Đô đốc Bùi Thị Xuân, nỗi ngậm ngùi bên cửa Nhật Lệ (bản mới)
rongxanhag 13.12.2007 00:43:10 (permalink)

 
Đô đốc Bùi Thị Xuân,
nỗi ngậm ngùi bên cửa Nhật Lệ

-“Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà…”

Triều vua Quang Trung có vài nữ tướng, trong số đó nổi bật hơn cả là đô đốc Bùi Thị Xuân.


Và theo sách “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện” của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì (1853-1922) thì Bùi Thị Xuân cùng chồng (Trần Quang Diệu), được người đương thời liệt vào hàng Tứ kiệt (2 người còn lại là Ngô Văn Sở và Võ Văn Dũng).

I.Cuộc đời và sự nghiệp:
 

Bùi Thị Xuân (?- 1802) quê ở thôn Xuân Hòa, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ qui Nhơn ( nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). 

Bà là con gái của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, Bùi Thị Nhạn bằng cô.( Bà Nhạn là một nữ tướng trong Tây Sơn ngũ phụng thư. Theo tác giả "Nhà Tây Sơn" là Quách Tấn - Quách Giao thì "Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi bà Phạm Thị Liên (vợ trước) qua đời) 
 
Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bà được theo việc nghiên bút.Tuy nhiên địa thế và phong thổ nơi bà sinh trưởng đã có tác động không nhỏ đến nhân cách của bà.
Xem địa đồ ta thấy, quê hương Bùi Thị Xuân chỉ có phía tây liền với Phú Phong, còn phía đông lấy suối làm ranh giới, nam giáp núi, bắc giáp sông; chính vì bà được hun đúc bởi đất hiểm nên thích võ hơn văn… 
Người ta kể, bà là người phụ nữ có nhan sắc, khéo tay, viết chữ đẹp.Đến khi học võ với đô thống Ngô Mạnh, bà cũng rất nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm.
 
Bởi vậy sau này, bà đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi tráng sĩ này bị một con hổ lớn, hung dữ tấn công trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa.
 
Cũng nhờ duyên cớ này mà hai người thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà bà để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc.
 
Với tài nghệ cộng với lòng dũng cảm; vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ dậu 1789 và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm …
 
Người ta còn kể, khi đến với Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình, mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục.Trước khi gia nhập quân Tây Sơn, bà đã tự phong là “Tây Sơn nữ tướng”. Sau này bà được hội kiến với Nguyễn Huệ, Huệ cũng thừa nhận bà rất xứng đáng với danh xưng đó; và vương còn ban tặng thêm bốn chữ “Cân quắc anh hùng”.
 
Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung (Nguyễn Huệ) mất, để lại nhiều thương tiếc.
 
Cũng từ đấy triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) còn nhỏ, bất tài nên đã không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là người cậu: thái sư Bùi Đắc Tuyên.
 
Từ lúc này, các đại thần thêm kết bè kết phái, quay sang xúc xiểm, giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi; khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc...Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương.
 
Quả thực, Nguyễn Ánh liền tổ chức ngay việc chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Tức khắc, Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn.Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành lũy của Tây Sơn nhanh chóng bị chiếm đoạt. Bà Xuân cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An .
 
II.Những tư liệu liên quan :

 
1. Nhìn lại thế trận lúc bấy giờ và sự việc Bùi Thị Xuân cùng chồng bị bắt như thế nào?
 
-Theo tự điển Wikipedia tiếng Việt:
 
Năm 1800, Quang Diệu và Vũ văn Dũng cùng vào đánh Qui Nhơn. Sau khi nhận thấy hai tướng giỏi nhất và lực lượng quân sự lớn của Tây Sơn đã tập trung cả ở Qui Nhơn, tháng 5 âm lịch năm 1801, Nguyễn Ánh quyết định không giải cứu Võ Tánh -khi này đang cầm cự để giữ thành Qui Nhơn- để tấn công Phú Xuân.
 
Biết tin Phú Xuân đang trống trải do quân số không đủ để tự bảo vệ, Quang Diệu điều ngay một bộ phận quân tướng đến cứu nguy nhưng đạo quân này thất bại.
 
Võ Tánh giữ thành được gần một năm mới bị Tây Sơn chiếm được, Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự tận, Quang Diệu tha cho tướng tá và quân sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai.
 
Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng việc lớn không thành.
 
Tháng 5 âm lịch năm 1802, sau khi biết Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân thất trận khi cố đánh thu hồi lũy Trấn Ninh (tháng giêng âm lịch năm 1802), thêm vào đó, tuy chiếm lại được thành Qui Nhơn nhưng các mặt đều là địch cả, Trần Quang Diệu bỏ thành, đem tượng binh đi đường thượng đạo qua Lào với ý định tập trung với quân của Cảnh Thịnh giữ thành Nghệ An.
 
Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp vào được đất Hương Sơn thì thành Nghệ An đã thất thủ, Quang Diệu và vợ là Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương. Lúc này, quân của Quang Diệu đã tan rã cả, tướng của Nguyễn Ánh dùng mưu mua chuộc người chỉ điểm nơi trú ẩn của gia đình của Trần Quang Diệu. Ông và vợ con đều bị bắt.
 
-Theo “Tây Sơn thất hổ tướng”trên web Vn thư quán:
 
Nghe tin quân Tây Sơn đại bại ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Trần Quang Diệu cùngVõ Văn Dũng đem 3 ngàn quân cùng 80 thớt voi, theo đường sạn đạo sang Lào để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).

Đường đi khó khăn, Sơn lam chướng khí đầy dẫy, khiến cho đoàn quân ngày càng hao hụt. Lớp bị bệnh, lớp bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn tập kích, nên khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn. Đoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tại Hương Sơn, hai ông Diệu và Dũng đều bị tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Đức Định bắt sống.

Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân hay hung tin liền đem nữ binh đi giải cứu. Đến Giáp Sơn thì giải cứu được, nhưng chạy đến sông Thành Chương thì hai vợ chồng Trần, Bùi bị bắt trở lại.

 
Một mình Võ Văn Dũng mở đường máu thoát chạy. Nhưng đến Nông Cống, thuộc Thanh Hóa thì Võ Văn Dũng bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa phương ra bao vây. Với một thanh đoản đao, Võ Văn Dũng đã đánh thắng hai tướng Lê, Phạm xong quá yếu sức vì gian lao đói khát, nên đành buông đao chịu trói.

Bộ ba Dũng, Diệu, Xuân bị đóng cũi giải về Nghệ An. Dọc đường, Võ Văn Dũng phá cũi, thoát ra ngoài, ông giải cứu luôn cả hai vợ chồng Trần, Bùi thêm một lần nữa song hai chân của Trần tướng quân bị sưng phù, không thể chạy trốn được. Bùi nữ tướng đành ở lại chịu chết cùng chồng.

 
Ảnh:Tượng thờ Bùi Thị Xuân ở nhà Bảo tàng Tây Sơn (Qui Nhơn )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.02.2008 19:46:47 bởi rongxanhag >
#1
    rongxanhag 13.12.2007 00:53:04 (permalink)
    2/ Trần Quang Diệu, cũng là một hổ tướng của triều Tây Sơn:
     
    Trần Quang Diệu (1746–1802), người làng Kim Giao, xã Liên Chiểu (nay thuộc xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng quê quán của ông ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định…(sau đời Trần Quang Diệu, họ Trần dời ra làng Tú Sơn, nay thuộc xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi).
     
    Theo Nguyễn Khắc Thuần trong sách Danh tướng VN tập 3, tác giả cho biết trong một dịp đi khảo sát tại Đà Nẵng vào năm 1997, ông tìm thấy một ngôi mộ cổ và một bản phổ ý tại ngoại vi thành phố này.Ngôi mộ cổ ấy là của mẹ Trần Quang Diệu và bản phổ ý ấy là của dòng họ này. Cả hai tư liệu này đều nói Diệu là người Quãng Nam, nhưng để khẳng định quê quán của người anh hùng, cần phải khảo sát thêm để tìm thêm những bằng chứng khác nữa.

     
    Theo một số chuyện kể dân gian, trước khi trở thành một trong những vị hổ tướng của Tây Sơn, Trần quang Diệu từng có mối quan hệ khá thân tình với Nguyễn Nhạc. Nên khi ông này dựng cờ khởi nghĩa, Quang Diệu tham gia phong trào Tây Sơn ngay từ đầu .
     
    Năm 1789, ông được Nguyễn Huệ cử làm Đốc trấn Nghệ An, xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô. Những năm 1790 - 91,ông chỉ huy các cuộc đánh dẹp lực lượng chống đối do Lê Duy Chỉ cầm đầu. Năm 1792, Quang Trung mất, ông giữ chức Thái phó, là một trong "Tứ trụ” triều đình để giúp vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản).
     
    Tuy vua mới hay nghe lời gièm pha nhưng vợ chồng ông vẫn tận tình giúp nhà Tây Sơn.Có thể nói thời bấy giờ, ông là chủ tướng quan trọng nhất trong việc đánh dẹp thế lực Nguyễn Ánh.
     
     Năm 1800–1801, ông vây kinh thành Quy Nhơn cũ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) vừa mới bị quân Nguyễn Ánh đánh chiếm. Trận vây thành rồi bị cầm chân kéo dài gần một năm ở đây, tạo thời cơ tốt cho Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân rồi bắt sống Quang Toản.( tướng thủ thành của nhà Nguyễn là Võ Tánh tự vẫn chứ không giao thành ). Lực lượng của Nguyễn Ánh sau đó phản công ngày càng ác liệt .Cuối cùng Quang Diệu và vợ con đều bị bắt sống và bị giết.
     
    Theo tự điển Wikipedia tiếng Việt ở đề mục “Trần Quang Diệu”, có ghi một chi tiết:
     
    “Khi Gia Long (tức Nguyễn Ánh) chiêu hàng, Quang Diệu đáp:
     
    “ Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Qui Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu"
     
    Mẹ ông – đã ngoài 80 tuổi – được vua Nguyễn tha chết, còn Quang Diệu thì bị đem làm tội.”
     
    Về cái chết của Trần Quang Diệu, thông tin không thống nhất, nhưng đa phần các sách và trong dân gian đều nói ông bị xử lột da.
     
    Những bậc cao niên nhất trong tộc đã kể rõ rằng, sau khi ông chịu án: bị xử lột da sống, có hai người hầu thân cận đã lén đánh cắp được chỉ một mảnh áo nhỏ dính máu của ông để mang về táng trong “mộ gió”… ( chỉ nghĩ đến thôi, tôi thật sự rùng mình vì phương pháp giết người này.)
     
    III.Vì sao rất nhiều người đã ca ngợi oai danh và tiết tháo của bà?
     
    Trong cuộc đời bà có ba sự kiện quan trọng đã xảy ra, và có thể nói, nhờ chúng mà danh thơm của Bùi Thị Xuân được truyền tụng mãi:
     
    1/ sự kiện liên quan với Bùi Đắc Tuyên:
     
    Bùi Đắc Tuyên người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, cậu ruột của Cảnh Thịnh.
    Còn nữ tướng Bùi Thị Xuân thì gọi ông ta bằng chú.
     
    Theo sử sách ghi lại, sau khi vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh lên ngôi.Vì tuổi vua còn nhỏ nên quyền bính đều ở trong tay Bùi Đắc Tuyên.

    Bùi Đắc Tuyên là anh của hoàng hậu Bùi Thị Nhạn, nên dù ít học vẫn được làm Thị Lang Bộ Lễ trong triều.Vì được phép vào ra nơi cung cấm, Tuyên thường bày nhiều trò vui để mua lòng thái tử Nguyễn Quang Toản (tức Cảnh Thịnh)

    Bởi thế khi được lên ngôi báu, Quang Toản liền đưa Tuyên lên làm thái sư, bất chấp quan chế đã đặt định sẵn.

    Trong cung đã có Bùi Thái hậu, ngoài triều lại có lắm đại thần nghiêng theo chiều gió như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, nên thế lực của Tuyên rất vững mạnh.
     
    Vì vậy,Tuyên mỗi ngày một thêm lộng hành. Các đại thần  không về cánh với Tuyên, kẻ thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức, cách chức hoặc bị đưa đi trấn thủ nơi xa xôi.
     
    Năm 1795, Tuyên bị Võ Văn Dũng giết. Bấy giờ có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Tuyên. Nhưng khác với gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ…
     
    2/ Bùi thị Xuân và trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng, hòng cứu vãn vương triều Tây sơn:
     
    Tóm tắt theo sử sách, bà Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ Nguyễn vương cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân.
     
    Nào ngờ vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh.Ngay lúc đó bà cũng nhận được tin Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng .
     
    Trước tình thế đang thắng thành bại này đội quân của bà bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy …
    Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế.
    Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa…
     
    Trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì (1853-1922) có đoạn rằng:

    Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
    Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào
    Hoàng hôn thành dốc bi già động
    Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
    Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
    Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc
    Thùy ngôn cân quắc bất như nhân ?
    Dĩ cổ phương kim tam đinh túc



    Nghĩa là:

    Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
    Gió xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh bào
    Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
    Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
    Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
    Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà

    Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
    Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc.

     
    3.Cuộc đối đáp ngang ngửa giữa kẻ thắng, người thua và cái chết hết sức hiên ngang của nữ tướng họ Bùi:
     
    Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí: Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?
     
    Bà trả lời: Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với Chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng.
     
    Ánh gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?
     
    Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà…
     
    Thế rồi vào ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802, các sách ghi không đồng nhất, có sách ghi là 2/ 11, có sách ghi là 30/11), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân.Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi giày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế,ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường )
     
    Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau:
     
    “Đứa con gái trẻ của bà ( Bùi Thị Xuân) bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến .Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy.Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách : Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta !…
     
    Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời…
     
    Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo”… (Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi…)
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2007 13:32:06 bởi rongxanhag >
    #2
      rongxanhag 13.12.2007 01:03:57 (permalink)


      IV.Giới thiệu một thơ, một văn ca ngợi Bùi nữ tướng:

      Một bài thơ, không rõ người viết:
       
      Vận nước đang xoay chuyển
      Quần thoa cũng vẫy vùng
      Liều thân lo cứu chúa
      Công trận quyết thay chồng.
      Khảng khái khi lâm nạn!
      Kiên trinh lúc khốn cùng
      Ngàn thu gương nữ liệt
      Gương sáng hãy soi chung.

       
       -Trích “Còn mãi đến bây giờ”. bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường :
       
      Các gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh đã bị Gia Long giết sạch.
       
      Bà sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây Sơn
       
      Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng (nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà) …bà còn giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ “nhất đẳng điền” tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục héc-ta để lấy lúa nuôi quân…
       
      …Chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng .
       
      …Đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm…Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quầm áo.Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ mười tám cho đến bây giờ !…
       
       
      V.Lời kết :
       
      Nam nhi bất hướng sa trường tử,
      Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.
       
      (Làm trai mà không dám hướng đến sa trường để xả thân,
      Hát lớn một khúc ca mà xem gương Bùi Thị Xuân).
      (Bùi Phu nhân ca- Nguyễn Trọng Trì)
       
      Thật lòng nếu không đọc được bài bút ký của Hoàng Phủ vừa nêu trên, chắc tôi không có ý định tìm hiểu thêm về Bùi Thị Xuân và soạn lại đề tài đã được nhiều người luận bàn rồi.

       
      Nhưng chẳng hiều sao khi đọc trong sách sử đến đoạn Nguyễn Ánh dụ hàng vợ chồng Bùi Thị Xuân nhiều lần mà không được, khiến tôi nảy ra băn khoăn : Vua Nguyễn có “màu mè” không khi tánh vua vốn là người hay sợ, hay nghi kỵ người tài, nhất là vợ chồng bà đã từng là kẻ khác phía và đã bao lần khiến quan quân nhà Nguyễn phải điêu đứng ?
       
      Và ta nên hiểu chuyện Nguyễn Ánh dành cho gia đình họ những hình phạt quá thảm khốc như thế nào đây?
       
      Bởi lẽ nếu nhà vua sẵn tấm lòng khoan thứ; thật tâm mến mộ hiền tài, nhân cách ấy thì dù không chiêu hàng được, theo tôi, vua cũng sẽ lấy cái cớ “Trần Quang Diệu tha chết cho cả bọn tướng sĩ và còn sai người làm lễ liệm táng Võ Tánh & Ngô Tùng Châu tại thành Qui Nhơn vào năm 1801” để dòng tộc họ không bị giết sạch, gia đình  họ được chết toàn thây hay chí ít ra cô con gái vô tội vừa vào độ tuổi xuân thì có được một con đường sống…
       
      “đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ…hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm…Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc…”.Những câu văn giản dị này sao mà có sức gây nhói lòng người . Ngẫm chồng là Thái phó, vợ là Đô đốc, quyền lực nằm trong tay một thời gian dài, ấy vậy mà “nhà cửa, của cải đơn sơ đến không ngờ”, chẵng đáng cho những người hôm nay tìm đọc về bà rồi sống tốt hơn sao ?…
       
      Bùi Thụy Đào Nguyên
       
      (Những tài liệu tham khảo đều đã nói trong bài soạn)
       

      Ảnh: Từ đường của dòng tộc Bùi Thị Xuân do các ngành chức năng hỗ trợ đã được trùng tu.- Ảnh: Huỳnh Văn Mỹ (2007)

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.12.2007 01:12:13 bởi rongxanhag >
      #3
        rongxanhag 13.12.2007 01:10:13 (permalink)
        Gửi CT.Ly
         
        Nhờ bạn đưa bài này vào thư viện, thay thế bài cũ.
         
        Thân quí.
         
        BTDN
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9