Một Huyền Thoại Thi Ca
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 20 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Nhân văn 22.03.2009 12:22:17 (permalink)


             PHẠM NGỌC THÁI THÁCH ĐẤU
                  CẢ HNVVN ĐƯƠNG ĐẠI 


         Tôi đã viết bản thách đấu này từ sáu năm về trước, và đã được đăng ở vài chục trang mạng Việt trên thế giới – Nay vẫn còn lưu giữ giá trị đó! Từ nguyên bản ấy, tôi chỉ tinh giản lại ngắn gọn hơn, cho hợp với hiện thời và xin công bố lại - Cũng để chính thức lưu vào trong nền văn học nước nhà.

      Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng – Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm đã bình luận về thi ca như sau:
      “… Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời, thơ của mọi thời đại - Đó là loại thơ có hàng đẳng cấp cao nhất. Như:
       Đèo ngang của BHTQ  /   Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương  /  Thương vợ - Tú Xương  /  Thu điếu - Nguyễn Khuyến  /  Tràng Giang - Huy Cận  /  Tranh lõa thể - Bích Khê  /  Tương tư - Nguyễn Bính  /  Đây thôn Vỹ Dạ;  Mùa xuân chín;  Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử  /  Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH.  /  Thuyền và biển - Xuân Quỳnh  /  ...
     Nghĩa là: Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, hoặc một bài "thơ hay"? Nguyên tắc trước hết, phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu, sống lâu dài với ngàn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với thời gian: Thì đó chỉ là thứ thơ để cổ động phong trào, văn nghệ nhất thời - Như Gớt nói, rồi sẽ tầng tầng bụi phủ.
     Xin lấy nguyên tắc về loại thi ca cao cấp nhất đó, làm phương hướng chỉ đạo đối với bản thách đấu này!
         Nội dung thách đấu gồm hai phần:
1.  Phạm Ngọc Thái thách 50 nhà thơ đương đại của HNVVN 
2. Thách phản biện về chân dung tầm vóc một thi hào dân tộc? Thi nhân vĩ đại của thi ca hiện đại VN? qua các tác phẩm thi ca đã xuất bản của Phạm Ngọc Thái.
       Có thể dựa trên Tuyển phẩm “Minh chứng về chân dung một thi hào dân tộc” – của tổ chức văn chương ở Thủ đô đã biên soạn, từ trong các tác phẩm thi ca và bình luận văn học đã xuất bản đó.
     "Tuyển thi văn" đã được đăng trên Web. Việt Nam Thư Quán – Mời mở link sau:
                http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=897650
    Phạm Ngọc Thái thách Ban chấp hành HNVVN, đứng ra tổ chức những tay thơ sừng sỏ nhất của HNVVN đương đại, phản biện đàng hoàng trên các báo lớn của Hội, như Tuần báo Văn nghệ hay Tạp chí “Nhà văn và cuộc sống” do Phó Chủ tịch, thần đồng thơ Trần Đăng Khoa hiện đang làm tổng biên tập.
      Phạm Ngọc Thái sẵn sàng nghênh tiếp!
     Xin nói rõ: đã là nhà thơ chuyên nghiệp, muốn tranh luận với Phạm Ngọc Thái chí ít phải có đôi bài thơ hay trong văn hiến Thăng Long... và đời thơ phải có tác phẩm thi ca có khả năng để lại cho đời !? Chứ... nếu cả đời làm văn chương, chỉ viết được cái loại thơ rồi sẽ ra rác? Mà cũng đòi vác bút tranh cãi... Tôi không tranh luận với các hạng nhà thơ đó! Nếu các anh cố tình dùng những loại “nhà thơ tập tàng” nói linh tinh trên báo chí làm ảnh hưởng tới danh dự tôi? Tôi sẽ dùng ngòi bút và trí tuệ mình có được, “đánh” chính Tổng biên tập và “đánh” cả tờ báo trên các trang mạng Việt khắp thế giới này, để cảnh cáo.
      Bởi vì cuộc thách đấu của Phạm Ngọc Thái có ý nghĩa lịch sử với cả nền văn học nước nhà !!!  không thể như số văn sĩ tạp-pí-lù ở Hội nhà văn... kiến thức về thi ca thì thấp kém, lèm nhèm, thậm chí rất ngu dốt trong cả kiến thức lẫn sáng tác, lại hay bình luận nhảm nhí, vớ vẩn .




                LỜI VỀ VỀ HÀN MẶC TỬ
     Về thi pháp, để tạo nên những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử không giống như Xuân Diệu, Huy Cận và các nhà thơ khác trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến: Hầu hết đều theo khuynh hướng thơ lãng mạn thuần túy - Với Hàn Mặc Tử, các bài thơ hay, điển hình như: Mùa xuân chín, Bn ln, Đây thôn V Dạ - Thi nhân đã sử dụng hài hoà thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp. Theo thuyết "tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó chủ xướng. Nghĩa là: những hình ảnh, biểu tượng để tượng trưng đều dựa vào cảm thụ của các giác quan, hay từ trong tâm linh - gọi là cảm quan. Cho nên thỉnh thoảng vẫn xen những ngôn ngữ mơ hồ.  Chế Lan Viên đã viết:
                 Anh phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia đấy
                 Bờ bên kia hư ảo - bờ thơ
                                              (trích Di cảo)
     Tuy nhiên, trong thơ ca không phải bài thơ hay nào ngày một, ngày hai cũng đánh giá ngay được. Như bài "Đây thôn Vỹ Dạ" thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX, nhưng phải gần nửa thế kỷ sau - Kể từ khi nó ra đời, mới được thi đàn ngợi ca để trở thành bài thơ nổi tiếng! Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, đã để sót không đăng bài thơ tình hay nhất đó của thi nhân.
     Nói về giai đoạn phong trào "thơ mới" thời tiền chiến - Đã được văn đàn nhận định là thời kỳ phục hưng của thi ca Việt. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ lớn: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính - Cùng nhiều bậc thi nhân xuất sắc khác: Bích Khê, Yến Lan, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Nguyễn Nhược Pháp... Những thi nhân ấy đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long cả một kho tàng thi ca viết vào giai đoạn trước cách mạng, muôn màu và đầy hương sắc.

                       LI V XUÂN DIU:
      Tuyển tập thơ Xuân Diệu cũng tới vài trăm bài, gồm hai mảng thơ - Thơ tình trước cách mạng: "Thơ thơ", "Gửi hương cho gió", khoảng trên dưới 70 bài. Còn tất cả đều được thi nhân sáng tác vào thời kỳ sau cách mạng.
     Nhưng sở dĩ Xuân Diệu được xác định là một thi nhân lớn, chủ yếu lại chính nhờ vào mấy chục bài thơ tình mà ông đã sáng tác từ trước cách mạng ấy! Chỉ với hai tập "Thơ thơ", "Gửi hương cho gió" viết trước cách mạng đó thôi, đã có thể nói rằng: Chúng ta đã có một nhà thơ chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ tình của Việt Nam. Như Thế Lữ trước kia đã từng nói về ông rằng: Chúng ta đã có mt Xuân Diu!
     Mấy trăm bài thơ Xuân Diệu viết sau cách mạng, có bài thơ "biển" là đứng được với thời gian. Hầu hết thơ viết sau cách mạng của ông thuộc loại thơ của một thời.
     Có lẽ vào giây phút chót cuộc đời, Xuân Diệu cũng đã nhận ra điều đó! Cho nên trong bài "Giã từ" để lại, ông đã viết:
                   Nếu để cho tôi được giã từ
                   Kính chào cõi thực để vào hư
                   Trong hơi thở chót dâng trời đất
                   Xuống đến suối vàng vẫn ngất ngư.
     Hai tập "Thơ thơ", "Gi hương cho gió" ấy, là thơ tồn tại!
 
                         LỜI VỀ HUY CN 
     Cũng như Xuân Diệu - Huy Cận được xác định vào hàng các nhà thơ lớn của nền văn học, chủ yếu nhờ tập "Lửa thiêng" mà thi nhân đã sáng tác trước cách mạng. Ông nổi tiếng với "Tràng Giang", một bài thơ tuyệt hay - Bài "Ngậm Ngùi" được xem là mẫu mực của thể thơ lục bát. Mặc dù sau cách mạng Huy Cận đã viết hàng trăm bài thơ khác, nhưng cũng chỉ là thơ của một thời.
     Thơ đáng nói nhất của Huy Cận (có khả năng tồn tại) viết vào giai đoạn sau cách mạng, là bài "các v La hán chùa Tây Phương" khá dài, 15 đoạn, 60 câu: Nói về kiếp khổ hạnh thời xưa cũ, thông qua gương mặt các vị La Hán. Hình tượng thơ sinh động, sâu sắc và tương đối khúc chiết. Giọng thơ nhuần nhụy, dễ nghe. Có sức thuyết phục bởi ý tưởng thơ thấm đẫm nỗi đau đời. Cái đoạn kiếp luân hồi chốn trần gian.
     Chỉ tiếc là, tuy thơ nói về nỗi khổ hạnh nơi trần thế... nhưng đến cuối bài, tác giả có phần nắn theo khuynh hướng chính trị, mang tính khẩu hiệu: cái mới tất cả là "hảo hảo", tốt tốt hết? Chủ nghĩa nhân văn của tình thơ vì thế giảm đi phần nào. Sự sung mãn của bài thơ cũng yếu đi.
      Như hai đoạn thơ kết này chẳng hạn:
                    Các vị La Hán chùa Tây Phương
                    Hôm nay xã hội đã lên đường
                    Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
                    Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.

                    Cha ông yêu mến thời xưa cũ
                    Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
                    Những bước mất đi trong thớ gỗ
                    Về đây tươi lại dặm đường xuân.
      Theo tôi, giá như thi nhân không dùng hai đoạn kết ấy, bài thơ "Các Vị La Hán Chùa Tây Phương" vẫn đủ sự viên mãn mà lại còn hay hơn.
      Tóm lại, Thơ viết trước cách mạng của Huy Cận với tập "Lửa thiêng" thuộc loại thơ tồn tại!

 
                   LỜI VỀ CH LAN VIÊN 
    Nói tới Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến "Điêu tàn", thơ viết trước cách mạng. Là tập thơ đầu tay được sáng tác khi thi nhân vẫn còn tuổi thiếu niên. Hoài Thanh đã từng nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
     "Quyn Điêu tàn đã đt ngt xut hin ra gia làng thơ Vit Nam như mt nim kinh d... Nó dng lên mt thế gii... cái thế gii l lùng và rùng ry, ai có ng  trong tâm trí mt cu bé mưi lăm mưi sáu tui. Cu bé y đã khiến bao ngưi ngc nhiên. Gia đng bng văn hc Vit Nam  na thế k hai mươi, nó đng sng như mt cái tháp Chàm, chc chn và l loi, bí mt".
     Đồng thời - tầm vóc Chế Lan Viên cao lên còn nhờ vào cả một khối Di cảo thơ đồ sộ tới năm sáu trăm bài viết tự do. không theo một yêu cầu nào về mặt chính trị, cũng không để cổ động cho một phong trào văn hoá, văn nghệ nào. Nghĩa là, những bài trong Di cảo đó thi nhân sáng tác theo nhu cầu cảm xúc tự thân. Không ít bài còn ở dạng dang dở trong bản thảo, được xuất bản sau khi thi nhân đã qua đời.
     Như đã nói, thơ Chế Lan Viên là loại thơ triết lý. Những trang Di Cảo thơ đó... Người hoàn toàn sáng tác tự do tung phá,  sâu sắc tính nhân văn. Nhiều bài đặc sắc. Nhờ có khối Di cảo thơ đồ sộ này, tầm vóc chân dung thi nhân của Chế Lan Viên lớn lên nhiều.
     Như thế có thể nói: Trong tuyển thơ Chế Lan Viên có hai mảng viết hoàn toàn tự do thăng hoa, phát tiết - Tạo nên một tầm vóc thi nhân lớn, sừng sững - Chính là "Điêu tàn" và "Di cảo thơ"! Hai loại tác phẩm thi ca ấy sẽ còn sống mãi với non sông và nền văn học nước nhà. Đó là "thơ tồn tại"!
     Tuy nhiên, riêng về Chế Lan Viên - Vì thơ có tính triết lý cao, nên trong mảng thơ sáng tác sau cách mạng, với những áng thi ca thấm đẫm màu sắc triết học, nhất là những bài về chủ đề Tổ quốc - Nhân dân...  vẫn được đời ngưỡng mộ. 

 
 
                   NGUYN BÍNH 
     Nói đến Nguyễn Bính, người ta nhớ nhiều những bài thơ trong tập: L bưc sang ngang (1940), Tâm hn tôi (1940), Hương c nhân (1941), i hai bến nưc (1942)... Với các bài như: Mưa xuân, L bưc sang ngang, Cô hái mơ, cô lái đò, Viếng hn trinh n, Chân quê, Tương tư, Nhng bóng ngưi trên sân ga,...  Và một số bài thơ lẻ, thi nhân đã viết trước cách mạng - Thí dụ bài "Mt tri quan tái":
                     Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
                     Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
                     Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
                     Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.
                     ........
                     Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
                     Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
                                          Tôi uống cả em và uống cả
                     Một trời quan tái, mấy cho say!
     Hay là Đường rừng chiều:
                   ... Chim nào kêu mỏi ngàn cây
                   Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
                   Đồi sim dan díu nương chè
                   Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
     Những bài thơ ấy, những trang thơ ấy đời sẽ còn nhớ mãi. Thơ sau cách mạng Nguyễn Bính viết cũng nhiều, nhưng người ta cũng quên nhiều.

                      BÍCH KHÊ:
     Tuy chưa phải là nhà thơ lớn, nhưng Bích Khê đã thuộc vào bậc tài danh thời tiền chiến. Cùng với tập "Tinh hoa" - "Tinh huyết" của thi nhân được nhiều người biết đến. Hoài Thanh đã từng khen trong Thi Nhân Việt Nam:
   "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
                     Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
                     Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông ".
     Đặc biệt với bài "Tranh lõa thể " nổi tiếng, Hàn Mặc Tử ca ngợi hết lời: " Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo. Nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... ".
     Cũng giống Hàn Mặc Tử, thơ Bích Khê đậm màu sắc của dòng thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Verlaine. Thi ca của ông huyền ảo đến mức mà chính Hoài Thanh đã nói: " Thơ Bích Khê mới đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc ". Người các thời gọi ông là "Thi sĩ của thần linh ".
     Mỗi khi nhắc về thời tiền chiến, các nhà lý luận phê bình văn học vẫn tìm tòi, nghiên cứu thế giới tâm linh cũng như ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông.
 
              SƠ QUA VỀ CÁC NHÀ THƠ HNVVN ĐƯƠNG ĐẠI
    Tôi từng nói với nhà viết " Chân dung và đối thoại " Trần đăng Khoa rằng: Các nhà thơ đương đại của HNVVN có chân dung thấp nhất trong lịch sử thơ ca Việt Nam!
     Nếu thời tiền chiến được coi là giai đoạn phục hưng của thơ ca Việt Nam, đã ra đời hàng loạt các nhà thơ lớn và nhiều bậc thi nhân tài danh, như đã nói - Thì, chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN ngày nay, có lẽ thuộc vào loại thấp kém nhất so với các thời kỳ của cả ngàn năm văn hiến Thăng Long?     
     Khoảng nửa thế kỷ trở lại đây không có được một nhà thơ lớn nào, đã đành. Cả một HNVVN đương đại có đến mấy trăm nhà thơ, mà nhìn đi nhìn lại vẫn không thấy một chân dung nào khả dĩ, có được một tập thơ có thể tồn tại được với nền văn học, với đời? (trừ mảng thơ trẻ con của thần đồng Trần Đăng Khoa) - Phần lớn thơ của họ, như người ta thường nói là "thơ mậu dịch quốc doanh", thơ phong trào, rồi thì... sẽ ra "rác". Thảng cũng có được nhà thơ có một đôi bài kha khá - chứ thơ hay thực sự của thi đàn như các thi nhân mà tôi đã dẫn giải trên, thì... không có.
     Hầu như chân dung các nhà thơ có tên tuổi của đương đại, kể cả ông Hữu Thỉnh: Nguyên Chủ tịch HNVVN 4 khóa – 20 năm, chủ yếu do được thổi lên, sơn son thếp vàng.



 
          PHẠM NGỌC THÁI THÁCH  50 NHÀ THƠ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA HNVVN
     Tùy Ông Chủ tịch HNVVN tuyển lựa. Mỗi người chọn lấy một bài thơ hay nhất của mình.
     Thí dụ - Hữu Thỉnh có thể chọn Thơ viết ở biển, Sang thu, hay Năm anh em trên một chiếc xe tăng...
      ( Mở ngoặc nói thêm về các trường ca của Hữu Thỉnh, như "Đường tới thành phố" hay "Trường ca biển"...  viết còn dông dài, dặm lời nghĩa ít. tầm vóc bình thường. Viết để hô trong phong trào thơ ca văn nghệ, chính trị. Các loại trường ca này không thể tồn tại được với thời gian. Không lưu được vào nền văn học nước nhà).
- Vũ Quần Phương, nguyên Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN… có thể chọn bài "Đợi" hay nhất của ông ta - Bằng Việt, nguyên Chủ tịch liên hiệp văn học nghệ thuật thủ đô… có thể chọn với Bếp lửa, Nghĩ lại về Pautôpxky...hoặc là bài thơ nào hay nhất tùy ý...
      Nghĩa là, 50 nhà thơ với 50 bài thơ hay nhất, cao nhất của HNVVN đương đại - Một mình Phạm Ngọc Thái, cũng sẽ chọn đủ 50 bài thơ hay nhất đã xuất bản.
      Tất cả tổng cộng 100 bài: Có thể cho đăng cả trăm bài đó trên dăm trang lớn của Tuần báo văn nghệ, hay Tạp chí “Nhà văn và cuộc sống” do Phó chủ tịch HNVVN Trần Đăng Khoa hiện đang làm tổng biên tập – Tôi tin rằng báo và tạp chí, nếu thông báo lên cho giới văn chương biết về cuộc thách đấu, đăng thơ này? Nhất định sẽ bán chạy hơn thường kỳ nhiều. Lại rất có ý nghĩa về giá trị văn học và xã hội. Mai sau có thể hậu thế còn nhắc lại.
                      BAN GIÁM KHẢO
     Trong bản thách đấu trước, tôi để cho ông Chủ tịch HNVVN là Hữu Thỉnh lúc đó,  tùy chọn những tay thơ sừng sỏ nhất đương thời của Hội làm giám khảo – Song, nay thấy rằng nhiều năm qua trong các cuộc thi thơ, hay tổng kết thẩm định tác phẩm thơ xuất bản hàng năm của HNVVN đều tỏ ra còn tạp nham? Không ít tác phẩm được giải, chẳng có giá trị là bao,  mực chưa ráo đã… “chết”. Bị văn đàn lên án nhiều.
      Xét trong cuộc thách đấu này – Với chân dung “Nhà thơ lớn thời đại Phạm Ngọc Thái” !? Các vị đầu trò của HNVVN hiện nay, nói chung  trình độ thẩm định thơ ca hiện đại vẫn còn nông cạn, tư cách đạo đức để làm giám khảo lại yếu - Nên không thể làm giám khảo được.
     Dù sao nhân dân vẫn là người làm nên lịch sử. Cứ đăng cả trăm bài thơ đó, công bố cho toàn xã hội biết! Để nhân dân (tất nhiên là nhân dân, chủ yếu trong tầng lớp trí thức)… cùng với thời gian thẩm định, rà xét. 
     Xin nói thêm, với Phạm Ngọc Thái hiện giờ nhiều người cho là không khiêm tốn? Họ không ủng hộ đâu – Song không sao! Chỉ bởi nếu tôi quá khiêm tốn với một đương đại của giới văn chương còn quá tạp dịch như xã hội ngày nay? Thì dẫu có là thi nhân vĩ đại bao nhiêu? Đời này với một kẻ thân đơn, thế mỏng như Phạm Ngọc Thái, chân dung thơ rồi cũng bị nhấn xuống bùn. 
      Không biết thiên tài Nga vĩ đại Pushkin, có phải là khiêm tốn không? Mà Người đã viết bốn câu thơ:
                   Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết
                   Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
                   Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
                   Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi...
     Tức là, dù trên nhân thế này chỉ còn một thi nhân? Thi nhân ấy là ta! Tên tuổi ta sẽ chói lòa mãi mãi... Vậy là Người cao giá hết mức rồi còn gì, ai cao hơn đươc nữa! Có phải thế không mọi người?
             Phương ngôn có câu: 
                Thiên tài = Nhân thế + thời gian
     Nhân dân không phải là một đám người, một nhóm văn sĩ nào? Nhân dân là xã hội, là nhân gian, thời gian, là lịch sử - Tôi tin lịch sử sẽ công bằng.
        Cứ để nhân dân, với thời gian minh chứng làm ban giám khảo - Sẽ thấy:
   PHẠM NGỌC THÁI CÓ PHẢI LÀ THI NHÂN VĨ ĐẠI CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN HAY KHÔNG !!!

                                            Hà Nội, mùa thu 2021
                                              PHẠM NGỌC THÁI
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2021 20:14:07 bởi Nhân văn >
daosac 22.03.2009 15:28:30 (permalink)
mưa to thì thật là to
cóc kêu kèn kẹt còn to hơn trời
 
hehehehe, thơ của tớ có được phong là "thánh sống" không hở nhà thơ 3 in 1 PNT - Ghosttt_01 - Nhân văn?
 
potay.com
Ghosttt_01 12.04.2009 12:46:34 (permalink)
.


            VỀ NHỮNG BÀI THƠ TÌNH THEO KIỂU "VIẾT THƠ CHƠI" CỦA TẬP
                          "RUNG ĐỘNG TRÁI TIM"

Trong tập thơ tác giả có cho in xen kẽ mấy bài thơ tình với cái kiểu thơ viết chơi chơi... mà tôi rất thích! Điển hình như bài "Cây thầm tiếc bóng" - Toàn bộ bài thơ đó như sau:

Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.

Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi! Ôi mộng, thuở ái ân...

Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.

Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi cuộc đời cát bụi gió mưa
Hoa sẽ úa - Nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...



Những câu thơ mà ý tứ được lồng vào hình ảnh thiên nhiên rất hay, như:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ...
      Hay là:
Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông...

Hoặc có khi cả một đoạn thơ mà hình ảnh thi ca đạt đến độ khá tuyệt bích, thí dụ như đoạn thơ đầu tiên:
 
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ


Tôi nghĩ: Khi nhà thơ vẽ về cảnh vắng vẻ, hiu quạnh vì thiếu vắng bóng người đàn bà, mà những hình ảnh: Liễu thì hát trong mưa, mặt hồ nước lại bi bô lời than thở, còn chiều thì buông rèm tàn tạ... nắng buồn, nhưng đó là sự buồn mơ tưởng hình bóng của người yêu - Thật sinh động, ý tứ đầy sắc thái... tình ý đến thế là cùng. Để rồi khi kết thơ nó lại được gắn liền với cuộc sống, cuộc đời. Nghĩa là thơ vẫn đầy chất sống:

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi cuộc đời cát bụi gió mưa...

Tôi nhớ: Ông Vũ Quần Phương - Một nhà bình thơ cỡ vào loại mác tem số 1-2 của đương đại bây giờ, đã từng bình bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, theo nhà bình thơ thì đó là bài thơ hay của thi đàn. Mà "Đây mùa thu tới" của XD cũng là một bài thơ được XD sáng tác theo kiểu "Viết thơ chơi" như sau:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...

Mây vẩn từng không chim bay đi.
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.


Cứ đọc cả hai bài "Cây thầm tiếc bóng" của anh với bài "Đây mùa thu tới" của XD thì... mỗi bài đều có cái hay, giàu ý tứ và đầy hương sắc để tạo nên vẻ đẹp thi ca riêng của nó, chưa dễ bài nào đã hay hơn.

Hay tôi nói tới một bài thơ khác cũng theo kiểu "Viết thơ chơi" đó của anh mà tôi thích, như bài " Thiếu nữ đi trong chiều mây" - Bài này tác giả còn cho in cả những lời bình dẫn... tuy ngắn nhưng đọc nó rồi ta đọc lại bài thơ càng thấy thú và thấm thía ý nghiã hơn:

Hoàng hôn buông tím đổ mặt hồ
Gương nước xôn xao với nhà thơ
Lá bay xào xạc khua vọng gió
Một cõi lòng ai tận bến mơ...

Em đi bảng lảng bên hồ Tây
Đôi mắt huyền trong gió heo may
Dáng em mềm mại như nhành liễu
Cô gái chiều mây khuất đám cây.

Tiếng mõ chùa buông nơi ngả vắng
Thiếu nữ nghe mà vẫn lặng thinh
Để cả lòng ai thầm vương vấn
Nào phải mình anh bước cô đơn?

Ôi, hồ Tây - Chiều mây sương buông,
Thiếu nữ đi rồi trời khóc không?
Thơ anh từng giọt tan trong nước
Hồn trôi vào gió tới nơi em...

 
                  

  LỜI TÁC GIẢ:    Có hai câu thơ rất thích:
                    Ôi, hồ Tây - chiều mây sương buông,
                    Thiếu nữ đi rồi trời khóc không?  

     

Nghĩa là: thiếu nữ đi xa... "khuất vào đám cây", đến trời cũng tiếc mà khóc! Hình tượng thơ mang âm hưởng của màu triết học. Một cái gì nuối cảm bâng khuâng… Nói là "khóc" nhưng thực ra khi đọc thơ không đến mức sụt sùi, bi luỵ quá!
     

  Bài thơ đã được viết bên hồ Tây -  Buổi chiều đó nhà thơ có gặp một thiếu nữ:
                    Đôi mắt huyền trong gió heo may  
      Và lòng anh xôn xao:
                   

                    Lá bay xào xạc khua vọng gió
                    Một cõi lòng ai tận bến mơ...
 
     

Nhưng rồi trong thơ lại vẳng lên cả tiếng mõ chùa:
                    Tiếng mõ chùa buông nơi ngả vắng
                    Thiếu nữ nghe mà vẫn lặng thinh

     

Tại sao nàng lại lặng thinh? Một sự lặng thinh vì thờ ơ chăng? Mặc dù lòng chàng đã thầm vương vấn... Mà sự cô đơn kia cũng đâu có phải chỉ của một mình nhà thơ cơ chứ? Chẳng phải anh đi một mình, nhưng em cũng đi một mình -  cả hai cùng cô lẻ đó sao?
                  

                   Nào phải mình anh bước cô đơn?  
    

Như thế là trong bản tình xô-nát buổi chiều này không chỉ có màu hoàng hôn tím phủ, gương nước xôn xao, lá bay xào xạc và khua vọng vào trong gió heo may... mà còn có cả tiếng mõ chùa buông vẳng nơi ngả vắng. Một bản tình mơ được viết bằng thơ giàu cảm xúc từ trong lòng tác giả trào ra, như những câu thơ cuối đã kết:
                  

                    Thiếu nữ đi rồi trời khóc không?
                    Thơ anh từng giọt tan trong nước
                    Hồn trôi vào gió tới nơi em...

    

Thiếu Nữ Đi Trong Chiều Mây là một tình thơ nghe nhuỵ nhàng, huyền thẳm, ý tình cũng không kém phần sâu lắng, mênh mang...


--------------------


Cũng còn đôi bài nữa cũng được tác giả sáng tác theo dạng "viết thơ chơi" đó, như là "Người đàn bà của mùa thu" hay "Khúc đàn chơi vơi" - Nó góp phần giúp cho hồn của tập thơ thêm bay bổng và thêm sinh động, thăng hoa. Dĩ nhiên là bên cạnh những điểm hoa thơ đó là hàng chục những bài thơ tình, thơ đời đầy máu huyết đã đạt độ thơ hay! Đúng như cái tên gọi của tập : đủ để làm "Rung động trái tim" người.


Chơi thơ như anh cũng đã đạt loại "nghệ nhân" rồi! Thí dụ như ở bài "Khúc đàn chơi vơi" chẳng hạn, ta có cảm giác như tác giả thả sức tung phá ngôn ngữ thơ...như một hiệp sỹ tung phá thanh gươm của mình trên võ trường vậy:


Em là động thiên thai thơm ngát,
Là hoang xơ, điên dại lẫn phồn hoa...
Ta sung sướng ghì lấy nhau mà tan nát,
Em tan trong anh và anh hoá khổng lồ.


Những hình ảnh thơ ấy còn tạo thành những triết lý khá tuyệt! Hình tượng vừa nói về cái thế giới mãnh liệt của tình yêu, khả năng chi phối của người đàn bà và sức mạnh của khát vọng sống. Đọc thơ vừa sướng, thơ vẫn "nhiên như nhiên" ,
nhất là đọc trong tuyển thơ của anh thì không thiếu gì những bài anh đã viết nghêu ngao như thế, thơ vẫn hoàn tứ  và nhiều bài vẫn đạt đầy đủ các yếu tố mỹ học của thi ca!


Đọc tập thơ của anh, như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói: Tập thơ rất được, có nhiều điểm cần bàn!...Tôi nẩy  ra thêm vài ý phụ như thế thôi, nên viết để bàn thêm cho vui...





 

 
Nhatho_PhamNgocThai 27.04.2009 12:30:32 (permalink)
.


        "Người đàn bà của mùa thu" - Cũng là bài thơ viết chơi chơi mà vẫn hơi thú đấy chứ! Dĩ nhiên là chưa hay bằng bài thơ " Thiếu nữ đi trong chiều mây" và "Khúc đàn chơi vơi", nhưng mình vẫn đăng lại vào đây để đọc nghe:

Thu đã chết theo tháng năm tàn úa
Qua mỗi mùa lá rụng, em ơi !
Anh đi giữa những mùa xa vắng ấy
Tình  em bay trong ảo giác tơi bời.

Cuộc sống trôi đi những ngày hoang lạnh
Như lá vàng rơi trên mồ lão Giăng Van Giăng      
Và anh sống trên đời côi cút
Lang thang bờ bãi của bóng đêm.

Lại nhớ đến bao nhiêu mùa trước
Người đàn bà từng thao thức bên anh,
Thu trong em - Ôi ! Mùa thu rạo rực
Tình em như biển thẳm trời xanh.

Người đàn bà ! Ôi, mùa thu mùa thu
Nàng có đôi mắt mơ hiền đẹp
Vòm ngực nàng như một bầu trái ngọt
Những đêm thâu nghe thổn thức bên hồ.

Anh viết về mùa thu
                   mà câu thơ lại không lối xô bồ
Dẫu trái tim còn tràn đầy cảm xúc,
Em có nghe tiếng của hàng cây đương nhắc
Trong hư vô hun hút quyện vào đêm...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.04.2009 12:37:42 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhân văn 16.05.2009 12:11:19 (permalink)
.


    Nhà thơ có tham dự một cuộc thi  "Thơ viết về Hà Nội"  do Báo Văn Nghệ và Đài truyền hình Hà Nội Tổ chức (kéo dài trong 2 năm 2009 - 2010) - Trong Tuần báo Văn nghệ mới nhất số 20 vừa phát hành hôm nay tức là ngày 16/5/2009 này, đã chọn trong chùm thơ anh gửi dự thi để công bố một bài trên mặt báo (Hầu hết mỗi người dự thi cũng chỉ được chọn đăng một bài), xin sao lại toàn bộ bài thơ đó như sau:

         TRONG ĐÊM HÀ NỘI
                           - Tặng con Phạm Ngọc Bảo
                                               *
Cha dắt con đi dưới hàng cây khuya
Phố của con thầm yên giấc ngủ
Ngôi chùa cổ và bóng đa cổ thụ
Đường xa se gió chớm đông về.

Tiếng lá bay xao xác vọng tàn thu
Buổi chiến tranh âm hao còn vẳng lại
Những bề bộn đời thường chiều mệt mỏi
Con là hạt ngọc của lòng cha.

Quê hương là mái nhà con ở
Có thiên nhiên với con người nữa,
Ngày mai rồi con sẽ lớn khôn
Cha dắt con nghe những hàng cây râm ran...

Ru khe khẽ tiếng gọi thầm trong cỏ
Đất cựa mình? Hay hạt đang nứt vỏ?
Trên nhành cao động nhỏ một loài chim
Cuộc sống nào cũng từ mầm sống gieo lên !

Cha đã cấy cánh đồng chung xã hội
Gần trọn cuộc mai lại nhường con đấy...
Nói làm gì. Con sẽ thấy con ơi:
Lẫn trong đá sỏi cuộc đời,
                     con hãy tự tìm lấy sắc hoa tươi !


                  (Đăng Tuần báo Văn nghệ của HNVVN - số 20 , thứ bảy 16/5/2009)  


Theo nhà thơ nói: Thực ra chưa hẳn đó đã là bài hay nhất trong chùm thơ anh gửi, nhưng có lẽ nó "cách mạng" nhất chăng?... và hợp với tiêu chí của cuộc thi thơ hơn. Anh đã cho tôi xem cả 4 bài thơ đó, cũng xin chép lại cả cho mọi người cùng nhâm nhi...

            

TÌNH THƠ GẶP LẠI Ở TÂY HỒ

Em trút lá hay hoa rụng cánh ?
Nước hồ xanh ngắt cả mùa đông,
Hỡi người con gái thời xa vắng
Sáng mai này anh gặp lại em.

Cái tuổi học trò ngủ quên vào gió cát...
Giữa Tây Hồ đánh thức lại trong nhau !
Anh xin được đưa em về bến hát,
Phơ phơ mây đã bám hai đầu.

Nếu có thể anh sẵn sàng đánh đổi
Cả cuộc đời để lấy lại em,
Em vẫn trẻ như hồi thơ dại
Vô tư nhè nhẹ... tựa vầng trăng...

Anh đã ngủ giữa lòng em, em biết đấy!
Tháng năm qua một cuộc chiến chinh dài,
Bao dĩ vãng xanh thềm rêu, gió thổi
Lửa bỏng chân trời xé nát cuộc đời trai.

Anh đã đi những miền quê xứ sở
Gặp những con người và những yêu thương,
Tình trong trắng trong lòng không xoá nổi
Bụi thời gian rơi rã xuống tâm hồn.

Xin giữ lại xinh tươi thời con gái
Tạo hoá cho mình để mà yêu !
Gặp nhau vẫn biết rồi xa mãi
Xa bao nhiêu càng nhớ bấy nhiêu.

Xin giữ lại những dấu hoen trên làn môi nước mắt
Vòm ngực đàn bà lắm lúc có xanh xao,
Những kỷ niệm như thu về, lá trút...
Ta hôn nhau mưa ướt trắng hai đầu.

Anh lặng lẽ hớp lấy từng sợi nắng
Giọt mưa tuôn hay lệ em rơi !
Tình em thắm hay lòng em rã cánh
Hồ xanh ơi ! Đẫm ướt hết đông rồi.

Ba mươi năm - Thời gian trôi , qua trôi
Anh quì xuống giơ hai tay đón lấy
Những cái lá : lá xanh, lá vàng,
Những cái lá như mầu hoa lửa cháy

Cả một đời người con gái nhoà phai...

                    

Còn 2 bài thơ kia lại nằm trong tập thơ "Rung động trái tim"- Khi anh gửi dự thi thì tập thơ chưa xuất bản (vì nguyên tắc dự thi là thơ chưa đăng báo và chưa xuất bản), nên khi tập thơ đã XB mà báo chưa kịp công bố , anh đã phải thông báo cho toà soạn xin rút - Hai bài ấy như sau:

                       

    EM BÉ CẦU BƠ



Tối ba mươi lò than phở đã nguội rồi
Em Bé Cầu Bơ không nơi ngồi sưởi ấm,
Đêm giao thừa người chúc nhau nhiều may mắn
Dưới gốc cây già... một bóng nhỏ nhuộm màu đen.


                    



  THÀNH PHỐ MƯA RƠI

Em hãy gảy bản tình lên chút nữa
Và có nghe trong thành phố mưa rơi?
Hãy đắm làn hoa thơm thiếu nữ
Dòng suối tinh mai khoả tắm chân trời.

Gió ru khẽ mơn man cây trước cửa
Chúng dập dìu tựa thể đang yêu !
Trong tình ấy... gió cây đều ướt cả,
Đầm đìa muông dại biết bao nhiêu.

Em hãy thả mảnh hồn con bướm trắng
Mà phiêu diêu quên thực tại nhọc nhằn,
Ở giữa lưng trời... tận miền xa vắng
Lòng nhớ nhung em anh cũng thương thầm.

Gió nhè nhẹ! Em ơi, mưa nhè nhẹ!
Chỉ riêng lòng anh bão không thôi,
Cứ để hồn anh trong nước lạnh
Với màu mây hoang trôi đến xa vời...


  
  Trên "Tạp chí diễn đàn" của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật VN số ra mới nhất  tháng 5/2009 này ( vừa phát hành ngày 15-5-2009), cũng đã  đăng một bài viết của anh - Đó là bài anh  bình luận về tập thơ "Nheo mắt nhìn thế giới " của nhà thơ Bằng việt. Bài này tác giả sẽ cho in lại trong danh mục " Kịch và các tiểu phẩm văn xuôi " , hiện nay chắc là Tạp chí đang được bán khắp nước...
ai quan tâm thì tìm đọc.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2009 11:40:03 bởi Nhân văn >
Nhatho_PhamNgocThai 09.06.2009 13:22:05 (permalink)
.


   Vào một buổi sáng tôi có dịp ngồi nói chuyện và trao đổi về thi phú với nhà thơ Vũ Quần Phương - Anh đương nhiệm là Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN, tại phòng khách của nhà anh. Đó là một ngôi biệt thự khá lớn, nằm trong khu đô thị mới Đình Công ở Hà Nội.
 
    Anh Phương năm nay cũng đã bước vào tuổi thất thập. Nghe anh nói:
-   Mình bây giờ rất bận: Phần vì công tác của Hội, phần đang phải làm Tuyển tập của chính mình... Làm công tác ít năm nữa rồi cũng nghỉ thôi! Bây giờ mình cũng đã cảm thấy mỏi mệt rồi.
 
    Sau 9-10 tháng gì đó sang Mỹ, anh cũng vừa mới về VN. Tóc đã bạc trắng nhưng giọng nói anh thì vẫn còn chắc, khoẻ. Cái Tuyển tập mà anh muốn làm trước tiên lại chưa phải là Tuyển tập thơ? Mà là một Tuyển tập bình luận về chân dung của các thi nhân - Từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, đến Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương và các thi nhân lớn thời tiền chiến như - Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... mà anh đã viết đăng báo suốt mấy chục năm qua nay tổng hợp lại. Quả là một công trình lý luận lớn đối với cuộc đời một nhà bình luận văn học chuyên nghiệp trên văn đàn.
 
    Tôi cứ lan man mãi nói chuyện với anh về thơ xưa và nay, song rồi bỗng anh cắt ngang:
- Thôi, giờ ta nói chuyện về tập thơ "Rung động trái tim" của Ông đi! Anh bảo vậy.
- Đó là một tập thơ vô giá của tôi! Tôi cũng khẳng định như thế.
_ Tất nhiên rồi!
 
   Chuyện với anh thì dài. Mà thôi, để cho Nhân Văn bàn... Tôi chỉ trao đổi ra đây đôi điều!...
 
  Nhưng trước tiên, tôi xin in lại ở đây một bài bình luận của một cây bút nữ Hoàng Thị Vui - Chị là một giảng viên dậy khoa văn của một trường cao học, mà tôi đã gửi thơ tặng. Bài viết đó cũng sắp được in trên Tạp chí diễn đàn của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt nam:


      

                  Thơ đời và thơ tình Phạm Ngọc Thái

                            (Đọc "Rung động trái tim, NXB.Thanh niên, 2009)

                                                        Hoàng thị Vui


   Tập thơ "Rung động trái tim" độ 200 trang là một tập sách khá dầy dặn (khổ 14,5 x 20,5) với 45 bài thơ đẹp và trang trọng. Hầu hết sau mỗi bài đều được tác giả viết lời bình hoặc giới thiệu rất công phu,sinh động. Phải nói đó là một tập thơ độc đáo, hấp dẫn, từ trước tới nay chưa thấy một nhà thơ nào đã làm như thế!
  
  Trong đó có 12 bài "thơ đời", còn lại tất cả là "thơ tình". Trước hết xin có mấy lời nhận xét khái quát về mảng thơ đời của anh:
   
   Thơ đời Phạm Ngọc Thái (PNT) cô đúc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý cũng đều được chảy theo dòng cảm xúc tự nhiên. Có khi vận từ đời sống dân gian để nói về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm manh áo của người lao động. Cuộc đời của họ giống như những chiếc chổi tre kéo lê trên đường, năm tháng bị mòn vẹt dần đi:

 Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!

               (Cô quét lá đêm hồ)

  Hoặc tác giả vừa gắn nỗi lòng mình trước những sự mất mát của những con người bần hàn âý... theo nghĩa ẩn dụ rất sâu sắc như:

 Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa...


Ta thấy thơ giàu hình ảnh, hàm súc mà đa nghĩa. Có khi anh chỉ tả về hình ảnh của cô quét lá đêm mà thơ như một khúc hát du dương, cứ thánh thót gieo thấm vào lòng ta:

 Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá bên tôi!

 
Trong bài thơ Em Bán Xoài lại vẽ lên khung cảnh bên bờ biển của thành phố Nha Trang, dưới những bóng dừa xứ sở là những thân phận đang sống vất vưởng, nổi trôi trong chốn nhân quần. Chủ nghĩa nhân đạo của bài thơ chính là lòng thương người và nỗi đau đời:

Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
...
và:

Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
xoài em thơm hương toả mát thân người
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?

  
Trong bài Cỏ Hoang - Để nói về tình yêu, cuộc sống của một cô gái trong những năm tháng đi tìm hạnh phúc nơi ngoại quốc, đồng thời nó cũng phản ảnh những thân phận bọt bèo trong cuộc tha phương của những lớp người xuất khẩu lao động mưu kế sinh nhai ở nước ngoài. Cảnh sống của họ xô bồ, rồi quan hệ hỗn độn, trai gái chung đụng lộn phèo, bất chấp luân thường đạo lý, có khi chẳng khác gì thời  nguyên thuỷ của buổi hồng hoang xưa... như bài thơ đã kết rằng:

Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú
/
- Hay là:

 Em tự do như thể là cát bụi
Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi!

 
Về những cảnh tượng khốn khổ của những người lao động đi kiếm sống ở nước ngoài, ta còn thấy trong bài thơ nữa cũng rất sâu sắc của anh - Họ chẳng khác gì những đoàn quân ô hợp trong cảnh bèo dạt mây trôi...( như lời bình của tác giả), nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành xô xéo, thậm chí dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Đạo đức bị tha hoá, về mặt tinh thần nó đã thuộc là những lớp người tận cùng đáy xã hội:...

 Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

                  (Nỗi trăn trở người đi tìm vàng).
 
Còn ở bài Làm Ma Em Vợ thì thi phẩm có cấu trúc một bài thơ tượng trưng, nhưng nghĩa thơ nhuốm đầm sắc thái của nỗi kiếp đoạn trường trong kinh Phật mà cụ Nguyễn Du đã từng tả trong Kiều, để tác giả nói về bể khổ nơi dân tình. V.v... và v.v...
 
Tôi xin nói sâu hơn về mảng thơ tình của anh - Hầu hết là loại thơ tình đã chia ly. Tuy tình yêu trong trái tim nhà thơ với người con gái nào đó đã qua  vẫn tha thiết nồng nàn, nhưng không rơi vào bi luỵ... có khi nó còn được tạo ra những thiên tình diễm lệ, rất đa dạng và phong phú.

Trong bài thơ Anh Vọng Nghe Tiếng Em Hát Bên Hồ - Chỉ là giây phút bồi hồi nhớ lại tiếng hát người yêu xưa, anh viết:

Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
Em mãi còn kỉ niệm trong anh
Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả
Cái đã hư xưa mới chính thực là mình


Nghĩa là tác giả quay sang triết lý về tình yêu và sự sống trong cuộc đời. Rồi anh sử dụng những hình ảnh vần vũ của thiên nhiên, trời đất để nói đến qui luật bụi cát, nhưng tình yêu thì mãi mãi vĩnh hằng:

 Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
Chiếu ở rất xa, qua hồn ta, trong mộng ủ
Ôi, hư vô- Sao quặn xiết lòng ta
Hỡi đêm tàn! Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa..
.


Theo tiếng hát ấy đưa ta vào xứ huyền diệu, êm ái của tình yêu.
  
Bài Khoảng Trôi Trong Lá lại là một tình thơ được cấu thành dưới gió mưa và trăng sao, nhưng bao kỷ niệm  tình yêu xưa  vẫn trở về cồn cào, day dứt trái tim của nhà thơ:

Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng
Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ
Nhưng vẫn đó: Em,anh - cuộc sống
Xa nhau rồi! tình cũ đến bơ vơ


Đó là thứ triết lý rất đời, tình yêu thì đã vào bụi cát, nhưng cuộc sống của anh và em thì vẫn đang phải tồn tại... để rồi tác giả trào ra những nỗi nhớ thương:

 Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng
Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi?
Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát?
Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi


Trong sự thổn thức nỗi lòng ấy, nhà thơ thốt lên:

Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng
Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo...


Nghĩa là chỉ có tiếng lá và tiếng gió vu vi... kia đáp lại lời tâm tình đó của anh. "Khoảng trôi trong lá" là một bài thơ tình khá hay và cũng là lạ.
  
Về thơ tình mùa thu, cái cách tả người yêu của anh thành biểu tượng, chẳng những chứa đựng sâu lắng mà vẫn sinh động, như:

Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...

              (Sáng Thu Vàng)

Với đôi môi thì:

 Môi em cười hoa lá nát đau thêm

Để rồi anh hạ một câu thơ thật đắt:

Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!...

Tiết tấu, nhịp điệu thơ thì uyển chuyển như một cánh võng mùa thu vậy:
             
 Sáng thu vàng mông mênh mênh mông...
Sáng thu vàng xang xênh xênh xang...
  

Tác giả đã gắn cả linh hồn, hình ảnh của người đàn bà trẻ ấy (cách anh gọi người yêu  như vậy), vào trong bóng dáng của mùa thu:

 Người đàn bà - Em nuốt mùa thu tan!

Chữ "nuốt mùa thu" này còn mang theo cả nghĩa thơ siêu thực, làm cho bài thơ mùa thu của anh càng cô đúc. Anh đã mang đến cho thi đàn được một bài thơ mùa thu hay!
   
Thông Và Biển là một tình thơ mà đôi trai gái đã được hoá thân vào đất trời, để ca vọng mãi tình yêu tuổi trẻ trong vĩnh cửu, vô biên:

 Biển thì xô, Thông suốt đời quạnh quẽ
Thân xù xì, nắng héo, mưa dông..
.


Trong cuộc sống đầy đá sỏi, mà tháng năm như một đoàn tàu nghiền trên đường đời ta thành tan nát, nhưng "thông và biển" vẫn cứ quấn quít hát mãi bên nhau:

Vỗ mãi anh thành cát mất thôi
Tình chỉ mộng, đời cũng là hư ảo
Biển xa xót, dịu dàng và sóng bão
Lời anh ru như gió thổi mây ngàn...

   
Nếu ở bài Người Đàn Bà Trắng ta bắt gặp một PNT với cách triết lý về tình yêu - cuộc sống rất thực tiễn:

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo con đường lông ngỗng trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!..
.


Thì ở trong Em Về Biển - Tình yêu ấy lại được nhà thơ đẩy cao lên thành một thần tượng vĩnh hằng:
               
 Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ!

   
Như nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:

Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.

  
Ở bài Một Góc Hồ Tây tôi thích cái câu thơ:

Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi


Bài thơ vẽ lên một bức hoạ đầy tình, mà mỗi cảnh vật đều thấm đẫm tâm linh của một con người đã bước vào tuổi hoa niên. Tình cảm, tâm hồn nhà thơ thật da diết... nhưng lại chơi vơi bởi sự cô liêu, đầy sắc hư hao như câu thơ đã kết:
                   
Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...
 
Về chùm thơ "áo trắng" của PNT - Nó nuối cảm những tình yêu chớm nở thưở đầu đời, trong suốt tựa dòng suối ban mai. Có những câu thơ mà hình tượng gợi vào trái tim ta da diết, bàng hoàng như:

Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
                     (Thời áo trắng).

Hay là:

 Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?

                 (Phố thu và áo trắng).
 
Nhà thơ không khỏi bỡ ngỡ, thảng thốt như một giấc chiêm bao. Vừa mới thoáng đây thôi mà mình đã già rồi! Vì thế nên cả thành phố cũng cô đơn, hiu hắt cùng nỗi lòng anh. Anh tha thiết muốn níu kéo lại nó:
                  
Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!

  
Tình yêu vừa mang lại bao hạnh phúc lẫn nỗi đau khổ cho trái tim ta, nhưng nó cũng chắp cánh cho những khát vọng bay lên cao, để ta làm được nhiều điều lớn lao hơn, có ích cho cuộc sống cũng như xã hội. Thơ PNT đã đạt độ triết lý sâu sắc và có nhiều tình thơ hay!

                                                           HTV.
                                               (In trên Tạp chí Diễn đàn vào số tới
                                           của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật VN)

Ghi chú: Bài viết đã đăng trên Tạp chí diễn đàn...số 175 - Tháng 8, 2009
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2009 11:47:40 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhân văn 04.07.2009 12:44:06 (permalink)
.


     Đánh giá tập thơ  RUNG ĐỘNG TRÁI TIM - Một số tình thơ đã in trong tập, ở những trang trên của mục này tôi cũng đã bình khá nhiều. Tuy nhiên, để có thể có được một sự nhận định tương đối xác đáng tầm vóc của tập thơ, trong bài viết này để bạn đọc có thể dễ nhìn nhận tôi sẽ đưa ra sự so sánh với các bài thơ hay của thi đàn xưa nay, kết hợp qua việc tham khảo với nhận định chung của nhiều nhà thơ, hoặc một số người bình luận đương thời về tập thơ của anh.

     Tổng cộng cả tập có 12 bài Thơ Đời và 33 bài Thơ Tình. Trước hêt xin nói về một bài thơ đời khá đặc biệt đã in trong tập thơ "Rung động trái tim" (RĐTT), đó là bài LÀM MA EM VỢ:

 
Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi " kiếp"
Chết thật hèn. Nhưng sống thế càng ôi,
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-Phật!

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Em ơi : chữ Kiếp trước chữ Người!
Sống cần cố gắng! Chết rồi thôi,
Hãy đi - Yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời!


(*) Nàng Kiều trẫm mình trên sông Tiền Đường nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Theo thuyết bản mệnh của Phật giáo ở cụ Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết... vì chưa trả hết nợ đời!

Nhưng trước khi phân tích về cái giá đã đạt được của bài thơ - Tôi xin nói ít nét cũng về "cái giá" mà những bài thơ đạt độ hay sâu sắc đã tồn tại với đời như thế nào?

Nói đến Bà Huyện Thanh Quan là phải nói đến bài thơ "Đèo ngang" của Bà - Tuy Bà còn nhiều bài thơ sâu sắc khác, nhưng chính Đèo Ngang đã dựng thành tượng đài làm nên tên tuổi thi nhân của người nữ sỹ!...

Hoặc nói về Hồ Xuân Hương chẳng hạn - Chưa cần kể đến những bài thơ đạt đỉnh cao của Bà như: Làm Lẽ, Cảnh Thu... mà chỉ với những bài thơ chí lý như Khóc Tổng Cóc, hay Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường... cũng đã bao tiếng tăm cùng song hành trong tên tuổi của nữ sỹ họ Hồ này!

Như Tú Xương thì nói về "Tiếng ếch", rồi "Thương vợ"...

Nguyễn Khuyến thì phải nói đến "Điếu thu" (trong chùm thơ 3 bài thơ mùa thu nổi tiếng của ông), hay bài "Khóc Dương Khuê"...

Đời sau như Nguyễn bính thì "Lỡ bước sang ngang" hoặc "Tương tư"...

Huy Cận là "Tràng giang"...

Xuân Diệu thì "Lời kỹ nữ" cùng bài thơ Biển...

Vũ Hoàng Chương "Say đi em"...

Xuân Quỳnh là "Thuyền và biển"...v.v...

Những nhà thơ đương đại hiện nay của ta rất hiếm người có được những bài thơ hay đạt độ lưu truyền , để có thể có được cái giá mang tầm vóc như thế!

Giờ xin nói về bài LÀM MA EM VỢ trong tập thơ RĐTT của PNT, có thể đạt đến "cái giá" nào?

Như đã nói : Trong tập thơ RĐTT này tác giả đã cho in theo cả lời bình của chính mình - Nhiều bài bình của tác giả cũng rất sâu sắc và hay, gây dư luận chấn động không ít trong giới văn chương. Ai muốn tham khảo cả thơ lẫn bình của tác giả thì xin xem trong mục "THƠ TÌNH CỦA PNT"
(Bài số 57 trong trang thứ tư ở phần bên).

Ở đây, chủ yếu tôi đi vào phân tích tổng quát nhằm làm bật lên Cái Giá để tạo nên tầm vóc mà khả năng bài thơ đạt được lâu dài lưu truyền trong đời và đối với nền văn học Việt Nam mai sau.

                                       


<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2009 12:41:58 bởi Nhân văn >
Nhân văn 20.07.2009 12:38:00 (permalink)
.


    Vì bài thơ LÀM MA EM VỢ là một bài thơ mang tính xã hội học sâu sắc, một bài thơ rất xúc tích, nó có thể đạt đến một giá trị của nền văn học... Tôi xin trích dẫn cả lời bình của chính tác giả - Lời bình này đã được tác giả cho in kèm với bài thơ trong tập "Rung động trái tim" mà NXB Thanh niên đã xuất bản vừa qua. Thêm những cơ sở để tôi tổng quát, phân tích về bài thơ cho đạt phần phong phú!...
    Lời bình của tác giả cho bài LÀM MA EM VỢ đó như sau:


  "Làm Ma Em Vợ" (LMEV) là một bài thơ khóc! Trước hết xin nói qua đôi bài thơ khóc có tiếng trong thi đàn của các thi nhân xưa. Hồ Xuân Hương đã viết hai bài thơ khóc về hai ông chồng. Thực ra bài Khóc Tổng Cóc không phải vì ông Tổng Cóc chết, chỉ vì chuyện vợ chồng tan vỡ đứt đuôi con nòng nọc đấy thôi:

                       Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
                        Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
                        Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
                        Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.


       Qua đó bà than cho thân phận mình. Lời từ biệt một ông chồng chưa chết, hờn giận chê bai ông vô tích sự, đã là chàng Tổng Cóc còn hèn kém nhu nhược. Bà nguyền rủa sự rẽ duyên của người vợ cả cùng với những người nhà ông. Bà đã đem cả một xâu: nào nhái bén, nòng nọc, chẫu chàng, chẫu chuộc ra mà giễu cợt. Lời nghe có vẻ cũng thống thiết , nhưng ý lại cay chua...Bài thơ mang tính bi hài.

       Còn bài Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường - Lời than có phần chân thành tha thiết, đủ thấy lòng bà cũng tỏ sự tiếc thương. Bà tiếc cái hạnh phúc ngắn ngủi sau 27 tháng chung sống được ông Phủ thương yêu, còn quí trọng như một người bàu bạn đồng cảm văn chương:
                        Cái nợ ba sinh đã trả rồi
                        Chôn chặt văn chương ba thuớc đất...


      Rồi bà trách tạo hoá không công bằng:
                        Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
                        Miệng túi càn khôn khép lại rồi.

      Bà phẫn xót cái phận bạc bẽo của mình nên giọng thơ có vẻ nhạo báng cõi đời. Nói chung hai bài thơ khóc của HXH , theo một cách nói: đó là hai tiếng thở dài khác nhau, tuy bộc lộ tính cách không kém ngạo ngược, nhưng nó vẫn chứa chất nỗi oán thán và chua chát cảnh thế gian.

      Lại bàn đôi lời về bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến (NK) - Cả thảy dài 38 câu. Viết từ nỗi đau tận cõi lòng , khi nghe tin người bạn tri kỷ (đương thời cùng thi đỗ khoa cử nhân với ông) đã mất. Áng thi viết như kiểu văn tế (điếu văn) bằng thể song thất lục bát. Giọng kể như lời tự sự bày tỏ lòng thương tiếc:

                      Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
                        Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau
                        Kính yêu từ trước đến sau
                        Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
                        Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
                        Tiếng suối reo róc rách lưng đèo
                        Có khi tầng gác cheo leo
                        Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang...
 

      Từ bầu bạn văn chương đến sở thích đều tương đồng hợp ý nhau:
                        Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp
                        Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân...

      Rồi ông than thời thế đảo điên, cảnh đời hoạn nạn phải từ bỏ quan trường, bạn bè vẫn cùng tri kỷ, lui tới thăm nhau chốn thôn hương:
                        Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
                        Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời....


     Nỗi thơ thống thiết, khi dùng cả tích xưa để nói tình thân giữa hai người:
                        Giường kia treo cũng hững hờ
                        Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

     Câu trên kể về tình bạn rất thân giữa Trần Phồn và Từ Trĩ: Trần Phồn dành riêng cho bạn một cái giường, khi bạn tới thì mời ngồi, lúc bạn về lại treo lên!...Câu sau mựơn ý nói đến nghĩa tri âm giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ: khi Chung Tử Kỳ mất, Bá Nha đập nát cây đàn không gẩy nữa. Cứ thế theo nỗi lòng xót xa thơ ông trào ra, rồi chạnh nghĩ về sự cô đơn không có bạn:
                        Rượu ngon không có bạn hiền
                        Không mua không phải không tiền không mua...


      Khóc Dương Khuê là một trong ít bài thơ nổi tiếng nhất của NK - Tôi trích một số câu như thế, để làm cơ sở phân tích cho bạn đọc dễ nhận thấy, sự khác nhau về cả cấu tứ cũng như thi pháp -  Khi bình sang đến bài thơ khóc LMEV  sau đây:
                        Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"
                        Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi

      Hai câu mở đầu này giống như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian của các bà, các cô...đối với những người thân hoặc các đức ông chồng :

 -  Anh ơi! Sao anh không sống để suốt ngày rượu chè, suốt ngày cờ bạc, suốt ngày đánh con chửi vợ, anh ơi!
 
      Ấy lúc sống thì rền rĩ, có khi mắng rủa nhau: Sao không chết quách đi cho rồi! Nhưng lúc chết thật thì lại khóc: “ Anh cứ sống tồi như thế cũng được, đừng chết mà bỏ vợ, bỏ con mà đi có hơn không? “ - Tôi ví như các bà, các cô khóc tang...là nói về giọng điệu, cũng như cách thức cảm xúc của tác giả để diễn đạt bài thơ khóc mang màu sắc dân gian. Chứ còn thơ có đạo của thơ, có nghĩa của thơ, không thể khóc tuốt tuồn tuột tạp-pí-lù theo kiểu các bà , các cô được.

      Ta xem trong câu thơ hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói :"... nhưng sống thế càng ôi" ! Như thế là ngay trong một câu thơ, đã đưa ra hai nhận định về cái sống và sự chết của nó (tức là người em vợ): Chết như nó thì dở , thì hèn, nhưng sống mà sống kém, sống tệ như vậy thì...Nhưng đây là một câu thơ khóc trước vong linh em - Có thể trách nó về cái chết thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách trước mồ mả em...e cũng thật là bất nhẫn!
 
       Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về Hàn Mặc Tử trong Thi Nhân Việt Nam - Kết thúc bài giới thiệu về HMT ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn".

      Trở lại với bài LMEV -  Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Nhưng một bài thơ khóc tang thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết của bài thơ đó! Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội, trước cộng đồng:
                        Sống cần cố gắng -  Chết rồi thôi...

       Bởi vậy để đỡ cho câu thơ khóc rất thật ấy, ngay hai câu sau đó: với nghĩa tử là nghĩa tận, đã thể hiện cái tâm và cái đạo của anh đối với người em. Những giọt nước mắt của nhà thơ đã nhỏ xuống , tình cảm anh xót xa mà thắp nén hương lòng, khấn cầu cho vong hồn em sớm được siêu thoát:
                        Anh thắp cho em một nén nhang đời
                        Và lễ tạ: Nam-mô-di...Phật!


       Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm? Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi LMEV này, đã được tác giả khai phá phát sáng lên ngay từ trong câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thơ thứ nhất ấy:
                      Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"

      Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh: Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương! Nhìn theo quan điểm nhân đạo: suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi! Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia? Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, bao oan nghiệt, phi lý bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó!

      Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa:
                          Em ơi! Chữ Kiếp trước chữ Người...

     Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ, với tâm khảm xót xa và ở trên bờ bến của nhân gian nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này -  Tôi bình sang đoạn thơ hai:
                         Người sống đưa chân người chết đây
                         Đầu bạc làm ma mái xanh này

      Cái lời tiễn người đã chết khi đưa ra mồ ra mả, nhưng ở đây nó ngược cảnh : đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh... nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống !
 
      Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục , cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai này, để nói lên nỗi xót xa bi thương đối với người em:
                        Mẹ,cha...queo quắt còn ham thọ
                        Em nhởn thanh xuân lại vội quay.


       Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân) : nghĩa thơ có ý trào lộng, ngôn ngữ nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của sự khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ , tủi nhục đắng cay mà vẫn sống đó... Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quên sinh?

       Đôi nét về phong thi: từ lời cầu nguyện trong ý của đoạn thơ một phát triển sang đoạn thơ hai, nó khác với cái chết bởi tạo hoá mà bà HXH đã khóc ông Phủ Vĩnh Tường: như kiểu bài tụng (theo thể thất ngôn bát cú). Bà nuối xót vĩnh biệt ông, trách trời trách đất...Rồi cám cảnh đời đen đỏ long đong đối với thân phận mình, bà than:
                        Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc
                        Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!

      Còn cái chết già của người bạn Dương Khuê mà NK đã khóc tang (như đã phân tích trên), mạch thơ dài theo một dòng cảm xúc, để kể cho ta về mọi chuyện của hai người...
và nhà thơ thương tiếc:
                        Làm sao bác vội về ngay
                        Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời

    Hay là:
                        Sao vội vàng (bác) đã mải lên tiên  

       Còn LMEV  -  Tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng,và còn nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường, bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Để cho rõ hơn , xin phân tích sang đoạn thơ ba là đoạn thơ kết bài:

                       Em ơi! Chữ Kiếp trước chữ Người...
                        Sống cần cố gắng -  Chết rồi thôi,
                        Hãy đi , yên nhé! Coi hết nợ...
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.

      Lại nói về thân phận Kiều trong tác phẩm của cụ Nguyễn Du: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành:
                        Làm cho sống đoạ thác đầy
                        Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!

                                                                ( Kiều )

     Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình ! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình:
                        Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?

      Để mà yên thân nơi cửa chùa:
                        Đã đem mình bỏ am mây...
                        Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng

      Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than:
                        Nói chi kết tóc xe tơ
                        Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời...

 
    Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng:
                        Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?

      Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng , ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế? mà vẫn chưa đủ trả!... Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói:
                        Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa...

      Để mà đền nốt cho chàng Kim! "món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng? Trở lại với bài LMEV, câu thứ ba của đoạn thơ này là:
                         Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...

     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ Kiếp luân hồi ấy... để nỗi thơ thương xót từ trong lòng tác giả đã trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em! (Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu?), đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau xót cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này!

                       Em ơi! Chữ Kiếp trước chữ Người...
  Ta trở lại với câu thơ đầu tiên:
                        Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"

      Thì đây cũng chính là tiếng khóc chung của nạn người! Lời khóc tang của bài LMEV này, là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian. Một mảng màu xám trên cái bình diện chung của hiện thực đời sống hôm nay:
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.

      Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn, mệt mỏi ê chề...chẳng qua chỉ vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi! Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa Phật, để thắp cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai đây... một nén nhang đời!


                    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.08.2009 13:06:06 bởi Nhân văn >
Nhân văn 16.08.2009 13:04:50 (permalink)
.


      Sở dĩ nhận định về thi phẩm LÀM MA EM VỢ có một chân giá trị khá sâu sắc trong thi đàn cũng như đối với nền văn học lâu dài, xuất phát trên mấy tiêu điểm sau:

1/  Bài thơ hàm súc tính nhân bản - Nó đầm ý nghĩa nhân gian!... vừa theo thuyết bản mệnh của kinh Phật. Thí dụ như ở câu thơ khi tác giả vấn an linh hồn của người em nơi chín suối:
               
Hãy đi -Yên nhé! Coi hết nợ...
Anh ở vì chưng trả nợ đời!

     
Như bài bình mà tác giả đã phân tích thông qua tích trong tác phẩm Kiều của cụ Nguyễn Du rằng: Chỉ có người chết là đã trả hết nợ đời. Một mặt khác ý câu thơ cũng còn để vấn an hương hồn của người em, nên nó cũng là tính nhân đạo của tình thơ.
    
Nhưng mặt khác chìm sâu trong bài thơ còn có ý phê phán một hiện thực xã hội còn có nhiều điều chưa tốt lành đối với cuộc sống của tầng lớp dân dã chúng sinh, thế cho nên ngay mở đầu bài thơ nhà thơ đã viết:
                  
 Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi kiếp...
     
Sống mà phải tìm cách chết để giải thoát mình - Thật là cuộc sống nhân quần đó cũng không kém phần khốn nạn rồi. Tuy nhiên sau đó tác giả cũng đôi chút trách người em rằng: "Chết như thế thật là hèn", nhưng em sống như vậy cũng chưa phải tốt?... Nhìn chung lại cho người đời cần phải suy xem: xã hội chúng ta đang sống đây, cuộc sống của đương đại chúng ta đây - chắc vẫn còn đầy rẫy những điều không tốt đẹp. Nó cần phải có sự điều chỉnh như thế nào, hoặc là về mặt thể chế cần thay đổi để có một xã hội tốt đẹp hơn?

2/   Cấu tứ bài thơ rất xúc tích, cảm động sâu sắc và tính người... nhất là về mặt nghĩa tử là nghĩa tận. Những câu thơ đan xen nhau chặt chẽ mà vẫn xúc động, ý tình rạch ròi. Như thể ngay sau khi đưa ra những triết luận về số kiếp ở 2 câu đầu mang tính phê phán hiện thực nhà thơ tiếp ngay đến hai câu sau có tính nhang khói cầu nguyện:
 
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!


Và ở trong đoạn thứ hai thì lại là những câu thơ mang tính than khóc của những người thân đưa vong hồn em về nơi chín suối, cho nên bài thơ rất cảm kích và rất đời:

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Rõ ràng đây là những câu thơ khóc tang và ý tình rất chọn lọc đúng với hoàn cảnh, nỗi tình về cái chết của người em.

3/  Có thể nói bài thơ vừa mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, câu chữ xúc tich, giàu cảm xúc , giọng thơ tha thiết... về mặt thi ca nó hoàn toàn có khả năng là một phẩm bích của nền văn chương trong thế gian và khả năng tồn tại với thời gian, với các hoàn cảnh chính trị xã hội khác nhau.

Ta hãy đọc lại hai câu 9-10 mà xem tác giả vừa kết hợp tính duy tâm và duy vật biện chứng rất cuộc sống và cũng rất thời đại:

 
Em ơi : chữ Kiếp trước chữ Người!
Sống cần cố gắng! Chết rồi thôi,

Câu trên rõ ràng tác giả cũng nói là: con người ta có "chữ kiếp", nhưng câu sau thì đã đưa ra một ý thức về nghĩa sống và chết trong cộng đồng sao cho tốt! Nhưng rồi tác giả lại quay lại vấn an em với lời lẽ rất cảm động và tự nói với em về tâm trạng mình là một người anh:

Hãy đi - Yên nhé! Coi hết nợ... 
Anh ở vì chưng trả nợ đời!


Cho nên bài thơ chỉ có ba khổ (12 câu) mà hàm chứa bao nhiêu ý nghĩa, nó có thể đạt đến là một bài thơ mẫu về sự khóc tang được.

      Tác giả bình cũng đã rất sâu sắc rồi , tôi chỉ xin diễn giả thêm vài ý đó - Tóm lại LÀM MA EM VỢ là một bài thơ đời rất chí lý, một bài thơ hay!
 
Nhân văn 12.09.2009 13:03:36 (permalink)
.

      Để mọi người có thể đọc và khái quát được cả tập thơ - Nhân Văn sẽ đăng trọn vẹn cả tập thơ ra đây. Như đã nói: Tập thơ Rung Động Trái Tim của anh xuất bản lần này là một tập thơ độc đáo, hãy cứ đề cập về phần nội dung cung cách nó đã có thể xếp vào dạng độc nhất vô nhị xưa nay chưa có nhà thơ nào làm như thế!

Thật ra khi chưa xuất bản cái việc tác giả làm thơ rồi lại tự bình thơ mình, mà có phải là bình ít đâu - dễ đến cả trăm bài ấy chứ!... Người khen cũng nhiều, kẻ dè bỉu cũng không thiếu! Ấy anh phớt tất, mà lại bình rất công phu... bỏ thời gian đến cả chục năm trời để làm điều đó. Việc anh cho xuất bản, lúc ban đầu làm giấy phép không phải là không có trắc trở đâu?...

  Cái giống đời ở Việt Nam nó thế mà: Tác giả tự bỏ tiền ra, NXB cũng khen là bình hay... Ông giám đốc NXB này thì lại sợ nếu có tai tiếng thì ảnh hưởng tới cái ghế của mình, Anh biên tập nọ thì lại sợ nhỡ giám đốc phê bình mình biên tập... thì mất sự tin tưởng của lãnh đạo, hoặc là có chỗ đồng ý thì lại đòi biên tập cấu xé lời bình! Cũng mất thời gian khá nhiều, rồi cuối cùng PNT cũng xuất bản ra theo ý mình mà không bị NXB  đẽo gọt đi một chữ nào cả.

    Khi Tập thơ được xuất bản ra đời rồi thì sao?  Tất cả từ các giáo sư, tiến sĩ văn học ở Viện văn học, hoặc là giảng dậy ở trường đại học, các nhà văn nhà thơ ở Hội Nhà Văn, anh em trong giới báo chí, sinh viên trí thức được anh biếu tặng thơ, hoặc được đọc tác phẩm của anh, có thể nói đều tâm phục khẩu phục, ngay cả Ông Hữu Thỉnh Chủ tịch BCH HNVVN cũng phải công nhận về giá trị của một tập thơ!

  Nói như nhà thơ Lê Đình Cánh và một số khác : Anh đã đi trước bọn nhà thơ 40-50 năm. Ít có tập thơ nào khi xuất bản ra, mà đặc biệt tác giả cho ra cả lời bình của mình như thế... hầu hết chỉ có thán phục, miễn chê. Ai có thể được lòng hết mọi người? Nhưng ngay cả những người kê kích với PNT, lần này sách đã xuất bản rồi... cũng không dám buông lời bôi bác - Bởi vì tập thơ nó có giá và cả tầm vóc của nó!...

  Theo như ý của tác giả, anh đã nói với tôi : Cứ tạm biết như thế, anh đang dự định làm một số chuyện trong giới văn chương đã... Tập thơ sẽ còn phải bàn luận nhiều. Thôi thì tôi sẽ đăng trọn vẹn ra đây, và rồi sẽ tiếp tục đàm đạo một số nét cơ bản theo nhận thức của mình với mọi người. Văn chương còn là một sự vui thú, chơi bời cái hay, cái đẹp, cả cái kỳ, cái ngông nữa mà...


       Nguyên bản toàn bộ tập thơ như sau:




 
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái.


Quê quán Hà Nội.
Điện thoại: 0168 302 4194

         ĐÃ XUẤT BẢN:

- Có một khoảng trời ( 1990)
- Người đàn bà trắng ( 1994)
- Rung động trái tim (2009)
       & có nhiều thơ, lý luận văn học in trên các báo Trung ương, địa phương...



                        
                            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.04.2011 11:27:28 bởi Nhân văn >
Nhân văn 12.09.2009 13:14:44 (permalink)
.    

                           
                                                       Tựa đề của tập thơ:




                                                                      Con sẻ hót mênh mông đồng nước
                                                          Người hát rong hát vui sân ga
                                                          Tiếng Hát Đời Thường
                                                                                   thường lẫn vào bụi cát
                                                           Anh hát cho đời...
                                                          
Anh hát em nghe...


             LỜI GIỚI THIỆU TẬP THƠ
                  CỦA TIẾN SĨ VĂN HỌC


                     BẢO NGỌC


                                                               


 
        Tôi còn nhớ: Kể từ lần xuất bản tập thơ " Người đàn bà trắng " -  NXB Thanh niên 1994, đến bây giờ cũng đã hơn một giáp. Hiện nay Phạm Ngọc Thái đã và đang tiếp tục cho đăng cả Tuyển thơ Đại Bàng ( khoảng 500 bài có cả bình ) trên mạng internet  trong website của Việt Nam Thư Quán ( vnthuquan.net - Ở trang " diễn đàn " - Danh mục " tác giả người Việt " ).

     Thực ra thì hơn một chục năm đó, tuy không xuất bản tiếp nhưng anh đã cho phát hành rất nhiều các tệp thơ lẻ... để quảng bá thơ ca của mình rộng rãi khắp chốn kinh thành, trong làng báo chí, các hội văn chương, đặc biệt là phổ cập rất nhiều thơ tình vào giới sinh viên trong các trường đại học. Tiếng tăm và thơ anh đã được nhiều người biết đến.

    
    Phải nói : Phạm Ngọc Thái  là một con người sống hết mình, hết tâm huyết với thi ca. Như tiến sĩ triết học Thế Hùng đã từng nói về anh: Con người tử vì đạo! Hoặc như nghệ sĩ Trần Việt Thịnh đã viết trong bài bình luận: " Phạm Ngọc Thái  -  Người hai lần thi sĩ  " rằng: 


-    Nếu coi thơ ca là một ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì anh chính là một tín đồ trong không nhiều tín đồ của ngôi đền đó !...

     
    Dường như anh sinh ra là để làm thơ ! Về cơ bản thơ Phạm Ngọc Thái là loại thơ truyền đời. Trong tuyển thơ của anh có rất nhiều bài đã đạt độ khúc triết, sâu sắc và là những bài thơ hay.

      Một loại thơ hàm chứa đầy ý nghĩa trong hình ảnh câu chữ cũng như hình tượng thi ca. Nó gắn liền tính chất sâu xa của thơ cổ phương Đông, kết hợp khá nhuần nhuyễn với các trường phái thơ hiện đại châu Âu: Từ trường phái thơ lãng mạn , tượng trưng đến siêu thực... đã kết hợp với nhau và được cô đúc trong thơ triết học . Rút ra không chỉ từ lý luận thuần tuý mà gắn liền với đời sống xã hội, cùng bể khổ trầm luân cõi nhân gian...

    Đọc thơ anh càng thấm thía hơn nỗi lận đận, long đong nơi bờ bãi con người và giàu tính nhân văn. Hầu hết là thơ tự do. Nhưng trước hết vẫn phải nói: Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tình yêu! Đặc biệt thơ tình của anh đã đi được vào lòng các tầng lớp: từ tầm bậc tuổi hoa niên đến lớp trẻ sinh viên, rất nhiều người yêu thích thơ anh.

     
   
Một số  lớn các tình thơ đã được anh công phu viết những bài bình hoặc tiểu luận chí lý và rất hay. Chưa có một nhà thơ nào có dụng tâm viết, mà lại viết say sưa và sâu sắc đến vậy. Tôi vốn là người từng ham đọc thơ, cả thơ trong nước và thế giới.

    Theo tôi: Thơ Phạm Ngọc Thái đã đạt được tầm là một tài sản của nền văn học quốc gia và có sức truyền lại trong dân gian. Gọi là để giới thiệu thơ anh , tôi chỉ viết vài lời như vậy. Bởi - Nhiều bài thơ cũng đã được anh viết bình thích thú lắm rồi ! Xin giành để các nhà văn, nhà thơ, những người nghiên cứu bình luận văn học... cùng các đọc giả xem và thời gian kiểm nghiệm. 

    
    Sau nhiều năm dừng lại, nay anh tiếp tục cho xuất bản thơ để ra mắt bạn đọc - Trên con đường của nghệ thuật thi ca, chúc anh thành công !...

 

                                                                     
  
                                                               (Viết tại Hà Nội - Mùa thu 2008 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.09.2010 01:46:22 bởi Nhân văn >
Nhân văn 12.09.2009 13:29:41 (permalink)
.


                      ĐÊM BÓNG CÔ ĐƠN


Em đột ngột qua mưa chiều tạt lá
Chút thơ lòng tầm tã tim anh!
Mối tình nhỏ líu lo đùa một gã
Người tuy xa còn lại bản đàn êm.

Người con gái đi rồi ra phố vắng
Em về đâu trong đêm bóng cô đơn?
Anh muốn níu cơn gió đường lặng thoáng
Để cùng trinh nữ tắm yêu thương.

Đêm tháng bảy, em ơi! Lòng da diết,
Nén hương thơm thắp trước cửa đền
Khe khẽ vào đời anh làm bể biếc
Thành phố buồn, mùa thu đến chăng em!

Thì đi nhé! Dù chia ly là biệt tích
Đời thầm vương... Tình cũng vở kịch câm...

Mùa lá rụng… em bước mùa lá rụng
Gió cứ bay mây trắng đầy đường
Người con gái đi rồi ra phố vắng
Em về đâu trong đêm bóng cô đơn?

 
                                                7/1999


  Vào một đêm của mùa lá rụng, người con gái cô đơn ấy đã nghĩ gì đang bước đi trên phố vắng ? Tôi không biết!

                 Đời thầm vương... Tình cũng vở kịch câm...

  Đúng thật, tình là một vở kịch câm! Đoạn thơ: Em về đâu trong đêm bóng cô đơn? /-
Đã được tác giả nhắc đi nhắc lại hai lần làm điệp khúc cho bài thơ. Còn câu thơ:

                 Nén hương thơm thắp trước cửa đền  

  Nghĩa là, lòng anh thực cũng muốn về bên em… nhưng tình thì trắc trở. Người con gái đang bước đi trong mùa lá rụng ấy, em có nghe thấy cả mùa thu đang đến không? Mùa của chia ly đấy! Như khúc tình ca yêu thương, mưa cũng đang rơi tầm tã trong anh.
Đêm Bóng Cô Đơn là một tình thơ nuối tiếc về hình bóng đối với một người trinh nữ, như dòng suối thiết tha chảy mãi trong trái tim chàng thi sĩ!
 
 
 
 
 
                      PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG
 
 
 
Tà áo trắng em đi qua phố
Mùa thu rơi phủ mắt anh
Tà áo trắng của người sinh nữ
Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.
 
Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
Áo quệt vào máu rỏ hai tay…
Ôi, mùa thu mùa thu êm ả
Sao lòng anh tơi tả thế này?
 
Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm bơ vơ,
Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
 
Anh cũng có một thời bên áo trắng
Cũng bế bồng và cũng đã ru em!
Cái thời ấy chìm vào xa vắng
Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang.
 
Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
Câu thơ nẩy những bông hoa buồn
Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
Em đi rồi! Anh chết cả mùa đông.

 
                                          9/1994
 
 
        Một sáng mùa thu, khi tôi đang đi lang thang trên đường phố Hà Thành, giữa cảnh mưa bay...Bỗng một đoàn thiếu nữ vận toàn áo dài trắng tha thuớt, ôm nhau trên những chiếc xe phóng lướt qua tôi:

                 Tà áo trắng em đi qua phố
                      Mùa thu rơi phủ mắt anh


    Những câu thơ đầu tiên, cảm xúc bật ra trong cảnh tình như thế. Hay là:

                Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
                      Lang thang vài cánh bướm bơ vơ


  Đó là một mùa thu của tình yêu ! Lòng tôi xốn xang, dường như thể có những mũi dao nào đó đang trích sâu vào trái tim tôi, làm đau đớn và ròng ròng máu chảy:

               Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
                     Áo quệt vào máu rỏ hai tay…
                     Ôi, mùa thu mùa thu êm ả
                     Sao lòng anh tơi tả thế này?


   Ai chẳng có một thời dan díu với các nàng thiếu nữ, từng tha thiết mộng mơ bên áo trắng của các em:

                Anh cũng có một thời bên áo trắng
                    Cũng bế bồng và cũng đã ru em!


Bài thơ này - Chính nhà thơ đã kể lể về cái thời đã có ấy của mình!
 
 
 


                 ANH VỌNG NGHE
           TIẾNG EM HÁT BÊN HỒ



Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
Đôi mắt mùa thu ru êm ả,
Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió
Những đêm không chiếu không màn.

Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
Em mãi còn kỉ niệm trong anh
Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả,
Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.

Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
Chiếu ở rất xa,
                    qua hồn ta,
                                  trong mộng ủ.
Ôi, hư vô - Sao quặn xiết lòng ta,
Hỡi đêm tàn!
Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...

                          
                                              2/1996


   Người thiếu nữ ấy: đôi mắt nàng như cả bầu trời mùa thu gió và trong những đêm trăng mơ mộng. Đó là những kỉ niệm êm đềm, tha thiết của một thời, đã trở thành lưỡi dao cào xé tim anh. Thật đẹp đẽ biết bao:

                Những đêm không chiếu không màn  

Những đêm trăng hồ em đã từng hát để ru anh, là những đêm của tình yêu! Đời đẹp nhất, hạnh phúc nhất là những năm tháng… anh với em sống trong màn trời, chiếu đất. Tiếng hát mà nhà thơ bàng hoàng nghe của người yêu xưa vọng đến trong những đêm không chiếu, không màn ấy: một tình cảm vừa lãng mạn, vừa hoang xơ. Ta đã thấy ngay ở đoạn thơ đầu:                                  
                 Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
                     Đôi mắt mùa thu ru êm ả


  Tuy chỉ là những hình ảnh gợi lại , nhưng nó đã vẽ lên một phông cảnh thật máu thịt và đam mê. Sang đoạn thơ hai:

               Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
                    Em mãi còn kỉ niệm trong anh
                    Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả,
                    Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.


  Trong bụi cát… năm tháng qua đi vùi nó vào quá khứ. Nhưng vẫn còn đây hơi thở, đôi môi êm ấm của em . Trái tim anh đang sống lại một thời với người con gái. Nếu như ở đoạn thơ đầu - Tác giả ghi lại những cảm xúc, sự thổn thức khi nhớ đến người yêu: Từ đôi mắt như cả một mùa thu xanh, rồi những đêm ân ái không chiếu, không màn, thì đến đoạn thơ hai lại đi vào triết lý về mối quan hệ tình yêu và cuộc sống. Thực tại và ảo ảnh. Hiện tại và quá khứ. Cái quá khứ lại trở thành tồn tại trong tâm hồn và cuộc sống của chàng:

               Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả,

  Còn cuộc sống anh đang sống hôm nay chỉ là hư vô, trống rỗng. Anh đang tồn tại chính là tình yêu một thời đã có với em. Cái triết lý so sánh ấy tạo nên một thứ lôgíc nhấn mạnh về ý nghĩa của tình yêu! Người đọc cũng dễ dàng cảm đồng với nhà thơ.

  Anh Vọng Nghe Tiếng Em Hát Bên Hồ là một bài thơ tương đối hay. Dù chỉ có 3 khúc thơ nhưng liên kết với nhau, xoắn xít trong cảm xúc mà triết lý tạo nên sự sâu sắc của tình thơ. Ta hãy nghe trong đoạn kết  tác giả đã nói gì:

                Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
                     Chiếu ở rất xa,
                                      qua hồn ta,
                                                    trong mộng ủ.


  Nghĩa là: trên bầu trời xanh cao vời vợi kia - Hạnh phúc của đời anh với người con gái cũng chỉ như những bóng mây thoáng trôi qua. Nó trở thành giấc mơ sống mãi, ấp ủ trong cuộc đời anh. Như những vì sao xa  chiếu rọi xuống tâm hồn và trái tim anh. Để cuối cùng nhà thơ đã thốt lên giữa cảnh đêm tàn, hoang vắng:

               Ôi, hư vô - Sao quặn xiết lòng ta,
                    Hỡi đêm tàn!
                    Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...


  Anh chỉ còn sống trong mộng ảo cùng với nỗi cô đơn!
 
 
 
 
 
                        NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG                                   

                                 Người đàn bà đi trong mưa rơi
                                     Chứa một trời thầm như hoa vậy...

                                                      
                                                         *

Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!...

Em đi - về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                       suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát,
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà... ngậm cả vầng trăng...

 
                                            ( những năm 90 )
 
        Nhà thơ gọi em bằng cái tên Người Đàn Bà Trắng (NĐBT), thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ:

                Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
                      Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc


  Từ chiếc mũ vải trắng mềm em thường đội trên đầu lẫn vào trong khóm mây, và khóm mây kia nghiêng trôi trên mái tóc em. Nghĩa là: bóng em đi hiển hiện dưới một bàu trời cao vời vợi. Ấn tượng nhà thơ về em cứ vờn bay cùng trời mây, gió cuốn. Đến đôi mắt của người yêu:

                Đôi mắt em đong những áng mây
                     Người đàn bà trắng!...


  Đó là đôi mắt của mùa thu êm ái, ngọt ngào, trong xanh và xa thẳm. Bích Khê trong bài thơ Tranh Loã Thể cũng đã tả về đôi mắt người mỹ nữ:

               Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường

  "châu" ở đây là châu ngọc - Đôi mắt đẹp của người đàn bà được thi nhân mô tả ấy mang tính mỹ học (châu ngọc, nghê thường). Thân thể nàng cũng trinh trắng bay ra như hương, như tuyết. Khoé mắt nàng lung linh ánh sáng kỳ ảo, dị thường. Còn NĐBT - đôi mắt em lại đẹp một cách hiền dịu , mộng mơ. Nhà thơ đã lấy những hình ảnh từ trong vũ trụ, trời đất qua cảm xúc mà tả về em.

"...đong những áng mây" : Đôi mắt người yêu vừa huy hoàng lại vừa nhân ái, anh đã phiêu du trong đôi mắt ấy. Nó chìm ngập một thế giới...chiếu rọi vào những ngõ ngách làm cho cuộc đời anh sáng bừng lên, nhưng nó cũng từng làm tan nát trái tim anh! Đôi mắt người yêu mang đầy sự huyền ảo như Xuân Diệu đã viết:

               Đến tan cả đất trời
                    Anh mới thôi dào dạt


  Em thật hiền! Ta đã yêu em từ đôi mắt ngời lên như một trời châu báu, là cánh cửa tâm hồn của người đàn bà, mà thăm thẳm bao la cả bể ái tình. Sang đoạn thơ hai hình ảnh người thiếu nữ hiện lên đi giữa cuộc đời, qua một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:

               Em đi - về... chao những hàng cây
                    Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
                    Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội...
       

Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa của đất trời có gió thổi, cây đưa...Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp như một vầng trăng mọc. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm của nhà thơ đã có. Những tháng năm anh đã sống trong êm đềm và hạnh phúc của tình yêu. Giờ đi lại những con đường đã qua, anh như nghe thấy cả một khúc tình ca đang sống lại. Ở đó, mái tóc người con gái xưa vẫn xoã tung bay trên đôi vai trần trắng của nàng :

                 Xoã ngang vai mái hất tơi bời

     "tơi bời" ở đây có ý nghĩa của sự chói loà, chói ngợp...bởi sự chinh phục thời con gái.  Là tình yêu tơi bời, mãnh liệt và sấm sét của nàng. Tơi bời là tơi bời xuống sự sống, là bão tố phong ba, là sức mạnh phóng túng của con người Nàng có thể làm say đắm , ngả nghiêng cả tâm hồn, trí não và trái tim ta!

"Xoã ngang vai mái hất tơi bời" -  Nó tôn vinh thêm sự rực rỡ bởi quyền năng thời con gái của em. Em đi…vẫn bàu trời trong xanh, mĩ miều, mềm mại với chiếc mũ vải mềm xưa và khóm mây trắng nghiêng trôi trên mái tóc. Nhịp thơ trải dài ra như những làn mây, lớp lớp trên những dòng thơ. Bồi hồi trong kí ức xưa, hồn nhà thơ như con đò mộng lạc vào nơi bến vắng, cô đơn! Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp mưa sa, cùng những lá vàng tháng năm rơi phủ xuống trời đất. Trong cảm xúc, tiếng lòng nhà thơ đã cất lên gọi vọng tình em:

                 Đường xưa đó về đây em ơi!
                    Những con đường đã đầy xác lá rơi
                    Xác ve, xác gió và xác của mưa


  Những con đường ấy giờ đây thật là hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian. Con đường mà người con gái đã đi qua cuộc đời nhà thơ ấy, dù cuộc sống có bao nhiêu trăn trở, năm tháng cứ trôi đi nhưng.hình bóng em không phai nhoà. Thân thể của người yêu như một vườn đầy tiếng chim và hoa thơm.  Tình yêu em  đang làm xa xót trái tim anh!...Người con gái năm xưa  cũng đang phiêu dạt nơi nào trong gió mưa phủ táp cuộc đời? Dông bão sẽ dội xuống mà em như một đoá hoa thơm rực rỡ đang bị nhấn chìm , vò xé ở trong đó! Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng : xác gió, xác mưa, đã đầy xác lá, xác ve...trôi . Nghĩa là: lớp lớp năm tháng chồng lên nhau phủ xuống nấm mồ tình! Những kỉ niệm êm đềm và những tối yêu em đã rất xa...nhưng vẫn lẩn khuất trong tâm tư của lòng chàng. Khi những ánh điện đêm thành phố, bàu trời sao giăng chiếu qua khoảng trống của những tán lá cây soi lên mình em...khuôn mặt em tha thiết biết bao. Đôi má em  mịn mà như một miếng trăng thơm, anh chỉ muốn cắn hôn lên đó.

    Mắt em nhìn thân thương, trìu mến. Anh khẽ kéo em vào hôn đắm đuối trên đôi môi nàng ngọt ngào như thể trái cây. Bóng cây mờ tỏ che khuất đi những cử chỉ thèm muốn của nỗi đam mê (?) Anh lần qua làn áo mỏng xoa trên thân thể nồng cháy, đặt lên bộ ngực êm mát của nàng - Hai bàu trái cũng nóng hổi xúng xính trong tay anh. Mắt em nghiền nhắm lại đưa hồn vào cõi ru mê!...Ôi, cái của người thiếu nữ mãi mãi là báu vật mà nàng mang tặng nó cho ta! Bàn tay anh chỉ muốn đi tìm vào cõi thiên thai - Đi từ trên xuống dưới tới tận chỗ cuối cùng để vào tận nơi thẳm sâu ở trong em. Bà Hồ Xuân Hương đã tả về cái đó của em thế nào:

                 Cỏ gà lún phún leo quanh mép
                      Cá diếc le te lách giữa dòng...


   Anh lại gọi đó là những sợi lông tơ tiên, là những cánh hoa kim. Anh đã xoa lên những sợi lông tơ như những cánh hoa kim ấy. Anh khẽ vén búi cỏ gà để vuốt ve hai bên mép thiên tạo. Đôi chân trần trắng như ngà em giương cao như đôi cánh hạc, để lộ ra cả một vòm điện ngọc : Đó là cổng trời!...Ở nơi ấy vào cung nguyệt, một động ngọc ngà tuyệt đẹp! Khe vào cổng sâu thẳm để đón tình yêu của anh vào với em. Nơi giáp gianh giữa trời đất, âm dương tận cùng gặp nhau. Như trong bài thơ NĐBT đã viết:

                 Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
                      Người đàn bà ai mà định nghĩa?


    Cụ Nguyễn Du cũng đã tả về cái của nàng Kiều:

                Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên

  Khi ta ngả mình lên em...thân thể em như cả một bàu trời đang toả ngợp  đầy ánh sáng. Sức hút nơi ấy của em còn mạnh hơn sức hút của trái đất. Một núm con con... Nhưng đây là vòm cửa của cả một động thiên thai! Cái vòm cửa vũ trụ tạo hoá đã dầy công để tạo ra gắn lên tấm thân người đàn bà. Nơi ở giữa, khi hai bên kẹp đùi em khẽ nép lại, đã loá ra những ánh sao thần tiên và tuyệt mĩ biết bao! Vũ trụ ấy của em đã sinh ra tất cả các kiệt tác của nhân loại này, cao vời vợi và bất tử! Chính tình yêu và tấm thân em đã sinh ra cả mùa xuân bất diệt đầy hoa thơm, trái ngọt cho cuộc sống. Sinh ra mùa thu trong xanh êm đềm, với những đêm đầy những mộng mơ. Của mùa hè gió mát và tiếng chim ca rộn rã. Nhưng đồng thời em cũng sinh ra cả mùa đông giá lạnh băng hàn...

  Giờ đây nhà thơ chỉ còn nghe thấy tiếng gió mưa phủ lên những con đường ấy, đã đầy xác lá, xác ve...trôi. Cái bờ hồ gió thổi  ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình em ở đó. Mãi mãi ở trong anh...      

  Tôi xin trở lại phân tích sâu thêm về đoạn thơ ba:

                Nỗi niềm thao thức
                     Những đêm trăng nước...
                     Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai !
                     Người đàn bà ai mà định nghĩa ?


  "Chùm trinh em hát..." : Hình ảnh thơ đã được cách điệu hoá. Trong bài thơ Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử : Vào một đêm trăng sao lòng những cô đơn - Thi nhân đã mơ đến những giây phút được vui vầy với người trinh nữ . Ông mường tượng ra cả cái của nàng cũng giống như vành nguyệt đang in soi trong khe nước. Lòng thi nhân bồi hồi thảng thốt kêu lên:

                 Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
                      Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...


Đó là một áng thi tuyệt tác, có thể coi đó là những câu thơ vàng. Ông run rẩy mê man đắm nhìn cái vầng trăng của người trinh nữ ấy:

                Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?

    Chính bởi thế Bẽn Lẽn đã trở thành một trong số bài thơ hay nhất của ông. Còn cái ấy của NĐBT thì sao?

                Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!

  Hình ảnh thơ mô tả lại mang màu sắc trừu tượng và gợi cảm.

  " Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại và sinh ra ở đó! Nó vừa vĩ đại vừa man dại. Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có thế giới, không có cả linh hồn lẫn sự sống và cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế gian này. Với câu thơ:

               Người đàn bà ai mà định nghĩa ?

  Tôi nhớ đã được đọc những trang sách viết về thân thế và sự nghiệp của Đại văn hào Nga vĩ đại Lép Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những luân lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, mà chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi...

  Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh!

  "Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!" - Đoạn thơ tả khúc triết này đã đưa thi phẩm NĐBT bay vào cõi vô biên và là bài ca bất hủ , huyền bí viết về đàn bà.     Mỗi khi " chùm trinh em hát ": Dường như cả vũ trụ dạo nhạc quanh ta. Cái vòm cửa thiên thai ấy lại mở ra để cất cao bản xô-nát tuyệt hảo nhất thế gian:             

                 Người đàn bà ai mà định nghĩa ?
                      Người đàn bà ai mà định nghĩa  ?


Đó là những câu thơ về đàn bà hay đạt đến độ đẳng cấp. Tôi cho rằng: viết về tình yêu và đàn bà – Bài thơ NĐBT  rồi  sẽ trở thành một tượng đài lộng lẫy của thi ca...

  Tôi xin bình sang đoạn thơ 5 - Đây lại là một mảng thơ đời. Nó đã triết lý về tình yêu và cuộc sống giữa nhà thơ với nàng:

                 Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                     Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                       suốt đời chèo sông vắng
                     Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
                     Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau (!)


  Mâu thuẫn giữa cuộc sống và tình yêu là vậy - Đó cũng là hai mặt nghịch lý của cuộc đời:

                Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu

  Còn anh cũng không đầy mình để cứ làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết! Thực ra… chảy trong tình thơ thì anh cũng đã thầm tương tư em suốt đời rồi.

   Mối tình  của nhà thơ với NĐBT cũng chỉ là một bi kịch tình. Vết thương trái tim đôi trai gái ấy tháng năm vẫn không hàn gắn lại được, như câu thơ đã viết:

               Vết thương lòng không dễ đã lành đâu  

  Nhưng cái Con Đường Lông Ngỗng Trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp… nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá! Cái hay của khúc triết lý  trong bài thơ NĐBT là nó đã được viết như đời. Trong tấn bi kịch tình yêu ấy: dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm như một định mệnh - Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tai! Dù là theo chiều gió cuốn của cuộc đời...Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch Tình - Đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm giọt lệ, nó như những tiếng than bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu!

  Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt lõi nhất - Mảng thứ nhất như trên đã nói, chính là đoạn thơ ba: "Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!"... Làm thành nền tảng , như tim óc, như tuỷ sống, như cái cây đã được kết thành trái chín cho cả tình thơ NĐBT này.   

     Trên con đường vô định... nhà thơ vẫn thiết tha, khao khát gặp lại người thiếu nữ. Trong những đêm hoang vắng và sâu thẳm của không gian mênh mông, lòng anh lại âm thầm khắc khoải:

                 Những đêm sao buồn, những đêm gió khát,
                      Khúc thơ tình anh lại viết về em!


  Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của nhà thơ. Những ngọn gió đêm vô tình bay qua, như thể vẫn còn cất giữ ngọn lửa tình mà người thiếu nữ xưa từng sưởi ấm trái tim anh! Để rồi bài thơ đã được kết thúc bằng một câu thơ tuyệt bút đẹp nhất về nàng:

               Người đàn bà... ngậm cả vầng trăng...

  Cái vầng trăng ấy của nàng quen quen mà vẫn lạ! Nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như thánh linh... Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà hay chính nàng là một vầng trăng? Nhưng chao ôi, dù gì thì nàng cũng đã "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng để rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ về em: Anh đã viết thiên tình ca NĐBT bất diệt này để lại cho thế gian.

Cuối cùng xin mượn cụ Nguyễn Du đôi câu thơ mà Người đã kết trong Kiều để khép lại bài viết bình về thi phẩm NĐBT ở đây. Nhưng nếu chẳng may có ai đó không ưa cách bình tán thơ như tác giả ở trên, xin cũng được miễn thứ! Đó chẳng qua cũng chỉ là những tiếng nói tri âm thôi mà... Thiết nghĩ: trong cái bể khổ trầm luân này, nếu có thể mang lại được cho nhau những phút giây cảm khoái - Thì âu đó cũng là một điều có nghĩa:

                 Lời quê chắp nhặt dông dài
                      Mua vui cũng được một vài trống canh./.

                                                      
 
 
 
                                   MỘT GÓC HỒ TÂY
    
   
   Anh đến mình anh trong chiều muộn
     Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây
     Ngắm mặt gương hồ vào chập tối
     Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.
    
     Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng
     Vừa đơn côi mà không đơn côi!
     Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
     Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi.
   
     Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
     Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu!!!
     Trong sân gạch sư già quét lá
     Bước người đi thầm lặng cõi hư hao.
   
     Chiều Hồ Tây-Chiều Tây Hồ lộng gió
     Ta và người: Cõi mộng khác chi nhau?
     Người quên hết! Còn ta yêu tất cả,
     Trong tiếng lá bay...chầm chậm bóng ta theo...

 
                                                        1/1994
 
        Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp cái bóng mặt trời khuất muộn trong cảnh chiều chập choạng - Giống như bóng trăng sáng trắng… vừa hơi viên mãn, vừa như ảo. Tác giả đến bên hồ, một người một cảnh trăng nước vơi đầy :

                 Anh đến mình anh trong chiều muộn
                      Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây
                      Ngắm mặt gương hồ vào chập tối
                      Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.


  Rõ ràng cái bóng mặt trời như bóng trăng sáng hơi bàng bạc kia  đã hòa điệu với tâm hồn và nỗi lòng u uẩn của nhà thơ. Khi anh nhìn lên ,cái đọt mây bay ngang qua ấy cũng mang màu phớt trắng:

                 Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng

   Nhưng tại sao lại "lơ đễnh"? Bởi vì tâm trạng của nhà thơ lúc ấy:

               Vừa đơn côi mà không đơn côi!

Nó chơi vơi, nửa vời... vừa hơi cô lẻ lại vừa muốn tĩnh tâm. Cảnh người buồn buồn, lơ đễnh đấy mà đâu có phải là lơ đễnh? Tình thơ trở nên da diết như muốn níu kéo một hồi ức nào đó đã xa xăm , vẫn còn đầm đìa tha thiết ở trong anh.

Sau đó tác giả có nhắc đến một người con gái nào đó,nhưng hình như không phải là một cô gái cụ thể, hay một cái tên cụ thể? Đó là khát vọng tình yêu!...Trong niềm hiu hắt của một con người đang bước vào tuổi hoa niên:
 
                Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
                    lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi


Nó không chỉ còn là cảnh chiều hoàng hôn của trời đất nữa, mà là buổi chiều hoàng của cuộc đời nhà thơ. Hình ảnh chiếc lá vàng lại rơi vào đúng chỗ ngồi của người con gái năm xưa...nó đằm thắm mà xót xa. Gợi đến một mối tình, một thuở tình của những năm tháng đã qua đi. Thì có mấy ai đã vui mãi, yêu mãi được suốt đời? Hạnh phúc gái trai mà nhà thơ đã từng có trong cuộc đời, theo thời gian nay đã úa tàn đi. Cuộc sống không có tình yêu đã trở nên vô vi, hư ảnh. Nhà thơ đi giữa cuộc đời như một cái bóng không hồn. Tất cả sự sống cùng thế giới này với anh đã trở thành vô nghĩa rồi chăng? Hình ảnh: Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi /-  là một câu thơ hay!

Nhưng buồn hơn nữa... Trong cảnh chiều tà người nước vơi đầy ấy, thì tiếng cửa chùa lại vang lên :

                 Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu !!!     

  Từ chiếc lá vàng rơi thay vào chỗ ngồi của người yêu đến tiếng mõ chùa… như một bản xám hối kinh kệ cuộc đời,  tạo cho bài thơ Một Góc Hồ Tây (MGHT) thành  một bản tình xô- nát của buổi chiều hoàng không kém vẻ thê lương. Đáng lý ra tiếng nói bên nhà thơ phải là tiếng nói âu yếm của một người con gái ngọt ngào, tha thiết yêu đương, thì giờ đây chỉ còn vẳng lên tiếng cầu nguyện của kinh chùa:

               Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
                    Mõ chùa buông theo tiếng nói của tình yêu !!!
                    Trong sân gạch sư già quét lá
                    Bước người đi thầm lặng cõi hư hao.


   Cái bóng đa bên phố cũng trở nên "gù", thật đầy bóng phật đền. Phố xá trong thời buổi kinh tế thị trường mà cảnh chiều cứ như chiều thôn quê. Lòng nhà  thơ đã bay vào chốn cõi thiền!... Rồi lại hiện ra bóng của nhà sư già đang quét lá sân chùa - thì giữa hai cảnh đời: Một bên là anh thi sĩ cô đơn, với những người đi tìm vào tu tĩnh trong cảnh chùa  trốn tránh nơi trần thế - Hai mà là một! cùng về nơi mà cuộc sống đã hư hao,  thật mà không. Đến hàn huyên nơi cửa phật nhưng lòng vẫn cô lẻ vì tình trai gái:   

               Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...

   Mặt sau của thơ chứa cả một khát vọng tình yêu! Lòng anh cũng mênh mang, u hoài như những chiếc lá đang bay.

   Những hình ảnh trong thơ : Cảnh chiều lễnh loãng, bóng đa bên phố lại gù, mặt trời cũng giống như vầng trăng sáng nhạt, bóng người hư hao... đến đọt mây bay qua cũng mang màu phớt trắng và lơ đễnh, v.v... Những hình ảnh ấy đã tạo cho bài thơ MGHT tựa như một bức tranh thủy mạc. Dùng cảnh để họa tình, hồn thơ đầm đìa mà phong thái vẫn thanh tao.

  Đến cuối bài thơ - Cảnh Hồ Tây đã được tác giả nhắc lại  để khắc họa thêm một lần nữa khoảng không gian ban đầu của tình thơ:

               Chiều Hồ Tây- Chiều Tây Hồ lộng gió
                    Ta và người: Cõi mộng khác chi nhau?
                    Người quên hết ! Còn ta yêu tất cả,
                    Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...


Đời mà tình, tình mà vẫn đời là vậy. Tất cả đều quyện trong một buổi chiều hoàng ở bên hồ. Nó ẩn náu trong một trái tim, một tâm trạng buồn tẻ chênh vênh... Bởi cõi lòng nhà thơ đang cô đơn vì thiếu vắng bóng em yêu./.
    
    
 
                                         

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.09.2009 12:45:14 bởi Nhân văn >
Nhân văn 15.09.2009 12:27:55 (permalink)
.


                NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA                                    

                           ( Nhớ lại thời chiến sĩ qua làng )

Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chiến sĩ
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.

Một làng bé quanh con nước lớn
Với quê hương thầm dịu thuở chiến tranh
Lòng thôn nữ như vầng trăng tỏa sáng
Lại trở về man mác trái tim anh.

Làng em lũy tre xanh bất tử
Mới gặp một đêm mà...đã thấy thương thương...
Bóng nhìn anh mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng.

Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
Và quê em...đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng,
Đang bồi hồi thao thiết...giữa trăng sao...

Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân...
Đêm thành phố nhớ em buồn da diết
Em bây giờ có hạnh phúc không em ?

 
                                             1995


      Tôi không còn nhớ tên em, nhưng hình ảnh em từ đôi mắt tới dáng hình thì tôi vẫn còn man mác nhớ. Đó là vào một buổi trong những tháng năm còn chiến tranh, đơn vị của chúng tôi hành quân qua một ngôi làng nhỏ ở bên ven sông Hồng. Thuở ấy tôi mới chỉ là một anh chiến sĩ binh nhì chưa đầy hai mươi tuổi:

                Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
                    Bãi ngô non xanh gió chân mây
                    Người con gái anh gặp thời chiến sĩ
                    Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.


    Chúng tôi đã dừng lại nghỉ tại làng và "tổ ba ba" của tôi được bố trí ngủ ở nhà em. Tối đó tôi ngồi nói chuyện với em khuya lắm, trong một mái bếp xóm quê. Bên bếp lửa bập bùng...khuôn mặt em tươi trẻ, người em đậm đà, tiếng nói cũng nhỏ nhẹ dễ thương. Nhìn nhau bên bếp lửa, đôi mắt em ánh lên trong sáng lạ thường. Bên em lòng tôi không khỏi dấy lên những cảm xúc bồi hồi...

    Phía trước của người chiến sĩ là chiến trận. Chỗ đứng của người chiến sĩ là nơi còn đang trong bom đạn. Yêu thương đến mấy thì cũng phải dứt áo mà đi…để không bao giờ còn gặp lại. Mối tình đời lính chớp nhoáng của tôi chỉ vẻn vẹn có vài tiếng đồng hồ như thế ! Ấy vậy mà mấy mươi năm chiến tranh qua lâu rồi, tôi cũng đã quên đi nhiều thứ… nhưng hình ảnh về người con gái thì tôi vẫn còn nhớ mãi:

                Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
                    Và quê em... đời sống có nâng cao?
                    Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng,
                    Đang bồi hồi thao thiết...giữa trăng sao...


    Để rồi vào một đêm buồn thành phố -  lại nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào của thời xa,  tôi đã cầm bút viết bài thơ Người Con Gái Sông Xưa này !
 
 
 
 
                    EM BÉ CẦU BƠ


Tối ba mươi lò than phở đã nguội rồi
Em bé cầu bơ không nơi ngồi sưởi ấm,
Đêm giao thừa người chúc nhau nhiều may mắn...
Dưới gốc cây già... một bóng nhỏ nhuộm màu đen.

 
                                 - Đêm xuân 1991


    
  Hình ảnh đứa bé cầu bơ cầu bất trong một đêm giao thừa. Cái đêm cuối năm chuyển sang năm mới, trời giá lạnh. Đứa bé không nhà, không cửa… ngày đi xin ăn, khuya về ngủ nhờ vào hơi ấm của cái lò phở để qua đêm. Nhưng đêm ba mươi - Hầu hết các cửa hiệu đều đóng cửa, lò than cũng không còn được đốt nữa, đứa bé không còn chỗ nào để sưởi ấm tấm thân còm.

   Rồi giao thừa qua... mọi người đi lễ đêm ba mươi về gặp nhau, chúc tụng nhau những lời tốt đẹp nhất ! Chỉ có cái bóng nhỏ, như một bóng đen đang co quắp vì giá lạnh dưới một gốc cây già. Cái hình ảnh cũng được gọi là  sự sống ấy, nhưng nó vật vờ nhỏ nhoi… nhuộm trong cả màu đen của kiếp người.  Nó là những thân phận thấp hèn của chốn dân gian.

   Em Bé Cầu Bơ là một bài thơ chứa chất nỗi tình đời sâu sắc,  tuy chỉ ngắn có bốn câu  mà vẫn rung động sâu xa.
 
 
 
 
                   KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC


 
Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng ?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu !
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em...

 

                                       -  Đêm 9/7/1997

(*)  Huyền thoại kể: Nàng Công ( con gái quan lang dân tộc ) thương nhớ chàng Cốc khóc mà chết! Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi) thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ… nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!
-------------------------
 
 
   Vào một đêm mưa gió, không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận.Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng: một niềm đam mê man dại. Trời ơi! Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị! Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên ! Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc (KBHNC) được dựng lên bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về. Và - chính giữa đêm mưa gió đó tình thi diễm lệ ấy đã ra đời !

    Lamartin - thi sĩ thuộc trường phái thơ lãng mạn Pháp (1790-1869) đã viết bài thơ tình Hồ -A-Đờ nổi tiếng thế giới! Hình ảnh người đàn bà rền xéo lên tâm hồn và trái tim thi sĩ mà vang động khắp không gian:

    “ Xin giữ lại trong hiu hiu ngọn gió / Trong âm vang xao động mãi hai bờ / Trong gương mặt nguyệt hằng có vầng trán bạc / Đang toả lan dìu dịu sáng trên hồ/...Hay là: Ôi thời gian, hãy ngừng bay. Và những giờ tươi đẹp / Vội vàng chi, thôi cuồn cuộn đi nào / Cho ta kịp hưởng trọn niềm diễm tuyệt / Của những ngày ta kì diệu ngọt ngào/…”.

    Sở dĩ tôi trích một số trong bài thơ dài 52 câu của ông, để bạn đọc nhìn ra dung dáng và phong cách cảm xúc - Khi phân tích về bài KBHNC ta sẽ thấy: tuy cùng thuộc loại thơ tình lãng mạn, tình yêu với người đàn bà rền xiết trên hai mặt hồ...nhưng giữa hai bài thơ đã được ra đời cách nhau đến hơn hai trăm năm này, thi pháp thơ của chúng cũng rất khác biệt nhau.

    Gọi là KBHNC nhưng bài thơ không phải là một tiếng khóc, nó là khúc tình ca! Dù khúc tình ca ấy trào ra từ một nỗi tình bi. Viết thế cho có vẻ đượm màu sắc lâm ly mà thôi:

                   Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                       Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...


    Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai… ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba:

                  Gió gào thét trong lặng chìm tim óc

    Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc cả một thế giới tĩnh lặng đến rùng mình của tim óc con người (bên trong) : chúng cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả thể xác và tâm hồn tình yêu trong nó! Để đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, mà bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng:

                 Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay...

   Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả :
                  Rõ màu trong ngọc trắng ngà
                      Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên.


    Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của KBHNC chỉ là bức tranh ảo: bởi ấn tượng từ trong kí ức, nỗi cồn cào của trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể nàng, thế mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Hình ảnh người đàn bà đã được tháo gỡ, bóc ra nõn nà trong trắng khắc hoạ trên nền trời Hồ Núi Cốc: "...trên bóng bến xưa bay" - thần sắc ảo mà vẫn sống động và man dại.Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca chứ đâu phải là một bi kịch tình? Đó là sự bùng nổ của ánh sáng và sự sống muôn đời.

    Những yếu tố cảm xúc này theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX hoà phối trong dòng thơ lãng mạn...để hình ảnh ngôn ngữ, ý tình thơ được hàm xúc cô đọng. Chứ không viết chảy tràn theo tình cảm...mà các trào lưu của các trường phái thơ lãng mạn đã có ở châu Âu từ thế kỉ XVIII về trước đó (Người tiêu biểu là nhà thơ Lamartin như đã trích dẫn trên. Tuy nhiên bài thơ Hồ-A-Đờ của ông cũng đã lấp lánh không ít những hình ảnh tượng trưng ).

    Sang đoạn thơ hai là sự gắn bó giữa câu chuyện huyền thoại xưa với câu chuyện tình nay , nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái:

                   Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                       Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...


    Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ đã quyết quên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng lại hoá thành non! Không có tình yêu tất cả trở nên vô nghĩa. Tình yêu gái trai là nơi trú ngụ , ý nghĩa tồn tại của cuộc đời ta:

                  Nhưng để làm gì khi tình vô vọng ?
                      Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con!


     Tôi xin phân tích đôi nét về ba chữ " khoảng đời con " - Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết bốn câu thơ:

                Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
                    Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
                    Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
                    Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.


    Cách nhìn như vậy của ông xuất phát trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Ba chữ "cuộc đời con" mang theo những quan niệm của hệ thống tư tưởng đang bao trùm lúc đó –  Bởi vậy, ba chữ “ khoảng đời con “ của bài thơ KBHNC này vì thế đã ra đời : để phản ảnh một quan niệm khác… về nhân sinh quan cùng thế giới quan của nó!

   Trong bài thơ tình nổi tiếng của nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ F.K.Đaglargia, với nhan đề
 “ Tình yêu “ chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn:

                Yêu, có nghĩa
                    Là cùng người yêu
                    Chia đều
                    Trái đất thành hai nửa.


    Nghĩa là, hai người yêu nhau là cả trái đất, là tất cả! Còn nhà thơ Nga M.Lermôntốp (1814-1841) bằng một cách nói khác trong thi ca, đã ví về tình yêu bất hủ đối với người đàn bà:

                  Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                      Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ


    Lật mặt kia của hình ảnh thơ thì cũng có nghĩa như:
           Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con!

    Không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy!... thì thử hỏi: sự sinh tồn trên trái đất này để làm gì? Không có sự phát quang, bùng nổ hay tiến bộ xã hội nữa! Nó tạo thành máu chảy, sáng tạo và cả huỷ diệt. Mặc dù tác giả có đặt câu hỏi:

                  Nhưng để làm gì khi tình vô vọng ?

    Đó chẳng qua chỉ là  tiếng than thở hắt ra mà thôi. Người than cho câu chuyện tình trong trời đất của nàng Công, chàng Cốc hay là than cho mình? Mượn tình xưa để nói nỗi đời nay, ý tình cứ rền xiết lên nhau như hai câu thơ khác trong đoạn thơ bốn:

                  Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
                      Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm

     
       Cảm xúc thơ cứ tràn ứa mà đẫm lệ - Tôi bình sang đoạn ba, là đoạn thơ máu thịt nhất của bài:

                Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                    Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                    Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.


    Khi mưa gió phủ táp xuống miền hồ núi, ta nghe như tiếng câu chuyện tình xưa nghiền xé vang lên: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /-  Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta bao nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau.

      Chẳng thế mà Lamartin (cũng trong bài thơ Hồ-A-Đờ ) đã thốt lên:

                Hãy yêu nhau, hãy yêu! Khắc giờ đang vụt biến
                    Vội vàng lên cho hưởng trọn giờ vui
                    Thời gian không có bờ, con người không có bến
                    Thời gian trôi đi, đời người mau qua thôi!


    Trong bài thơ KBHNC tác giả khoác lên cả không gian kia một dải băng tang trắng. Nghĩa là, trời đất cũng để tang linh hồn và trái tim son sắt của tình yêu! Nói về thi pháp của cả 4 câu thơ trong đoạn thơ ba này: ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, để nuôi một câu thơ thật, thật và rất đời! Chính là câu thơ 2 trong đoạn:

                   Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!

    Hình ảnh thơ đã động tới cái chốn linh thiêng ấy, có thể sờ mó, xoa nắn được. Nhưng tôi xin tạm dừng ở đây để bình những câu thơ ảo trước, (câu 1 đã bình trên):

                  Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                      Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.


    "Máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu! Thơ ngả sang màu siêu thực: cái bóng xanh rì muôn thuở của non ngàn, với "bức phù điêu" đã được tạc lên trên nền thiên nhiên kì vĩ kia, là bởi máu và nước mắt tình của những đôi trai gái tắm vào trong nó ! Nghĩa là thơ không dừng lại để than vãn cho sự tan vỡ của cuộc tình, cả trong bất hạnh đau thương nó cũng tô đẹp, là bản tình ca bất hủ trong vũ trụ cũng như cuộc sống con người. Chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già - Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời, trên nền thảm xanh ảo huyền của hồ núi, có cả băng tang và máu chảy.

      Bằng một cách định nghĩa thi ca Chế Lan Viên đã viết:

                  Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy
                      Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ.

                                       (trích di cảo - Bờ bên kia )

    Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới thơ của nó!

   Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ 2 của đoạn - Nếu không có Vú Người Yêu thì thử hỏi: Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa... để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này, nếu không có Vú Người Yêu thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? Cắn Vú Người Yêu là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ, hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng...(như trên đã nói: ba câu thơ ảo để nuôi một câu thơ thật) - Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca của tình thơ KBHNC ! Nỗi tình , hình ảnh thơ như tia lửa hạt nhân bùng nổ để cháy cả hoàn cầu. Nó sẽ còn sống mãi để đưa bài thơ đi xa trên bến bờ Thi!...Viết xong bài thơ KBHNC này, tôi biết rằng: Tôi đã đi đến tột đỉnh thi ca của đời tôi mất rồi ! Cứ cho là tôi vẫn còn có thể viết ra những tình thơ hay khác, Nhưng hay hơn Hồ Núi Cốc thì chắc là không !? KBHNC sẽ mãi mãi là bản tình ca man dại, bất hủ và… tôi cũng đã hoàn thành sứ mạng của sự nghiệp Thế Giới Thơ Tôi!

    Đến đây tác giả chỉ xin nói thêm đôi chút nữa về câu thơ cuối cùng của bài:
                    Mai chết rồi làm nước tắm cho em...

    Xuân Diệu thì nói rằng:
                    Anh không xứng là biển xanh
                         Nhưng cũng xin làm bể biếc


    Còn đây, tác giả lại viết : "Mai chết rồi”… thậm chí cả kiếp sau nữa, chỉ làm một dòng nước tắm cho em! Con người có thể làm bao chuyện phi thường - lên cả vũ trụ mà chinh phục sao Hoả, sao Kim cùng các vì sao. Bao nhiêu phát minh khoa học vĩ đại, sáng chế ra cả những tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu... Ấy thế mà! Phải, ấy thế mà: liệu có gì còn có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh, hay thậm chí chỉ là một bồn nước trong nho nhỏ...để mà  kì cọ, tắm rửa thoả thuê cho cuộc đời và thân thể của người yêu?

    Đấy, nhà thơ của bài Khóc Bên Hồ Núi Cốc này chỉ xin được kết tình thơ ở đó !!!
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.09.2009 12:36:40 bởi Nhân văn >
Nhân văn 15.09.2009 12:51:46 (permalink)
.


             TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG

                                 . Tặng vợ
 

Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
Vẫn đón con đi - về... như thường lệ,
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
Đôi mắt em : đôi mắt ấy màu đen.

Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (*)

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời !...
Anh hát em nghe!...


                            ( nước Đức , tháng 2/1989 )

(*)  Dấu đại bác tại cổng thành Thăng Long phía Bắc - Khi quân Pháp đổ bộ vào đánh chiếm Thủ Đô.

------------------
 
 
           Truyền kể lại rằng trong một khu phố nhỏ, có một người vợ trẻ cùng với đứa con thơ, ngày tháng chờ người chồng nay ra đi nơi đất khách quê người vì miếng cơm manh áo - Tiếng Hát Đời Thường (THĐT) là một bài thơ về quê hương! Những hình ảnh quê hương được gợi lên rất thân thuộc, nhưng vẫn mang được tính điển hình khái quát. Như ở đoạn thơ hai: Từ hình ảnh căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo thường ngày trong phố, đến cảnh sóng nước hồ Tây... đã được gợi lại bằng câu chuyện cổ của nàng Thị Lộ từng bán chiếu gon đã gặp ông Nguyễn Trãi...
    
   Những hình tượng mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ về chốn quê nhà. Những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi...cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa vẫn còn in dấu đại bác từ thời bọn giặc Pháp bắn vào - Thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Đó là một bức tranh quê, tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống hàng ngày trước đây cũng được nhà thơ nhớ lại:

                Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
                    Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
                    Chưa tối đã  khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
                    Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.


         Người chồng ấy dẫu tận phương trời xa nhưng lòng vẫn nhớ về nơi có người vợ trẻ và đứa con thơ đang trông đợi:

                   Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
                        Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!


   Cái miền quê một thuở nào đã từng theo anh ra trận, trên bước đường của người chiến sĩ giải phóng quê nhà:

                 Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn
                      Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...


   Và bài thơ đã được kết thúc trong nỗi lòng hiu hắt của người đang lưu lạc nơi đất khách quê người, như những tiếng nói dân gian để làm cho tình thơ quê hương càng tha thiết:

                 Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
                    Con sẻ hót mênh mông đồng nước
                    Người hát rong hát vui sân ga
                    Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát...


   Cái tiếng hát đời thường ấy - Đó có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của một em bé bán báo, hoặc tiếng gọi đò trên quãng sông trong một đêm thanh vắng. Cái tiếng hát đời thường ấy máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám tháng ba… và cũng có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng cùng những người thân, ngày ngày ta vẫn từng nghe ở đâu đấy vọng lên thảng thốt, để rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời !...
 
 
 
 
 
 
 
                     THÀNH PHỐ MƯA RƠI

 
Em hãy gảy bản tình lên chút nữa
Và có nghe trong thành phố mưa rơi?
Hãy đắm làn hoa thơm trinh nữ
Dòng suối tinh mai khoả tắm chân trời.

Gió ru khẽ mơn man cây trước cửa
Chúng dập dìu tựa thể đang yêu!
Trong tình ấy… gió cây đều ướt cả
Đầm đìa muông dại biết bao nhiêu.

Em hãy thả mảnh hồn con bướm trắng
Mà phiêu diêu quên thực tại nhọc nhằn,
Ở giữa lưng trời, tận miền xa vắng
Lòng nhớ nhung em anh cũng thương thầm.

Gió nhè nhẹ! Em ơi, mưa nhè nhẹ!
Chỉ riêng lòng anh bão không thôi,
Cứ để hồn anh trong nước lạnh
Với màu mây hoang trôi đến xa vời...
 

                                   10/1996

 
 
 
 
 
                        ĐÊM TÓC ĐÁ
      
                              Thơ dân gian.


Nửa đời tóc hoá thành đá cả
Rụng vãi thềm...đầy phủ quanh trăng...
Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ
Mà nay gò mả, ma rừng.

Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu !
Có của nhà, vẫn còn ham tơ nhú…
Ngồi chẳng yên - Hồn dạ cứ vi vu.

Trên kia nguyệt không quần như đã
Đêm thơm chùa...trắng dã tấm thân nga...
Trinh tiết thời nay em mở cửa:
Ngai vàng còn dưới cái em ta!

 
                                     1994


      Ta hãy nghe câu thơ thứ năm:
                    Tai nghe tóc ve bên bà gái goá

   Thực ra nó chỉ là câu thơ viết chơi cho sướng, cho thích thơ - Cái mái tóc một thuở  trẻ nào đã cùng dan díu với bao nàng thiếu nữ xinh đẹp! Giờ đây đành phải rời bỏ, chỉ còn biết ve vãn bên các bà gái goá, hay gái dòng gì đó? Buồn đến chảy nước mắt mà đau xót. Nhưng nối tiếp với câu thơ sau đó, thì lại thật là thi ca :

                    Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu!  

   Lời thơ khá uyển chuyển và  phong hoa. Tuy nó mô tả những dòng nước mắt đang rơi lã chã  xuống mùa thu của đất trời, nhưng lại tạo thành tứ thơ hay:

                    Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
                        Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu!


   Sự chuyển đổi giọng và nhịp của những câu thơ như thế mang nhiều tính nhạc, kết hợp với nghĩa thơ để gây một âm hưởng xôn xao, chứa chất từ trong rung cảm của trái tim, đưa thi phẩm trở thành một bản thơ trữ tình. Những câu thơ rơi... được tác giả nhặt lên ấy, hoà với dòng lệ đời chảy xuống mùa thu xao xiết buồn . Một mùa thu của  tình yêu muốn được mơn trớn và vuốt ve. Đêm Tóc Đá là một bài thơ lãng mạn, vừa mang phong cách viết chơi vừa ẩn chứa một nỗi lòng hiu hắt và khát vọng của buổi hoa niên - Nhưng nếu ngẫm kỹ  trong câu thơ cuối cùng:     

                 Ngai vàng còn dưới cái em ta!
    
    Thì thế giới của tình thơ này còn ngụ cả ý triết lý về nhân tình thế sự!...


                         
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.09.2009 12:45:59 bởi Nhân văn >
Nhân văn 18.09.2009 12:36:45 (permalink)
.


           EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA
     
                            -Tặng một bông hoa Núi  


Nghe không em lại mưa lên phố!
Bao năm rồi chiều ấy cũng mưa rơi...
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

Thưở xưa ấy , em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ,
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi…
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ.

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua.
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa.

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan.

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch,
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...

 
                                       31/7/2005

 
 
 
 
 
            CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ
 
 

Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!

 
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.

 
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.

         

                - viết bên bờ hồ Gươm 1994
 
 
           Vào một đêm trời đầy sương gió bên hồ nước, tác giả đã gặp cô quét lá… chính là người quét rác trong phố khuya. Đó là những con người lao khổ. Cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre, ngày tháng quét lê trên đường để mòn vẹt dần đi:

                     Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
                     Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!


      Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy đã kêu xiết vào trái tim người thi sĩ, để những giọt thơ từ trong anh rơi ra. Thông qua bức chân dung về Cô Quét Lá Đêm Hồ (CQLĐH), nhà thơ muốn phản ánh cuộc sống cũng như nhân ảnh những con người lao động , cõi dân gian truyền đời, truyền kiếp. Giữa khối lòng buồn, tình buồn của nhà thơ… nhưng lại ở trong cõi mộng. Nó mơ mộng đến mức hình ảnh cô quét lá trên đường hóa thành như tiên nữ từ trong tranh bước ra, lặng lẽ đi vào bến bờ thi:

                   Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
                   Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.

 
       Tấm hình của bức chân dung trở thành siêu thực. Siêu thực theo nghĩa của nó: thực mà đã siêu trần. Nghĩa là - cái thực thăng tới đỉnh hiện ra từ trong tâm linh. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả - như ở đoạn thơ hai mà ta vừa phân tích, đã tạo thành nhân cốt của bài thơ - Nhưng đây là Nhân Cốt Đời!

Sở dĩ tôi nói “ nhân cốt đời “ bởi vì: Nếu ta phân tích tới hai câu thơ đầu của đoạn thơ thứ ba, ta sẽ lại gặp một nhân cốt  khác nữa của bài thơ. Nhưng nó đã là những hình ảnh mang tính tượng trưng – Vì những câu thơ ấy dẫu vẫn toát lên chất đời nhưng rung cảm lại ra khỏi bến trần ai thường tình               

                     Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                     Con nai vàng chết bóng thu xưa..
     
 

        Nhìn sâu vào trong đêm đó, giữa nhà thơ và cô quét lá bên hồ như có hai khoảng đời cách biệt: một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm sống vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với tâm hồn xúc cảm, lãng mạn của nhà thơ? Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách rờn rợn, lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ. Em quét lá có cô đơn không? Nhà thơ không biết! Em cứ thầm thì lặng lẽ quét… chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó, đứng gần ngay ở bên em. Nhưng nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn! Câu thơ:

                    Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng  

  Đã ra đời như thế! Trong thi ca: Từ xúc cảm truyền sang cảnh, để rồi nhân cách hóa - Thí dụ như bài Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử có câu thơ:
 
                    Hổn hển như lời của nước mây

     Lúc ấy lòng thi nhân đang hổn hển đấy chứ! Khi nhìn cảnh các thiếu nữ xinh xắn vui say đi trên đồi, lòng Ông bồi hồi cảm xúc, thế là cả đất trời cùng rung lên hổn hển... Còn ở trong bài CQLĐH này thì bóng trăng đã được hóa thân, nó kết hợp với câu thơ dưới:

                    Con nai vàng chết bóng thu xưa...

Tạo nên những hình ảnh đồng điệu. Nhưng nguyên nhân vì sao lại có cảnh con nai vàng bị chết giữa bóng của rừng thu? Từ nỗi đời ra mà thôi! Hình ảnh cô quét lá cứ quét ngày, quét tháng, đời này qua kiếp nọ... cũng như chiếc chổi tre  năm tháng  mòn vẹt dần  - Còn con người thì lại "không nhân ảnh! Vậy những con người bần khổ ấy làm gì có tâm hồn mà mộng với sầu như cố thi nhân Lưu Trọng Lư, để mơ đến cảnh bóng con nai vàng của Tiếng Thu kia? Thế là từ cảnh đời ấy nảy ra ý ngược thơ - Con nai vàng phải chết!

     Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô... như trong thơ của cố thi nhân, bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích  nằm bên trong tình thơ. Còn hình ảnh "con nai vàng chết" của bài thơ CQLĐH này…ý nghĩa xã hội của nó nằm bên ngoài tình thơ -  Để phản ánh tới sự mất mát cả giá trị đời sống thẩm mĩ và tinh thần của những kẻ bần hàn. Họ là những con người lao động trong đáy cùng xã hội.   Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tình thơ cao lên! Ý nghĩa câu thơ còn rộng rãi… tùy theo người đời suy xét khác nhau mà khai phá nó.   

    Giờ xin quay trở lại với những câu thơ mở đầu:

              Một đêm hồ nước đầy sương gió
                     Người đi không rõ mặt người
                     Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                     Em thầm thì quét lá, bên tôi!

    
 Miêu tả cảnh trời sương gió – nghĩa đen , nhưng chính để phản ánh những cảnh lầm
lụi gió sương của những con người lao động đang lặn lội ở đó - nghĩa bóng. Thông qua không gian thơ: Hình ảnh hồ nước là nước non xứ sở, mảnh đất mà mồ hôi họ đã tắm vào trong đó. Câu thơ:

                     Người đi không rõ mặt người…

    Những gương mặt bị nhòe đi không còn nhìn rõ ấy - Đấy chính là nhân ảnh của nhân gian! Phải chăng họ cũng chỉ vất vưởng, nhạt nhòa như những kiếp phù du? Nghĩa là bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ về những kiếp đời của chốn nhân quần! Cái lớp người bần khổ… thời nào mà họ chẳng phải chịu những bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo. Đến cuối bài thơ cái nhân ảnh mờ mịt này còn được tác giả nhắc lại một lần nữa:

                     Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng

      Suốt dọc bài thơ từ không gian gió sương hay cuộc sống, mặt người, cái chổi tre, vầng trăng đến cả bóng con nai vàng... đều là những hình ảnh dẫu thực vẫn hàm ý biểu tượng. Nó phản ánh nhân sinh quan xã hội của nhà thơ. Ta hãy nghe tác giả tả về cảnh liễu hồ:

                    Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                     Em thầm thì quét lá, bên tôi!


Cái tiếng liễu đìu hiu ru quanh hồ vắng , bên những bước đi âm thầm của cô quét lá - cảnh ấy, đời ấy!...Như Nguyễn Du đã viết :

                     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

  Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ  trầm lắng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức và cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ, êm ả, nửa thực, nửa không...Nhà thơ thương cô , xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá thành thơ rơi vào cõi lòng anh.  Đến câu thơ kết nhịp thơ đã được kéo dài ra, hạ xuống êm đềm như một khúc nhạc du dương:

                    Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.

Ở ngoài kia, xa kia...cô quét lá đêm hồ vẫn đang lặng lẽ quét, lặng lẽ đi, khuất dần vào trong màn sương tối. Em không còn đây nữa! Khoảng không gian giờ đây chỉ còn lại mình anh nhà thơ ở đó, với một bóng trăng ngàn thu cô đơn soi mãi trên đầu đi vào cõi muôn năm!...
 
 
 
 
 
                     ĐÊM THIẾU NỮ
 
 

Tiếng ếch chùa động vỡ “ Đêm thiếu nữ “
Mây từng đàn trôi nổi phận thiên nhiên
Ta khỏa lòng ta đằm sương gió
Sau chuyện tiền nong với áo cơm.

 
Ôi, thân thiết chặng đời gió bụi
Những tháng năm đá, sỏi... đến cùng em,
Em đã nuôi ta bằng nhị hoa phấn dại
Một chặng đời sôi nổi giống bướm ong.

 
Làn tóc ướt, môi thơm chùm ớt ngọt...
Nhớ thương nhau nhưng chẳng thể đi tìm!
Mặt nguyệt đêm này nhòe sương bạc
Anh một mình ngồi hát ru em!...

 

                                        1992
 
 
      Cái đêm có tên là “ Đêm thiếu nữ “ ấy, nhà thơ đã ngồi ru em bên bóng một ngôi chùa hiu hắt:

                      Tiếng ếch chùa động vỡ “ Đêm thiếu nữ “

Ngay câu thơ đầu tiên đã khuấy đảo lên trong cái đêm thanh vắng, nó gợi nhớ về một thuở đã xa xưa:

                      Ôi, thân thiết chặng đời gió bụi
                      Những tháng năm đá, sỏi... đến cùng em,


Nhưng để rồi thực tại vẫn cứ là thực tại, nhà thơ lại phải trở về với cái bóng cô đơn của mình lặng lẽ ngồi ru hát người yêu:

                     Mặt nguyệt đêm này nhòe sương bạc
                      Anh một mình ngồi hát ru em!...


Nói theo cách nói về nữ sĩ Hồ Xuân Hương: bài thơ như một tiếng thở dài hắt ra...mà vẫn tha thiết đằm đìa,vào cái đêm trăng bạc và hình như còn có cả tiếng gió táp, mưa sa.
 
 
 
 
 
            UỐNG CẠN MUÔN HỒN



Một mình nói chuyện với một mình
Vợ lại bảo rằng anh hơi hâm
Ta cười khà cái rồi nâng chén
Uống cạn muôn hồn cả thế nhân.

Một tay vuốt nhẹ thơm tóc Phật
Bên này sờ soạng
                                 vén váy tiên...



                               22/2/1995


                             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2009 12:41:27 bởi Nhân văn >
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 8 của 20 trang, bài viết từ 106 đến 120 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9