tôm tép ngoài chợ?
                                       ( bà Hồng từ nhà trong thất thểu đi ra )
        BÀ HỒNG -  Các con ơi! Các con không cầm ngay con dao đâm cho mẹ
                            một nhát vào cổ, có khi còn dễ chịu hơn?
                         ( trong lúc tất cả đang sững sờ không biết nên xử trí thế nào? Thì ông
                           Ngọc ôm một bó hoa hồng bạch to tướng, hớn hở từ ngoài phố đi vào ) 
       ÔNG NGỌC -  ( không để ý tới mọi người ) Bà Hồng ơi, hoa hồng bạch chính
                        cống đây! May quá, vừa đi đến cuối phố tôi gặp ngay một chị
                        bán hoa, mà toàn hoa hồng bạch Đà Lạt. Thế là tôi mua hết ráo
                        để mang về cho bà. Loại này là quí lắm!
                                     ( lúc này ông mới để ý đến mọi người )
                         Hình như vừa có chuyện gì xẩy ra ở đây ? Tại sao mọi người                                lại...                                              
        BÀ HỒNG -  Còn hoa Đà Lạt với chả Đa Lát làm gì nữa hả ông?                                                   Thôi số của ông, của tôi nó như thế, thay đổi làm gì nữa cho đau                      lòng.                        
        ÔNG NGỌC -  Nhưng xẩy ra chuyện gì mới được chứ ?
                                             ( quay về phía ông Đức )
                                 Sao lúc nẫy chú nói sẽ dàn xếp mọi việc êm xuôi ?
        ÔNG ĐỨC -  Nào, em đã nói được chuyện gì đâu!
        ÔNG NGỌC -  Thế thì tại sao mặt người nào cũng như đưa đám cả thế                       này                                                                                                                                                   ÔNG ĐỨC -  Cô Hoa: cô con dâu của anh vừa sang đây... vừa cãi lộn                         nhau với vợ chồng các cháu nhà này ? Làm cho....
        ĐÔNG -  Cậu cứ nói ! Cháu có tư cách hẳn hoi, chứ đâu có đi cãi nhau                               với con bé ấy ?
        HẠNH -  Có cô con dâu nhà ông sang đây quấy rối nhà tôi thì có ?
        ÔNG NGỌC -  ( quay về phía bà Hồng ) Nghĩa là chúng nó đã cãi nhau về việc                      của tôi và bà?
        HẠNH -  Nhưng không phải do tôi!
        ĐÔNG -  ( can vợ ) Cô cũng đừng nên nói xen vào nữa thì hơn!
        ÔNG ĐỨC -  Dù sao thì các cháu cũng tính toán ích kỷ quá! Chẳng đứa                     nào để ý quan tâm, chăm sóc đến mẹ già.
        ĐÔNG -  Cậu cứ nói...
        ÔNG NGỌC -  Tôi hiểu cả rồi! Bà cầm lấy bó hoa ( đưa  bó hoa cho bà Hồng ),                      để tôi về cho con Hoa một trận!
                       ( vừa lúc đó Hoa hớt hải từ ngoài phố bước vào )
          HOA -  Ba... con đi qua phố thoáng nhìn thấy ba mua hoa, con quay lại                       gọi, nhưng ba đi nhanh quá con không theo kịp. ( lưỡng lự giây lát )
                      Ta về nhà đi ba!
        ÔNG NGỌC -  ( quắc mắt ) Cô về nói với chồng cô: Thu dọn ngay đồ đạc,                       quần áo ở phòng trên... dọn hết xuống căn phòng cuối cùng.
                        Tôi chỉ cho hai anh chị một căn phòng ấy thôi! Từ nay tôi sẽ ăn                             riêng, không liên luỵ gì đến anh chị nữa?
        HOA -  ( sợ hãi ) Dạ, nhưng sao thế ạ?
        ÔNG NGỌC -  Không sao với giăng gì cả. Về ngay! Cô đi về ngay nhà,                       đừng làm cho ba nóng mắt!
        HOA -  Dạ, con về. Con sẽ bảo nhà con như lời ba nói, nhưng...
        ÔNG NGỌC -  Có về ngay không nào?
        HOA -  Vâng, con về ngay đây ạ!
               ( Hoa bước ra khỏi nhà... miệng lẩm bẩm nói lúng búng gì đó, vẻ không vui )
        ÔNG NGỌC -  ( nói theo) Nhớ là phải dọn ngay hết ở phòng trên xuống                          phòng dưới, anh chị được hưởng như thế là đã quá tốt rồi!
                                                 (  Rồi ông quay lại nói với bà Hồng )
                       Bà cũng ở đây chờ tôi! Tôi phải về nhà cho chúng nó một trận.                              không được, ta không thể chịu thua chúng nó được!
                                                 ( ông định đi )
        BÀ HỒNG -  ( ngăn lại ) Ông đừng nóng tính mà xử sự với các con khắc                         nghiệt thế! Trẻ cậy cha, già cậy con. Mai đây ông ốm đau, chúng
                      nó oán trách ông, nó bỏ mặc ông thì khổ thân, ông ạ!
        ÔNG NGỌC -  Thì tôi và bà chăm sóc cho nhau, không cần chúng nó.
        BÀ HỒNG -  ( lắc đầu )........
        ÔNG ĐỨC -  ( cũng ngăn ông Ngọc ) Anh đừng làm thế! Quyền lợi cả nhà cửa                       và tiền bạc của anh... trước sau cũng chỉ để cho con cái. Khi
                       còn trẻ, còn sức thì chăm sóc các con, đến khi già...                                                      ( thở dài. Rồi ông     Đức quay lại nói với vợ chồng Đông và Hạnh ):                                                           Còn đời các cháu nữa đấy! Đừng để con cái mai sau chúng coi                        thường bố mẹ?
        ĐÔNG -  Nhưng cháu, cháu có làm điều gì...
        HẠNH -  Chẳng qua là tại con Hoa tất!
        ÔNG NGỌC -  Chả lẽ tôi và bà kết cục... chà, cái màu hoa hồng bạch                         này, nó cũng trắng xoá như màu nước lã ấy hả bà?
        BÀ HỒNG -  Ông cứ nghĩ thế, sao lại là nước lã? Dù thế nào thì tôi vẫn                      nghĩ đến ông, ông vẫn nghĩ đến tôi!
        ÔNG NGỌC -  Nghĩ đến như thế thì cũng bằng không.
        ÔNG ĐỨC -  Em cũng chẳng biết phải nói với anh, chị như thế nào?
                                  ( rồi ông đi lại gần phía Đông và Hạnh ):
                       Cậu vẫn hy vọng các cháu sẽ có ý nghĩ thật tốt, để giải quyết việc                 gia đình cho được thoả đáng và tốt đẹp nhất!
                          ( với bà Hồng ) Trời cũng sắp mưa, em xin phép em phải về.
                                                              ( ông Đức vội vã ra khỏi nhà )
        ĐÔNG -  Để cháu, cháu sẽ tiễn cậu.
        HẠNH -  Phải đấy, anh và em cùng đi tiễn cậu Đức về nhà.
                      ( vợ chồng Đông cũng ra khuất. Sân khấu chi còn lại hai ông bà già )
        ÔNG NGỌC -  Không, không thể chịu như thế được! Tôi đã từng đánh                       Tây, đánh Tàu, dẹp Nam, dẹp Bắc... Chả lẽ bây giờ tôi chịu
                         thua mấy đứa trẻ? Bà cũng phải cương quyết lên! Tôi sẽ về nhà                            cho chúng nó một trận, để chúng nó biết thân, biết phận.
                                          ( lại định đi )
        BÀ HỒNG - ( ngăn lại ) Đánh giặc thì ông giỏi, nhưng giải quyết việc nhà                        mà làm như kiểu ông thì sẽ tan nát hết!... Rồi đời ông sẽ ra sao?
        ÔNG NGỌC -  Vậy tôi phải làm như thế nào? Tôi thấy mình bơ vơ quá,                     bà ơi!...
        BÀ HỒNG -  Ông cứ nghĩ quá thành ra thế ! Tôi thấy anh chị bên nhà                         cũng tốt và có hiếu với ông đấy chứ?
        ÔNG NGỌC -  Lúc nào tôi cũng thấy mình cô đơn.
        BÀ HỒNG -  Con cái tuy cũng có lúc chúng cạn nghĩ, nhưng chưa phải là                    tệ lắm đâu ông ạ! Mình cứ thương chúng, rồi chắc chúng
                       cũng sẽ chẳng phụ mình ?
        ÔNG NGỌC -  Nhưng như thế thì tôi không bao giờ có thể có được bà?                      Tôi mãi mãi không có bà.
        BÀ HỒNG -  Mình cũng phải tự an ủi lấy mình thôi! Cứ nghĩ là đã giành                       cho con, cho cháu... thì rồi lòng mình cũng sẽ nguôi ngoai đi.
        ÔNG NGỌC -  ( nóng nẩy ) Tôi... tôi chỉ muốn quên hết! Lại muốn như thưở                   nào, năm nào, lại xông pha ra trận...
                           ( vừa lúc Đông và Hạnh bước vào nhà. Đông ôm một bó hoa hồng                                              nhung rực rỡ. Hạnh tay xách một túi đồ nhỏ gói bằng giấy đẹp,                                                  như quà mừng cưới hoặc sinh nhật )
        ĐÔNG -  Mẹ! Chúng con sơ ý quá, mải làm ăn nên quên khuấy đi mất,                       hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ! Đây là bó hoa hồng
                       nhung chúng con mua mừng sinh nhật của mẹ. Mẹ có thấy hoa                              đẹp không mẹ ?
        BÀ HỒNG -  Đẹp! Hoa đẹp lắm con ạ, nhưng...
         ĐÔNG -  Mẹ không muốn nhận hoa hồng nhung của chúng con hay sao?                      Hay với mẹ chỉ có hoa hồng bạch?
        BÀ HỒNG -  Không phải thế đâu con ạ ! Mẹ nhận, mẹ nhận hoa của các                              con.
        HẠNH -  Nhưng con thấy mẹ có vẻ miễn cưỡng?
        BÀ HỒNG -  Mẹ vui, mẹ vui... hoa hồng nhung của các con rực rỡ lắm!                     Nhưng hoa hồng bạch với mẹ...( bà vẻ hơi bối rối ) cũng là một kỉ
                     niệm ấm áp trong cuộc đời.
                                       ( Bà gượng vui, quay lại nói với ông Ngọc )
                     Hoa hồng nhung của các con cũng đẹp lắm phải không ông?
        ÔNG NGỌC -  Vâng, đẹp!
        HẠNH -  Nhân ngày sinh nhật của mẹ, con cũng xin tặng mẹ một món                        quà kỷ niệm.
        BÀ HỒNG -  Gớm, các con lại bầy vẽ quá... cho tốn kém!
        HẠNH -  Chắc mẹ sẽ không từ chối quà của con?
        BÀ HỒNG -  Ồ không. Của các con cho mẹ một tý gì cũng đều quí giá!                      Nào, con dâu mở ra cho mẹ xem là quà gì nào?
                           ( Hạnh bóc phong giấy bọc ngoài, lấy ra một chiếc hộp nhỏ )
        BÀ HỒNG -  Ôi, chuỗi hạt đá xanh đẹp quá!
        HẠNH -  ( đeo chuỗi hạt vào cổ mẹ ) Con tặng mẹ chuỗi hạt đá xanh này, để mẹ       .                    đeo trong những ngày lễ tết hay hội hè. Con thấy những bà có tuổi .                    rồi, họ cũng    thường thích loại hạt đá này lắm!
        BÀ HỒNG -  Sao con tiêu tốn tiền thế ? Mẹ... thế nào cũng được mà.                                                                                    (bà quay về phía ông Ngọc ) Ông nhìn tôi đeo chuỗi hạt này có đẹp
                          không ?
        ÔNG NGỌC -  Bây giờ thì bà còn cần gì đến tôi nữa?
        BÀ HỒNG -  Ông đừng nói thế! Tình cảm của tôi đối với ông không gì                       thay đổi được, nhưng đối với các con...
        ÔNG NGỌC -  ( nóng nẩy ) Bà không cần phải nói nữa, tôi cũng hiểu.
        ĐÔNG -  Thưa bác, chúng cháu cũng có lỗi với bác! Thỉnh thoảng rỗi rãi                     mời bác cứ đến chơi với mẹ cháu ạ?
        HẠNH -  Đúng như thế đấy ạ! Sang năm vào ngày này: sinh nhật của mẹ                     cháu, chúng cháu lại mời bác đến nhà. Cháu sẽ làm cỗ thật
                         to... và sẽ mua một cái lọ hoa to hơn, để cắm những bông hoa                              hồng bạch của bác tặng mẹ cháu.
        BÀ HỒNG -  Đấy, tôi đã nói với ông: các con chúng nó đối xử cũng có                       đến nỗi tệ lắm đâu?
        ÔNG NGỌC -  Có hoa " hồng bệch " bà ạ!
         ĐÔNG -  Mùa hè tới cháu sẽ tổ chức gia đình đi tắm biển, bác cùng đi với                    mẹ cháu cho vui?
        ÔNG NGỌC -  Không dám! Không dám!...
        BÀ HỒNG -  Các con nó chu đáo như thế, được ra biển nghỉ ngơi tĩnh                        dưỡng ít ngày cũng thích lắm, ông ạ!
        ÔNG NGỌC -  Tôi... Tôi hơi mệt. Tôi xin cáo lỗi về nhà?
        ĐÔNG & HẠNH -  ( đồng thanh ) Mời bác trở lại nhà ạ!
        BÀ HỒNG -  Để tôi đưa chân ông một đoạn.
        ÔNG NGỌC -  ( gạt đi ) Khỏi cần bà đưa tiễn, tôi về lấy một mình                                  cũng được!
                                 ( ông Ngọc ra khuất, bà Hồng nhìn theo tần ngần )
        BÀ HỒNG -  ( với Đông ) Mẹ cảm thấy như chính mình có lỗi! Như thế có                       hơi quá đáng quá với ông ấy không, hả các con?
        ĐÔNG -  Cuộc đời là thế mẹ ạ, đành phải chấp nhận thôi !...
 
 

 
 
 
 
                                      CẢNH KẾT KỊCH
 
                              ( Vào một chiều hôm trên đường phố, dọc theo một
                                bờ hồ lớn. Có những dãy hoa bên hồ và những bóng
                                cây to, dưới bóng cây đặt một chiếc ghế đá. Bóng
                                hai ông bà già thong thả đi bên nhau. Họ dừng lại
                                nhìn ra phía hồ rồi ngồi xuống chiếc ghế đá, thủ thỉ
                                chuyện trò. Tiếng họ vọng lên trong chiều... )
        ÔNG NGỌC -  Bà có thấy con cái bây giờ chúng cũng ích kỷ quá không?                              Chúng chỉ tính toán được lợi cho cuộc sống của chúng, nào
                               có tâm lý... nghĩ gì đến bố mẹ của chúng đâu?
        BÀ HỒNG -  Thôi ông ạ! Ở phương Đông mình cũng chưa phải được                         thoải mái như bên Tây. Tôi tuy không thể sang để ở hẳn với 
                         ông, nhưng ngày ngày vẫn có thể gần gũi chuyện trò, thỉnh                         thoảng đến chiều lại ra hồ đi dạo với ông như thế này...cũng đã
                         là sự khuây khoả để vợi đi nỗi buồn đối với tôi rồi!
        ÔNG NGỌC -  Bà nghĩ thế thì tôi cũng phải chiều như thế, biết làm thế                       nào được? ( thở dài ) Đêm đến tôi vẫn thấy mình cô quạnh lắm!
        BÀ HỒNG -  Thì tôi có vui gì hơn ông đâu? Có điều, đã giành gần hết                        cuộc đời cho con cháu rồi, thì thôi, còn sống được năm tháng 
                          nào nữa ta cũng giành nốt cả cho con cháu vậy, ông ạ!
                                           ( Bà Hồng ái ngại nhìn ông Ngọc, giọng bà thủ thỉ ):
                            Sương đã xuống nhiều rồi, tôi cũng thấy hơi lạnh.
         ÔNG NGỌC -  Lạnh thì bà ấp hẳn vào người tôi đây này!
                         ( dừng lại giây lát ) Bà đã thấy ấm hơn chưa?
        BÀ HỒNG -  Tôi cũng thấy dễ chịu hơn nhiều rồi. Những giây phút ở bên                   ông, là tôi thấy mình không còn cô đơn!
               ( Rồi họ im lặng. Bóng hai ông bà già ấp bên nhau trong bóng
                  hoàng hôn đang đổ dần xuống, rồi tối hẳn. Trên trời sao đang
                  lên!... Tiếng nhạc có lời hát cất lên một khúc ca buồn, phảng
                  phất nỗi hắt hiu )./.
 
                                        MÀN TỪ TỪ HẠ
 


                                                                      
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2017 12:11:02 bởi Nhân văn >
Nhân văn 07.08.2017 12:17:01 (permalink)
 
        Bài thơ "Em về biển" của nhà thơ Phạm Ngọc Thái được anh Phương Tuấn bình đã xuất bản lần gàn đây nhất là năm 2014 trong Tập "PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI" - Do một số văn nghệ sĩ Hà Nội cùng các nhà giáo biên soạn - Có một khổ thơ 4 câu, đó là khổ thơ thứ 3 như trong bài viết sau đây:
                         Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                         Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                         Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                         Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.
     Xuất bản lần đó tác giả đã chuyển khổ thơ này làm 4 câu tựa đề ở trên đầu bài thơ. Thực ra khi mới sáng tác, 4 câu thơ ấy đã được tác giả viết ở khổ thơ thứ ba rồi - nhưng rồi tác giả lại chuyển nó sang làm 4 câu tựa đề. Nay qua thời gian suy xét,  tác giả lại thấy chính để 4 câu thơ vẫn ở khổ thứ ba như trước thì bài thơ chí lý hơn.  Vậy xin đăng cả bài bình của anh Phương Tuấn để công bố lại theo ý của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Đôi điều diễn giải để bạn đọc biết. Xuất bản lại lần sau, tác giả sẽ để khổ thơ đó làm khổ thơ thứ ba như giai đoạn sáng tác đầu tiên:

 

                 EM VỀ BIỂN                               
                             Kỉ niệm K.A -  Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
                                                           Quê hương thành phố biển

Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?
 
Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.
 
Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh.

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
 
Lời bình:  MỘT MỐI TÌNH ĐẦY LỆ 
      Đây là mối tình của nhà thơ với cô nữ sinh trường Sư phạm Ngoại ngữ. Nỗi thơ đầy lệ:
                        Em về biển để vùi vào trong cát
                        Nỗi buồn nước mắt
                        Những nát tan vòm ngực đã thương đau.
     "biển" ở đây là thành phố quê hương của người con gái (như trong tựa đề bài thơ đã viết), nhưng hình ảnh biển còn là biểu tượng của bãi-biển-đời-người hay là tình-em-biển-cả:
                        Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
                        Xô mãi bờ với lá thông reo
      Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát, vừa như sự vô tình mà lại hữu tình của thiên nhiên, với con sóng xô nát bờ khắc khoải mãi về người trinh nữ. Một biển cuộc đời đầy sóng bão, người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người:
                        Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                        Mang nỗi niềm không biết đã đi dâu?
     Người con gái ấy đã đi không trở lại. Hình ảnh "cát" trong bài thơ này mang màu sắc thơ siêu thực, tức là dạt vào trong chốn cát bụi đời người...
     Tôi xin phân tích khổ thơ thứ ba:
                          Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                          Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                          Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                          Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.
     Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen nát bàn phật tổ của đời anh! Thế mà, trên "bờ bãi đời người" thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu. Thì ra tình yêu không chỉ mang cho ta hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời. Đây là bốn câu thơ hay nhất bài, hình tượng đã đạt đến điểm đỉnh, khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài để đưa tấm phẩm bích Em Về Biển vào trong miếu mạo của thi ca.
     Khổ thơ tiếp:
                           Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
                           Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
                           Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
                           Đã thổi thành bão tố ở trong anh.
       Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mòn mỏi mãi, năm tháng dần thành mục ải... thì mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa lại hiện về xoa lên nỗi đau của lòng anh. Hình bóng người sinh nữ cứ lặng lẽ, âm thầm mà cào xé tưởng như những trận bão lòng không dứt.
    Em Về Biển tuy không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của người con gái, hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình, như:
                        Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
    Hay là:
                       Những nát tan vòm ngực đã thương đau
    Nghĩa là không thấy những hình ảnh yêu thương trần tục xuất hiện trong tình thi này, chỉ có những hương vị thơm tho, thanh thoát, nên thơ... nhưng vẫn đầy cảm xúc da diết, mộng mơ mà năm tháng không phai nhoà trong anh.
     Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh. Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau để những trận bão tố lòng anh thổi mãi không thôi. Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào, tình thơ lại càng thêm tha thiết:
                         Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
                         Anh còn đây. Em hỡi! Anh còn đây,
                         Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ...
      Những buổi đón người yêu bên cổng trường... gợi lại bao nhiêu kỷ niệm để nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Ta có thể mường tượng, bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước chân em đi nhè nhẹ, những chiếc lá rơi khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều tiêu tan mềm nhũn để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ tựa như đôi mỏm núi kỳ vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm, là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người.  Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó, nó nóng hổi và huyền thoại...
      Nhà thơ đã từng sống qua nửa thế kỉ, chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người, để cuối cùng anh lại quay về, chỉ ngợi ca người yêu bất tử hơn mọi thứ trên đời. Thế mà đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định, tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Như những dòng thơ kết thúc trong Em Về Biển này :
                         Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
                         Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
    Mái tóc sương nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng, vô tận của thời gian, lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Năm tháng qua đi lặng lẽ mà héo úa, như bao chiếc lá vàng rơi rụng xuống, phủ lên trên những hồi ức về người con gái xưa một nấm mồ tình.
 
      PHƯƠNG TUẤN

 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2017 12:27:50 bởi Nhân văn >
Nhân văn 22.09.2017 20:21:03 (permalink)
 
 
         MỘT GÓC HỒ TÂY
Anh đến mình anh trong chiều muộn

Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây
Ngắm mặt gương hồ vào chập tối
Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.
 
Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng
Vừa đơn côi mà không đơn côi...
Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi.
 
Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu!
Trong sân gạch sư già quét lá
Bước người đi thầm lặng cõi hư hao.
 
Chiều Hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió
Ta và người: cõi mộng khác chi nhau?
Người quên hết! Còn ta yêu tất cả
Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...
LỜI BÌNH:    Bản tình xô-nát trong hoàng hôn cuộc đời
     Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp cái bóng mặt trời khuất muộn trong cảnh chiều chập choạng, giống như bóng trăng sáng trắng vừa hơi viên mãn, vừa như ảo. Tác giả đến bên hồ, một người một cảnh trăng nước vơi đầy: 
                      Anh đến mình anh trong chiều muộn
                      Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây
                      Ngắm mặt gương hồ vào chập tối
                      Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.
      Rõ ràng cái bóng mặt trời như bóng trăng sáng hơi bàng bạc kia đã hòa điệu với tâm hồn và nỗi lòng u uẩn của nhà thơ. Khi anh nhìn lên, đọt mây bay ngang qua ấy cũng mang màu phớt trắng:
                     Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng
     Nhưng tại sao lại "lơ đễnh"? Bởi vì tâm trạng của nhà thơ lúc ấy:
                    Vừa đơn côi mà không đơn côi...
     Nó chơi vơi nửa vời. Lơ đễnh đấy mà đâu có phải là lơ đễnh? Tình thơ da diết như muốn níu kéo một hồi ức nào đó đã xa xăm, vẫn còn tha thiết ở trong anh.
    Sau đó tác giả có nhắc đến một người con gái nào đó, nhưng hình như không phải là một cô gái cụ thể, hay một cái tên cụ thể? Đó là nỗi khao khát của một con người đang bước vào tuổi hoa niên:
                    Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
                    lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi.
     Nó không chỉ còn là cảnh chiều trời đất nữa mà là buổi hoàng của cuộc đời anh. Hình ảnh chiếc lá vàng lại rơi vào đúng chỗ ngồi của người con gái năm xưa, đằm thắm mà xót xa. Thì có mấy ai đã vui mãi, yêu mãi được suốt đời? Hạnh phúc gái trai mà nhà thơ từng có, theo thời gian nay đã trôi vào dĩ vãng. Buổi hoa niên của đời anh trở nên vô vi, hư ảnh. Nhà thơ đi giữa cuộc đời như một cái bóng. Thế giới này với anh đã trở thành vô nghĩa rồi chăng? Hình ảnh “Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi” là một câu thơ hay!
     Nhưng buồn hơn nữa, giữa cảnh chiều tà người nước vơi đầy ấy thì tiếng mõ chùa lại vang lên? Từ chiếc lá vàng rơi thay vào chỗ ngồi của người yêu đến tiếng mõ chùa, như một bản sám hối cuộc đời. Tạo cho bài thơ Một Góc Hồ Tây từ một bản tình xô- nát mơ mộng pha thêm chút thê lương. Đáng lý ra tiếng nói bên nhà thơ phải là tiếng nói ngọt ngào, âu yếm của người con gái, thì giờ đây chỉ còn vẳng lên tiếng cầu nguyện của chùa chiền:
                    Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
                    Mõ chùa buông theo tiếng nói của tình yêu!
                    Trong sân gạch sư già quét lá
                    Bước người đi thầm lặng cõi hư hao.
       Cái cây đa bên phố cũng trở nên "gù", thật đầy bóng phật đền. Phố xá trong thời buổi kinh tế thị trường mà cảnh cứ như chiều thôn quê. Lòng nhà thơ đã bay vào chốn cửa thiền. Rồi lại hiện ra bóng của nhà sư già đang quét lá sân chùa. Thì giữa hai cảnh đời: một bên là anh thi sĩ cô đơn, với một người đã trốn tránh nơi trần tục để đi tu - Hai mà như một. Cảnh tình thật hư hao, có mà cũng hoá không, đến hàn huyên nơi cửa phật nhưng lòng vẫn nuối nả tình trai gái.   
                    Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...
      Lòng anh mênh mang u hoài như những chiếc lá đang bay. Mặt sau của tình thơ chứa cả một khát vọng tình yêu!
     Những hình ảnh cảnh chiều lễnh loãng, bóng đa gù bên phố, mặt trời cũng giống như vầng trăng sáng nhạt và bóng người hư hao...  tạo cho bài thơ tựa như một bức tranh thủy mạc. Tình mà đời, tất cả đều quyện trong một buổi chiều hoàng ở bên hồ, buồn tẻ, chênh vênh, bởi cõi lòng nhà thơ đang cô đơn vì thiếu vắng bóng em yêu!
 
                                                                                                          NHƯ Ý
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.09.2017 20:27:32 bởi Nhân văn >
Nhân văn 07.11.2017 11:21:19 (permalink)
 
 
     CHÙM THƠ TÌNH TRONG MƯA PHẠM NGỌC THÁI

 
          THÀNH PHỐ MƯA RƠI

Em hãy gảy bản tình lên chút nữa
Và có nghe trong thành phố mưa rơi?
Hãy đắm làn hoa thơm trinh nữ
Dòng suối tinh mai khoả tắm chân trời.

Gió ru khẽ mơn man cây trước cửa
Chúng dập dìu tựa thể đang yêu!
Trong tình ấy gió cây đều ướt cả
Đầm đìa muông dại biết bao nhiêu.

Em hãy thả mảnh hồn con bướm trắng
Mà phiêu diêu quên thực tại nhọc nhằn
Ở giữa lưng trời tận miền xa vắng
Lòng nhớ nhung em anh cũng thương thầm.

Gió nhè nhẹ! Em ơi, mưa nhè nhẹ!
Chỉ riêng lòng anh bão không thôi
Cứ để hồn anh trong nước lạnh
Với màu mây hoang trôi đến xa vời...
 
         MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG 
                  
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là…

Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ.

Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay làn mưa mênh mang.

Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm...
 
             TRONG MƯA

Mưa rơi nhẹ như là tóc ấy
Giống dải lụa mềm quấn nỗi buồn bay
Mưa rơi khẽ như hoa vậy
Vỗ vào đêm hoá các nốt đàn gày!

Em có thầm nghe mưa bay ngoài đó…
Em có buồn khi gió thổi đêm đêm…
Đứng trong mưa hồn anh tràn bão tố
Mưa rơi vào anh...tan ra nơi em xa không?

Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại
Về bên anh mái tóc rối tơi bời
Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi...
 
    ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA
 
Trời không mưa áo em đâu có ướt
Chỉ ướt lòng em: cô gái nhỏ của anh!
Em ngả vào anh mà hình như có khóc…
Tiếng con tim thật rõ bên mình.
 
Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng
Buổi cuối cùng em đến để chia tay
Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn
Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi!
Kìa không mưa mà áo anh lại ướt
Mùa thu đi… sao nắm mãi bàn tay?
Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát
Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay.
Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ
Phố vắng em buốt giá cả canh dài
Em dại lắm lấy chồng làm chi vội
Đưa em sang sông rồi lòng mới biết đã yêu ai!
Ta lại bước lang thang trên phố ấy
Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi
Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai…
Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến, đã chia tay?
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2017 11:22:37 bởi Nhân văn >
Nhân văn 09.12.2017 10:35:51 (permalink)
 
                     ẤN TƯỢNG PHẠM NGỌC THÁI VÀ THƠ 
                                               Nhà văn NGUYỄN kHÔI
      Qua tác phảm và gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: hiên ngang đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình (ở Maia là “phản trữ tình”) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh.
     Phạm Ngọc Thái lớn lên vào cái giai đoạn xã hội mà ở tầng lớp trên thi đàn là các “nhà thơ Quốc Doanh” ngự trị. Họ Hàn lâm đấy (nghĩa là có học thức và được đào tạo cẩn thận) để mặc đồng phục, cùng đeo một thứ huy hiệu, cùng một lối viết, một giọng điệu ngợi ca “tô hồng” của “một nền văn học minh hoạ” - Nói theo kiểu nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu. Còn lớp dưới thi đàn là các Hợp Tác Xã (câu lạc bộ) sản xuất thơ “nhiều, nhanh, rác, rẻ”… quanh năm ca ngợi mùa xuân vĩnh cửu của nhân loại ?! 
     Riêng Phạm Ngọc Thái “Nhà thơ của tự do”, không ăn lương và lệ thuộc vào bất cứ một tổ chức thi nhân nào. Bằng một thi tài bẩm sinh (trời cho) cùng với sự khổ luyện (lao tâm khổ tứ) để “Ta khoả lòng ta đằm sương gió” - Để rồi:
                          Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu…
     Thơ tình Phạm Ngọc Thái, viết với một dung lượng lớn tới vài trăm bài nhưng đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được ý mới, tứ lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái “thơ” đan trong cái “mộng” - cái “ảo” diệu huyền để hiện lên cái thực thấm vào tâm can người đọc. Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu, thơ Phạm Ngọc Thái đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê:
                         Làn da trắng vòm ngực nàng hưng phấn
                         Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
                                                    (cây thầm tiếc bóng)
                         Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
                         Người đàn bà ai mà định nghĩa?
                         …..
                         Khúc thơ tình anh lại viết về em
                         Người đàn bà ngậm cả vầng trăng…
                                                   (người đàn bà trắng)
     Vừa gần đây, nữ thi sĩ trẻ Nồng Nàn Phố (Phạm Thiện Ý – sinh 1988) viết rất bạo: Anh ngủ thêm đi, em phải dậy lấy chồng/ - Còn anh, với Hồ Xuân Hương tái lai - 2012 và tập sách Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại - 2014,  đã viết rất thời sự, rất trẻ, rát đời thường:
                         Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
                         Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
                        …..
                         Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
                         Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
                                      (dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ)
     Hoặc là:
                        Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                        Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                                               (khóc bên Hồ Núi Cốc)
                        Anh lại có một cô áo trắng
                        Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
                        Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
                        Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi.
                                              (cô áo trắng)
     Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đầy máu thịt đang sinh sôi:
                        Trong sân gạch sư già quét lá
                        Bước người đi thầm lặng cõi hư hao…
 
                        Chiều hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió
                        Ta và người cõi mộng khác chi nhau
                        Người quên hết! Còn ta yêu tất cả
                        Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo.
                                             (một góc hồ Tây)
     Chao ôi, “yêu” làm nên động lực cho hồn thơ cất cánh, cho ngọn thần bút ( hay bấm chuột @ ) khởi sắc:
                        Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
                        Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay
                                           (trước núi Mỹ Nhân)
     “thơ yêu” Phạm Ngọc Thái là tiếng lòng, tiếng con tim luôn ngân vang một giai điệu như “mưa rơi” vào miền ký ức sâu thẳm:
                        Nghe không em lại mưa lên phố
                        Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi
                                          (Em ơi! Thành phố lại mưa)
                        Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
                        Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi
                                                     (trong mưa)
     Chao ôi, thơ là đời, là tâm huyết máu thịt của thi sĩ. Không có tình yêu lớn lao -  chân thực thì không thể có những vần thơ tuyệt tác là thế.
-   Một tài năng lớn… với những giá trị văn học tuyệt vời!
     Mong rằng “thơ Phạm Ngọc Thái” sẽ được người đời (trong và ngoài nước) thưởng thức, đánh giá một cách trân trọng, đúng mực…
     Gì thì gì, với ấn tượng của Nguyễn Khôi thì: đọc thơ tình Phạm Ngọc Thái làm cháy bỏng con tim, cho ta trẻ lại của một thời “yêu” và “mộng”.
 
                                                                                NK.
                                                                 ( Đã đăng báo Người Hà Nội 2016) 
                                                                       


 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.12.2017 10:38:16 bởi Nhân văn >
Nhân văn 11.01.2018 11:54:08 (permalink)
 
                                        PHẠM NGỌC THÁI THƠ VÀ NGƯỜI
                                                                   TRẦN ĐỨC

                                            . Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hóa dân gian

     Phạm Ngọc Thái sinh ngày 15/10/1948 trong một gia đình dân nghèo thành thị. Lớn lên vào cái thời mà ở Thủ đô Hà Nội, nhà thơ Bùi minh Quốc đã sáng tác bài thơ Lên miền Tây đầy nhiệt huyết:
                                Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dóc núi
                                Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng
                                Ôi miền Tây! Ở dưới xuôi, sao nghe nói, ngại ngùng
                                Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy...
     Thanh niên thì hừng hực khí thế thời đó với khẩu hiệu:
                                Ta sẽ làm cây thông trên núi đá
                                Không muốn làm ngọn cỏ ở ven sông
     Đất nước chìm ngập trong chiến tranh. Chiến tranh trên chiến trường miền Nam và chiến tranh phá hoại, bởi không quân Mỹ bắn phá ngoài miền Bắc. Mới bước qua ngưỡng cửa thời niên thiếu, Phạm Ngọc Thái đã rời bỏ cuộc đời sinh viên đại học, cuốn vào cuộc chiến tranh của cả nước. Anh từ giã Hà Nội vào chiến đấu trên chiến trường miền Nam tới tận ngày chiến tranh kết thúc. Khi đó tâm lý cũng đã mệt mỏi đường chinh chiến, Phạm Ngọc Thái xin rời khỏi quân ngũ trở về thành phố quê hương, tiếp tục theo học trường Đại học Ngoại thương để trở thành anh cán bộ ngành ngoại thương quốc tế!
     Diễn biến tư tưởng và tình cảm cuộc đời tác giả những năm hoà bình trở lại đây khá phức tạp. Năm tháng... có lúc anh rơi vào sự chán chường thời thế, chẳng khác nào một người đi ở ẩn, sớm hôm lẩn khuất trong gia đình hoặc phiêu lãng với bạn bè, vui thú chuyện thơ văn. Tâm trạng ấy đã được tác giả bộc lộ ở nhiều bài:
                               Ta đã sống phần đời sau chót
                               Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng dân gian
                               Một cuộc sống bình thường bầu bạn
                               Nửa trăng hồ, nửa gã hiền nhân.
                                          (Trên nấm mồ truyền thuyết)
     Khi thì lại rơi vào sự cô đơn đến gai người:
                              Hãy vứt ta lên chiếc giường phủ đệm, chăn, màn
                              Làm bằng những tế bào đói khát…
                              Ta không đói khát tình em?
                              Mà đói khát bầu trời!
     Hay là:
                              Một thứ ma người...
                              Quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ
                              Chơi với hoa, với cá, với chim
                                                             (Cô đơn)
     Tha thẩn với trăng sao:
                              Ta! Anh thi sĩ của nhân gian
                              Tạc thù với cả khối sao trăng
                              Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn
                              Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man
                                                             (Tối quán)
     Phảng phất nỗi u hoài, tìm đến nơi cửa Phật:
                             Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang
                             Mình lễ cả ba thiên toà phật!
                             Người có vận? Thôi đừng oán trách,
                             Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi...
                                                         (Khoảng buòn vô lý)
     Vốn là một cán bộ ngoại thương có điều kiện quan hệ giao lưu quốc tế, sự hiểu biết về thế giới và thời cuộc của anh khá phong phú. Cuộc đời tác giả trải qua bao phong trần, phải chấp nhận không ít những mất mát về cuộc sống và tình yêu!? Tất cả những sâu sắc ấy đều được dội vào trong thơ. Bởi vậy, một mảng lớn thi ca Phạm Ngọc Thái đầy ắp tính hiện thực. Nó bao chứa nhân sinh quan xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ, đây đó tiềm ẩn cả những quan niệm vũ trụ đầy bí ẩn.
     Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ những nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm rất cao với trái tim người yêu thơ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả là vận từ đời sống dân gian, nõi kiếp của con người - Khi bình vào một só bầi cụ thể, tôi sẽ phân tích sâu về điểm này. Thơ được chắt ra từ óc, từ máu tim… nên đọc không bị gò ép mà tạo thành bản sắc riêng biệt của thơ anh.
      Thí dụ ở trong bài "Người đàn bà trắng", anh viết:
                            Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                            Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                           suốt đời chèo sông vắng
                           Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng
                           Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
     Hoặc nói về thế sự, qua bài "Viết sau đám xe tang":
                          Cuộc cờ ấy theo thời như hội:
                          Vàng, đỏ, trắng, đen... thay sắc luân hồi
                          Từ anh nhà thơ tới đứa ăn mày
                          Mấy ai tránh nổi trò sấp ngửa?
     Một đặc điểm rất rõ, nhiều bài thơ của Thái được viết ở trong các quán xá, bên hồ, trên phố, hay trong trăng sao. Thiên nhiên không chỉ là yếu tố quan trọng nuôi sống thơ anh, nó còn là chỗ dựa cho những tình cảm vui, buồn, hạnh phúc và đau khổ. Nhờ vào cảnh thiên nhiên, một sự việc nào đó bỗng nhiên xẩy ra, một tâm trạng hay một kỷ niệm thoắt đến, tạo thành cảm xúc thơ. Tác giả đã từng thổ lộ:
                          Mai ta chết, các bạn bè thân hữu
                          Bọc thiên nhiên mà đọc điếu văn
                          Đại bàng vỗ... cánh rợp trời mưa gió…
                          Trong không gian vào mãi xứ vô biên
                                            (Viết dưới chân đài hoàn vũ)
     Nhiều bài thơ của Thái bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát sâu sắc giữa con người với xã hội, cá nhân và thế giới, tuỳ theo cảnh tình mà tạo thành vóc dáng thơ ca. Nó chẳng những có giá trị hiện thực, còn mang theo tính triết học, một nhân sinh quan sâu sắc cùng thế giới quan phong phú, cô đúc đến mức điển hình. Như những bài: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Làm ma em vợ, Khoảng trời phía sau, Những kỷ niệm bên con, Đêm trung thu và đứa ăn mày v.v...
      Trên đây tôi chỉ nêu ra một số nét để dẫn dắt cuộc bình luận, giờ xin đi vầo những chủ đề cụ thể.
                           
A.    TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG THA THIẾT
     Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nhà thơ Phạm Ngọc Thái được Bộ ngoại thương biệt phá ra nước ngoài công tác, quản lý những người đi xuất khẩu lao động, đồng thời kết hợp làm kinh tế gia đình. Những năm tháng xa nước ấy, anh đã viết nhiều thơ về quê hương:
                        Có một khoảng trời để thương, để nhớ
                        Là khoảng trời ở đó có em
                        Những bóng cây in trên đường phố thân quen
                        Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc...
     "Có một khoảng trời" là nhan đề của tập thơ đó! Thơ chan chứa những kỉ niệm yêu thương. Tiếng hát từ trong tâm khảm, trái tim nhà thơ bay lên! Nó mang hơi thở nơi dân dã, tình cảm đầm ấm chốn đời thường, những sự việc, hình ảnh ta thường gặp trong các mái nhà nơi phố nghèo, trên một bến ga thân quen hay bên bờ hồ trăng thanh, gió thổi. Đôi khi tiếng hát ấy vẳng lên cô quạnh, lẻ loi, lầm lụi… hoà vào cát bụi cuộc đời, có lúc lại như tiếng chim hót mà tha thiết, lạ lùng. Thơ của Thái về nơi chôn nhau cắt rốn ấy đều bộc lộ những tình cảm rất máu thịt, như: Tiếng hát đời thường, Có một khoảng trời, Bài ca xứ sở, khúc hát người tha phương, Em - cát và dòng sông...
      Trong chủ đề về “Tình yêu quê hương” này, tôi xin phân tích đôi ba bài để thấy rõ điều đó.
 
         TRỞ VỀ
Đôi cánh chim trời quạt gió mây
Ta về non nước nước non đây
Nghe thu xào xạc rung mùa lá
Đông cũng hương đông lạ chưa này?

Ở chốn quê nhà bụi cát bay
Hoà bình mà tan mộng trăng say
Ta về bầu bạn cùng mưa nắng
Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi…

Ta về trọn cuộc đất cố hương
Với mộng ngàn thu gửi nhân gian
Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc khói sương.
 
     Bài thơ được tác giả sáng tác ở nước ngoài vào cuối năm 1990, khi Đông Đức mất vào tay Tây Đức, kéo theo một loạt nước XHCN ở Đông Âu bị sụp đổ. Sau những năm ra ngoại quốc, lúc này anh đang chuẩn bị rời khỏi Đức trở lại quê nhà. Tuy hoàn cảnh thời thế bắt buộc phải trở về cố hương trước thời hạn, nhưng lòng anh lại vui mừng khôn xiết. Ta hãy nghe nhà thơ thổ lộ:
                          Đôi cánh chim trời quạt gió mây
                          Ta về non nước nước non đây
     Lấy hình ảnh cánh chim quạt vào trong mây gió để nói lên nỗi lòng xốn xang:
                          Nghe thu xào xạc rung mùa lá
                          Đông cũng hương đông lạ chưa này?
     Lá mùa thu thì xào xạc vì vui, còn mùa đông lạnh lẽo khô khốc thế mà người lại cảm thấy ngào ngạt hương thơm hoa trái? Quê huơng, xứ sở đã chắp cánh để hồn thơ bay! Thời kỳ đó để mưu cầu cuộc sống, có biết bao người tìm cách ở lại hoặc chạy sang Tây Đức. Mặc dù anh biết ở quê hương vẫn đang lâm vào cảnh nghèo túng, khó khăn, như đã mô tả:
                          Ở chốn quê nhà bụi cát bay
                          Hòa bình mà tan mộng trăng say
     “…tan mộng trăng say”: câu thơ nói lên sự tan vỡ trong lòng tác giả, sau một cuộc chiến tranh trở về?... những hy vọng, ước mơ về cuộc sống cũng thành mây khói. Vậy mà giờ đây khi nghe tin trở lại quê nhà, thái độ của anh vẫn rất dứt khoát:
                         Ta về bầu bạn cùng mưa nắng
                         Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi...
     Hay là:
                         Ta về trọn cuộc đất cố hương
                         Với mộng ngàn thu gửi nhân gian
    Mộng và hồn của tác giả bài thơ "Trở về" này quả thật là gắn bó máu thịt với quê hương. Nhưng điều ta cần quan tâm chính còn ở hai câu thơ kết:
                        Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương   
     Chủ nghĩa Mác đã trở nên hoang tưởng, hàng loạt các nươc XHCN ở Đông Âu bị sụp đổ. Thế giới chìm vào trong màn sương khói, tương lai nhân loại không biết sẽ ra sao? Chỉ từ một bài thơ 12 câu có ý tự bạch đã vượt lên bao quát cả tính nhân tình thế sự! Lời thơ vẫn bay, tình thơ tha thiết, tứ thơ thật khúc triết và sâu sắc.        
                                        
           TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ                                                                        
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ                                                                                   Vóc em thanh cũng thể mùa xuân                                                                                      Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. 
 
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon  
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn.

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...                        
                            Nước Đức - tháng 2/1989
 
     Bài thơ viết về người vợ hiền với đứa con thơ ở nơi quê nhà đang mong mỏi đợi chồng:
                         Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
                         Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
                         Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
                         Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen.
     Đôi mắt màu đen là đôi mắt người phụ nữ Á Đông mà người ta thường gọi là "mắt hạt na" hay đôi mắt đen huyền. Nhưng ở đây, đôi mắt đen mà tác giả gợi lại của người vợ trẻ trở nên yêu dấu và thân thiết biết bao: Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen /- Đó là đôi mắt của quê hương ngày đêm vẫn ngước nhìn lên bầu trời xanh thăm thẳm chờ anh.  Lời thơ thân thương, khó có bút nào tả hết.
     Nếu Xuân Diệu viết:
                         Mắt em thăm thẳm như màu gió
                         Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
     Đó là đôi mắt hẹn hò của tình yêu trai gái! Còn trong bài thơ này, đôi mắt lại chứa đựng một nỗi niềm của người vợ gần gũi bên chồng, ngọt ngào và cay đắng, buồn vui và sướng khổ trong cuộc sống. Thơ tả bình dị nhưng chứa đựng, ngày ngày nàng vẫn đón con đi, về... nơi quê nhà.
     Đó chính là cái phố nghèo mà nhà thơ đã từ biệt để ra đi đất khách, quê người. Quê hương, còn ở đâu thân thiết hơn thế nữa? Nàng là linh hồn, là tình yêu trái tim và cuộc đời anh. Cái hình ảnh thành phố thân thuộc được tác giả gợi ra:
                        Ôi quê hương!
                        Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
                        Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
                        Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
                        Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
     Đứa cháu gái bé bỏng ấy cứ tối tối phải bê mẹt thuốc rao bán kiếm sống, đến nỗi không còn đoán ra được tuổi đời của nó? Con phố nhỏ thân quen thì mỗi cơn mưa xuống lại ngập úng, lầy lội - Ở đó, vợ con anh: Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội /- Tất cả cứ thế, cứ thế chảy trào trong cảm xúc của tác giả. Lời thơ không cầu kỳ mà vẫn tạo dựng những hình ảnh quê thân thiết. Ngay ngôi nhà vợ con anh đang sống cũng được miêu tả bằng những hình ảnh gần gũi nhưng chứa đựng đầy ý nghĩa:
                        Ngôi nhà nhỏ bên đền
                        Gốc đa, quán báo
                        Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1)
                        Đêm hồ ước trăng soi
                        Chiều lá me, lá sấu
                        Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2)     
-  Chú thích (1) ý rằng: Ngôi nhà nhỏ ngày đêm soi mình lên bóng nước với câu chuyện xa xưa, bà Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi, cùng câu chuyện đối đáp giữa hai người đã trở thành truyền thuyết lưu tụng đến ngày nay.
      Nguyễn Trãi ướm hỏi Thị Lộ rằng:
                       Ai ở Tây Hồ bán chiếu gon?
                       Chẳng hay chiếu hết hay còn
                       Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi
                       Đã có chồng chưa được mấy con?
     Nàng Thi Lộ đáp lại:
                       Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
                       Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
                       Xuân xanh chừng độ trằng tròn lẻ
                       Chồng còn chưa có, hỏi chi con.
-  Chú thích (2): Là hình ảnh Thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác khi quân Pháp đổ bộ vào đánh chiếm cố đô. Thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết.
     Bài thơ thật sâu sắc, ý tình chan chứa vô cùng. Chính cái thành phố quê hương ấy và  những người thân, từng một thời đã theo anh ra mặt trận của cuộc chiến tranh xưa:
                       Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn
                       Hành quân rừng già võng treo sườn gió
     Giờ lại theo anh trong cuộc sống tha phương nơi đất khách, quê người:
                       Ai biết chiều nay người vợ trẻ
                       Đứng mong chồng bên đứa con thơ
                       Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!  
     Nó heo hút tựa con chim sẻ hót trên cánh đồng mênh mang nước, lại thân thương tiếng của người hát rong trên sân ga. Ta cảm thấy như nhà thơ đã khóc! Nước mắt anh chảy tràn trong bể tình nhân thế này. Giọt lệ ấy đẫm tình người mà trong xanh sắc mùa thu quê hương. Bài thơ muốn nhắn nhủ cùng những ai khi rời xa Tỏ quốc, luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
                       Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
                       Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!
     "Tiếng hát đời thường" là một bài thơ quê hương hay!
                     
      NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA 
Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chiến sỹ
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.

Một làng bé quanh con nước lớn
Với quê hương thầm dịu thuở chiến tranh
Lòng thôn nữ như vầng trăng tỏa sáng
Lại trở về man mác trái tim anh.

Làng em lũy tre xanh bất tử!
Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương...
Bóng nhìn anh, mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng.

Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
Và quê em, đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng
Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.

Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân...
Đêm thành phố nhớ em buồn da diết
Em bây giờ có hạnh phúc không em?
 
      Nhớ về những tháng năm khi đất nước vẫn còn trong chiến tranh đánh Mỹ. Có một chiều trên đường ra mặt trận, nhà thơ đã cùng đơn vị dừng chân nghỉ lại ở một thôn xóm nhỏ. Khi ấy, làng quê Việt Nam rất yêu thương với những người chiến sỹ ra đi, vào nơi chiến trường giết giặc. Lúc đó, Phạm Ngọc Thái vẫn chỉ là một người lính trẻ, một chàng trai tuổi mười chín, đôi mươi, đầy khát vọng và một trái tim đang cháy bỏng tình yêu! Chính trong tối đó, anh gặp một thiếu nữ làng. Làng em ở bên con sông Hồng, cuồn cuộn phù sa một màu son sắt, thủy chung:
                        Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
                        Bãi ngô non xanh gió chân mây
                        Người con gái anh gặp thời chiến sỹ
                        Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.
     Tuổi trẻ hồn xuân phơi phới, cô thiếu nữ làng lại xinh xắn, dễ thương. Thế là, chỉ giây lát của tình quân dân thắm thiết, anh và nàng đã đã dan díu với nhau. Hẳn người con gái ấy phải để lại trong anh nhiều nỗi cảm thương? Bởi vậy, dù  mấy mươi năm qua, khi mái tóc trên đầu đã lấm chấm bạc, nhà thơ vẫn bồi hồi nhớ đến kỷ niệm với người thiếu nữ xa xưa. Bài thơ đã ra đời như thế! Ôi dĩ vãng, lòng anh giữa trời sao mênh mông nỗi nhớ:
                        Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
                        Và quê em, đời sống có nâng cao?
                        Người năm ấy, em ơi ! Giờ tóc trắng
                        Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.
     Nhà thơ kể lại: Tối đó, người con gái ngồi bên anh trong ánh bếp lửa hồng. Tháng năm, bóng em vẫn còn soi mãi vào cuộc đời anh với tình làng quê đằm thắm:
                        Làng em luỹ tre xanh bất tử!
                        Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương
                        Bóng nhìn anh, mắt theo giờ còn biếc
                        Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng...
     Phạm Ngọc Thái là một con người của quê hương bình dị, thân thương. Khi cuộc đời nhà thơ sau này đầy những đắng đót, xa xót... thì những kỷ niệm ngọt ngào xưa lại càng da diết trái tim anh. Lời thơ viết về hồi ức mà thật rung cảm, tưởng như có cả lệ chảy ở bên trong. Tình em quyện với tình quê hương máu thịt, tha thiết mà vô biên. Tất cả theo thời gian như bóng câu bay qua để không bao giờ còn quay lại. Chỉ còn đây, những ảnh hình thuỷ chung in dấu trong thơ anh:
                        Người con gái sông xưa, ơi có biết!
                        Một thời trai bão táp cuộc hành quân...
                        Đêm thành phố nhớ em buồn da diết
                        Em bây giờ, có hạnh phúc không em?
     Một câu hỏi buông ra như không có sự trả lời, chìm vào trong mù mịt của đất trời? Bài  thơ đầy ắp tính nhân văn và đã được khép lại ở đó, để câu hỏi ngàn năm sau vẫn cứ còn lửng lơ buông ở giữa đời.
                              
   B. TÍNH DÂN GIAN TRONG THƠ PHẠM NGỌC THÁI
     Sâu sắc nỗi kiếp người. Ở đây, không chỉ để phản ảnh về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm, manh áo của những con người lao động, nó còn phản ảnh sâu sắc ý nghĩa chính trị xã hội. Những con người nghèo khổ luôn là tầng lớp phải chịu nhiều sự bất công, bị  những quyền lực dẫm đạp, chà xéo.  
 
      CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ  
Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!
 
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.
 
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.
 
      Xin đưa ra một số nét cơ bản có tính khái quát, đối chiếu với một số bài thơ hay trên thi đàn để bạn đọc dễ nhìn nhận. Trước hết, ta hãy nghe tác giả tả hình ảnh trong hai câu đầu:
                        Một đêm hồ nước đầy sương gió
                        Người đi không rõ mặt người
     Cái bóng người "không nhìn rõ mặt" này, là chỉ cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen, tức là gương mặt họ đã bị nhoà nhoạt đi trong trời đêm sương gió - Nhưng nghĩa bóng, nó phản ảnh họ chính là lớp người, những kiếp đời thấp hèn sống mà không có... "nhân ảnh" trong xã hội. Con người lao động tầng lớp thấp ấy, vừa lầm lụi gió sương vừa là bọt bèo ở chốn cộng đồng:
                       Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp
                       Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
     Kiếp sống của họ cũng chỉ giống như những chiếc chổi tre bị kéo mòn vẹt đi trên đường đời. Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy đã trích vào trái tim đau của người thi sĩ! Anh cùng với thiên nhiên chia sẻ, ru quanh cô quét lá:
                       Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                       Em thầm thì quét lá, bên tôi!
     Tả về nỗi người, cảnh đời mà thơ như mộng:
                      Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ
                      Trong cõi lòng tôi buồn triền miên
     Nhà thơ buồn, đau nỗi đời trong xã hội? Khoảng không gian bao trùm cảnh phố khuya vừa thực, lại vừa ảo. “Thực” -  là cảnh trời đất gió sương, lá cây rơi xào xạc, hàng dương liễu hiu hắt bên hồ với một vầng trăng cô đơn:
                      Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                      Con nai vàng chết bóng thu xưa...
     Cái bòng trăng nó cũng cô độc, bơ vơ như người thi sĩ! “Ảo” – vì câu thơ đã chứa cả linh hồn cùng trái tim người. Không phải cái bóng trăng nó lạc lõng, cô đơn đâu?... mà chính là nhà thơ đấy! Anh cảm đồng với thân phận cô quét lá, xót xa với nỗi kiếp của người cần lao, để những giọt thơ rơi ra.
     Ta hỏi: Tại sao bóng của rừng thu lại vào đây? Đấy là cõi mộng của nhà thơ. Vốn là một thi sĩ đa tình nhìn cảnh phố khuya, Phạm Ngọc Thái ngỡ như mình đang đứng trong bóng rừng thu xưa của cố thi nhân Lưu Trọng Lư, có con nai vàng đang ngơ ngác - Nhưng nếu con nai vàng nó vẫn sống, nhởn nhơ hoặc tung tăng nhảy trong rừng thu đẹp như tranh vẽ,  thì đó lại là thơ của Lưu Trọng Lư! Ý câu thơ sẽ trở nên đối nghịch, mâu thuẫn với cảnh đời bọt bèo, lầm lụi của cô quét lá đêm trong chốn dân gian? Bởi thế, con nai vàng phải chết!... mới là thơ Phạm Ngọc Thái.
      "Con nai vàng chết bóng thu xưa..." - Câu thơ mang ý nghĩa tượng trưng. Nó muốn nói rằng: Những con người lao động nghèo khổ, phải kiếm miếng cơm, manh áo vật vã chốn đời thường thì đầu óc nào mà mộng mơ đến cảnh con nai vàng đẹp như tranh cổ tích của cố thi nhân !? Cho nên, hình ảnh "con nai vàng chết" đã phản ảnh tới sự mất mát không chỉ về vật chất mà cả tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài!               
     Thế rổi, cả hồn vía nhà thơ nhập vào cô quét lá. Anh nhìn theo mãi cái bóng đi xa dần ở phố đêm kia:
                        Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...
     Cái bóng người quét lá lẩn khuất trong đêm, như thân phận nhân gian lầm lụi hết kiếp này qua kiếp khác. Thơ giàu tính nhạc và thấm đẫm tình người. Về phương pháp tư duy, ta hãy đem đối chiếu với bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử - Như một số nhà bình luận có nhận định: Âm hưởng trong thơ Phạm Ngọc Thái ảnh hưởng khá sâu sắc thơ Hàn Mặc Tử. Đó là lối cảm xúc thơ theo thi pháp "tương ứng cảm quan" của trường phái thơ tượng trưng ở châu Âu đầu thế kỷ XX. Ở trong bài "Đây thôn Vỹ Dạ", khi Hàn Mặc Tử nói về cái duyên phận hẩm hiu, cách trở giữa thi nhân với nàng Hoàng Cúc bằng hinh ảnh tượng trưng:
                       Gió theo lối gió, mây đường mây
                       Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...       
     Nghĩa là: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi! -  Phân cách như  con gió, làn mây ở trên trời. Tâm trạng thì u hoài, buồn nản như dòng nước lặng lờ và những bông hoa bắp phật phờ lay ở bên sông.
     Còn trong bài "Cô quét lá đêm hồ", tác giả dùng hình ảnh cái chổi mòn quét cả đời, cả kiếp... làm tượng trưng nói về thân phận người lao động như đã phân tích trên.
    Trong đoạn thơ cuối của bài "Đây thôn Vỹ Dạ", Hàn Mặc Tử mơ tưởng hình bóng người thương mà nhói lên những uẩn khúc trong lòng:
                      Mơ khách đường xa, khách đường xa
                      Áo em trắng quá nhìn không ra
                      Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                      Ai biết tình ai có đậm đà?
     Thì trong bài thơ của Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy cái tâm trạng cảm hoài của nhà thơ về cô quét lá, những thân phận mịt mờ, lầm lụi trong chốn dân gian:
                     Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
                     Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...
     Còn về cấu tứ hai bài thơ đều được chia làm ba khúc, mười hai câu, phong dáng tư duy tương đối giống nhau.
    "Cô quét lá đêm hồ" là một bài thơ đời sâu sắc và hay!
                                
     EM BÁN XOÀI 
- Anh trai mua xoài cho em đi?
Nha Trang, ta nhớ Nha Trang!

Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời
                         các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.

Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?

Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm, hương toả mát thân người
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
 
Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
 
      Lại nói về những kiếp đời vất vưởng, lang thang trong chốn nhân quần. Bài thơ vẽ lên một khung cảnh ở thành phố biển Nha Trang, dưới bóng hàng dừa xứ sở. Đó là những cô gái «bán xoài» nổi trôi để kiếm sống qua ngày:
                       Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
                       Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
                       Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
                       Dẫy cột đèn đứng đêm côi lạnh.
     Xót thương cho các thân phận lạc loài ấy, cả đến những chiếc cột đèn đã được nhân cách hóa, linh hồn của chúng cũng hắt hiu trong đêm giá lạnh, hàng dừa se sẽ ru quanh các cô gái, lời ru ngọt ngào của quê hương.
     Ngày ấy, nhà thơ trở về sau cuộc chiến tranh, anh đi ngang qua đây và đã gặp những cô gái bán xoài:
                       Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách...
                       Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
     Các cô gái đã bị xô đẩy ra bên lề cuộc sống. Dòng thơ như những giọt sương rơi buồn bã xuống các kiếp đời. Làn điệu êm và tha thiết đến lạ lùng. Tác giả đã khắc họa một thế giới bao quanh, bằng hình ảnh của một biển cả mịt mùng sóng bão. Nó giống như miệng của một con thuồng luồng khổng lồ, chỉ muốn nuốt chửng những thân phận nhỏ nhoi, yếu đuối kia:
                       Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
                       Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
                      Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Những thân phận vất vưởng không có nơi bám víu, có khác nào kiếp đời bạc bẽo của nàng Kiều đang hiển hiện lên?
                      Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
                      Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
     Hình ảnh chúng vật vờ, cát bụi. Những chiếc cột đèn lại được tái hiện đứng hiu hắt trong đêm, ánh đèn mờ mịt tựa các linh hồn đang khắc khoải. Như lời Kinh Thánh đã nói: Ta sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi! Cảm đồng trong cõi nhân gian, nhà thơ cùng với hàng dừa quê hương cất lời ru em, tiếng ru chan chứa tình đời:
                      Các cô gái đi đêm như các cột đèn
                      Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
                      Biển ru ta và ta ru em
                      Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm...
     Chủ nghĩa nhân văn của bài thơ chính là lòng thương người và nỗi đau nơi nhân tình thế thái.
                          
      LÀM MA EM VỢ 
Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi " kiếp"!
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: nam-mô-di-phật!

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người” 
Sống cần cố gắng, chết rồi thôi!
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
 
     «Làm ma em vợ» là một bài thơ có tính xã hội học sâu sắc, in lần đầu tiên trong tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. được nhà văn Đào Viết Minh binh rất khúc triết. Mấy điều đáng lưu ý:
a.  Bài thơ rất giàu bản sắc dân gian. Về tính triết học, nó dựa theo thuyết bản mệnh trong kinh phật. Tôi xin trích hai câu cuói của bài để phân tích:
                      Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, (*)
                      Anh ở vì chưng trả nợ đời
(*)  Theo kinh phật: Chỉ có người đã chết mới hết nợ đời! Ý của câu thơ, tác giả muốn vấn an hương hồn em: Em chết, coi như đã trả hết nợ đời đó em! Cầu mong hương hồn của nó được siêu thoát nơi suối vàng. Nhà văn Đào Viết Minh đã bình như sau:
     " Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng. Theo quan điểm về nỗi kiếp đoạn trường nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du, thông qua thân phận nàng Kiều - Nàng Kiều trải qua bao khổ nạn, nhục nhã ê chề. Mấy lần phải đắm tấm thân ngà ngọc của mình trong chốn thanh lâu nhơ nhuốc, đến mức phải tìm cách quyên sinh cho thoát nợ. Nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường để chết... nhưng rồi lại được Giác Duyên vớt cứu - Nghĩa là, theo thuyết bản mệnh, món nợ kiếp của nàng Kiều chưa hết. Nàng vẫn phải sống để trả nốt nợ đời:
                      Làm cho sống đọa, thác đầy
                      Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
                                                                ( Kiều )
     Trở lại với bài thơ "Làm ma em vợ" của Phạm Ngọc Thái, với câu:
                      Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,

     Ý của câu thơ như đã phân tích trên. Còn câu thơ dưới:
                      Anh ở vì chưng trả nợ đời
     Anh còn sống, chẳng qua vì đời chưa hết nợ. Trả hết nợ đời rồi, anh cũng đi thôi! ".
     Và nhà bình luận kết luận rằng: "Làm ma em vợ" là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp dân tình.
b.  Chìm sâu trong bài thơ, nó mang ý nghĩa phê phán xã hội vẫn còn nhiều sự bất nhân. Ngay câu mở đầu:
                     Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp"!
     "sống" mà phải tìm cách tự kết liễu mình để thoát khỏi cảnh sống, thì không biết có  kiếp nạn nào khốn khổ hơn? Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một nạn nhân của xã hội mà thôi.
c. Cấu tứ bài thơ súc tích, tình thơ cảm động, sâu sắc nghĩa đời. "Nghĩa tử là nghĩa tận", nhà thơ đã cầu nguyện cho em:
                     Anh thắp cho em một nén nhang đời
                     Và lễ tạ: nam-mô-di-phật!
d. Ở đoạn thứ hai, lời thơ mang âm hưởng như những tiếng khóc tang nơi dân dã:
                     Người sống đưa chân người chết đây
                     Đầu bạc làm ma mái xanh này
                     Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
                     Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
     Ý tứ đã được gạn lọc để hợp với hoàn cảnh, nông nỗi về cái chết của người em.
     Xét về cả nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật: "Làm ma em vợ" có chân dung của một bích phẩm thi ca! Cho dù thời thế có biến đổi, lịch sử có thăng trầm... thì tình thơ vẫn có khả năng tồn tại trường cửu cùng năm tháng.
     Ta hãy đọc đoạn thơ cuối:
                     Em ơi, chữ "kiếp" trước chữ "người"
                     Sống cần cố gắng, chết rồi thôi!
                     Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
                     Anh ở vì chưng trả nợ đời.
     Tác giả đã kết hợp cả duy tâm và duy vật biện chứng để phản ảnh quan niệm, màu sắc tín ngưỡng xã hội trong mối quan hệ cuộc sống, cá nhân với cộng đồng. Bài thơ chỉ có ba đoạn, mười hai câu mà ý nghĩa rất sâu sắc! Nó có thể trở thành một trong những bài khóc tang có giá trị điển hình của nền văn hiến Thăng Long xưa nay.
                           
     NÕI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG
Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
 
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
 
Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                           lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
 
Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!
 
Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.
 
Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
                                     cũng rộm vàng khói cột
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu
Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?
                             Nước Đức- Đêm 11/9/1989
 
(1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.
 
    Tác giả đã sáng tác bài thơ này trong những năm tháng ở nước ngoài vào cuối thế kỷ XX. Thi phẩm đã được xuất bản lần đầu tiên trong tập "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - Để phản ảnh một bối cảnh xã hội, sự bi hài trong cuộc sống, nhiều nơi dân tình rơi vào sự đói nghèo, hoạn nạn.
     Sau đó bài thơ đã được Khánh Hòa bình rất sâu sắc. Trong bài viết này, tôi lược trích bài bình đó của nhà văn Khánh Hòa, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
                                   
LỜI BÌNH: Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút, đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90, Xô Viết Nga tan vỡ và hàng loạt các nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời, như ở trong bài Trở Về tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:
                        Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương...
     Những trăn trở riêng chung của tác giả trước thực cảnh của các đám dân dã đi tha phương kiếm sống:
                        Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
                        Rời quê qua bên kia biển sóng
                        Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
   Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời:
                        Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                        Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
     Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
                        Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                        Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
     Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào:
                        Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1)
- Câu (1) này: Sử dụng ý thơ của Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp, thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ, quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán, thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều:
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                             lọc sàng từng đống rác...(2)
- Câu (2): Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki -  Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
     Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!
      Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
       Vậy là, thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán...  cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
       Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau thật bi hài:
                        Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
     Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
                      Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
                      Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
                      Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                      Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
     Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại cả một "một tấn đời"! Bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và tính điển hình thời đại, ở trong một giai đoạn có nhiều biến động phức tạp xẩy ra cả trong nước và trên thế giới.
                                                                       (Lược trích lời bình của Khánh Hòa)
                           
             C.  VŨ TRỤ THƠ TÌNH PHẠM NGỌC THÁI
     Thơ tình Pham Ngọc Thái hầu hết đều thuộc loại tình chia ly hoặc tan vỡ, khi thì anh nuối cảm về một mối tình xưa, lúc vẩn vơ thương nhớ một cô em nào đó. Anh không đi sâu lý giải về sự chia ly hay tan vỡ ấy, thường là mượn chuyện để xây dựng thành hình tượng tình yêu trong thi ca! Số lượng thơ tình Phạm Ngọc Thái sáng tác rất nhiều, đa dạng và giàu hương sắc. Không kể những áng thơ lâm ly về các mối tình được tác giả cảm xúc viết thành thơ hay, có khi chỉ là cuộc gặp gỡ vu vơ ngang đường với một thiếu nữ hoặc người đàn bà trẻ đẹp nào đó, trái tim thi sĩ rung động, thế là cũng tạo thành một tình thơ chí lý. Đọc lên ta cảm tưởng như đó phải xuất phát từ một cuộc luyến ái sâu sắc, nhưng không, lại chỉ là một cuộc tình thoáng bay - Loại thơ tình dạng này của Phạm Ngọc Thái cũng nhiều không kể hết, có tới cả trăm bài và không ít đã trở thành những áng thi ca đặc sắc của văn đàn. Tôi xin trích đôi bài thơ tình kiểu đó ra đây làm ví dụ! 
 
       LỜI HÓT CON CHIM KHÁCH
                         Em trở về với ốc-đảo xanh trinh bạch
                                  (Thơ Đinh Thị Hồng Minh)
 
Em một mình mang ốc-đảo bỏ đi
Anh trở lại phố thành nghe gió hú
Nghe cả lá và hồn đời khẽ vỗ
Con-tim-buồn hoá trăm mảnh vỡ tan.

Con tim buồn không còn thuộc về anh
Những mảnh vụn lẫn vào trong cát bụi
Có một mảnh hoá thành «con chim khách»
Bay đi tìm bóng lạc giữa vu vơ...

Chầm chậm đừng đi người con gái của ban sơ
Anh thả xuống ốc-đảo xanh em
                                một mối tình nguyên thuỷ
Mốt mai lỡ đau nỗi khổ đau của loài tim vỡ
"Con chim khách" vẫn về để hót ru em!
 
    Vào một buổi, anh có gặp một thiếu nữ nọ... nói dăm ba câu chuyện tinh ý gái trai, thế rồi nàng bỏ đi. Nhà thơ ở lại thẫn thờ, bâng khuâng. Trái tim thi sỹ đã bị thiếu nữ làm xao động mất rồi? Anh đi vào một cái quán nhỏ trên phố, mua một ly cà phê và viết thơ về nàng:
                      Em một mình mang ốc-đảo bỏ đi
                      Anh trở lại phố thành nghe gió hú
                      Nghe cả lá và hồn đời khẽ vỗ
                      Con-tim-buốn hoá trăm mảnh vỡ tan!
     Cái nàng thiếu nữ ấy lại cũng có một tý chút ham mê thơ phú. Như một số nữ sinh viên, nàng làm thơ tình chép vào sổ tay rồi thỉnh thoảng lại chọn một đôi bài gửi đi đăng báo. Trong một bài thơ tình của cô gái, có câu viết: Em trở về với ốc-đảo xanh trinh bạch /- Phạm Ngọc Thái đã lấy câu thơ đó làm tựa đề cho bài thơ "Lời hót con chim khách" của mình. Nói về cái «ốc đảo» của người con gái vẫn còn trinh bạch và thơm mát, ta nhớ đến bài "Thiếu nữ ngủ ngày" của bà Hồ Xuân Hương. Bà tả người trinh nữ:
                      Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
                      Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
     Ý muón nói: thiếu nữ vẫn còn tinh khôi, trong trắng... chưa bị đời làm vẩn đục – Còn trong bài "Lời hót con chim khách" này, nhà thơ tưởng tượng ra cả phố thành chìm vào bão gió khi người con gái ấy bỏ đi:
                      Anh trở lại phó thành nghe gió hú...
     Để rồi:
                      Con-tim-buòn hoá trăm mảnh vỡ tan!
     Nghĩa là, mất em cả phố thành hoang lạnh và lòng anh cô đơn! Nhưng vấn đề mà tôi muốn đề cập đến trong bài thơ này, chính là hình tượng "Lời hót con chim khách" như cái tên đề:
                      Có một mảnh hoá thành "con chim khách"
                      Bay đi tìm bóng lạc giữa vu vơ...
     Trái tim nhà thơ tan vỡ để lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Nhưng dù vậy, vẫn có một  mảnh hóa thành chim bay đắm đuối tìm em, để:
                      ... thả xuống ốc-đảo xanh em
                                                một mối tình nguyên thuỷ
      Mối tình nguyên thủy là mối tình nguyên khôi, trong mát tựa một sớm ban mai thơm những hương hoa. Bài thơ được kết thúc với những câu thơ thật là nhân ái:
                      Mốt mai lỡ đau nỗi khổ đau của loài tim vỡ
                      "Con chim khách" vẫn về dể hót ru em!
    Lối kết thúc thơ kiểu này... làm ta tưởng nhớ đến một bài thơ nổi tiếng của thi hầo Nga vĩ đại Pushkin. Trong bài "Một chút tên tôi đối với nàng", ông cũng đã kết rằng:
                       Nhưng nếu gặp ngày buồn đau đớn
                       Em thầm thì hãy gọi tên lên!
                       Và hãy tin còn đây một kỷ niệm
                       Em vẫn còn trong một trái tim!
     Hồn thơ đầm đìa và giàu tính yêu thương - Bài thơ "Lời hót con chim khách" đã ra đời như thế!
                                
            ĐÊM THU SƯƠNG
Trăng đi chếch về phía dòng sông vắng
Tiếng con chim bay ngang «cắn» vào khoảng xanh trong...

Đêm thu sương, trăng không vàng mà bạc
Gió khuya khoắt men hàng phố thức
Với mấy người quét rác quét trong đêm
Những ngôi nhà chẳng biết có bình yên?

Đêm thì hoang - Sông cách sông
Lá liễu em đong khắp thân em
Mắt em như liễu ngang cành liễu
Máu chảy đầy trăng, em biết không!
 
     Một đêm thu thanh tĩnh. Bỗng có tiếng con chim lạc đàn bay ngang qua kêu như xé ruột! Tiếng kêu côi cút, ai oán của con chim làm cho thi nhân thổn thức, anh chạnh lòng nhớ đến một cô em đã từng gặp bên kia con sông vắng:
                       Trăng đi chếch về phía dòng sông vắng
                       Tiếng con chim bay ngang "cắn" vào khoảng xanh trong...
     Không gian hiu hắt, lòng người càng thêm cô đơn. Nghe tiếng con chim đêm ở đây, ta nhớ đến bài "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến:
                      Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
     Tâm trạng thi nhân u hoài, bâng khuâng thì hỏi vậy, chứ nào có quan tâm, tận trong cõi lòng ông đang da diết, ngỏn ngang.
     Trở lại với bài "Đêm thu sương" - Đó là vào cái đêm trăng sáng bàng bạc, cảnh phố khuya được gợi ra làm thành nền cho cả bài thơ:
                     Đêm thu sương, trăng không vàng mà bạc
                     Gió khuya khoắt men hàng phố thức
                     Với mấy người quét rác quét qua đêm
                     Những ngôi nhà chẳng biết có bình yên?
     Nhà thơ thao thức trong con gió khuya lạnh lẽo, thấp thoáng bóng những người quét rác đêm. Ta hãy đọc đoạn thơ cuối cùng:
                    Đêm thì hoang - Sông cách sông
                    Lá liễu em đong khắp thân em
                    Mắt em như liễu ngang cành liễu
     Nó trộn hòa giữa thi pháp của dòng thơ tượng trưng và siêu thực. Hàng loạt những hình ảnh về liễu làm biểu tượng quấn quít với nhau để khắc hoạ chân dung người con gái mà anh gặp bên bờ sông vắng ấy. Nói đến "liễu" ta lại nhớ tới câu thơ của Nguyễn Du mô tả nàng Kiều:
                    Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
                    Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
   "liễu yếu đào tơ": đó là hình ảnh tượng trưng về cái đẹp thanh mai, theo quan niệm thẩm mỹ ngày xưa. Còn ở bài này, lấy hình ảnh «dáng liễu trừu tượng» ta vẫn thấy hiện lên bức tranh của cô gái sống động, để rồi tác giả buông một câu kết hoàn toàn siêu thực:
                    Máu chảy đầy trăng, em biết không?
     Lòng khắc khoải tưởng nhớ đến người thiếu nữ tới mức, máu tim của nhà thơ đổ tràn cả lên trăng - Thật là một bài thơ tình thu hiện đại độc đáo!
     Sau đây, tôi chia ra một số đề mục để dễ phân tích về vũ trụ thơ tình của anh.
                              
                          1.  TÌNH MỘNG MÀ VÔ VI
 
     ANH VỌNG NGHE TIẾNG EM HÁT BÊN HỒ
Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
Đôi mắt mùa thu ru êm ả
Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió
Những đêm không chiếu, không màn.

Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
Em mãi còn kỉ niệm trong anh
Như hạnh phúc đời anh: cái thực là hư cả,
Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.

Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
Chiếu ở rất xa,
                    qua hồn ta,
                                    trong mộng ủ
Ôi! Hư vô, sao quặn xiết lòng ta?
Hỡi đêm tàn!
Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...
 
     Nghe nói, thuở xa anh có yêu một người con gái. Những buổi tối đi chơi bên hồ, nàng lại hát cho anh nghe! Tiếng hát của nàng nhẹ như hơi gió, thoảng bay xa và cũng chỉ đủ cho một mình anh thưởng lãm. Xuân Diệu từng viết:
                    Tình chỉ đep khi còn dang dở
     Mối tình của anh với người con gái ấy kéo dài bao lâu không biết? Nhưng lắng nghe trong tình thơ, tiếng hát ấy vẫn vang mãi cùng năm tháng và thấm đẫm tâm hồn:
                    Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
                    Đôi mắt mùa thu ru êm ả
                    Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió
                    Những đêm không chiếu, không màn
     Hay nhất của bốn câu thơ này là hình ảnh về "những đêm không chiếu, không màn" - Tình yêu mới đẹp và kỳ diệu làm sao! Đó là những đêm hạnh phúc, những đêm trong trăng hồ gió mát. Đôi mắt người yêu được anh mô tả như cả một mùa thu êm ái. Lời thơ du dương tưởng như đang đưa ta vào một khoảng không gian đầy nhữmg mộng mơ. Ngôn ngữ bình dị mà vẫn làm cho lòng ta xao động:
                     Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
                     Em mãi còn kỷ niệm trong anh
                     Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả,
     Ý muốn nói, mối tình xưa đã vào cát bụi nhưng nàng vẫn hiển hiện trong cuộc đời anh. Thơ mang màu sắc triết lý giữa hư và thực? Dù thể xác anh dang tồn tại chốn đời thường nhưng niềm hạnh phúc cuộc sống, anh lại cảm nhận nó từ tận cõi hư vô! Nghĩa  là, tình yêu xa xưa ấy vẫn trở về nuôi sống cả linh hồn và trái tim anh – Dù nó có làm cho lòng anh đớn đau, bởi vì:
                      Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.
     Đấy, đoạn thơ đã triét lý như thế! Ngôn ngữ thi ca mềm mại, không rơi vào sự chải chuốt và bọc chứa cả một thế giới tâm linh.
    Nói về đoạn thơ cuối:
                     Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
                     Chiếu ở rất xa,
                                           qua hồn ta,
                                                       trong mộng ủ
     Đời người cũng chỉ thoáng như một đám mây, nhưng cái đám mây của tình yêu đó vẫn về ấp ủ trong mộng và hồn. Lamartin, nhà thơ tình lãng mạn Pháp đầu thế kỷ XIX, khi nói về tình yêu với một người đàn bà đã viết:
                     Hãy yêu nhau, hãy yêu!
                     Khắc giờ đang vụt biến
                     Vội vàng lên cho hưởng trọn giờ vui
                     Thời gian không có bờ, con người không có bến
                     Thời gian trôi đi, đời người mau qua thôi!
     Thì cũng như thơ Xuân Diệu:
                     Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
                     Em, em ơi, tình non sắp già rồi!
     Còn ở trong bài thơ của Phạm Ngọc Thái thì kí ức tình vẫn trở về cào xé trái tim anh! Nhịp thơ nhấn thành cung bậc:
                      Cuộc đời  / như bóng mây / qua vũ trụ
                      Chiếu ở rất xa  /  qua hồn ta  /  trong mộng ủ
     Sau đó câu được buông trải dài xuống, giọng thiết tha:
                      Hỡi đêm tàn!
                      Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...
     Hồn thơ bay xa như có máu trào để mang tình yêu và cuộc sống đi vào cõi vĩnh hằng.
                                
                 TRĂNG DẠT TRONG MÂY
Trăng dạt trong mây
Em trôi vào cuộc sống
Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa
Và những đêm thiếu nữ bên hồ!

Anh không hỏi gió có buồn
Lá có buồn
Một chiều nào đó có hư không
Nỗi buồn sâu xa cuộc sống...

Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống
Như thi ca! Tan vỡ mặt trời!
Anh trông theo em «bờ bãi con người»
Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy?

Biển vẫn nuối ngàn năm quanh Trống Mái
Sắc ti-gôn ai từng hát thay ta!
Em đi, biết bao giờ trở lại?
Gió hồn anh thổi mãi tháng ngày qua…

Trăng đêm nay lung lay trên thành phố
Có một người đã nhớ người xưa
Có một chàng thi sĩ ngắm bơ vơ
Chuyện lạ cõi đời: đàn bà xưa nay là bất tử!
 
     Bài thơ chỉ như một lời tâm tình nhỏ nhẹ nhưng lại ngập tràn cảm xúc. Nó xẩy ra vào lúc nhà thơ nghĩ về việc... người yêu đi lấy chồng:
                       Trăng dạt trong mây, em trôi vào cuộc sống
                       Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa
                       Và những đêm thiếu nữ bên hồ...
     Nàng đi lấy chồng - Nghĩa là, từ biệt đời thiếu nữ! Nhưng vì sao phải: Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa /- Ta để ý ngay câu thơ đầu tiên, tác giả dùng hình ảnh so sánh: vế đầu viết "trăng dạt trong mây" - khi bị mây bao phủ, trăng sẽ mờ tối đi, còn vế sau "... em trôi vào cuộc sống" /- Chẳng lẽ việc lấy chồng làm cho cuộc đời em chán chường đi ư? Thực ra, ý của câu thơ không nặng nề đến thế! Nó chỉ muốn phản ảnh một tâm trạng: Cô thiếu nữ ấy của anh là một người nhiều khát vọng, mộng mơ. Chắc rằng thuở yêu nhau, nàng thường thổ lộ những tâm tình sâu kín với anh, nhưng nay thì em phải giã biệt tất cả để bước vào cái vòng quay khép kín của đời người... đi lấy chồng! Thành thử, việc nàng đi lấy chồng chẳng những chỉ để lại sự hẫng hụt với nhà thơ mà ngay đối với nàng cũng bao tiếc nuối. Những kỷ niệm đẹp về những «đêm thiếu nữ», những đêm hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu mãi mãi lùi vào dĩ vãng. Một sự nuối nả như nhà thơ tự thán:
                       Anh không hỏi gió có buồn
                       Lá có buồn
                       Một chiều nào đó có hư không
                       Nỗi buồn sâu xa cuộc sống...
     Không hỏi? Có nghĩa «nỗi buồn» đó là tất yếu, cần gì phải hỏi. Sau đó nhà thơ đã bộc lộ một tình cảm tha thiết vô vàn:
                       Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống
                       Như thi ca! Tan vỡ mặt trời!
                       Anh trông theo em "bờ bãi con người"
                       Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy?
     Chà, tình yêu mới phiêu diêu và lãng mạn làm sao! "Trăng dạt trong mây" là bài thơ đưa chân người thiếu nữ sang ngang, để lại trong lòng nhà thơ một khoảng trống vắng. Tình mộng mà vô vi... Có buồn nhưng không đến nỗi sầu. Nàng vẫn bay trong hồn và  trái tim anh như những cánh bướm, hương hoa của những chiều mộng mơ. Anh thi sỹ đứng nhìn lên bầu trời đầy những trăng sao, gẩy cây đàn thơ hát mãi về em:
                       Trăng đêm nay lung lay trên thành phố
                       Có một người đã nhớ người xưa
                       Có một chàng thi sỹ ngắm bơ vơ...
                       Chuyên lạ cõi đời: Đàn bà xưa nay là bất tử!
     Phạm Ngọc Thái là nhà thơ của «tình yêu và đàn bà», anh đã gieo một câu kết thật đắc địa!
                    
                TRĂNG LĂN
Trăng đã chán trời nên đi mất
Cứ hững hờ, tiêng tiếc, phân vân
Em có chán anh giống vầng trăng không biết?
Mất trăng rồi còn lại trời đêm.

Biển vỗ vào anh... biển vỗ vào em...
Em hoá đá để sóng ghềnh ôm mãi
Năm tháng, nắng mưa - Đá vẫn còn nguyên đấy!
Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời

Bài thơ tình còn viết em ơi!
Đá vẫn đá, người vẫn người: không thể khác,
Biển hư vô cả những khi cầm bút
Xé rách lòng cho cánh thơ bay

Mất một vầng trăng lại mọc một vầng trăng
Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng...
 
   Nói là thơ «trăng» nhưng lại vào một đêm... không trăng:
                        Trăng đã chán trời nên đi mất
                        Cứ hững hờ, tiêng tiếc, phân vân
                        Em có chán anh giống vầng trăng không biết?
                        Mất trăng rồi còn lại trời đêm.
     Thật ra, sự day dứt của nhà thơ không phải là vấn đề: Em có chán anh giống vầng trăng đã bỏ trời kia đi hay không? mà đó chỉ là một tâm trạng hoài cảm, nhớ nhung. Mất trăng thì bầu trời sẽ vào đêm tối, như đời anh nếu không có em: cuộc sống sẽ âm u, tẻ buồn. Những hình ảnh so sánh, liên hệ trời đất như thế, người đọc cũng dễ cảm đồng được với ý tưởng bài thơ. Đoạn thứ hai, tác giả chuyển sang hình tượng về biển:
                       Biển vỗ vào anh... biển vỗ vào em...
                       Em hoá đá để sóng ghềnh ôm mãi
     Hai cái hình ảnh đá và sóng để nói về tình yêu muôn đời của đôi trai gái - «đá» là một biểu tượng của sự thuỷ chung như Hòn Vọng Phu, còn «sóng» là tình chàng lúc nào cũng dạt dào vỗ quanh em. Bao trùm là hình ảnh của biển cả và cuộc sống, không gian cùng thời gian vĩnh cửu. Dù năm tháng, bão giông thì mối tình của anh và nàng cũng không bao giờ phai:
                       Năm tháng, nắng mưa - Đá vẫn còn nguyên đấy!
                       Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời
     Như vậy, từ hình ảnh "trăng lặn" dưới ngòi bút Phạm Ngọc Thái, anh đã xây dựng nên một biểu tượng vĩnh hằng của tình yêu tạc vào trong trời đất, tựa câu chuyện cổ "trầu cau..." vẫn từng truyền tụng trong dân gian. Sóng cứ ngày đêm ôm lấy đá. Đá và sóng cứ xoắn xít lấy nhau mà vượt qua phong ba, bão tố.            
      Sang đoạn tiếp theo:
                       Bài thơ tình còn viết, em ơi!
                       Đá vẫn đá, người vẫn người: không thể khác,
     Hoài vọng đấy nhưng cuộc sống vẫn cứ phải tồn tại, nhà thơ đã quay trở về với hiện thực dù nhớ thương em:
                      Xé rách lòng cho cánh thơ bay
     Lòng thi sỹ chỉ còn biết hướng về với tình yêu bằng những áng thi ca gửi lại cho đời. Cuối bài thơ, hình ảnh bóng trăng lại hiện về, nhưng «vầng trăng mọc» bây giờ lại chính là... "vầng trăng em":
                      Mất một vầng trăng lại mọc môt vầng trăng
                      Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng...
    Vầng trăng ấy cứ sáng mãi trong trái tim và tâm hồn chàng... dù những «đêm không trăng», cùng với con sóng lòng ngàn năm hôn quanh cái «hòn đá trắng» - Thần tượng của tình yêu! Bài thơ đã được khép lại ở đó.
                                          
                       2.     THƠ TÌNH NHƯNG ÔM BỌC NỖI ĐỜI
     Không kể những áng «thơ đời» đậm tính dân gian như số bài đã phân tích trên: Cô quét lá đêm hồ; Em bán xoài; Làm ma em vợ; hay Nỗi trăn trở người đi tìm vàng... mà ngay trong thơ tình của Phạm Ngọc Thái, cũng rất nhiều bài «ôm bọc nỗi đời». Mỗi bài một vẻ, sự sâu sắc khác nhau.  Xin chọn ra đôi bài làm thí dụ, để giới thiệu cho bạn đọc dễ cảm nhận: Từ nỗi đời vào thơ tình Phạm Ngọc Thái thế nào?
     Như tôi đã nói ở trên: Vào những năm cuối thế kỷ XX, Phạm Ngọc Thái có một giai đoạn sống và  công tác ở nước ngoài. Sau thời gian đó, khi về nước anh cho xuất bản tập thơ "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - gòm những thi phẩm mà anh đã sáng tác trong những ngày tháng xa nước đó. Ở đây, tôi giới thiệu hai bài thơ của anh đều rút ra từ tập thơ ấy!
 
             EM, CÁT VÀ DÒNG SÔNG
Buồn chi em mà hát
Bên dòng Sông Lô (*)
Vui chi em mà khóc
Ướt bờ vai anh.

Ôi con nước tháng năm
Cứ phăm phăm chảy xiết
Cuốn cả em và cát
Trôi tận về xa xăm.

Em rời bỏ dòng sông
Tha phương tìm hạnh phúc 
Đường bơ vơ thân chiếc
Chút tình riêng em mong.

Ta, cánh chim lìa đàn
Gặp nhau cùng cô lẻ
Hai tâm hồn đáng thương
Vá lành chăng? Không thể!

Em cần cả cuộc đời...
Anh chia đôi xẻ nửa:
Chốn quê hương xa vời
Còn một người vợ trẻ!

Có gì vui cho em
Thương cũng thành tạm bợ
Nhìn nhau cười... rỏ lệ!
Hạnh phúc sao phũ phàng?

Em đi đâu?... Về đâu?...
Con thuyền đời trôi dạt
Lòng anh dẫu bao dung
Nhưng mặn mòi, đắng chát.

Em khóc và em hát
Nước chảy xanh dòng sông
Xuôi tới mãi vô cùng
Giữa mênh mông toàn cát...
 
(*) Người con gái ấy có quê bên dòng Sông Lô. Nhà thơ đã mượn «tên con sông» làm hình tượng về đường đời.                     
 
      Những năm tháng tràn trong dòng người xuất khẩu lao động sang châu Âu, cô gái cũng ra đi theo dòng gió cuốn. Nhà thơ tâm tình với em như những lời thủ thỉ bên con sông quê hương:                     
                       Buồn chi em mà hát
                       Bên dòng Sông Lô
                       Vui chi em mà khóc
                       Ướt bờ vai anh.
      Nàng buồn vì cuộc đời nên nàng hát, nàng vui vì hạnh phúc của ái tình, yêu thương nhưng lại không có hậu nên nàng đã khóc chăng? Bài thơ nói về thân phận cùng mối tình thiết tha... nhưng đầy những tủi buồn. Cái kiếp bọt bèo của con thuyền gái lênh đênh trong cuộc bể dâu? Đó là mối tình họ đã dan díu với nhau trong những năm tháng xa nước, vì cô lẻ:
                       Ta cánh chim lìa đàn
                       Gặp nhau cùng cô lẻ
                       Hai tâm hồn đáng thương
                       Vá lành chăng? Không thể!
     Nhưng tại sao hai cánh chim lạc đàn cùng cô lẻ kia, lại không thể vá lành trái tim và cuộc đời của nhau? Nhà thơ đã giải thích:
                       Em cần cả cuộc đời...
                       Anh chia đôi, xẻ nửa:
                       Chốn quê hương xa vời
                       Còn một người vợ trẻ!
     Đó là cái cảnh tình đầy mâu thuẫn của bài thơ "Em, cát và dòng sông" này. Một cuộc tình duyên trớ trêu. Con sông đường đời ấy lại ngày đêm cứ phăm phăm chảy xiết:
                       Cuón cả em và cát
                       Trôi tận về xa xăm...
     "cát" là một hình tượng về «cát bụi cuộc đời». Đời người con gái cũng bèo dạt, mây trôi đó thôi! Một bài thơ tình tha thiết yêu thương nhưng thấm đầy nước mắt? Bởi, dù anh có yêu em bao nhiêu, nhưng còn một người vợ trẻ đang chờ đợi anh ở quê nhà. Đấy chính là cái lý do, anh đành phải «...chia đôi, xẻ nửa» - Một mối tình tạm bợ trong những năm tháng xa quê.
     Cảm thương với nỗi đau trong lòng người con gái, nhà thơ đã thốt lên:
                        Em đi đâu?... về đâu?...
                        Con thuyền đời trôi dạt
                        Lòng anh dẫu bao dung
                        Nhưng mặn mòi, đắng chát
     Lệ của chàng thi sĩ cũng đã rơi ở trong thơ! Trên con sông tháng năm chảy xiết kia, tương lai của người con gái chỉ thấy:
                        Giữa mênh mông toàn cát...
    Một mối tình đằm thắm nhưng lại không có kết hậu. Vậy, bài thơ để nó phản ánh cái gì? Đó là tiếng hát từ trái tim và nỗi lòng chính họ, thật xa xót cho những kẻ cầu thực, tha phương. Bản thân nhà thơ cũng đã tự phân bua với chính lòng mình:
                        Có gì vui cho em?
                        Thương cũng thành tạm bợ
                        Nhìn nhau cười... rỏ lệ!
                        Hanh phúc sao phũ phàng?
     Có thể nói "Em, cát và dòng sông" là một bài thơ tình ôm bọc sâu sắc nỗi đời và đầy chất vị tha. Cô gái ấy đã khóc và đã hát! Nước mắt nàng chảy xuống lòng con sông xanh thẳm cứ xuôi mãi, xuôi mãi tới vô cùng...
                  
          CỎ HOANG           
            Thuở ấy quê người đất khách
             Trong buổi tha phương mưu tính cuộc đời
             Tôi đã gặp những người con gái
             Dẫu yêu kiều, nhưng cũng bèo thôi...
                     (viết trong đám người xk lao động ở nước ngoài)

Cô gái bay đi ngỡ làn mây dại
Trôi lang thang đầu bãi, cuối giời
Em tự do như thể là cát bụi
Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi!

Loài lạc thú phồn vinh hơn gió
«Cơn hồng hoang» thả cỏ xuân xanh
Em phá bỏ những đức qui kiềm chế
Yêu phanh phui, yêu đến tan tành!

Tôi nghĩ: Thôi thế đã thoả lòng ham hố
Khoả thân mây đùa rỡn cả linh thiêng…
Huống hồ buổi thường bán buôn đạo lý
Có dễ gì thân gái, trách chi em!

Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian!
Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
Ta từng ngợi ca chủ nghĩa nhân văn chân thiện nhất
Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng...

Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú
Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi Thánh Nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang,  
                                           gieo hoa cấy linh hồn!
 
       Một bài thơ nửa tình, nửa đời, nói về người con gái bèo dạt mây trôi, để phản ảnh cảnh tượng có thể gọi là bừa bãi, không còn luân thường đạo lý của một lớp dân dã sống tha phương ở nước ngoài – Qua đó tố cáo một hiện thực xã hội xuống cấp, đạo đức bị tha hóa:
                        Cô gái bay đi ngỡ làn mây dại
                        Trôi lang thang đầu bãi, cuối giời
                        Em tự do như thể là cát bụi
                        Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi!              
     Cái cảnh bay đi giống như một làn mây dại, nói lên sự hoang dại của người con gái ấy: "Em tự do" nhưng lại tự do «như cát bụi»... đến nỗi giời cũng phải khóc! Hình tượng «cỏ hoang» không phải chỉ để phản ảnh thân phận của người con gái, mà của cả những chúng sinh lang thang, cầu thực. Ta hãy đọc bốn câu làm tựa đề:
                        Thuở ấy quê người, đất khách
                        Trong buổi pha phương mưu tính cuộc đời
                        Tôi đã gặp những người con gái
                        Dẫu yêu kiều, nhưng cũng bèo thôi...
     Tác giả tả về cái tuổi xuân xanh bọt bèo của các cô gái:
                        Loài lạc thú phồn vinh hơn gió
                        «Cơn hồng hoang» thả cỏ xuân xanh...
                        Em phá bỏ những đức qui kiềm chế
                        Yêu phanh phui, yêu đến tan tành!
     Trai gái yêu đương lộn phèo hoang dã, không khác nào thuở còn buổi hồng hoang xưa. Giai đoạn ấy ở trong nước thì kinh tế sa sút, đói kém, dân lao động đổ xô ra nước ngoài mưu cuộc sinh nhai. Anh muốn phục lại một hiện thực xã hội – trong đó các cô gái và tầng lớp chúng sinh kia cũng chỉ là nạn nhân, như trong thơ đã lý giải:
                        Huống hồ buổi thường bán buôn đạo lý?
                        Có dễ gì thân gái, trách chi em!
     Thời buổi mà đến đạo lý cũng đem ra chợ giời để bán, như Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười (vàng của lương tâm) đem ra bán nốt /- Thì những cô gái sống lang bạt  nơi đất khách quê người, sao giữ trọn được mình? Có một đoạn nhà thơ đã mô tả về xã hội và thế giới:
                         Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian!
                         Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
                         Ta từng ngơi ca: Chủ nghĩa nhân văn chân thiện nhất
                         Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng...
     Cái cộng đồng của chúng ta đang sống hôm nay, vừa là Thiên đường vừa là Địa phủ! Bởi: Loài người mãi sao tràn lan tội ác? /- Nghĩa là, dù cũng có những điều tốt đẹp nhưng cường bạo, tội ác thì ngày càng hoành hành, đẩy chúng sinh vào thảm cảnh khốn cùng. Tôi muốn phân tích thêm về câu kết của đoạn thơ này:
                         Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng...
     Đây là một câu thơ siêu thực. Nó không phải chỉ là để miêu tả về sự trần trụi của người con gái (nghĩa đen) - Nghĩa bóng, mô phỏng bản chất muông dã của con người theo thuyết Đác Uyn. Nếu đọc đến đoạn thơ cuối ta thấy có câu:                      
                         Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
                         Và bản chất muôn đời con muông thú
     Nhất lầ ở những người con gái thì sự hoang dã ấy lại càng nhiều. Ý nói, thời hiện đại hướng để nuy của giới nữ trẻ ngày càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng...Nhưng nếu cái bản chất hoang dã của giới nữ ở trong điều kiện xã hội có đời sống cao, văn minh,  thì nó còn hàm chứa nhiều tính mỹ học. Đằng này, vào «buổi hống hoang» tạp-pí-lù của lớp người tha phương, cầu thực - đó chỉ là những sự bừa bãi, lộn ẩu, bệnh dịch mà thôi. Cho nên, đi sâu vào phân tích bài thơ "cỏ hoang", ta cần hiểu từng đoạn thơ hoặc những câu thơ biệt lập. Chúng tổng hợp tác động với nhau mà làm nên ý nghĩa của toàn bài.
     Về hai câu thơ cuối:
                         Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi Thánh Nữ
                         Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang,
                                                                               gieo hoa cấy linh hồn
      Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nhất là câu thơ kết... vào hàng tuyệt bút! Hình ảnh tượng trưng, ngôn từ mỹ học, hàm ý sâu xa và tính nhân bản cao: Thời buổi từ kẻ mũ cao áo dài cho tới phường lưu manh, đứa tám lạng người nửa cân, khốn nạn khác chi nhau? Đấy là ý của câu thơ: Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi Thánh Nữ /- Người con gái trở thành thứ đồ chơi cho những thú tính của chúng. Câu thơ đả kích vào bọn làm chính trị quen thói đạo đức dổm.   
    Chính những người con gái đó là hoa thơm, trái ngọt của sự sống chúng ta - Thế mà, thân phận chỉ là những kiếp phù du và cánh bèo hoang trôi dạt, lênh đênh.
                                   
                       3.  ĐÔI TÌNH THƠ LẠ VÀ HAY
     Trong phần này, xin giới thiệu hai bài thơ tình đại diện:
           - Hàng cây lá đổ
           - Xem tranh bán loã thể
     Nói qua về thơ hay và lạ trong thi đàn - Có những tình thơ rất lạ, nó không giống như nhiều bài thơ thường tình cảm xúc từ cuộc sống, mà lại nẩy sinh bất ngờ ở một miền hư ảo mông lung nào đó? rồi thi sĩ xuất thần mà sáng tác ra. Nhưng sáng tác những tinh thơ này cho hay không dễ, rất dễ bị hỏng thơ. Tôi lấy vài ví dụ về những áng thi ca như vậy của văn đàn xưa nay: «Tiếng thu» Lưu Trong Lư, «Tống Biệt» Tản Đà, «Bẽn Lẽn» Hàn Mặc Tử...
     a/- Đôi nét về Bẽn Lẽn - Vào một đêm trăng, cảnh tình hư ảo mà lòng thi nhân lại cô đơn! Ánh trăng rớt xuống cành liễu như cái dáng mềm mại của người con gái,  cứ mơn man xung quanh hồn và mộng thi nhân. Nó gợi về một cảm giác tình ái đắm đuối, làm trái tim Hàn Mặc Tử mê man, rạo rực... mà tạo thành hình ảnh thi ca sống động, tuyệt hay: 
                          Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                          Đợi gió đông về để lả lơi
      Ông lắng nghe những âm hưởng xung quanh và trong lòng mình:
                          Trong khóm vi lau rào rạt mãi
                          Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
     Ta như nghe thấy cả hơi thở hồi hộp của thi nhân, một tình cảm gái trai đang khuấy lên trong lòng Người. Nó rất khẽ, từ một cõi bí mật chỉ riêng mình Người biết. Nhìn vầng nguyệt đang lả lơi soi xuống lòng khe nước, Người nghĩ đến cái kín đáo nhất của người trinh nữ, qua đó mà tả vè "cái ấy" của nàng:
                          Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                          Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe    
     Đó là «những câu thơ vàng»được xếp vào hàng toàn bích của thi ca!
       b/-  Tống Biệt của Tản Đà -
                          Lá đào rơi rắc lối thiên thai
                          Suối tiến, oanh đưa luống ngậm ngùi!
                          Nửa năm tiên cảnh,
                          Một bước trần ai,
                          Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
                          Đá mòn, rêu nhạt,
                          Nước chảy, huê trôi,
                          Cái hạc bay lên vút tận trời!
                          Trời đất từ đây xa cách mãi.
                          Cửa động,
                          Đầu non,
                          Đường lối cũ,
                          Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.      
     Như lời phân tích của nhà bình thơ Vũ Quần Phương:
-   Bài thơ chỉ ngắn có 13 câu, nó nói lên tâm trạng của kẻ từ biệt cõi thiên thai về lại chốn trần gian với lòng buồn ngơ ngẩn...
     Những kỉ niệm tiên cảnh rồi cũng phải vầo lúc "Tống biệt":
                          Nửa năm tiên cảnh
                          Một bước trần ai
     Và trên đường về suối tiễn, oanh đưa thât là thi vị:
                          Lá đào rơi rắc lối thiên thai
                          Suối tiến, oanh đưa luống ngậm ngùi!
     Tới phàm trần rồi, trong lòng buồn hiu hắt... ngẩng mặt mà nhìn lên chốn tiên sa:
                          Cái hạc bay lên vút tận trời!
                          Trời đất từ đây xa cách mãi.
     Cõi tiên không còn, thời gian xa lắc - Bài thơ như một khúc nhạc du dương, tiết tấu khúc triết, ngắt ra mà chấm phá. Đến cuối cùng khách thơ trong lòng đầy nuối tiếc, chỉ còn biết:
                          Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
     Đó chính là hình bóng của thi nhân. Cũng theo nhà bình luận: «Ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu đều thoát tục». Lời thơ tựa như những giọt sương trong suốt, huyền ảo... đưa ta vào một chốn bồng lai ở tận mãi xa xanh. "Tống biệt" là một bài thơ hay, hàm súc vào bậc nhất của thi sỹ Tản Đà.
     Giờ xin quay trở lại bình một bài thơ tình «hay và lạ» của thi sĩ Phạm Ngọc Thái.
 
         HÀNG CÂY LÁ ĐỔ
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây,
Bản tình xưa em hát ở đây!
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết...
 
Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em!
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga.

Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
                                          lắt lay
                              
     Một buổi chiều lặng ngắt, chỉ nghe thấy tiếng gió heo hút:
                           Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
                           Ta lang thang qua lá đổ hàng cây
     Đoạn thơ khắc hoạ cả khoảng không gian, thời gian... nhưng đó chỉ là không gian, thời gian theo ý nghĩa trừu tượng: nó vô tận... Đây là cái chiều của sự cô đơn trong cuộc đời, dưới hàng cây lá đổ xuống ngày đêm, anh lang thang trong cõi vắng.
     Sự "đi" kia cũng chỉ mang theo ý ẩn dụ? Đây là cảnh tan tác của một mối tình, nhà thơ chạnh lòng mà nuối cảm. Ở trong hai câu 7- 8 nói rõ hơn:
                           Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
                           Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga.
      Bóng «những con thiên nga», chính là hình ảnh tượng trưng của tình yêu! Ngay trong khổ thơ đầu, nhà thơ cũng đã mô tả về nó:
                           Bản tình xưa em hát ở đây!
                           Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết...
     "những con thiên nga đã chết" ấy - Nghĩa là, tình yêu của nàng đối với anh cũng không còn. Nhưng hình bóng nàng, tình yêu dành cho nàng trong trái tim thi nhân thì vẫn nguyên vẹn như xưa. Nàng để lại một thế giới tình yêu hoang tàn, đi dưới hàng cây lá đổ đó, anh nhớ về những kỉ niệm đã qua:
                           Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết
                           Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em!
      Trinh trắng vô vàn, nụ hôn thì nồng nàn, tha thiết... cũng ở dưới hàng cây lá đổ ấy. Đó là khoảnh khắc bài thơ đã ra khỏi biên giới của những ảo ảnh, mặc dù vẫn chỉ là những cảm xúc trong mộng.
     Nhưng thời gian cứ trôi, ký ức rồi cũng sẽ phai nhoà:
                          Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
                          Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
                          Xin rụng một bông buồn
                                                                     lắt lay
     Đời người, mái tóc nhà thơ đã trắng bạc cùng với sự phôi phai, trong cái vũ trụ mênh mông của tình yêu và cuộc sống. Ta đã nghe thấy cả ngàn năm sau, con gió còn ru mãi  những hàng lau lắt lay buồn...
     Bài thơ đã được kết ở đó! Nó lại trở về với hình ảnh của chiều gió heo hút ở câu thơ đầu.
                              
         XEM TRANH BÁN LOÃ THỂ
                             Tưởng nhớ bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng
                                                      của thi nhân Bích Khê 
 
Nàng để hở một vòm trời tuyệt mỹ
Thế giới là đây! Cuộc sống là đây!
Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình
                                                   ra từ trong bụng.

Lui xuống dưới nàng, một rừng sâu um tùm
                                                    che hang động
Lên trên nàng, đôi mỏm núi trắng vô biên
Thân thể nàng tràn đầy hương nhụy phấn
Thiếu nữ mặc hở quần: hơn bao lời hoa mĩ phát ngôn!

Em như gió trăng mà rung động cả vua chúa, thánh thần
Cuộc sống cần em
Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử
Khi em cởi ra nhiều: điểm báo
                             thế giới càng hiện đại văn minh (1)
Nhưng điều đáng đớn đau là tính nhân loại
Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm gây tội ác! (2)
 
     Anh Trần, một nghệ sĩ Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội đã đánh giá:
-  Bài thơ viết rất "nghệ", sâu sắc và hay!
      Thí dụ như những hình ảnh:
                          Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
                          Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình
                                                                    ra từ trong bụng...
     Theo như ý của người nghệ sĩ: Câu thơ không phải chỉ muốn khoanh vào để nói, em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người! Ý nghĩa bao trùm của nó rộng lớn hơn: Tình yêu và đàn bà sinh ra cả hạnh phúc lẫn khổ đau, chiến tranh và hoà bình - Thi ca mang tính nhân loại! Ta hãy nghe tác giả miêu tả về "cái" của người đàn bà:
                         Lui xuống dưới nàng, một rừng sâu um tùm
                                                                    che hang động
                         Lên trên nàng, đôi mỏm núi trắng vô biên
     Ta lại nhớ đến những câu thơ miêu tả người thiếu nữ của thi nhân Bích Khê:
                         Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi
                         Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng
                         Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!
                                                     (Tranh loã thể)
     Trở lại với bài "Xem tranh bán loã thể" của Phạm Ngọc Thái, cũng như nghệ sĩ Anh Trần phân tích:
-  Tác giả không chỉ dừng lại ở sự miêu tả, thơ đã được phát triển một cách sâu sắc:
                         Em như gió trăng
                                       mà rung động cả vua chúa, thánh thần
                         Cuộc sống cần em
                          Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử
     Hàm ý lên án chiến tranh sâu sắc. Nó có khả năng đứng được trong nền văn học nước nhà. Nhất là trong đoạn thơ kết:
                           Khi em cởi ra nhiều: điểm báo thế giới
                                                  càng hiện đại văn minh (1)
                           Nhưng điều đáng đớn đau là tính nhân loại
                           Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm gây tội ác! (2)
      Tính thời đại cùng ý nghĩa nhân bản của thi phẩm đã được phát triển tới tột cùng! Ở cuối bài đã được tác chú giải rất sâu sắc, tôi xin đăng lại phần chú giải đó:
 (1)   Thế giới càng hiện đại văn minh thì khuynh hướng triển lãm thân thể của các thiếu nữ càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng.
(2)   Nhà văn Nga Ai Ma Tốp đã cảnh báo trong tác phẩm "Đoạn đầu đài" nổi tiếng của ông rằng: Thế giới, cái ác vẫn lấn át cái thiện và con người hiện đại còn ác hơn con sói!
      Bài thơ được coi là một kỳ tác thi ca!
 
                      4.   THƠ TÌNH THỜI ÁO TRẮNG
       Phạm Ngọc Thái sáng tác rất nhiều thơ tình viết về thời áo trắng. Ở đây, tôi chỉ xin chọn ra đôi bài mà ngay trong tít đề đã có cái tên "áo trắng".
 
      THỜI ÁO TRẮNG
Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
Những bông hoa mùa xuân thôi không nở
Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn.


Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách
Mắt em cười mùa thu xanh lên!
Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học
Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!

Trả lại cho anh một thời áo trắng
Đã đi qua và... đã đi qua...
Với cả dòng sông trôi mơ mộng
Lá lá rụng vàng, tóc tóc hóa sương pha.

Nghe gió thổi hàng cây vi vút
Em biển xanh xa mãi vô cùng
Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc
Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng.

Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
                               
     Vào đầu bài thơ ta đã thấy tiếng gọi của thi sĩ, như muốn níu kéo về một thời xa:  
                       Trả lại cho anh một thời áo trắng
                       Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
                       Những bông hoa mùa xuân thôi không nở
                       Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn
       Cái thời đó như những buổi ban mai trinh khiết và thơm mát, tình yêu với các nàng thiếu nữ cũng thật quyến rũ, say mê. Nhà thơ bàng hoàng, nuối tiếc: Trả lại cho anh.../- Bởi, cái thời ấy đã quá xa với anh rồi. Nhưng nghe thơ, ta lại cảm thấy như vừa mới mất thôi! Cả đất trời cùng luyến tiếc: Hoa mùa xuân thì thôi không nở, nhà thơ chỉ còn biết lang thang trong những ánh điện đêm thành phố hoài vọng, nhớ thương. Tình yêu thời áo trắng với bao nhiêu sự ngọt ngào, nhưng mỏng manh như sương mai, rất dễ bị vỡ tan trên đường đời đầy cát bụi. Dẫu thế, nó vẫn lắng đọng rất sâu trong tâm hồn anh. Đời người, thường ai cũng cất dấu trong trái tim một khoảng trời xa xăm nào đó, những kỷ niệm êm đềm. Tác giả đã thốt lên:
                       Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách
                       Mắt em cười mùa thu xanh lên!
                       Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học
                       Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
      Đôi mắt của người con gái là cả mùa thu xanh thẳm, mộng mơ, vẫn hiển hiện trong anh trong những đêm trống vắng. Hình ảnh câu thơ "...khe khẽ nát tim anh!" - gợi ta về mối tình của một thời chớm nở. Dưới ánh trăng kia... đôi trai gái đang học bên nhau. Cái bỡ ngỡ,  rụt rè, ham muốn của buổi ban đầu. Đó chính là thời mà anh cùng em ngồi dưới mái trường đại học. Ôi, tà áo trắng của người thiếu nữ khẽ động vào cũng làm cho trái tim nhà thơ xốn xang.
     Có thể nói "Thời áo trắng" là một bài thơ gối đầu của những lớp sinh viên, nhất là các  nữ sinh. Họ tìm thấy trong đó hơi thở, tình yêu tuổi trẻ! Không chỉ thế, ngay cả các bậc hoa niên cũng tìm về kí ức một thời xa của mình, từng dan díu với bao em thiếu nữ.
     Sau đó tác giả khắc hoạ dĩ vãng với lớp lớp thời gian:
                        Trả lại cho anh một thời áo trắng
                        Đã đi qua và... đã đi qua...
                        Với cả dòng sông trôi mơ mộng
                        Lá lá rụng vàng, tóc tóc hoá sương pha
     Con sông của tuổi thơ xanh biếc khát vọng, ước mơ. Năm tháng theo lá rụng và mái tóc nhà thơ cũng bạc dần. Điệp khúc "Trả lại cho anh một thời áo trắng" đã được đay đi, đay lại đến ba lần - Đó chính là ý tưởng của tình thơ! Đại từ "em" cũng chỉ là hình ảnh tượng trưng chứ không để nói về một người con gái cụ thể nào. Tất cả đã trôi qua, chỉ còn đây  tiếng vọng:
                        Nghe gió thổi hàng cây vi vút
                        Em biển xanh xa mãi vô cùng
                        Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc
                        Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng.
      Chính là tiếng của trái tim anh đang đập dồn dập bên bờ bến tình xưa...
                               
        PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG
Tà áo trắng em đi qua phố
Mùa thu rơi phủ mắt anh
Tà áo trắng của người sinh nữ
Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.
 
Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
Áo quệt vào, máu rỏ hai tay…
Ôi, mùa thu! Mùa thu êm ả!
Sao lòng anh tơi tả thế này?
 
Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
 
Anh cũng có một thời bên áo trắng
Cũng bế bồng và cũng đã ru em!
Cái thời ấy chìm vào xa vắng
Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang.
 
Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
Câu thơ nẩy những bông hoa buồn
Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
Em đi rồi! Anh chết cả mùa đông...
 
    Nếu như "Thời áo trắng" chỉ là sự hồi tưởng của ký ức về tình yêu một thời,  thì "Phố thu và áo trắng" lại là một tình thơ, cảm xúc của tác giả vọt trào ra bất chợt trên đường đời. Có một buổi nhà thơ đang đi trên phố, bỗng nhiên anh bắt gặp những tà áo trắng của các nữ sinh vào buổi khai trường mùa thu, phấp phới bay lướt qua anh. Nhà thơ bồi hồi  nuối lại những kỷ niệm xưa:
                        Tà áo trắng em đi qua phố
                        Mùa thu rơi phủ mắt anh
                        Tà áo trắng của người sinh nữ
                        Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.
     Ôi mùa thu! Mùa thu sâu lắng có cả màu áo trắng em trong đó. Vậy, tà áo trắng này là tà áo trắng thực, Phố thu này cũng là phố thực. Nó khác với "Thời áo trắng", chỉ là thành phố và tà áo trắng tượng trưng trong tưởng tượng.
     Gặp lại những tà áo trắng ấy, nhà thơ xúc động đến mức máu tim anh rỏ xuống:
                        Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
                        Áo quệt vào, máu rỏ hai tay...
     Chàng bật kêu lên! Không, chàng nấc lên:
                        Ôi mùa thu! Mùa thu êm ả!
                        Sao lòng anh tơi tả thế này?
     Nếu như ở Thời Áo Trắng: Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh !/- Sự xao động, ham muốn còn ở mức độ bỡ ngỡ, rụt rè của tình yêu ban đầu - Thì trong Phố Thu Và Áo Trắng, nỗi xa xót, tiếc nuối đã xiết lên trái tim nhà thơ dữ dội hơn nhiều. Anh bàng hoàng nhớ về một thuở đã từng say đắm, ngọt ngào bên người thiếu nữ? Tâm trạng nuối tiếc ấy như con dao cứa vào, cào nát trái tim anh! Máu như chảy ngập tràn cả mùa thu. Thế là tất cả đất trời:
                        Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
                        Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
     Đến đây, hình tượng thơ lại trở thành tượng trưng. Tà áo trắng hiện lên mà tưởng như thành sét đánh xuống cuộc đời. Tấm ảnh lưỡi dao cào nát cả trái tim mùa thu, là một hình tượng đã được thăng hoa để đẩy nỗi thơ đến tột cùng! Rồi một bức họa in trên nền trời:
                        Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
                        Lang thang vài cánh bướm bơ vơ...
     Là hình ảnh ảo. Không phải những con bướm ấy bơ vơ, mà chính là hồn của nhà thơ bơ vơ, trạng thái con người khi bước vào tuổi hoa niên. Anh bồi hồi tưởng lại những tháng năm đã từng ân ái:
                        Anh cũng có một thời bên áo trắng
                        Cũng bế bồng và cũng đã ru em!
                        Cái thời ấy chìm vào xa vắng
                        Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang
      Nó trở thành kỷ vật thiêng liêng. Giây phút mà nỗi khao khát tình yêu trong trái tim nhà thơ bùng nổ. Ý thơ chứa đầy hồn, ngôn ngữ hình ảnh thơ khốc liệt, đau đến mức mùa thu phải đổ máu. Trong tao đàn hiếm có những hình ảnh thi ca về áo trắng và mùa thu dữ dội đến thế! Tôi xin nhấn mạnh lại cả đoạn thơ thứ ba này:
                        Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
                        Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
                        Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
                        Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
     Đó là những hình ảnh thơ hay! Mỗi một mùa thu đến, dù trời đất vẫn trong xanh, mùa thu vẫn êm ả, nhưng tà áo trắng kia thêm một lần lại rời xa anh hơn, thêm một lần trái tim nhà thơ càng tan nát.
     Đoạn thơ kết:
                       Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
                       Câu thơ nẩy những bông hoa buồn
                       Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
                       Em đi rồi! Anh chết cả mùa đông...
     Nhà thơ chỉ biết than thế thôi? Bởi, tàn úa là qui luật của thời gian trong cuộc đời, ai mà cưởng nổi, nhưng ý tưởng của tình thơ là để nói về khát vọng trong tình yêu và cuộc sống con người!
                       
      MÁI TÓC CON GÁI      
Mái tóc phố màu mây
Xõa ngang đời con gái
Em đi lấy chồng rồi!
Lòng anh buồn biết mấy.
 
Hàng phố người có thấy?
Những vòm cây đứng thầm
Chiều hoàng hôn cũng vậy
Gió như là để tang.
 
Đây, bông hoa yêu thương
Ta ủ vào nỗi nhớ
Em đã không còn nữa
Chỉ có sao trên trời.
 
Vầng trăng khuyết, em ơi!
Giống đời anh cô độc
Sáng ngày treo tưởng chết
Hắt hiu và nhỏ nhoi.
 
Em đi lấy chồng rồi!
Màu hoa xưa trinh trắng
Tháng năm cùng mưa nắng
Tóc hoá thành mây bay…
 
      Không biết vì lý do gì? Người yêu của anh đã bỏ anh đi... lấy chồng! Đọc thơ ta thấy nhà thơ đầy tiếc nuối, còn ân ái lắm! Đây là một thiếu nữ phố, mái tóc của nàng xoã như mây bay:
                       Mái tóc phố màu mây
                       Xoã ngang đời con gái,
                       Em đi lấy chồng rồi!
                       Lòng anh buồn biết mấy...
     Nếu như hình ảnh những người con gái trong thơ Nguyễn bính, là những cô gái quê một thuở đã xưa:
                       Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
                       Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi!
     Thì hầu như thơ tình Phạm Ngọc Thái đều là các cô gái phố ngày nay. Ngay trong bài thơ anh viết về người vơ trẻ của mình cũng thế:
                       Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
                       Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
                       Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
                       Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.
                                           (Tiếng hát đời thường)
     Trở lại với bài Mái Tóc Con Gái - Cái hình ảnh mái tóc phố màu mây này, gợi cho ta hình dung về mái tóc xõa ngang vai của các thiếu nữ Hà Thành. Nhưng đây tác giả viết: Xoã ngang đời con gái /- Nghĩa của nó rộng hơn. Không phải chỉ tả đơn điệu về mỗi mái tóc, mà ý nói về xuân sắc cả một thời con gái. Thế là... em đi lấy chồng rồi! Giọng thơ nghe có vẻ bình thường, thực ra nhà thơ chẳng bình thường chút nào? Đến mức những hàng cây cũng phải... đứng thầm, hoàng hồn thì:
                       Gió như là để tang
     Con gió như lá cờ tang rũ xuống, tức là con gió thổi phật phờ. Ôi chao! Ông nhà thơ này tiễn người yêu đi lấy chồng thật sầu hết chỗ nói.
     Sau đó vẫn là khúc tâm tình, anh giãi bầy:
                       Đây, bông hoa yêu thương
                       Ta ủ vào nỗi nhớ
                       Em đã không còn nữa
                       Chỉ có sao trên trời
     Bóng nhà thơ lẻ loi dưới một bầu trời cô quạnh, mênh mang. Người yêu không còn ở lại, chỉ có những ánh sao đêm khuya khoắt cùng thức với nỗi lòng trống vắng của anh. Tấm hình người con gái như một đoá hoa ngát hương, anh ép vào trong tận trái tim. Đến đoạn sau, thơ được xoáy sâu hơn:
                      Vầng trăng khuyết, em ơi!
                      Giống đời anh cô độc
                      Sáng ngày treo tưởng chết
                      Hắt hiu và nhỏ nhoi.
     Ta thường thấy cái bóng trăng cuối tháng mọc vào lúc nửa đêm về sáng, đó là mảnh trăng khuyết, sáng nhợt nhạt như một kẻ chết trôi. Nhỏ nhoi, hiu hắt, trắng dại... tưởng  không còn sức sống. Nhà thơ lấy hình tượng đó để ví với mình. Một sự cô độc làm ta gai lạnh. Đây là đoạn thơ đã được nhân cách hoá cảnh thiên nhiên – Tác giả đã dùng hình tượng thiên nhiên để làm biểu tượng cho tình yêu và con người... để tạo thành nhân bản của bài thơ.
     Nói về đoạn thơ kết:                 
                       Em đi lấy chồng rồi!
                       Màu hoa xưa trinh trắng
                       Tháng năm cùng mưa nắng
                       Tóc hoá thành mây bay...
       Quay trở về với hình tượng «mái tóc» lúc ban đầu. Hình ảnh: Tóc hoá thành mây bay /- Nó chỉ ra sự mênh mang, vô định như đất trời. Nghĩa là, em đi... anh trở thành hư vô. Thơ viết như người tri kỷ. Cảnh vật, trăng, sao, trời, đất đều có hồn.
     Một bài thơ năm chữ dài hai mươi câu, chia thành năm đoạn. Hình ảnh sinh động, ý khúc triết mà tạo thành sự viên mãn. Tấm tình thơ trong trẻo, rất đáng yêu!
                                          
           5.   THƠ TÌNH HAY VÀO HÀNG TUYỆT BÚT
        Nhà văn Nguyễn Khôi đã có nhận xét:
-   Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn nhưng đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được tứ mới, ý lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái «thơ» đan trong cái «mộng» - cái «ảo» diệu huyền để hiện lên cái thực, thấm vào tâm can người đọc. Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu, Thế Lữ, thơ Phạm Ngọc Thái đã vượt lên trên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê, Hàn Mặc Tử...
      Chỉ với thơ tình, rồi mai sau Phạm Ngọc Thái cũng phải có cả trăm bài đứng trường cửu được với đời, trong đó có tới vài chục tình thi của anh đạt vào những cung bậc của các tầm thơ hay vô giá. Phạm Ngọc Thái thực sự là một hiện tượng thơ ca hiếm có ở đương đại này.
     Trong đề mục này, tôi xin chọn ra ít bài thơ tình đặc sắc của anh để phân tích. 
 
           NGƯÒI ĐÀN BÀ TRẮNG
                 Người đàn bà đi trong mưa rơi
                 Chứa một trời thầm như hoa vậy
                                       *
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xõa ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                 suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà «ngậm» cả vầng trăng...

     Nói đến Phạm Ngọc Thái là phải nói về «Người đàn bà trắng»: Một bài thơ tình tuyệt hay vào hàng đẳng cấp của anh! Bài ca tình yêu của nhà thơ với một người đàn bà trẻ, dù đó chỉ là mối tình lỡ dở. Phải chăng như Xuân Diệu đã viết:
                        Tình chỉ đẹp khi còn dang dở...
     Anh gọi nàng là «người đàn bà...», thực ra khi ấy nàng vẫn còn một thiếu nữ. Nàng rất đẹp, từ ánh mắt mộng mơ:
                        Đôi mắt em đong những áng mây
     Đến đôi môi mềm thơm quyến rũ và thân thể nõn nà nhuốm màu hoang dại. Trái tim của nhà thơ đối với «người đàn bà trắng» như ngọn lửa rừng rực cháy, như con sóng rào rạt dâng lên trong lòng mà tạo thành cảm xúc. Bài thơ được bắt đầu với hai câu làm tựa đề giới thiệu:
                        Người đàn bà đi trong mưa rơi
                        Chứa một trời thầm như hoa vậy
     Nghĩa là, nàng đang đi trong «cơn mưa cuộc đời». Ý thơ muốn nói về sự chìm nổi, trôi dạt trong cuộc sống. Mặc dù vậy, người đàn bà ấy vẫn như cả trời hoa toả hương thơm ngát. Với hai câu mở đầu ấy, ta hiểu: đó không phải là người đàn bà sống trong nhung lụa, hay căn phòng hạnh phúc ấm êm... mà là, của nỗi truân chuyên đời người. Dù thế, nàng vẫn nở hoa, kết trái ngay trên bờ bến nhân gian.
      «Người đàn bà trắng» bản tình ca đắm đuối, chất nữ tính được đẩy lên đến tột cùng, hoang dã mà vô biên:
                         Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                         Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                         suốt đời chèo sông vắng
                         Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng
                         Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
     Bón câu thơ khắc hoạ những thần tượng tình yêu, qua những câu chuyện tình lâm ly trong truyền thuyết:
-   Chuyện về nàng Mỵ Châu đã rắc lông ngỗng trắng dọc đường để chàng Trọng Thuỷ lần theo tìm nàng. Khi không lấy được nhau, họ đều quyên sinh để tỏ lòng son sắt. Kết cục tình ấy bi thương quá!
-   Chuyện về nàng Vọng Phu đã hoá đá chờ chồng...
-   Chuyện chàng Trương Chi, cứ đêm đêm cô đơn chèo thuyền trên con sông vắng, tương tư nàng Mỵ Nương mà chết.
     Những hình ảnh ấy được tác giả đưa vào thơ làm thành biểu tượng, nhưng đều đảo ngược lại :
                          Em không biến thành đá....
                           Anh cũng không làm chàng Trương Chi....
                          Ta không đi theo con-đường-lông ngỗng-trắng....
     Lập thành tứ liên kết với nhau, mang tính triết học và có ý nghĩa nhân sinh. Nó rất đời, như đời - Nghĩa là trong «Người đàn bà trắng», đôi trai gái không chọn cách kết thúc cuộc đời mình như những câu chuyện tình bi thảm đó! Đọc thơ ta thấy tình yêu vẫn đẹp, đầy chất mộng mơ. Nó còn mang ý nghĩa phổ quát xã hội, sống động và có tính thuyết phục.
     Thiên tình ca đã trở thành một bức tượng đài về đàn bà! Ta hãy nghe tác giả tả về chân dung nàng:                        
                             Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
                             Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                             Đôi mắt em đong những áng mây...
     Cả bầu trời tụ vào trong người đàn bà tạo thành một bức tranh hoàn bích. Nàng đội một chiếc mũ vải trắng mềm, như một đám mây đang vờn bay trên mái tóc. Ta có thể tưởng tượng trên đầu nàng là cả một vòm trời mênh mông, với đôi mắt huyền. Hình ảnh thơ mang tính tượng trưng, ngôn từ mỹ học, hiện lên chân dung một người đàn bà đep! Nàng đi trong đất trời:  
                             Em đi, về... chao những hàng cây
                             Hồ gió thổi
                                              lệch vành mũ đội
                             Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
                             Xõa ngang vai mái hất tơi bời
     Toát lên dáng vẻ của một thiếu nữ Hà Thành. Không chỉ thân thể, đôi mắt, mái tóc, làn da... đến dáng đi, chiếc mũ vải trắng mềm em thường đội lệch trong chiều gió, cả thềm nắng gội trên mình em, v.v. Những câu thơ khắc họa như những nét trạm rất tinh tế, hào hoa. Qua đó ánh lên một tâm hồn lãng mạn chứa chất bên trong. Thơ viết công phu mà vẫn nhiên nhi nhiên, nhẹ nhàng.
     Để tả sự kiều diễm của người đàn bà, ta có thể liên hệ với bài thơ tình nổi tiếng «Tranh lõa thể» của Bích Khê. Thi nhân đã mô tả về tấm thân người mỹ nữ:
                              Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
                              Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
     Về đôi mắt:
                              Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
                              Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
     Mái tóc:
                             Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
     Và đôi môi mỹ miều đầy hưng phấn:
                           Vài chút trăng say đọng ở làn môi...
     Đến ánh trăng còn phải say mê đậu lại trên đôi môi người đàn bà. Đó là cách tả thuộc  tính mỹ học!
     Đối chiếu trong cách tả «Người đàn bà trắng» của Phạm Ngọc Thái –  Thí dụ, về đôi mắt:
                              Đôi mắt em đong những áng mây...
     Mái tóc:
                              Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc...
                              ......
                              Xõa ngang vai mái hất tơi bời
     Thi pháp thơ hiện đại kết hợp với sự khúc triết của thơ cổ phương Đông mà vẫn gần gũi đời sống.
    Nói về «cái ấy» của đàn bà, nơi bắt nguồn của sự sống, đam mê và khát vọng! Phạm Ngọc Thái viết:
                             Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
                             Người đàn bà ai mà đinh nghĩa?       
     Tạo hóa đã sinh ra thiên thai đó, hoang xơ mà thanh khiết biết bao. Hai chữ «chùm trinh» còn gợi cho ta một cảm giác vừa ngọt, vừa thơm. Trái cấm của nàng đang trĩu trịt...  ăn vào là nhớ mãi. Ca dao có câu:
                             Dao đâm vào thịt thì đau
                             Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
     Trở về với bài «Người đàn bà trắng»: Hình ảnh gợi cảm nhưng không thô tục. Chùm trinh của nàng đang reo ca với nhà thơ chăng? Chất dàn bà đã được tụ vào đó để nhà thơ buông ra một câu triết lý:
                             Người đàn bà ai mà định nghĩa?
    Sự huyền bí về đàn bà mà ta không thể nào đinh nghĩa được? Câu thơ tạo ra tựa hồ như một học thuyết: chẳng bao giờ lý giải hết được về «cái ấy» của đàn bầ! Một sự tổng kết của tác giả. Trong thi đàn hiếm có bài thơ nào nói về đàn bà lại súc tích, sâu thẳm đến thế! Nó tôn tạo cả về ý nghĩa cuộc sống: Nếu không có đàn bà – cuộc đời, xã hội và thế giới... tất cả đều trở thành vô nghĩa! Phải chăng đàn bà chính là nguyên căn của mọi nguyên căn? Nền móng trong cả lịch sử, triết học và chính trị...
     Tôi xin phân tích đoạn thơ cuối:
                              Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
                              Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
                              Khúc thơ tình anh lại viết về em!
                              Người đàn bà «ngậm» cả vầng trăng...
     Bài thơ kết lại trong hoài vọng. Dưới bầu trời đêm đêm, chỉ có những ánh sao khuya và làn gió hắt hiu, buồn bã, thao thức cùng với nhà thơ tưởng nhớ về nàng.
     Riêng câu thơ cuối: Hình ảnh «ngậm cả vầng trăng» là biểu tượng cho cả người đàn bà hay chỉ nói về «cái ấy» của nàng? Có thể là cả hai. Một câu thơ trìu tượng mà đầy chất phàm trần. Chữ «ngậm» ngôn ngữ thơ siêu thực, có vẻ biến hóa giữa thực và ảo... phảng phất chất duy lý của nhà thơ.
     «Người đàn bà ngậm cả vầng trăng» là một câu thơ hay, nó đã đưa Người Đàn Bà Trắng lên đến chót đỉnh mà tôn vinh thành một tượng đài thơ!
                          
         EM VỀ BIỂN:        
               Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.
                                                 *
Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?

Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh.

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây, em hỡi! Anh còn đây,
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi, chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
 
     Nói về mối tình của nhà thơ với một cô nữ sinh... đã bị tan vỡ. Hẳn mối tình ấy phải đẹp và tha thiết lắm, mới để lại trong lòng tác giả một nỗi đau đầy lệ như thế:
                                 Em về biển để vùi vào trong cát
                                 Nỗi buồn nước mắt
                                 Những nát tan vòm ngực đã thương đau
     Theo như chú thích của nhà thơ, thành phố biển chính là quê hương của người nữ sinh. Trong suốt bài, hình tượng biển được tác giả sử dụng vừa là không gian biển, vừa là bãi-biển-đời-người và... người con gái đã hóa thân trong đó.
     Chữ «cát» trong câu thơ đầu mang nghĩa về nơi «cát bụi trần ai»: Mối tình tan, em đã trở lại thành phố quê hương hay đang trôi dạt chân trời góc biển? Cảnh biển cứ xoắn xít lấy nhau, hiện lên cả một khoảng trời đầy bão tố:
                                 Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
                                 Xô mãi bờ với lá thông reo
     Cảnh biển nát tan hòa đồng với trái tim tan vỡ của người con gái ở đoạn thơ trên: Những nát tan vòm ngực đã thương đau /- Vậy biển ấy, chính là «biển cuộc đời». Ngày đêm hàng thông vẫn reo, sóng bão xô mãi lên bở cát trắng, như tình em năm tháng chẳng bao giờ nguôi:
                                 Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                                 Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?       
     Tình yêu không còn, cuộc đời em thành cát bụi. Sau đó anh cũng không biết người con gái đã đi đâu? trôi dạt đến phương trời nào? Những xúc động trái tim ấy đã đẩy tình thơ đi xa, vượt qua biên giới hạn hẹp của đời thường, vào cõi mênh mang.
     Sang đoạn thứ ba, nhà thơ tự bộc bạch:
                                 Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu
                                 Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
                                 Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại
                                 Đã thổi thành bão tố ở trong anh  
     Hình bóng người con gái đươc hiện lên với ánh mắt thơ ngây và «đôi gót đỏ», thật đáng yêu sao! Ta không lý giải nổi vì lý do gì mà mối tình tan vỡ? Dòng suối tinh yêu ấy thanh khiết, mát trong vậy – như nhà thơ đã ví: Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải /- Phải chăng khi mất em rồi, anh cũng chỉ giống như cây thông theo thời gian già cỗi và mục ải, lặng lẽ reo bên bờ biển vắng... để hát mãi bản tình ca xô-nát trong sóng bão của tình em.
     Nói về tựa đề của bài :
                                Bờ bãi đời người – Cuộc sống tình yêu
                                Trái tim nhỏ em dựng cả tòa sen chân Phật tổ!
                                Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                                Yêu thương nhiều, hưởng đã bao nhiêu  
     Đoạn thơ đã mang ý tưởng cốt lõi của toàn bài, tính nhân văn sâu sắc. Nó nói rằng: Tình yêu của em là thánh đường đối với cuộc đời anh! Thiêng liêng và cao cả. Tinh yêu của người thiếu nữ đưa ta đến cõi nát-bàn, thánh thiện nhất trong cuộc sống con người.
     Chả thế mà nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ E.K.DDAGLARRGIA trong bài thơ «Tình yêu» đã viết:
                             Yêu – có nghĩa
                             Là cùng người yêu
                             Chia đều
                             Trái đất thành hai nửa.
     Trở lại với bài Em Về Biển: Ở nơi bờ-bãi-con-người trong chốn nhân gian ấy, tình yêu đã sinh tồn! Dù ở đấy vẫn trầm luân bể khổ, nơi mà Kiều đã phải bán mình để chuộc cha, mười lăm năm lưu lạc:
                            Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
     Những câu tựa đề đó thấm đẫm tính triết học, đưa tình thơ đi đến điểm đỉnh trong giá trị nhân sinh của cuộc sống con người, xứng đáng đứng vào hàng bậc những câu thơ hay của thi đàn xưa nay.
     Xin bình tiếp vào bài: 
                            Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
                            Anh còn đây, em hỡi! Anh còn đây,
                            Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
     Hình ảnh ngôi trường đại học, nơi em sống đời sinh nữ in đậm dấu trong anh. Hàng bạch đàn soi bóng, những buổi đón người yêu bên cổng trường - Tất cả vẫn còn đấy! Thế mà em đã xa vời... Năm tháng qua đi, tóc nhà thơ cũng bạc, chỉ còn nghe thấy tiếng gió mưa phủ táp lên cuộc đời trống vắng với tiếng lòng khắc khoải:
                            Tóc nửa bạc rồi, chỉ thấy gió mưa bay...
                            Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
     «Em về biển» vừa mang cho ta hương vị ngọt ngào của hạnh phúc, lại xót xa vì tan vỡ! Giọng thơ trầm lắng, ngôn ngữ bình dị mà sâu xa. Nó tôn vinh ý nghĩa thánh linh của tình yêu gái trai trong cuộc sống con người.
                                    
                   TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN (1)
Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây,
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

Cho anh hôn đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
( xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh )

Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta! Con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?

Bóng nàng nằm trơ mãi cái-nước-non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
«Cây thánh giá cuộc đời» anh đặt dưới chân em!

Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!

Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...
 
      Nhà thơ kể lại: Vào những ngày cuối xuân sang hè 1975, ngay sau khi miền Nam được giải phóng. Anh có dịp cùng một nhóm sĩ quan quân giải phóng, từ Sài Gòn lên thăm thành phố biển Nha Trang. Một buổi chiều, nhà thơ đến bên bờ biển sát ngay đảo Hòn Chồng. Ở đó, có một chiếc quán nhỏ sơ sài, phong phanh, gọi là Quán gió. Nhìn ra ngoài khơi xanh, một dải núi nhô lên trên mặt biển, lũng núi chạy dài thoải xuống mặt nước trông như mái tóc mây của một nàng thiếu nữ, buông xõa ra biển. Đôi gò núi nhô cao như đôi gò vú nàng. Ánh nắng hồng buông xuống phủ lên đôi vú, thật hữu tình.
     Cô gái bán hàng trong Quán gió đã kể với nhà thơ: Người Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, đặt tên cho hòn núi đó, gọi là Núi Mỹ Nhân! Năm tháng, người ta truyền lại cho nhau nghe một câu chuyện như truyền thuyết:
       ... Chồng của nàng Mỹ Nhân là một viên tướng cướp biển trẻ tuổi. Có một lần, viên tướng cướp ấy dẫn đạo quân cướp biển của mình đi xa, gặp cơn bão biển. Tất cả thuyền bè của họ bị đánh đắm, xác trôi dạt vào bờ hóa thành một bãi sỏi đá. Nàng Mỹ Nhân cứ ở đó mãi chờ chồng mặc cho sóng biển ngày đêm gào thét, dù chồng của nàng không bao giờ trở lại.
     Nhưng bài thơ «Trước Núi Mỹ Nhân» của Phạm Ngọc Thái không ra đời ngay khi nhà thơ đến bên bờ biển Nha Trang ấy? Phải mấy mươi năm sau, vào một buổi, câu chuyện tình xưa cùng cảnh tình biển Nha Trang quay trở về gây cảm xúc trong anh, và thiên tình ca đã ra đời!
     Bài thơ dựng lên quanh tượng thần thủy chung của nàng Mỹ Nhân:
                            Bờ Hòn Chồng, Quán gió, một trưa chiều
                            Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
                            Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ
                            Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay...
    Nhà thơ đứng dưới những bóng dừa quê hương nhìn ra biển sóng. Cái quán nhỏ chênh vênh gió thổi vút qua, thơ mộng mà hoang dã. Tiếng lòng của nhà thơ theo cảm xúc trào lên:
                            Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây,
                            Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
                            Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
                            Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.  
     Nếu như bài thơ được tác giả sáng tác ngay khi đến đó, chắc là chưa thể có câu thơ cuối đoạn: Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời /- Bởi, một người lính vừa trong cuộc chiến tranh, dù có kinh qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh đi chăng nữa... nhưng chưa phải va đập cuộc sống chốn đời thường thì không thể có những trăn trở về nỗi đời dâu bể cõi nhân gian như vậy. Nhà thơ tha thiết ru nàng:
                           Cho anh hôn đôi vú đá tơi bời
                           Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
     Thơ ôm bọc khát vọng tình yêu! Nói là «đôi vú đá», nhưng ta có cảm giác đôi vú nàng vẫn còn nóng hổi, nguyên khôi, đôi vú của một người đàn bà và anh muốn mơn man trong niềm vui thú đó:
                           Xin lỗi những mảng đời ta đang có
                           Đôi lúc thèm được bám rêu xanh...
     Sau đó tác giả quay sang triết lý về «tình yêu và cuộc sống» ở hai khổ thơ 5 và 6:
                       Bóng nàng nằm trơ mãi cái-nước-non
                       Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
                       Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
                       «Cây thánh giá cuộc đời» anh đặt dưới chân em!
    Tình yêu thiêng liêng của nàng có vầng nguyệt tỏ với trái tim son sắt thủy chung. Câu thơ: Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại /- Ý nói, tình yêu là thứ tình cảm cao cả do tạo hóa sinh ra, hoang dại như đất trời, vô biên như vũ trụ.
    Về câu thơ: Cây thánh giá cuộc đời» anh đặt dưới chân em!/- Ta liên tưởng tới những biểu tượng mang tính quốc tế:
-   Ở phương Đông, người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà.
-   Còn ở Âu Châu, người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà.
     Vậy là, giữa hai quan điểm có ý nghĩa nhân sinh của người Nhật và người Pháp hoàn toàn trái ngược nhau. Hình ảnh câu thơ: «Cây thánh giá cuộc đời» anh đặt dưới chân em /- Tác giả bộc lộ một quan điểm, một chính kiến nhân sinh xã hội của mình trước bể tình thế thái. Nói đến nhân sinh quan xã hội, trong bài thơ «Tiếng ếch» Phạm Ngọc Thái cũng đã viết:
                           Nếu như không em chỉ toàn tổng thống
                           Thế giới này sẽ nở đầy các thứ giống hoa tang...
     Quay trở lại với bài «Trước Núi Mỹ Nhân» - Về ý nghĩa chính trị thì hình tượng câu thơ: Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân  em /- đã bộc lộ một thái độ rất quyết liệt của nhà thơ: Anh đặt cuộc đời dưới chân «Tượng đài tình yêu» chứ không tôn sùng, phụng thờ bất cứ một thứ luận thuyết chủ nghĩa chính trị nào!... cho nên không khó hiểu, tại sao trong bài «Khóc bên Hồ Núi Cốc» nhà thơ lại buông một câu kết:
                             Mai chết rồi làm nước tắm cho em
      Quan điểm đó đã thành một chủ thuyết xuyên suốt đời thi ca tác giả.
     Tôi phân tích đoạn thơ thứ sáu:
                              Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
                              Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
                              Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
                              Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!
     Thì đúng quá! Đàn bà đang sống với chúng ta chả vừa là tiên... vừa là «Hồ yêu tinh» hay «Bà La sát» là gì? Ý thơ rất cuộc sống, rất đời. Nó đã đẩy giá trị nhân văn của bài thơ lên cao và hay hơn.    
      Tôi chỉ xin nói thêm một chút về câu thơ cuối bài:
                              Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...
     Ý rằng, tháng năm mưa gió và cát bụi đường đời, nhưng tượng thần nàng Mỹ Nhân thì muôn đời bất hủ!
                                   
                  TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM  
                               Những tối trăng ngời, dưới ánh sao khuya
                               Anh vẫn đắm mình về phương ấy
                               Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
                               Và cuộc chia ly đã hoá cánh buồm...
                                                        *
Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
Nó nói gì không biết?
Chắc con mái ham nơi vui thú khác
Đã không về. Con trống gọi suốt đêm!
 
Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về nữa?
Để hồn anh hoang mạc, bơ vơ

Đã xa rồi, mùa dĩ vãng trăng mơ…
Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
Thành quách loài người em thiêu trụi thành tro!

Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa:
Mọi giá trị vĩnh hằng, nếu có
Sẽ là gì, khi thiếu vắng em ta?

Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
Và tất cả đã trở thành trống trải
Sao em lại phụ bạc tình, con mái thương yêu?
 
     Cái tiếng rúc của một con chim kêu lên trong khuya nghe thật não nề, đã lay động vào tâm khảm nhà thơ? Đó cũng bởi nỗi lòng nhà thơ đang cô đơn vì nhớ tới người yêu! Anh trào ra một niềm cảm xúc mà tạo thành bản tình ca huyền diệu này:
                              Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
                              Nó nói gì không biết?
                              Chắc con mái ham nơi vui thú khác
                              Đã không về. Con trống gọi suốt đêm!
     Nhưng đây đâu còn phải chỉ là tiếng kêu của con chim? Tiếng lòng của nhà thơ đấy chứ! Ngay mở đầu ta đã thấy hồn thơ được gieo rạt rào, tha thiết. Tiếng con chim trống đang gọi con chim mái, cũng là tiếng của nhà thơ gọi «em» ở một phương trời nào đó, có vẻ hơi oán trách khi «con chim mái» không về!
     Trước hết, xin nói về đoạn thơ lấy làm tựa đề của bài:
                             Những tối trăng ngời, dưới ánh sao khuya
                             Anh vẫn đắm mình về phương ấy
                             Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
                             Và cuộc chia ly đã hóa cánh buồm
     Nghĩa là, mối tình để lại trong trái tim nhà thơ một nỗi nhớ thương vô hạn. Đêm đêm anh vẫn ngóng lên bầu trời trăng sao thổn thức, và tình em đã hóa thành cánh buồm trong sóng tình thơ lai láng của thi nhân.
     Gọi người yêu là «con chim mái» nhưng nghe lại trìu mến, thân thương! Hình ảnh thơ đã không còn khoảng cách giữa chim và người:
                             Chim gọi đàn – Anh gọi tên em
                             Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
                             Có lẽ nào em không về nữa?
                             Để hồn anh hoang mạc, bơ vơ
     Tiếng gọi ấy vượt qua cả núi cao, rừng thẳm, nắng gió cùng bão tố. Con chim trống tha thiết vậy, sao con chim mái lại nỡ bỏ đi không về? Hồn thơ đưa ta vào một khoảng không cô quạnh. Lòng thi sĩ cô đơn như một bãi sa mạc, bơ vơ giữa cuộc đời. Lời thơ đau, đó là nỗi đau của một trái tim yêu:
                           Đã xa rồi, mùa dĩ vãng trăng mơ...
                           Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
                           Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
     Ý thơ gợi lên một cảm giác dịu ngọt về những kỉ niệm êm đềm đã xa xưa. Tất cả đã cuốn trôi vào trong cát bụi...
      Đến đây thì hoàn toàn là tâm trạng của người, không còn phải của chim nữa. Tới câu cuối đoạn, cảm xúc nhà thơ bỗng bay vọt lên, thăng hoa:
                           Thành quách loài người em thiêu trụi thành tro!
     Tuy đã mang theo tính triết lý nhưng giọng thơ vẫn rất tự nhiên. Nó có ý nghĩa, người đàn bà chính là linh hồn của cả thế giới cùng vũ trụ! sau đó tác giả còn đi sâu hơn nữa để khẳng định ý nghĩa người đàn bà trong cuộc sống và sự tồn tại của đất trời này:
                            Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
                            Ta muốn hỏi tới muôn đời sau nữa:
                            Mọi giá trị vĩnh hằng, nếu có
                            Sẽ là gì, khi thiếu vắng em ta?
     Không có đàn bà tất cả sẽ hư vô, thế giới cũng trở thành nhảm nhí.
     Vậy là, thơ bắt đầu chỉ từ cảm xúc cô đơn khi nghe tiếng rúc của một con chim đêm, đã nhảy lên mang tính khái quát có ý nghĩa xã hội và vũ trụ. Đó cũng là giá trị nhân văn của bài thơ, không còn bó hẹp trong tình yêu gái trai thường tình nữa. Đến cuối bài, tác giả lại trở về với hình ảnh của con chim trống thổn thức, cô đơn:
                            Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
                            Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
                            Và tất cả đã trở thành trống trải
                            Sao em lại phụ bạc tình, con mái thương yêu?
     Cũng vẫn là sự đan kết giữa chim và người, hồn thơ bay mà chan chứa bao tình. Nhà thơ không oán giận hay nặng lời với người con gái đã bỏ anh mà đi, trái tim còn tràn đầy sự nhân ái, yêu thương. Tình yêu thực sự là vậy chăng!
                                                  
             KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC
Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.
 
Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm «khoảng đời con»
 
Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.
 
Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
                         (Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997)
 
     Tác giả đã sáng tác bài thơ trong một dịp đến thăm, chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên Kỳ vĩ của Hồ Núi Cốc. Vào một đêm mưa gió phủ đầy trời, hoang dã và cô đơn! Lòng nhà thơ lại thổn thức nhớ đến người yêu, mối tình của anh với một người đàn bà trẻ:
                              Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                              Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
                              Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
                              Em khỏa thân nằm trên bóng bến xưa bay
     Theo nhà thơ kể lại: Mối tình của anh với nàng tan nát và đẫm lệ. Cái đêm mưa gió dữ dằn đến mức «gió gào thét...», hòa với nỗi khát vọng yêu đương đang quặn xiết trong lòng, tưởng chừng có thể làm cho trái tim tan vỡ! Chàng chỉ còn như một cái xác trôi, linh hồn đi tới tận phía trời xa để đến bên nàng. Câu thơ: Gửi hồn theo dòng nước trôi thây /- là như vậy. Hình ảnh người đàn bà bay lên trên thảm trời kia, đằm đìa trong trái tim anh.
     Truyền thuyết kể rằng: Nàng Công là cô con gái Quan lang dân tộc, yêu chàng Cốc chỉ là một tiều phu đốn củi. Mối tình của họ bị lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Cốc bị truy đuổi phải chạy vào rừng, đến ở dưới một gốc cây sồi. Nàng Công vì thương nhớ chàng Cốc, ngày đêm khóc lóc thảm thiết rồi chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc xót thương người yêu rồi cũng chết, hóa thành non vây bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi «Hồ Núi Cốc»:
                            Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                            Cốc chết bên sồi lại hóa thành non...
     Nhưng vấn đề đặt ra ở hai câu thơ tiếp theo:
                            Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
                            Chút hương nàng vẫn ấm «khoảng đời con».  
     Ý hai câu thơ đó nói lên điều gì? Trước đây, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết những câu thơ ca ngợi lãnh tụ:
                           Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
                           Giấc mơ con đè nát «cuộc đời con»
                           Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
                           Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.
     Theo quan niệm đó: muốn cao cả là chỉ được nghĩ đến cái chung, cái lớn lao chứ... không được nghĩ đến cái nhỏ bé, riêng tư? Sở dĩ có quan niêm như vậy, vì nó đã bị chi phối bởi tư tưởng bảo hoàng mang tính áp đặt chính trị của một thời. Cho nên, tác giả của bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc này đã phản biện lại: Không có cái riêng tư, nhỏ bé... thì làm sao có cái vĩ đại lớn lao !? Có thể coi đây là một tuyên ngôn của Phạm Ngọc Thái: Chút hương nàng vẫn ấm «khoảng đời con» /- Đó là xuất phát điểm trong nhân sinh quan xã hội... mang tính nhân quần của nhà thơ, làm cho tính nhân văn trong thi ca càng trở nên sâu sắc.
     Tôi bình sang đoạn thơ ba:
                            Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                            Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                            Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                            Máu ta đổ đầy cho tạo hóa tạc phù điêu
     Câu chuyện tình bi thương của nàng Công, chàng Cốc đã nhập hòa vào nỗi lòng tác giả, tạo cho tình thi đẫm một màu bi tráng. Đến mức, cái băng tang trắng phủ lên mối tình huyền thoại kia cũng là cái băng tang trắng của đời. Bài thơ «Khóc bên Hồ Núi Cốc» được cất lên trong cả khoảng không gian ấy! Khát vọng yêu đương mãnh liệt đến cồn cào: Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! /- Cảm xúc thơ được đẩy đến tột cùng, dường như tất thảy thiên nhiên kỳ vĩ kia là có máu của cả trái tim đôi trai gái tắm vào trong đó.
      Nó đã trở thành một bản tình ca lãng mạn, vừa quyện giữa câu chuyện tình son sắt trong truyền thuyết với mối tình đời tha thiết. Phụ họa với cảnh gió mưa gào thét, đồi núi mịt mùng mà cào xé lòng người.
     Về đoạn kết, xin đặc biệt chú ý đến câu thơ cuối:
                            Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
     Câu thơ cũng mang ý nghĩa phản biện xã hội - Liên hệ trong một số bài thơ khác anh đã viết:
                           Nếu như không em chỉ toàn tổng thống?
                           Trái đất này sẽ nở đầy các thứ giống hoa tang...
                                             (Tiếng kim đồng hồ)
    Hoặc bài «Đêm tóc đá»:
                           Ngai vàng còn «dưới» cái em ta!
     Khi các chế độ rồi những chủ nghĩa thay nhau: nào nô lệ, phong kiến đến chủ nghĩa cộng sản – Sự thực, cường quyền với bao bất công vẫn đè nặng lên những con người lao khổ? Tác giả đặt «tình yêu với đàn bà» lên trên tất cả - Đó là một ngòi nổ phủ nhận mọi chủ nghĩa, cường quyền kia... chỉ để tôn vinh cho tình yêu và cuộc sống con người ! Nó đã tạo thêm phẩm giá cùng tính nhân ái của bài thơ!
 
                   NHỮNG BÀI BÌNH CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC
               VỀ THƠ HAY PHẠM NGỌC THÁI
 
                             ( CÒN NỮA )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.01.2018 12:14:23 bởi Nhân văn >
Nhân văn 09.02.2018 18:10:43 (permalink)
 
            Phạm Ngọc Thái chuẩn bị cho ra đời Tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" - Hai tập.
               Đây vẫn chỉ là bản thảo chính thức của tác giả
               xin đăng trước  từng chương để bà con xem : 
 
 
 
                                     PHẠM NGỌC THÁI
 
             CHIẾN TRANH và TÌNH YÊU
 
                                                   Tiểu thuyết
 
                                                       Tập I
 
 
 
                          Truyện được viết dựa theo cuộc đời trận mạc
                           của tác giả, đã từng trải qua cuộc chiến tranh trên
                           chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ.  
 
 
 
                                           Chương I.   
 
                              VÀO ĐỜI
 
 
 
                                             1-
 
     Buổi sáng mùa thu 1966.
     Một cô gái có khuôn mặt đẹp, đuôi mắt kéo dài ra như vẽ hơi ngước nhìn lên người thanh niên đi cạnh cô. Người con gái khẽ mỉm cười để lộ ra hàm răng trắng đều như những cánh lan, ẩn trong cặp môi chin mịn. Cô gái níu tay bạn trai của mình bước đi nhún nhảy như con chim chích đang chuyền cành. Miệng nói những gì nghe không rõ, rồi kéo người con trai chạy theo.
     Họ dừng lại dưới chân một ngọn núi nhỏ, gọi là Núi Nùng ở công viên Bách Thảo. Cô gái rời tay khỏi người con trai, chạy ngược lên núi. Đến lưng chừng dường như đã mệt, cô phải cúi gập người xuống dùng hai tay mà đi như một con thú. Người con trai đuổi theo rồi nắm lấy tay bạn gái, cả hai cùng tiến lên đỉnh.
     Cỏ xanh rờn trên mặt núi phẳng. Đến một gốc cây, cô kéo người bạn trai ngồi soài lên bãi  cỏ. Miệng vẫn còn thở hổn hển nhưng đôi mắt sáng long lanh, trong nụ cười tinh nghịch.
-  Cũng nhanh thật Hoàng nhỉ? Thế là chúng ta đã chấm dứt quãng đời học trò.
     Mắt mơ màng nhìn xuống phía hồ nước dưới chân núi, cô nói tiếp: “Khi còn đang đi học thì cứ mong cho chóng xong. Giờ ngoảnh lại, Thu thấy nó qua nhanh như một giấc mơ vậy.”.
-  Nhưng Thu và các bạn thì vẫn tiếp tục học đại học, còn cả quãng đời sinh viên cơ mà?
     Người con trai có tên gọi là Hoàng nói vậy.
-  Cũng biết vẫn còn tiếp tục học đại học. Bắt đầu bước vào cuộc đời một sinh viên, nhưng Thu lại thấy như mình sắp bước sang một trang đời khác, không giống thủa là học trò nữa.
     Cô dừng lại, đưa mắt nhìn Hoàng vẻ căn vặn: “Nhưng việc từ bỏ đại học để lên đường nhập ngũ đi chiến đấu, là quyết định của Hoàng cơ mà? Có ai ép Hoàng đâu?”.
-  Ừ, đó là quyết định của Hoàng!
      Anh nói vậy rồi im lặng, trầm ngâm như đang nghĩ đến một điều gì mông lung lắm. Lát sau anh nói tiếp:
-  Hôm qua Hoàng gặp Thanh, nó báo tin là đã nhận được giấy gọi đi học ở Nga.
-  Thật ra thì danh sách đi học nước ngoài, lớp cũng đã có tin báo từ trong năm. Chỉ có bộ phận học sinh đi du học ở Trung Quốc, vì có cuộc “cách mạng văn hóa” nên đình lại. Thu và số bạn có tên trong danh sách đó, chưa biết trên Bộ giáo dục sẽ phân bổ vào trường đại học nào?
     Hoàng nhìn người bạn gái rồi nói:
-  Hoàng thấy tiếc cho Thu.
-  Không! Thế là mây đấy. Không những Thu không tiếc mà con vui nữa, Hoàng ạ!
-  Sao thế?
-  Thu vẫn muốn theo học trường đại học sư phạm. Hơn nữa, sang học ở Trung Quốc, Thu cũng chẳng thích.
 
-  Gia đình Thu có gien sư phạm mà... 
     Hoàng tiếp tục nói: "Cả gia đình là nhà giáo. Hồi đang đi học, Hoàng cứ nghĩ là Thu sẽ theo một ngành khác cơ đấy?".                       
-  Thế, Hoàng muốn Thu theo ngành gì?
-  "y" chẳng hạn, nếu Thu thích. Thu khéo léo, mềm mại, hợp với ngành ấy!
     Anh dừng lại giây lát: "Gia đình mà có một người làm bác sĩ cũng tốt!".
     Hoàng cầm lấy tay bạn gái, vuốt nhẹ. Cô để nguyên tay mình trong tay anh. Trong đôi mắt Thu, khi ánh sáng chiếu qua làn nước mỏng như tơ, càng thêm trong muốt. Họ xích lại gần nhau thêm, Thu nói nhỏ:
-  Hoàng tưởng thế, Thu không khéo lắm đâu. Cứ nhìn thấy máu là Thu sợ chết khiếp, chân tay bủn rủn. Thế mà Hoàng bảo: "y" hợp với Thu?
     Rồi cô kết luận: "Thu sẽ làm cô giáo!".
     Tiếng nói của một đứa trẻ làm đứt quãng câu chuyện của họ. Cậu bé trạc sáu, bảy tuổi. Đầu đội chiếc mũ ca-lô màu xanh, đang theo cha mẹ leo lên núi. Cha của cậu là một người đàn ông trẻ, hơi xương mặt. Anh đeo một cặp kính trắng, dáng trí thức của một nhà giáo hay cán bộ nghiên cứu gì đó? Khi gần đến đỉnh núi, cậu bé lao lên chạy trước, níu lấy tay của người cha chạy theo. Như thể ngọn núi này cũng giống một cái thang trượt, mà một buổi nào đó cậu đã gặp trong cung thiếu niên.
     Mẹ của cậu bé, một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi, người mảnh khảnh, tóc phi-dê. Chị xách một chiếc làn nhựa, bên trong chắc là đựng đồ ăn, kẹo bánh và vài thứ lặt vặt.
-   Từ từ kẻo mệt, con!
     Người cha của cậu bé nói. Cậu nhảy thêm một bậc, rồi quay lại nói với cha:
-  Bố mẹ đi chầm chậm là... Con nhảy phốc ba bước là lên đến đỉnh!
     Như để chứng minh cho câu nói, nó cúi xuống lấy thế khuỳnh tay ngai, người vặn sang phải nhảy phắt lên bậc cuối cùng. Rồi nó cúi người chạy vào giữa đỉnh núi, vừa chạy vừa kêu vù... vù... vù... như chiếc máy bay chuồn chuồn. Cậu ta lượn vòng tròn quanh chòm núi nhỏ, vút qua chỗ Hoàng và Thu đang ngồi. Người cha chạy lại giữ con. Bà mẹ thì mắng:
-  Ông tướng ạ! Ngã bây giờ đấy!
     Cậu bé hơi xịu mặt xuống, rồi lại líu ríu chạy theo cha. Đến chỗ có bóng cây mát phía bên kia đỉnh núi, họ trải ni lông ngồi xuống. Cậu bé cũng chỉ ngồi yên được một tí. Chân tay nó cứ liên tục động đậy, như thể có kiến cắn. Nó kéo chiếc mũ ca-lô lệch hẳn về một bên, nhảy tới ngắt một đám cỏ gà. Có con chuòn chuồn đỏ đang bay chấp chới, hạ cánh đậu lên một bông cỏ đã vươn cao. Bông cỏ không chịu nổi sức nặng nhỏ bé của con chuồn chuồn, cong xuống. Con chuồn chuồn bay lên rồi lại từ từ đậu xuống. Cứ như thế dăm, bảy lượt. Cậu ta tiến đến chộp con chuồn chuồn. Con chuồn chuồn trong tay cậu, nó cố quẫy nhưng bất lực.
-  Trông thằng bé đáng yêu quá!
   Thu buột miệng nói. Tâm lý "làm mẹ" vốn sẵn hình thành trong bản chất người phụ nữ, dù người phụ nữ đó mới chỉ là một cô gái mười tám tuổi. Tâm lý ấy lúc này như chất men được kích thích, rạo rực. Tình yêu giống như một bông hoa đang nở, nó xòe những cánh hoa thơm sắc tỏa ngào ngạt dưới những tia nắng của niềm hy vọng. Chất men say của bông hoa như những giọt rượu mới cất, rưới lên tâm hồn cô. Trong mơ hồ cái cảm giác làm mẹ... chưa trở thành nỗi khao khát như một trái cây đã đủ chín, nhưng từ đó nó làm cho trái tim cô xốn xang. Nó là chất hương mà cô đang đón nhận trong bước đi ban đầu, mời chào của tuổi thanh xuân.
     Hoàng nghĩ về chiến tranh! Anh nhìn cậu bé lò dò đến chộp lấy đuôi con chuồn chuồn đỏ. Cái màu đỏ của con vật bé nhỏ, thân hình yếu ớt đang quẫy đạp, cố thoát khỏi tay kẻ đang nắm giữ nó? Hòa trong cái màu đỏ của nắng đã lên cao, chan chứa trên mặt Núi Nùng. Cái mầu đỏ... đỏ rựng lên trong mắt Hoàng, như máu.
     Màu đỏ ấy giống như cái đuôi một ngôi sao chổi khổng lồ quét lên thành phố, lên những mái nhà, chùm lên màu xanh của những cây cổ thụ. Những lá vàng trong cơn gió mùa thu bứt nó ra khỏi cành, tơi tả bay trong màu đỏ tràn ngập khắp nơi. Cả cơn gió kia cũng nhuốm màu đỏ ấy...Thiên nhiên vẫn  vô tư tràn ngập trong đôi mắt trẻ thơ của cậu bé. Những thân thể trắng ngần đang thỏa thê tắm ở hồ nước trong dưới kia, như thể chúng muốn khẳng định cái thanh bình của thành phố quê hương anh... đáng lý phải thuộc về vĩnh cửu !? Thế mà lại có chiến tranh. 
     Thành phố: "Con người vẫn thanh thản tiếp nhận sự ngọt ngào của cả thiên nhiên và cuộc sống, vào trong tâm hồn mình" - Thoáng ý nghĩ ở trong Hoàng như vậy! Dù rằng, thành phố ấy chiến tranh đang đến. Đứa bé cứ hồn nhiên tồn tại, thật giản đơn. Nhưng sự sống vô tư đó của nó thì lại nói thật nhiều, mà những thế hệ cha anh nó phải suy ngẫm? Ngọn gió ào qua đang thôi thúc trong anh, hãy mang những ý nghĩ lớn lao hơn vượt lên trên cái riêng tư. Anh đang ngồi bên người bạn gái trong một buổi sáng đẹp trời, thấy như mình đã ra đi.
      Tình yêu sẽ nói gì nhỉ? Thu nhìn anh yên lặng. Cô muốn biết người bạn trai của cô đang nghĩ gì?
     Có tiếng máy bay ở xa vọng tới.
-  Chiến tranh đấy!
     Hoàng nói, giọng anh bình thản: "Chiến tranh đang đến gần Thủ đô. Không chỉ những trường phổ thông mà cả trường đại học cũng đang chuyển đến các vùng nông thôn và rừng núi".
     Thu nói có vẻ hơi lo lắng:
-  Chúng mình sẽ xa nhau lâu!
      Thế là hết quãng đời niên thiếu. Cô thì đi học xa, anh sẽ bước vào cuộc đời người lính chiến. Khi biết được quyết định của Hoàng: Anh sẽ từ giã trường đại học Bách khoa, nơi anh đã nhận được giấy gọi vào học để nhập ngũ. Vui, buồn lẫn lộn ở trong cô. Không một lời can ngăn, nhưng cô vẫn cảm thấy tiêng tiếc thế nào ấy? Cô vẫn giữ thản nhiên, giộng nói nhè nhẹ:
-  Nhớ viết thư về luôn cho Thu, Hoàng nhé!
     Hoàng nhìn người bạn gái trìu mến. Tình yêu của Thu đã dành cho anh, anh biết. Tuy nhiên họ chưa nói với nhau điều đó. Từ mấy tháng nay, ngay khi bước vào kỳ thi cuối cấp, họ đã xích lại gần nhau hơn. Cả hai đều hiểu rằng: Một tình cảm lớn hơn, tốt đẹp hơn đã đến với họ.
     Nghĩ về sự phải xa cách người yêu? Có lúc lòng Hoàng nhói lên, se lại. Nhưng rồi lý trí tuổi trẻ và những nóng bỏng của cuộc sống, giúp anh vượt qua nỗi trăn trở riêng tư. 
     Thực ra, khi nghĩ về chiến tranh: Sự háo hức ở trong Hoàng là được ra mặt trận - Vẫn còn là thứ tình cảm rất bồng bột tuổi xuân xanh. Chiến tranh là gian khổ, là đổ máu: ai mà chẳng nói như thế? Với một cậu thanh niên đang chập chững bước vào tuổi đôi mươi, trái tim như một bình nước đang sôi. Nếu có nghĩ về sự ác liệt, sự hy sinh... thì cũng giống như một kẻ đang giàu ước mơ, ham vọng bay cao!... Hoặc giả vẫn chỉ hiểu nghĩa về "cái chết" như một thứ lập luận. Bởi lẽ, nói đến chiến tranh không thể không lập luận về... "chết", và cũng chỉ mới dừng lại ở trong thứ lập luận có tính chất công thức mơ màng đó.
     Dẫu chẳng phải giống chàng Anđrây Bôncônxki một thủa “ôm giấc mộng Tu Lông” như trong tiểu thuyết “chiến tranh và hòa bình” của Đại văn hào L.Tônxtôi, nhưng khát vọng tuổi trẻ sớm gieo trong anh những hình tượng anh hùng nhuốm màu sắc hiệp sĩ, thường có trong nhiều thanh niên Hà Nội vào những năm thập kỉ sáu mươi này. Anh không hiểu rằng: ở một người con gái khi đã yêu anh, cái “chết” không thể chỉ hiểu theo ý nghĩa về cái “đẹp”? Đó là một mô hình cuộc sống lý tưởng đang lấp lánh trong tâm hồn đầy mơ mộng của anh. Phải chăng trong niềm hạnh phúc của tình yêu kia, cũng đã chất đầy nỗi đau của sự chia ly mà người con gái vẫn im lặng chịu đựng.
     Thu nhìn Hoàng không nói. Cô cúi xuống bứt một lá cỏ đưa lên mồm nhấm nháp. Vị chát và ngọt của cỏ tan ra trong lưỡi cô. Giọng Thu điềm đạm:
-  Hoàng đã nghĩ kĩ chưa?
-  Thu muốn nói…
     Không chờ anh nói hết, cô tiếp:
-  Không phải là Thu không tin Hoàng, nhưng Hoàng còn nghĩ về chiến tranh đơn giản quá!
-  Chẳng lẽ Thu không muốn thế ư?
-  Thu không nghĩ như thế!
     Cái nhìn của Thu chiếu thẳng vào mắt Hoàng, và Hoàng hiểu ý của bạn gái mình: “Tôi không yếu đuối và ích kỷ như anh tưởng đâu? Anh bạn thân mến ạ! Chẳng cần bạn phải khuyên tôi điều đó.”.
     Giọng Thu trầm xuống:
-  Thu chỉ muốn Hoàng suy nghĩ cho chin.
     Cô lại cúi xuống bứt những lá cỏ đưa lên miệng. Ở đầu kia đứa bé đã chán cảnh đuối bắt chuồn chuồn. Nó chạy lại kéo tay cha đòi đi. Núi Nùng ngập nắng. Thu đứng dậy kéo tay anh:
-  Ta đi thôi!
     Họ cùng nhau bước xuống dưới núi.
 
                                                           *
 
      Mái tóc phớt nhạt màu hạt dẻ của Thu vẫn được cuốn bồng lên, để lộ ra chiếc gáy trắng nõn, vương lại ít sợi tóc ngắn như tơ. Họ dừng lại dưới một bóng cây bên hồ nước. Tán lá xòe xuống che lấy họ. Có một đôi trai gái cũng đang đi dạo ở mé hồ gần đó – Cô gái cầm một miếng gạch nhỏ và mỏng, ném thia lia trên mặt sóng. Miếng gạch nhảy lướt lên mặt nước kẻ một vạch dài, rồi mất hút ở giữa hồ.
     Thu nghĩ tới việc ra đi của Hoàng, cũng giống như đường thia lia của miếng gạch kia: Cái bắt đầu là bước nhảy trong tầm mắt, rồi đến bước nhảy ngoài cuộc sống. Từ trong cuộc sống Hoàng sẽ ra đi! Cuộc sống là thật, còn ước mơ mới chỉ là ước muốn? Chiến tranh gần quá, nó không còn khoảng cách để dắn đo. Đôi khi thoáng sợ hãi nghĩ về cái không may có thể xẩy ra? Cô vội gạt đi. Đó là điều duy nhất, cô không thể đặt ra và cắt nghĩa nó.          
    Như một điệp khúc xáo trộn trong tâm trí Thu, khi thì nó chầm chậm tan ra như vị ngọt chát của lá cỏ, khi lại cồn cào nhảy lên như hòn thia lia. -  Tuổi trẻ thường có những bước nhảy trong ý nghĩ, lướt trên bề mặt cuộc sống, nhưng cuộc sống đâu có phẳng lặng như mặt hồ? Thu nghĩ vậy.
     Cô quay người lại kéo anh sát gần vào mình. Núi Nùng đứng dựng lên như thành quách, ngăn cách họ với những bề bộn của cuộc sống bên ngoài. Những cây cối cũng rùng rùng đứng dậy. Gió thổi vút qua những cành lá, sóng vỗ vào mạn bờ lép bép... Thu ôm lấy Hoàng. Đôi bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô, ghì xuống đầu anh. Đôi trẻ tha thiết hôn nhau,  những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Như những đợt sóng táp lên mặt, lên trán rồi ướt đẫm đôi môi cô.
-  Không bao giờ chúng ta quên nhau!
     Thu bồi hồi nói trong hơi thở.
-  Không bao giờ ta quên!
     Hoàng đắm đuối nhìn vào mắt người yêu, khẽ nhắc lại.
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                      2-
 
     Thu rời khỏi bần học, đi về phía cửa sổ của gian phòng trên gác nhìn xuống phố. Con đường Hàng Bông nhỏ, xe đạp đan nhau thưa thớt, kẻ đi người lại. Bà hàng nước bên kia đường bận rộn dọn hàng để về nghỉ. Bà quay lại giục mấy cậu thanh niên vẫn ngồi tán dóc:
-  Muộn rồi, bà cũng phải dọn hàng đây.
     Một bác xích lô có chiếc xe đang dựa bên cạnh vỉa hè, tay vẫn cầm ống điếu cầy nói:
-  Còn sớm chán, sao hôm nay bà dọn hàng vội thế?
-  Xương cốt đau ê ẩm, dọn hàng về nghỉ ông ạ!          
     Bác xích lô lấy chiếc đóm châm lửa trong một ngọn đèn dầu, khà khà rít một hơi thuốc lào cuối cùng. Lão ngửa cổ tuôn từng tràng khói. Khói thuốc tan hòa vào ánh sáng điện nhàn nhạt của một phố vắng.
     Gió ùa vào phòng. Cơn gió buổi tối cuối thu se lạnh. Bầu trời trong, những vì sao thì chạy mãi ra xa vô tận. Nhìn qua một khoảng không gian cũng trầm xuống như đang tư duy, Thu cố hình dung tới phương trời mà người bạn trai của cô sẽ đến? Mọi thứ với cô dường như thay đổi. Những đồ vật trong nhà, những người thân, cả trong ý nghĩ... Thu thấy nó mới mẻ, có phần hơi lạ lẫm. Như thể ở trong cô mới chớp lên thứ ánh sáng huyền ảo và rạo rực.
     "Mình chỉ là con ích kỷ!" – Thu tự trách mình. Cô rời khỏi cửa sổ ngồi vào bàn học, ghi tiếp những dòng nhật kí. Nghe tiếng ba gọi ở nhà dưới, cô vội chạy xuống.
     Ông Giáo đang cắm cúi dịch một cuốn sách nước ngoài. Thấy con gái đến, mới tháo cặp kính trắng đặt lên cuốn sách dịch dở, chỉ vào chiếc ghế ở mé bàn, bảo con:
-  Con ngồi xuống đây, ba muốn nói chuyện.     
      Thu đưa tay với lấy cuốn tiểu thuyết ở trên bàn lật qua vài trang, có ý chờ đợi.
-  Việc chọn cho mình một ngành nghề thì tùy con quyết định...         
     Vẫn cái giọng trầm trầm, Ông giáo nói:
-  Tình hình đất nước thì con cũng đã biết, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Máy bay Mỹ đã ném bom gần vào Hà Nội. Không mấy ngày là không có báo động. Ngồi ở thành phố mà làm việc cũng không yên.                           
     Dừng giây lát, ông thong thả nói tiếp: "Ngay trên Bộ giáo dục của ba cũng đã có lệnh sơ tán. Anh con đi vào chiến trường, thì hai năm nay không có tin tức gì?". Thu vẫn ngồi im lặng để nghe ba giảng giải.
-  Ban tuyển sinh của thành phố đang tuyển thêm một số sinh viên sang châu Âu học. Ba nghĩ, hay là con đi học ít năm ở nước ngoài? Nếu con muốn...
     Ông Giáo im lặng nhìn con, xem ý của con gái thế nào?
-  Thôi bâ ạ! Con đi học ở trong nước cũng được. Hơn nữa, con thích theo học ngành sư phạm mà.
     Thu ngồi nhìn ba, cô phân tích: "Ba thì già rồi. Mẹ con hồi này cũng yếu nhiều. Chị dâu con lại bận cháu, chả lẽ con lại đi nốt?'.
-  Nhưng con cũng có được học ở Hà Nội đâu? Với lại, ba và mẹ con rồi cũng phải đi sơ tán.
-  Thì con vẫn đi đi lại lại để thăm ba mẹ. Nếu con đi học ở nước ngoài, thì phải sáu bảy năm biền biệt.
     Giơ tay với lấy chiếc hộp đựng thuốc lá bằng gỗ trạm nổi đặt trên bàn, lấy ra một điếu, Ông Giáo bật diêm châm lửa hút.
-  Ba muốn con đi là nghĩ đến tương lai của con. Chứ, phải xa con... ba cũng nhớ!
-  Thế, con học ở trong nước không có tương lai hay sao?
     Nghe con nói thế, Ông Giáo cười dàn hòa:
-  Con nhiều lý sự lắm! Là ba sợ học sơ tán thì con vất vả. Vả lại, ở nước ngoài điều kiện học hành cũng tốt hơn!
     Thu đứng dậy quàng lấy cổ ba, giọng nũng nịu:
-  Ba đừng lo. Có khi học ở miền núi khí hậu tốt, con lại lên cân cho mà xem.
-  Tùy con.    
     Ông Giáo nói vậy rồi giục con đi ngủ. Từ nẫy, Bà Giáo vẫn ngồi trên chiếc giường cá nhân của Ông Giáo, có trải tấm đệm trắng. Bà đang thườ nốt cái cúc áo cho chồng. Thu chạy lại phía mẹ. Bà Giáo mắng yêu con:
-  Cô còn nông nổi lắm! Bao nhiêu người muốn không được. Cô định bám mãi vào gấu mẹ chắc?
-  Con cứ thế.
     Thu nói rồi, đến buông màn sẵn cho ba. Cô vừa giắt cẩn thận bốn góc màn, vừa nói với mẹ:
-  Mẹ chỉ lo xa.
    Cô quay sang giục Ông Giáo:
-  Ba cũng nên đi nghỉ sớm đi, ba ạ! Hồi này con thấy ba không khỏe lắm đâu.
-  Ba chỉ dịch thêm một đoạn nữa thôi.
     Ông Giáo nói và nhìn về phía Bà Giáo:
-  Bà xem mà chuẩn bị đầy đủ các thứ cho con nó đi học. Cũng chỉ mươi hôm nữa là tựu trường.
-  Chuyện ấy thì ông không phải lo.
     Bà Giáo gấp lại chiếc áo đã khâu xong, đặt lên đầu giường cho chồng  rồi cùng với con gái lên gác trên.
 
 
 
                                                  3-
 
     Hồi này ông Tiến Thịnh hay bực bội, động một tý là ông gắt. Có lúc vì một chuyện không đâu mà ông mắng té tát người vợ bé của ông, tức là bà dì ghẻ của ba anh em Hoàng. Chả là, mẹ của anh em Hoàng đã chết cũng phải đến sáu năm nay. Được ba năm thì ông Tiến Thịnh lấy thêm người vợ kế này.
     Gia đình ông Tiến Thịnh ở một ngôi nhà hai tầng, cũng không rộng lắm trong ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên. "Cống Trắng" là một con ngõ khá rộng. Có lẽ từ lâu rồi, một số nhà ở đầu ngõ gần phố, mỗi người đã chiếm một khoảnh đất bên rìa ngõ, làm chỗ bán hàng. Kẻ thì bán hàng ăn, người mở quán nước... Ông Tiến Thịnh cũng dựng được một cửa hiệu cắt tóc nhỏ, chỉ cách nhà vài chục bước.
     Từ phố đi thẳng sâu vào phía trong ngõ thông ra một cái hồ khá to. Cũng không rõ khi ấy cái hồ thuộc quyền sở hữu của tư nhân hay xã hội? Chỉ biết là: nó đã có người thuê để thả rau muống, nuôi cá kinh doanh.  Đến kỳ thu hoạch, họ chèo những chiếc thuyền nan ra giăng lưới bắt cá hoặc hái rau muống mang đến các chợ của thành phố bán.
     Hồ Cống Trắng này - Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, đã có một bài thơ "mưa đêm lều vó" nổi tiếng của thi nhân Huyền Trân:
                  Tôi ở lều tranh, Cống Trắng này,
                  Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
                  Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
                  Giăng phải hồn tôi một lưới đầy...
   Trở lại câu chuyện về gia đình ông Tiến Thịnh – Cứ nghĩ đến Hoàng, thằng con thứ là ông lại thấy điên tiết. Mới ráo máu đầu, nó đã dám bỏ ngoài tai lời nói của ông. Nó lại còn dám lý luận, phê phán ông là lạc hậu nữa. "Đồ ngu ngốc" – Ông tự gằn hắt với mình như vậy. Cũng chẳng phải vì Hoàng đã bỏ cái trường đại học bách khoa, bách khuẩn... gì đó mà ông tức? Theo ông nghĩ, thời buổi này chữ nghĩa nhiều cũng chẳng làm giàu được. Giá thử nó biết nghe lời ông, kiếm một "cái chân" gì đó ở cơ quan nhà nước, để lấy tiêu chuẩn tem phiếu. Ngoài giờ chính quyền, thì theo thằng anh chạy chợ... Ông đã mở mắt cho nó, mà nó không biết đường? Bởi thế ông bực.
     Nói về thằng Tiến Thành, con cả của ông: đang học dở lớp sáu thì bỏ, theo chúng bạn ra chợ giời “mua đi, bán lại”. Hồi ấy ông đã sợ… nhỡ nó cờ bạc, trai gái rồi đầu trộm đuôi cướp? thì cơ nghiệp của ông đến phá tán vì con cái. Ấy, thế mà nó lại “nên người”! Con mụ xem tử vi nói thế mà đúng: Thằng con cả nhà ông rồi sẽ ăn nên, làm ra. Nào là nó được thánh nhân phù trợ, được cả sao thủy, sao mộc chiếu vận nên số rất “hên”! Mụ ta nói vậy. Nhờ giời… mấy năm “vào cầu”, nó lấy vợ rồi ra ở riêng. Thuê ngay được cái nhà làm cửa hiệu cắt tóc ở phố Huế. Vợ nó là con bé bán hàng đồ cũ ngoài chợ giời. Tuy xấu người, tính nết có đỏng đảnh, nhưng được cái… chuyện làm ăn thì hoạt bát, nhanh mồm, nhanh miệng.
     Thật, chúng nó kiếm dăm ba trăm bạc dễ như ăn ớt! Ấy là ông ví thế, cũng vì ông nhai ớt cứ ngon lành như người ta nhai kẹo vậy. Sẵn cái nghề cắt tóc của bố truyền cho – Nó vừa mở cửa hiệu cắt tóc lại kết hợp với việc “chạy chợ”. Phải nói là… cửa hiệu cắt tóc của thằng Tiến Thành con ông “ăn khách”. Vừa mới đây, nó lại tậu được cái máy hát se-te-re-ô đập sình sình cả tối. Nghe nhức cả tai, nhưng của ấy bọn thanh niên thì ham, đua nhau đến cắt tóc để nghe nhạc.
     Nghĩ vậy rồi ông chép miệng? Chẳng bù cho cái thằng Hoàng - con thứ của ông, suốt ngày chỉ cắm đầu vào sách vở. Ừ, ông lại chép miệng: “Nhưng dù sao thì… trong ba anh em, nó cũng là đứa học hành tử tế nhất!”.
   Không biết sao ông khẽ thở dài? Ông nghĩ đến thằng Lâm, đứa con út của ông. Từ khi mẹ mất, nó ngày càng lêu lổng, đàn đúm với đám bạn hư hỏng. Ông răn đe, nó vẫn bỏ ngoài tai. Học hành thì dốt nát, chẳng ra đâu vào đâu. Mới theo tới cái lớp năm… đúp lên, đúp xuống. Ngữ ấy rồi cũng thất học sớm.
     Kể ra thằng Hoàng - anh nó, chẳng những chỉ học hành tử tế, sống cũng đĩnh đạc nhất. Ấy thế mà, đã được quốc gia gọi vào đại học, giờ lại tớn lên đi nhập ngũ. Ông can ngăn, nhưng nó đâu có chịu nghe?
     Nhân lúc cửa hàng vắng khách, ông Tiến Thịnh vào nhà. Ông ngồi khoanh chân trên chiếc sập lim, mải đuổi theo một mớ ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Kéo cái điếu bát về phía mình, tay ông với lấy chiếc xe điếu được làm bằng ống trúc nhỏ vàng óng có nhiều mấu vằn vện rất cầu kỳ, rồi châm lửa rít một hơi thuốc lào. Vừa lúc đó, Hoàng từ ngoài phố bước vào nhà. Ông chỉ tay ra hiệu cho anh ngồi xuống bộ bàn ghế tiếp khách kê ở giữa nhà. Ông nói có vẻ hơi dằn giọng:
-  Anh giỏi! Bây giờ các anh, các chị giỏi! Có nói mấy thì các anh, các chị cũng chỉ bỏ ngoài tai.       
     Hoàng vẫn ngồi thừ ra, lơ đãng nhìn bố. Như một bản nhạc chuyển gam, ông Tiến Thịnh nói nửa khuyên bảo, nửa lại như đe nẹt con:
-  Con ạ! Khôn thì ăn cơm, dại thì cháo cũng không có mà húp đâu?     
-  Con đã lớn rồi! Con cũng đủ suy nghĩ để quyết định cuộc đời mình.
     Hoàng cãi lại bố. Ông Tiến Thịnh đay lại:
-  Đủ suy nghĩ? Các anh bây giờ thì nhiều lý luận thật đấy! Nhưng cuộc sống nó không giống như trên sách vở của các anh đâu? Còn phải tốn cơm, tốn của thì mới mở mắt ra được, con ạ!
-  Nhưng con có làm điều gì sai trái thì bố mới ngăn cản chứ? Cứ nghĩ như bố thì chẳng ai dại gì mà đi chiến đấu. Con hỏi bố: Thanh niên như chúng con, lúc này không đi...  để ai đi thay mới được chứ?    
-  Hừ...    
     Ông Tiến Thịnh kéo dài giọng:
-  Thế... tôi hỏi anh: Người ta đã cần đến anh phải đi ra mặt trận chiến đấu chưa? Bỗng dưng anh toe toe đâm đơn xin đi, xung phong với chả tình nguyện? Cái thời buổi này mà gia đình nuôi cho anh được ăn học đến thế, là khó lắm rồi đấy? Phải biết thức thời, con ạ!           
     Ông dừng lại. Nhét một điếu thuốc nữa vào cái lõ điếu, rồi châm lửa hút tiếp. Cái điếu của ông sắm chuẩn lắm, rít thuốc mà tiếng kêu cứ long lên sòng sọc. Thong thả nhả một làn khói ra bay mù mịt khắp nhà, ông Tiến Thịnh vẫn tiếp tục dậy con:    
-  Hãy mở mắt mà trông ngay cái gương thằng Tiến Thành, anh trai của mày! Có học hành gì đâu? Thế mà chả mấy chốc nó còn tậu được cả nhà, ấy chứ!        
-  Mỗi người suy nghĩ một khác. Con có đường của con. Con thấy việc con làm là đúng đắn!       
     Hoàng vùng vằng quặc lại bố.
-  Đúng... đắn...       
     Ông Tiến Thịnh còn nói gì nữa, anh không biết. Hoàng bực bội với lấy chiếc mũ lưỡi trai ngoắc trên mắc áo, đội sụp xuống mặt, bước ra khỏi nhà.
 
 
                                                      4-
 
     Mới hơn ba giờ chiều mà trời đã xám lạnh, mây kéo ùn lên. Hoàng lặng lẽ bước đi trên đường phố, lòng anh không vui. Anh rẽ vào cửa hàng mậu dịch giải khát ở ga Hàng Cỏ mua một cốc nước chanh, đến ngồi xuống bên một chiếc bàn cạnh cửa sổ, trông ra đường. Hoàng muốn hút một điếu thuốc lá, dù chưa bao giờ anh hút thuốc. Anh cảm thấy khói thuốc sẽ làm cho lòng mình khuây khỏa hơn. Nghĩ thế, Hoàng bước đến bên quầy phục vụ mua một bao thuốc lá Tam Đảo, rồi trở về chỗ của mình. Đây là điếu thuốc lá đầu tiên cho cuộc đời nghiện thuốc của anh.
     Anh nhìn đến dẫy người đang đứng xếp hàng mua bánh kẹo trung thu. Có hai anh chiến sỹ trẻ, trên hai ve áo có gắn miếng quân hàm binh nhất. Họ là những người lính mới nhập ngũ, Hoàng nghĩ vậy – Chắc là được tranh thủ về thăm gia đình? Bộ quân phục của hai chiến sỹ vẫn còn rất mới.
     Một bà già đứng xếp hàng phía trên hai người chiến sỹ ấy, quay lại nói:
-  Hai chú bộ đội tới mua trước đi!          
     Bà lão chép miệng vẻ thông cảm:
-  Thời gian của các chú ít ỏi, bà con chúng tôi mua sau một tý cũng được. Thằng cháu tôi cũng thế đấy! Chỉ xin cấp trên đi phép được một ngày, tranh thủ về thăm nhà. Cứ sấp sấp ngửa ngửa... 
-  Dạ, cũng vắng. Chúng cháu xếp hàng cũng được.
       Một anh chiến sỹ từ tốn đáp lại.
-  Các anh cứ mua trước đi! Sớm tý nào hay tý ấy, mua mau mà về kẻo "bu" lại đợi.
     Một cô gái tinh nghịch, nói xen vào.
-  Có mà "bu trẻ" ở nhà ở đang đợi nóng cả ruột, ấy chứ?
     Mấy đứa con gái cười ồ. Bà lão quay sang mắng:
-  Mấy con bé này! Chỉ được cái bộ...
      Một anh chiến sỹ có vẻ cũng láu lỉnh, mau mồm đáp lại các cô gái:
-  Lòng vả cũng như lòng sung thôi, mấy em ạ! Chỉ sợ rồi các em lại bám theo chân người ta mà khóc thút thít ấy.
-  Này...
     Cô gái đối lại ngoa ngoắt:
-  Đừng có mà khinh thường chị em nhé! Đã biết mèo nào cắn mửu nào? Hay là mấy anh rồi lại bịn rịn không đi được. Có anh lại bỏ trốn cả đơn vị về thăm "em", bị cấp trên sạc trước cả hàng quân đấy! 
     Cô phục vụ viên trẻ tuổi giơ cả một đĩa cân đầy kẹo, hỏi một anh chiến sỹ:
-  Túi của anh đâu, đưa em đổ vào?
     Hồi đó các nhà hàng chưa sắn túi ni lông như bây giờ. Thấy anh chiến sỹ đứng lúng túng vì không có túi đựng, cô bèn nghĩ ra một sáng kiến:
-  Hay là anh ngửa mũ ra, để em đổ kẹo vào đấy vậy?   
     Nghe chừng hợp lý, anh bộ đội định giơ tay lên đầu lấy chiếc mũ xuống đựng kẹo. Bỗng tiếng chị phục vụ viên lớn tuổi hơn, mắng cô gái trẻ:
-  Cái con này, ăn nói chẳng ra làm sao? Tổ quốc trên đầu, ai người ta lấy để đựng kẹo. Thế mà cũng đòi ăn nói, mất cả lập trường.
     Anh bộ đội chột dạ. Đã đặt tay lên vành mũ, vội làm động tác sửa lại mũ cho ngay ngắn. Sau đó, anh ta phanh ngay miệng cái túi quần quân nhân rộng thùng thình, bảo với cô phục vụ viên trẻ tuổi:
-  Các chị cứ đổ cả vào đây cho tôi.
     Nghe câu chuyện xẩy ra ở cửa hàng giải khát, Hoàng thấy vui vui. Anh bước ra đường, đi thẳng về phía Cửa Nam rồi ngoặt lên phố Tràng Thi... để rẽ vào một cái phố ngắn ngang đấy. Mưa đã rơi xuống những hạt nhỏ, đều đều. Anh ngẩng mặt hít lấy một hơi gió lạnh.
     Hoàng dừng lại trước cửa nhà một người bạn trai cùng lớp. Nghe tiếng bạn gọi, Đức ở trên tầng hai ló đầu ra ngoài cửa sổ, vẫy tay bảo Hoàng lên. Hoàng đẩy cửa bước vào nhà, đến bên một chiếc cầu thang gỗ, nhảy hai bậc một cho đến hết cầu thang. Đức vui vẻ đón bạn, rồi khoe:
-  Tớ vừa nhận được giấy gọi đi học ở nước ngoài rồi, tuyệt quá!
     Đức giơ cho Hoàng xem tờ giấy triệu tập sinh viên đi học tại Cộng hòa dân chủ Đức. Anh bảo:
-  Bổ xung thêm vào nhóm các bạn của lớp mình đi học ở Đức, mà chúng nó đã được gọi từ tháng trước.
-  Cậu được gọi đi học ở Đức cũng đúng thôi, vì tên cậu cũng là Đức mà.
     Hoàng nói vui với bạn. Đức tiếp:
-  Mấy hôm trước, tớ lại nhận được giấy gọi nhập ngũ. Lo quá! Phải lên phân trần với mấy ông trên Ban tuyển quân - Mấy ông đòi phải trình giấy gọi đại học thì mới miễn nghĩa vụ quân sự.
-  Sao cậu không mang tờ giấy triệu tập học ở Đức này lên, cho mấy ông trên Ban tuyển quân xem?
     Hoàng nói với bạn.
-  Rồi. Hôm qua nhận được tờ giấy gọi đi học ở nước ngoài này, tớ tức tốc cầm lên trình với mấy ông – xong ngay!
     Hoàng vui lây với bạn. Cùng với những ước mơ tuổi trẻ, anh cũng khao khát được thả sức mình bay vào những hành tinh xa xôi, đầy sức cám dỗ của bầu trời khoa học. Nhưng rồi ý thức về một cuộc chiến tranh, cuộc chiến đấu đánh Mỹ để bảo vệ tổ quốc... đã thôi thúc mạnh mẽ trong anh. Anh không muốn lẩn tránh, dù đó là một lý do hoàn toàn chính đáng.
     "Ở đấy không có bình yên! Ở đấy đòi hỏi phải hiến máu!" – Chỉ cần những yêu cầu không hề đơn giản đó, cũng đủ để anh gạt sang bên những ân huệ đang mời đón anh. Nếp nghĩ ấy của Hoàng cũng là tâm tư chung với không ít thanh niên, trong những năm thập kỷ sáu mươi này.
-  Cái Thu nó tính quẩn?    
     Đức nhìn Hoàng và nói: "Cứ đi học ở nước ngoài bảy năm là tốt rồi! Thời buổi chiến tranh này...". Hoàng hỏi bạn:
-  Cậu sang Đức sẽ học ngành gì?
-  Máy tính điện tử.
     Đức nói: "Chắc là đến khi bọn này về, đất nước đã hòa bình.". Hoàng đỡ lời của bạn:
-  Có thể khi các cậu về thì đất nước đã hòa bình. Tiếp đến sẽ là thời đại của khoa học, kỹ thuật. Các cậu tha hồ mà trổ tài năng của mình. Lúc đó,  xã hội lại rất cần những con người có nhiều kiến thức khoa học như các cậu.
     Đức đồng tình.
-  Dĩ nhiên. Ở các nước châu Âu, trình độ khoa học tiên tiến lắm! Ngay hệ trung cấp của họ đào tạo, tương đương với trình độ kỹ sư của ta đây!  
     Hoàng hỏi:
-  Hôm nào Đức và các bạn tập trung?
-  Sáu giở tối ngày mồng một tháng tới. Như thế là bọn mình còn ở lại trong nước đúng một tuần nữa. Hôm đó, nếu Hoàng và những bạn chưa tựu trường, ra ga với bọn mình nhé!          
     Đức vẫn yên trí là Hoàng sẽ vào học ở đại học Bách Khoa.                 
-  Thế nào mình cũng ra tiễn cậu và các bạn.
     Hoàng nói rồi đứng dậy chào bạn ra về. Khi đưa chân Hoàng ra cửa, Đức còn dặn:
-  Ngày mai, mấy đứa bọn mình cũng phải dẫn nhau đi đánh chén một bữa để chia tay?    
     Hoàng gật đầu tán thành rồi bước ra phố trong thứ ánh sáng đèn nhè nhẹ, phả xuống mặt đường nhựa bóng nước. Anh rùng mình khi cơn gió thổi tới, bỏ ống tay áo đang xắn dài xuống cho đỡ lạnh. Cứ thế anh rảo bước trên hè phố, mà cũng chẳng biết nên đi đâu, về đâu?  
 
 
 
                                                5-
 
     Cô gái có khuôn mặt to bạnh, đen thui như cột nhà bếp bóng nhẫy. Cô ta nói tiếng trọ trẹ người Khu Năm, đó là Phi! Các bạn lớp vẫn thường gọi trêu cô bằng cái tên “Hắc Phi”, để chỉ sự đen như bồ hóng ấy.
    Hắc Phi đứng cạnh một cây cột điện gần con đường sắt, bên một đoàn tàu dài với nhiều toa đang đỗ ở đó. Chính là con tàu sẽ chở đoàn sinh viên miền Bắc Việt Nam, sang học tại Cộng hòa dân chủ Đức.
     Hắc Phi – như người ta nói, thực ra số cô chẳng đen tí nào, còn đào hoa nữa. Đứng cạnh cô là một anh chàng da trắng, người dong dỏng cao, chắc là người yêu của cô đi tiễn?
-  Em đi rồi, ở nhà là anh không được “linh tinh” đâu đấy?      
     Cô gái da đen lấy tay véo mũi anh chàng da trắng như để cảnh cáo? Rồi toét miệng ra cười, để lộ hàm răng trắng xóa nổi bật trên khuôn mặt đen nhẻm. Bù cho những thiếu hụt về khoa thẩm mỹ của nước da, cô có đôi mắt tươi rói với nụ cười rất duyên.
-  Yên tâm, sang nước ngoài học giỏi nghe!
     Anh chàng da trắng nói vậy. Nhóm bạn của lớp cũng nhiều người ra tiễn, một số đứng gần đấy thì thào với nhau:
-  Anh ta là một kỹ sư địa chất mới ra trường đấy!
     Đức đang đứng bên cạnh bà mẹ và gia đình đi tiễn, quay lại nói nhỏ với các bạn:
-  Cũng chẳng hiểu sao chàng trông có vẻ tuấn tú thế, lại đi yêu cô nàng da đen như dế trũi. Hà Nội này hết con gái chắc?      
-  Cẩn thận có “ăn guốc” bây giờ?
     Một cô bạn gái lớp xinh xắn ra tiễn các bạn, vặc lại Đức! Nói rồi cô nở một nụ cười dịu dàng, như muốn biểu hiện sự đồng tình với câu tán dóc của Đức vừa rồi.
     Một người bạn trai có tên là Minh, nói chêm vào:    
-  Thực ra thì, trong năm đứa cả con trai lẫn con gái đi sang Đức học chuyến này, chỉ có mỗi cái Phi có người yêu theo tiễn.                                        
     Cả khu Hàng Cỏ xôn xao tiếng cười nói của người đi, kẻ ở. Trên ô cửa sổ tàu, những cái đầu còn cúi xuống nói chuyện với người thân đứng dưới sân ga. Tiếng dặn dò, nhắn gửi hòa vào trong tiếng rao bán bánh kẹo, bán thuốc lá... thành một thứ âm thanh hỗn độn, vui vẻ. Một số bạn đã có giấy triệu tập lên tựu trường ở nơi sơ tán không về được, những bạn lớp còn ở lại Hà Nội, đều ra tiễn. Đức nhìn ra hướng phía ngoài cửa ga, vè sốt ruột:
-  Vẫn không thấy Hoàng đâu. Nó đã nói với mình thế nào cũng ra tiễn?       
-  Chắc nó có việc gì đột xuất.                        
     Minh nói. Tiếng một người bạn gái:
-  Cả cái Thu cũng không thấy đến?                        
-  Đôi duy nhất của lớp đấy! Hồi này, anh chị quyện với nhau khiếp lắm.       
     Tiếng của Thanh Hà, cô bạn gái người miền Nam theo gia đình ra Bắc tập kết, chuyến này cũng đi sang Đức học. Thanh Hà là một thiếu nữ đẹp,  mái tóc dài chấm lưng với nước da trắng như bông, nên còn có biệt hiệu gọi là "Bông".
     Đoàn tàu đã kéo còi, sắp đến giờ chuyển bánh. Người nhân viên nhà ga giục những sinh viên đi sang Đức học lên tàu. Tiếng chào, câu dặn với... ồn lên. Có bà mẹ theo tiễn con, đã giở chiếc khăn tay ra chấm nước mắt. Chẳng hiểu bà khóc vì sắp phải xa đứa con yêu quí của mình hay vì sung sướng? Đức đã bước lên toa, nhảy xuống tàu reo lên:
-  Kia rồi, Hoàng nó kia rồi!               
     Đám bạn nghe thấy, quay nhìn về phía cửa ga. Hoàng đang nắm tay Thu chạy cuống quít. Anh chìa chiếc vé "ke" cho người kiểm soát vé ở cửa, rồi vội vã cùng Thu lao tới.
-  May quá, còn kịp.                 
     Hoàng và Thu mừng rỡ chào các bạn.
-  Gớm, anh chị làm gì mà bây giờ mới đến? Chúng tôi chờ mỏi mắt.     
     Lúc này Hắc Phi mới rời khỏi anh chàng da trắng, nhảy xuống đón bạn. Thu chạy lật đật trong đôi guốc cao gót, thở hổn hển. Đức nắm chặt tay Hoàng:
-  Tạm biệt nhé, chúng tớ đi đây!    
-  Nhớ viết thư ngay về cho bọn mình biết tin. Kể cho bọn mình nghe về nước Đức nhé!                 
     Thu với lên cửa sổ toa tàu, bắt tay mấy bạn đi học, vừa thở vừa nói.
-  Yên tâm, tới Đức bọn mình sẽ viết thư về cho các cậu ngay. Cũng chúc cho anh chị sớm nên duyên nhé!      
     Thanh Hà trên toa tàu cúi xuống bắt tay Thu, nói trêu bạn.
-  Chỉ ăn nói quàng bậy nào?        
     Thu vui vẻ vấy chào các bạn và mỉm cười thân thiết. Lúc này, Lan - cô bạn gái thân chạy lại ôm ngang lưng Thu:
-  Anh chị mải chuyện gì mà bây giờ mới đến?
     Thu không nói gì, chỉ toét miệng ra cười. Họ nắm lấy tay nhau cùng vẫy tiễn các bạn lên đường. Như những đôi tình nhân chia tay, họ từ biệt nhau vội vã. Tiếng còi tàu đã rú lên lần thứ hai. Hoàng lặng người, đứng nhìn con tàu chuyển bánh. Lần đầu tiên anh chia tay với những người thân, vui buồn cuộn lên trong dòng đời tha thiết.
     Thế là các bạn anh đã ra đi! Họ đang vẫy chào anh và những người ở lại. Phía trước họ, một chân trời mới đang mời đón. Cuộc sống mới vô vàn thân yêu.
-  Tạm biệt, đi mạnh nhé!        
     Có một số bạn đuổi theo con tàu một đoạn, vừa chạy vừa vẫy. Họ nói với theo, như gào lên. Tiếng gọi bị nuốt đi trong tiếng bánh xe tàu lăn rầm rầm trên đường ray.
     Hoàng đứng yên một chỗ. Bàn tay anh đã thôi không vẫy nữa. Mắt anh vẫn nhìn theo những cái bóng thân thuộc đang thò đầu ra hẳn cửa toa, còn giơ tay vẫy người ở lại.
     Thu đi lại phía Hoàng, níu tay anh kéo đi.
-  Chúng mình về đi, Hoàng!
     Giọng cô nói nhẹ như dỗ dành. Lan tinh tế khẽ mỉm cười nhìn Thu, rồi nhập vào nhóm các bạn ở lại của lớp, kéo nhau ra khỏi ga. Hoàng cũng quay ra theo người bạn gái. Những bâng khuâng của buổi tiễn đưa, vẫn như dòng suối chảy bồn chồn trong anh.
 
                                                   *
 
-  Cô, cậu này cứ phân trần nhiều quá!            
     Gã nhân viên soát vé ở cửa ga Hàng Cỏ nói: "Cứ vào mua vé đi Đồng Đăng – Hà Nội ra đây, chúng tôi sẽ giải quyết. Không phải phạt gấp đôi vì đã đi tàu lậu vé là nhân đức rồi!".
-  Nhưng tôi có phải là người đi lậu vé đâu? chỉ chót xé mất chiếc "ke" ra vào cửa, giá có 5 xu, các anh thật nguyên tắc.
     Hoàng bực bội vì thái độ hoạnh họe của tay nhân viên. Đứng ở phía ngoài cửa, Thu vẫn cố nài nỉ:
-  Chúng em vào ga tiễn bạn đi sang Đức học. Bạn trai em đãng trí xé mất chiếc "ke", chứ bọn em có đi tàu ở Đồng Đăng về Hà Nội đâu... mà anh bảo phải ra mua vé tàu?
-  Nếu tôi thông cảm với cô cậu, thế có những kẻ đi lậu vé thì sao? Cô cậu cũng phải thông cảm với chúng tôi chứ!
-  Chúng em chưa có kinh nghiệm. Lần sau thì...
     Gã nhân viên gắt lên:
-  Không sau trước gì cả. Mời anh chị vào phòng bảo vệ giải quyết!
     Cát – một người bạn của lớp cùng trong tốp ra tiễn, nhanh trí... nhặt một chiếc "ke" chưa kịp xé ở dưới đất, rồi dúi cho Hoàng. Nhân lúc tay nhân viên nhà ga bận rộn kiểm soát, đám hành khách Đồng Đăng – Hà Nội đang ùn ùn ra cửa. Hoàng vội đút vào túi quần, giả vờ lục túi... như đã tìm thấy. Anh giơ chiếc "ke" lên ngang mặt gã nhân viên soát vé, ung dung bước ra ngoài. Ra đến cửa ga, các bạn chia tay nhau mỗi người một ngả. 
     Cái tuổi mười tám đôi mươi, dễ hứng khởi nhưng cũng dễ buồn bực. Tâm trạng ấy xâm chiếm Hoàng. Tự nhiên anh cảm thấy trong lòng chơi vơi...
      "Cuộc đời mình rồi sẽ ra sao?" – Câu hỏi ấy bỗng đến trong anh. Mới bước ra đời mà cuộc sống đã đầy mâu thuẫn. Chỉ còn đêm nay... chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa... Thu và anh được ở bên nhau? Ngày mai Thu cũng đã đi tựu trường, tận một vùng rừng núi. Các bạn khác lần lượt đi cả. Các bạn anh hầu hết là đi lên hướng bắc, còn anh... thì sẽ về phương nam.
     Đôi bạn siết chặt tay nhau đi trong đêm vắng. Ánh điện phố lòa nhòa sáng soi vào bóng họ. Hoàng lại nghĩ đến câu chuyện bị gã nhân viên hạch sách ở ga, vừa đi vừa lẩm bẩm:
-  Thật là xúi quẩy. 
-  Đừng bận lòng nữa, Hoàng!
    Thu nắm chặt tay bạn thông cảm:
-  Cuộc sống nhiều khi cũng vớ vẩn như vậy, nhưng Thu không muốn buồn đêm nay.     
     Họ dừng lại bên bờ Hồ Tây. Dưới chân họ, sóng vỗ vào bờ ì oạp... Gió lướt thổi qua màn sương lạnh, táp vào những nhánh lá dừa vút lên thành điệu nhạc nhẹ. Âm rung như tiếng của chiếc sáo diều trong đêm thanh vắng ở miền quê. Bản hòa tấu thiên nhiên cũng tinh khiết như tình yêu của đôi trai gái, không một chút vẩn muội.
     Ở bên kia hồ, nơi tiếp giáp giữa mặt nước và chân trời. Trong ánh sáng lung linh của màn sao, một dải mây buông thõng xuống như mái tóc của người thiếu nữ. Đuôi tóc xõa lên mặt nước. Mỗi khi con sóng trườn lên, búp tóc đưa đi đưa lại, mặt nước rẽ ra một màu sáng lóng lánh.
     Phía bờ bên này ở cuối hồ, là chùa Trấn Quốc. Trong khuôn viên của chùa, một chiếc tháp cao mọc sừng sững, nghiêm trang như người lính gác... canh cho giấc ngủ của người thiếu nữ, mà mái tóc nàng đã xổ tung xõa trên mặt nước.
     Họ nghe thấy tiếng đập trong trái tim mình và trái tim của người yêu, rõ hơn con sóng vỗ vào bờ. Thế giới tưởng chừng như đang im lặng ngủ, chỉ riêng họ còn thức với nhau.
-  Cứ như thế, Hoàng nhé! Ngày mai chúng mình sẽ phải chia tay...
     Tiếng cô gái làm vỡ vài mảnh không gian, mỏng như trang giấy lụa. Cô đưa những ngón tay thon nhỏ, vân về chiếc cúc áo của bạn trai. Sóng bỗng xô lên như muốn kéo cả mảng bờ vỡ tung ra, để nhận chìm vào bể nước mênh mang dưới chân họ.
     Tiếng người con trai thì thào như hơi gió. Nó bặt đi... trong khoảng không gian vô tận màu xanh thẫm, nơi hàng vạn ngôi sao đang sáng ở đấy. Họ tha thiết hôn nhau, trước những giờ phút sắp phải chia tay.
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2018 18:14:05 bởi Nhân văn >
Nhân văn 12.03.2018 11:38:49 (permalink)
 
 
                                 PHẠM NGỌC THÁI
 
                     CHIẾN TRANH
                      và TÌNH YÊU
 
                                         Tiểu thuyết
                                            Tập I
 
                    Chương I đăng ở :    "Một huyền thoại thi ca" tr.16
                    Chương II đăng ở:    Kịch và các tiểu phẩm văn xuôi - Phạm Ngọc Thái" tr.14
                    Chương III đăng ở:   Thơ Phạm Ngọc Thái           tr.41
 
 
                                                Chương IV.   
 
                                      VỀ PHÍA HẬU PHƯƠNG
 
                                                     18-
 
          Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
     Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
     Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
     Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
-  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
     Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
-  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
     Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
-  Anh đây cơ mà...
-  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
     Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
-  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
-  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
-  Nghỉ nhé.
     Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
     Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
 
                                                      *
 
     Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
-  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
     Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
-  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
     Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
-  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
-  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
-  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
     Bà tỏ thái độ cương quyết:
-  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
     Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
-  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
     Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
-  Để con mạng nốt cho ba con!
     Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
-  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
-  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
     Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
-  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
     Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
-  Để ba con ở nhà một mình sao được?
     Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
-  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
     Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
     Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
-  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
-  Dạ, có ạ!
-  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
-  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
     Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
-  Tuyệt quá!
     Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
-  Anh con có viết thư về không mẹ?
-  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
     Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
-  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
     Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
     Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
-  Mẹ làm sao thế?                            
-  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
     Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
     Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
     Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
     ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
     Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
     Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
     Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
 
                                                    19-
 
     Một người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông Tiến Thịnh cạo mặt, nói:
-  Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không?  
     Ông Tiến Thịnh lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại:
-  Ai bảo ông thế?
     Lưỡi dao của ông phó cạo đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại:
-  Đài BBC đưa tin mà lị!
-  Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét.
     Cũng chẳng hiểu ý ông Tiến Thịnh định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp:
-  Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là...
-  Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá!
     Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình.
-  Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe?
-  Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu.
     Giọng ông Tiến Thịnh "chắc như cua gạch".
-  Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ!
     Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông Tiến Thịnh vặn hỏi:
-  Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à?
     Người khách vẫn không chịu:
-  Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ?
     Ông Tiến Thịnh nói kháy:
-  Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải?
     Người khách cự lại:
-  Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông!
-  Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo.                    
     Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông Tiến Thịnh rồi bước ra ngoài phố. Ông Tiến Thịnh lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu:
-  Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách.                     
     Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông Tiến Thịnh:
-  Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố...                                           
     Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng:
-  Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước.                         
     Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ:
-  Bác già nặng lời thế!                                           
     Hắn quay sang bảo với ông Tiến Thịnh:
-  Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy!
     Ông Tiến Thịnh vừa cắt tóc vừa nói:
-  Thế cậu đã biết hiệu cắt tóc Tiến Thành, trên phố Huế chưa? Cửa hiệu của thằng con cả tôi đấy! Nó cắt còn bợm hơn tôi.                         
     Tay thanh niên vồn vã hỏi:
-  Ở số nhà bao nhiêu phố Huế, hả bố?
-  Cậu là tay chơi, dân "phe phẩy"chợ giời, mà không biết cửa hiệu cắt tóc Tiến Thành nổi tiếng ở phố Huế, sát gần ngay chợ... thì xoàng quá!
     Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông Tiến Thịnh vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách.
 
                                                   *
 
     Ăn cơm trưa xong, ngồi khoanh chân trên chiếc sập lim nâu bóng, uống tách trà nóng, ông Tiến Thịnh gật gù nói với người vợ lẽ:
-  Mợ vào đây, tôi bàn chút việc quan trọng.
-  Thì ông cũng phải để tôi rửa ráy xong xuôi, uống ngụm nước, xỉa cái răng đã chứ?
     Người vợ lẽ của ông đang ở chỗ máy nước ngoài sân, mồm lẩm bẩm rủa thằng con út của người vợ cả đã quá cố:
-  Con với cái, đến hư hỏng. Ăn cơm xong là biến mất, để bát đũa cho dì rửa.
     Ông Tiến Thịnh phụ họa:
-  Ừ, tính nó lêu lổng. Mới buông bát, buông đũa, thoắt một cái đã chạy lêu têu ra phố.
     Rửa ráy xong. Người vợ lẽ của ông bước vào nhà, rút chiếc tăm để trong chiếc lọ nhỏ, đến bên chồng hỏi:
-  Ông định nói cái gì nào?
     Ông Tiến Thịnh rót chén nước đưa cho vợ:
-  Thì mợ cứ ngồi xuống. Tôi thì tôi nghĩ thế này? Cái tính cách làm ăn của nhà ta còn thủ công nghiệp lắm! Chật vật mà chả kiếm được bao nhiêu. Cứ nhìn vợ chồng thằng Tiến Thành thì đủ thấy – Phải làm ăn như chúng nó, chẳng mấy chốc mà "phát"!
     Ông khề khà rồi nói tiếp:
-  Cửa hiệu cắt tóc của tôi thì chỉ kiếm đủ ăn. Còn mợ, chợ búa bán bún bánh lặt vặt... ngày cò con dăm bảy đồng bạc. Con lợn nuôi trong chuồng, mang tiếng bán một lúc vài trăm thật, nhưng chẳng qua cũng chỉ là tiền bỏ ống.
     Người vợ lẽ ngồi im nghe chồng nói. Tính ông thì mụ biết, cái khoản làm ăn là rất "đa tính". Ông Tiến Thịnh vẫn nói tiếp:
-  Ở trên ga bây giờ hàng "miền ngược" về nhiều. Tôi đã thăm dò con mụ Tính ở khối trong? Tối nào mụ ta cũng ra ga: Khi thì mua vài tạ ngô, lúc dăm yến lạc... Mà mụ cũng chỉ là người đứng thầu, sang tay bán lại cho kẻ khác. Một chuyến hàng, mụ ta kiếm bằng vợ chồng mình làm ăn cả tháng.
     Người vợ lẽ cắt ngang:
-  Ông cứ làm như dễ ăn lắm đấy?
-  Thì ai đã bảo là dễ? Có điều, ta cũng phải tìm cách.
-  Cũng phải có mối lái, chứ ông tưởng? Không cẩn thận, công an tóm được... bắt phạt, thì có mà hết cả vốn lẫn lãi.
     Ông Tiến Thịnh gạt đi:
-  Chỉ cần ta khôn khéo một tí! Nghe nói, mụ ta mồi chài từ tay phòng thuế đến công an.
     Ông chỉ đường đi, nước bước cho người vợ lẽ:
-  Mợ chịu khó lân la với con mụ Tính? ngọt nhạt, theo nó vài bữa khi tàu mạn ngược về, để thông thạo mánh lới làm ăn. Xuôi buồm lọt gió, ta sẽ tính cách đi riêng. Khi đó tôi sẽ ra ga cùng với mợ...
     Đặt tách trà xuống, ông dừng lại hỏi vợ:
-  Mợ nghĩ thế nào?
-  Thì để xem xem thế nào đã. Mình xưa nay chỉ quen chạy chợ vặt, chưa bao giờ buôn lớn cả. Tiền của chứ có phải vỏ hến đâu, nhỡ làm sao... thì chết?
     Tối tối... khi cắt tóc về, ăn uống xong xuôi, ông lại ngồi trầm ngâm hàng giờ trên chiếc sập lim ấy. Ông vặn chiếc đĩa hát national cũ của Nhật mới mua lại, nghe ca vài bài vọng cổ. Tư tưởng làm ăn trong đầu ông nở ra như bong bóng xà phòng. Ông nghĩ hết cách này, cách khác, cách nào ông cũng thấy có cái hay, cái dở. Gạt cái này đi, tính đến cái kia. Ông lường trước, ông lo sau. Tuổi ông có phải còn bồng bột nữa đâu? Phải tính cho nó chín chắn! Ông TIến Thịnh nghĩ vậy, xong lại ngồi thở dài. Máu ông hám làm giàu, nhưng lại sợ bị "hố". Nhỡ một cái, thì khốn. Có khi tự an ủi mình: "Thôi già rồi. Chúng nó như con ngựa phi trên đường, ông như con dê đã về gần đến cửa chuồng" – Nghĩ thế, nhưng ông thấy người ta làm ăn "trúng"! Máu lại bốc lên, ông lại phải tính kế?
-  Này, mợ nó này?
-  Ông lại nghĩ ra cái kế sách gì, mà gọi giật thế?                            
     Ông Tiến Thịnh lại trình bầy với người vợ lẽ:
-  Có lẽ ta phải tính chuyện nuôi con lợn lái? Chà, con mẹ Ba Tẽo ở khói chợ nuôi có hai đàn lợn lái, mà làm được cả cái nhà cao ngất.                  
-  Ối giời... ông cứ ngồi mà tính cho nó kỹ đi.                                   
     Mụ nói vậy rồi bỏ vào nhà trong. Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ,  nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội".
    Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2018 11:50:46 bởi Nhân văn >
Nhân văn 07.05.2018 16:59:01 (permalink)
 
                                                 Chương VI.
 
               TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN
                CỦA ĐƠN VỊ HOÀNG
     TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TÂY NGUYÊN
 
                                                21-
 
     Sau thời gian diễn tập, chiều tối mồng 5 tết Mậu Thân 1968, đúng vào ngày chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung – E209 thuộc Sư 312 gồm các Tiểu đoàn 7-8-9, được lệnh hành quân cấp tốc vào Tây Nguyên.
     Trung sĩ Hoàng, tiểu đội trưởng ở Trung đội súng đại liên thuộc C5 – “xê” hỏa lực trợ chiến của Tiểu đoàn 7. Đại đội 5 gồm ba trung đội: Trung đội đại liên, Trung đội cối 82mm và Trung đội súng B-41. Giờ đây trong đội hình trung đoàn, họ đang tiến vào chiến trường miền Nam nóng bỏng.
     E209 là trung đoàn bộ binh chủ lực đầu tiên chuyển quân bằng xe ô tô Giải Phóng, được cấp toàn mũ sắt, nên còn gọi "Trung đoàn mũ sắt". Họ dã dược huấn luyện kỹ suốt một năm để đánh công kiên, đánh tập kích và chống đổ bộ đường không. Được trang bị súng B-41, súng phun lửa Liên Xô, lựu đạn chống tăng, đại liên K63, trung liên RBD, mặt nạ phòng độc, súng AK báng gấp, giầy bộ binh cao cổ... là những trang bị và vũ khí bộ binh tốt nhất thời đó.
Tất cả đều nhập ngũ cùng ngày 27.3.1967, tuyển chọn toàn thanh niên sức khỏe loại A1, A2 – riêng Tiểu đoàn 7, phần đông là anh em người Hà Nội. Người chỉ huy nào nhìn thấy một đội quân toàn lính "đẹp" thế, đều phải trầm trồ ước ao…
      Nói về hỏa lực B-41, kẻ địch gọi là rốc két B-41 dùng để bắn tăng, bắn lô cốt… tầm bắn 500 – 600m trên mặt đất, nóng tới 4.000 - 4.500 độ. Mỗi lần bắn chỉ nghe thấy một tiếng "đoành" nổ ở đầu nòng, chưa kịp nhìn... bùng một phát là: trúng rồi! “các con giời”… trong Sư đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ và lính QLVNCH, cứ nghe thấy tiếng B-41 thì biết ngay đã chạm trán với quân chủ lực Bắc Kỳ. Mỗi lần bóp cò xong lại lộ vị trí, pháo Mỹ dập tới như mưa. QGP nhiều khi phải đặt súng lên một cái chạc, buộc dây vào cò giật nổ xong vội chui ngay vào hầm. Vãn tiếng pháo địch bắn tới, mới chui lên làm phát nữa.
     Trung đoàn 209 được thành lập ngày 2.9.1949, trong kháng chiến chống Pháp tại Phú Thọ. Từng tham gia 55 ngày đêm tiến công cứ điểm Điên Biên Phủ. Một trung đoàn chủ lực tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
     Tây Nguyên có một vị trí chiến lược quan trọng trên chiến trường miền Nam – Do vậy, Mỹ và Chính phủ VNCH đã thiết lập một bộ máy kìm kẹp hết sức khắc nghiệt ở nơi đây: dồn dân vào các ấp chiến lược, tìm mọi cách chia cắt dân với cách mạng.
     Về phía Chính phủ cộng sản Bắc Việt, để tăng cường hơn nữa cho sức mạnh của QGP trên chiến trường Tây Nguyên – Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 bùng nổ, E209 cùng các đơn vị trực thuộc đã được lệnh cấp tốc lên đường… vào chiến trường Tây Nguyên chiến đấu.
     Trung đoàn xuất quân từ vùng rừng núi Hòa Bình, với quân số trên 2.100 người và được 150 xe Giải Phóng vận chuyển. Chặng đường hành quân kéo dài 25 ngày. Khởi hành mồng 5 tết Mậu Thân, tức 6.2.1968 dương lịch. Khi lên xe tiến vào miền Nam, trung đoàn chia làm ba nhóm:
-  Nhóm thứ nhất là Tiểu đoàn 7.
-  Nhóm thứ hai Tiểu đoàn 8.
-  Nhóm thứ ba gồm Tiểu đoàn 9 và các đại đội trực thuộc trung đoàn.
     Mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, như D7 có C1,2,3,5 – D8 có C6,7,8,10 – D9 có C11,12,13,15. Trong đó các C5,10,15 là những đại đội hỏa lực trợ chiến của tiểu đoàn.
     Những đại đội trực thuộc trung đoàn gồm: C16 DKZ, C17 cối 82mm, C18 thông tin, C19 công binh, C20 quân y, C21 súng máy phòng không 12,7mm, C22 đặc công – súng phun lửa, C23 vận tải, C24 hậu cần, C25 vệ binh.
     Tốc độ di chuyển của xe khoảng 10-20 km/h. Xe chạy ban đêm, xuất phát lúc 16h 3o chiều tối đến 5h sáng thì dừng. Khi bộ đội nghỉ, đưa xe vào cất dấu cách xa tuyến đường chừng 300m, mỗi xe cách nhau khoảng 100-200m.
     Lịch trình của Tiểu đoàn 7:
-  7.2.1968 đến Thanh Hóa
-  8/2 đến Hà Tĩnh, nghỉ 1 ngày và đổi xe.
-  10/2 đến Quảng Bình.
-  11/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe để đi sang Lào.
-  12/2 đến Lào.
-  13/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe.
-  14/2 đến 28/2 đi trên đất Lào.
     Đến Lào Tiểu đoàn 8 bị địch phát hiện. Máy bay Mỹ đánh, 1 xe bị lật và 10 chiến sĩ bỏ mạng, nhiều xe khác bị hỏng - Từ đây D8 phải hành quân bộ.
     Nói về đoàn xe chở D7 và D9 khi vào đến đất Tây Nguyên thì đường rất xấu. Xe đi qua nhiều đoạn trầy trật, trồi sụt, có những lúc bị nghiêng tưởng như sắp lật. Tuy nhiên, những chiếc xe Giải Phóng này cũng đã bền bỉ đưa cả đoàn quân mũ sắt đi tới tận điểm cùng của con đường mòn, nơi phương tiện cơ giới còn có thể đi được.
     Qua sông Sa Thầy thuộc địa phận Kon Tum rồi, cả hai tiểu đoàn 7 và 9 của E209 cũng đành phải xuống xe để hành quân bộ. Đại đội trinh sát đi đầu, dốc ngược... từng người nối nhau, níu dây song nhích từng mét "thượng sơn". Chân mỏi, miệng khô, phía trước núi cao ngất trời, rừng xanh, dây leo, cây đổ. Có chiến sĩ bảo: đọc truyện "Rừng thẳm tuyết dầy" của Tàu, hình dung rừng ghê gớm lắm! Bây giờ mới thấy, thế nào là núi cao dốc đứng? Người sau đội đít người đi trước, sảy chân là nhào xuống vực. Hiểm trở hơn truyện nhiều. Chốn rừng thiêng nước độc, vẫn như những trang  sách cũ, đầy gai góc và nắng lửa. Muỗi to như con ruồi, chỉ cần đứng yên ít phút là chúng bu tới cùng với kiến rừng. Có cả kiến bọ nhọt, loài mà một phát cắn của nó có thể đứt thịt một con ruồi.
     Sau một đêm mắc võng ngủ rừng Trường Sơn, các chiến sĩ trở dậy đi ăn rồi hành quân tiếp. Chúng tôi đi theo những con đường giao liên đã thành đường mòn nhẵn, leo lên những đỉnh núi, có khi luồn qua cả nương rẫy của dân bản và những vạt rừng già. Gặp không ít điều lạ: Bên các hố bom và những chiếc hầm đã bị sập nắp vì lâu ngày, gặp cả đàn bướm vàng, đỏ… bay đến đẹp hoa cả mắt. Luôn có những tiếng chim kêu lốc cốc bên rừng phía trước như dẫn lối, nhưng đến nơi thì chim lại bay mất.
     Sao mà lắm núi, nhiều rừng thế? nhưng rồi núi cũng thua con người. Cao nguyên Kon Tum cũng chỉ cao đến thế là cùng. Lên cao thoáng gió, nhưng rừng vẫn che tầm mắt. Tiếng máy bay ì ầm... càng đi lại thấy địch càng gần.
     Sau 25 ngày – 14h ngày 1.3.1968, D7 và D9 đã có mặt tại căn cứ của Bộ tư lệnh B3. Trừ Tiểu đoàn 8, lúc này vẫn đang phải hành quân bộ trên đất Lào, bị chậm hơn một số ngày so với kế hoạch. Đấy cũng chính là lý do, trong trận đánh đầu tiên của E209 trên chiến trường Tây Nguyên, nhưng D8 đã không có mặt.
     Vừa đặt chân đến Kon Tum, E209 đã được Bộ tư lệnh B3 giao ngay nhiệm vụ đánh Kleng, hay còn gọi là căn cứ Lệ Khánh - Là một trại huấn luyện biệt kích, thám báo của Mỹ và VNCH, có mật danh M1 thuộc huyện Sa Thầy, ở phía tây – tây bắc Kon Tum.
     Căn cứ và sân bay Kleng ở trên một bình độ khá cao. Trung đội trinh sát trung đoàn cùng trinh sát hai tiểu đoàn D7-D9 được lệnh lập tức lên đường điều nghiên cứ điểm.
     Họ chuẩn bị ba ngày cơm nắm, cá khô, hai ngày gạo rang trộn đường và muối để đi trinh sát. Lại dốc đứng, rừng già, nắng chang chang. May mà gặp cơn mưa bất chợt chạy ngang khe núi, ướt nhưng mát rượi. Nhìn thấy mục tiêu đã hiện ra trong tầm mắt, vậy mà phải đi bốn tiếng sau mới vào được gần. Anh em nghỉ chờ đêm xuống.
     Căn cứ Kleng ba bề dốc đứng, phía sân bay phẳng hơn. Đêm thứ hai vào sát hàng rào, lợi dụng pháo sáng của địch thả suốt đêm, vẽ sơ sài các hỏa điểm, nhà lính… Lại một đêm nữa, mất nhiều thời gian chờ lính thay gác. Chờ mãi không thấy chúng thay? Hóa ra, bọn lính đó là hình nộm. Mỹ cũng “ranh” thế! Trinh sát phát hiện các hỏa điểm, kho tàng, dãy nhà chỉ huy… vẽ chi tiết hơn rồi rút ra an toàn.
     Ít ngày sau, trinh sát lại đưa đoàn cán bộ trở lại Kleng nắm địch. Trung đoàn trưởng E209 Trần Huy Toàn - người cao to như Tây, cùng các cán bộ sư đoàn thuộc Bộ tư lệnh, cán bộ hai Tiểu đoàn 7-9 vào sát căn cứ để nhìn tận mắt.
     Đêm thứ ba… đoàn trinh sát vào thì bị lộ, có lẽ do đêm trước để lại nhiều dấu lạ. Ai đó sơ ý đã làm rơi vật dụng gì chăng? Lính trong trại biệt kích hò hét: “Đ.mả mấy thằng Bắc Kỳ”… rồi bắn cối 81 ra các hướng như mưa, pháo kích, cho B52 ném bom rải thảm vào những chỗ nghi quân chủ lực ém quân,  máy bay chiến thuật Mỹ thay nhau quần lộn, xới tung cả một vùng sơn địa. Tưởng như hỏa lực đó có khả năng làm nát một sư đoàn.
     Sau này trinh sát kể lại, chính đồng chí Toàn đã đánh rơi gần căn cứ một cây bút Trường Sơn và bao thuốc lá Điện Biên. Chắc địch tuần tra phát hiện ra!... Hệ lụy từ bao thuốc lá và cây bút cũng không nhỏ? Nó chứng tỏ cho địch thấy, rằng: Bộ đội chính qui miền Bắc đã có mặt tại đây.
     May mà chuyến đó, anh em trinh sát đưa đoàn cấp trên rút nhanh, nếu không thì sẽ tổn thất nặng. Những ngày sau, chúng bung ra xung quanh Kleng 4 cao điểm mới để ngăn chặn.
     Ngay 10h sáng hôm ấy, chúng thả 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ chuyên đánh rừng và 1 đại đội pháo 105mm xuống lập căn cứ FSB 14 – Chính là cứ điểm Chư Tan Kra hay còn gọi là cao điểm 995.
     Chúng thả chất độc hóa học trên các đỉnh núi xung quanh, còn cứ điểm chính thì ném bom phát quang trước rồi dào công sự, ném bom cháy để không bị rừng cây rậm rịt hạn chế tầm nhìn. Trực thăng bay rè rè suốt ngày. Các máy bay trinh sát OV10, AL19 lấm chấm như ruồi từ đường chân trời lượn tới, nhào lộn tìm Việt Cộng. Trên các cao điểm, có pháo binh chi viện cho nhau, ứng phó khi Kleng bị vây hãm. Đó là các cao điểm Chư Tan Kra, Chư Pen, Chư Đô… QGP gọi là dãy Chư Tan Kra – mật danh M2.
     Dãy cao điểm phòng ngự này án ngữ Đường 14 vào Thị xã Kon Tum, cách đó hơn 30km về phía đông.
     Đêm cao nguyên bí ẩn và hoang dã, càng bí ẩn và hoang dã hơn khi nhìn về phía Kon Tum: ánh đèn vàng vọt chập chờn, cùng hỏa châu chốc chốc lại phọt lên sáng trắng. Những tàn lửa của pháo sáng bay lên như tua rua. Đêm cao nguyên giấu trong im lặng nhiều bí ẩn…
     Quân Mỹ giàu, hậu cần mạnh – Để lập cứ điểm, chúng lập tức cho ném bom đốt cháy “làm sạch” các núi bên cạnh. Tại M2, trực thăng cần cẩu bay CH47 Chi-núc cẩu máy ủi xuống đỉnh cao, công binh Hoa Kỳ san phẳng lấy mặt bằng, sau đó dùng máy cưa gỗ, cẩu pháo đến lập trận địa, cả lô cốt di động đúc sẵn, chở dây kẽm gai, bao cát, nhà bạt và quân cụ tới. Mọi sinh hoạt của chúng đều do trực thăng mang lại: từ đạn dược, đồ ăn, cả tắm giặt và thay đổi quân số… Chỉ trong hai ngày cứ điểm đã xong.
     Hàng trăm lượt trực thăng đổ các đại đội Mỹ xuống đỉnh 995, ngay trên đầu đội hình của Tiểu đoàn 7 – E209. Quân Mỹ nhanh chóng củng cố trận địa, rồi thúc quân sang các đỉnh xung quanh thảm sát. Quân chủ lực Bắc Kỳ phải né xuống các vạt rừng.
     Từ ngày 20 đến 22.3.1968, hai bên đụng nhau vài lần, đã có thương vong nhỏ.
     Từ bên này núi, C5 – Đại đội hỏa lực D7 nhìn sang cao điểm 995 rất rõ. Anh em còn nghe thấy cả tiếng xì xồ của công binh Mỹ. Chót vót trên đỉnh núi lố nhố quân da trắng lẫn da đen, nhà bạt giăng thành dãy bên các ụ súng. Chúng dùng bao cát chồng lên rất dày. Buổi chiều, trực thăng mang nước tới. Cả một tiểu đoàn Mỹ trần như nhộng, tắm dưới nước thả từ trên không xuống rất ngạo mạn - Đó chính là lính Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ.
     Tình hình chiến sự phải thay đổi. E209 buộc phải chuyển từ kế hoạch đánh Kleng sang đánh Chư Tan Kra trước – Vào một ngày trời mưa, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn giao nhiệm vụ cho đội trinh sát đi điều nghiên Chư Tan Kra. 5 trinh sát, 7 ngày ăn, mũ sắt chỉnh lại quai da... tiếp tục vượt dốc, cắt rừng tới căn cứ. Càng đến gần, mũ sắt chạm cây rừng kêu leng keng dễ lộ, đành bỏ lại.
     M2 ở trên cao, cây chắn tầm nhìn, tìm mãi mới được một khoảng trống hiếm hoi. Anh em trinh sát leo lên cây, bò ra cành bên ngoài, ngửa người bắc ống nhòm quan sát. Chiều, nghỉ lấy sức, đêm bò vào gần. Nhưng ác thay, không bò lên được... vì đất đá xe ủi của Mỹ ủi tràn ra, vướng trên các cành cây rất nhiều. Bám cây leo lên, đất xối xuống ào ào, đá lăn văng cả vào người. Chịu! Tìm cách sang hướng khác để vào dễ hơn. Trinh sát trát đất đỏ lên người, lẫn vào màu đất. Nghe rõ tiếng địch ho, thấy địch ném những lon bơ loảng xoảng. Nhiều giờ công phu quan sát, ước lượng: thấy rõ hai bệ súng đại liên, pháo, kho đạn... tất cả thu vào trong bản vẽ.
     Chư Tan Kra là dãy núi hình vòng cung, có tới 7 đỉnh núi lớn ôm một phần thung lũng Kleng. Cách Kleng khoảng 10km. Nghĩa về chữ Chư Tan Kra? Người dân tộc họ giải thích bằng tiếng Gia Lai, nghĩa là "núi chính nghĩa".
     Trong 7 đỉnh, đỉnh chính giữa cao nhất. Từ trên sườn phía đông Chư Tan Kra có thể quan sát được sân bay và Chi khu quân sự Kleng ở dưới.
     Đồng chí trung đội phó trinh sát E209 nổi tiếng gan dạ, anh bò vào tận nơi địch bỏ túi rác, có cả thịt hộp, sữa, bánh... gùi ra cho anh em. Nhưng các anh không dám ở lại, phải rút thật xa mới "liên hoan". Bữa ăn trong những ngày gian nan sao quên được! Hai người được phân công nán ở lại, tiếp tục nắm qui luật hoạt động của địch, sẽ rút về sau. Nhưng không ngờ sau đó địch tăng cường thêm quân, lại có cả sông sự bê tông đúc sẵn cẩu đến…
     Trung đoàn trưởng E209 phân tích: Hiện Chư Tan Kra công sự còn sơ sài, hàng rào thép gai chưa đủ sâu, địch mới đặt chân tới – nên ta phải tiến công nhanh. Càng đánh sớm càng bớt xương máu.
     Như thế là trên Cao điểm Chư Tan Kra hay còn gọi căn cứ FSB 14, theo trinh sát trung đoàn xác định bằng đếm số lần chuyến trực thăng đổ quân, là: Một tiểu đoàn tăng cường - Gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội pháo 105mm, lực lượng trinh sát, công binh tương đương 1 đại đội nữa và Chỉ huy sở tiểu đoàn.
     Trong thực tế, ta không biết: Mỹ còn hai đại đội đánh bộ thường xuyên tuần tra trong rừng, đêm ngủ quanh căn cứ. Chúng luồn rừng lên từ Kleng. Để trợ chiến cho Chư Tan Kra, luôn luôn có 4 đại đội pháo ở sân bay Kleng và các vùng lân cận, với các cỡ nòng 203, 175, 155, 105mm cùng không quân.
     Phải đánh Chư Tan Kra – M2, còn vì nó chặn đường thông thương từ Kon Tum về vùng ngã ba biên giới. Hơn nữa, địch lại đổ quân vào giữa vùng tập kết của E209 – Căn cứ FSB 14 Mỹ chỉ cách Tiểu đoàn 7 có 900 mét về phía nam.
     Hàng ngày, đứng ở vị trí đóng quân của Đại đội 5, qua kẽ rừng – Hoàng và anh em trong trung đội đại liên vẫn trèo lên cây cao nhìn thấy rõ trực thăng của địch lên xuống, quân Mỹ đào hầm, căng rào thép gai, cưa cây, hò hét...
     Tiểu đoàn trưởng Trương Ân và chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, xung phong để D7 đánh mũi chủ công, từ hướng tây và tây bắc. Cả hai ông đều là người Nam Bộ.
     Trên cho phép ba đại đội của D7 mật tập, đánh công kiên vào Chư Tan Kra. Gọi là ba đại đội, nhưng Đại đội 3 chỉ còn có Trung đội 9 tham gia. Hai trung đội khác đã bị thương vong hết trong những trận đánh nhỏ trước đó.
     Tuy nhiên, còn có sự tham gia của một đại đội Tiểu đoàn 9 đi phối thuộc, đánh từ hướng thứ yếu – Hướng nam, với một trung đội đặc công của trung đoàn, luồn sâu từ hướng bắc đánh vào chỉ huy sở của căn cứ địch.
     Nguyên tắc của đánh công kiên – tức là tấn công một trận địa kiên cố: Lực lượng đánh phải lớn hơn từ ba đến năm lần, thậm chí lấy mười đánh một. Thế mà Tiểu đoàn 7, lính mũ sắt Hà Nội dám xin đi đánh một tiểu đoàn Mỹ trong lô cốt, chiến hào, công sự... Dám chơi như thế! Sau này chính Mỹ cũng không ngờ vừa mới qua đợt Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân, còn bị quân chủ lực đánh một trận vỗ mặt như vậy.
     Tiểu đoàn trưởng Trương Ân nghiên cứu rất kỹ sa bàn do trinh sát đắp, hỏi tỉ mỉ trinh sát từng hướng vào, bệ súng. Lính của ông phần đông là Hà Nội được lựa chọn. Ông tin ở họ từ những ngày huấn luyện mang vác đường dài, anh em giữ kỷ luật nghiêm, hành quân lên xuống xe... và cả những khi phải "thượng sơn" leo ngược dốc đến đây.
     Chư Tan Kra là một căn cứ hình chữ T trên sườn núi dốc, mỗi chiều 500-600m. Quân Mỹ bố trí ba đại đội bộ binh ở ba góc, để có thể dễ dàng chi viện cho nhau. Ở giữa bố trí trận địa pháo 105mm và chỉ huy sở. Được bảo vệ bằng lớp phòng ngự thứ hai là lính trinh sát, công binh, thông tin. Địch mới kịp ba lớp hàng rào, bù lại chúng giăng nhiều lớp mìn định hướng claymo, trang bị kính nhìn đêm và thiết bị thu tiếng động. Ngoài ra, như trên đã nói: Quân Bắc Việt vẫn không hề hay biết, còn hai đại đội Mỹ lưu động... ngày tuần tra, đêm ẩn kín trong rừng.
     So sánh lực lượng Mỹ không chỉ hơn QGP một chút về quân số, mà còn thế lợi hơn hẳn vì căn cứ ở trên cao, lô cốt bê tông, công sự vững chắc. Pháo trong căn cứ, pháo bầy từ Kleng và các cứ điểm khác bắn đến yểm trợ. Đấy là chưa kể đến lực lượng không quân như trực thăng tác chiến, máy bay C130 ném bom và các loại phản lực.
 
                                                   *
 
     Bóng đêm của rừng núi sập xuống. Đi trong đêm giống như đang bơi giữa một biển nước đen lõng bõng, bưng lấy mặt. Đá khấp khểnh, rễ cây nhằng nhịt. Chỉ cần bước quá đà, rễ cây móc vào chân, vấp đá, húc ngay đầu vào thân cây trước mặt.
     Dẫn đầu hàng quân là tổ trinh sát Tiểu đoàn 7. Tiếp theo Đại đội 1,  đại đội chủ công của tiểu đoàn chủ công.
     C5 – "xê" hỏa lực của tiểu đoàn ở giữa. Đi đầu là Tiểu đội trưởng Nguyễn Hoàng trong đội hình của trung đội đại liên, tiếp đến trung đội B-41 và trung đội cối 82mm.
    Sau tới các trung đội thông tin, quân y tiểu đoàn rồi Đại đội 2. Đại đội 3 -  còn lại duy nhất là Trung đội 9 được tiểu đoàn bố trí làm lực lượng dự bị, đi cuối cùng.
     Đêm nay 25.3.1968, Tiểu đoàn 7 được lệnh xuất quân vào đánh căn cứ FSB 14 của Mỹ, trên cao điểm 995 dãy Chư Tan Kra. Đội hình tiểu đoàn phải dài ngót cây số. Viên trung sĩ, tiểu đội trưởng trinh sát sử dụng một chiếc đèn pin đầu đã được bọc kín, chỉ để hở một chấm sáng bằng hạt ngô, chiếu cắm xuống đất dò đường… dẫn cả tiểu đoàn vào tiếp cận trận địa.
Người thứ hai cho tới người cuối cùng bám nhau mà bước. Cách xa vài mét, anh đi sau không nhìn thấy anh đi trước, sẽ dẫn cả một đoàn quân lạc trong rừng.
     Ở phia sau mũ sắt mỗi chiến sĩ, buộc một miếng lân tinh bằng hai ngón tay. Đêm đêm nó phát ra một vệt sáng trắng, làm tín hiệu cho người đi sau. Có anh vô ý đánh rơi miếng lân tinh, thì nhặt tạm dưới chân mình một mảnh lá mục, chiếc lá khô mốc có xạ quang thay thế. Nhìn vết sáng của những miếng lân tinh, vạch một đường sáng ngoằn ngoèo theo đội hình đoàn quân dài năm, sáu trăm người… như thể cuộc di chuyển hàng một của đàn đom đóm đêm. Đầu mũi sáng cứ từ từ khuất vào lưng chừng núi bên kia thung lũng.
     Những bước đi lặng lẽ, không một ánh lửa. Có chiến sĩ nào bỗng nhiên lên cơn ho, vội vàng lấy chiếc khăn mặt bông ấn vào mồm. Những tiếng khục… khục… rên lên trong cổ họng người chiến sĩ nọ. Cái chết trên sách vở có khi bông lơn như câu chuyện phiếm, còn cái chết ở đây? Rất thực tế, nghiêm trang. Nó gần gũi như tiếng ho, đơn giản như âm thanh của tiếng nói. Cái “ho” để thoát ra khỏi cuống họng, cái “chết” đã chờ sẵn cửa miệng. Tiếng nói lỡ quên đi buột ra hơi to từ trong miệng, cái chết lập tức đến sát ngay bên tai. Không có một hình thức kỉ luật nào được thực hiện triệt để, tự giác như ở đây - Trong khoảnh khắc này, nơi cái chết không biết mặc cảm.
     Căn cứ Chư Tan Kra nằm trên một dẫy núi. Mặt cứ điểm chinh giữa rộng và dốc đứng. Đã bị đốt trụi cháy không còn bóng cây xanh, phơi trần lớp đất đỏ như một thân thể đã bị lột mất da ngoài.
     Một tiểu đoàn tăng cường của Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ cố thủ trên cao điểm. Nó thông sang các ngọn núi xung quanh bằng những “yên ngựa”. Những lớp dây thép gai đã gài mìn bọc lấy các lô cốt.
     Trước trận đánh, các khu rừng xung quanh tưởng như đang chìm trong một giấc ngủ thường lệ, tĩnh mịch. Thỉnh thoảng lại có loạt súng trung liên cực nhanh AR15 của Mỹ trong cao điểm bắn xối vào không trung, hoặc vương vãi ra các khu rừng xung quanh. Những con cú đang thu mình trong bóng cây đen kịt, rình bắt chuột rừng đi ăn đêm… giật mình, nhớn nhác. Vài chiếc trực thăng chốc chốc lại rè rè bay đến, thả mấy chùm pháo sáng quắc. Khoảnh khắc, để rồi cái bóng đen rừng lại nuốt không gian vào cái họng tối rợn người của nó.
     Theo linh cảm nhà nghề: Một bầy quạ khoang, cái giống vật rất thích đánh hơi mùi tử thi bay đến từng đàn kêu quàng… quạc… Chúng hạ cánh đỗ xuống những khu rừng rậm vây xung quanh cứ điểm. Mầu tối trên thân thể những con vật nhập vào bóng đen của rừng.
     Khoảng canh hai, các đơn vị của Tiểu đoàn 7 đã vào vị trí tiếp cận trận địa. Họ im lìm nằm phục trên các triền đồi của đỉnh Chư Tan Kra, hướng lên phía cứ điểm trên cao của Mỹ. Trong tay là súng, trước ngực là cơ số đạn cá nhân, thắt lưng đeo lựu đạn, buộc chéo trên vai là chiếc võng bằng vải dù bất ly thân: chiếc áo quan di động sẽ được bọc quấn quanh người - nếu chẳng may chủ nhân của nó phải nằm xuống vì tử trận. Thời gian như kéo dài cả trăm năm. Những đọt cỏ Chư Tan Kra mọc nhú trên đất đỏ thật sắc, nhưng vẫn ngọt và mềm. Chỉ có tiếng súng bắn cầm canh hú họa từ lô cốt. Thỉnh thoảng vài quả đạn pháo ở hướng sân bay Kleng vu vơ bay tới.  
     Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng, nằm phục ngay phía sau đội hình Đại đội 1 chủ công. Tất cả im lặng chờ hiệu lệnh nổ súng! Trong những giây phút hồi hộp đó, bỗng nhiên anh lại nhớ đến những kỉ niệm từ đời học trò: Có một nhà văn mà anh được học, đã viết một bài tùy bút về tâm trạng người lính trước trận đánh? Giờ không còn là sách vở nữa, chính anh cùng đồng đội đang sống trong những giây phút thiêng liêng ấy! Đây là trận đánh đầu tiên của đời lính, nếu còn sống trở về… anh sẽ viết thư kể cho Thu nghe!
     Ồ, chưa chi đã nghĩ đến cái chết? Hoàng tự chỉ trích mình. Anh sẽ kể cho người bạn gái thân yêu của anh, tâm trạng cái giờ phút này nó bồn chồn và cả căng thẳng nữa. Anh sẽ tả về những hình ảnh của trận mạc, cả những thằng lính Mỹ mũi lõ…
      Hoàng nhớ lại năm học cuối cùng, khi cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã lan tới thủ đô, trường phải sơ tán về vùng quê Hà Bắc để học. Những tối, hai đứa ngồi ôn thi đại học dưới trăng, cùng nhau dạo bước trên con đường làng. Gió đưa hàng tre xào xạc lá… Anh nhớ cả đến buổi, hai đứa chạy vội ra ga để tiễn các bạn sang châu Âu học - Ừ, đất nước phải có những người được đi học mà trau dồi kiến thức như các bạn, để có trình độ khoa học, kỹ thuật cao. Khi nước nhà hòa bình, thống nhất rồi, còn xây dựng tổ quốc mình thật giàu và đẹp chứ! Nhưng giờ đang có chiến tranh, cũng phải có những người như chúng mình ra chiến trường diệt giặc. Giờ đây, trước trận đánh này - Mình cảm thấy rất tự hào vì đã có mặt trong lúc tổ quốc lâm nguy, các bạn ạ!
     Viết Minh, Thanh Hà, Phi "đen" và cả Trần Tứ Đức nữa… các bạn phải học thật tốt đều trở thành những kỹ sư giỏi, sau này còn xây dựng Tổ quốc Việt Nam của chúng ta giàu mạnh, hùng cường như các nước Âu Châu và Mỹ. Khi nào hết chiến tranh trở về, mình cũng sẽ tiếp tục theo học đại học mầ hôm nay tạm thời bỏ dở, để lên đường cầm súng diệt thù.
     Bao suy cảm cứ dồn dập như thước phim chạy trong óc Hoàng. Anh lại nghĩ đến Thu? Trên chỗ trường đại học sơ tán của em có được yên ổn không nhỉ? Không lẽ, bọn không quân Mỹ mang cả bom lên oanh tạc tận vùng rừng núi Tuyên Quang – Việt Bắc ấy! Mà cũng chẳng biết đâu mà lường? Nghe nói ở trên Tuyên Quang , nhà nước cho xây dựng nhiều cơ sở ở trong núi chứa hồ sơ, kho tàng. Các cơ quan, trường học lớn về đấy cũng nhiều... chắc gì bọn giặc lái Hoa Kỳ đã để cho yên?
     Cả tình hình ở miền Bắc - Nghe đài báo: Hồi này thủ đô rất căng, Mỹ ném bom ngày càng gần vào Hà Nội hơn. Ở trong chiến trường, cả đại đội chỉ có một cái đài national xách tay của đồng chí chính trị viên. Cứ giờ nghỉ giải lao là anh em lính tập trung quanh thủ trưởng để nghe tin tức. Ngoài ra chỉ có tờ báo Tây Nguyên mỗi tháng một kỳ, chủ yếu là những thông tin chiến trường.
    Nhớ Hà Nội thế! Hoàng có cảm giác như đã xa thủ đô từ lâu lắm. Thực ra, kể cả thời gian đi đường vào mới được hơn một tháng. Giò cũng đã nửa đêm, chuẩn bị bước sang ngày 26.3.1968 – Hoàng chợt nhớ ra ngày nhập ngũ của anh là 27.3.1967. Không phải chỉ riêng anh, lính của cả Trung đoàn 209 này toàn nhập ngũ ngày đó. Thì ra, đây còn là trận đánh kỷ niệm tròn một tuổi quân của tất cả các chiến sĩ trong đơn vị. Anh em sẽ phải đánh cho thật ròn rã, thật tốt!
      Cách đây hơn một tháng, bọn anh rời vùng rừng núi Hòa Bình vẫn còn trải đầy hoa đào, hoa mận trắng và những vườn táo tây quả sai trĩu trịt. Bây giờ mới là cuối mùa xuân mà... Anh lại nhớ đến người con gái bản - "Mỵ ơi, em hãy quên anh đi!". Hoàng lẩm bẩm với mình. Anh biết người con gái ấy tha thiết yêu anh. Anh thương cô, nhưng anh không thể? Đối với anh, tình yêu duy nhất chỉ có Thu!
     Đôi lúc, anh cũng tự trách mình quá sa đà, nhưng anh đâu có lừa gạt Mỵ! – Chưa bao giờ nói anh nói là sẽ lấy cô? Ngay cả một tiếng "yêu", anh cũng giữ mình không nói. Thực ra tuổi thanh xuân, nam nữ yêu người này, người nọ... là chuyện bình thường. Anh cầu mong có một người con trai bản nào đó thương yêu, và cô cũng quí mến anh ta. Họ sẽ lấy nhau. Đám cưới của cô nếu được biết tin, anh sẽ tìm một bông hoa rừng đẹp nhất, ướp vào trang thư để gửi về chúc phúc cho hai người. Dẫu anh biết, thư từ chiến trường gửi về rất chậm. Khi nhận được thư và hoa của anh, thì đám cưới của họ đã qua lâu rồi. Nhưng anh vẫn gửi: Đấy là tình cảm, tấm lòng của anh trước hạnh phúc của cô. Chắc họ cũng sẽ đón nhận một cách hoan hỉ và vui lắm! Cứ nghĩ thế, Hoàng thấy lòng mình thanh thản một cách lạ thường. Anh chỉ cầu mong cô hạnh phúc, thế là lòng anh mãn nguyện.
     Từ bên trong căn cứ FSB 14 rộ lên một loạt trung liên AR15, bọn Mỹ bắn hú họa. Những tiếng súng nổ cắt ngang ý nghĩ của Hoàng. Đêm cuối tháng, phía rừng xa cũng đã thấy hắt lên chút ánh sáng mờ ảo của bóng trăng lên muộn. Chắc cũng sắp đến giờ nổ súng?
     Từ phía sau, Văn bò đến bên Hoàng. Văn cũng là khẩu đội trưởng của một tiểu đội đại liên. Tiểu đội Văn tiếp cận trận địa gần ngay đó. Tiếng Văn thì thầm bên tai:
-  Sắp đến giờ nổ súng rồi đấy, đánh cho thật "đẹp" nhé!
     Hoàng chỉ gật đầu đáp lại lời của bạn. Họ nắm thật chặt tay nhau, như để cùng động viên nhau vào trận đánh đầu tiên này. Văn lặng lẽ lui về phía khẩu đội của mình. Cũng như Hoàng, Văn rời bỏ trường đại học để lên đường nhập ngũ. Từ nhà Hoàng theo hướng ngã tư Khâm Thiên, qua bệnh viện Bạch Mai khoảng hơn cây số đường phố là tới nhà Văn. Nhập ngũ hai đứa mới biết nhau, nhưng đồng cảm và nhanh chóng trở nên thân thiết. Văn chưa có vợ và cũng chưa có cả người yêu. Trai tân mà... Lính D7 này, hầu hết đều là trai tân như thế!
     Đúng 2h00 sáng ngày 26.3.1968, các mũi lập tức cho nổ mìn phá rào. Ở hướng tây – tây bắc, mìn định hướng ĐH10 dựng chếch thi nhau nổ, thổi tung hàng rào dây thép gai. Hàng trăm mảnh thép gai bị hất lên cao, rồi hồng hộc rơi sập xuống đất. Nó còn ưỡn lên bần bật mấy lần mới chịu nằm yên – Cửa đã mở! Chư Tan Kra nghiêng ngửa. Không gian đang yên tĩnh bị xé toạc, chẳng khác nào một tên bạo chúa giang đôi cánh tay quyền lực, xé nát xiêm y người cung nữ.
     Trận đánh theo ba hướng - Ở hướng chính, Đại đội 1 chủ công cùng C2; được tăng cường hỏa lực đại liên – B41 – cối 82mm của C5 đồng loạt xông lên; rồi mũi đặc công với súng phun lửa từ yên ngựa đánh sang.
     Những tiếng thét xung phong ầm vang bốn phía. Tiếng cối 60 – cối 82mm thi nhau rót vào cao điểm, hòa trong tiếng súng AK nổ đanh gọn từng loạt ngắn. Những tràng súng đại liên của tiểu đội Hoàng và trung đội bắn ròn rã tới hỏa điểm của địch trên đỉnh Chư Tan Kra. Tiếng lựu đạn, tiếng thủ pháo chuyên dùng để diệt các hầm ngầm thi nhau ném lên phía đỉnh đồi. Tiếng rốc két B-41 của C5 bắn “bùng”… ục ra một tiếng nổ lớn, kèm theo là đám lửa: Một chiếc lô cốt hoặc ổ hỏa lực địch trúng đạn, đã bị phá hủy. Súng phun lửa bắn chạy loằng ngoằng trong công sự lính Mỹ...
     Sau cơn bất ngờ hoảng loạn, địch trong cứ điểm FSB 14 vừa bắn ra chống đỡ, vừa cuống quít kêu cứu viện. Chỉ ít phút sau: trực thăng, máy bay C130, phản lực Mỹ bu kín bầu trời như bầy nhặng. Chúng ném bom, bắn rốc két và tung từng chùm pháo sáng. Cả khu rừng vụt sáng quắc như chiếc lưỡi đỏ lòm liếm lên những xác chết nằm rải rác trên mặt đồi. Tiếng máy bay gào rú ghê rợn. Các đường đạn lửa đan chéo trên cao điểm nhằng nhịt. Những chiến sĩ đang xông lên trúng đạn, đứng chựng lại lảo đảo ngã xuống. Người dưới tiếp tục vượt lên. Máu chảy loang ra thành đám...có chỗ thành vũng... đất đỏ và than đen quyện vào máu, tạo thành một thứ đất nhớt quánh lại.
     Tiếng thét xung phong vẫn ran lên! Tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ trên Chư Tan Kra hỗn loạn. Chúng la hét, tiếng trung liên cực nhanh AR15 cùng các ụ đại liên Mỹ cũng điên cuồng bắn trả lại. Pháo dù từ trên máy bay trực thăng bắn tứ tung bồn phía, sáng như ban ngày. Mìn định hướng claymo Mỹ từ trên đỉnh thổi ngược xuống dưới chân núi, để chặn quân chủ lực Việt Cộng.
     Chỉ ít phút sau, Pháo bầy từ Kleng và các nơi ập tới cùng với trận địa pháo 105mm Mỹ trên cao điểm hạ nòng bắn thẳng ra phía cửa mở của QGP. Máy bay tiêm kích lao tới cắt bom. Một chiếc máy bay vận tải C130 lắp súng máy có tốc độ bắn 6.000 phát/phút, điên cuồng vãi đạn xuống theo hình xoáy chôn ốc xung quanh đỉnh núi. Trung đội đại liên của C5 đã chĩa thẳng súng lên trời bắn máy bay C130 và trực thăng, cả tiêm kích khi chúng nhào xuống thấp cắt bom.
     Tiểu đội đại liên của Hoàng theo đội hình C1 xông lên đánh thẳng vào trong căn cứ. Ở bên kia, tiểu đội đại liên của Văn cũng cùng C2 tràn lên... rồi trung đội cối 82mm, trung đội B-41 của C5 bắn trợ chiến mãnh liệt cho cả Tiểu đoàn 7 đang thừa thắng xốc tới.
     Ở một mũi, đội hình của C1 bị một ổ súng máy Mỹ bắn rát quá, phải nằm dán xuống mặt đồi, không thể vọt tiến lên được. Tiếng gào lên của những chiến sĩ bộ binh gọi hỏa lực chi viện:
-  Đại liên đâu! Đại liên đâu!
-  B-41 đâu!
     Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng bắn nhiều quá, nòng súng đã đỏ lên. Anh em chiến sĩ phải dành những bi đông nước mang theo người dội vào nòng súng. Đạn tiếp tục nổ, những đường lửa vọt lên vạch như đường thia lia của con nít trên mặt hồ. Những đường thia lia cũng tài tình như đường bay của những con dơi có sóng siêu âm, lách qua hàng rào dây thép gai phăm phăm lướt lên phía đỉnh núi. Thỉnh thoảng một viên đạn bật vào sợi dây thép gai, lửa tóe lên, sợi dây thép đứt tung. Họng súng máy của địch câm bặt.
-  Hoan hô đại liên! Các bạn bắn đẹp lắm, tuyệt lắm!
     Tiếng các chiến sĩ bộ binh cổ vũ. Đại đội 1 chủ công của Tiểu đoàn 7 đã tiêu diệt được tuyến phòng ngự của địch, phát triển vào trong trung tâm trận địa pháo. Các chiến sĩ nhét lựu đạn, thủ pháo vào từng nòng pháo. Bọn pháo thủ của quân Anh Cả Đỏ Mỹ chạy tán loạn. Đại đội 2 đánh vượt qua ba tuyến chiến hào và công sự địch, đến tận đỉnh cao điểm 995 mới bị Mỹ chặn lại. Quân chủ lực Bắc Việt gần như đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Mỹ. Căn cứ FSB 14 dài hơn 500m ngổn ngang xác Mỹ và cả xác bộ đội. Cả tiểu đoàn Mỹ bây giờ co cụm lại duy nhất trong chiếc lô cốt mẹ tận trên đỉnh Chư Tan Kra, nơi chúng đặt Ban chỉ huy. C1 và C2 của Tiểu đoàn 7 vẫn như hai mũi khoan lửa, lao lên để tấn công.
     Không giữ được cao điểm, quân Mỹ cho từng tốp máy bay phản lực liên tiếp dội bom gần như san phẳng ngọn đồi, pháo địch từ Kleng bắn dồn dập quanh đỉnh núi. Sau đó chúng thúc quân từ trong boong ke tiến ra, nhưng lại bị bộ đội đánh bật trở lại. Có những chỗ quân chủ lực Bắc Việt đã tiến sát đến boong ke, lô cốt cố thủ của địch. Trận đánh gần như giáp lá cà. Quân Mỹ bắn xối xả. Lựu đạn Mỹ ném ra, bộ đội nhặt ném trả lại. Giao tranh ác liệt, chết như rạ. Trận đánh đẫm máu, thương vong lớn cho cả hai bên.
     Đã hơn 4h sáng, Mỹ cho C130 tiếp tục tới thả pháo sáng và vãi đạn vào đội hình Việt Cộng, đồng thời cho hàng đàn trực thăng ùa đến đổ thêm hai đại đội bộ binh nữa, để tái chiếm lại cao điểm. Chúng cho cả B52 đến trải thảm rung chuyển các hẻm núi xung quanh, pháo bầy ở các nơi vẫn không ngừng bắn tới.
     Chúng tổ chức lại toàn bộ gộp cả lính trinh sát, công binh, thông tin cùng với hai đại đội bộ binh vừa thả xuống giao tranh giành giật quyết liệt quanh từng ụ pháo, chiến hào, công sự.
     Lại nói về hướng phía nam – Theo kế hoạch của Trung đoàn 209: Do Đại đội 13, Tiểu đoàn 9 đánh lên cao điểm để hợp với D7 ở hướng tây – tây bắc. Nhưng cả Đại đội 13 khi tiến vào tiếp cận trận địa bị lạc, không đến được đúng giờ nổ súng. Vì bối rối cả đoàn quân lại vấp phải bãi mìn của Mỹ gài, thương vong rất nặng. Nên mũi hướng nam Chư Tan Kra, quân chủ lực Bắc Việt đã không có lực lượng hỗ trợ, D7 trở thành đơn thương độc mã... mặc dù bộ đội vẫn dũng mãnh tiến công.
     Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, quê gốc ở Quảng Nam, người anh cả hiền hậu của đại đội, một danh ca hát chòi – Ông có dáng người cao lớn. Chiếc áo ngụy trang bằng mảnh dù hoa Mỹ, khoác trên người ông đang dẫn đầu đại đội xung phong bay phấp phới. Ông hoa hoa khẩu súng ngắn mấy vòng trên không, lệnh cho đại đội xông lên! Ông vượt lên trước nhanh như một con sóc. Một tia chớp lòe lên ở miệng lỗ châu mai địch. Một tia khác tiếp theo... đường đạn nhằm ông lao thẳng tới như một mũi tên đỏ. Ông đứng khựng lại, người chúi về phía trước mấy bước. Tiếng ông nhỏ như đang thầm thì kể chuyện: "Tôi chết rồi..." – Bỗng ông ngẩng phắt đầu lên thét to:
-  Đồng chí đại đội phó thay tôi! Đại đội 1 xông lên!
     Chân ông quì gập xuống đất, tay trái giang ra chống về phía trước. Bàn tay phải của ông vẫn nắm chặt khẩu súng ngắn K54, cắm mũi nòng lên mặt đồi. Ông đã chết! Người chiến sĩ liên lạc theo sau ông, có khuôn mặt nhỏ, dáng ngênh ngênh như một cậu thiếu niên. Cậu đang nắm chặt trong tay khẩu AK, lao tới ôm lấy vai đại trưởng. Cậu ta hét lên:
-  Đại phó ơi, đại trưởng chết rồi!
     Một tiếng nổ gọn trước mặt, vãi ra một đám lửa vàng như hoa cải. Tay còn ghì chặt lấy người đại trưởng của mình, người chiến sĩ liên lạc ngã xuống. Hai cái xác cùng đổ sập lên mặt đồi. Lớp người vẫn ào ạt xông lên! Họ đã đẩy lùi được quân Anh Cả Đỏ của Mỹ trên đỉnh Chư Tan Kra phải chui vào trong lô cốt, tuyến phòng ngự cuối cùng.
     Nhưng điều nguy hiểm nhất đã xẩy ra: Vào lúc đó thì hai đại đội lưu động của Mỹ ở ngoài rừng (mà trinh sát của trung đoàn 209 không phát hiện ra được), đã đến để ứng phó cho địch. Chúng đánh từ ngoài vào sau lưng D7 ở hướng tây bắc, hợp với quân Mỹ bên trong tổ chức đến bốn lượt phản công.
     Bộ đội của C1 – C2 đang thế chủ động, bây giờ bị kẹp ở giữa. Trận đánh giằng co đến gần sáng... Hỏa lực đại liên – B41 và Cối, đạn súng đều cạn kiệt. Quân số lại thương vong quá nhiều.
     Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân đã phải tung nốt trung đội dự bị của C3 vào trận, nhưng cũng không thể cứu vãn nổi tình hình đảo ngược bất ngờ.
     Địch hợp lực cả quân chi viện và hai đại đội quân lưu động, cùng lính trong boong ke phản kích lại. Trên trời thì máy bay các loại gầm rú, pháo trong – pháo ngoài bắn về yểm trợ. Chúng đã đẩy lùi được các mũi tấn công của quân chủ lực Bắc Kì.
     Chư Tan Kra, cái tên nhẹ như một điệu hát của núi rừng, đã trở thành một trong những chiến trường ác liệt bậc nhất của mùa xuân 1968 này. Nơi chứng kiến sự quả cảm của hàng trăm chiến sĩ, những người con ưu tú của Hà Nội. Các anh đã ngã xuống vì nền tự do, độc lập của nước nhà.
     Chư Tan Kra, một vùng núi hoang sơ... bốn mùa mây mù che phủ - Trở thành đỉnh cao của những người thanh niên anh hùng, vời vợi hiện lên trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam. Những chiến sĩ tham gia trận đánh đều trong độ tuổi thanh xuân mới mười tám, đôi mươi – Họ ra đi với tình thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh"! Đó chính là niềm tự hào sâu sắc, tinh thần chiến đấu anh dũng của các anh sẽ sống mãi trong lòng người dân thủ đô.
     Chư Tan Kra, với hình ảnh ngọn núi cao chót vót – Tuổi trẻ và máu xương của những người con thủ đô đã nằm lại nơi đây! Đó là nhân chứng bất tử về hy sinh vẻ vang vì tổ quốc, nhân chứng cho sức sống mãnh liệt của mảnh đất này!
     Theo một tài liệu Bắc Việt có được từ phía Mỹ đã ghi:
     “ Ngày 26.3.1968, một tiểu đoàn tăng cường hỗn hợp cả bộ binh, pháo binh của Sư 4 Anh Cả Đỏ Mỹ, đã bị tấn công bằng vũ khí hạng nặng của quân chủ lực Bắc Việt, gồm rốc két B-41 và những trái cối 82mm. Cuộc tấn công bằng loại vũ khí này của họ là để mở đầu cho những cuộc tập trung tấn công tiếp theo… Quân chủ lực Bắc Việt dùng cả súng phóng hỏa, tràn vào cả bên trong các ổ súng đại bác. Họ nỗ lực để đánh bật quân Anh Cả Đỏ của Mỹ ra khỏi căn cứ FSB 14 có lô cốt và công sự kiên cố.
     Nếu như chúng ta không kịp thời tăng viện và dùng tối đa các loại hỏa lực pháo từ các nơi với máy bay – kể cả “pháo đài bay” B52… mới đẩy lùi được họ.”.
     Khi tiểu đội đại liên Nguyễn Hoàng yểm trợ cho các chiến sĩ bộ binh C1 chiến đấu quyết liệt trước những đợt phản kích lại dữ dội của quân Mỹ - Pháo thủ số 2 là người trực tiếp bấm cò súng đại liên đã trúng đạn bị thương, phải theo y tá đại đội lùi về tuyến sau. Là khẩu đội trưởng, Hoàng nhảy vào thay thế. Tiểu đội đại liên vẫn bắn xối xả về phía địch. Bỗng anh nghe thấy một tiếng nổ “oàng…”, kéo theo cả đám lửa vàng ngay trước mặt. Một chiếc C130 vừa lao chúi xuống phóng một quả rốc két trúng đội hình tiểu đội của anh. Trời đất mù mịt, tối sầm lại. Lồng ngực Hoàng như bị bửa đôi và ngất đi giây lát. Khi anh tỉnh dậy, mắt cay xè…
     Trời cũng đã bắt đầu hửng sáng. Hoàng sờ lên đầu, lên cổ mình, toàn thân đau ê ẩm. Phú, người xạ thủ số 1 của tiểu đội cũng đã bị thương, lảo đảo bước tới. Tiếng nói của Phú như bị đứt quãng trong tiếng bom đạn vẫn gầm rú khắp bốn bề:
-  Anh em tiểu đội bị chết cả rồi, tiểu đội trưởng ơi! Súng cũng bị nó bắn bay mất rồi...           
     Hoàng nhìn ra… các chiến sĩ quanh anh không còn thấy ai cả. Trời đất trên cao điểm nhuộm một thứ ánh sáng vàng vọt như tà khí trên nghĩa địa. Những tiếng máy bay xé trời, những tiếng pháo nổ và cả tiếng loa oang oang trên chiếc trực thăng của địch bay vè vè kêu gọi bộ đội Bắc Việt đầu hàng…
     Phú nói:
-  Tiểu đoàn đã có lệnh rút lui! Anh bị thương nặng hơn, bám vào Phú để lùi về phía sau, kẻo quân Mỹ nó sắp ập đến đây rồi.   
     Nói rồi, Phú tháo vội cuốn băng cá nhân băng bó vết thương ở đùi để cầm máu cho Hoàng. Hoàng không thể đi được. Anh giục phú cứ đi trước, mình sẽ cố lết đi sau… nếu gặp tải thương thì bảo họ đến cáng. Phú lảo đảo theo một số anh em chiến sĩ đang rút xuống chân dốc.
     Hoàng cũng chẳng hiểu anh còn bị thương ở chỗ nào nữa? Quần áo anh thấm bê bết máu. Anh choáng váng cứ như người đang ngồi trên chiếc võng đu, quay tít… rồi lại có cảm giác như thể mình đang bay tựa một con chim,  lao hun hút… hun hút… xuống một cái khe đen ngòm giống một chiếc huyệt hình phễu.
     Nhìn bốn bên trống hoác như ban ngày. Ý thức về lẽ sống vùng dậy. Hoàng nhìn quanh để tìm lấy một sự che đỡ nào đó? Thấy gần đấy, có một búi cây mây xơ xác còn sót lại trên mặt đồi, anh cố bò nhoai người đến đó.
     Ánh sáng, đôi khi ánh sáng sinh ra chỉ để giúp cho sự tàn phá. Đó chính là cái thứ ánh sáng khốc liệt của cảnh chiến trường này. Nó đang sáng quăng quắc của lửa đạn, của pháo sáng địch thả xuống. Nó đang chiếu soi vào  Hoàng… Bản thân ánh sáng tuy không chứa đựng sự hung dữ, nhưng những sinh linh trong nó thì đang bị ức chế bởi cái đe dọa của sự chết chóc. Chính nhờ có thứ ánh sáng kia, nó mới phát huy được khả năng tàn phá. Đương nhiên, thứ ánh sáng ấy nhuốm đầy vẻ rùng rợn.
     Cái ánh sáng rùng rợn đó đang ập vào mắt Hoàng, vây quanh anh… Giống như một sinh bé nhỏ không còn khả năng tự vệ, đang bị phơi lồ lộ giữa khoảng đất trống trên mặt đồi. Những tên lính Mỹ mũi lõ, khuôn mặt đỏ như máu, những sọc máu quầng lên trong đôi mắt đục ngầu. Chúng từ trên những chiếc trực thăng nhắm thẳng về phía Hoàng mà bắn xối xả. Nã hàng ngàn, hàng ngàn những viên đạn như những mũi dao lạnh toát. Tưởng như chúng đã nhìn rõ anh rồi? Cả những chiếc phản lực Mỹ trút từng loạt bom xuống đất. Hoàng rùng mình...
     Có một chiến sĩ bị thương đang lao người chạy qua Hoàng, nói to lên:
-  Phải cố mà xuống dưới chân núi, sẽ có tải thương. Nằm ở đây thì chết? đã có lệnh rút quân rồi!    
     Hoàng không hiểu những gì đã diễn ra trong anh. Như một bản năng tự vệ, anh đưa hai tay giữ chặt chiếc mũ sắt ở trên đầu rồi theo hướng người chiến sĩ vừa chạy, thả cho thân mình cứ thế lăn tròn xuống chân núi dốc.
     Ở trên đài quan sát thấy Mỹ đánh bom suốt hàng giờ đồng hồ. Chúng thả cả bom xăng, pháo bầy để phá hủy trận địa. Khi đó, Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân buộc phải báo cáo về Sở chỉ huy trung đoàn cho lệnh rút quân! Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, hô hào các chiến sĩ thông tin, vận tải cùng quân y… xông vào trận để cứu thương binh ra, đưa về tuyến sau.
     Trong trận chiến ác liệt này, những chiến sĩ dũng cảm của Trung đoàn 209 mũ sắt, những người con yêu dấu của Hà Nội đã tiêu diệt 204 tên giặc Mỹ, đánh tan gần hai đại đội và phá hủy 1 trận địa pháo 105mm thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ của Hoa Kỳ. Song trong trận đánh này, mấy trăm người chiến sĩ thân yêu của Tiểu đoàn 7 cũng đã vĩnh viễn gửi lại tuổi xuân tươi đẹp trên những ngọn núi, cánh rừng, khe suối của đại ngàn Tây Nguyên.
     Khi những thương binh của D7 hầu hết đã rút được ra ngoài, vẫn còn nghe thấy tiếng súng AK của đồng đội, số ít anh em bị vây trong căn cứ - Họ đã chiến đấu, dù chết đến người cuối cùng. Lúc đó vào khoảng 7 giờ sáng.
 
 
Nhân văn 07.05.2018 17:01:03 (permalink)
 
 
 
 
                                                      22-
 
     Chiến tranh! Chưa khi nào Hoàng lại có thể hiểu về nó rõ nét như lúc này. Anh đang ở trong nghĩa nào: Rủi ro hay là may mắn? Nếu đem phân tích cả hai nghĩa đó, anh thấy nghĩa nào cũng đúng. Anh bị thương, là rủi ro – nhưng chỉ bị thương mà chưa chết, đấy lại là sự may mắn. Số phận chưa cắt anh ra khỏi cuộc sống.
     Những ý nghĩ cứ quẩn lên trong đầu Hoàng, khi vẫn còn đang phải co người, thả mình lăn xuống dưới chân núi. Cảm giác về cái đau bởi đạn rốc két của Mỹ bắn vào, dường như tê dại. Nhưng nhận biết về thực tại, anh thấy mình vẫn còn tỉnh táo. Đang lăn xuống dốc, một gốc cây đã bị bom phạt cụt ngăn anh lại. Lõi than hồng giữa thân cây vẫn đang rừng rực cháy. Tàn than đỏ tả ra, rơi xuống ngực Hoàng, liếm thủng mảng áo, nhoay nhoáy khoét sâu vào da thịt anh. Phải khổ sở lắm, Hoàng mới đưa được cánh tay phải gạt mảng than ra ngoài. Anh lại tiếp tục lăn, cho tới khi xuống tận một con suối cạn dưới chân núi dốc. Toàn thân dính lép nhép bùn nước. Hoàng nằm kẹt vào giữa những tảng đá lởm chởm, rải rác theo lòng suối cạn. Anh đã nghe thấy tiếng nói, có lẽ cũng là những chiến sĩ bị thương như anh. Lúc này vết thương ở đùi đau buốt, gần như không thể đi được nữa. Hoàng nằm lại, hy vọng có đồng đội đến cứu giúp. Trong mơ hồ, tiếng nói chuyện của những chiến sĩ nọ vẫn văng vẳng bên tai anh. Một người nói:
-  Khi nghe tiếng pháo bầy của Mỹ cứ rít lên trong gió, tim tớ như thắt lại. Lúc trận đánh mở màn: chúng để xe tăng đi sau, xe ủi đi trước. Bao nhiêu mìn chống tăng bọn tớ cài đều bị ủi tung lên cả. Loại mìn này phải đủ trọng lượng đè lên thì nó mới nổ, không thì phải dùng kíp. Còn loại mìn định hướng ĐH10, mà tớ mất toi con mắt trái đây này? (anh ta lấy tay chỉ vào con mắt bị thương, đang phải băng bó của mình) – Người chiến sĩ ấy nói tiếp: Bởi vì ông tướng đi cùng đánh mìn với tớ để dây cháy chậm dài quá! Đã thế lại còn chôn cách hầm có 2m. Khi châm ngòi nổ, tớ thụp xuống hầm, theo qui định đếm đúng đến 5 thì chồm dậy quạt AK bắn địch. Ai ngờ hai giây sau nó mới nổ, thổi bay cả một trung đội Mỹ phía trước… nhưng dội mảnh về sau, toi luôn cả con mắt trái của tớ.
     Môt người nữa phụ họa:
-  Khi nghe tiếng nghiến xích sắt của xe tăng, nhìn lính lố nhố đi sau, cảm giác ban đầu cũng thấy hơi sờ sợ. Nhưng khi đạn đã bắt đầu nổ thì bình tĩnh lại. Đầu hoàn toàn trống rỗng… cứ thế mà xả súng. Trực thăng Mỹ ùa tới cũng mặc, chẳng còn kinh hãi là gì nữa.
     Một tiếng nói khác:
-  Thằng C130 thật lợi hại. Nó bay vòng quanh, xác định bán kính sát thương, vãi đạn như vòi rồng, kêu ồ ồ… rồi súng đại liên đạn 20mm từ trên máy bay bắn xuống. Chúng quần nhiều vòng, quyết chặn ta. Pháo địch từ các trận địa ở Kleng bắn tới. Đạn các loại từ ụ súng và lô cốt mẹ trên đỉnh Chư Tan Kra bắn tới tấp vào các hướng tiến công của ta, như dựng lên một hàng rào lửa.
-  Chúng dùng pháo đạn tổ ong mới kinh hoàng. Cứ mỗi chùm 15 quả. Chúng rót hàng trăm chùm vào trận địa.
-  Ừ, trận đánh kể cũng tiếc thật. Tuy ác liệt và đẫm máu như thế, nhưng đáng lẽ ta vẫn thắng và thắng lớn! Tại mũi hiệp đồng đánh hướng nam của Tiểu đoàn 9 bị lạc, lại còn vấp mìn thương vong quá nặng không vào được trận đánh. Sắp tới giờ nổ súng, đội đặc công đã vào trong chờ mãi không thấy D9 tới, còn cử người về Ban chỉ huy tiền phương báo cáo. Trung đoàn quyết dịnh vẫn nổ súng!
 -  Cho dù sức tấn công ban đầu của ta rất mãnh liệt. Nhưng sau, súng phun lửa, hỏa lực B40 –B41… đều hết đạn. Địch bắn khói màu để phân tuyến, rồi cho các loại máy bay bắn phá, dội bom. Anh em bị thương vong nhiều quá, không còn đủ lực để xung phong.
      Sau đó, các chiến sĩ giục nhau đi nhanh để đuổi theo đám người đi trước. Lúc này do vết thương hành hạ, cả thân thể Hoàng hoàn toàn tê dại. Anh chìm vào trong cơn mê sảng… Một đội tải thương của trung đoàn đi qua. Họ bế anh lên đặt vào một chiếc cáng võng, đưa anh về tuyến sau.
     Đoàn tải thương đi trên một con đường xuyên rừng, vượt qua những ngọn núi, các con suối. Đường ngoắt ngoéo, chẳng khác nào lối mòn đã bị dẫm nhẵn lì của một bầy nai hay hoẵng trong rừng. Đó cũng chính là con đường trục dẫn ra mặt trận. Đi xuôi đến hướng đông thì ra phía trước, ngược trở lại là về tuyến sau.
     Nắng hanh cuối mùa khô làm những vết thương của Hoàng căng ra nứt nẻ. Lớp băng quấn quanh đầu anh máu đông lại, nước vàng thấm ra bốc mùi khó chịu. Đầu Hoàng nhức nhối như thể một bầy ong vàng thi nhau sà xuống châm nọc đốt. Đến bây giờ anh mới biết là mình còn bị thương vào đầu, chứ không phải chỉ ở đùi và vài ba chỗ khác trên người. Lúc anh bị bất tỉnh dưới lòng khe suối, anh em trong đội tải thương thấy có máu chảy túa ra đẫm cả mái tóc, đã băng lại cho anh. Hoàng lựa chỗ đau ở chân, trở mình trên chiếc võng để vết thương trên đầu đỡ nhức. Trong cơn mê sảng, những ý nghĩ mông lung lại đến với anh…
     Trong trận đánh ấy, có lúc nào tôi sợ hãi không nhỉ? Không ư! Liệu có phải là ta đã biện hộ cho mình chăng? Sao lúc này khi trận chiến đã qua, dù mới chỉ là lần đầu nghĩ đến điều đó, ta lại thấy lòng mình hơi kinh hãi?
     “Ta cũng chỉ hèn nhát như một tên lính mạt hạng chăng? Mới một lần nếm thử mùi ác liệt của chiến trường thôi đấy! Không thể nói là lòng mình không hoang mang…” – Những trăn trở cứ day dứt ở trong óc, anh không thể dập tắt đi được. Hoàng tự hỏi mình rồi lại tự trả lời. Nghĩ lại những cảnh ghê rợn đã qua, sự khủng khiếp của bom đạn và cả máu đổ, anh cũng thấy mình hơi hoảng hốt.
     Hoàng trằn trọc trên võng chỉ muốn xua đuổi những ám ảnh ấy! với anh, hoảng hốt có nghĩa là hèn nhát, dù đó chỉ là những ý nghĩ thoáng qua trong óc. Hèn nhát? Đó chính là điều khủng khiếp nhất mà anh không thể nào chịu nổi.
     Phải, chính ta đã thấy mình hoảng hốt - Anh tự thú với mình. Như một con thú hiền lành, đang đau đớn vì bị một con sói rừng móc mắt, moi ruột. Con sói cứ túm chặt lấy Hoàng không chịu buông tha. Hoàng vừa là con vật đáng thương đang bị cấu xé, lại vừa là con sói kia cứ nghiến rít mình. Nó làm cho anh đau đớn hơn cả vết thương đang nhức nhối trên đầu và tê buốt ở chân? Anh muốn xua đuổi nó! Anh muốn tống sạch đi những con vật khốn nạn cứ tóm bắt lấy anh. Anh giẫy giụa mà không sao ra nổi. Dường như anh không chịu nổi cái đau mới này, nó vô hình mà lại cào cấu như ma quỉ trong trí não. Anh rên lên…  
     Một bàn tay mát lạnh đặt lên trán Hoàng. Anh nghe thấy tiếng gọi của đồng chí y tá đi kèm bên cạnh:
-  Tỉnh lại? Tỉnh lại đồng chí!...
     Hoàng vẫn đang mê sảng. Anh em tải thương đặt đòn cáng lên hai đầu của cây gậy có chạc, dựa võng vào một thân cây. Họ chạy đến chăm sóc anh. Hoàng mở mắt. Anh nhìn thấy những khuôn mặt vàng võ vì sốt rét và gian khổ của các đồng chí tải thương, đang cáng anh về phẫu. Họ là những người lính của mặt trận vào chiến trường này đã nhiều năm, đang chăm chú nhìn anh ái ngại. Những ánh mắt ấy như muốn nói:
     “Hãy ráng chịu đựng đồng chí ạ! Chúng tôi biết đồng chí đau. Chúng tôi rất thương đồng chí. Nhưng có phải một mình đồng chí bị thương đâu? Đồng chí hãy nhìn xem, có bao nhiêu thương binh khác đang phải chống gậy lê từng bước một. Họ có được cáng như đồng chí đâu? Sao đồng chí lại rên…”.
     Anh y tá nói với Hoàng:
-  Ráng lên chút nữa! Sắp đến phẫu rồi, anh em sẽ thay băng cho đồng chí.
     Hoàng cảm thấy ân hận vì mình đã rên la. Như một chú bé ngoan ngoãn, anh nằm yên trên cáng. Anh em trong đội tải thương tiếp tục đưa anh về tuyến sau.
    Trạm phẫu tiền phương của E209 đi về phía tây dãy Chư Tan Kra, là những căn hầm lớn đào nửa nổi, nửa chìm. Hàng trăm thương binh được đưa về đây, nhiều người đã hy sinh tại phẫu. Lúc này, người ta vẫn còn nghe thấy những tiếng bom, pháo từ phía căn cứ địch vọng về.
 
                                                       *
 
     Trong hầm chỉ huy tác chiến tiền phương của E209, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn cứ đi đi lại lại quanh một chiếc bàn gỗ đóng mộc mạc. Đó là một căn hầm đã được khoét sâu vào trong lòng trái núi, gần với cao điểm. Thân hình cao lớn lắc lư, bước đi chắc nịch như một con gấu xồm đang muốn lồng lên trong một chiếc cũi sắt. Mái tóc rễ tre đỏ quạch bụi đất, mọc nghiêng ngả tựa một búi gai rậm xõa ra. Gian hầm chỉ huy im phắc, chỉ nghe thấy tiếng gót giầy ống của ông đanh như những nhát búa, nện trên các phiến gỗ lát hầm.
     Tình hình chiến sự bất ngờ làm đảo lộn khả năng chiến thắng của Trung đoàn 209? Theo đúng phương án tác chiến: Khi Tiểu đoàn 7 đảm nhiệm mũi tấn công chính diện lên M2 từ hướng tây – tây bắc, thì một đại đội của Tiểu đoàn 9 cũng nhanh chóng đánh tan tác, hoặc cụp gọn đại đội Mỹ ở hướng nam Chư Tan Kra – Sau đó tiến thẳng lên đỉnh căn cứ, phối hợp với D7 và đại đội đặc công với súng phun lửa, thanh toán nốt tiểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ co cụm trong lô cốt mẹ.
     Ở hướng mũi của D7, diễn biến trận đánh tuy ác liệt song khớp với phương án – nhưng hướng mũi thứ yếu của D9 do sự cố, kế hoạch tác chiến hoàn toàn bị đổ vỡ. Bộ đội chẳng những không vào đánh được mà lại còn bị thương vong gần hết.
     Rổi lại một bất ngờ nữa, quân chủ lực Bắc Việt không hề hay biết: Đó là hai đại đội thám báo Mỹ vẫn hoạt động lưu động ở vòng ngoài – Khi Chư Tan Kra bị Việt Cộng uy hiếp, chúng lập tức tiến về đánh vào sau lưng Tiểu đoàn 7. Do trận đánh không giải quyết chớp nhoáng được theo phương án, nên Mỹ đã kịp cho trực thăng đổ thêm hai đại đội xuống… cùng với pháo bầy, máy bay đánh trả để chiếm lại cao điểm. 
     Từ thế chủ động tiến công bất ngờ, ta rơi vào thế bị động, bộ đội lại bị thương vong quá nhiều – Ban chỉ huy trung đoàn đành phải cho Tiểu đoàn 7 lệnh rút quân, và tìm mọi cách đưa hết số thương binh ra ngoài. Ông không muốn nướng nốt số quân còn lại.
     Viên trung đoàn trưởng nói với người chính ủy trung đoàn, đang ngồi im lặng bên chiếc bàn gỗ trong hầm:
-  Anh ở lại tổ chức cho bộ đội rút quân. Tôi về Bộ tư lệnh mặt trận xin thêm viện binh, mai ta sẽ tổ chức đánh tiếp.
     Nói rồi, cả tấm thân đồ sộ lao ra ngoài. Bàn tay phải của ông nắm chặt lại tựa như một gọng kìm đang muốn bóp nát một thế lực nào đó. Ánh mắt ông quầng lên. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng gót giầy ống từ trên mặt núi vọng xuống.
     Chính ủy Trung đoàn 209 là một bậc trung niên, trạc ngoài năm mươi tuổi. Người có khuôn mặt hiền hậu như một thiếu phụ, đăm chiêu nhìn ra phía cửa hầm, gần con đường trục trở lại tuyến sau. Anh em chiến sĩ bị thương phải về phẫu, vẫn từng đoàn nối nhau đang đi qua đó.
     Trong trận chiến ngày 26.3.1968 ấy, Tiểu đoàn 7 chủ công của Trung đoàn 209 đã bị thương vong 2/3 quân số. Hơn 200 chiến sĩ phải nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra đẫm máu. Không một người lính nào của D7 đầu hàng quân địch, tất cả đều chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
     Bốn người sau trận đánh bị Mỹ bắt, đều là thương binh nặng không bò ra được: như một chiến sĩ, người Gia Lâm - Hà Nội, bị thương nặng gẫy hai chân, một tay. Anh đã cố bò ra khỏi trận địa, nhưng được vài chục mét thì ngất đi. Tỉnh dậy, thấy mình đã bị Mỹ bắt làm tù binh…
     Cũng buổi sáng ngày 26.3.1968 đó, ở hậu cứ tiền phương – những người anh nuôi bầy cơm nắm ra la liệt, mà chẳng thấy mấy chiến sĩ về ăn? Họ hu hu lên khóc:
-  Anh em đồng đội ơi! Đi đâu hết cả rồi…
    70% tiểu đoàn lính mũ sắt Hà Nội, tham gia trận đánh đầu đời đã không trở về nơi đóng quân. Một số người chết trong bệnh xá, còn thì bị thương nhiều. Tuyệt đại đa số họ đã nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra, trước lúc bình minh lên.
     Theo tờ tin “Lập công” của các lực lượng vũ trang giải phóng Tây Nguyên, số ra ngày 28.3.1968 viết:
     “Đêm 25 rạng ngày 26.3.1968 – Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 đã đánh một trận tập kích tốt. Tiêu diệt gần hết một đại đội bộ binh, một đại đội pháo binh và tiểu đoàn bộ của tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ. Giặc Mỹ đã phải thừa nhận: “Đây là một một đánh rất táo bạo, phía Mỹ đã bị thiệt hại vừa”.
     Thực ra, thiệt hại nặng Mỹ mới chịu thừa nhận như vậy.
     C1 và C2 của D7 ngay từ phút đầu nổ súng, đã đồng loạt xung phong chớp nhoáng, mãnh liệt, vượt qua cửa mở xông thẳng vào đánh chiếm các ụ súng, rồi nhanh chóng phát triển vào trung tâm, đánh phá các trận địa pháo và chỉ huy sở địch. Với lối đánh táo bạo bằng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên bắn gần. Bất chấp sự chống trả của địch trong cơn tuyệt vọng, đã oanh tạc bừa bãi bằng mọi thứ: bom phá, bom bi, bom lân tinh.
     Đó là sự hiệp đồng rất đẹp của các phân đội trợ chiến, chi viện đắc lực cho bộ binh xông lên diệt địch.
     Đại liên bắn điểm từng tràng ngắn. Xạ thủ đại liên Phạm Ngọc Thái bị thương, tự băng bó vết thương, vẫn băng lên chiến đầu. Còn khấu đội trưởng Nguyến Hoàng, khi một đồng chí xạ thủ bị thương liền nhảy vào thay thế, tiếp tục dẫn tiểu đội xông lên! B40, B41ần lượt hạ hết các ụ súng này đến các ụ súng khác, và luôn có mặt ở bất kỳ chỗ nào cần có mặt. Xạ thủ Nguyễn Đức Chính luôn động viên các đồng đội bị thương: “Các đồng chí cứ bình tĩnh, chúng tôi sẽ trả thù cho các đồng chí”. Xạ thủ Trực, sau khi đã hạ được ba ụ súng, ngồi hẳn lên xác Mỹ, tiếp tục dùng tiểu liên diệt địch.
     Đó là hành động cụ thể, dũng cảm và tiên phong của những cán bộ, như Tiểu đoàn trưởng Trương Ân, Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, như Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, phân đội phó Nhạc, như Lê Sĩ Nhật trung đội trưởng súng cối, B41 của C5, luôn xông xáo chỉ huy đơn vị xốc tới. Như Nguyễn Văn Kháng một mình đánh địch bảo vệ thương binh, diệt hàng chục Mỹ bằng tiểu liên, lựu đạn. Đó là tình yêu thương đồng đội và quyết tâm tiêu diệt địch của các đồng chí phục vụ như y tá Bắc, văn thư Tứ, đưa hết thương binh ra ngoài an toàn rồi quay lại dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Tinh thần dũng cảm của một tập thể dũng cảm, kết hợp với lối đánh gần, đánh nhanh, đánh thọc sâu… đã đem lại cho D7 một trận thắng lớn, mở ra nhiều triển vọng cho đơn vị và cho toàn trung doàn 209.
     Hoan hô D7! Hoan hô các binh chủng phối thuộc! Chắc chắn trong những ngày tới, các đồng chí sẽ lập được nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa.”.
     Cuốn “Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Nxb QĐND năm 1980, trang 135 viết:
     “Nổi bật trong đợt này là trận Chư Tan Kra ngày 26.3.1968, diệt gọn 2 đại đội và 1 trận địa pháo Mỹ.
     Tại đây diễn ra nhiều cuộc giáp chiến giữa ta và địch. Chiến sĩ ta dùng lựu đạn, thủ pháo giành giật với địch từng khẩu pháo, từng mỏm đồi, dưới tầm bom đạn ác liệt để giữ vững các điểm cao.”.
     Cuốn “Lịch sử Trung đoàn 209…”, Nxb QĐND 2004, trang 94 – 95 viết:
     “Trong trận tiến công, tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt, ta bị thương và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Trận đánh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường, tinh thần chiến đấu gan dạ, không sợ hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 209. Đó chính là truyền thống của một trung đoàn đã được xây dựng từ những ngày đầu chống Thực dân Pháp xâm lược. Hôm nay truyền thống đó lại tiếp tục phát huy trên chiến trường chống Mỹ. Nhiều gương chiến đấu anh dũng đáng được nêu gương học tập: như đồng chí Nhạc (đại đội phó đại đội 1) bị thương lòi ruột, tự tay mình nhét ruột vào để tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu; như đại đội trưởng Ngô Xuân Lâm, một mình ôm bộc phá xông lên diệt lô cốt địch cho bộ đội xung phong, rồi sau đó chỉ huy bộ đội chiến đấu liên tục cho đến lúc hy sinh.”.
     Cũng trong cuốn sách trên, trang 99 viết:
     “Ngày 28.3.1968, trung đoàn 209 được lệnh cơ động về vị trí tập kết ở dọc sông Sa Thầy, để củng cố bổ xung quân và nhận thêm súng đạn, lương thực, thuốc men… Trên đã thông báo, có điện thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt thường trực quân ủy Trung ương, nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của trung đoàn và của quân dân Tây Nguyên.
     Đại tướng chỉ thị: “Hãy thừa thắng xông lên đánh mạnh, đánh trúng, đánh giòn giã hơn nữa. “.
………..     
     Sau khi Mỹ đổ thêm quân, phản kích lại đã làm chủ được trận địa Chư Tan Kra rồi, Chúng thu gom xác lính Hà Nội lại một chỗ, dùng xe ủi đẩy anh em tử sĩ xuống hố, lấy xăng đặc đốt rồi lấp đất chôn ngay trên đỉnh cao điểm. Độ sâu anh em nằm khoảng 2m.
     Khi đó những người bị thương đang bí mật đi ở bìa rừng bên này, nhìn lính Mỹ đốt xác đồng đội, không cầm được nước mắt. Lòng căm thù lại uất nghẹn lên trong lòng. Họ chỉ muốn mau lành được vết thương, trở về chiến đấu trả thù cho các anh em đồng đội, đã phải chôn xác bi thảm trên đỉnh Chư Tan Kra máu lửa này.
     Như lời của một thương binh cùng đi trong đám chiến sĩ nói:
- Tớ là người chuyên lấy góc phương vị cho cối 82mm bắn. Cuối trận đánh, tớ còn đi vòng quanh nã mấy chục phát súng cối lên cứ điểm trả thù, rồi mới chịu rút.                   
     Ngọc Văn, tiểu đội trưởng đại liên C5 cũng bị thương trong trận đánh này.
     Vì không có hương và vàng mã để đốt – Những người chiến sĩ ấy, chân tay và cả người họ còn phải cuốn đầy băng, hoen đầy máu đỏ. Họ đã lấy những tờ giấy, những trang sổ viết mang theo người, trải ra trên mấy tàu chuối rừng… đốt thay hương và vàng mã. Họ lặng lẽ khấn cầu cho vong hồn đồng đội mình siêu thoát. Vong hồn hơn 200 người chiến sĩ của trung đoàn 209 mũ sắt Hà Nội, đang quẩn quanh đâu đây. Dưới lớp đất này, hoặc gốc cây kia… Các anh lặng lẽ đi vào lòng đất mẹ như một bí mật, mà anh em đơn vị đã không lấy được xác các anh ra.
     Họ cứ lặng lẽ khấn cầu hàng giờ như thế! Đến khi, anh em đội tải thương phải giục họ đi, sợ lỡ gặp địch…
     Khi đó, trời gió nhẹ. Những tàn giấy uốn cong bay lơ lửng lên trời xanh, như để nói với những người đồng chí của mình rằng: “Hình ảnh các anh sẽ còn sống trong lòng chúng tôi mãi mãi sau này.”.
     Nhật kí chiến trường của trung tá D.M.Malone, chỉ huy căn cứ hỏa lực Mỹ FSB 14 lúc đó, viết trong tất cả các đêm từ 27.3.1968 đến 2.4.1968 đều có câu: “Quân Bắc Việt chuyển quân quanh căn cứ suốt đêm”.
     Thực ra, không phải trung đoàn 209 chuyển quân… mà suốt 7 đếm ấy, đêm nào những người lính còn lại của D7 cũng bất chấp bom đạn, trở lại Chư Tan Kra, đi quanh căn cứ… để tìm cứu thương binh và tìm chôn xác các chiến sĩ của mình.
 
 
Nhân văn 08.06.2018 12:25:23 (permalink)
 
                      PHẠM NGỌC THÁI
 
                     CHIẾN TRANH
                               và TÌNH YÊU
 
                                                   Tiểu thuyết
                                                        Tập II
 
                                           CHƯƠNG IX.
      MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN ĐẪM MÁU (B)
 
                                                       30-
 
      Đường lên Đắc Tô – Tân Cảnh nằm ở phía bắc Kon Tum. Bên trái là con sông Pô Kô uốn khúc, dòng nước chảy hiền hòa, trong xanh. Khi chiến tranh chưa vào giai đoạn ác liệt, đây đó những đám hoa dã quỳ nở đong đưa trong gió. Theo con đường Quốc lộ 14 trải dài trên cao nguyên, ta nhìn thấy ở hai bên là những rẫy hoa mầu, rẫy cà phê, những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh mát… làm dịu đi cả một mảng đồi núi trong nắng vàng rạng rỡ. Qua những buôn làng của đồng bào các dân tộc thiểu số như người Êđê, Mnông, Giarai… với mảnh khố ngắn cũn, chiếc váy tuềnh toàng. Những rẫy sắn, giàn bí leo, hoặc những cái rẫy bỏ hoang của các căn nhà đã rời đi nơi khác.
      Nay Tân Cảnh – Đắc Tô đã trở thành một chiến địa ác liệt và đẫm máu. Các con đường đi đến nó đã bị pháo binh, máy bay Mỹ ném bom cầy xới tung tóe, nham nhở. Ngay trên Quốc lộ 14, có những đoạn ô tô không thể đi được nữa. Xe tăng thì phải càn qua tất cả các nương rẫy mà tiến…
      Tân Cảnh – Đắc Tô là một mặt trận quan trọng, trong cuộc tiến công chiến lược với qui mô lớn của QGP trên toàn bộ mặt trận Tây Nguyên năm 1972.
      Sau thắng lợi có tính chất quyết định của QGP miền / Quân đội NDVN ở Đường 9 – Nam Lào, chẳng những chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” -   “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trên bờ vực của sự thất bại, mà trên chiến trường miền Nam nói chung… đẩy quân VNCH vào tình thế khốn đốn, suy sụp. Bởi vậy cuối năm 1971 đầu 1972, chúng vội vã tăng cường một lực lượng lớn ở Bắc Tây Nguyên, nhằm bảo vệ cửa ngõ sống còn của Tây Nguyên.
      Đắc Tô – Tân Cảnh là một trung tâm phòng thủ mạnh nhất, có tính chất huyết mạch của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum – đồng thời là một trong ba phòng thủ trọng yếu ở Bắc Tây Nguyên (sau thị xã Kon Tum và thị xã Pleiku của tỉnh Gia Lai).
      Một lực lượng lớn QLVNCH bố trí ở Đắc Tô – Tân Cảnh, gồm:
-  13 tiểu đoàn bộ binh
-  1 trung đoàn thiết giáp
-  3 tiểu đoàn pháo
-  2 đại đội bảo an
      Được bố trí ở hai cụm cứ điểm lớn là Đắc Tô II và căn cứ 42 Tân Cảnh,  đấy là chưa kể không quân Mỹ và pháo binh từ các nơi khác bắn đến yểm trợ.
      Về phía Quân giải phóng: Đắc Tô – Tân Cảnh được Bộ tư lệnh Mặt trận B3 chọn làm chiến trường chính, để mở chiến dịch tiêu diệt địch ở Bắc Tây Nguyên.
     Về phương thức đánh: Bộ tư lệnh mặt trận quyết định chọn phương thức “tác chiến bằng hợp đồng binh chủng, kết hợp quân chủ lực và quân địa phương” vây hãm sinh lực địch tiến tới đột phá, tấn công giành thắng lợi.
      Khi hai trung đoàn 48 và 52 Sư 320 từ cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã được giải phóng gấp rút tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, thì chiến dịch ở đấy đang diễn ra rất dữ dội.
      Về Tiểu đoàn 16 vẫn gồm 4 đại đội hỏa lực trực thuộc Bộ tư lệnh mặt trận B3, đi phối thuộc cho Sư 320 – nhưng riêng C4, đại đội pháo phòng không: trong trận đánh Ngọc Bờ Biêng, núi cao hiểm trở không thể kéo pháo 37ly vào được, đã thay bằng loại tiểu cao 14ly5 và súng máy cao xạ 12ly7 mang vác dễ dàng hơn. Nay vào tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh, đại đội lại chuyển về thành hai trung đội pháo cao xạ 37 ly và hai trung đội 14ly5. Như vậy, Nguyễn Hoàng giờ là trung đội trưởng pháo cao xạ 37ly của C4 thuộc tiểu đoàn.
      Như đã nói: sau thắng lợi ở Ngọc Bờ Biêng, trung đoàn pháo hỗn hợp E40 trực thuộc mặt trận cũng tức tốc tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh.
      Cơn mưa tháng tư tầm tã trút nước như xối vào một miền rừng núi. Lúc này, quân tiên phong của Mặt trận B3 đã chọc thủng các boong ke phòng thủ vành đai phía ngoài Đắc Tô – Tân Cảnh. Trung đoàn 64 F320 đã xuống trước từ khi mở màn chiến dịch.
      Ngày 15.4.1972, được sự yểm trợ của của pháo mặt đất 120ly và hỏa tiễn 122ly – E64 đã chọc thủng cao điểm Charlie. Charlie chính là tuyến phòng thủ, một nút chặn rất quan trọng của Đắc Tô – Tân Cảnh do Tiểu đoàn 11 nhảy dù QLVNCH trấn giữ, kiểm soát, khống chế QGP ở ngã ba Đông Dương. Vị trí Charlie: giáp gianh với một nhánh sông Pô Kô và Quốc lộ 14, cũng là cửa ngõ huyết mạch dẫn vào thị trấn, cách Tân Cảnh khoảng 10km. Quốc lộ 14 là độc đạo duy nhất từ Thị xã Kon Tum vào Quận lỵ Đắc Tô.
      Trung đoàn 48 F320 phải xé nhỏ từng bộ phận hành quân vào thị trấn, để tránh địch pháo kích hoặc ném bom rải thảm gây thương vong, tổn thất.
      Khi C4 – Đại đội pháo cao xạ phòng không do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu, trong đội hình hành quân cùng trung đoàn 48 tiến gần đến đồi Charlie đã được giải phóng – Tuy cao điểm đã giải phóng, nhưng hành quân qua khu vực này vẫn rất ác liệt. Các ngọn đồi bị bom san phẳng, trống trải. Để ngăn chặn QGP, địch ngày đêm dùng pháo, bom tàn phá. Hiệu lệnh của Mặt trận là: Qua nơi này phải nhanh và hết sức cẩn thận.
      Chiều ấy đã muộn, khi C4 vượt qua Quốc lộ 14, khoảng đồi trống gần Charlie đó. Mặc dù đoàn quân ngụy trang cẩn thận và tìm cách tránh né để địch khỏi phát hiện, nhưng bỗng thấy hai chiếc OV10 cứ bay đi vòng lại trên đầu, rồi nghe có tiếng nổ và một cột pháo vàng bốc lên ở phía trước: biết là khả năng chúng đã phát hiện ra đoàn quân? Đây là tín hiệu chúng báo cho phản lực đến đánh. Đại trưởng Quảng vội cho đại đội tản ra hai bìa rừng xung quanh. Từng trung đội tận dụng địa hình thay chiến hào, triển khai pháo 37ly và 14ly5 sẵn sàng đánh địch. Cả những tay súng AK của các chiến sỹ cũng vừa ẩn nấp vừa chuẩn bị tư thế bắn.
      Tiếng máy bay phản lực rít ngay trên đầu, khói bom đen đặc, mặt đất rung chuyển, đất đá mù mịt. Lập tức pháo cao xạ của Đại đội 4 đồng loạt nổ ròn rã. Cỏ gianh trên đồi cháy rừng rực. Chiếc OV10 trở lại lượn trên đầu. Một tốp phản lực khác bay đến, bom lại nổ tung… Pháo cao xạ 37 và 14ly5 cùng tiếng súng AK tiếp tục nổ long trời, cũng chẳng khác gì chiến địa. Ba chiếc phản lực bay thấp cắt bom, tiếng rít nghe ghê rợn.
      Bỗng một tiếng nổ chói tai trên bầu trời, kéo theo ngọn lửa lớn bốc lên từ một chiếc A37… khói đen mù cả một vùng trời. Chiếc máy bay cháy lao xuống một khu rừng gần đó. Tiếng reo hò trong đoàn quân vang lên:
-  Cháy rồi! Máy bay địch cháy rồi! Hoan hô…
      Hai chiếc khác cố cắt cho hết loạt bom rồi cút thẳng, chỉ còn thấy đám lửa và ngọn khói đen vẫn ngùn ngụt bốc lên trên khu rừng của chiếc máy bay vừa rôi.
      Hai chiếc OV10 cũng không dám bay gần nữa, chúng lượn ở rìa rừng xa… rồi mất hút. Đại đội trưởng Quảng lệnh cho các trung đội thu dọn trang bị và súng pháo, khẩn cấp tiến về phía Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh.
 
                                                         *
 
      Như đã nói mưu kế của Bộ tư lệnh B3 trong chiến dịch xuân hè 1972 ở mặt trận Bắc Tây Nguyên này, nói chung là lừa địch.
      Vào đầu tháng tư 1972, QGP đồng loạt tấn công các cụm cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… lừa địch hướng về phía Thị xã Kon Tum: vì cho rằng QGP sẽ đánh vào Thị xã Kon Tum ngay – Nghĩa là, họ thu hút cả quân dự bị của QLVNCH cùng với Mỹ và quân đồng minh hướng về phía thị xã. Những bộ óc chỉ huy của Mỹ và VNCH trên chiến trường Tây Nguyên đã bị mắc lừa.
      Cũng khi đó Trung đoàn 64 F320 với chiến thuật hợp đồng binh chủng, có một tiểu đoàn xe tăng thiết giáp và pháo binh yểm trợ, đánh vào các tuyến phía tây sông Pô Kô, là tuyến phòng thủ của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum. Mỹ và VNCH vẫn cho rằng đây là vành đai thép, án ngữ hành lang Trường Sơn.
      Sự xuất hiện những chiếc xe tăng hạng nặng của QGP, từ loại T-54 và PT-76 làm cho quân lính VNCH hoảng hốt, rời rã tinh thần chiến đấu. Đợt phản công ở vành ngoài đó, đã thu được thắng lợi ròn rã. Mỹ và QLVNCH vội vã dồn lực lượng tập trung phòng thủ Thị xã Kon Tum – thì bất ngờ QGP lại phản công Đắc Tô – Tân Cảnh.
      Lúc này Trung đoàn 64 vẫn được Bộ tư lệnh B3 chọn làm mũi nhọn tiến công từ mặt trận phía tây sông Pô Kô sang, cùng hai trung đoàn 48 - 52 F320, Trung đoàn pháo 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 ở Ngọc Bờ Biêng đến, cũng như các trung đoàn khác trên Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba… Trung đoàn 66, Sư đoàn 2 Quân khu 5 miền Nam Việt Nam do Nguyễn Chơn làm sư đoàn trưởng – tất cả đều lần lượt kéo về tăng cường đánh Đắc Tô – Tân Cảnh.
      *  Khi đó lực lượng địch ở Tân Cảnh chủ yếu do Trung đoàn 42 - Sư 22 QLVNCH, gồm 3 tiểu đoàn bộ binh 1,2 và 4.
-  Tiểu đoàn thiết giáp 14 với 20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113
-  Một tiểu đoàn pháo với 4 khẩu 155mm, 6 khẩu 105mm
-  1 đại đội vệ binh, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh
      Bố trí thành 13 khu phòng thủ.
      *  Ở cứ điểm Đắc Tô (Bắc Tân Cảnh) gồm Quận lỵ Đắc Tô và chốt Ngọc Tu, có:
-  Các tiểu đoàn 4 và 8 (Trung đoàn 47, Sư 22); Tiểu đoàn 9 (Lữ đoàn dù 3)
-  1 chi đội xe tăng bảo vệ
      Ngày 23.4.1972, Trung đoàn 64 F320 phối hợp với Sư 2 của Nguyễn Chơn – Hợp lực còn có 1 tiểu đoàn đặc công B3, binh chủng pháo mặt đất từ 80 đến 105mm của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 với các loại súng cối 82mm, hỏa tiễn cá nhân DKB, rốc két B41,  pháo cao xạ 37ly – 14ly5; kể cả pháo cao xạ tự hành cỡ lớn 57mm cùng 1 tiểu đoàn xe tăng T-54 và 1 đại đội hỏa tiễn chống tăng AT-3
      (AT-3 là loại tăng của Mỹ mới bổ xung vào chiến trường)
      Lúc 4h30 phút sáng, Trung đoàn pháo 675 của Mặt trận B3 bằng pháo 122ly và hỏa tiễn H12, được lệnh pháo kích khai hỏa đánh vào các cụm căn cứ vành đai ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Sau đó xe tăng thiết giáp và bộ binh của  QGP tràn lên.
      Đại tá Lê Đức Đạt, Sư trưởng Sư 22 QLVNCH điều 10 xe tăng ra phản kích lại. Lập tức bị tên lửa B-72  của QGP bắn cháy 8 chiếc, đứt xích 2 chiếc (B-72 là loại hỏa tiễn mới của QGP, trước địch chỉ biết có B41).
      Đến 11h trưa ngày 23.4.1972, QGP đã chiếm được hoàn toàn phía ngoài Tân Cảnh.
      15h chiều 23/4, pháo binh QGP nã đạn dồn dập vào trung tâm Tân Cảnh và chỉ huy sở tiền phương của Sư 22 QLVNCH.
      Trận chiến giữa Trung đoàn 66 F320 và Trung đoàn 42 Sư 22 QLVNCH diễn ra ác liệt. Cũng thời gian đó thì Trung đoàn 48 F320 đụng độ với Trung đoàn 47 Sư 22 QLVNCH ở Đắc Tô.
      1h sáng ngày 24.4.1972, xe tăng T-54 của QGP xông thẳng qua Thị trấn Tân Cảnh, lao lên mở toang cửa hướng đông cho bộ binh của Sư 320, Sư 2 Quân khu 5 ào ạt tràn vào.
      10h30 phút ngày 24/4, chỉ huy sở tiền phương QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh QGP bắn trúng, sau đó xe tăng T-54 tràn lên đè nát. Nhiều sĩ quan chỉ huy của QLVNCH bị tử trận. Các phương tiện thông tin bị phá hủy, không thể liên lạc được với chỉ huy của chúng ở Thị xã Kon Tum.
      Lúc này, Ban chỉ huy Sư 320 lệnh cho Trung đoàn 48 hợp lực với E64, được sự yểm trợ của Đại đội 7 với 9 cỗ xe tăng T-54 dẫn bộ binh ào ạt xông lên, đánh vào trung tâm và Bộ chỉ huy Sư 22 QLVNCH.     
      Sau khi xe tăng diệt những hỏa điểm ở cửa mở, càn qua hàng rào bắn tung các ụ súng lớn, lô cốt địch cho bộ binh xung phong. Tiến vào Đắc Tô, ba cỗ xe tăng đi đầu là 377, 354 và 369 ngay loạt đạn đầu đã đánh sập khu tháp nước và đài quan sát. Dùng đại liên, xích sắt quần nát các công sự phòng ngự của địch. Lúc quân lính hoảng loạn thì 377 như một mũi tên thép xuyên qua các chiến hào, chà xát các ụ đề kháng, đánh thẳng vào Sở chỉ huy Trung đoàn 42 QLVNCH.
      Ở đây đã diễn ra một trận tăng dữ dội, lưu lại cho truyền thống đánh tăng “một chọi mười” – Đó chính là một chiến công hiển hách của người trung đội trưởng anh hùng Nguyễn Xuân Triển.
      Trung đội trưởng xe tăng Nguyễn Xuân Triển nhận được lệnh xuất kích, thừa thắng đánh vào Đắc Tô II – một cụm cứ điểm trọng yếu của địch ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Đó chính là mũi để tiến vào đánh sân bay Phượng Hoàng. Xe tăng xung trận trong tầm pháo và máy bay địch chặn phá rất ác liệt.
      Xe  tăng 377 dẫn hai xe tăng 354 và 369 vọt lên, tăng tốc lao vào cứ điểm Đắc Tô. Nhưng khi lao vào trung tâm thì gặp rất nhiều chướng ngại: nào là giao thông hào, hố bom pháo… nên ba chiếc xe tăng phải tách ra vừa đánh và tiến. Xe tăng 377 vọt lên còn hai xe kia phải tản đi, tụt lại khá xa.
      Một mình 377 xông lên giữa trận tiền rất hùng dũng, trong cơn say chiến thắng đang tiến công mạnh mẽ. Địch thấy 377 đơn thương độc mã – Tên chỉ huy trưởng Trung đoàn 42 QLVNCH liền báo cáo Bộ tham mưu Sư 22 của chúng: điều 10 xe tăng M-41, chia làm hai mũi bao vây chiếc T-54 của QGP. Thế là cuộc đấu tăng “một chọi mười” diễn ra quyết liệt. Bình tĩnh, linh hoạt và chính xác đến tuyệt vời, Nguyễn Xuân Triển chỉ huy còn lái xe Cao Trần Vịnh quần thảo. Khi tiến, khi lui… vừa để tránh tầm hỏa lực địch bắn, vừa hoa tiêu cho pháo thủ là Vũ Đức Lương và Nguyễn Đức Toàn điểm hỏa, diệt liên tiếp 7 xe tăng của địch, làm cho đội hình chúng rối loạn.
      Lại nói về hai xe 354 và 369 cũng đang tả xung hữu đột với pháo và các chiến xa địch, tiếp tục mở đường xông lên – Họ biết 377 đang lâm trận… Anh em vừa đánh vừa vượt chướng ngại vật, mở hết tốc lực để đến ứng cứu cho 377. Một số xe tăng địch nấp sau các ụ chiến bắn rất rát.
      Bởi vậy, khi 354 và 369 chưa đến ứng cứu kịp – ba chiếc tăng M-41 còn lại của địch từ phía nam sân bay Phượng Hoàng lao tới. Chúng theo thế cánh sẻ cùng với ba ụ lô cốt phía trong sân bay, tập trung hỏa lực bắn vào 377. Những vết cào phá, đạn pháo địch găm lỗ chỗ quanh xe, những trái pháo địch vọt qua thành xe bay đi… Nhưng rồi, một trái M79 từ một chiếc tăng M-41của chúng đã đã bắn trúng 377. Lửa khói trùm lên chiếc xe quả cảm ấy, cả bốn người dũng sĩ trên chiếc tăng 377 đã hy sinh.
      Cũng lúc đó thì hai chiếc tăng 354 và 369 dẫn trung đoàn bộ binh ào ạt xông đến, đánh tan tác quân địch.
      Trở lại với trận chiến ngày 24.4.1972 – Lúc 11h trưa, QGP đã hoàn toàn làm chủ Tân Cảnh, bắn sập chỉ huy sở của Sư đoàn 22 QLVNCH.
      Ngay khi QGP đang chiếm ưu thế và phản công quyết liệt vào Tân Cảnh, Bộ tư lệnh mặt trận đã cho pháo binh bắn dồn dập vào sân bay Phượng Hoàng – Sân bay Phượng Hoàng dài hai cây số. Đứng ở sân bay ta nhìn thấy một vùng đồi, đó là cứ điểm Charlie hiện ra ngay trước mắt. Mặt tiền của sân bay: tuyến đường đi từ Đắc Tô qua huyện Ngọc Hồi đến Thị trấn Pleicần.
      Lúc 17h chiều thì QGP chiếm hoàn toàn Quận lỵ Đắc Tô, giải phóng sân bay Phượng Hoàng. Một chi đoàn thiết giáp QLVNCH bị QGP phục kích tại cầu Đắc Mốt đánh tan tác: 5 xe tăng M-41 bị bắn hỏng.
      Chập tối 24/4, thêm 12 xe thiết giáp  và xe tăng nữa của địch bị tăng T-54 của QGP tiêu diệt. Sư 22 QLVNCH hoàn toàn mất sức chiến đấu.
      Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH Lê Đức Đạt cùng với một cố vấn Mỹ vội nhẩy lên một chiếc xe bọc thép, với một đám tàn quân chạy tìm đường thoát về Thị xã Kon Tum.
      Từ giữa khu chỉ huy sở của Sư 22 QLVNCH, trong làn khói đen đặc với tiếng la hét của bọn lính bị thương, lẫn tiếng đạn pháo nổ mù mịt – Một chiếc xe bọc thép chồm đến, nó nghiến ngấu đè lên cả đám quân đang hoảng hốt. Những tiếng kêu thét ghê rợn vang khắp bầu trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Các thi thể do xe nghiến văng ra, đổ sập xuống như những cây chuối bị thối lũn. Chiếc xe vẫn chồm lên, những xác chết bị đè nát bét dính xuống mặt đồi đất đỏ, máu túa ra chảy lênh láng. Như con thú điên dại, chiếc xe lao qua những đồi chè, đồi cà phê, lại vượt lên Quốc lộ 14 chạy thục mạng - con đường độc đạo đi về Thị xã Kon Tum.
      Nhưng đến cầu Đắc Mốt của con sông Pô Kô, chiếc xe bỗng đứng giật lại. Phía trước mặt nó là dòng sông trắng xóa. Mặt nước hắt lên màu vàng lóa của một buổi chiều trước khi tắt hẳn. Cầu đã bị chính bom của máy bay Mỹ phá sập. Chiếc xe vội quay đầu lại, rẽ ngoặt lên một triền đồi… định chạy qua huyện Ngọc Hồi về phía Pleicần, theo hướng bắc chạy về Đà Nẵng – hoặc là từ Pleicần, theo Quốc lộ 18 có thể dẫn về ngã ba biên giới Cam Bốt-Lào-Việt. Nó cố chạy sang Lào hoặc Căm Pu Chia.
      Nhưng đằng sau chiếc xe bọc thép đó có hai chiếc tăng T-54 đang đuổi theo, cách nó chỉ khoảng vài trăm mét đường chim bay. Người ta nhìn thấy những mũi tên lửa vọt ra từ hai chiếc tăng T-54. Mũi tên cứ lớn dần, lớn dần… bám chiếc xe lao tới. Như thể có một bàn tay vô hình nào đó điều khiển đường đi của nó. Rồi một đống lửa vàng bùng lên kèm một tiếng nổ inh trời… chiếc xe bọc thép lật ngửa và bốc cháy, khói đen đặc chùm kín lên mình.
      Khi chiếc xe bọc thép đã bốc cháy, hai chiếc tăng T-54 quay lại phía sân bay Phượng Hoàng. Trận chiến vẫn còn đang diễn ra ở đấy!
      Nghe nói, khi QGP đã hoàn toàn làm chủ chiến địa, người ta tìm thấy trong chiếc xe bọc thép có năm xác chết, giống như những con chó thui bị cạo sạch lông lá, co quắp lấy nhau trong cơn sợ hãi – Đó chính là chiếc xe chở tên Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH, cùng với hai tên cố vấn Mỹ và hai sĩ quan trong Ban tham mưu sư đoàn chạy trốn. Cái chết của những bộ óc chiến lược lớn nhất Sư đoàn 22 thiện chiến của QLVNCH, được coi như thắng lợi khởi đầu cho chiến thuật đánh với qui mô lớn, hợp đồng binh chủng của QGP – và là sự phá sản trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ.
      Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã hoàn toàn giải phóng, người ta vẫn thấy ở mé sân bay Phượng Hoàng, hình tượng cỗ xe tăng T-54 mang số hiệu 377 ghếch nòng đại bác 45 độ, trong tư thế chồm về phía trước rất hùng dũng.
      Họ kể: khi hai chiếc tăng 354 và 369 cùng đại đội xe tăng dẫn các binh đoàn bộ binh tiến công và giải phóng sân bay Phượng Hoàng, các chiến sĩ bộ binh mở nắp chiếc xe tăng 377 thì thấy bốn người dũng sĩ xe tăng ở trong đó, nằm ngả đầu ra bốn góc của thành tăng – như thể họ vừa chơi một ván bài, mệt quá ngủ thiếp đi. Toàn thân những người chiến sĩ anh hùng ấy đã bị cháy xém. Anh em khiêng xác bốn người chiến sĩ xe tăng, không khác gì hình tượng trong kịch bản bất hủ của Sếch-xpia: khiêng chàng hoàng tử Hăm Lét bất tử vậy.
      Đó chính là:
-  Thiếu úy Nguyễn Xuân Triển trung đội trưởng xe tăng, quê ở Quế Võ, tỉnh Hà Bắc.
-  Lái xe Cao Trần Vịnh, quê ở Đất Tổ - Phong Châu.
-  Pháo thủ số 2 Nguyễn Đức Toàn, quê Thanh Ba - Phú Thọ.
-  Pháo thủ số 1 Lượng.
      Lúc hy sinh, hai pháo thủ Toàn và Lượng vừa tròn hai mươi tuổi.
      Cũng lúc ấy trong một bìa rừng của địa phận Đắc Tô – Đại đội 4 D16 pháo cao xạ phòng không, các chiến sĩ đang từ từ hạ xuống huyệt năm chiếc quan tài được đóng bằng vỏ hòm đạn pháo. Tất cả lặng lẽ bỏ mũ cúi chào vĩnh biệt những đồng đội của mình, trong đó có người đại đội trưởng Quảng dũng cảm của họ.
      Gió chiều nổi lên, hoàng hôn vàng vọt phả xuống cánh rừng. Cuộc chiến ở Tân Cảnh – Đắc Tô tuy đã kết thúc, nhưng đây đó chốc chốc vẫn còn đì đùng tiếng súng nổ. Có lẽ một bộ phận QGP vẫn dang truy sát đám tàn quân nào đó trốn chạy?
      Sau khi người chính trị viên tiểu đoàn ném xuống mộ một vốc đất, các chiến sĩ bắt đầu lấp huyệt. Mọi người lặng lẽ xúc từng xẻng đất tấp xuống, nhưng bên trong cái sự âm thầm đó… âm hưởng của trận chiến dữ dội, nóng bỏng và dầy hùng khí vừa qua, vẫn như ngọn lửa cháy râm ran trong tâm trí họ.
      Hình ảnh người đại đội trưởng Quảng quả cảm và rất thao lược, cùng những đồng đội trẻ tuổi đã ngã xuống trong trận chiến… sống dậy trong Hoàng. Lòng anh trào lên một nỗi xót xa vô hạn. Dù rằng Hoàng cùng anh em đã từng chứng kiến bao lần, nỗi đau phải chôn các đồng đội của mình. Anh nghĩ về gia đình của những người đồng chí, họ sẽ rất đau khổ khi biết tin người thương yêu không bao giờ còn gặp lại nữa.
      Hoàng lại nghĩ về mình trong một trận chiến nào đó, có thể chỉ là nay mai… anh cũng phải vĩnh biệt tất cả !? Nhưng có lẽ nỗi đau nhiều hơn vẫn là những người thân nơi quê hương.
      Trở lại với những diễn biến của trận đánh – Vào trưa ngày 24.4.1972, tuy chiến sự còn đang giai đoạn quyết liệt, nhưng QGP đã làm chủ phần lớn Tân Cảnh. Đơn vị được thông báo đã phá hủy 9 xe tăng của địch, đánh hỏng và thu 20 pháo 105mm, gần 100 xe quân sự các loại, với hàng vạn quả pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác của QLVNCH. Trong đó riêng đại đội 4 - D16 pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã bắn rơi 8 máy bay. Thừa thắng, Bộ tư lệnh mặt trận lệnh cho pháo binh của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn 675 cùng các hỏa lực khác bắn cấp tập vào các cứ điểm còn lại của Đắc Tô và sân bay Phượng Hoàng. Sau đó 10 chiếc tăng PT-76 và T-54 của tiểu đoàn xe tăng QGP, 12 khẩu pháo cao xạ các loại cùng 2 trung đoàn bộ binh F320 và 2 tiểu đoàn bộ binh của quân khu, tràn qua Đắc Tô đánh thẳng vào sân bay Phượng Hoàng – bằng một trận tấn công và hiệp đồng binh chủng.
      Để cứu trợ - một thiết đoàn xe thiết giáp QLVNCH đã tiến về phía sân bay, các cụm cứ điểm trong sân bay bắn ra, ngoài đánh vào… máy bay trực thăng bu kín bầu trời, các loại phản lực “con ma, thần sấm”, máy bây tiêm kích AD6, A37 ném bom yểm trợ, hòng đè bẹp QGP? Chính chiến công chiếc tăng 377 là ở trong đợt này. Cuộc chiến dữ dội kéo dài sau ba tiếng đồng hồ - Trung đoàn 48, 64 F320 và quân giải phóng địa phương đã giải phóng sân bay Phượng Hoàng và làm chủ hoàn toàn Đắc Tô – Tân Cảnh.
      Tiêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 41-42 và 47, xóa sổ Ban tham mưu  Sư 22 QLVNCH cùng với các cố vấn Mỹ; tiêu diệt Lữ đoàn dù; diệt thêm 18 xe tăng địch loại M-41, 25 xe bọc thép; bắt sống 600 tù binh; giải phóng 25.000 dân và một vùng đất đai rộng lớn ở phía bắc Kon Tum. Bắn cháy và thu được tại sân bay Phượng Hoàng tổng cộng 18 máy bay.
      Thiệt hại của QGP cũng mất 4 xe tăng (ba chiếc T-54, một chiếc PT-76). Trận địa pháo cao xạ của Đại đội 4 bị trúng pháo kích địch: hủy mất 1 khẩu 37ly và 5 người bị hy sinh, trong đó có Đại đội trưởng Quảng.
     Tình hình vừa qua mặc dù thắng lớn, nhưng sự tổn thất của QGP cũng nặng nề, nhất là các trung đoàn bộ binh. Họ cần dừng lại một thời gian để củng cố đội hình, mới có thể đánh tiếp vào Thị xã Kon Tum được.
      Chiến công ở sân bay Phượng Hoàng và thắng lợi vang dội trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh nói chung, đánh dấu một mốc son trong phương thức hiệp đồng binh chủng sau “chiến dịch Lam Sơn 719”. Nó tiến đến để đánh sập chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ - góp phần buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa Ri ngừng chiến vào tháng 1 năm 1973.
……..
      Lại nói về năm ngôi mộ của năm chiến binh C4 đã được đắp đầy. Anh em chiến sĩ đi đánh từng vồng cỏ quanh đấy, phủ lên ngôi mộ. Người lính văn thư của đại đội thì vẽ lại tiêu chí, đánh dấu đặc điểm… để mai sau tìm cho khỏi bị thất lạc.
      Lúc này người chính trị viên già của Tiểu đoàn 16, bước lại gần Hoàng và bảo:
-  Hoàng để cho anh em chiến sĩ họ làm nốt, đồng chí về ban chỉ huy tiểu đoàn nhận kế hoạch tác chiến mới.
      Về đến nơi, ông nói với Hoàng: Ban chỉ huy tiểu đoàn đã báo cáo Bộ tư lệnh mặt trận, đề bạt Hoàng lên làm Đại đội trưởng C4 thay cho Đại trưởng Quảng bị hy sinh... và Bộ tư lệnh B3 đã chấp nhận. Ông vỗ vai anh giọng thân mật:
-  Từ giờ đồng chí chính thức với cương vị người đại đội trưởng C4!
     Ông dặn dò anh tỉ mỉ của một bậc chỉ huy lão thành, và mong anh sẽ làm tốt trách nhiệm với cương vị mới của một đại đội pháo cao xạ. Hoàng nắm chặt tay người chính trị viên già để tỏ sự quyết tâm. Đôi mắt của anh như muốn nói rằng: Các vị cứ yên tâm, tôi sẽ làm thật tốt chức trách mới được giao phó này! Rồi anh rảo bước trở về nơi đại đội đang đóng ở Quận lỵ Đắc Tô.
      Bầu trời cũng đã tối hẳn. Qua khu vực sân bay Phượng Hoàng còn ngổn ngang sự đổ nát, đất đá bị cào xới do bom đạn… và cả xác mấy chiếc tăng. Những vì sao sáng li ti hắt lên một vòm trời trong xanh. Trong cơn gió thổi, đây đó vẫn bay đến mùi hôi của những xác chết.
      Mấy con chó chạy rông… đi sục sạo để tìm đồ ăn. Không biết chúng có ăn thịt những cái xác của các người lính chiến thất trận phía bên kia, mà chưa kịp dọn hết không? Hoàng vẩn lên nghĩ như vậy. Anh bước nhanh qua sân bay để về ban chỉ huy đại đội, bao nhiêu công việc mới cồn lên trong đầu anh.
      Vài con bẹc-giê của bọn sĩ quan trở thành không có chủ, đang tranh giành ăn và cắn nhau kêu ăng ẳng. Thấy bóng anh đi qua, chúng chạy khuất vào trong màn đêm vắng, của một chiến địa còn đầy sự hoang tàn và chết chóc.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.06.2018 12:37:28 bởi Nhân văn >
Nhân văn 08.06.2018 12:29:36 (permalink)
 
 
                                                    31-
 
      Cơn mưa đầu mùa mỗi lúc một to, đêm tấp lên rừng núi. Những bánh lốp xe tải kéo pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã được bọc những vòng mắt xích, để tăng thêm độ ma sát. Ngọn đèn gầm của xe chiếu lên con đường Quốc lộ 14, vệt sáng nhỏ vừa đủ cho người lái xe quan sát. Xe chạy rất xóc vì đường bị bom pháo cầy lên, đất đá lổm chổm.
      Đó chính là đoàn xe kéo pháo cao xạ phòng không của Đại đội 4 D16, do trung úy Nguyễn Hoàng làm đại đội trưởng. Đoàn xe xuất phát từ trong khu Đắc Tô vừa được giải phóng, hướng thẳng về phía Thị xã Kon Tum. Mặc dù hành quân vào ban đêm nhưng dọc đường đi cũng phải dừng tránh nhiều lần, vì gặp máy bay trinh sát OV10 của địch. Chúng như những con cú vọ lượn trên bầu trời, bay rà sát rất thấp soi mói từng hốc cây, quãng đường… Nếu trong trận chiến thi những máy bay bay thấp như thế này, đã là miếng mồi ngon cho các khẩu pháo cao xạ - nhưng đây là hành quân vào trận đánh, phải tuyệt đối giữ bí mật. Khi phát hiện máy bay trinh sát từ xa, tất cả lái xe phải tắt hết đèn.
      Thành xe không có mui, pháo và xe đều được phủ kín bằng những cành lá ngụy trang. Mưa tấp lên người họ, phả vào những chiếc áo mưa tạo nên một thứ âm thanh đều đều, kêu lộp… bộp…
      Khí thế của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh vừa qua đang lôi cuốn họ. Không khí háo hức lan truyền khắp đoàn quân. Họ muốn băng thật nhanh để tiến vào trận đánh Kon Tum.
      Các trung đoàn bộ binh như Trung đoàn 48 F320 đều phải chia ra từng đại đội, hoặc tiểu đoàn đi cách nhau, để tránh pháo kích và máy bay địch. Tất cả đều đi về phía Thị xã Kon Tum nhưng tránh đường quốc lộ, phải cắt tọa độ mà xuyên rừng, vượt núi. Ngay cả tiểu đoàn chiến xa thiết giáp tăng T-54 hay PT-76, chỗ nào cần phải vượt qua Quốc lộ 14 mới đi, còn đều phải cho công binh dọn đường rừng mà xuyên đến.
      Đại đội pháo cao xạ của Đại trưởng Nguyễn Hoàng, cũng như trung đoàn pháo mặt đất E40 hoặc Tiểu đoàn pháo 675, thường phải tận dụng nhiều đoạn đường quốc lộ, các con đường rừng xe pháo rất khó vượt qua. Chủ yếu hành quân bí mật vào ban đêm và quan sát rất kỹ lưỡng, đề phòng máy bay, thậm chí cả biệt kích của địch phát hiện.
      Đại trưởng Hoàng ngồi với anh em pháo thủ trên thùng xe trong tốp xe pháo đi đầu của đại đội. Những khẩu pháo cao xạ 37ly được kéo bằng rơ-moóc kêu lúc lắc ở phía sau. Người chính trị viên đại đội thì ngồi trên chiếc xe đi cuối cùng.
      Đã vào trung tuần tháng 5, đây cũng là giai đoạn cao điểm của cuộc Tổng công kích xuân hè 1972, trên chiến trường Bắc Tây Nguyên. Đánh vào Thị xã Kon Tum, chính là quyết chiến điểm cuối cùng của chiến dịch.
      Đêm nay trời tối lại không thấy máy bay trinh sát địch rà lượn, Đại trưởng Hoàng lệnh cho đại đội tranh thủ vượt nhanh đến vị trí tập kết của trận đánh. Anh đăm đăm nhìn về phía trước. Mưa táp lên mặt, thành từng dòng chảy xuống cổ áo ướt đẫm. Anh đưa tay lên vuốt những giọt mưa trên mắt mình. Đôi lúc chiếc xe sa xuống một “ổ gà” lớn, nghiêng hẳn về một phía. Nó rú ga chồm lên, các chiến sĩ ngồi trên xe bị giật kéo người về phía sau. Họ vội đưa tay nắm lấy thành xe. Chiếc xe lại tiếp tục đều đều lăn bánh, kéo những khẩu pháo đằng sau nó… nhằm hướng thị xã băng tới.
      Những người lính bước vào trận đánh, tâm trạng của họ đã trở nên thường tình như những công nhân viên chức đi làm nơi công sở. Ở ngoài chiến trường và trong cuộc chiến đẫm máu này, ngay cả cái chết đến với họ cũng thật đơn giản. Thậm chí họ cũng không tin rằng mình sẽ còn sống để trở về - Cái sống chỉ là may rủi, do sự phán quyết của thượng đế? “cái chết” đến đơn giản đến mức, như thể đó là một hình tượng tất yếu trong nhịp điệu ầm… ì… của chiến tranh. Đơn giản như cuộc đời một người lính chiến không lạc thú, không cả tham vọng về cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vẫn đang tồn tại để chiến đấu.
      Bởi thế trong tình cảm những người lính, kỷ niệm xưa là thiêng liêng! Quê hương là thiêng liêng! Họ sống bằng quá khứ - Tình yêu, gia đình luôn trở về với họ, nhất là những giây phút trên đường ra trận.
      Cũng như những người lính khác, hành quân trong đêm vào trận đánh quyết tử này: bao ý nghĩ, kỉ niệm lại dồn dập dâng lên trong đầu óc của người đại trưởng trẻ tuổi – Trung úy Nguyên Hoàng.
      Trong khoảng xa nào đó ở phía trước, trong khu rừng vắng kia, giữa cơn mưa tầm tã – Hình ảnh người con gái bản Mường lại hiện lên và cắn rứt trái tim anh! Như anh đang nhìn thấy cô trước mặt…
      Cô đang mặc bộ quần áo màu xanh lá cây của một nữ chiến binh, lẫn vào trong rừng lá và màu đen của đêm. Cô gái không mặc áo mưa, không mũ nón, mái tóc rối xõa xuống che lấy khuôn mặt. Cô chạy như lao đi, chới với… Cây rừng móc vào áo cô, gai cào lên da mặt, lấm thấm máu. Nhưng mặc, cô cứ chạy… không một tiếng kêu rên. Chỉ có tiếng gào thét của rừng núi, của mưa gió – Cô gái đó là Mỵ!
      Ít hôm trước, khi Đắc Tô – Tân Cảnh mới được giải phóng đôi ba ngày. Mỵ cùng với cô Sa người Huế, đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái… nhưng có hơi gầy và cũng chững chạc hơn, so với hồi anh đã gặp em trên bản Mường Hòa Bình.
      Mùa xuân năm ấy – Đúng là “người năm ấy”! Nếu như không có Thu? Một ý nghĩ chợt vụt thoáng trong đầu Hoàng: Người con gái bản đó rất có thể sẽ là người trong mộng của anh? Ôi, nhưng thôi… chiến tranh! Hoàng vội xua đuổi ý nghĩ vụt qua ấy của mình đi.
      Hôm em cùng với Sa đến gặp anh là vào một buổi sáng. Lúc đó, anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ ngỡ mình đang mơ… Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, mà anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim! Cũng không thể phủ nhận rằng: gặp lại em trên chiến trường máu lửa này, trong anh cũng đã dấy lên bao rung cảm? Nhất là cuộc sống của người lính, bao năm tháng chỉ có cay cực và bom đạn. Một cuộc đời không đàn bà – Kể cho nhau nghe về những kỉ niệm của tình yêu gái trai, cứ như là chuyện cổ tích. Nay giữa chiến trường lại có sự xuất hiện của hai người con gái? Không phải chỉ có Hoàng, mà làm cho cả đơn vị xôn xao. May mà những ngày đó, đơn vị trong thời gian nghỉ ngơi, củng cố nên cũng thanh thản.
      Anh và Mỵ vẫn có thể tìm được một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít, chuyện trò… cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về.
      Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư từ hay thất lạc? mà hồi đầu chia tay với cô vào chiến trường Tây Nguyên, anh cũng có viết thật, đôi lần… Mỵ giận thì nói vậy thôi, nay gặp được anh lòng cô vui lắm. Anh thấy cô hạnh phúc thật sự!
      Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy. Bao lần anh định nói thật cho cô nghe, quan hệ tình yêu của anh đã có với Thu? để cô hiểu anh không muốn lừa dối cô… Nhưng rồi anh lại không thể nói được: Phần vì thấy mình không nỡ nói – Người con gái ấy đã ra tận chiến trường để tìm anh? Phần nữa, vì niềm vui sướng đang đến với cả hai người… Giờ anh đang ôm em trong vòng tay, đang hôn em đây! Những giây phút hạnh phúc quí giá của cả anh và cô – Rất có thể trong cuộc chiến tranh này, anh sẽ không trở về? có thể lắm! Như Đại trưởng Quảng vài bữa trước, nay đã thành người thiên cổ. Trận chiến ở Thị xã Kon Tum, chắc sẽ còn ác liệt hơn mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh. Biết đâu?  chẳng ai có thể quyết định được số mệnh của mình trong chiến tranh. Nghĩ tới lúc có thể anh sẽ phải vĩnh biệt Mỵ, vĩnh biệt Thu và tất cả quê hương… Hoàng nhớ đến bốn câu thơ “trút linh hồn”, những câu thơ trăng trối cuối cùng của thi nhân Hàn Mặc Tử:
                         Ta trút linh hồn giữa lúc đây
                         Gió sầu vô hạn nuối trong cây
                         Còn em sao chẳng hay chi cả
                         Xin để tang anh đến vạn ngày.
      Nghe anh lẩm nhẩm đọc gì đó trong miệng không rõ tiếng, Mỵ quay lên hỏi:
-  Anh lẩm nhẩm gì thế?
      Hoàng vội xoa xít đi. Anh ôm riết Mỵ vào lòng, như thể nếu rời ra… sẽ không bao giờ còn gặp lại cô nữa?
      Không nên phê phán khe khắt quá với một người lính trận về tham vọng tình yêu? Mặc dù anh biết mình đã yêu Thu, và sẽ không bao giờ phản bội lại người con gái đầu tiên ấy! Nhưng với một tình yêu trong sáng, mãnh liệt như của Mỵ dành cho anh – Hoàng cũng khó có thể cưỡng được mình. Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng niềm sung sướng của những khoảnh khắc ân ái, đang dào dạt tâm hồn. Những giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà người con gái…
      Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để cả tấm thân trần truồng mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu. Cái khoảnh khắc tưởng như Hoàng không thể kìm lại được nữa. Mỵ có vẻ hơi hoảng hốt, ôm ghì lấy anh khẽ kêu rên:
-  Anh ơi!...
-  Em không muốn ư?
      Hoàng hỏi nhỏ, khi cả thân mình anh đã ghì xiết lên tấm thân nóng bỏng, mềm mại của người con gái. Người con gái đang quằn lên dưới thân thể anh. Cái của anh cứ day mãi lên của cô. Hai chân Mỵ đã giang rộng ra để đón của anh vào… Thân mình cô rạo rực và sung sướng. Giọng Mỵ run run:
-  Em muốn, nhưng em hơi lo? Chiến tranh mà anh…
      Cô vẫn rên khe khẽ:
-  Tùy anh. Em bắt đền anh đấy!
     Ánh mắt cô như muốn nói: “Ôi, anh thân yêu! Ước gì vẫn là những ngày như lần trước ở quê hương, thì em sẽ cho anh thỏa thích. Anh muốn làm gì cũng được…”.
      Hoàng nhìn Mỵ bảo:
-  Nhưng nếu em có chửa, người ta sẽ cười em chứ?
-  Ai cười, kệ người ta. Em không sợ!
      Thế là tất cả ý nghĩ cần phải nói với Mỵ về tình cảm của anh đã có với Thu, đều tan biến. Người con gái anh biết từ khi chưa gặp Mỵ và anh đã yêu… một tình yêu đầu đời. “Thôi, chiến tranh…” – Hoàng lại tự biện lý với chính mình.
      Nhưng bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng dậy: “Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa cô được nữa…” – Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã tới lúc anh phải nói thật với em tất cả.
      Mỵ hơi bàng hoàng, khi thấy anh có vẻ cương quyết rời khỏi cô? Cô đưa tay níu anh lại. Mỵ tưởng rằng vì cô nói thế nên anh thôi? Cô nhìn anh bằng đôi mắt yêu thương, tha thiết, dịu dàng bảo:
-  Anh! Em đồng ý cho anh mà… em yêu anh mà…
      Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thủa thiếu thời ấy!
      Hoàng nghĩ rằng, khi anh nói tất cả sự thật như thế thì Mỵ sẽ giận anh? Nhưng anh vẫn cương quyết nói. Nói được lòng anh thanh thản hơn, rồi Mỵ sẽ hiểu cho anh, rằng: anh đối với cô là chân thật. Anh không thể đùa bỡn với tình yêu mà cô đã dành cho anh!
      Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi… và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
-  Anh có yêu em không?
-  Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ, nhưng anh không thể…
      Hoàng bảo vậy, rồi ôm chặt lấy cô… tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh – Bởi vì, người con gái anh yêu đầu tiên mà anh gọi là “Thu” ấy!... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
      Mỵ bảo: cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là chị cả,  Mỵ làm vợ hai của anh cũng được, miễn là anh vẫn yêu cô – Cô còn nói, cô tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh…
      Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ… khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống. Anh phủ phục lên cô, mắt Mỵ mơ màng như người trong mộng. Cô đưa tay vuốt tóc anh và nói:
-  Em không giận anh đâu! Em vẫn cho anh đấy…  
   Hoàng như người chợt tỉnh, anh dừng lại nói với Mỵ:
-  Đây không phải như ở quê. Em bây giờ cũng ở trong quân ngũ: nhỡ có thai, đơn vị sẽ kỷ luật em? Hay là, ta để đến khi hết chiến tranh, anh trở về…  
      Mỵ lại lắc đầu.
-  Không, em không sợ…
      Cô nói với anh là... cô cũng muốn có con với anh. Rồi cô kể cho anh nghe: Trong Bộ tư lệnh mặt trận, bộ phận quân y của cô ở đó, cũng có một chị: Cả đơn vị đều biết chị có tình cảm với một anh, hai người rất thân thiết nhau. Rồi bỗng thời gian sau chị ấy có thai… Dấu mãi, nhưng đến lúc bụng to không thể dấu được nữa? Tổ chức gọi lên, chị ấy khai là… trong một lần đi lĩnh thuốc quân y tận trong kho của binh trạm, phải đi xa mấy ngày đường. Chị gặp một anh chiến sĩ đồng hương ở một bãi chốt nghỉ chân dọc đường giao liên, đó là một người quen cũ cùng quê đang trên đường hành quân vào chiến trường. Đêm đó, chị đã ăn nằm với anh ấy! Măc dù, anh chị em thì đều tin là chị đã có con với anh cùng đơn vị, nhưng chị ấy dấu… để anh khỏi liên lụy.
      Theo Mỵ nói, người nữ chiến sĩ ấy đã chấp nhận bị kỷ luật, khai trừ ra khỏi đoàn thanh niên cộng sản – vì gần đến ngày sinh, tổ chức để chị ấy sinh đẻ xong, con cứng cáp rồi sẽ trả cả hai mẹ con về quê ở miền Bắc. Mỵ bảo:
-  Bị tổ chức kỷ luật mà chị ấy chẳng buồn tý nào cả, anh ạ! Với lại… chị ấy yêu, chứ có phải là phản bội lại tổ quốc đâu – phải không anh?    
      Rồi cô nói:
-  Nếu có thai, em sẽ sinh con cho anh, em sẽ mang giọt máu của anh về quê và nuôi con. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
      Không thể cưỡng lại được nữa. Thôi, chỉ có thượng đế cùng anh và cô biết. Âm dương như một dòng điện mạnh, chúng đang truyền đi dữ dội. Hoàng quằn quại trên tấm thân người con gái. Mỵ run lên, thở gấp và rên khẽ:
-  Ôi, sướng quá anh ơi! Ối, anh ơi!
      Khi cường độ lên đến tột điểm, cái núm âm vật nóng hổi của người con gái như thể có thần, run lên bần bật ở dưới của anh. Những giây phút choáng ngợp tột cùng ấy, niềm khoái cảm vẫn còn mê man chạy trên khắp cả hai  thân thể anh và cô. Anh ghì lấy Mỵ… đang đờ đẫn như người trong cơn mơ ngủ. Mỵ giang cả hai tay và hai chân rộng ra giữa khu rừng vẫn còn rất nhiều những nhành cây bị gẫy đổ vì bom, pháo… Mặc, lúc này họ chỉ thấy mình hạnh phúc! Rồi hai người mặc quần áo và ngồi ôm nhau, để hưởng những giây phút sung sướng hiếm hoi trong cuộc chiến tranh này. 
      Tiếng gọi giật của người pháo thủ ngồi bên cùng với nhịp xóc của chiếc xe kéo pháo, gặp phải một hố ổ gà ở trên đường, kéo Hoàng ra khỏi ý nghĩ.
-  Đại trưởng ơi! Trông kìa, một vì sao đổi ngôi.  
      Người chiến sĩ chỉ tay về phía trời xa và nói. Hoàng ngước nhìn, ngôi sao nhỏ kéo theo một vệt sáng trắng về tít cuối chân trời.
      Trời đã tạnh từ lúc nào anh cũng không rõ. Đoàn xe đang nhịp tiến đều đều trong đêm, các chiến sĩ vẫn lặng lẽ ngồi trên xe, kéo theo những cỗ pháo cao xạ 37ly lúc lắc ở phía sau. Họ đang hành quân vào trận. Người thì gà gật ngủ để lấy thêm sức cho trận đánh tới, kẻ thì miên man ôn lại những kỷ niệm quê hương…
      Hoàng vẫn ngồi trầm tư. Trong đầu anh cứ hiện về những câu chuyện đã qua: Hôm đó Mỵ và Sa ở lại chơi với đơn vị của anh đến chiều tối mới về. Qua chuyện trò thì anh biết rằng, Mỵ vào chiến trường cũng đã được hơn một năm và vẫn hỏi dò tin tức để tìm anh, mà không gặp. Mỵ thuộc quân số đại đội quân y trên Ban hậu cần của Bộ tư lệnh B3. Đợt này Mỵ và Sa cũng theo Bộ tư lệnh vào mặt trận, tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh. Ngay từ trước chiến dịch, cô đã biết tin đơn vị anh đi phối thuộc với Trung đoàn 48, Sư 320. Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã giải phóng, có điều kiên được nghỉ ngơi ít ngày, cô cùng với Sa xin phép Bộ tư lệnh tìm đến đơn vị để thăm anh. Anh đã hẹn với Mỵ, khi nào hết chiến dịch về hậu cứ… thế nào cũng tìm để gặp lại nhau.
      “Ôi! Em thân yêu, hãy tha lỗi cho anh. Cuộc tình của anh và em rồi cũng chỉ là trong mơ thôi. Chiến tranh mà em…” – Hoàng trông lên bầu trời đã tạnh ráo, đăm chiêu nhìn ra xa. Anh lại nghĩ đến Thu! Người bạn gái đầu tiên và tình yêu của trái tim anh. Bất giác anh tự hỏi: Ừ, nếu anh còn sống trở về? Cũng có thể lắm chứ! Có phải tất cả đều chết hết đâu – Khi đó thì anh phải giải quyết chuyện giữa Mỵ và Thu thế nào?
      Hoàng nhớ đến một câu chuyện: cũng có người vào trường hợp đã yêu hai người con gái, cảnh ngộ như anh. Và rồi, họ chấp nhận giải quyết với nhau… lấy cả hai người con gái kia làm vợ. Nhưng liệu khi ấy, Thu của anh có chấp nhận như thế không? Cô có đồng ý để anh vừa lấy cô, lại vừa lấy cả Mỵ? Một cô gái Hà Nội khó chấp nhận như thế lắm!
      Nghĩ vậy, Hoàng bật cười thầm một mình trong đêm. “Thôi kệ! Chiến tranh mà…” – Anh lại tự xí xóa với mình. Hoàng cũng mới nhận được một lá thư của Thu trước chiến dịch này. Thu báo với anh, cô đã tốt nghiệp đại học và ra trường. Cô xin về làm phóng viên tòa soạn báo “Hà Nội mới”, công tác ngay ở Hà Nội. Trong thư, Thu nói giai đoạn này cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đã lan vào thủ đô dữ dội hơn trước nhiều. Gia đình Thu: ông bà Giáo đều đi sơ tán cả, chỉ còn Thu trong đội cảm tử của thành phố là ở lại, vừa công tác vừa sẵn sàng trực chiến đánh máy bay Mỹ. Tòa soạn báo cũng được trang bị súng máy cao xạ 12ly7 và đại liên. Họ đặt súng ở ngay trên nóc tầng thượng, thay nhau trực chiến tại đó.
      Ôi mối tình của anh! Thế là anh xa Thu và Hà Nội hơn năm năm rồi, thì trên bốn năm biền biệt trong chiến trường., trên mảnh đất bom đạn và máu lửa ở Tây Nguyên. Nơi rừng thiêng nước độc, kề bên cái chết và muỗi vắt,.. tưởng như đã trải qua đằng đẵng nửa kiếp người.
      Anh thấy mình có lỗi với Thu? khi anh quan hệ với Mỵ cũng bằng một tình cảm chân tình và thân thiết. Hơn thế, cả tấm thân của người con gái Mường cũng trao anh. Nếu Thu biết chuyện đó, thì em sẽ nghĩ sao? Em sẽ oán giận anh hay sẽ đau khổ? Nghĩ vậy, Hoàng trào lên một nỗi day dứt, cắn xé trong lòng.
      Mặc dù, thâm tâm Hoàng đã tự thanh minh với chính mình: Anh đâu có ý nghĩ phản bội Thu? Không, anh vẫn yêu em tha thiết! Anh chỉ còn mỗi một sự lý giải: chiến tranh mà…
      Thực tế, dù có biện luận theo kiểu gì… thì anh cũng đã yêu cả hai người con gái! Anh bào chữa thế nào đây?
      Ý nghĩ chợt vụt đến: Nếu thoát khỏi cuộc chiến tranh này, còn sống trở về. Khi ấy, Mỵ và Thu vẫn còn yêu và chờ đợi anh? Thì anh sẽ lấy cả hai người con gái đó làm vợ.
     “mình tham lam quá chăng?” – Điều này thì trong thâm tâm Hoàng không phủ nhận, cũng không biện hộ với lòng mình: “Đúng, mình là một kẻ tham lam thật!”. Cái ý nghĩ chợt đến… anh sẽ lấy cả Thu và Mỵ làm vợ? Thế là anh không phản bội lại ai! Ý nghĩ ấy như thể giải thoát cho tâm lý của Hoàng, anh thấy lòng mình thanh thoát lại.
      Ý nghĩ sẽ lấy cả hai người con gái làm vợ, làm Hoàng tự bật cười với mình trong đêm. Cậu chiến sĩ ngồi gấn anh, thấy thế liền hỏi:
-  Đại trưởng cười gì thế ạ?
-  À… à… đêm mát trời khoan khoái quá!
      Hoàng lúng túng thanh minh với người chiến sĩ trẻ. Đoàn xe chở những khẩu pháo cao xạ vẫn rầm rì… rầm rì… hướng về phía Thị xã Kon Tum, tiếp tục lăn bánh. Hoàng vẫn miên man nhớ về cuộc gặp gỡ Mỵ mới cách mấy hôm vừa rồi. Mỵ đã nói với anh:
-  Mai về làm vợ anh, em sẽ đẻ cho anh năm đứa liền.
     Nghe cô nói thế, Hoàng thích chí bảo:
-  Em phải đẻ thêm một đứa nữa, là sáu!
-  Sáu thì sáu, nếu anh muốn… em sẽ đẻ cho anh.
      Nói rồi, cô tủm tỉm cười và âu yếm nhìn anh. Mắt mơ màng nhìn lên khoảng trời Đắc Tô - Tân Cảnh. Cuộc chiến trận tàn khốc vừa qua dường như không làm cho cô sợ hãi nữa. Cô chỉ còn biết chan chứa trong tình yêu của cô, chỉ còn biết có anh thôi!
      Trận đánh tới này, khi C4 – đại đội pháo cao xạ của anh sẽ cùng với trung đoàn bộ binh E48, F320 đánh vào Thị xã Kon Tum – thì như Mỵ nói, bộ phận quân y của cô sẽ đi cùng Trung đoàn 52 đánh vào cứ điểm đèo Chư Pao.
      Người pháo thủ ngồi cạnh Hoàng lay mạnh vào vai anh, gọi giật:
-  Đại trưởng ơi, trông kìa… thôn ấp đấy! Xe của mình đang đi vào bản rồi.
       Đoàn xe pháo của họ đã rời con đường Quốc lộ 14, rẽ vào một con đường dân bản đã bỏ hoang. Theo kế hoạch hành quân, để tránh pháo kích và máy bay ném bom – Đoạn đường nào có thể đi xuyên trong rừng hoặc qua bản, thì đoàn xe rời đường quốc lộ.
      Người chiến sĩ lại hỏi:
-  Đây gọi là bản gì, hả đại trưởng?
-  Theo như chỉ dẫn của anh em trinh sát, thì đây là bản Võ Định.
      Hoàng bảo vậy. Sau cơn mưa, bầu trời đêm xanh mát và có vẻ yên tĩnh. Đoàn xe tiến vào con đường đất đỏ. Bên cạnh con đường bản có những khóm chuối, gần đó là các thửa ruộng với những luống khoai lang. Lá khoai xanh non bò kín khắp mặt ruộng. Những lũy tre, vườn cây ăn quả. Nghe tiếng của đoàn xe đi vào, mấy con chó hoang thi nhau sủa.
-  ÔI, làng quê. Làng quê Việt Nam ta đấy!
      Dấu tích một cuộc bắn phá của máy bay Mỹ như vừa mới xẩy ra ở đây. Những ngôi nhà sàn bị đổ sập, đồ đạc vương vãi. Những con chó vô chủ chạy rông, ngấp nghé bên bờ rào. Có cả tiếng gà kêu quang quác, bay tán loạn. Mùi thơm của những trái cây ở trong vườn bay ra…
      Không thấy bóng người dân nào? Chắc là họ đã được du kích lùa hết vào một khu vực nào đó trong rừng, nơi QGP mới chiếm được. Tạm gọi là “vùng tự do”, để đưa dân chúng đến ở. Hoàng lại nhớ tới cảnh sống của dân tình, khi bộ đội di dân vào những khu rừng đã giải phóng…
      Đó là những ngày cuối tháng 4.1972, lúc Tân Cảnh – Đắc Tô vừa mới chiếm được. Thị trấn, quận lỵ thì bị bom đạn, xe tăng quần nát, xác lính và dân thưởng chết la liệt. “bỏ của chạy lấy người” – dân xô đẩy, cuốn gói tìm nơi trú ẩn. Cả người Kinh và người Thượng chạy bộ ra phía đường Quốc lộ 14, bị QGP địa phương chặn lại lùa hết vào rừng.
      Cũng khoảng năm, sáu ngàn người. Họ bị giữ lại trong một vùng mới giải phóng. Không ai được ở lại Thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh. Mấy hôm đầu thì ngày ngày, mỗi người được chia cho một vắt cơm. Sau đó quân du kích địa phương đi tìm các ruộng lúa, hay các bãi khoai sắn bỏ hoang. Đến đêm, họ dắt dân chúng đến mót lúa, nhổ mì, nhặt khoai… gọi là chiến lợi phẩm, mang về mà ăn. Cây mì thì cầm cả gốc kéo lên. Khoai, sắn rửa đi rồi xắt nhỏ ra, phơi khô nấu ăn dần. Nếu gặp ruộng lúa thì cho tuốt lúa. Thực ra, cũng chỉ là lúa đi mót mà thôi. Người nào tuốt được hơn một kí thóc mỗi lần là tốt lắm rồi! Thóc họ rang khô rồi giã bằng cùi, tức là cối giã… để tách vỏ trấu ra làm thành hột gạo. Sau đấy, dùng nắp vung nồi rang gạo cho khô, cất nấu ăn dè.
      Thường thì rẫy khoai, rấy sắn nhiều hơn ruộng lúa. Ngày nào cũng ăn khoai, mì nên dân chúng chế biến đủ thứ: nào là khoai, mì luộc, canh khoai, khoai nướng v. v.
      Khu rừng mà QGP dồn dân vào, ở gần một buôn của người Thượng. Chính quyền cho họ tới nhặt những đồ dùng, xoong nồi của người Thượng về dùng. Số người thì đông, số nương rẫy hoang gần đó chẳng được là bao. Thiếu lương thực, dân chúng phải hái đủ các thứ rau thập cẩm ở rừng… miễn là ăn được để sống như rau tàu bay, rau sam, nấm rừng, măng tre rừng, rau dớn rừng mọc dọc theo các bờ suối, rồi cây môn thục ngứa móc họng... lấy ngâm vào nước gạo làm dưa chua.
      Gạo và thực phẩm cung cấp cho bộ đội giải phóng còn thiếu, làm gì có phát cho dân. Dân chúng bắt được con gì thì ăn con đó: cả chuột, rắn, ễnh ương… ăn tuốt. Nhất là gia vị muối biển thì thiếu trầm trọng, kể cả QGP. Thỉnh thoảng cũng chuyển được một chuyến muối theo đường Lào về, bớt ra phát cho dân: 1/3 thìa cà phê một người, phải dùng cầm chừng ăn dần.
      Chốn rừng thiêng nước độc, đầy các con muỗi, con mòng và vắt cắn. Sốt rét không đủ thuốc men chữ trị, lại thiếu ăn… gây nên đủ thứ bệnh dịch. Tội nhất là những đứa con nít sơ sinh: mẹ thiếu sữa cho con bú, thiếu dinh dưỡng, ăn ở thiếu vệ sinh, bị sốt rét rừng… chết rất nhiều. Có gia đình 3-4 đứa con nhỏ đều chết ráo. Tình cảnh thật thương tâm.
      Nhưng rồi… ai chết thì ráng mà chịu. Đến những người lính chiến với nhau, chết cũng chẳng còn nước mắt mà khóc. Chiến tranh mà… Tình cảnh dân chúng lại càng tàn khốc, chẳng tìm đâu ra lòng nhân ái để thương hại lẫn nhau.
      Mà dồn dân, đâu có phải họ được ở yên một chỗ? Tránh bom, tránh pháo phải đưa họ vào tít rừng sâu. Nay rừng này, mai rừng kia. Dân cũng màn trời, chiếu đất. Làm gì có lều, chòi hay nhà sàn để ở. Nước uống, nấu nướng hay tắm giặt đều bằng nước suối. Có khi đột ngột phải di chuyển trong một ngày cũng là chuyện thường tình. Thường là phải di chuyển vào ban đêm, để tránh phi pháo, máy bay của không lực Hoa Kỳ hay QLVNCH oanh tạc.
      Khi đưa dân đi, mỗi lần nghe tiếng máy bay là bộ đội địa phương hoặc  du kích la toáng lên: “Máy bay đấy! Chạy lẹ lên… máy bay địch nó đến bỏ bom , bắn phá đấy!”. Tình cảnh ấy, có khi có người dân đang nấu nướng - mấy ông du kích nhà mình liền hắt nước vào đống lửa, bắt bỏ hết để đi.
      Quần áo, có người lúc chạy còn mang được vài bộ đồ để thay, có người cuống quýt chỉ mặc độc một bộ trên người: có khi gai cào, vượt rừng… rách tả tơi, vá chùm mảnh nọ vào mảnh kia mà mặc. May mà xin được ai cho, thì mặc đại để che thân. Đi tắm ở suối, phải vắt quần áo lên bụi cây cho khô, tắm cởi chuồng… xong lấy quần áo mặc lại.
      Nhưng đàn ông hay con trai với nhau đã đành, còn dễ dàng. Tội nhất là số đàn bà, con gái đi tắm suối – Họ phải rủ nhau tìm một chỗ suối khuất, rồi canh chừng cho nhau tắm gội, giặt giũ. Không có xà bông để tắm, giặt… người dân họ kiếm đâu được một ít trái bồ hòn, vò vào nước thay cho xà phòng.
      Đấy! Cuộc sống của những người dân ở vùng Đắc Tô – Tân Cảnh sau khi được giải phóng 1972, là như vậy – Thực tế như những thước phim quay lại trong đầu anh.
      Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn lóc xóc rời khỏi khu bản hoang vắng chạy vào một mé rừng, đã được tiểu đoàn công binh phát sẵn làm thành đường dẫn vào chiến dịch. Người chiến sĩ trinh sát báo cáo với Đại trưởng Hoàng, sắp tới vị trí của đại đội tập kết.
      Trời cũng gần sáng. Họ đã nghe thấy tiếng súng lác đác nổ về hướng Thị xã Kon Tum.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.06.2018 12:40:36 bởi Nhân văn >
Nhân văn 08.06.2018 12:32:09 (permalink)
 
 
                                                     32-
 
      Sau khi QLVNCH bị thất bại thảm hại trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh cùng một các cụm cứ điểm khác, như Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… Chúng biết là QGP sẽ tiếp tục đánh vào Thị xã Kon Tum. Một mặt VNCH tăng cường thăm dò, cho phi phóa liên tục đánh phá Quốc lộ 14 và các trục đường QGP có thể hành binh hoặc vận chuyển về hướng Kon Tum. Cho cả máy bay ném xuống các buôn làng mà chúng cho rằng: Đó là điểm hội tụ của quân mặt trận B3.
      Trên vùng trời phía Bắc Tây Nguyên bao bọc quanh thị xã – cứ sáng ra là những chiếc máy bay trinh sát OV10. L19 vòng đi, vòng lại. Chúng rà dọc theo đường quốc lộ, ngó xuống các cánh rừng, các buôn làng… tìm dấu vết khả nghi của QGP, để gọi phi pháo bắn phá hoặc máy bay phản lực tới ném bom. Có khi cho cả “pháo đài bay” B52 rải thảm. Thấy bóng người, bóng xe cộ là chúng gọi trực thăng dùng đại liên, bắn rốc két xối xả, hoặc chỉ điểm cho phi pháo các nơi bắn đến tới tấp.
      Lược lại đôi nét hoàn cảnh trước khi chiến sự xuân hè 1972 xẩy ra – Lúc đó, theo như kế hoạch phòng thủ tác chiến của cấc tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam cùng Ban tham mưu QLVNCH: Bố trí tại phòng tuyến Đắc Tô – Tân Cảnh gồm 3 trung đoàn của Sư 22: khoảng 10 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh, 10 chi đoàn chiến xa sẵn sàng giao chiến với Sư 320. Ngoài ra QLVNCH còn cho Liên đoàn 22 biệt động quân phòng thủ tuyến ngoài, để đối kháng với Sư 2 (E1 – 141) của QGP. Bộ tham mưu QLVNCH tăng cường thêm 2 lữ đoàn nhảy dù làm trù bị tại Kon Tum, ứng cứu Đắc Tô – Tân Cảnh khi cần thiết.
      Nay toàn bộ Tân Cảnh – Đắc Tô và một số cụm cứ điểm Bắc Kon Tum cùng phía tây sông Pô Kô đã về tay QGP – QLVNCH rút toàn bộ số còn lại về giữ Kon Tum. Kế hoạch phòng thủ Kon Tum bây giờ, chủ yếu giao cho Sư 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng – đảm trách ba mặt chủ yếu là đông, tây và bắc thị xã. Hướng nam Kom Tum có con sông Dakbla là chướng ngại vật, nên họ giao cho lính địa phương đảm nhận.
      Tuyến phòng thủ phía bắc Kon Tum do Sư 23 làm nòng cốt, bố trí thành nhiều trận địa nhỏ. Ngoài ra QLVNCH còn lấy Trung đoàn 53, Tiểu đoàn dù 7 hỗ trợ phòng thủ. Dựa vào công sự vững chắc, liên kết chặt chẽ với nhau bằng cả xung lực và hỏa lực. Có thể cơ động, vừa tránh pháo kích của QGP vừa đột kích phản công dễ dàng. Đồng thời tăng cường các hoạt động pháo binh, không quân, đặc biệt dùng B52 ném bom rải thảm. Khi chúng mất Đắc Tô – Tân Cảnh và một cụm cứ điểm ở Bắc Tây Nguyên, thì coi như tuyến phòng thủ kiên cố nhất vào Thị xã Kon Tum không còn nữa. QLVNCH điều thêm hai trung đoàn bộ binh từ Buôn Ma Thuột lên hỗ trợ phòng thủ Kon Tum.
      Về phía QLVNCH – Đại tá Lý Tòng Bá, Sư trưởng Sư 23 được chỉ định làm Tư lệnh trưởng mặt trận Kon Tum. Đáng lẽ chỉ huy toàn mặt trận Kon Tum do Tướng Ngô Du đảm nhiệm, nhưng bất ngờ Tướng Ngô Du ngã bệnh nặng – Tại Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế.
      Về phía Hoa Kỳ - Chỉ huy chiến dịch Kon Tum do hai cố vẫn: Paul Vann và Đại tá Rhotenberry (Rhotenberry đã từng làm cố vấn cho Đại tá Lý Tòng Bá trên mặt trận Bình Dương). Paul Vann đã nói với Rhotenberry: “Ông và tôi phải hết sức yểm trợ cho Đại tá Bá, vì tôi đã hứa với Đại tướng Abrams là không để mất Kon Tum. Nếu mất Kon Tum thì Kissinger, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại hòa đàm Paris sẽ gặp nhiều khó khăn”.
      Do Quốc lộ 14 bị QGP khống chế, VNCH phải mở thêm quốc lộ phụ gọi là Quốc lộ 14bis quanh đèo Chư Pao, để điều thêm nhiều chiến xa vào Kon Tum. Mỹ bổ xung thêm cho QLVNCH một loại hỏa tiễn mới, gọi là súng M-72 Law để tiêu diệt xe tăng T-54 của QGP. Tướng Nguyễn Văn Toàn còn tăng cường cho Đại tá Lý Tòng Bá – Tư lệnh Sư đoàn trưởng Sư 23 thêm 1  trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn biệt động quân, trên 20 chiếc chiến xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu và thuốc men từ Sài Gòn đem lên.
      Nói về các cuộc chiến lẻ tẻ mà QGP đánh vào các tuyến phòng thủ ngoài, trước khi chính thức đánh Thị xã Kon Tum:
-  Từ ngày 26/4 đến 10.5.1972, đánh và chiếm căn cứ Võ Định – tiền đồn phía bắc Kon Tum.
-  Ở căn cứ Biển Hồ: Trung đoàn 28 độc lập Mặt trận B3 đánh thiệt hại nặng Liên đoàn biệt động QLVNCH, hình thành thế vây ép Thị xã Kon Tum ở hướng đông bắc.
-  Một trung đoàn 95 độc lập khác chốt chặn Quốc lộ 14 ở Chư Thoi, đánh tan 4 đại đội bộ binh QLVNCH.
-  Trung đoàn 52, F320 đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH.
      Trung đoàn pháo 54 của QGP vẫn liên tục bắn phá thị xã bằng pháo 130ly, 122ly và hỏa tiễn H12 – tuy nhiên QGP không chặn được các trung đoàn 44, 45 và 53 Sư đoàn 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng vẫn hành quân vào Thị Xã Kon Tum, để xây dựng tuyến phòng thủ.
      Trung đoàn 66 của Mặt trận B3 do chủ quan khinh địch, hợp đồng lỏng lẻo, báo cáo sai tình hình, cán bộ không sâu sát… bị thiệt hại nặng phải rút về củng cố.
      Ngày 13.5.1972, mạng lưới điện đài do thám của Mỹ gọi là SIGINT bắt được một bức mật lệnh của Bộ tư lệnh B3, đã ra lệnh như sau:
      “Mũi tấn công hướng Bắc Sư đoàn 2 – stop – Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T-54 – stop – Ngày giờ tấn công 05 giờ ngày 14/5/72 stop”.
      Thực tế là đúng qua đêm ngày 13.5.1972, kém 5 phút đến 05 giờ sáng ngày 14.5.1972 – QGP chính thức mở màn tấn công vào Thị xã Kon Tum.
      Do bắt được mật lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận B3, Tướng Nguyễn Văn Toàn một mặt khẩn cấp bố trí lại lực lượng phòng thủ Kon Tum rất chặt chẽ để đón đánh QGP, đồng thời lệnh cho các đơn vị QLVNCH không được ra khỏi hầm khi đối phương mở màn nổ súng, để B52 Mỹ rải thảm vào đội hình QGP trước.
       Còn các cố vấn Mỹ, sau khi bắt được mật lệnh B3 về kế hoạch trận đánh – Tại hầm Chỉ huy sở Sư 23 của Đại tá Lý Tòng Bá, Paul Vann thảo luận kế hoạch chặn đánh với bộ chỉ huy QLVNCH, đồng thời điện đàm với Đại tướng Abrams khi ấy ở Sài Gòn, rằng: cho ông sử dụng tối đa lực lượng B52? được Tướng Abrams chấp thuận.
      Vào lúc 5 giờ sáng, sau những đợt pháo kích dồn dập dọn đường của QGP xuống Thị Xã Kon Tum, 5 trung đoàn bộ binh ồ ạt tấn công vào thành phố.
      Từ hướng tây bắc, 3 trung đoàn 48,52 và 64 của F320 tấn công Trung đoàn 44, 45 Sư 23 QLVNCH.
      Từ hướng bắc, Trung đoàn 1 của Sư 2 và E28 – trung đoàn độc lập B3 tấn công Trung đoàn 53 Sư 23 QLVNCH.
      Trung đoàn 141 Sư 2 của QGP từ phía nam tiến lên bắc thị xã đánh vào các tuyến địa phương quân và tiểu khu Kon Tum.
      Sau khi QGP mở màn tấn công Thị xã Kon Tum – cũng đúng lúc 5 giờ sáng ngày 14.5.1972, lập tức trực thăng của Tướng John Hill, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau đó là trực thăng của Tướng Nguyễn Văn Toàn bay vào thị sát Kon Tum trong sương mù.
      Paul Vann lệnh cho phi hành đoàn đến rải thảm B52. Diện tích rải thảm 75km2 thả vào đội hình chủ lực của QGP 25 box B52 (mỗi box là 3 chiếc B52 chứa trên 100 quả bom đủ loại). Tức là Mỹ đã cho 75 lần chiếc B52 với hơn 3.000 quả bom, đồng loạt đánh đòn phủ đầu vào đội hình Sư 320 (gồm 3 E 48-52-64) và Sư 2 (E 1-141) cùng các trung đoàn độc lập khác của Mặt trận B3 trong cuộc chiến.
      Tiếng bom nổ long trời, lở núi. Khói đạn và đất đá bay mù mịt. Tiếp theo là từng đoàn phản lực AD6, A37 ném bom đánh vào xe tăng, những trận địa pháo cao xạ và các mục tiêu. Sau đó còn cho loại trực thăng vũ trang tân tiến nhất, loại Cobra bắn tập hậu, như săn thú… vào trong đội hình các binh đoàn chủ lực QGP.
      Các cuộc tấn công đợt 1 của Mặt trận B3 nhanh chóng bị địch bẻ gẫy. Các chiến xa dẫn đầu nhiều chiếc bị bắn cháy. Xe tăng T-54 và các ổ pháo cao xạ phòng không vì bị áp lực quá lớn của bom, bộ đội phải lui về phía sau… lại bị trực thăng bọc hậu quấy phá.
      Tai tuyến đầu, 9 chiến xa T-54 của QGP nằm ngoài khu vực ném bom B52 tiếp tục tiến công, nhưng bị phản lực và chiến xa địch bắn cháy 6 chiếc, 3 chiếc khác đành lùi lại không thể tiến lên được.
      Sư 320 và Sư 2 cùng các trung đoàn liên minh của QGP phải rút lui, tạm ngừng kế hoạch tiến công. Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chỉ huy Mặt trận B3 lệnh cho các đơn vị không được dùng điện đài nữa (vì bị lộ địch dò được), chuyển sang dùng điện thoại hữu tuyến và liên lạc viên chạy bộ.
      Một giờ sau Tướng Nguyễn Văn Toàn và Paul Vann lại bay vào vùng B52 vừa ném bom để thị sát. Họ thấy bộ đội chết rất nhiều quanh các hố bom, không thể đếm hết. Một số bị thương đang lảo đảo… Paul Vann cho trực thăng hạ độ cao, dùng M16 bắn giết tiếp. Suốt ngày 14/5 đó, không lực VNCH và không lực Huê Kỳ tiếp tục oanh tạc, thanh toán các đám QGP.
      Đợt tấn công lần 1 không thành – Ban tham mưu Mặt trận B3 phải điều chỉnh lại kế hoạch đánh Kon Tum, và vội lệnh cho các đơn vị chủ lực rút quân… để chuẩn bị tiến đánh đợt 2.
      Theo con số ước tính của Hoa Kỳ - Đợt 1: QGP hy sinh 1.000 người, 20 chiến xa T-54 bị bắn cháy.
      TẤN CÔNG ĐỢT 2:
      Đêm 20 rạng ngày 21.5.1972, QGP mở cuộc tấn công đợt hai vào Thị Xã Kon Tum.
-  Hai Trung đoàn 1-141 của Sư 2 B3 cùng với đại đội đặc công 209 vượt sông Dakbla đánh vào sân bay, khu cơ giới và Dinh tỉnh trưởng Kon Tum. Tỉnh trưởng Kon Tum là Đại tá Nguyễn Bá Long phải chạy sang trú ở Ban chỉ huy Sư 23, chỗ của Đại tá Lý Tòng Bá.
-  Hai Trung đoàn 48-64 của Sư 320, có một đại đội xe tăng T-54 yểm trợ đánh chọc thủng tuyến giữa Trung đoàn 45-53 Sư 23 QLVNCH. Đại tá Lý Tòng Bá điều động chi đoàn thiết giáp M-41 ra chặn đánh quyết liệt, với sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ gồm các loại phản lực F4h, F101 và B52 rải thảm.
      Hai đại đội đặc công B3 đã lợi dụng nhiều sương mù, lội qua sông và chiếm phi trường, kho đạn và tòa giám mục.
      QGP coi như đã chiếm được gần nửa thị xã. Tại khu nghĩa địa thành phố do một đại đội đặc công B3 chiếm giữ và cố thủ, chỉ cách hầm chỉ huy của Lý Tòng Bá khoảng 300 mét. Sư 23 QLVNCH cho 1 đại đội trinh sát tinh nhuệ, có nhiều chiến xa hộ tống ra đánh nhưng không được, 2 chiến xa bị cháy, phải rút chạy.
      Ngày 21.5.1972, Tướng Nguyễn Văn Toàn đi máy bay đến thị sát Kon Tum lệnh cho Đại tá Lý Tòng Bá phải thanh toán các lực lượng đặc công.
      Ngày 23.5.1972, QLVNCH điều 2 liên đoàn biệt động (2 và 6), 1 tiểu đoàn biệt động biên phòng, 1 chi đoàn thiết giáp có pháo binh và không quân yểm trợ… mở cuộc hành binh “Bắc Bình Vương 72” đánh ra phía nam Kon Tum, nhưng bị đánh chặn, không thông ra được Quốc lộ 14. Quân VNCH bị chết và thương vong 1.000 binh sĩ, trong đó có phó tư lệnh Sư 23 Tạ Đình Liên và chi đoàn trưởng chi đoàn thiết giáp Diêm Phú Hưng. QLVNCH bị đánh hỏng 62 xe thiết giáp ( 2 xe M-48, 11 xe M-113 còn lại là M-41), 4 pháo 105mm, rơi 2 máy bay AD6 – 2 A37 – 1 F4h và 3 trực thăng vũ trang.
      Ngày 25/5, QGP mở nỗ lực cuối cùng tấn công để chiếm thị xã - Lúc nửa đêm pháo kích quyết liệt khu phi trường sân bay quân sự; 2 tiểu đoàn đặc công cùng Sư 2 xâm nhập mặt đông nam; Sư 320 phối hợp pháo binh, xe tăng từ phía bắc và đông bắc đánh sâu vào trong. QGP tàn phá Kon Tum, dùng cả pháo 105 - 155mm lấy được từ Tân Cảnh – Đắc Tô với xe tăng yểm trợ tiến đánh dữ dội thành phố: chiếm 1 trường học, 1 viện công giáo và Tòa giám mục Kon Tum. Quân chủ lực Việt Cộng pháo kích mạnh làm pháo địch tê liệt, không bắn trả được.
      Ngày 26/5, E64 F320 QGP tăng lực thêm pháo và xe tăng mở cuộc tấn công Trung đoàn 53 của Sư 23 QLVNCH.
      Ở mũi phía nam – Sư 968 B3 tuy mới tham gia lần đầu chưa bị tổn thất, còn mạnh, nhưng lại gặp ngãng trở là con sông Dakbla, bị quân địa phương của VNCH ngăn chặn không tiến nhanh được.
      Địch hoảng hốt yêu cầu không lực Hoa Kỳ, pháo binh và chiến xa chi viện.
      Trong ngày 25.5.1972, không lực Mỹ đã dùng tối đa 30 box B52 với trên 3.000 quả bom đánh vào đội hình các sư đoàn của B3 – Sư 320 tuy đã vào được trong thị xã nhưng tổn thất nặng, tiếp đến lại bị các máy bay cường kích như F4h, F101 và các loại A37, Dragonfly, VH-1, Ỉrquois ném bom, bắn chặn… thương vong rất nhiều.
      Sư 23 QLVNCH phản kích chiếm lại được sân bay, khu cơ giới. 1 đại đội quân báo của Sư 23 tấn công Đại đội 209 đặc công QGP ở khu nghĩa địa, nhưng thất bại. Thiệt mất 5 xe tăng. Chỉ huy sở của Sư 23 phải rời về nam thị xã.
      Paul Vann sử dụng cả không quân cất cánh từ phía Thái Lan đến trợ chiến, sau đó dùng B52 rải thảm vào các đội hình chiến xa, Sư 2 và Sư 968 QGP ở phía nam. Hai bên quần thảo ác liệt.  Qua một tuần lễ mà bộ đội vẫn không chiếm được thị xã. QGP tuy đã đánh thắng một số khu vực nhưng không phát triển được, vì bị tổn thất quá nhiều. Sư 320 và Sư 2 đã mở tiếp tấn công nhiều đợt, song đều bị đẩy lui.
      Tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ huy chiến dịch điều động thêm lực lượng từ Pleiku lên, khai thông Quốc lộ 14 và hỗ trợ Kon Tum. Tinh thần binh sĩ QLVNCH nhờ thế được trấn an, phản công lại QGP quyết liệt. Chúng dùng nhiều máy bay phản lực ném bom oanh tạc, B52 rải thảm, cả những trực thăng khổng lồ như loại Chinook tiếp tế và tải thương tại sân bay thị xã.
      Ngày 30.5.1972, hầu hết những vị trí QGP đã chiếm, địch lấy lại được.
      Trưa 31/5, chủ lực QGP buộc phải rút lui. Xét thấy không còn khả năng đánh chiếm thị xã nữa: do quân số bị thương vong lớn, gạo thiếu, đạn dược không đủ - Bộ tư lệnh B3 tung nốt Trung đoàn 66, là lực lượng dự bị cuối cùng để yểm hộ cho các trung đoàn đã vào trong thị xã rút ra ngoài.
      Sau khi mặt trận Kon Tum kết thúc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay lên thị xã để vinh danh tinh thần chiến đấu của QLVNCH, và thăng cấp Đại tá Lý Tòng Bá lên chuẩn tướng.
      Theo lời của Tướng Lý Tòng Bá nói:
      “Quân giải phóng để lại 3.000 xác chết, mấy chục chiến xa bị bắn hạ và cộng quân đã thất bại thảm hại.”. Cũng theo lời Tướng Bá: “Cộng sản Bắc Việt bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để chiếm Kon Tum, khi họ đã chiếm được Đắc Tô – Tân Cảnh. Họ không đánh Kon Tum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công, khi mà Sư đoàn 23 QLVNCH đã bố trí xong phòng thủ trong và ngoài thị xã.”.
      Thực tế thì, tuy QGP đại thắng ở mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh, nhưng bị tổn thất cũng rất nặng nề. Sư 320 và cả Sư 2 phải dừng lại để củng cố và bổ xung quân lực. Các chiến xa T-54 bị tiêu hao không ít tại phi trường Đắc Tô hoặc bị không quân Mỹ bắn hỏng. Vì thế, phải hai mươi ngày sau mới tiến đánh Kon Tum được. Mặc dù dự kiến theo kế hoạch tác chiến, là chỉ 5 ngày sau khi thắng ở Đắc Tô – Tân Cảnh - Bởi vậy, QLVNCH đã có đủ thời gian phòng thủ xong Kon Tum.
      Ngày 9.6.1972, cố vấn Hoa Kỳ John Paul Vann, sau khi đến thị sát và cổ vũ Sư 23 QLVNCH đã giành thắng lợi – Trên đường trở về Pleiku, chiếc máy bay VH-1 của ông trúng đạn phòng không QGP và bị rơi. Cố vấn Paul Vann chết trên trận địa Tỉnh Gia Lai.
      Chiến dịch Bắc Tây Nguyên kết thúc: QGP giữ được cụm cứ điểm Đắc Tô – Tân Cảnh, QLVNCH giữ được Thị Xã Kon Tum.
      Theo ước lượng của tình báo Mỹ: Tại trận chiến Tây Nguyên tính trong cả ba tháng 3-4-5.1972, cộng sản Bắc Việt đã thiệt hại khoảng 1 sư đoàn rưỡi và 30 chiến xa T-54.
 
                                                   *
 
      Ra khỏi Thị xã Kon Tum, đoàn xe pháo cao xạ C4 của Đại trưởng Nguyễn Hoàng chạy trở về Đắc Tô – Tân Cảnh. Trên đường đi qua một con dốc mà người dân đặt cho nó cái tên nghe khá rùng rợn: “dốc Đầu Lâu”. Đường lên Dốc Đầu Lâu cao khoảng trên 600 mét. Bên kia con đường là một ngôi miếu hoang, gọi là “miếu Cô Hồn”. Không biết nó được lập từ thời kỳ nào trong chiến tranh? Miếu thờ vong linh những người lính VNCH và cả lính mặt trận giải phóng đã chết trận. Dốc Đầu Lâu là một con dốc mà hai bên đều cố chiếm được, để kiểm soát Thị xã Kon Tum.
      Ngồi trên xe pháo, Nguyễn Hoàng lòng nặng trĩu. Anh em trong đại đội của anh, họ cũng lặng lẽ trở về sau thất bại trận đánh vào thị xã. Tuy đại đội anh đã góp phần diệt được một số máy bay phản lực và trực thăng không lực Hoa Kỳ, nhưng C4 cũng bị địch đánh hỏng một khẩu 37ly, chiến sĩ bị thương và hy sinh khá nhiều… chủ yếu do B52 rải thảm trúng đội hình. Nói chung về Tiểu đoàn hỏa lực D16 – số bộ đội thương vong, tổn thất so với các trung đoàn bộ binh như Sư 320, Sư 2 và các tiểu đoàn đặc công thì còn ít hơn rất nhiều.
      Khi đoàn xe pháo đi qua đỉnh Dốc Đầu Lâu, trung úy Nguyễn Hoàng thấy rùng mình. Những chiếc xe pháo chạy trên con đường sau cuộc chiến khốc liệt, đầy những hố bom đạn và đất đá lổng chổng, xóc nẩy tung lên. Khác hoàn toàn với tâm trạng của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh: dù cũng ác liệt và hy sinh, nhưng trận chiến ấy QGP thắng lớn, nên tâm hồn người chiến sĩ náo nức, phấn khởi. Còn trở về đợt này, họ tránh sao được nỗi u uất trong lòng? Ngôi “miếu Cô Hồn” kia sẽ mãi mãi giữ vong linh những binh sĩ cả hai bên, thậm chí cả vong linh lính Mỹ, quân đồng minh… đã bỏ mạng trên trận chiến Kon Tum.
      Hoàng nghĩ về anh em đã cùng anh chiến đấu, giờ không còn nữa. Họ đều là những thanh niên tuổi còn rất trẻ, thậm chí có người mới lớn lên chưa từng biết đến chữ “yêu”! Chưa biết đến hương vị của đàn bà… đã phải vĩnh viễn nằm lại chốn trận tiền. Với bao sự hy sinh như thế, mà cuối cùng cuộc chiến vẫn thất bại? Thật là xót xa. Cũng chẳng phải do ta đánh kém, thực tế là ác liệt quá! Địch tập trung sử dụng binh hỏa lực, nhất là pháo đài bay B52 rải thảm quá nhiều, ta không trụ nổi. Nhìn trên khóe mắt đồng đội đang trở về cùng anh, Hoàng biết anh em cũng rất buồn bực và đau khổ.
      Ôi, những cánh hoa dã quỳ vẫn nở vàng rực trong những cánh rừng đầy bom lửa Tây Nguyên kia, chúng vô tư quá! Hoàng vào chiến đấu trên chiến trường, thế cũng đã qua năm mùa hoa dã quỳ nở rồi. Những địa danh Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum, Tân Cảnh – Đắc Tô, Pleiku, Buôn Ma Thuột… Những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng, Kleng, Chư Tan Kra… Những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy, cả Sê Sụ hay Xê Rê Pốc… mà anh đã hành quân qua. Những con đường Quốc lộ 14, 18, 19, 21… in đậm dấu chân lính chiến của anh. Mỗi địa danh ấy lại ghi một chiến tích hay sự tàn khốc đẫm máu của những chiến dịch và trận đánh.
      Có những trận thắng ròn rã như Ngọc Bờ Biêng, Đắc Tô – Tân Cảnh – nhưng cũng có những trận ác liệt, cảm tử mà cuối cùng vẫn đành phải rút bỏ vì thất bại như trận Kon Tum… đều hằn sâu trong kí ức những người lính. Đành rằng: “được thua là lẽ thường tình trong chiến trận” – nhưng máu đổ thì vẫn là máu… không ai muốn đổi lấy sự thất bại và đau thương?
      Nói về sự gian khổ và ác liệt thì chẳng đâu bằng chiến trường Tây Nguyên, điều ấy thì Hoàng và đồng đội ai cũng thấm thía. Có những lần, Hoàng đã phải chứng kiến: Hồi đó, anh còn làm trung đội trưởng, đơn vị pháo của anh bị trúng tọa độ B52. Gần 20 chiến sĩ bom đánh tung mất xác, chỉ một người duy nhất chết còn lại thân thể nhưng đã bị hơi bom lột đi tất cả quần áo, trần truồng nằm phơi ở giữa rừng… Anh và những đồng đội sống sót phải chia nhau đi tìm từng dúm tóc sót lại vướng vào một cành gai, từng ngón tay, ngón chân, mẩu xương, nắm thịt vương vãi khắp nơi. Gần 20 con người cũng chỉ chia ra được 5 cái túi nhỏ với 1 người toàn thây, đào chôn làm 6 cái huyệt… rồi đánh dấu để sau này tìm lại.
      Như người ta nói: những ai đã chiến đấu ngoài mặt trận mới hiểu hết được sự can trường, sức chịu đựng cũng như những hy sinh của người lính chiến. Càng gian khổ, ác liệt và mất mát… họ lại càng thương yêu nhau. Nghĩa tình đồng đội những người lính ấy, còn hơn cả anh em ruột thịt.
      Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn chạy rầm rì, lóc xóc trên con đường Quốc lộ 14 nham nhở vì cuộc chiến. Hoàng lại nghĩ về Hà Nội, đến những người thân của anh nơi quê hương! Hoàng nhớ tới Thu - Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa – chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại.
      Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Cả trong năm học cuối cấp theo trường đi sơ tán, hai đứa cùng về một làng quê. Ôi, người bạn tình của anh! Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya… Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này, anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thủa ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm… nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trận đến bất cứ lúc nào - Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến si trên quê hương, về gia đình họ… chứ không phải bản thân những người lính như các anh.
      Anh còn hơn bao anh em lính trẻ khác, chết đi mà vẫn chưa biết “yêu” là gì? Anh đã từng yêu và yêu say đắm. Cũng đã từng được nếm trải cái hạnh phúc tột cùng của tình yêu, tấm thân của người con gái đã hiến cho anh.
      Anh lại nghĩ đến Mỵ, người con gái đã yêu anh bằng cả trái tim và tấm thân trinh bạch, không hề hối tiếc! Em từng nói với anh như thế. Mới chỉ cách đây ít ngày thôi, ngay trên mảnh đất máu lửa này: cô gái bản hồn nhiên, xinh xắn ấy đã vào tận chiến trường để tìm anh. Nàng đã đến, sau một trận chiến kinh hoàng trên vùng trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Cứ như là chuyện cổ tích vậy? Ôi, hạnh phúc mới trớ trêu và kỳ lạ làm sao!
      Giờ này Mỵ ra sao và thế nào nhỉ? Cô đã theo một cánh quân của mặt trận B3 đánh vào Chư Pao, cũng trên con đường 14. Chiến sự ở Chư Pao, có lẽ bây giờ vẫn đang nổ ra. Mỵ và cả Sa, người bạn gái của cô liệu có làm sao không? Anh bỗng thấy xót thương cho những người con gái đó! Những người lính nam nhi như anh và anh em đồng đội, dấn thân vào nơi lửa đạn ác liệt rồi hy sinh, thì đã đành. Đằng này, các em chỉ là phận nữ nhi, yếu đuối…
      Anh lại thấy chính mình có tội? nếu không vì yêu anh, chắc gì em phải dấn thân đến mãi chốn chiến trường đầy bom đạn này. Có ai bắt buộc em phải đi đâu? và thế là Hoàng tự thấy… anh không thể phụ bạc với người con gái ấy! Rồi anh lại thấy, anh mang tội với cả hai người con gái đã yêu anh – Anh không thể phản lại ai !?
      Ôi tình yêu! Trong Hoàng rối tung với bao sự suy diễn... Thế là trên con đường từ cuộc chiến về, cùng với tiếng lọc xọc của những bánh xe pháo, cứ nhảy lên trong đầu anh. “Thôi, chiến tranh mà…” – Hoàng cố xua đuổi những ý nghĩ cứ lẩn quẩn bám theo mình. Chiến tranh! Tất cả sẽ chìm vào trong chiến tranh…
      Hoàng ngả người bên cạnh anh lính trẻ. Cậu ta đang ngủ ngon lành trên ghế xe. Bầu trời đêm Tây Nguyên tạnh ráo, vẫn nghe thấy tiếng pháo và súng nổ từ xa. Có lẽ từ phía cứ điểm Chư Pao vọng đến… Chiến sự đang diễn ra tại đó. Nơi ấy có Mỵ, người con gái bản của anh đang ở trong trận đánh.
      Đoàn xe pháo cao xạ 37ly của Đại đội 4 vẫn đang nhằm hướng Đắc Tô – Tân cảnh chạy về.  Cũng chẳng còn bao xa nữa, mấy đốm lửa cháy ở phía sân bay Phượng Hoàng đã hiện ra trước mắt.  Cùng với tiểu đoàn hỏa lực D16, họ sẽ dừng quân ở đấy để củng cố đơn vị, rồi lại tiếp tục vào những cuộc chiến tới.  
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.06.2018 12:41:50 bởi Nhân văn >
Thay đổi trang: << < 161718 > >> | Trang 16 của 20 trang, bài viết từ 226 đến 240 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9