150 Nhà thơ Nga
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 8 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 109 bài trong đề mục
cacbac 13.12.2007 17:36:29 (permalink)


Sergei Aleksandrovich Esenin (3/10/1895 – 28/12/1925) – nhà thơ trữ tình Nga, là một trong những nhà thơ được yêu thích nhất của thế kỷ XX.

Tiểu sử:
Esenin sinh ở làng Konstantinova, tỉnh Ryazan trong một gia đình nông dân. Bố là Aleksandr Nikitich, mẹ là Tatyana Fyodorovna. Bố mẹ lấy nhau theo ý của ông bà chứ không phải vì tình nên sau một thời gian, mẹ đưa Esenin về sống nhà ông bà ngoại. Sau đó, mẹ đi tìm kế mưu sinh, Esenin được ông bà ngoại nuôi dạy. Ông ngoại là người sùng đạo và rất hiểu sách Thánh, bà ngoại là người thuộc nhiều chuyện cổ tích và những bài hát dân gian. Theo lời Esenin thì chính bà ngoại là người gợi cho ông những cảm xúc để viết những bài thơ đầu tiên. Esenin đầu tiên học ở trường làng, sau đó học ở trường của nhà thờ. Năm 1912, Esenin lên Moskva, nơi bố đang làm việc cho một thương gia. Năm 1913 vào học khoa sử-triết ở Đại học nhân dân Moskva và học ở đây trong một năm rưỡi. Thời gian này Esenin đã có con với Anna Izryadnova (hôn nhân không đăng ký). Năm 1914, tạp chí Mirok in những bài thơ đầu tiên của Esenin. Năm 1915, Esenin đến Petrograd gặp Aleksandr Blok và làm quen với nhiều nhà thơ nổi tiếng khác. Năm 1917, ông kết hôn lần thứ hai với nữ diễn viên Zinaida Raikh, họ có hai đứa con. Những năm 1918 – 1920, Esenin kết bạn với Anatoly Mariengof và tích cực tham gia vào nhóm hình tượng. Năm 1921, Esenin đi về vùng Ural và trung Á. Mùa thu năm 1921, Esenin làm quen với Isadora Duncan, hai người làm đám cưới vào năm 1922 và sau đó đi du lịch sang nhiều nước châu Âu và Mỹ. Năm 1923, Esenin lại say sưa với nữ nghệ sĩ Augusta Miklashevskaya, kết quả của cuộc tình này là tập thơ “Mối tình của tên du đãng”. Những năm 1924 – 1925, Esenin đi về vùng Kapkage (Azerbajan, Gruzia). Cảm xúc trước vẻ đẹp của vùng này cùng với ấn tượng về các nhà thơ Ba Tư cổ là nguồn cảm hứng cho ông viết tập thơ “Những mô-típ Ba Tư” – đỉnh cao trong sáng tạo của ông. Tháng 6 năm 1925, Esenin kết hôn với Sofia Tolstaya, cháu gái của đại văn hào Lev Tolstoy nhưng cuộc hôn nhân này cũng không mang lại cho ông hạnh phúc. Cuối năm 1925 ông đi về Leningrad, không cho vợ biết và tự kết thúc cuộc đời mình vào năm 30 tuổi ở khách sạn Anglettere. Về cái chết của Esenin, có nhiều giả thiết cho rằng không phải ông tự tử mà bị giết. Năm 1989 một hội đồng về cái chết của Esenin do Yuri Prokushev làm chủ tịch được thành lập và kết luận cũng không có gì mới.





NƯỚC NGA YÊU DẤU

Ôi nước Nga yêu dấu của tôi ơi
Nhà gỗ thông của Người mang tượng Chúa
Một màu xanh tít tắp tận chân trời
Cho đôi mắt được ngắm nhìn thuê thỏa.

Giống như kẻ hành hương mùa trẩy hội
Tôi ngắm nhìn đồng ruộng của nước Nga
Bên bờ giậu quanh làng thấp te tái
Những cây dương gầy guộc vẫn vui đùa.

Hương táo chín và mật thơm lan tỏa
Trong nhà thờ ca tụng Đức Chúa Trời
Có tiếng kêu vù vù sau làng nhỏ
Rồi trên đồng là điệu nhảy vui tươi.

Tôi chạy theo lối mòn hoa cỏ nát
Ra bao la đồng ruộng trải ngát xanh
Đón chào tôi – như vành khuyên lúc lắc
Là tiếng cười các cô gái vang lên.

Nếu thiên thần đồng thanh cất tiếng gọi:
“Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!”
Tôi sẽ nói: “Thiên đường tôi chẳng lấy
Hãy trao cho tôi tổ quốc yêu thương!”
1914


THẰNG NGÔNG

Cơn mưa nhỏ như những chiếc chổi ướt
Đang quét phân dương liễu vãi trên đồng.
Gió hãy làm cho lá kêu sột soạt
Ta cũng như mày, gió ạ, thằng ngông.

Ta mến yêu những khi rừng xanh thắm
Giống như đàn bò rảo bước nặng nề
Thở bằng lá phì phò trong những bụng
Một phần cây, đến đầu gối, bùn dơ.

Này đây mi, đàn bò vàng ta ơi!
Còn ai hát về rừng hay hơn thế?
Ta nhìn thấy buổi hoàng hôn đang ghé
Liếm dấu chân bỏ lại của con người.

Ôi nước Nga bằng gỗ của ta ơi
Một mình ta – người đưa tin, thi sĩ.
Thơ ta – nỗi buồn của loài muông thú
Ta nuôi chúng bằng những cỏ và cây.

Lúc nửa đêm cái gàu trăng hãy ngó
Rồi múc vào dòng sữa của bạch dương!
Có vẻ như muốn bóp cổ ai đó
Bằng bàn tay của thập ác nghĩa trang!

Trên ngọn đồi thơ thẩn một bóng đen
Đổ vào vườn vẻ dữ dằn tên trộm
Ta tự mình cũng là tay lỗ mãng
Một máu cùng tên trộm ngựa thảo nguyên.

Ai nhìn ra đang sôi sục trong đêm
Rặng anh đào dại rì rầm sôi động?
Giá mà trong đêm trên thảo nguyên xanh
Ở đâu đó cầm dùi cui ta đứng.

Đã khô bụi cây trên mái đầu ta
Vòng tù hãm của thơ ca cuốn hút.
Ta khổ sai trong mạch nguồn cảm xúc
Buộc xoay vòng cái cối của thơ ca.

Đừng sợ chi, hỡi ngọn gió điên cuồng
Lá trên đồng cứ cuốn vào lặng lẽ
Ta chẳng sợ mất cái tên “thi sĩ”
Ta trong thơ, cũng như gió, thằng ngông.
1919


TÔI – NHÀ THƠ CUỐI CÙNG CỦA NÔNG THÔN
Tặng A. Mariengof

Tôi – nhà thơ cuối cùng của nông thôn
Cây cầu gỗ khiêm nhường trong bài hát.
Tôi đứng sau lễ mi-xa tiễn biệt
Lá bạch dương vẫn lắc những bình hương.

Sẽ cháy hết màu vàng trong ngọn lửa
Từ xác thân ngọn nến, sẽ tàn thôi
Và mặt trăng đồng hồ quê giục giã
Sẽ gióng lên giờ phút cuối cho tôi.

Trên lối nhỏ của ruộng đồng xanh thắm
Sẽ bước ra vị khách thép và gang.
Lúa kiều mạch bằng ban mai rót xuống
Sẽ gom về lúa mạch cánh tay đen.

Những bàn tay chết, bàn tay xa lạ
Những bài ca không sống với ngươi đâu!
Chỉ tội những bông lúa mì cho ngựa
Về người chủ xưa buồn bã u sầu.

Ngọn gió làm đau tiếng hý vang trời
Điệu nhảy lồng lên cầu siêu cho ngựa.
Sắp tới đây đồng hồ quê giục giã
Sẽ gióng lên giờ phút cuối cho tôi.
1920


THẾ GIỚI CỦA TA CỔ XƯA, BÍ ẨN

Thế giới của ta cổ xưa, bí ẩn
Còn ngươi lặng im như gió ngồi lên
Đưa bàn tay ra bóp cổ ngôi làng
Bàn tay đá của những con đường lớn.

Giữa trời tuyết thật vô cùng khiếp đảm
Vẻ kinh hoàng đang giãy giụa, kêu la
Ta chào ngươi, cái chết đen của ta
Bước ra đường ta cùng ngươi chào đón!

Đô thị hỡi, ngươi trong cơn giao chiến
Đặt tên ta như rác bẩn, xác chôn
Đồng ruộng tái tê trong đôi mắt buồn
Vẻ sững sờ như những dòng điện tín.

Bắp thịt gân trên cổ bầy quỉ ác
Tấm lót bằng gang lên đó đặt vào
Đành chịu chăng? Bởi không phải lần đầu
Ta từng chịu lung lay và mất mát.

Thôi con tim đớn đau thì cứ mặc
Bài ca này của sự thật thú muông
… Kẻ đi săn đuổi theo chó sói rừng
Rồi vòng vây cứ dần dần siết chặt.

Con thú né… và từ nơi mai phục
Có ai người lúc ấy bóp cò nhanh
Bỗng chồm lên… và địch thủ hai chân
Bị xé ra từng phần vì nanh vuốt.

Ta chào con thú yêu thương của ta!
Chẳng vô tình mi nhảy vào dao sắt.
Ta cũng thế – bị khắp nơi đuổi bắt
Giữa những kẻ thù sắt thép ta qua.

Cũng như mi – ta sẵn sàng chờ đợi
Dù nghe tiếng kèn chiến thắng hoan ca
Nhưng sẽ thử thách máu thịt kẻ thù
Bằng cú nhảy chết người trong lần cuối.

Dù trên tuyết, rồi đây ta sẽ đổ
Sẽ chôn mình trong tuyết trắng quê hương…
Nhưng bài ca về cái chết đau buồn
Sẽ hát ta nghe ở bờ bến nọ.
1921


TẶNG CHÚ CHÓ NHÀ KACHALOV

Jim, hãy đưa ta bàn chân lấy may
Bàn chân thế chưa bao giờ được ngắm.
Nào, hai ta cùng sủa dưới trăng này
Trong tiết trời lặng yên và thanh vắng
Jim, hãy đưa ta bàn chân lấy may.

Nào, Jim yêu, đừng liếm ta rối rít
Hiểu cùng ta một điều tối giản đơn
Bởi đời là gì Jim đâu có biết
Có biết đâu đáng sống lắm trên trần.

Chủ của Jim đáng yêu và danh tiếng
Khách khứa thường hay lui tới đầy nhà
Ai cũng cố mỉm cười và âu yếm
Vuốt ve bộ lông Jim mượt như tơ.

Trong loài chó, quả là Jim tuyệt đẹp
Với vẻ đáng yêu, tin cậy, dịu dàng
Jim chẳng thèm hỏi han chi ai hết
Như người say, cứ sấn đến đòi hôn.

Jim yêu dấu, giữa bao nhiêu khách đấy
Có đủ hạng người thế nọ thế này.
Nhưng một nàng buồn, lặng hơn hết thảy
Có bỗng tình cờ từng ghé đến đây.

Nếu nàng đến, giao phó cho Jim đấy
Dù vắng ta, hãy đắm đuối nhìn nàng
Thay ta hôn bàn tay thật dịu dàng
Vì tất cả, có và không có lỗi.
1925


NHỮNG CON NGỰA VÀ NHỮNG XE TRƯỢT TUYẾT

Những con ngựa và những xe trượt tuyết
Rõ một điều quỉ mang xuống trần gian.
Trên thảo nguyên phi nước đại ngang tàng
Tiếng nhạc ngựa cười vang, trào nước mắt.

Không trăng sáng, chẳng còn nghe tiếng chó
Phía ngoài rìa chốn hoang mạc xa xăm
Hãy gắng giữ, cuộc đời ta điên cuồng
Đến muôn thuở ta đã già đâu chứ.

Mặc đêm tối, hãy hát lên xà ích
Nếu ngươi cần ta sẽ hát cùng ngươi
Hát về một thời tuổi trẻ vui tươi
Về ánh mắt những cô nàng tinh nghịch.

Có nhiều khi mũ lông ngươi đội lệch
Rồi gióng ngựa vào giữa hai càng xe
Chỉ người ta kêu tên, hãy nhớ về
Khi đè trên lớp cỏ khô, ghì chặt.

Và phong thái lấy từ đâu chẳng biết
Khi giữa đêm hôm khuya khoắt vắng tanh
Đã từng rủ rê không chỉ một nàng
Sau tiếng đàn ta-lin-ka khoan nhặt.

Tất cả đi qua, tóc ta giờ thưa bớt
Ngựa không còn, sân nhà rộng thênh thang
Tiếng đàn nay đã chùng xuống, u buồn
Quên hết mất những điều xưa đã học.

Nhưng dù sao, lửa lòng đâu đã tắt
Ta vẫn còn yêu tuyết với giá băng.
Về tất cả những gì đã xa xăm
Tiếng nhạc ngựa cười vang trào nước mắt.
19-9-1925.
#16
    cacbac 13.12.2007 17:40:51 (permalink)

     
     
    LỜI KÊU GỌI

    Hãy vui lên!
    Mặt đất đã đệ trình
    Một cái chậu nhà thờ mới nhất!
    Đã cháy hết
    Những cơn bão tuyết màu xanh
    Và con rắn đã mất
    Cái nọc đọc của mình.

    Ôi tổ quốc
    Cánh đồng nước Nga của tôi
    Và các anh, những đứa con của Người
    Hãy dừng lại đây
    Bên bờ giậu
    Hãy ca tụng mặt trăng, mặt trời
    Mặt trăng, mặt trời của Chúa!

    Còn trong những vườn trẻ
    Một ngọn lửa hồi sinh
    Của khắp mọi nơi trên trái đất
    Thành phố mới Nazareth(1)
    Trước mặt các anh.
    Và những mục sư ca tụng
    Một buổi sáng
    Ánh sáng sau những ngọn đồi…

    Điều kỳ diệu của nước Anh hãy cúi xuống
    Và hãy tung ra trên biển!
    Sự thần kỳ phương bắc của ta
    Những đứa con nước Anh không thể nhận!

    Và ngươi sẽ không nhận ra thần tượng
    Không nghe ra tiếng gọi kín thầm
    Vì ánh mắt nhìn mờ sương
    Và trên đôi môi của ngươi – tấm thảm.

    Tất cả ngang bướng hơn, tất cả phí hoài
    Cái miệng ngươi bóng tối không nắm bắt.
    Không, trong vườn trẻ ngươi không nói ra sự thật
    Cho Chúa Jêsus Christ của ngươi!

    Nhưng hãy biết điều này
    Những kẻ đang ngủ say:
    Có một ngôi sao từng sáng rực
    Ngôi sao của Phương Đông!(2)
    Và vua Herod không thể dập tắt
    Bằng máu của những đứa bé con…

    “Nàng Salome hãy nhảy cẫng lên!”
    Đôi chân của nàng nhẹ nhàng như đôi cánh.
    Và hãy hôn bằng đôi môi vô hồn
    Nhưng giờ đóng đinh của nàng sắp đến!
    Và đã đứng dậy Ngài Giăng
    Kiệt sức vì vết thương
    Nâng lên từ dưới đất
    Cái đầu lâu bị cắt
    Và đôi môi của Ngài
    Lại vang lên lời
    Lại dọa dẫm
    Cả thành phố Sodom:
    “Hãy hồi tâm lại!”

    Ôi những con người, những anh em của tôi
    Các anh ở đâu? Đáp lời tôi nhé
    Tôi không cần người tráng sĩ
    Không biết gì sợ hãi trên đời.

    Tôi không cần chiến thắng của ngươi đâu
    Tôi không cần cống phẩm!
    Tất cả chúng tôi là táo và anh đào
    Của khu vườn xanh thắm.

    Tất cả chúng tôi – những chùm nho trĩu nặng
    Của mùa hè vàng
    Chúng tôi có đầy đủ đến ngày tận cùng
    Cả ấm áp và ánh sáng!

    Ai đó khôn ngoan không thể tả
    Tất cả đều giống như mình
    Cho người sống – bằng bài ca hát lên
    Cho người chết – giấc ngủ trong ngôi mộ.

    Ai đó dạy chúng tôi và yêu cầu
    Đo đếm và nhận thức.
    Chúng tôi sinh ra đời đâu phải vì giết chóc
    Mà để tin và để yêu nhau!
    1917
    ___________
    (1)Nazareth – thành phố quê hương của Chúa Giê-su Christ.
    (2)Ngôi sao Phương Đông: ngôi sao báo tin Chúa Giê-su ra đời (Tân Ước_Ma-thi-ơ 2:1-12).
    –Vua Herod (73-4 tr CN) – vị vua tàn bạo, thích quyền lực, giết hết những ai là đối thủ. Theo truyền thuyết đã giết hết bé trai từ 2 tuổi trở xuống khi nghe tin Chúa Giê-su ra đời. (Tân Ước_Ma-thi-ơ 2:16).
    –Salome: con gái của Herodias, là một cô gái xinh đẹp và quyến rũ. Trong ngày sinh nhật vua Herod nàng đã nhảy múa giữa những người dự tiệc làm vua rất thích và hứa sẽ cho nàng điều chi nàng muốn. Nàng Salome, theo lời xui của mẹ, bảo vua rằng nàng muốn cái đầu của Giăng Báp-tít (John the Baptist). Vua rất buồn nhưng vẫn sai chém đầu Giăng như nàng yêu cầu… (Tân Ước_Ma-thi-ơ 14: 6-11).
    –Thành phố Sodom (Sodom and Gomorah) – là thành phố trong Kinh Thánh (Tân Ước_Ma-thi-ơ 10:15; 11: 20-24).
    Hai khổ thơ trên đây của Esenin nói về một sự tích trong Kinh Thánh. Trước Esenin, sự tích này cũng đã từng được nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Oscar Wilde (1854-1900) chuyển thành vở kịch Salome nổi tiếng thế giới. Trong vở kịch này nàng Salome có phần đam mê mãnh liệt hơn, mọi tình tiết cũng phức tạp và gay cấn hơn. Giăng là một vị Thánh, xa lạ với những quyến rũ thân xác của phụ nữ nên ông thẳng thừng từ chối… Nhưng Salome không chịu đầu hàng: đã không chiếm đoạt được người tình bằng xương bằng thịt thì vẫn có được người tình, dù là xác chết… Vở kịch này cho thấy một sự ghen tuông, thói đỏng đảnh tai ác của phụ nữ trong tình yêu. Chính nàng Salome của Wilde (chứ không phải của Kinh Thánh) trong suốt hơn một trăm năm nay là nguồn cổ vũ cho rất nhiều nhà đạo diễn, nhiều họa sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn trong sáng tạo của mình.





    NGƯỜI ĐÁNH TRỐNG TRỜI

    1

    Ê, những kẻ tôi đòi
    Bụng bám vào mặt đất
    Bây giờ mắt trăng từ dưới nước
    Ngựa đã uống hết rồi.

    Những ngôi sao như lá vàng đang rót
    Xuống những dòng sông trên đồng.
    Cách mạng muôn năm
    Cả trên trời, dưới đất!

    Ta ném hồn như bom
    Vãi ra tiếng còi bão tuyết.
    Ta sợ gì nước bọt
    Nhổ vào cánh cổng trời xanh?

    Có phải ta sợ những thống soái
    Của bầy khỉ trắng kia chăng?
    Thế giới này như đội kỵ binh
    Khát khao những bờ bến mới.

    2

    Nếu đây là mặt trời
    Trong âm mưu cùng với chúng
    Thì ta giương súng
    Cả hàng ngũ hướng vào.

    Nếu đây là mặt trăng
    Người bạn của thế lực kia đen tối
    Thì ta sẽ từ trời xanh
    Ném đá ào ào vào gáy.

    Ta xua hết mây đen
    Những con đường nhào đất
    Quả đất như lục lạc
    Lên cầu vồng treo lên.

    Còn ngươi hãy ngân vang
    Mẹ – mặt đất ẩm ướt
    Về rừng, về cánh đồng
    Của mền quê xanh mướt.

    3

    Hỡi những người lính, những người lính
    Chiếc roi da lấp lánh trên vòi rồng
    Ai tình hữu ái và tự do mong muốn
    Người đó coi cái chết tựa lông hồng.

    Hãy đoàn kết chặt chẽ như bức tường!
    Những ai căm ghét màn sương và khói
    Bằng bàn tay đã chai sần người ấy
    Giật mặt trời làm một chiếc trống vàng.

    Giật mặt trời và bước đi trên đường
    Rót lời gọi trên những hồ sức mạnh
    Trong bóng tối của nhà thờ và đinh
    Thành màu trắng của một bầy khỉ trắng.

    4

    Hãy vững tin rằng chúng ta sẽ thắng!
    Rằng bến bờ mới mẻ chẳng xa xăm
    Móng vuốt trắng tinh của từng ngọn sóng
    Sẽ cào cấu lên những bãi cát vàng.

    Sắp tới đây một đợt sóng cuối cùng
    Sẽ vẩy lên mặt trăng nhiều vô kể
    Và con tim – ngọn nến sau ngày lễ
    Của công xã và quần chúng nhân dân.

    Da sạm đen, đoàn kết một đoàn quân
    Ta đi lên đoàn kết toàn thế giới
    Ta đi lên bằng nhiệt tình sôi nổi
    Và đám mây của bầy khỉ sẽ tan.

    Ta đi lên, còn ở sau rừng cây
    Xuyên qua màn sương, xuyên qua màu trắng
    Người đánh trống trời của ta sẽ đánh
    Sẽ đánh vào chiếc trống – mặt trời.
    1918-1919.




    SOROKOUST

    (Những lời cầu nguyện cho người chết trong 40 ngày)
    Tặng A. Mariengof

    1

    Tù và chết đang thổi!
    Còn ta biết làm sao được bây giờ
    Trên những con đường lầy lội?

    Các ngươi, những kẻ yêu bọ chét
    Các ngươi có muốn chăng……..

    Đầy ắp vẻ dịu dàng trên gương mặt
    Yêu hoặc không yêu – cứ nhận lấy cho mình.
    Thật dễ chịu khi hoàng hôn trêu chọc
    Và trút vào những đôi mông chắc nịch
    Cái chổi nào thấm máu của bình minh.

    Sắp tới đây giá lạnh bằng bụi vôi nhuộm trắng
    Ngôi làng này và những đồng cỏ kia.
    Sẽ không còn nơi để ẩn náu kẻ thù
    Sẽ không còn nơi lẩn tránh.
    Và đây, kẻ thù với cái bụng
    Bằng sắt, và sẽ xoè rộng bàn tay.

    Chiếc cối xay gió cũ sẽ vểnh đôi tai
    Cối xay gió nghe hơi và tiên đoán
    Và con bò trong sân im lặng
    Vì đầu óc của mình đã rót hết cho bê con
    Bên bờ giậu cọ cái lưỡi của mình
    Cảm nhận ra trên cánh đồng có điều chi tai họa.

    2

    Phía sau làng, có phải là vì thế
    Mà tiếng phong cầm nức nở khóc than:
    Ta-li-a-la-la, ti-li-gôm
    Treo trên khung cửa sổ trắng.
    Và ngọn gió mùa thu màu vàng
    Có phải vì thế mà chạm vào mặt nước màu xanh
    Như chiếc bàn chải ngựa kia bằng sắt
    Chải sạch lá vàng từ những cây phong.
    Đang bước đi một người đưa tin khủng khiếp vô cùng
    Bước chân khệnh khạng đập vỡ những cánh rừng.
    Và tất cả những bài ca đều trở nên buồn bã
    Sau tiếng kêu của ễnh ương trong rơm chí choé.
    Ô, bình minh điện khí hoá
    Bằng dây đai và vẻ ôm choàng
    Lên bụng những mái nhà con
    Đang thức dậy một cơn sốt bằng gang thép!

    3

    Các ngươi có nhìn thấy chăng
    Đang chạy trên thảo nguyên
    Trong sương hồ đang cắt
    Thở phì phò bằng lỗ mũi sắt
    Một con tàu trên bàn chân gang?

    Còn sau lưng
    Trên hoa cỏ rậm
    Như trong cuộc đua tuyệt vọng
    Vắt đôi chân nhỏ lên đến tận đầu
    Con ngựa nhỏ tung bờm đang phóng?

    Kẻ khờ khạo dễ thương
    Nó về đâu cố theo cho kịp?
    Chẳng lẽ nó không biết rằng con ngựa bằng da bằng thịt
    Đành chịu thua ngựa bằng thép bằng gang?
    Chẳng lẽ nó không biết rằng trên những cánh đồng
    Bước chân xưa đã không còn quay trở lại
    Khi mà hai cô gái Nga xinh đẹp nơi đồng nội
    Bị đem dâng để lấy ngựa – một kẻ mục cư?
    Số phận nơi bán mua đã khác hẳn bây giờ
    Lạch nước sâu thức dậy bằng tiếng kêu cót két
    Dùng hàng nghìn pút da ngựa và cả thịt
    Người ta đem mua đầu máy bây giờ.

    4

    Vị khách kinh tởm kia, quỉ hãy bắt mi đi!
    Bài hát của ta và mi không thể nào quen nổi.
    Ta chỉ tiếc rằng từ cái thời ta hãy còn nhỏ tuổi
    Đã không phải dìm mi như cái xô xuống đáy giếng sâu.
    Giờ chúng vẫn đứng và nhìn ngó mà chẳng u sầu
    Tô những bờ môi trong những nụ hôn bằng sắt
    Chỉ có ta, như người hát thánh ca, đành phải hát
    Lời nguyện cầu cho tổ quốc yêu thương.
    Chính vì thế mà trong tháng chín u buồn
    Trên mặt đất khô và lạnh lẽo
    Đập đầu vào bờ giậu
    Quả thanh lương trà đỏ như máu đang tuôn.
    Chính vì thế mà đâm rễ nỗi buồn
    Trong tiếng đàn ta-lian-ka thành chuỗi
    Và chàng thợ cày mê mải
    Đắm chìm trong “nước mắt quê hương”.
    1920
    ________________
    *Phần 3 của tác phẩm nói về một biến cố hiện thực. Trong bức thư gửi Livshits E. N. , Esenin viết: “Điều này đã làm tôi cảm kích… chỉ nỗi buồn thú vật thân thương đã mất và sức mạnh khủng khiếp, chết chóc của cơ giới. Một ví dụ về điều này. Chúng tôi đi tàu từ Tikhoretskaya đến Piattigorsk, bỗng nghe thấy tiếng kêu và chúng tôi ngó qua cửa sổ thấy một con ngựa non chạy đuổi theo con tàu và không hiểu sao nó lại nghĩ rằng sẽ vượt con tàu. Con ngựa chạy đuổi rất lâu nhưng cuối cùng đã đuối sức và đến một ga nào đấy người ta đã bắt lấy nó. Sự kiện này với ai đó thì không có gì nhưng với tôi nó nói lên rất nhiều điều. Con ngựa sắt đã thắng con ngựa bằng xương thịt. Và con ngựa non, đối với tôi, là hình ảnh về làng quê đang dần chết…” Những bài thơ “Tôi – thi sĩ cuối cùng của nông thôn”; “Thế giới của ta cổ xưa, bí ẩn”… cũng đều về đề tài này.
    Nguyễn Bính của Việt Nam đã từng rất khổ sở khi thấy cô em đi tỉnh về mặc áo cài khuy bấm nhưng sợ mất lòng em ông đã không dám nói ra chỉ thầm van xin cô hãy giữ lấy cái vẻ quê mùa với quần nái đen, khăn mỏ quạ. Còn Esenin của nước Nga đã phát khóc lên khi thấy con ngựa bằng xương bằng thịt đành chịu thua ngựa bằng thép bằng gang… Ta thấy hai nhà thơ này có những nét thật giống nhau.



    LỜI TỰ THÚ CỦA TÊN DU ĐÃNG

    Không phải ai cũng biết hát
    Không phải người nào cũng được trời cho
    Quả táo rơi dưới chân người khác.

    Này là lời thú nhận lớn nhất
    Do một tên du đãng xưng lời.

    Tôi cố ý để đầu tóc rối bời
    Với cái đầu như cây đèn trên vai.
    Mùa thu lụi tàn của tâm hồn người khác
    Tôi thích trong bóng tối soi lên.
    Tôi thích những hòn đá sỉ nhục
    Ném vào tôi như mưa đá cơn giông
    Khi đó tôi chỉ nắm tay thật chặt
    Cái bong bóng nghiêng của mái tóc mình.

    Rất dễ chịu tôi nhớ về khi đó
    Cái đầm rêu, giọng khản của cây sồi
    Bố mẹ tôi hiện sống ở đâu đó
    Bố mẹ chẳng hề cần đến thơ tôi
    Như máu thịt, ruộng đồng, tôi quí họ
    Và như mưa xuân tưới xuống cỏ cây.
    Họ lấy cào đánh vào các ngươi đó
    Vì mỗi tiếng kêu các người ném vào tôi.

    Những người nông dân tội nghiệp!
    Bố mẹ, có lẽ, đã không còn đẹp
    Và vẫn hay sợ Chúa, sợ đầm lầy
    Ôi, giá mà bố mẹ hiểu con đây
    Rằng con trai bố mẹ ở nước Nga này
    Là nhà thơ ưu tú nhất!
    Có phải con tim bố mẹ đã từng lạnh ngắt
    Khi con nhúng đôi chân trần vào vũng nước mùa thu
    Thế mà bây giờ con đi ngao du
    Mũ cao sang, giày bóng mượt.

    Nhưng trong hắn vẫn còn vẻ ham mê ngày trước
    Của cái dòng ngổ ngáo nông thôn.
    Với mỗi con bò đeo tấm biển của quầy hàng thịt
    Hắn đã cúi chào từ chốn xa xăm.
    Và khi gặp những người xà ích
    Hắn lại nhớ mùi phân của ruộng đồng
    Hắn sẵn sàng nâng đuôi từng con ngựa
    Như váy cưới nàng dâu trong lễ tân hôn.

    Tôi yêu quê hương
    Tôi yêu quê hương mình tha thiết!
    Dù quê hương có nỗi buồn da diết
    Cái miệng lem luốc của con ngựa làm cho tôi thích
    Và trong đêm khuya tiếng ếch nhái dặt dìu.
    Tôi đau đớn ngọt ngào bằng hoài niệm ấu thơ
    Mơ về khói sương của những chiều tháng tư.
    Có vẻ như đang ngồi sưởi ấm
    Cây phong nhà trước đống lửa bình minh
    Trên cây phong có biết bao nhiêu là trứng quạ khoang
    Và tôi đã từng trèo lên ăn cắp trứng!
    Không biết bây giờ có còn xanh trên ngọn?
    Và có như xưa, chắc chắn lớp vỏ bì?

    Còn con chó thân yêu kia
    Con chó trung thành và loang lổ?!
    Mày già trở nên mù và kêu the thé
    Kéo cái đuôi lòng thòng mày chạy quanh sân
    Không còn đánh hơi ra đâu bánh mì, đâu cửa.
    Những trò nghịch ngợm kia tao quí hóa
    Khi mẹ sắp những mẩu bánh mì tròn
    Tao cùng với mày, theo lượt cắn ăn
    Không xâm phạm của nhau dù một chút.

    Tôi giờ vẫn như ngày trước
    Tấm lòng tôi vẫn như xưa.
    Như cây thỉ xa, nở hoa trên gương mặt.
    Trải chiếc chiếu thơ
    Tôi muốn nói ra những lời dịu ngọt.

    Chúc ngủ ngon!
    Chúc tất cả ngủ ngon!
    Giọt sương reo vang trên hoa cỏ hoàng hôn
    Và hôm nay tôi vô cùng muốn
    Đái từ cửa sổ vào trăng…

    Ánh sáng màu xanh, ôi ánh sáng màu xanh!
    Trong màu xanh này chết đi không thấy tiếc.
    Nhưng mà tôi nghĩ rằng trơ trẽn thật
    Gắn mình vào cái đuôi của ngọn đèn!
    Chòm sao Phi mã xưa tốt bụng ghé thăm
    Nhưng liệu ta có cần nước kiệu ngươi chầm chậm?
    Ta đến đây như bậc thầy cứng rắn
    Để hát ngợi ca những chú chuột đồng
    Cái đầu ta tựa như ngày tháng tám
    Rót rượu nho của mái tóc măng.

    Tôi muốn làm một cánh buồm màu vàng
    Về xứ sở mà chúng ta muốn đến.
    1920

    #17
      cacbac 13.12.2007 17:43:52 (permalink)


      Evgeny Aleksandrovich Evtushenko (tiếng Nga: Евге́ний Алекса́ндрович Евтуше́нко – tên khai sinh: Евгений Александрович Гангнус)(sinh ngày 18 tháng 7 năm 1933) – nhà thơ Nga. Ông còn nổi tiếng là đạo diễn và diễn viên điện ảnh, là một trong những nhà thơ lớn nhất của Nga thế kỉ XX.

      Tiểu sử:
      Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko sinh ở thị trấn Zima, tỉnh Irkutsk, vùng Siberia, Nga. Bố là Aleksandr Rudolfovich Gangnus, mẹ là Zinaida Ermolaevna Evtushenko, khi lớn lên Yevtushenko lấy họ mẹ. Bắt đầu in thơ từ năm 16 tuổi. Năm 1951-1954 học ở trường viết văn Maxim Gorky. Hội viên Hội nhà văn Liên Xô từ năm 1952. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Yevtushenko có thể kể đến các tập thơ: “Con đường của những người nhiệt tâm”, 1956; “Thủy điện Brat”, 1965; “Đằng sau tượng Nữ thần tự do”, 1970; “Thơ tâm tình”, 1973; tiểu thuyết: “Đừng chết trước cái chết”, 1994… Ngoài thơ và văn xuôi, ông còn là đạo diễn của hai bộ phim theo kịch bản của mình: “Vườn trẻ”, 1984; “Lễ mai táng Stalin”, 1991. Năm 1979 ông đóng vai Sionkovsky trong bộ phim “Cất cánh” của đạo diễn Kulik. Năm 1986-1991 ông là thư kí của Hội nhà văn Liên Xô. Năm 1983 được bầu làm Đại biểu Quốc hội Liên Xô của tỉnh Kharkov. Từ năm 1991 ông kí hợp đồng với Đại học Oklahoma (Mỹ) dạy văn học Nga ở trường này.

      Sự đánh giá:
      Nhà văn, nhà phê bình Yevgeny Rein – người được coi là người bạn, vừa là người thầy của Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học 1986) viết: “Nước Nga là một xứ sở đặc biệt, quả quyết trong tất cả mọi mặt, thậm chí dưới góc nhìn của gương mặt thơ ca. Đã 200 năm nay thơ ca Nga chỉ có một nhà thơ vĩ đại. Vẫn như vậy trong thế kỷ 18, trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Chỉ có điều, nhà thơ vĩ đại này với nhiều khuôn mặt. Đấy là một dây xích liền mạch. Xin đưa ra một thứ tự: Derzhavin – Pushkin – Lermontov – Nekrasov – Blok – Mayakovsky – Akhmatova – Yevtushenko. Đấy là nhà thơ vĩ đại duy nhất với nhiều gương mặt khác nhau. Đấy là số phận thơ ca của nước Nga”.
      Cho đến đầu thế kỷ 21 này, đối với Yevgeny Yevtushenko, thứ tự này xem ra vẫn đúng.

      Giải thưởng:
      Yevgeny Yevtushenko được tặng rất nhiều giải thưởng của Liên Xô và các nước. Đáng kể nhất có thể kể đến: Huân chương Lao động cờ đỏ, 1983; Giải thưởng Sư tử vàng (Italia); Giải thưởng Quốc gia của Gruzia, Latvia, Ukraina…, Giải thưởng Walt Whitman. Năm 1995, tiểu thuyết “Đừng chết trước cái chết” được công nhận là tiểu thuyết nước ngoài hay nhất của Italia. Năm 2002 được tặng giải quốc tế Aquila của Italia. Ông là thành viên danh dự của Viện hàn lâm Nghệ thuật Mỹ, Tây Ban Nha, Giáo sư danh dự của Đại học mới New York, là công dân danh dự của nhiều thành phố ở Nga và Mỹ. Năm 1994 Bảo tàng Bách khoa Moskva ký với Yevtushenko hợp đồng nhận quyền tổ chức sinh nhật của ông trong vòng 25 năm, đến năm 2019. Hằng năm, cứ đến dịp sinh nhật của mình, ông lại từ Mỹ trở về Nga đọc thơ cho người hâm mộ. Thơ của Yevgeny Yevtushen ko được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

      Tác phẩm:
      *Шоссе энтузиастов (Con đường của những người nhiệt tâm, 1956), thơ
      *Братская ГЭС (Thủy điện Brat, 1965), thơ
      *Под кожей статуи Свободы (Đằng sau tượng Nữ thần tự do, 1970), thơ
      *Интимная лирика (Thơ tâm tình, 1973), thơ
      *Не умирай прежде смерти (Đừng chết trước cái chết, 1994), tiểu thuyết
      *Ягодные места (Những miền quả mọng, 1981), tiểu thuyết
      *Взлет (Cất cánh, 1979), phim
      *Детский сад (Vườn trẻ, 1984), phim
      *Похороны Сталина (Lễ mai táng Stalin, 1991), phim


      LUÔN LUÔN TÌM MỘT BÀN TAY PHỤ NỮ

      Luôn luôn tìm một bàn tay phụ nữ
      Một bàn tay rất mát mẻ, nhẹ nhàng
      Một chút yêu yêu, một chút thương thương
      Như một người em bàn tay ấp ủ.

      Luôn luôn tìm một bờ vai phụ nữ
      Để trong bờ vai hơi thở nóng bừng
      Để khi mái đầu phóng đãng ấp lên
      Sẽ tin tưởng trao bờ vai giấc ngủ.

      Luôn luôn tìm một đôi mắt phụ nữ
      Để làm tiêu tan đau khổ của mình
      Nếu không tất cả, thì dù một phần
      Những con mắt sẽ nhìn ra đau khổ.

      Nhưng cũng có một bàn tay phụ nữ
      Một bàn tay đặc biệt, rất ngọt ngào
      Khi lên vầng trán mệt mỏi chạm vào
      Giống như vĩnh hằng, giống như phận số.

      Nhưng cũng có một bờ vai phụ nữ
      Một bờ vai không hiểu tại vì đâu
      Không cho một đêm, không cho dài lâu
      Và điều này từ lâu anh đã rõ.

      Nhưng cũng có một đôi mắt phụ nữ
      Một đôi mắt luôn nhìn ngó rất buồn
      Và chuyện này cho đến ngày cuối cùng
      Con mắt của tình, của lương tâm anh đó.

      Còn anh sống trái ngược với đời anh
      Và ít ỏi một bàn tay phụ nữ
      Một bờ vai, một đôi mắt buồn bã
      Mà trong đời, anh phụ bạc bao lần!

      Thì sự trừng phạt sẽ đến với anh
      “Kẻ phụ tình!” – mưa vào anh sẽ đập
      “Kẻ phụ tình!” – cành lá quất lên mặt
      “Kẻ phụ tình!” – tiếng vọng giữa rừng xanh.

      Anh trằn trọc, anh đau khổ, anh buồn
      Và tất cả cho mình không tha thứ.
      Nhưng chỉ bàn tay của người phụ nữ
      Tha thứ cho anh, dù có phật lòng.

      Và chỉ bờ vai mòn mỏi chờ trông
      Tha thứ bây giờ và còn tha thứ nữa
      Và chỉ có đôi mắt ai buồn bã
      Tha thứ cho anh cả những thứ không nên…
      1961


      EM TO LỚN TRONG TÌNH

      Em to lớn trong tình.
      Em gan dạ.
      Còn anh rụt rè sau mỗi bước chân.
      Điều tồi tệ cho em anh chẳng làm
      còn tốt đẹp chắc gì anh có thể.
      Tất cả như trong rừng
      anh cứ ngỡ
      em dẫn anh đi không theo một lối mòn.
      Trong hoa cỏ ngập đến tận thắt lưng.
      Anh không hiểu hoa có tên gì vậy.
      Không dùng được những thói quen ngày ấy.
      Anh không biết rằng anh phải làm sao.
      Em mỏi mệt.
      Cần bàn tay trao nhau.
      Và ngã vào trong lòng anh khi đó.
      “Anh có thấy,
      trời hôm nay xanh thế?
      Và có nghe
      chim hót ở trong rừng?
      Nào anh yêu?
      Nào anh?
      Hãy bế em!”
      Bế em đi đâu anh không biết?…
      1953


      KHI GƯƠNG MẶT CỦA EM XUẤT HIỆN

      Khi gương mặt của em xuất hiện
      trước cuộc đời rất nhàu nát của anh
      khi đó, đầu tiên anh chỉ nghĩ rằng
      những gì anh có, tất cả đều thiếu thốn.

      Nhưng những cánh rừng, dòng sông và biển
      gương mặt em đặc biệt chiếu sáng lên
      màu sắc cuộc đời gương mặt hiến dâng
      chỉ riêng anh thì không hề dâng hiến.

      Anh sợ lắm, lúc này anh sợ lắm
      sợ vầng đông không đợi sẽ tận cùng
      tận cùng mở đầu, nước mắt, hân hoan
      nhưng nỗi sợ không thể nào kìm nén.

      Anh nhớ lại – chính cái điều khiếp đảm
      là tình yêu. Và nỗi sợ nâng niu
      dù anh không biết rằng phải chiều theo
      và tình yêu canh chừng không cẩn thận.

      Bằng nỗi sợ anh cầm lên chiếc nhẫn.
      Khoảnh khắc này – anh biết – ngắn ngủi thôi
      với anh biến mất màu sắc cuộc đời
      khi gương mặt em trước anh xuất hiện…
      1960


       
       
      TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA

      Akhmatova là người của hai thời
      Có vẻ như về nàng không nên khóc
      Nàng đã sống, có vẻ không tin được
      Lại không thể tin nàng đã qua đời.

      Nàng ra đi, giống như một bài ca
      Đi vào sâu thẳm của khu vườn tối
      Nàng ra đi, có vẻ như mãi mãi
      Từ Leningrad trở về Pê-téc-bua.

      Nàng gắn chặt với cả hai thời gian
      Giữa tâm điểm của sương và của bóng
      Nếu Puskin là mặt trời, thì nàng
      Trong thơ ca – sẽ mãi là đêm trắng.

      Trên cái chết, bất tử, ngoài tất cả
      Nàng đã nằm – có lẽ nói thế này:
      Không phải trong hiện tại, mà trên nó
      Nàng đã nằm giữa quá khứ, tương lai.

      Và quá khứ bên quan tài im lặng
      Không như của người sống hợp ý trời.
      Bờm tóc bạc sáng sủa và kiêu hãnh
      Lấp lánh từ những chíêc mũ lỗi thời.

      Vâng, thời gian làm đổi thay đường nét
      Những con người thời đó ở nước Nga
      Nhưng đôi mắt họ – ánh sáng nhân từ –
      Chẳng gió xoáy hay sương nào dập tắt.

      Tương lai yếu đuối trên những đôi vai
      Những cậu bé đi đến trường đã đốt
      Ngọn lửa học trò trong từng đôi mắt
      Những cuốn vở con nắm chặt trong tay.

      Và những cô bé trong cặp của mình
      Có lẽ mang nhật ký và danh mục
      Họ vẫn thế – thiêng liêng và hạnh phúc
      Vẫn ngây thơ như ngày ấy nữ sinh.

      Sự sụp đổ toàn cầu, xin đừng để
      Mất đi mối liên hệ của thời gian
      Vì không thể hai nước Nga – điều giản đơn
      Cũng như hai Akhmatova, không thể.


      NHỮNG CON NGƯỜI

      Người tẻ nhạt trên đời không hề có
      Số phận như lịch sử những hành tinh.
      Mỗi hành tinh có đặc điểm của mình
      Và chẳng có hành tinh nào giống nó.

      Nếu như ai đấy sống đời lặng lẽ
      Với vẻ ít ai để ý của mình
      Thì người này với những kẻ xung quanh
      Hay ở cái không có gì đáng nhớ.

      Mỗi con người bí ẩn và riêng lẻ.
      Có trong đời một khoảnh khắc tuyệt vời.
      Có một giờ phút khủng khiếp trong đời.
      Nhưng chúng ta đều không ai biết rõ.

      Và nếu con người trần gian từ giã
      Bông tuyết đầu của người ấy đi theo
      Trận đánh đầu tiên và nụ hôn đầu…
      Con người này mang theo mình tất cả.

      Chỉ còn lại những cây cầu, sách vở
      Những máy móc và cả những bức tranh
      Có nhiều thứ phải bỏ lại sau mình
      Nhưng vẫn mất đi một điều gì đó.

      Luật trò chơi không tiếc thương như thế
      Không phải người, mà thế giới mất đi.
      Ta nhớ người trần lầm lỗi thế kia
      Nhưng sâu xa ta biết gì về họ?

      Và cả bạn bè, cả anh em nữa?
      Ta biết về người duy nhất của mình?
      Và ngay người cha ruột thịt của mình
      Ta biết hết, mà không hề biết rõ.

      Người ra đi… không còn quay về nữa
      Không hồi sinh những thế giới bí huyền.
      Cứ mỗi lần tôi lại muốn kêu lên
      Vì cuộc đời chỉ đi về một phía…


      Anh đã hết yêu em

      Anh đã hết yêu em… một kết cục tầm thường
      Vô vị như cuộc đời, vô vị như cái chết
      Anh làm cho đứt dây khúc tình cay nghiệt
      Vờ vĩnh để làm chi – một nửa cây đàn!

      Chỉ con chó không hiểu – nó què quặt, xù lông
      Em và anh cứ vẽ vời để làm chi không biết.
      Anh kéo về mình – nó kêu bên cửa nhà em thút thít
      Còn em thả nó ra – nó rên ừ ừ bên cửa nhà anh.

      Có lẽ sẽ cuồng điên rồi sẽ chạy loăng quăng
      Con chó đa cảm đa sầu, mi quả là trẻ lắm
      Nhưng ta không cho phép mình làm người đa cảm
      Hễ tiếp tục đớn đau – sẽ kéo đến cuối cùng.

      Làm người đa cảm không phải yếu hèn, mà tội lỗi
      Khi lại vẫn mềm lòng thì lại vẫn hứa suông
      Rên ư ử, khừ khừ rồi lại hình dung
      Với tên gọi dại khờ rằng “Tình cứu rỗi”.

      Cứu tình yêu là trong những ngày đầu tiên, với
      “Không bao giờ!” của nhiệt huyết, “mãi mãi!” của trẻ con.
      “Không cần hứa!” – tiếng những con tàu vang lên
      “Không cần hứa!” – tiếng những dây diện thoại.

      Cành chớm gãy và u ám giữa trời xanh
      Cảnh báo cho ta, những con người ít học
      Rằng lạc quan tràn đầy là do không hiểu biết
      Rằng vô vọng mới là điều hy vọng đáng tin.

      Nhân đạo hơn là làm người tỉnh táo và cân
      Và hỏi kỹ trước khi đeo vào – đó là qui luật
      Đừng hứa gì trời xanh, nhưng hãy trao dù chút đất
      Không đến ngày xuống mồ, nhưng dù khoảnh khắc rất cần.

      Nhân đạo hơn là đừng nói “em yêu…” khi yêu anh
      Kẻo rồi thật nặng nề, từ những bờ môi ấy
      Nghe những lời trống không, buồn cười, giả dối
      Và nghe dối gian như cả thế giới hoang tàn.

      Không cần hứa… Tình – là không thể thi hành
      Gian dối để làm chi, cũng giống như vương miện
      Ảo ảnh là hay, một khi ảo ảnh chưa tan biến
      Nhân đạo hơn là đừng yêu, kẻo sau đấy – cuối cùng.

      Con chó kêu rên đến rối loạn tâm thần
      Đập cửa nhà anh, rồi bên cửa nhà em ư ử.
      Vì đã hết yêu, anh không hề xin em tha thứ
      Chỉ tha thứ cho anh vì một thuở đã yêu em.


      Về những bản dịch

      Bạn đừng sợ gì bản dịch tự do
      Không gì tự do, nếu như yêu mến.
      Nhưng nếu như nhạc của thơ làm hỏng
      Thì bạn làm đứt đoạn cả ý thơ.

      Tôi không khen vẻ khôn khéo dối lừa
      Mà tôi khen những nhà thơ được phép
      Có sự chính xác ngây thơ tội nghiệp
      Và chi ly của sáng tạo thơ ca.

      Đừng tự gò mình, những kẻ ngây thơ
      Hãy để cho nhiều tự do và nhạc
      Tôi đơn giản không tin vào bản dịch
      Mà tôi chỉ tin ở những bài thơ.
      #18
        cacbac 13.12.2007 17:47:45 (permalink)


        Afanasy Afanasievich Fet (tiếng Nga: Афанасий Афанасьевич Фет, họ thật là Shenshin, Fet là họ mẹ - tiếng Đức: Foeth – đọc là Phớt, 5 tháng 12 năm 1820 – 3 tháng 12 năm 1892) – nhà thơ Nga, một trong những nhà thơ lớn nhất của Nga thế kỉ XIX.

        Cuộc đời:
        Fet là con ngoài giá thú của địa chủ Afanasy Ivanovich Shenshin và Charlotta Foeth, một phụ nữ người Đức. Đến cuối đời ông mới giành được quyền lợi về tầng lớp xuất thân và họ thật nhưng trong thơ ca mãi mãi gọi là Fet. Sinh ở tỉnh Orlov, từ năm 1835 – 1837 học ở trường tư thục. Những năm 1838 – 1844 học Đại học Moskva. Năm 1840 in tập thơ đầu tiên, năm 1850 in tập thơ đầu tiên và bắt đầu được chú ý. Những năm 1845 – 1858 Fet phục vụ trong quân đội. Thời gian đóng quân ở Ukraina Fet yêu cô Maria Lazich, là một cô gái có học, xinh đẹp và tài năng. Maria Lazich yêu Fet đến quên mình nhưng hai người không đi đến hôn nhân vì Fet cảm thấy chưa đủ điều kiện để lập gia đình. Maria Lazich chết vì quần áo cháy do nến đốt. Người đời nói về vụ tử tử vì tình do sự “tính toán” của Fet. Thực hư không ai biết chính xác nhưng sau đó hình bóng Maria luôn xuất hiện trong thơ Fet. Năm 1857 Fet lấy vợ, là con gái của một người bạn. Sau khi giải ngũ, Fet mua được rất nhiều đất và trở thành một địa chủ giàu có. Fet mất ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang dòng họ Shenshin ở Orlov.

        Thơ ca:
        Fet làm thơ từ thời trẻ cho đến những năm tháng cuối đời. Thơ của Fet thể hiện sự lẩn tránh đời thường để đi vào “vương quốc xán lạn của ước mơ”. Chủ đề chính của thơ Fet là tình yêu và thiên nhiên. Fet là một bậc thầy ngôn ngữ, đại diện tiêu biểu của trường phái “thơ tinh khiết”, cả đời tranh luận với Nicolay Nekrasov, người đại diện tiêu biểu của trường phái “thơ xã hội”. Đặc điểm của thơ Fet là nói về cái cốt lõi nhất, tránh những ám chỉ thừa. Dưới đây là một bài thơ tiêu biểu được nhiều người biết:

        Шёпот, робкое дыханье,
        Трели соловья.
        Серебро и колыханье
        Сонного ручья.
        Свет ночной, ночные тени.
        Тени без конца,
        Ряд волшебных изменений
        Милого лица,
        В дымных тучках пурпур розы,
        Отблеск янтаря,
        И лобзания, и слёзы,
        И заря, заря!..

        Thì thầm, hơi thở nhẹ
        Tiếng ngân của họa mi.
        Ánh bạc, tiếng thầm thì
        Của dòng sông ngái ngủ.
        Ánh sáng đêm, bóng đêm.
        Bóng không có tận cùng
        Những đổi thay kỳ diệu
        Của gương mặt thân thương.
        Trong khói, hoa hồng nhung
        Ánh sáng màu hổ phách
        Nụ hôn và nước mắt
        Và bình minh, bình minh!..


        Cả bài thơ này không có một động từ nào cả. Tuy nhiên sự mô tả không gian chuyển tải sự vận động tự thân của thời gian. Fet có sự ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ phái hình tượng, đặc biệt là Innokenty Annensky và Aleksandr Blok. Ngoài sáng tác, Fet còn dịch Goethe và nhiều nhà thơ La Mã cổ đại.


        ANRUF AN DIE GELIEBTE BETHOVEN

        Em hãy tin sự thừa nhận đau buồn
        Dù một lần, nghe hồn anh năn nỉ
        Anh đứng trước em – hình hài tuyệt mĩ
        Sức mạnh nào trong hơi thở trào dâng.

        Trước ngày xa em, anh bắt gặp bóng hình
        Tràn ngập hồn anh, đắm say, ngây ngất
        Không có em, anh rã rời muốn chết
        Anh quí nỗi buồn như hạnh phúc của anh.

        Gọi tên em, dù chết, anh sẵn sàng
        Em đứng trước mặt anh như thần thánh
        Trong nỗi buồn của mình, anh vui sướng
        Với vẻ đẹp tuyệt vời anh nhìn thấu vinh quang.


        HẠNH PHÚC BIẾT BAO

        Hạnh phúc biết bao: đêm, và ta hai đứa!
        Dòng sông như gương phản chiếu những vì sao
        Em hãy nhìn kia, hãy ngẩng cao đầu
        Trời trên đầu ta sạch sẽ và sâu thế!

        Cứ gọi anh là điên, gọi là điên
        Hay thế nào… lúc này anh mất trí
        Và trong tim cảm thấy cơn đau tình
        Rằng không thể lặng im, anh không thể.

        Anh đau, anh yêu, nhưng yêu và đau khổ
        Anh chẳng giấu đam mê, em hãy hiểu cho anh
        Và anh muốn nói rằng anh yêu em –
        Yêu em, một mình em, anh yêu và muốn có!


        VƯƠNG MIỆN TRAO AI

        Vương miện trao ai: cho nữ thần sắc đẹp
        Hay cho gương phản chiếu bóng hình nàng
        Nhà thơ bối rối khi em kinh ngạc
        Rằng sự hình dung giàu có gấp nhiều lần.

        Không phải anh, mà trần gian giàu có
        Trong cát bụi trần, đời cứ thế nhân lên
        Rằng chỉ một ánh mắt nhìn của em
        Nói lại điều này thì nhà thơ không thể.


        NHƯ ĐÊM KHÔNG MÂY

        Như đêm không mây, rất rõ rành
        Như những ngôi sao không tắt
        Đôi mắt của em cháy lên
        Niềm hạnh phúc bí huyền, ẩn ước.

        Cho tất cả, bằng ánh sáng vô tình
        Xa hay gần đều toả sáng
        ánh lên vẻ hạnh phúc bí ẩn
        Cho con người, vách đá, cho thú và chim.

        Chỉ mình anh, nữ hoàng trẻ trung
        Không cho yên, không cho hạnh phúc
        Và trong tim, như con chim trong ngục
        Một bài ca không cánh, khổ vô cùng.


        CHỈ CẦN TRỜI HƠI TỐI MỘT CHÚT THÔI

        Chỉ cần trời hơi tối một chút thôi
        Là anh chờ, ngóng chừng chuông rung động
        Đến với anh, con mèo của anh ơi
        Đến với anh trong buổi chiều thanh vắng.

        Anh thổi tắt những ngọn nến trước gương
        ánh sáng và hơi ấm từ lò sưởi
        Sẽ nghe những lời vui vẻ, dễ thương
        Để cho cõi lòng anh tê tái lại.

        Anh sẽ nghe những giấc mộng ấu thơ
        Nơi tất cả đều ánh lên phía trước
        Cứ mỗi lần như thế những ước mơ
        Lại sôi lên dạt dào trong lồng ngực.

        Đến sáng ngày bằng bàn tay cẩn thận
        Anh vân vê, thắt lại chiếc khăn tay
        Rồi dọc tường, ánh trăng còn chiếu sáng
        Anh tiễn em ra đến tận cổng ngoài.
        1856.
        #19
          cacbac 13.12.2007 17:55:07 (permalink)


          Gamzatov, Rasul (1923-2003)
          (Xem: 500 bài thơ Rasul Gamzatov)

          ************************





          Zinaida Nikolaevna Gippius (tiếng Nga: Зинаида Николаевна Гиппиус, 8 tháng 11 năm 1869 – 9 tháng 9 năm 1945) là nữ nhà thơ, nhà văn Nga, vợ của nhà thơ Dmitriy Sergeyevich Merezhkovsky.

          Tiểu sử:
          Zinaida Nikolaevna Gippius sinh ở Belev, tỉnh Tula trong gia đình một luật sư gốc Đức. Gippus không học trường Đại học nào, mặc dù thời trẻ là một cô gái rất thông minh. Năm 1889 lấy chồng – là nhà thơ, nhà văn, nhà triết học Merezhkovsky và theo chồng về Sankt-Peterburg. Hai người sống với nhau, theo lời của Gippus, suốt 52 năm không một ngày xa nhau.

          Bắt đầu in thơ năm 1888 ở tạp chí Северном вестнике (Người đưa tin phương bắc). Gippus là một gương mặt tiêu biểu của trường phái ấn tượng. Năm 1900 cùng chồng và một số nhà thơ thành lập “Hội Triết học và Tôn giáo” ở Sankt-Peterburg. Tuyển tập thơ 1889 – 1903 (xuất bản năm 1904) trở thành một sự kiện của thơ ca Nga đương thời. Nhà thơ Innokentiy Annensky gọi tác phẩm của Gippus là “tất cả lịch sử 15 năm của thơ hiện đại”. Ngoài thơ, Gippus còn nổi tiếng là nhà phê bình thường xuyên đăng bài trên các tạp chí nổi tiếng đương thời trong những năm từ 1899 – 1914. Tác phẩm Литературный дневник, (Nhật ký văn học, 1908) được đánh giá là một tác phẩm phê bình xuất sắc.

          Gippus không thừa nhận Cách mạng tháng Mười. Điều này được phản ánh trong tập Последние стихи. 1914-1918 (Những bài thơ cuối cùng, 1918) và Петербургские дневники (Nhật ký Peterburg). Năm 1920 bà cùng chồng sang Ba Lan rồi sang Pháp. Những năm 1925 – 1940, Gippus thành lập hội Зеленая лампа (Ngọn đèn xanh), nhằm thống nhất các nhóm văn học Nga ở nước ngoài, tuy nhiên, hội này không có được sự thống nhất thường xuyên như người sáng lập mong muốn. Năm 1941, sau khi chồng mất Gippus tập trung những năm cuối đời viết tiểu sử của chồng nhưng dang dở dang thì bà mất ngày 9 tháng 9 năm 1945 ở Paris.

          Tác phẩm:
          *Собрание стихов. 1889 - 1903" (Москва, 1904),
          *Собрание стихов. Кн. 2. 1903 - 1909" (Москва, 1910),
          *Новые люди (Петербург, 1896; 1907),
          *Зеркала (Петербург, 1898),
          *Алый меч (Петербург, 1906)
          *Маков цвет (1908; совместно с Д. С. Мережковским и Д. В. Философовым),
          *Чёртова кукла (1911),
          *Роман-царевич (1913),
          *Зеленое кольцо (1916).
          *Последние стихи. 1914-1918 (1918)
          *Живые лица" (1925)
          Các tuyển tập xuất bản ở Nga sau cải tổ:
          *Гиппиус З. Пьесы. Л., 1990
          *Гиппиус З. Живые лица, тт. 1-2. Тбилиси, 1991
          *Гиппиус З. Сочинения. Ленинградское отд. Худож. лит. 1991
          *Гиппиус З. Стихотворения. СПб, 1999
          *Гиппиус З. Дневники, тт. 1-2. М., 1999

          ******************

          Đơn vị đo lường

          Luôn luôn thế, một điều gì không có
          Và một điều gì đó cần nhiều hơn
          Dường như có câu trả lời cho tất cả
          Nhưng dù sao, thiếu âm tiết cuối cùng.

          Liệu làm xong một điều gì – không phải thế
          Không đúng lúc, không chắc chắn, tròng trành…
          Và mỗi dấu hiệu đều không chung thủy
          Và trong từng quyết định – vẫn sai lầm.

          Mặt trăng uốn khúc, ngoằn ngoèo trong nước
          Nhưng con đường vàng ánh và dối gian
          Khắp mọi nơi đều có sự mất mát
          Chỉ Thượng Đế có đơn vị đo lường.


          Tình chỉ một

          Chỉ một lần sôi lên ngầu bọt
          Và con sóng tung lên
          Con tim không thể sống bằng dối gian
          Không hề có dối gian – tình chỉ một.

          Ta đùa chơi hay là ta cáu gắt
          Hay dối gian – nhưng tĩnh lặng trong tim
          Ta không bao giờ thay đổi gì hơn:
          Hồn chỉ một – và tình yêu chỉ một.

          Rất đơn điệu, hoang vu như sa mạc
          Tình mạnh mẽ nhờ đơn điệu mà thôi
          Đi qua đời… trong cuộc đời rất dài
          Tình chỉ một, và luôn luôn chỉ một.

          Chỉ trong sự thủy chung – và vô cực
          Chỉ trong sự thường xuyên – có độ sâu
          Gần vĩnh hằng, và con đường tiếp theo
          Sẽ càng rõ ràng hơn: tình chỉ một.

          Ta trả giá cho tình bằng máu huyết
          Tâm hồn thủy chung thì vẫn thủy chung
          Và ta yêu chỉ bằng một mối tình
          Tình chỉ một, chỉ một như cái chết.


          Tiếng kêu

          Tôi cảm thấy mệt nhoài vì kiệt sức
          Và tâm hồn này trong máu bị thương
          Chẳng lẽ cho ta không một chút tình
          Chẳng lẽ Chúa Trời không hề thương xót?

          Ta thi hành ý muốn rất nghiêm ngặt
          Như bóng đêm, không dấu vết, lặng im
          Bằng con đường nghiệt ngã, chẳng xót thương
          Nhưng ta đi về đâu – không biết được.

          Gánh nặng cuộc đời, gánh nặng cây thập ác
          Càng đi xa, càng thấy nặng nề hơn…
          Đang chờ ta – kết cục không rõ ràng
          Ở những cánh cửa muôn đời đóng chặt.

          Không hề ngạc nhiên và không than khóc
          Ta làm điều mong muốn của Chúa Trời.
          Ngài tạo ra ta thiếu hứng khởi tràn đầy
          Tạo ra ta, nhưng yêu không thể được.

          Và ta rơi xuống, đám đông bất lực
          Bất lực và tin vào sự diệu kỳ
          Như nắp mộ chí – từ trên cao kia
          Những bầu trời mù quáng đang đè chặt.


          Nếu

          Nếu đèn tắt – thì tôi chẳng thấy gì.
          Nếu người là thú – thì tôi căm ghét.
          Nếu người tệ hơn thú – thì tôi giết đi.
          Nếu không còn nước Nga – thì tôi chết.


          Bất lực

          Tôi nhìn biển bằng ánh mắt khao khát
          Nhìn dải đất bao bọc ở trên bờ
          Tôi đứng đây – trên trời, trên bờ vực
          Không thể bay vào màu xanh ước mơ.

          Tôi không biết, đứng lên hay phủ phục
          Tôi không dám chết, nhưng sống cũng không…
          Không thể cầu nguyện – dù Chúa rất gần
          Tôi muốn tình yêu – nhưng không yêu được.

          Tôi đưa bàn tay hướng về mặt trời
          Và tôi nhìn thấy màn mây xám ngắt
          Tôi cứ ngỡ mình hiểu ra sự thật
          Nhưng dành cho sự thật chẳng có lời.


          Tình yêu

          Trong hồn tôi không còn chỗ cho đau khổ
          Tâm hồn của tôi là tình.
          Tình đập vỡ những mong ước của mình
          Để hồi sinh những ước mong lần nữa.

          Khởi thủy là Lời. Hãy đợi chờ Lời
          Lời sẽ mở.
          Điều gì đã làm xong – sẽ còn làm nữa
          Bạn và Ngài – chỉ một mà thôi.

          Ánh sáng cuối, cho tất cả mọi người
          Dấu hiệu là chỉ một.
          Hãy bước đi, dù ai cười, ai khóc
          Hãy bước đi – hãy đi đến với Ngài.

          Đến với Ngài trong giải thoát đất đai
          Và sẽ có những điều kỳ lạ.
          Và sẽ ở trong sự thống nhất tất cả -
          Mặt đất và bầu trời.


          Niềm vui

          Những nghi ngờ làm phiền tôi bạn ạ
          Đã từ lâu cảm tháy cái chết gần.
          Trong nấm mồ mà tôi sẽ ngủ yên
          Tôi biết rằng tối tăm và oi ả.

          Nhưng tôi vẫn ở đây, cùng bạn đó
          Trong hơi thở gió, trong ánh mặt trời
          Tôi sẽ làm con sóng trên biển cả
          Và đám mây bay lượn giữa bầu trời.

          Tôi xa lạ với ngọt ngào trần thế
          Và con tim, ngay cả với buồn thương
          Như sao xa lạ hạnh phúc, vui mừng
          Nhưng cho tôi bạn đừng thương xót nhé.

          Tôi đợi lặng yên… hồn tôi mệt lử
          Mẹ - thiên nhiên cất tiếng gọi tôi về
          Thật nhẹ nhàng, gánh nặng đời yên ngủ
          Bạn tôi ơi, chết sung sướng nhường kia!
          #20
            cacbac 13.12.2007 17:59:21 (permalink)


            Apollon Aleksandrovich Grigoryev (Аполлон Александрович Григорьев, 20 tháng 7 năm 1822 - 25 tháng 9 năm 1864) là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả người Nga.

            Tiểu sử:
            Apollon Grigoryev sinh ở Moskva. Ông nội là một nông dân tỉnh lẻ lên Moskva làm công chức và phấn đấu lên tầng lớp quí tộc. Bố từng làm thư ký tòa thị chính thành phố. Apollon Grigoryev có được sự giáo dục tốt của gia đình, không cần học gymnazy (như trường phổ thông bây giờ) mà vào thẳng Đại học Moskva học khoa luật. Ông là người bảo vệ luận án tiến sĩ đầu tiên của khoa luật trường này. Những năm 1842-1843 làm việc ở thư viện trường, cuối năm 1843 làm thư ký Hội đồng Đại học Moskva, kết bạn với Fet, Polonsky, Solovyov. Họ thành lập nhóm văn học trong trường và thường xuyên đọc tác phẩm của mình trước công chúng.

            Apollon Grigoryev bắt đầu in thơ từ năm 1843. Thời kỳ này ông viết nhiều thơ tình về một tình yêu không được đáp lại. Thất tình ông bỏ về Sankt-Peterburg làm việc 2 năm ở Nghị viện. Từ năm 1848 – 1857 ông dạy luật ở một số trường Đại học, năm 1850 tham gia tạp chí Москвитянин (Moskvityanin), trở thành nhà phê bình sân khấu nổi tiếng. Năm 1856 tạp chí này bị đóng cửa, ông được mời cộng tác với các tạp chí Русскую беседу vа Современник. Những năm 1852 – 1857 фng lại đau khổ vм một tмnh yкu khфng được đбp lại. Thời kỳ nаy фng viết được nhiều bаi thơ mа Aleksandr Blok gọi lа “những viкn ngọc của thơ trữ tмnh Nga”. Những năm 1857 – 1858 фng ra nước ngoаi, sống ở Phбp, Э. Trở về Nga, tiếp tục cộng tбc với cбc tờ tạp chн Время vа Эпоха do Mikhail Dostoevsky lаm chủ bъt. Thời kỳ nаy фng viết nhiều hồi kэ theo lời khuyкn của Mikhail Dostoevsky. Những năm cuối đời фng sống trong cảnh nợ nần vа nghiện rượu. Фng mất ở Sankt-Peterburg năm 1864.


            ************

            Anh hành hạ, khổ sở vì nỗi buồn

            Anh hành hạ, khổ sở vì nỗi buồn
            Nhưng với em, thiên thần, anh chẳng nói
            Không bao giờ em biết vì sao vậy
            Anh lang thang, thơ thẩn giống người điên.

            Có những phút giây mà những lời em
            Mang lại cho anh một niềm hạnh phúc
            Anh trao tất cả, những gì quí nhất
            Đổi lấy bàn tay và ánh mắt nhìn.

            Có những phút giây giận dữ điên cuồng
            Và hằng đêm anh thở than nức nở
            Có trời biết, anh xin làm tất cả
            Chỉ để được nằm ở dưới chân em.

            Có những phút giây, mà anh thấy không
            Biết cách dìm nỗi cuồng điên khao khát…
            Anh van em – cho dù em lạnh ngắt
            Hãy thương anh và thương bản thân mình!


            Gửi

            “Anh có tin sự thật, có tin luật pháp
            Anh hãy nói với em, chớ có đùa?
            -“Em ơi, tình yêu là luật pháp
            Còn sự thật, đó là
            Anh yêu em, em yêu ạ”.

            -“Nhưng mà những ước mơ cao cả
            Anh có tin hay không?
            -“Em ơi, em còn cao cả hơn
            Cả ước mơ, và còn gì cao cả hơn vẻ đẹp?
            Câu trả lời em tìm trong chính mình!”

            -“Thế vào cái Thiện
            Và tự do, anh có tin?”
            -“Để làm gì, em yêu? Khi đó
            Anh không hạnh phúc, không nô lệ
            Của sắc đẹp, của tình”.

            -“Thế tình yêu muôn thuở
            Anh có tin không?
            -“Em ơi! Con sóng là tình
            Sóng và sóng có còn gặp nữa –
            Chỉ có trời biết được thôi em!”

            -“Nếu thế thì – anh hãy tin sự mê say
            Anh hãy trao hết mình cho nó!”
            -“Liệu em có biết anh tin sự mê say?
            Nhưng mà anh giữ quyền cho lý trí
            Và sẽ hạnh phúc gấp đôi!”
             




            Vera Mikhaylovna Inber (tiếng Nga: Ве́ра Миха́йловна И́нбер, 28 tháng 6 năm 1890 – 11 tháng 11 năm 1972) là nữ nhà văn, nhà thơ Nga.

            Tiểu sử:
            Vera Inber sinh ở Odessa (nay là Ukraina), bố là chủ một nhà xuất bản, mẹ là giáo viên dạy tiếng Nga. Học xong gymnazy, Vera Inber vào học khoa lịch sử và ngôn ngữ ở trường Đại học nữ Odessa. Bắt đầu in thơ từ năm 1910 ở các báo địa phương, sau đó in ở tạp chí Солнце России (1912). Từ 1910 đến 1914 sống ở Pháp và Thụy Sĩ, năm 1914 in tập thơ đầu tiên Печальное вино ở Paris. Trở về Odessa năm 1914 tiếp tục sáng tác thơ, viết kịch và thử sức trong lĩnh vực biểu diễn sân khấu. Năm 1917 in tập thơ thứ hai Горькая услада ở Petrograd. Năm 1922 bà chuyển về Moskva, cộng tác với các tờ tạp chí ОгонекКрасная нива. Nghề báo không cản trở bà in thơ thường xuyên: Цель и путь (1925), Мальчик с веснушками (1926), Сыну, которого нет (1927), Избранные стихи (1933). Thời kỳ Thế chiến II bà sống ở thành phố Leningrad bị bao vây. Trường ca Пулковский меридиан (1941-1943) của bà sáng tác trong thời kỳ này được tặng giải thưởng Stalin (giải thưởng Nhà nước) năm 1946. Bà cũng là tác giả của các cuốn sách Душа Ленинграда, О ленинградских детях, О Ленинграде, được viết trong thời kỳ này.

            Những năm sau chiến tranh bà tiếp tục làm thơ, viết văn và dịch thơ Taras Shevchenko, Paul Eluard, Sándor Petőfi ra tiếng Nga. Những năm cuối đời bà vào Hội Nhà văn và tham gia ban biên tập của tạp chí Знамя. Vera Inber mất ở Moskva năm 1972.

            Tác phẩm:
            *Сборник стихов «Печальное вино» (1914)
            *Сборник стихов «Горькая услада» (1917)
            *Сборник стихов «Бренные слова» (1922)
            *Сборник стихов «Цель и путь» (1925)
            *Рассказы «Уравнение с одним неизвестным» (1926)
            *Сборник стихов «Мальчик с веснушками» (1926)
            *Рассказы «Ловец комет» (1927)
            *Сборник стихов «Сыну, которого нет» (1927)
            *Сборник стихов «Избранные стихи» (1933)
            *Путевые записки «Америка в Париже» (1928)
            *Автобиография «Место под солнцем» (1928)
            *Сборник стихов «Вполголоса» (1932)
            *Комедия в стихах «Союз матерей» (1938)
            *Поэма «Путевой дневник» (1939)
            *Поэма «Овидий» (1939)
            *Поэма «Весна в Самарканде» (1940)
            *Сборник стихов «Душа Ленинграда» (1942)
            *Поэма «Пулковский меридиан» (1943)
            *Дневник «Почти три года» (1946)
            *Очерки «Три недели в Иране» (1946)
            *Сборник стихов «Путь воды» (1951)
            *Книга «Как я была маленькая» (1954)
            *Статьи «Вдохновение и мастерство» (1957)
            *«Апрель» (1960)
            *Сборник стихов «Книга и сердце» (1961)
            *Книга «Страницы дней перебирая» (1967)
            *Сборник стихов «Анкета времени» (1971)

            Tất cả dưới sao trời

            Tất cả dưới sao trời
            Chờ đến lượt.
            Và thời tan của tuyết
            Sẽ đến nơi.
            Và mây đen lên đá granit
            Sẽ rót nỗi buồn.
            Và ánh trăng mạ bạc
            Lên bụi hạnh nhân.
            Và nước sẽ có mùi hương
            Và tiếng vỗ bờ sẽ khác.
            Và em ra đi, như mọi lúc
            Vào mùa xuân.
            Và hai chúng mình giã biệt
            Anh yêu của em
            Và liệu ta có còn
            Gặp lại nhau không biết?


            Một tình yêu

            Tôi quên hết: ánh mắt và dáng đi
            Mái tóc, nụ cười, trước khi đi ngủ
            Nhưng dù sao, còn đấy, một tình yêu
            Giống như bông lúa.

            Nhưng dù sao tôi cúi xuống. Kẻ qua đường
            Đi cho nhanh, và đừng quay trở lại
            Một tình yêu không thể nào quên
            Trong tôi còn đấy.


              Người chiến thắng

            Tuyết, đường xấu, bụi nóng, khô hanh
            Trận đánh, bãi mìn và gió kẽm
            Trong quân phục của mình, em đã nếm
            Em, người lính trở về từ chiến tranh.

            Em theo nhà máy về miền Ural
            Bỏ ngôi nhà, chưa mọt lần khóc lóc
            Bàn tay phụ nữ làm ngạc nhiên sắt thép
            Nhưng mà qui phục, tuy nhiên.

            Ta là người chiến thắng. Tiếng súng đã im
            Đã qua thời kỳ chiến tranh khó nhọc
            Em nhớ lại, qua nghề của đàn ông
            Nhưng phụ nữ là em, trước hết.

            Ngày tháng ba. Một giọt nước màu xanh
            Rơi lên mái nhà, xuyên qua khe hở.
            Phòng lặng lẽ. Một chiếc nôi bên tường
            Trên cốc nước màu trắng từ hoa quả.

            Đứa bé nằm ngủ ôm chiếc gối mềm
            Mặt trời dịu dàng xuyên vào mái tóc.
            Em giơ tay, thì thầm: “Xin lặng yên
            Kẻo bé con thức giấc”.
            1946
            #21
              cacbac 13.12.2007 18:02:51 (permalink)


              Mikhail Vasilyevich Isakovsky (tiếng Nga: Михаил Васильевич Исаковсий, 19 tháng 1 năm 1900 – 20 tháng 6 năm 1973) là nhà thơ Nga Xô Viết.

              Tiểu sử:
              Mikhail Isakovsky sinh ở làng Glotovka, tỉnh Smolensk trong một gia đình nông dân nghèo. Học ở trường gymnazy nhưng phải bỏ học vì nhà nghèo. Năm 1914 bắt đầu in thơ trên một tờ báo ở Moskva. Ông từng làm nghề dạy học, biên tập một số tờ báo và tạp chí. Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng.

              Đối với bạn đọc Việt Nam, Mikhail Isakovsky được biết đến qua một số bài thơ, mà đặc biệt là bài hát Katyusha (Cachiusa) do nhạc sĩ Matvei Blanter phổ thơ ông. Bài hát này nổi tiếng khắp thế giới, còn ở Liên Xô, nó nổi tiếng đến mức người ta đã lập một bảo tàng về bài hát “Cachiusa” ở quê hương ông. Ngoài thơ sáng tác, ông còn dịch nhiều thơ các nước cộng hòa của Liên Xô cũ ra tiếng Nga. Mikhail Isakovsky hai lần được tặng giải thưởng Nhà nước Liên Xô (1943, 1949), năm 1970 được phong Anh hùng Lao động. Ông cũng được tặng nhiều huân huy chương các loại của nhà nước Liên Xô. Ông mất ở Moskva năm 1973.

              Tác phẩm:
              *По ступеням времени (1921)
              *Взлеты (1921)
              *Четыреста миллионов (1921)
              *Провода в соломе (1927)
              *Провинция (1930)
              *Мастера земли (1931)
              *Стихи и песни (1938, доп. изд. 1940)
              *Наказ сыну, 1943
              *Здравствуй, Смоленск, 1944
              *Избранные стихи и песни (1940, доп. изд. 1947)
              *Стихи и песни (1948, Гос. премия СССР, 1949)
              *Поэма ухода (1920)
              *О поэтах, о стихах, о песнях (1968)
              *На Ельнинской земле: Автобиографические страницы (1971-1972)
              *Исаковский М. Собрание сочинений, тт. 1-4. М., 1968-1969
              *Исаковский М. Собрание сочинений, тт. 1-4. М., 1968-1969



              CACHIUSA

              Lê và táo nở hoa
              Sương giăng trên sông vắng
              Katyusha ra bến
              Trên bờ cao năm nào.

              Nàng cất lên bài hát
              Về đại bàng, thảo nguyên
              Về một người yêu thương
              Mà thư nàng vẫn đọc.

              Ôi, bài ca thiếu nữ
              Hãy bay theo mặt trời
              Về biên cương xa xôi
              Trao lời thăm hỏi nhé.

              Để chàng nhớ về em
              Để chàng nghe câu hát
              Chàng giữ gìn tổ quốc
              Tình yêu – em giữ gìn.

              Lê và táo nở hoa
              Sương giăng trên sông vắng
              Katyusha ra bến
              Trên bờ cao năm nào.
              __________
              Một vài chi tiết liên quan đến bài hát Cachiusa:
              *Bài thơ này được nhạc sĩ Matvei Blanter phổ nhạc năm 1938 thành một bài hát nổi tiếng không chỉ ở Nga mà cả thế giới. Bài hát này còn tạo cảm hứng để người Nga đặt tên cho các dàn phóng tên lửa của mình là BM-8, BM-13 và BM-21, được sản xuất và trang bị cho Hồng quân Xô Viết trong Thế chiến II, giai đoạn 1939-1945.


              *Những năm 1943-1945 rất phổ biến đoạn thơ sau:
              Để Fritz nhớ mãi “Cachiusa”
              Cho nghe ra lời “Cachiusa” hát:
              Làm cho quân địch hồn xiêu phách lạc
              Và tăng thêm dũng khí cho quân ta.


              (Пусть фриц помнит русскую «катюшу»,
              Пусть услышит, как она поет:
              Из врагов вытряхивает души,
              А своим отвагу придает!)


              *Sau này, khi bài hát đã nổi tiếng khắp thế giới, Mikhaili Isakovsky viết khổ thơ kết sau đây:

              Lê và táo hết hoa
              Sương tan trên sông vắng
              Cachiusa rời bến
              Mang bài hát về nhà.


              (Отцветали яблони и груши,
              Уплыли туманы над рекой.
              Уходила с берега Катюша,
              Уносила песенку домой).





              NGHE ANH NÀY EM XINH

              Nghe anh này em xinh
              Nghe anh này em đẹp
              Em – hoàng hôn của anh
              Một tình yêu không tắt.

              Anh đi theo đường phố
              Còn trăng sáng trên trời
              Còn trăng sáng trên trời
              Cho chúng mình gặp gỡ.

              Khi lưỡi hái đang mài
              Trên đồng chưa cắt cỏ
              Anh đào chưa nở đầy
              Nghiêng cây vào cửa sổ.

              Khi hãy còn tuổi trẻ
              Ân ái hãy còn nhiều
              Yêu, khi còn được yêu
              Gặp, khi còn gặp gỡ.

              Gặp gỡ này em xinh
              Gặp gỡ này em đẹp
              Em – hoàng hôn của anh
              Một tình yêu không tắt.


              CHÀNG TRAI VỚI CÂY ĐÀN

              Giờ tất cả đóng băng đến sáng mai
              Lửa không cháy, cửa không kêu cót két
              Chỉ nghe ra đâu đó từ phía ngoài
              Một chàng trai với cây đàn rảo bước.

              Chàng đi ra cánh đồng, ra ngoài cổng
              Rồi lại quay trở lại đứng bên nhà
              Có vẻ như tìm ai trong đêm vắng
              Nhưng mà chàng đã không thể tìm ra.

              Từ cánh đồng thoảng hơi lạnh ban đêm
              Trên cây táo bám đầy sương đặc quánh
              Chàng cần ai – chàng trai ơi thú nhận
              Hãy nói ra – chàng trai với cây đàn.

              Bởi biết đâu người ấy ở rất gần
              Mà biết đâu chàng không chờ người ấy…
              Thì tại sao chàng một mình trong đêm
              Không cho ngủ biết bao nhiêu cô gái?!


              CHẲNG CÓ MÀU NÀO ĐẸP HƠN

              Chẳng có màu nào đẹp hơn
              Khi táo trong vườn nở trắng
              Không có giờ phút nào bằng
              Khi người tôi yêu đi đến.

              Khi tôi nhìn thấy, nghe ra
              Tất cả trong tôi lên tiếng
              Tất cả hồn tôi thiết tha
              Tất cả hồn tôi cháy sáng.

              Nhìn vào mắt nhau ngất ngây
              Bàn tay trong tay đan kết
              Đi đâu, ta không thể biết
              Tựa hồ như những người say.

              Ta đi theo những con đường
              Nơi một màu xanh hoa cỏ
              Nơi từ con tim nức nở
              Thốt ra những lời không quên.

              Còn xung quanh khu vườn trắng
              Tháng Năm rạo rực không yên
              Và trăng trên trời thật sáng
              Dù kim ai có đi tìm.

              Có tiếng đàn ở bên sông
              Khi vang lên, khi im ắng…
              Chẳng có màu nào đẹp hơn
              Khi táo trong vườn nở trắng.
              #22
                cacbac 13.12.2007 18:08:41 (permalink)


                Vyacheslav Ivanovich Ivanov (tiếng Nga: Вячеслав Иванович Иванов, 16 tháng 2 năm 1866 – 16 tháng 7 năm 1949) là nhà viết kịch, nhà thơ Nga, ông cũng là nhà triết học, nhà phê bình, dịch giả.

                Tiểu sử:
                Vyacheslav Ivanov sinh ở Moskva trong gia đình một công chức. Bố mất sớm, mẹ là người từ đầu đã biết rằng con mình sẽ trở thành một nhà thơ. Học xong trường gymnazy, Vyacheslav Ivanov vào học khoa lịch sử - ngôn ngữ Đại học Moskva, hai năm sau sang Đức học Đại học Berlin, tiếp tục học ngôn ngữ, lịch sử và triết học. Thầy giáo lịch sử của ông là Theodor Mommsen (giải Nobel Văn học năm 1902), luận văn tốt nghiệp của ông viết về lịch sử La Mã. Vyacheslav Ivanov đi du lịch nhiều nơi ở châu Âu, châu Phi. Ông sống thường xuyên ở Đức, Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, đi sang Ai Cập, Palestin. Vyacheslav Ivanov say mê triết học và chịu ảnh hưởng của Vladimir Solovyov, Friedrich Nietzsche.

                Năm 1907, vợ đầu của ông mất, năm 1910 ông cưới vợ lần thứ hai – một người bạn, người học trò của ông. Năm 1911 ông in tập thơ Cor ardens gồm những bài thơ viết về người vợ đã mất. Năm 1913 ông tham gia Hội Triết học và Tôn giáo mang tên Vladimir Solovyov, làm quen với nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng thời đó. Những năm 1918 – 1920, ông là một trong những người tổ chức và lãnh đạo ban văn học, sân khấu của Bộ Văn hóa, tham gia giảng dạy ở nhiều trường đại học, tuy vậy ông vẫn nuôi ý đồ ra sống ở nước ngoài. Năm 1921 ông đi về vùng bắc Kapkage, dạy ngôn ngữ cổ điển ở Đại học Baku. Năm 1924, nhờ sự giúp đỡ của Bộ trưởng Lunacharsky, ông được ra nước ngoài công tác nhưng sau đó không quay trở lại Liên Xô. Ông nói với những người thân của mình rằng: “Tôi đến Roma để sống và chết ở đó”. Thời gian ở nước ngoài, ông không tham gia các hoạt động chính trị của các đảng phái lưu vong, chỉ tập trung cho việc sáng tác, dạy học và nghiên cứu khoa học. Ông thường xuyên đăng bài ở các tạp chí tôn giáo của Đức và Pháp. Vyacheslav Ivanov mất ở Roma năm 1949.

                Tác phẩm:
                *«Кормчие звёзды», СПб, 1903;
                *«Прозрачность», М., 1904;
                *«Эрос», СПб, 1907;
                *«Cor ardens», в 2-х тт., М., 1911—1912.
                *«Нежная тайна», СПб, 1912
                *«Младенчество», поэма, Петроград, 1918;
                *«Прометей», трагедия, Петроград, 1919;
                *«Любовь — Мираж», музыкальная трагикомедия, 1923.
                *«Римские сонеты», Рим, 1925;
                *«Достоевский. Трагедия — миф — мистика». Монография (на немецком языке). 1932.
                *«Человек», Рим, 1939;
                *«Свет вечерний», Оксфорд, 1962, опубликован посмертно.
                Phê bình:
                *«По звездам», СПб, 1909
                *«Борозды и межи», М., 1916
                *«Родное и вселенское», М., 1917.
                Tác phẩm dịch:
                *«Алкей и Сафо», М., 1914.

                Các tuyển tập:
                *Собрание сочинений в 6 тт. Т. 1-4, Брюссель, 1971-1987.
                *Стихотворения и поэмы, Л., 1976.
                *Стихотворения. Поэмы. Трагедия. СПб, Академический проект, 1995.


                 
                TÌNH YÊU

                Ta là hai thân cây cháy bằng bão táp
                Là hai ngọn lửa cháy giữa rừng đêm
                Là hai ngôi sao bay trong trời đêm
                Hai mũi tên có chung cùng số kiếp.

                Là hai con ngựa có chung hàm thiếc
                Một bàn tay – đinh thúc ngựa giơ lên
                Là hai con mắt của một ánh nhìn
                Hai cánh bay của một niềm mơ ước.

                Ta là hai chiếc bóng đau thương – một cặp
                Trên phiến đá hoa của một nấm mồ
                Nơi vẻ đẹp cổ xưa giờ yên giấc.

                Hai bờ môi của một điều ẩn ước
                Ta là hai thân của một vị thần
                Hai bàn tay của một cây thập ác.


                HẠNH PHÚC

                Mặt trời tỏa hào quang và nắng ấm
                Con tim hạnh phúc là biết xài hoang
                Người hạnh phúc là người đem ban tặng
                Một cách hào phóng tình cảm của mình
                Có vẻ như với tất cả đính hôn
                Người hạnh phúc tươi tỉnh và sống động.

                Hạnh phúc không phải xảy ra hằng năm
                Mà hạnh phúc kết thúc bằng phút chốc
                Hạnh phúc không đợi và không nắm bắt
                Linh hồn lên hạnh phúc sẽ đăng quang
                Khoác cho hạnh phúc muôn đời lễ phục
                Hạnh phúc – là chiến thắng của tình.

                *************************


                Vladislav Felitsianovich Khodasevich (tiếng Nga: Ходасевич, Владислав Фелицианович, 16 tháng 5 năm 1886 – 14 tháng 7 năm 1939) là nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ Nga.

                Tiểu sử:
                Vladislav Khodasevich sinh ở Moskva trong gia đình một thợ ảnh, có gốc gác quí tộc, từng chụp ảnh Lev Tolstoy. Vladislav Khodasevich học trường gymnazy ở Moskva, sau đó vào học khoa luật, rồi khoa lịch sử và ngôn ngữ Đại học Moskva nhưng không tốt nghiệp. Năm 1907 in tập thơ Молодость, được coi là tập thơ chưa chín, năm 1914 in tập thơ thứ hai Счастливый домик và thường xuyên viết những bài phê bình đăng trên các báo, trở thành một nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp sống được bằng nghề văn. Năm 1917 ông ủng hộ Cách mạng Tháng Hai, khi Cách mạng Tháng Mười thành công ông quay sang cộng tác với những người Bôn-sê-vích. Năm 1922 ông bỏ ra sống ở nước ngoài, đầu tiên sang Đức, năm 1925 sang Paris. Ở Paris, ông làm biên tập của báo Дни và báo Возрождение.

                Năm 1927 in tập thơ Европейская ночь, từ đây trở về sau ông ít làm thơ, chỉ tập trung viết phê bình và truyện chân dung. Ông là tác giả của nhiều bộ sách viết về các nhà thơ, nhà văn đương thời có giá trị nghiên cứu. Trong các bài phê bình cũng như các tiểu thuyết, truyện chân dung ông có một lối suy nghĩ đọc lập, tránh những vấn đề chính trị mà chỉ mô tả chân dung của nhân vật “trong cái mạng chung của yêu và ghét, của cái riêng và của văn học”. Vladislav Khodasevich mất ở Paris năm 1939.

                Tác phẩm:
                *сборник «Молодость», 1908
                *сборник «Счастливый домик», 1914
                *сборник «Из еврейских поэтов» 1918
                *сборник «Путём зерна», 1920
                *сборник «Тяжёлая лира», 1922
                *цикл «Европейская ночь», 1927
                *биография «Державин», 1931
                *сборник статей «О Пушкине», 1937
                *книга воспоминаний «Некрополь», 1939
                Thư mục:
                *Богомолов Н. А. Жизнь и поэзия Вячеслава Ходасевича // В кн. Ходасевич В. Ф. Стихотворения. — Л.: 1989. — С. 5-51.
                *Асеев Н. Н. Владислав Ходасевич — М.: 1972.
                *Малмстад Д. Современные записки — М.: 1967.
                *Из истории русской поэзии начала 20в. — М.: 1976.
                *Строфы века. Антология русской поэзии — Мимск-М.: 1995.
                *Энциклопедия для детей. Русская литература. 20 век. Аванта+ — М.: 1999.
                *Ходасевич В.Стихотворения — М.: 2003

                ***********

                LẠI NỮA

                Tôi lại khóc. Một buổi chiều thu
                Và có thể - nỗi buồn đang gần lắm
                Bàn tay tái nhợt lại đã khoác cho
                Con tim tôi chiếc áo quan màu trắng.

                Thật nặng nề và vô cùng cay đắng
                Giờ gặp lại với những tháng ngày…
                Và tâm hồn trong bóng đêm vô tận
                Đang nhìn ra ngọn lửa đỏ lắt lay.

                Sẽ rất lâu nghe rõ trong màn sương
                Tiếng khóc đau thương, tiếng khóc cuối tận
                Tôi đợi chờ. Tên đao phủ vô hình
                Trong bóng đêm, với tôi, đang đi đến.


                TÔI KHÔNG BIẾT

                Tôi không biết điều gì đau khổ nhất
                Vì tôi chưa biết đau khổ bao giờ.
                Sự đổi mới – trong khổ đau tột bậc
                Và ngôi sao - ẩn giấu sau sương mờ.

                Nếu thường xuyên chỉ những điều dễ chịu
                Và mỗi ngày mang đến những bông hoa
                Thì ta chẳng biết những gì ngang trái
                Ta chẳng biết gì đến những ước mơ.

                Ta không hiểu được niềm vui ước muốn
                Nếu chỉ “vâng”, người khác trả lời ta.
                Tôi không biết được đắng cay khổ tận
                Vì tôi chưa biết đau khổ bao giờ.


                ĐOẠN MỞ ĐẦU
                Gửi Andrei Belyi

                Nỗi đớn đau say nhất – là Vô vọng
                Và câu chuyện nghiêm khắc nhất – là Tình.
                Trong con tim, vì dịu dàng cay đắng
                Mỗi dòng thơ là dòng máu đang tuôn.

                Phận nhà thơ – đóng đinh và đánh đập
                Và kết thúc bằng vương miện mũ gai.
                Ai viết bài thơ về những vòng tay
                Buông tay ra – sẽ trở thành người chết.

                Hãy bình tĩnh! Tất cả rồi kết thúc.
                Đừng đi đâu! Sẽ chẳng có cung tên
                Mà có lẽ, cần né tránh nhẹ nhàng
                Bước chân Số phận vô cùng chắc chắn.

                Trong con tim, vì dịu dàng cay đắng
                Dòng máu tuôn ra bằng rượu màu đen…
                Nỗi đớn đau say nhất – là Vô vọng
                Và câu chuyện nghiêm khắc nhất – là Tình.
                #23
                  cacbac 13.12.2007 18:13:35 (permalink)


                  Semen Isaakovich Kirsanov (tiếng Nga: Семён Исаа́кович Кирса́нов; họ thật là Kortchich – Кортчик, 5 tháng 9 năm 1906 – 10 tháng 12 năm 1972) là nhà thơ Nga Xô Viết.

                  Tiểu sử:
                  Semen Kirsanov sinh ở Odessa trong gia đình một thợ may. Học ở trường gymnazy và từ năm 1920 học ở khoa ngôn ngữ Đại học nhân dân Odessa. Từ năm 1922 bắt đầu in thơ ở tạp chí Юголеф. Năm 1924 làm quen với Vladimir Vladimirovich Mayakovsky và trở thành người của phái Vị lai. Năm 1926 Kirsanov đến Moskva, cùng với Mayakovsky đi đọc thơ ở nhiều thành phố, khát khao tạo nên một hình thức thơ mới. Những năm tiếp đó ông liên tiếp in các trường ca: "Прицел" (1926), "Опыты" (1927), "Моя именинная"(1928)…Cuối thập niên 1930, ông cùng với một số nhà thơ Xô Viết đi Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp. Thời kỳ Thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của một số tờ báo quân đội, có mặt ở nhiều chiến trường khác nhau, viết báo, viết khẩu hiệu, truyền đơn và làm thơ. Năm 1951 ông được tặng giải thưởng Stalin (giải thưởng Nhà nước).

                  Thơ của Semen Kirsanov rất đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung. Ông là một trong những học trò của Vladimir Mayakovsky tạo được cho mình một con đường riêng trong thơ ca nửa cuối thế kỷ XX và có ảnh hưởng đến nhiều nhà nổi tiếng như Bella Akhmadulina, Yevgeny Yevtushenko, Robert Rozhdestvensky, Andrey Voznesensky... Dưới đây là một bài thơ có hình thức rất độc đáo:

                  АД
                  Иду
                  в аду.
                  Дороги -
                  в берлоги,
                  топи, ущелья
                  мзды, отмщенья.
                  Врыты в трясины
                  по шеи в терцинах,
                  губы резинно раздвинув,
                  одни умирают от жажды,
                  кровью опившись однажды.
                  Ужасны порезы, раны, увечья,
                  в трещинах жижица человечья.
                  Кричат, окалечась, увечные тени:
                  уймите, зажмите нам кровотеченье,
                  мы тонем, вопим, в ущельях теснимся,
                  к вам, на земле, мы приходим и снимся.
                  Выше, спирально тела их, стеная, несутся,
                  моля передышки, напрасно, нет, не спасутся.
                  Огненный ветер любовников кружит и вертит,
                  по двое слипшись, тщетно они просят о смерти.
                  За ними! Бросаюсь к их болью пронзенному кругу,
                  надеясь свою среди них дорогую заметить подругу.
                  Мелькнула. Она ли? Одна ли? Ее ли полузакрытые веки?
                  И с кем она, мучась, сплелась и, любя, слепилась навеки?

                  Франческа? Она? Да Римини? Теперь я узнал: обманула!
                  К другому, тоскуя, она поцелуем болящим прильнула.
                  Я вспомнил: он был моим другом, надежным слугою,
                  он шлейф с кружевами, как паж, носил за тобою.
                  Я вижу: мы двое в постели, а тайно он между.
                  Убить? Мы в аду. Оставьте у входа надежду!
                  О, пытки моей беспощадная ежедневность!
                  Слежу, осужденный на вечную ревность.
                  Ревную, лететь обреченный вплотную,
                  вдыхать их духи, внимать поцелую.
                  Безжалостный к грешнику ветер
                  за ними волчком меня вертит
                  и тащит к их темному ложу,
                  и трет меня об их кожу,
                  прикосновенья — ожоги!
                  Нет обратной дороги
                  в кружащемся рое.
                  Ревнуй! Эти двое
                  наказаны тоже.
                  Больно, боже!
                  Мука, мука!
                  Где ход
                  назад?
                  Вот
                  ад.

                  Ngoài sáng tác, Semen Kirsanov còn dịch nhiều thơ của Louis Aragon, Pablo Neruda và nhiều nhà thơ khác ra tiếng Nga. Ông được tặng 2 huân chương Lenin và nhiều huân, huy chương khác của Nhà nước Liên Xô. Ông mất năm 1972 ở Moskva.

                  Tác phẩm:
                  *Прицел, 1926
                  *Опыты, 1927
                  *Моя именинная, 1928
                  *Слово предоставляется Кирсанову, 1930
                  *Товарищ Маркс, 1933
                  *Владимир Ильич Ленин, 1933
                  *Золушка, 1934
                  *Война — чуме!, 1937
                  *Семь дней недели, 1956
                  *Строки стройки, 1930
                  *Перед поэмой, 1931
                  *Ударный квартал, 1931
                  *Стихи в строю, 1932
                  *Дорога по радуге, 1938
                  *Четыре тетради, 1940
                  *Желания, 1935
                  *Мыс желания, 1938
                  *Поэма поэтов, 1939
                  *Новое, 1935
                  *Советская жизнь, 1948
                  *Время — наше! 1950
                  *Товарищи стихи , 1948-1953
                  *Однажды завтра, 1964
                  *Стихи о Латвии, 1948
                  *Месяц отдыха, 1952


                  CÔ GÁI

                  Cô gái đi trên đường. Cô gái khóc
                  Cô gái chùi đôi mắt màu xanh.
                  Tôi hiểu ra – ai người cô để mất.

                  Hỡi những người qua đường! Sao các anh
                  Đi ngang với những đôi mắt ráo hoảnh?
                  Hay là các anh không đánh mất mình?

                  Sao các anh không khóc? Giấu nước mắt
                  Như bạch dương giấu nhựa đắng cay
                  Dưới vỏ cây giữa trời giá rét?…


                  KHÔNG CÒN CÁI CHẾT

                  Không còn cái chết.
                  Không còn cái chết.
                  Không còn.
                  Không còn.
                  Không.

                  Không còn cái chết.
                  Không khí bình minh.
                  Còn bình minh hẹp
                  Sương trên hoa hồng.

                  Còn tia hổ phách
                  Trên vỏ cây thông.
                  Và đá trên cát.
                  Còn sự xuất phát
                  Trong cánh hoa hồng.
                  Không còn cái chết.

                  Không còn cái chết.
                  Trưa sẽ nóng hơn
                  Còn rơm – để ngủ.
                  Mặt trời sẽ có
                  Một nửa con đường.

                  Từ những sợi tơ
                  Múi khăn buộc chặt
                  Kén trắng vỡ ra
                  Cháy lên thỉ xa
                  Không còn cái chết.

                  Không còn cái chết!
                  Cào cào vừa sinh
                  Chỉ năm phút trước –
                  Một kẻ lạ lùng
                  Mũi to và xanh
                  Có ve và có
                  Bài hát của mình
                  Tôi vì thế nên
                  Chết trong năm phút…
                  Không còn cái chết!

                  Không còn cái chết!
                  Không còn!
                  Không!


                  GIẤC NGỦ TRONG MƠ

                  1
                  Tôi kêu suốt đêm.
                  Không ai nghe tiếng
                  Không ai đi đến.
                  Tôi đã không còn.

                  2
                  Tôi đã không còn
                  Không ai nghe tiếng
                  Không ai đi dến.
                  Tôi kêu suốt đêm.

                  3
                  Tôi đã không còn!
                  Tôi kêu suốt đêm.
                  Không ai nghe tiếng
                  Không ai đi đến…


                   
                   
                  BỐN BÀI SONNET

                  1
                  Vườn nơi anh sống – nở hoa bằng em
                  Nhà anh ngủ - bằng em, anh xếp đặt
                  Những vì sao, tỏa sáng – anh bắt buộc
                  Và cho lá cành giọng nói của em.

                  Bước em đi, anh làm thành con sóng
                  Bàn tay em, nắn thành những cánh chim
                  Gương mặt em, anh thả vào trời xanh
                  Và sẽ trở thành ngôi sao số phận.

                  Anh sống ở nơi có em, và em
                  Là ngôi nhà, khu vườn, là biển cả
                  Là con sóng, là chim tự trời xanh.

                  Nơi không có lời, để thốt: “Không có em”
                  Không nghi ngờ, điều này rất có thể
                  Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.

                  2
                  Không thành hiện thực. Vườn thu trơ trụi
                  Với mùa thu có thật ít cái chung
                  Và không khí bằng giọng thu vang lên
                  Và sao trời bằng mùa thu lấp láy.

                  Những chiếc lá, lời thu không xao động
                  Biển không dám làm thành một bước chân
                  Cánh quạ khoang bên ống khói đen hơn
                  Những đám mây đen từ trời lơ lửng.

                  Trời cho anh một mùa thu trống rỗng
                  Ngôi nhà và biển – không phải mùa thu
                  Và ly biệt trở thành mất mát nặng.

                  Thậm chí không còn vết của lời “em”
                  Sự tồn tại của mùa thu sây sát
                  Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.

                  3
                  Lại vang lên. Có thể, không ở đây
                  Mà đâu đó – mùa thu trong giấc mộng
                  Hơi thở và lời trong ngôi nhà này
                  Chìa bàn tay – những cây đề đang lớn.

                  Thu vẫn sống. Người ta đợi ăn trưa
                  Thu vào nhà. Gương mặt rất quen thuộc
                  Tay đặt trên quyển sách Lermontov
                  Và đôi mắt màu xám của ngày xưa.

                  Vẻ lặng yên nhận ra giọng của em
                  Và mọi ngày ngôi nhà sẽ đón em
                  Không nhà – thì rừng, không rừng – đồng nội.

                  Và thường xuyên cùng em bước ra đồng
                  Không anh – thì người ta, không người ta – bạn gái
                  Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.

                  4
                  Chỉ là tưởng tượng. Anh đi tìm trong đó
                  Vứt tất cả - cuộc đời và vinh quang
                  Làm người xa lạ bước giữa trần gian
                  Tìm mỗi ngôi nhà, cánh rừng, đồng cỏ.

                  Anh đi bằng chân đất trên tuyết phủ
                  Không đội mũ dưới nắng cháy mùa hè
                  Dưới tuyết nổi, gió sa, dưới nắng mưa
                  Đợi từ đêm đến sáng bên cửa sổ.

                  Và nếu như có ngôi nhà như thế
                  Dù đến già, tìm được bàn tay anh:
                  “Hãy nhận anh, em yêu, bằng tiếng gõ!..”

                  Dù trả lời: “Trong nhà không có nàng!”
                  Anh vẫn ép bàn tay vào cánh cửa
                  Viết xong bài thơ của ước mơ anh.
                  1938


                  GẶP GỠ

                  Anh đến sớm hơn hai giờ
                  Và đi nhiều hơn hai dặm.
                  Bên cạnh anh những cây thông rất lớn
                  Tuyết phủ đầy dưới những chân to.

                  Em đến muộn hơn hai giờ
                  Tất cả đóng băng. Anh chờ lâu quá
                  Anh sống thêm trên đời hai giờ nữa
                  Những tảng băng dày trên sông Volga.

                  Bắt đầu một thời kỳ đóng băng
                  Không khí cứng. Và ngọn cây màu trắng
                  Trong áo bào trắng, mặt đất đông cứng
                  Sự đợi chờ quả vĩ đại vô cùng!

                  Nhưng em nhận ra ngay, thật khó khăn
                  Bước chân đầu là tháng tư tan tuyết.
                  Hoa lưu ly cứ tràn lên đôi mắt.
                  Những mạch nước nguồn róc rách thì thầm.

                  Và lại nở hoa, và lại màu xanh
                  Trong cuộc đời ấm nồng muôn màu sắc
                  Băng giá có vẻ chưa từng, dù quả thật
                  Anh từng đợi em trong bốn giờ liền.
                  1918
                  #24
                    cacbac 13.12.2007 18:16:53 (permalink)


                    Aleksey Vasilievich Koltsov (tiếng Nga: Алексей Васильевич Кольцов, 15 tháng 10 năm 1808 – 19 tháng 10 năm 1842) là nhà thơ Nga. Người đời gọi Aleksey Koltsov là Robert Burns của Nga vì thơ ông lý tưởng hoá tình yêu thôn dã và đời sống lao động thôn quê.

                    Tiểu sử:
                    Aleksey Koltsov sinh ở Voronezh, là con một nhà buôn gia súc. Từ nhỏ đã giúp bố chăn gia súc ở thảo nguyên và bán ở các chợ làng quê. Biết làm thơ từ năm lên 16 tuổi. Năm 1830 làm quen với nhà văn Stankevich, được ông giới thiệu với các nhà thơ nổi tiếng ở Moskva và Sankt-Peterburg. Trong số này có Vasily Zhukovsky, Pyotr Vyazemsky, Vladimir Odoevsky, Aleksandr Pushkin, và nhà phê bình nổi tiếng Belinsky. Sau này, Belinsky trở thành người bạn, người thầy của Aleksey Koltsov. Belinsky có sự ảnh hưởng quan trọng trong việc hình thành thế giới quan của ông. Năm 1830 bắt đầu in thơ trên báo Văn học, năm 1835 in tập thơ đầu tiên nhờ sự giúp đỡ về tài chính của Stankevich và Belinsky. Đây cũng là tập thơ duy nhất được in ra khi ông còn sống.

                    Công việc buôn bán gia súc làm cho ông đi nhiều vùng quê, thu thập được nhiều bài hát của dân gian. Thơ của ông chủ yếu viết về những người nông dân, về cuộc sống và tình yêu thôn dã. Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc, trở thành những bài hát dân gian. Tuy vậy, bố của ông thường xuyên kiểm soát gắt gao và không ủng hộ nghiệp thơ văn của ông. Kết quả của cuộc sống tù túng và bệnh lao kéo dài, ông mất khi chưa đầy 34 tuổi. Ở Voronezh có tượng đài, có vườn hoa và đường phố mang tên ông.


                    TÔI Ở NHÀ NÀNG

                    Tôi ở nhà nàng, nàng bảo tôi
                    “Em yêu anh, hỡi người yêu dấu!”
                    Nhưng điều bí mật này hãy giấu
                    Với những người bạn gái – nàng khuyên.

                    Tôi ở nhà nàng; dù bạc vàng
                    Nàng đã thề sẽ không đem đổi
                    Niềm say mê bừng như lửa cháy
                    Nàng yêu tôi như một người anh.

                    Tôi ở nhà nàng; từ môi đẹp
                    Tôi uống say hạnh phúc lãng quên
                    Quên mọi điều ở chốn trần gian
                    Bên bộ ngực thanh tân tuyệt đẹp.

                    Tôi ở nhà nàng; đến muôn đời
                    Sống với hồn nàng cả hồn tôi
                    Mặc cho nàng với tôi phụ bạc
                    Nhưng lòng tôi sẽ chẳng đổi thay.
                    1829


                    LY BIỆT

                    Buổi bình minh tuổi trẻ mờ sương
                    Tôi yêu nàng bằng cả tấm lòng
                    Ánh sáng trời đọng trong đôi mắt
                    Ngọn lửa tình trên mặt người thương.

                    Buổi sáng tháng năm trước mặt nàng
                    Cây sồi xanh mướt một màu xanh
                    Thảo nguyên hoa cỏ như nhung gấm
                    Chiều hoàng hôn, đêm có phép tiên.

                    Các người đẹp lắm khi thiếu nàng
                    Cùng tôi chia sẻ nỗi buồn thương
                    Nàng đến, các người như chẳng có
                    Đêm thành ngày, đông giá – mùa xuân.

                    Tôi không quên được lần cuối cùng
                    Nàng bảo tôi: “Giã biệt người thương
                    Trời sai khiến vậy, đành ly biệt
                    Nhưng ngày nào đó, lại đoàn viên…”

                    Bỗng chốc trên mặt, lửa bừng lên
                    Như tuyết trắng trong chặn ngang dòng
                    Trên ngực của tôi nàng gục xuống
                    Và thổn thức như kẻ điên cuồng.

                    “Anh đừng đi vội – nàng kêu lên –
                    Để em khóc cho nỗi buồn thương
                    Cho anh, cho chim ưng sáng chói…”
                    Linh hồn trùm lấy – lời bỗng ngừng…
                    1840


                    HÃY ĐẾN VỚI EM

                    Hãy đến với em, khi gió mát
                    Biếng lười lay khẽ những cánh rừng
                    Thảo nguyên, đồng cỏ - cả thế gian
                    Chiếc áo khoác mơ màng sẽ mặc.

                    Hãy đến với em, khi trăng thanh
                    Lặn bơi trong những đám mây đen
                    Hoặc khi trăng giữa trời quang đãng
                    Chiếu vào mặt nước phẳng như gương.

                    Hãy đến với em, khi mà em
                    Chìm đắm trong suy nghĩ về tình
                    Hãy đến với em, khi người đẹp
                    Nóng lòng, sốt ruột đợi chờ anh.

                    Hãy đến với em, một khi tình
                    Nảy sinh những ý nghĩ hân hoan
                    Hãy đến với em, khi nhiệt huyết
                    Đùa vui, hồi hộp và sôi lên.

                    Hãy đến với em, cùng với anh
                    Cuộc đời sung sướng sẽ nhân lên
                    Em muốn áp vào trong ngực trẻ
                    Cả say mê khao khát của mình.
                    1829


                    TRIOLET

                    Tôi xin em, hãy để tôi yên
                    Tình của tôi với em đã nhạt.
                    Ngọn lửa tình ngày xưa đã tắt
                    Tôi xin em, hãy để tôi yên.

                    Em không biết, tôi xưa vui mừng
                    Nhận ra em – niềm vui đi mất.
                    Tôi xin em, hãy để tôi yên
                    Tình của tôi với em đã nhạt.


                    KHI CÓ CUỘC ĐỜI KHÁC

                    Khi có cuộc đời khác ở chốn kia
                    Giã biệt! Chúc lên đường may mắn!
                    Còn nếu không – xin bạn hãy quay về
                    Về với chúng tôi, nơi này hãy sống!
                    1842




                    Ivan Andreyevich Krylov (tiếng Nga: Ива́н Андре́евич Крыло́в, 13 tháng 2 năm 1769 – 21 tháng 11 năm 1844) là nhà văn, nhà thơ Nga nổi tiếng với những câu chuyện ngụ ngôn.

                    Tiểu sử:
                    Ivan Krylov sinh ở Moskva, là con trai của một sĩ quan phục vụ trong quân đội. Krylov ít học nhưng đọc sách nhiều, được thừa hưởng một thư viện lớn của bố, là một người rất ham mê đọc sách. Lên 10 tuổi mồ côi bố, Krylov được nhà văn Nicolai Lvov đỡ đầu, được sống trong môi trường văn chương từ nhỏ. Năm 1872 cùng với mẹ đi lên Sankt-Peterburg làm lương hưu cho mẹ và xin việc làm. Thời gian này ông bắt đầu viết một vài vở kịch và bắt đầu làm thơ. Năm 1785 viết bi kịch Cleopatra (bản thảo sau này bị thất lạc) được nghệ sĩ nổi tiếng Dmitryevsky khen ngợi và khuyên nên tiếp tục sáng tác. Năm 1786 viết bi kịch Phelomela. Những tác phẩm này không mang lại cho Krylov tiền bạc hay danh tiếng nhưng cho phép ông nhập hội với những văn nghệ sĩ của Sankt-Peterburg. Cuối những năm 1880 ông tập trung vào lĩnh vực báo chí, thành lập tờ tạp chí Почта духов nhưng chỉ sau một thời gian phải đổi tên vì không có nhiều bạn đọc. Năm 1793 đổi tên thành Санкт-Петербургский Меркурий nhưng đến cuối năm này cũng ngừng hoạt động. Thời gian này Krylov đi về các tỉnh, sống với bạn bè rồi lên Moskva tiếp tục sáng tác. Năm 1805 ông in một số truyện ngụ ngôn và một số bản dịch ngụ ngôn của Jean de La Fontaine rồi quay sang viết kịch. Năm 1807 nhiều vở kịch của ông gây được sự thành công không ngờ nhưng chính vào thời điểm như vậy ông lại quay sang viết ngụ ngôn.

                    Ivan Krylov trở thành một tác gia cổ điển khi còn sống. Năm 1835, nhà phê bình Belinsky trong bài Литературные мечтания (Những giấc mơ văn học) nêu tên bốn tác giả cổ điển, đặt Krylov bên cạnh Derzhavin, Pushkin và Griboedov.

                    Ivan Krylov viết hơn 200 truyện ngụ ngôn trong khoảng thời gian từ năm 1809 đến năm 1843. Từng được in ra với số lượng lớn và được bạn đọc chào đón nồng nhiệt. Một số đề tài ngụ ngôn của ông ban đầu mô phỏng theo truyện ngụ ngôn của Aesop và Jean de La Fontaine nhưng về sau là sáng tác của ông. Ngày sinh nhật 50 tuổi của ông từng trở thành một ngày hội của quần chúng. Gần 200 năm nay có biết bao nhiêu thế hệ người Nga lớn lên qua những câu chuyện ngụ ngôn của Ivan Krylov. Ông mất năm 1844 ở Sankt-Peterburg.


                     
                    QUẠ KHOANG VÀ CÁO

                    Muôn đời nay vẫn nhắc đi nhắc lại ở trần gian
                    Rằng ton hót là xấu xa, có hại; nhưng nếu không có ích
                    Và kẻ nịnh thần luôn tìm ra một góc trong tim.
                    __________________

                    Quạ khoang kiếm được một thanh phó mát
                    Liền ì ạch bay lên ngọn cây thông
                    Quạ chuẩn bị bữa ăn sáng cho mình
                    Cặp mỏ quạ giữ gìn thanh phó mát.
                    Nhưng thật không may, một con cáo đi qua
                    Bỗng nhiên, mùi phó mát cáo nghe ra
                    Cáo nhìn thanh phó mát thèm rõ dãi
                    Cáo tinh ranh liền ghé sát gốc cây
                    Vẫy đuôi, nhìn quạ không rời ánh mắt
                    Rồi cất giọng, lời cáo rất ngọt nhạt:
                    “Chao ôi, chị mới đẹp làm sao!
                    Cái cổ đẹp biết bao, và đôi mắt!
                    Chị hãy kể một câu chuyện cổ tích
                    Bộ lông tuyệt đẹp! Cái mũi tuyệt trần!
                    Giọng của chị, tất nhiên, sẽ thiên thần!
                    Chị hát lên nào, chị đừng xấu hổ
                    Chị đẹp vậy hát sẽ hay vô cùng
                    Vì trong loài chim, chị là bà Chúa!”
                    Quạ khoang choáng váng vì những lời khen
                    Qụa vui mừng và quạ dồn hơi thở
                    Để đáp lại những lời khen của cáo
                    Tiếng kêu quạ quạ vừa mới cất lên
                    Phó mát rơi – kẻ tinh ranh dưới đó.


                    THƠ TRÀO PHÚNG

                    Ai vẫn nói rằng phê bình là nhẹ
                    Tôi đọc phê bình “Ruslan và Lútmila”.
                    Dù sức lực của tôi rất mạnh mẽ
                    Nhưng với tôi, trường ca quá nặng nề!
                    #25
                      cacbac 13.12.2007 18:25:52 (permalink)


                      Mikhail Alekseevich Kuzmin (tiếng Nga: Михаил Алексеевич Кузмин, 6 tháng 10 năm 1872 – 1 tháng 3 năm 1936) là nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ Nga thế kỷ bạc.

                      Tiểu sử:
                      Mikhail Kuzmin sinh ở Yaroslav trong một gia đình có gốc gác quí tộc. Lớn lên ở Saratov. Năm 1884 gia đình chuyển về Sankt-Peterburg, Kuzmin vào học trường gymnazy. Năm 1891 học xong gymnazy Kuzmin vào học tại Nhạc viện Sankt-Peterburg. Tốt nghiệp nhạc viện, Kuzmin sáng tác nhạc và biểu diễn đàn piano. Năm 1895, cùng với một người bạn đi du lịch sang Ý, Ai Cập, Hy Lạp. Năm 1901 in tập thơ История рыцаря д’Алессио, được nhà thơ Valery Bryusov mời làm cộng tác với tạp chí Весы và bắt đầu trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Tập thơ Александрийские песни in ở tạp chí Весы của ông làm cho nhà thơ, nhà phê bình M. Voloshin lấy làm ngạc nhiên vì vẻ kết hợp tài ba giữa đời sống của nước Nga đương thời với xã hội Hy Lạp cổ đại. Александрийские песни trở thành một tác phẩm cổ điển trong thế kỷ XX.

                      Năm 1906 ông bắt đầu in một số truyện và kịch, đặc biệt, tác phẩm Крылья của ông viết về tình yêu của những người đồng tính luyến ái gây nên một vụ xì căng đan thực sự. Nhà văn Maxim Gorky gọi Kuzmin là “kẻ trơ trẽn”, còn nữ thi si Zinaida Gippus gọi ông là kẻ “lưu manh”. Những năm Thế chiến I ông đứng về phía cách mạng, tuy vậy, sau Cách mạng Tháng Mười ông viết rất ít và tự coi mình là nhà thơ không hợp thời.

                      Ngoài thơ và văn xuôi, Kuzmin còn để lại nhiều tác phẩm kịch và phê bình. Ông mất ở Leningrad năm 1936. Một số tác phẩm của ông viết ở giai đoạn cuối bị thất lạc.

                      Tác phẩm:
                      *Александрийские песни (1905-1908)
                      *Приключения Эме Лебефа (1907)
                      *Повесть об Елевсиппе, рассказанная им самим (1906)
                      *Из писем девицы Клары Вальмон к Розалии Тютельмайер (1907)
                      *Возвращение Одиссея (1911)
                      *Параболы. Стихотворения. 1921-1922 (1923)
                      *Форель разбивает лед. Стихи 1925-1928 (1929)

                      Về Mikhail Kuzmin:
                      *Михаил Кузмин и русская культура XX века. Тезисы и материалы конференции 15-17 мая 1990 г. Сост. и ред. Г. А. Морева. Л., 1990.
                      *Богомолов Н. А. Михаил Кузмин: Статьи и материалы. М., 1995.
                      *Богомолов Н. А., Малмстад Джон Э. Михаил Кузмин: искусство, жизнь, эпоха. М., 1996.
                      *Malmstad John E., Bogomolov Nikolay. Mikhail Kuzmin. A Life in Art. Cambridge, Massachusetts, London, England: Harvard University Press, 1999.
                      *Панова Л. Г. Русский Египет. Александрийская поэтика Михаила Кузмина. М., 2006 .


                       
                       
                      KHOÁI LẠC TÌNH YÊU CHỈ TRONG PHÚT CHỐC

                      Plaisir d'amour ne dure qu'un moment.
                      Chagrin d'amour dure toute la vie.


                      Khoái lạc tình yêu chỉ trong phút chốc
                      Đau khổ tình yêu theo suốt cuộc đời.
                      Tôi đã từng hạnh phúc với người yêu
                      Từng khát khao uống chén tình mỏi mệt!

                      Và chúng tôi đã từng gom trái ngọt
                      Của một cuộc tình đằm thắm qua mau
                      Dòng thời gian điên cuồng và đói khát
                      Xóa hết rồi dấu vết của tình yêu.

                      Trên đồng cỏ, nơi ngày xưa đùa chơi
                      Những giọt sương làm cho nghiêng hoa cỏ
                      Vương miện tình yêu, than ôi! Gục đổ
                      Người yêu tôi không còn nữa trên đời.

                      Nhưng rất lâu, sau cơn nóng rã rời
                      Trong mê sảng, tôi gọi bằng tên khác
                      Khoái lạc tình yêu chỉ trong phút chốc
                      Đau khổ tình yêu theo suốt cuộc đời.


                      NGƯỜI YÊU PHỤ BẠC

                      Bị người yêu phụ bạc – hạnh phúc ghê!
                      Thấy ánh sáng chói lòa trong quá khứ
                      Mùa đông u ám đến sau mùa hè
                      Nhớ mặt trời, dù đã không còn nữa.

                      Bông hoa khô và những bức thư tình
                      Ánh mắt cười, gặp gỡ đầy hạnh phúc
                      Dù bây giờ trên con đường tối đen
                      Nhưng mùa xuân ta lang thang trên đất.

                      Để hạnh phúc, có một bài học khác
                      Con đường khác – hoang vắng và thênh thang
                      Kẻ bị phụ tình – thật là hạnh phúc!
                      Làm kẻ không yêu – cay đắng vô cùng.


                      TÔI NÓI MÀ KHÔNG YÊU

                      “Anh yêu em”, tôi nói mà không yêu
                      Và bỗng nhiên thần tình yêu bay đến
                      Nắm tay tôi, như một người hướng dẫn
                      Tôi theo thần và đi đến với em.

                      Đôi mắt sáng, không còn vẻ mơ màng
                      Của tình yêu đã quên trong quá khứ
                      Thần bất ngờ dẫn tôi ra đồng cỏ
                      Ánh sang đầy và có những giọt sương.

                      Điều dối gian buổi sáng rất dị thường
                      Tôi nhìn thấy lạ lùng và sáng tỏ
                      Một vẻ rất dịu dàng màu thắm đỏ
                      Ánh hồng lên một hình bóng lung linh.

                      Và tôi nhìn thấy miệng hơi hé mở
                      Tôi nhìn ra đôi má đỏ thẹn thùng
                      Thấy ánh mắt hãy còn rất mơ màng
                      Và chiếc cổ cao nhẹ nhàng xoay trở.

                      Suối rì rầm cùng tôi giấc mơ đẹp
                      Tôi uống luồng sinh khí rất thèm thuồng
                      Và tôi lại yêu trong lần đầu tiên
                      Tôi lại yêu đến muôn đời muôn kiếp.
                       
                      *****************





                      Mikhail Yuryevich Lermontov (tiếng Nga: Михаи́л Ю́рьевич Ле́рмонтов, 15 tháng 10 năm 1814 – 27 tháng 7 năm 1841) – nhà thơ, nhà văn Nga, là nhà thơ lớn của Nga sau Pushkin.

                      Cuộc đời:
                      Mikhail Yuryevich Lermontov sinh ở Moskva trong một gia đình có gốc gác từ Scotland. Mẹ mất sớm nên Lermontov được bà ngoại nuôi dạy. Từ nhỏ đã thông thạo tiếng Pháp, tiếng Đức. Năm 1825 bà ngoại đưa Lermontov đi về vùng Kapkage. Kí ức tuổi thơ trước phong cảnh thiên nhiên của vùng Kapkage in đậm trong nhiều sáng tác của ông. Năm 1827 trở lại Moskva, Lermontov vào học tại học xá Moskva, đến năm 1830 học xá trở thành gymnazy thì nghỉ học, sau đó vào học Đại học Moskva nhưng hai năm sau lại nghỉ học. Theo lời khuyên của một người bạn, Lermontov vào học trường võ bị Peterburg. Sau khi tốt nghiệp đi về vùng Kapkage phục vụ. Thời gian ở Kapkage, trong một vụ xích mích với Martynov, người trước đây từng là bạn học ở trường võ bị, đã quyết định đấu súng và bị giết chết.

                      Thơ ca:
                      Cuộc đời của Lermontov chỉ vỏn vẹn có 27 năm nhưng di sản thơ ca mà ông để lại cho đời vô cùng to lớn. Lermontov giữ một vị trí đặc biệt trong thơ ca Nga. Nhà phê bình Belinsky viết: “Trong thơ của Lermontov là tất cả sức mạnh, là tất cả yếu tố để làm nên cuộc đời và thơ ca: một sức mạnh bền vững của tâm hồn, sự nhún nhường của than vãn, mùi hương của lời cầu nguyện, một sự khích lệ như sóng gió ba đào, một nỗi buồn tĩnh lặng, một nỗi trầm tư dịu dàng, những lời thở than kêu hãnh, những tiếng kêu la tuyệt vọng, vẻ đằm thắm bí huyền của tình cảm, những ước mong táo bạo không thể ngăn kìm, sự trong trắng trinh nguyên, những bệnh tật của xã hội, những bức tranh của thế giới, những lời quở trách của lương tâm, sự hối hận đến mủi lòng, sự thổn thức của đam mê và những giọt nước mắt lặng lẽ rót vào sóng gió của con tim, sự hoan hỉ của tình, lo âu của ngày ly biệt, niềm vui của ngày gặp mặt, sự coi khinh vẻ đơn điệu của đời thường, sự khát khao điên cuồng của vẻ hân hoan, một lòng tin cháy bừng như ngọn lửa và nỗi khổ của sự trống vắng trong tâm hồn, tiếng kêu than xua đi cảm giác về một cuộc đời đang chết lặng, chất độc của phủ nhận, vẻ lạnh lùng của mối nghi ngờ, ác quỉ ngạo mạn và đứa bé ngây thơ, vẻ ngang tàng của kẻ rượu chè và cô gái ngây thơ trong trắng – tất cả, tất cả trong thơ này: và bầu trời, và mặt đất, và thiên đàng, và địa ngục”.
                      Với vẻ phong phú về ý tưởng và mô-típ kể trên, có thể chia sáng tác của Lermontov thành 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất đến năm 1835 và giai đoạn thứ hai là những năm còn lại của cuộc đời thơ ngắn ngủi. Ở giai đoạn đầu Lermontov sáng tác bằng trí tưởng tưởng, bằng cảm nhận về thế giới xung quanh mình: sự đấu tranh không khoan nhượng của hai mặt đối lập giữa trời và đất, qua đó nhìn ra nguyên nhân của bi kịch cuộc đời mình. Giai đoạn thứ hai nhà thơ đã gần hơn với thực tế qua sự với tiếp xúc nhiều với những con người và đời sống xã hội. Như một người theo thuyết nhị nguyên luận, nhà thơ cảm nhận vẻ hai mặt của con người “trong khoảng trung gian kinh hoàng giữa hai cuộc đời”.

                      Thư mục
                      Tiếng Nga:
                      I. Издания
                      *"Герой Нашего Времени", части I-II, изд. И. Глазунова (СПб., 1840);
                      *"Стихотворения М. Лермонтова" (СПб., 1840);
                      *“Сочинения Лермонтова", тома I-II, изд. А. Смирдина (СПб., 1847);
                      *"Сочинения Лермонтова, приведенные в порядок и дополненные С.С. Дудышкиным", тома I-II, изд. А.И. Глазунова (СПб., 1860);
                      *Сочинения Лермонтова", под ред. П.А. Ефремова, изд. "Новое Время" (СПб, 1880).
                      *"Жизнь и творчества Лермонтова", П.А. Висковатова (М., 1889-1891).
                      *"Сочинения М.Ю. Лермонтова", под редакцией и с примечаниями И.М. Болдакова, тома I-V, (М., 1891).
                      *"Полное собрание сочинений Лермонтова", под ред. Арс. И. Введенского, тома I-IV, (СПб., 1903).
                      *"Полное собрание сочинений М.Ю. Лермонтова", под ред. Д.И. Абрамовича, *"Академическая библиотека русских писателей", издание Академии Наук (СПб., 1910-1912).




                      TÔI MỘT MÌNH BƯỚC RA CON ĐƯỜNG NHỎ

                      1
                      Tôi một mình bước ra con đường nhỏ
                      Qua màn sương con đường đá ánh lên
                      Đêm tĩnh lặng. Đồng hoang nghe lời Chúa
                      Và những ngôi sao to nhỏ tự tình.

                      2
                      Giữa bầu trời diệu kỳ và trang trọng
                      Đất ngủ yên trong ánh sáng màu xanh
                      Có điều chi làm cho tôi đau đớn?
                      Có điều chi tôi mong đợi cho mình?

                      3
                      Không còn đợi điều chi từ cuộc sống
                      Tháng ngày qua không một chút tiếc thương
                      Tôi đi tìm tự do và tĩnh lặng
                      Tôi chỉ mong giá được ngủ và quên!

                      4
                      Nhưng không bằng giấc mơ trong mồ lạnh
                      Dù vẫn mong được ngủ vậy muôn đời
                      Để trong ngực mê man nguồn nhựa sống
                      Để lặng yên con sóng giữa lòng tôi.

                      5
                      Để suốt đêm, suốt ngày tôi nghe được
                      Về tình yêu một giọng hát ngọt ngào
                      Để trên đầu tôi muôn đời xanh mướt
                      Cây sồi đen ngả cành xuống lao xao.
                      1841.


                      HÃY Ở LẠI CÙNG ANH

                      Hãy ở lại cùng anh như lần trước
                      Hãy nói với anh, dù chỉ một câu
                      Để hồn anh trong những lời tìm được
                      Điều tâm hồn mong đợi đã từ lâu.

                      Nếu những tia hi vọng còn gìn giữ
                      Trong tim này – chắc chúng sẽ hồi sinh
                      Nếu còn có thể tuôn ra dòng lệ
                      Trong mắt này – chắc chúng sẽ trào lên.

                      Có những lời mà không thanh minh nổi
                      Vì điều này, chúng quyền lực với anh
                      Những lời này làm cho anh sống lại
                      Nhưng không làm cho kẻ khác hồi sinh.

                      Em hãy tin rằng những lời buốt giá
                      Chúng chỉ làm cho vấy bẩn bờ môi
                      Như những cánh hoa của bông hoa nhỏ
                      Chúng giống như nọc rắn độc giết người!


                      NÀNG XINH ĐẸP

                      Nàng xinh đẹp tựa hồ như giấc mộng
                      Của bé con dưới ánh sáng phương Nam
                      Ai cắt nghĩa rằng đẹp nghĩa là nàng
                      Với ngực cao hay thân hình duyên dáng.

                      Hay đôi mắt mở to? – nhưng tôi tin
                      Tất cả đấy không gọi là sắc đẹp
                      Miệng không nói lời làm sao yêu được
                      Chẳng mùi hoa – không ánh lửa mắt nhìn.

                      Nhưng trời ơi, tôi xin được thề nguyền
                      Nàng rất đẹp!.. tôi cháy lên, run rẩy
                      Khi mái tóc xõa trên vầng trán ấy
                      Tơ nhung vàng tôi khẽ chạm tay lên.

                      Và tôi sẵn sàng quì xuống chân nàng
                      Trao thiên đàng, cuộc đời, trao hết tất
                      Chỉ để được nhận về tôi ánh mắt
                      Là tất cả niềm khoái lạc hân hoan!


                      EM CỨ GỌI GIẤC MƠ LÀ HY VỌNG

                      Em cứ gọi giấc mơ là hy vọng
                      Điều dối gian là chân lý cho rồi
                      Em chớ tin lời cam đoan, ca tụng
                      Nhưng hãy tin, hãy tin ở tình tôi.

                      Tình như thế không tin làm sao nổi
                      ánh mắt tôi không giấu một điều gì
                      Giấc mơ tôi với em thành giả dối
                      Em xứng thiên thần với điều ấy quá đi.
                      1831.


                      TẠI VÌ SAO

                      Tôi buồn, bởi vì yêu em đó
                      Và biết rằng tiếng xấu chẳng hề thương
                      Tuổi trẻ của em dậy sức thanh xuân.
                      Mỗi giây ngọt ngào, mỗi ngày sáng tỏ
                      Em phải trả bằng nước mắt, nỗi buồn.
                      Tôi buồn… bởi vì em vui vẻ.


                      GỬI BẠN V.SH(1)

                      Chia tay nhau “ta hẹn đến ngày vui!”
                      Bạn xiết tay tôi, nói lời khi giã biệt
                      Rồi rất lâu tôi đợi những ngày này
                      Nhưng chờ đợi của tôi thành vô ích.

                      Bạn thân yêu! Những ngày vui chẳng thấy
                      Trong tương lai hạnh phúc chẳng có gì
                      Tôi vẫn nhớ những ngày vui vẻ ấy
                      Nhưng cái nhớ về là cái đã mất đi.

                      Cả quá khứ với ta thành vô nghĩa
                      Như ngọn hải đăng chỉ sáng trong đêm
                      Khi trên biển phong ba và bão tố
                      Bờ thuỷ chung – hướng vẫy gọi ngọn đèn.

                      Khi trên thuyền chỉ một người cô quạnh
                      Lái con thuyền đi cảm thấy dập dờn
                      Và nhìn thấy – bến bờ không xa lắm
                      Nhưng dù sao cái chết vẫn gần hơn.

                      Không! Bị quyến rũ bằng ước mơ vô ích
                      Con tim đau nhận ra sự anh minh
                      Khi khó nhọc hạ mình giấc mơ đẹp
                      Thì con tim chợt tỉnh giấc mơ tiên.
                      1831.
                      ____________
                      (1)Vladimir Alexandrovich Sheshin – bạn, bạn học của Lermontov, người quen của A. Puskin, người bà con của D. Davydov và A. Fet, đều là những nhà thơ lớn.


                      CÁNH BUỒM

                      Một cánh buồm cô đơn đang dần trắng
                      Trong màn sương của nước biển ngời xanh
                      Buồm đi tìm chi ở nơi xa vắng?
                      Và tại vì sao từ giã quê mình?…

                      Những ngọn sóng chơi đùa – cơn gió thét
                      Và cột buồm đang cót két, uốn cong…
                      Than ôi – buồm chẳng đi tìm hạnh phúc
                      Và cũng không chạy trốn nỗi vui mừng!

                      Phía dưới buồm, nước màu xanh sáng tỏ
                      Phía trên buồm ánh nắng có màu vàng…
                      Còn buồm nổi loạn, cầu xin bão tố
                      Tựa hồ trong bão tố có bình yên!


                      DEMON
                      (Trích I-15)

                      Rơi trên gia đình yên ấm lão Gudan
                      Sự trừng phạt của trời như tiếng sét
                      Tamara ngã xuống trên giường mình
                      Nức nở khóc – nàng Tamara tội nghiệp.

                      Dòng nước mắt tuôn theo dòng nước mắt
                      Ngực phập phồng, nàng khó thở lắm thay
                      Một giọng nói diệu huyền, nghe đâu đây:
                      “Chớ khóc, con! Khóc làm chi vô ích!

                      Nước mắt con trên xác không biết nói
                      Thành giọt sương sống động chẳng rơi lên
                      Chỉ làm cho mờ mịt ánh mắt nhìn
                      Và đôi má nữ trinh đem đốt cháy.

                      Người đã xa, không hề hay biết vậy
                      Không hiểu ra đau đớn của con đâu
                      ánh sáng trời, giờ âu yếm biết bao
                      Nhìn đôi mắt của người không xác ấy…

                      Người đã nghe những khúc hát thiên đàng
                      Rằng giấc mơ nhỏ nhen nơi trần thế
                      Và thổn thức, và nước mắt thiếu nữ
                      Chỉ dành cho khách ở phía trời chăng?

                      Không số phận của người thịt mắt trần
                      Hãy tin ta, thiên thần trên mặt đất
                      Không đáng giá, dù chỉ là khoảnh khắc
                      Với nỗi buồn, nỗi đau đớn của con!

                      Con hãy nhìn lên, vào giữa không trung
                      Không phương hướng và mục đích không có
                      Đang bơi rất nhẹ nhàng ở trong sương
                      Dàn đồng ca của những vì tinh tú.

                      Giữa những cánh đồng rộng lớn mênh mông
                      Giữa trời xanh chúng đi không dấu vết
                      Những đám mây không thể nào bắt được
                      Như những bông chúng quây lại thành đàn.

                      Giờ gặp gỡ, phút chia ly
                      Chúng chẳng cần mừng vui hay buồn giận
                      Vào tương lai không mong ước điều gì
                      Và quá khứ chẳng cần chi thương cảm.

                      Trong cái ngày mà con bất hạnh
                      Thì những vì sao con hãy nhớ về
                      Với trần gian như những đám mây kia
                      Không số phận và hững hờ như chúng”.

                      …………………………………..
                      …………………………………..
                      #26
                        cacbac 13.12.2007 18:29:21 (permalink)

                         
                         
                        Mirra Aleksandrovna Lokhvitskaya (tiếng Nga: Мирра Александровна Лохвицкая, 1869 – 1905) là nữ nhà thơ Nga, thường được gọi là Sappho của Nga.

                        Tiểu sử:
                        Mirra Lokhvitskaya là con gái của một nhà bác học và là một luật sư nổi tiếng, chị gái của nữ nhà thơ Teffi. Tốt nghiệp Đại học Aleksandr Moskva. Làm thơ từ những ngày còn là sinh viên. Từ năm 1889 bắt đầu in thơ ở các tạp chí Севере; Художнике; Сев. Вестн; Неделе; Ниве… Năm 1896 in tập thơ đầu tiên, năm 1898 in tập thứ 2, năm 1900: tập thứ 3, năm 1903: tập thứ 4, năm 1905: tập thứ 5.

                        Năm 1897 được tặng Giải thưởng Pushkin cho tập thứ 1. Năm 1905, tập thứ 5 được tặng giải thưởng của Viện hàn lâm. Nhà thơ Konstantin Balmont gọi Mirra Lokhvitskaya là Sappho của Nga và tên gọi này trở thành phổ biến vì thơ của bà chỉ viết về tình yêu dưới mọi biểu hiện của nó. Về tài thơ, Mirra Lokhvitskaya là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất của Nga. Thơ của bà được yêu thích cả đương thời cũng như hiện tại.




                        EM MUỐN LÀM NGƯỜI YÊU DẤU CỦA ANH

                        Em muốn làm người yêu dấu của anh
                        Nhưng không phải chỉ vì giấc mơ đẹp
                        Mà để cho đến muôn đời gắn kết
                        Số phận và tên hai đứa chúng mình.

                        Thế giới này làm mê hoặc con người
                        Cuộc đời này buồn đau và tăm tối
                        Người thương ơi giá mà anh hiểu nổi
                        Rằng trong đời em chỉ một mình thôi.

                        Đâu đúng, sai – em không biết được rằng
                        Em như kẻ giữa rừng sâu lạc lối
                        Rằng đời em nếu như anh xô đẩy
                        Thì giữa lòng tiếng vọng sẽ hồi âm.

                        Mặc cho bao người sẽ vứt hoa lên
                        Và cản trở, mặc trần gian cát bụi
                        Nhưng không phải anh, tất nhiên, không phải
                        Hỡi ông hoàng của trái tim em.

                        Đến muôn đời em mãi mãi của anh
                        Sẽ ngoan hiền và dịu dàng, đằm thắm
                        Không nước mắt và không điều trách mắng
                        Em muốn làm người yêu dấu của anh.
                        1904




                        KHÚC HÁT TÌNH YÊU

                        Em muốn, giá mà đem mơ ước của anh
                        Những ước mong kín thầm, hay giấc mộng
                        Sẽ biến chúng thành những bông hoa sống động
                        Nhưng… có lẽ là quá chói chang những bông hồng!

                        Em muốn, giá mà em có cây đàn
                        Đặt vào ngực cho tình cảm trẻ trung muôn thuở
                        Như những bài ca, sẽ vang lên trong đó
                        Nhưng… có lẽ là dây đứt hết vì tim!

                        Em muốn, giá mà trong giấc ngủ thật nhanh
                        Nhận biết ra sự ngọt ngào, đê mê khoái lạc
                        Nhưng… có lẽ là em chết mất
                        Khi đợi chờ sự thức dậy của anh!
                        1889


                        ÁNH MẮT CỦA ANH

                        Ánh mắt của anh vừa nóng bỏng lại dịu êm
                        Làm cho em hồi hộp
                        Bằng sức mạnh kinh hoàng thức dậy trong lồng ngực
                        Một tình yêu đã ngủ quên!

                        Gặp ánh mắt nhìn em muốn ngã vào lòng anh
                        Nhưng say mê em kìm nén
                        Anh có biết rằng em ngọt ngào và em đau đớn
                        Bởi vì em yêu anh!

                        Em nhắm mắt lại, che mắt hai lần
                        Cùng bờ mi của anh dày rậm
                        Anh không hiểu được sau cái vẻ ngoài lạnh cóng
                        Không nghĩ suy, không tình cảm của em!
                        1890


                        KHÚC BI CA

                        Em muốn được chết trong mùa xuân
                        Với sự trở về của tháng Năm vui vẻ
                        Khi mà trước mặt em cả thế gian
                        Hồi sinh lại, trong mùi hương dịu nhẹ.

                        Tất cả những gì trong cuộc sống từng yêu
                        Với nụ cười em ngắm nhìn khi đó
                        Với cái chết em mang niềm ân huệ
                        Gọi cái chết là tuyệt đẹp, đáng yêu.
                        5-3-1893

                        [IMG][/IMG]


                        GIÁ MÀ HẠNH PHÚC CỦA EM

                        Giá mà hạnh phúc của em là chim đại bàng
                        Rất kiêu hãnh bay giữa trời xanh thắm
                        Thì em sẽ giương cung tên, dịu dàng em bắn
                        Dù sống hay chết rồi nhưng nó của riêng em!

                        Giá mà hạnh phúc của em là bông hoa diệu huyền
                        Bông hoa nở trên đỉnh cao vách đá
                        Thì em sẽ hái hoa, không sợ gì hết cả
                        Bằng hơi thở của mình em hít cánh hoa tiên!

                        Giá mà hạnh phúc của em là chiếc nhẫn vàng
                        Giấu ở dưới đáy sông, chìm dưới cát
                        Thì em sẽ hoá thành tiên cá đi tìm bằng được
                        Và nhẫn vàng sẽ lấp lánh giữa tay em!

                        Giá mà hạnh phúc của em nằm trong trái tim anh
                        Thì ngày cũng như đêm em đốt hạnh phúc bằng ngọn lửa
                        Để cho không phân chia, em trao anh muôn thuở
                        Để hạnh phúc sẽ bồi hồi xao xuyến chỉ tình em!
                        1-1891


                        CÓ ĐIỀU GÌ BUỒN BUỒN

                        Có điều gì buồn buồn trong ánh bình minh
                        Và trong tiếng cười từ xa xôi chìm xuống
                        Và có nỗi buồn đau trong mùa hè oi nóng
                        Trong trang phục uy nghiêm của đất quê mình.

                        Và có tiếng hoạ mi đâu đó rì rầm
                        Như tiếng tơ đồng khóc than, nức nở
                        Có điều gì buồn buồn trong niềm vui gặp gỡ
                        Trong giấc mơ tuyệt vời của gian dối mùa xuân.
                        1896-1898



                         
                         
                        ĐÔI MÔI ANH NHƯ HAI CÁNH LỰU XANH

                        Đôi môi anh như hai cánh lựu xanh
                        Nhưng vị ngọt ong đi tìm không có
                        Em từng khát khao uống say một thuở
                        Hương mật ong, vị say đắm của tình.

                        Bờ mi anh như đôi cánh của đêm
                        Nhưng không ngủ dù thâu đêm suốt sáng
                        Trong mắt này em đã từng nhìn ngắm
                        Trong mắt này có hình bóng của em.

                        Tâm hồn anh như huyền bí Đông phương
                        Cổ tích, diệu kì nhưng không dối trá
                        Bởi anh là của em, của em tất cả
                        Đến một ngày còn sống sẽ còn thương.
                        1899


                        CÂU CHUYỆN VÔ TÌNH

                        Câu chuyện vô tình, hững hờ, trống rỗng
                        Một nỗi buồn u ám ngự trong tim
                        Nhưng mênh mông sâu thẳm ánh mắt nhìn
                        Dù không nói mà nói nhiều lắm lắm…

                        Lời đổi trao chỉ tầm phào, hờ hững
                        Cái bắt tay không xiết chặt, nhẹ nhàng
                        Nhưng đầu óc nổi loạn vẫn sẵn sàng
                        Và lồng ngực đợi chờ ôm, xúc động.

                        Không phải tình yêu, không phải sự mê say
                        Và lúc này cũng không cần quên lãng
                        Hãy nắm bắt khi khoảnh khắc chợt đến
                        Và trở thành thần trong một phút giây.

                        Không phải tình yêu, không phải sự mê say
                        Và lúc này cũng không cần quên lãng
                        Hãy nắm bắt khi khoảnh khắc chợt đến
                        Và trở thành thần trong một phút giây.
                        1-7-1894


                        HÃY BIẾT NẾM MÙI ĐAU KHỔ

                        Khi thiên hạ gọi ta là người mẹ, người phụ nữ
                        Thì ta hãy bớt đi một khoảnh khắc trong hạnh phúc của mình
                        Hãy lặng im và thản nhiên gìn giữ
                        Hãy biết cách lặng im!

                        Và nếu như niềm vui là những ngày rất ngắn
                        Và thần tượng sẽ xét đoán ta trong một sớm một chiều
                        Thì trong nhục nhã ê chề, khổ đau buồn chán
                        Hãy biết học cách yêu!

                        Và nếu trên người ta có dấu son chọn lựa
                        Nhưng cái ách nô lệ cho ta trời đã đặt lên
                        Thì hãy vác cây thập ác của mình với vẻ thần tiên
                        Hãy biết nếm mùi đau khổ!

                        #27
                          cacbac 13.12.2007 18:36:00 (permalink)


                          Osip Emilyevich Mandelstam (tiếng Nga: О́сип Эми́льевич Мандельшта́м, 15 tháng 1 năm 1891 – 27 tháng 12 năm 1938) – nhà thơ, nhà văn Nga, một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của trường phái thơ Asmeist (Đỉnh cao), Nga.

                          Tiểu sử:
                          Osip Mandelstam sinh ở Warsaw, Ba Lan trong một gia đình người Do Thái. Bố là một thương gia nên tuổi nhỏ Mandelstam được sống đầy đủ. Năm 1897 cả gia đình chuyển về Sankt-Peterburg. Từ năm 1900 đến năm 1907 học ở trường trung học Tenishesky, một trong những trường học có xu hướng tiến bộ thời bấy giờ. Từ nhỏ đã tỏ ra ấn tượng với vẻ kiến trúc hài hòa của Peterburg qua cuộc sống của cộng đồng Do Thái. Năm 1908 – 1910 học ở Đại học Sorbonne và Đại học Heidelberg. Năm 1911 vào học Đại học S. Peterburg và tốt nghiệp năm 1917. Năm 1923, sau khi tiếp xúc với nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, Osif Mandelstam đã nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc thấm đượm chất văn hóa – không phải thứ văn hóa châu Âu, có lẽ đấy là nền văn hóa của tương lai”.

                          Mandelstam bắt đầu sự nghiệp thơ ca như một nhà thơ của phái hình tượng, chịu ảnh hưởng của Sologub và Tyutchev. Cuối năm 1912 tham gia phái Asmeist, kết bạn với Anna Akhmatova, Nicolai Gumilyov, xuất bản tập thơ đầu Камень (Đá, ba ấn bản: 1913, 1916, 1922). Thời kỳ Thế chiến I và Cách mạng tháng Mười (1916 – 1920) Mandelstam hoàn thành tập thơ thứ hai Tristia, xuất bản năm 1922, năm 1923 in lại dưới tên “Quyển sách thứ hai” đề tặng Nazezhda Khazina, vợ của nhà thơ. Những năm 1925 – 1930 Mandelstam chỉ viết văn, năm 1930 bắt đầu quay lại với thơ.
                          Tháng 11 năm 1933 ông viết bài thơ Мы живем, под собою не чуя страны... chỉ trích Stalin nên bị bắt vào trại cải tạo ở Voronezh. Tháng 5 năm 1937 được ra trại Voronezh. Năm sau lại bị bắt đi cải tạo ở vùng Viễn đông. Mandelstam mất ngày 27 tháng 12 năm 1938 trong trại cải tạo ở Vladivostok.

                          Tác phẩm:
                          *Камень (Đá, 1913, 1916, 1922), thơ
                          *Tristia, 1922, thơ
                          *Шум времени (Tiếng ồn của thời gian, 1923), văn xuôi
                          *Египетская марка (Con tem Ai Cập, 1927), văn xuôi
                          *Стихотворения (Thơ, 1928), thơ
                          *Слово и культура (Lời nói và văn hóa, 1922), tiểu luận
                          *О природе слова (Về bản chất của lời nói, 1922), tiểu luận
                          *Четвертая проза (Văn xuôi thứ bốn, 1930), văn xuôi
                          *Воронежские тетради (Những ghi chép ở Voronezh, 1935–1937), văn xuôi
                          *О поэзии (Về thơ ca, 1928), văn xuôi
                          *Разговор о Данте (Trò chuyện về Dante, 1933), văn xuôi
                          *Стихи о неизвестном солдате (Thơ về người lính vô danh, 1937), thơ
                          *Собрание сочинений: в 4 тт (Tuyển tập tác phẩm, 4 tập), tuyển tập




                          GỬI CASSANDRA(1)

                          Anh không đi tìm những khoảnh khắc đầy hoa
                          Bờ môi em, Cassandra, hay ánh mắt
                          Nhưng những đêm không ngủ trong tháng chạp
                          Kỷ niệm xưa vẫn hành hạ hai ta.

                          Năm 1917, trong tháng chạp
                          Ta đã để mất tất cả, trong tình
                          Một người bị ý chí nhân dân cướp bóc
                          Còn người kia tự cướp bóc chính mình…

                          Rồi thủ đô sẽ có một khi nào
                          Trên bờ sông Nê-va, trong ngày lễ
                          Trong tiếng ồn đêm hội rất kinh sợ
                          Ai giật chiếc khăn tuyệt đẹp trên đầu.

                          Nhưng nếu như cuộc đời – cần mê sảng
                          Và một rừng thông – những ngôi nhà cao –
                          Anh đã yêu em, vụng về chiến thắng
                          Và một mùa đông dịch hạch năm nào.

                          Trên quảng trường với những xe bọc thép
                          Anh nhìn ra người ấy – một con người
                          Dọa bệnh than như chó sói dọa người
                          Hô: bình đẳng, tự do và luật pháp.

                          Còn em, Cassandra đớn đau, lặng lẽ
                          Anh đã không còn có thể nữa đâu em
                          Mặt trời Aleksandr(2) đã từng cháy lên
                          Một trăm năm trước soi cho tất cả?
                          __________
                          (1)Đây là bài thơ viết về Anna Akhmatova. Cassandra – theo thần thoại Hy Lạp là con gái của vua Priam.
                          (2)Aleksandr I (1777-1825) – Hoàng đế Nga từ năm 1801.



                          HÌNH BÓNG EM LUNG LINH VÀ KHỔ ẢI

                          Hình bóng em lung linh và khổ ải
                          Anh không thể nào cảm nhận được trong sương
                          “Lạy Chúa tôi!” – anh nhầm lẫn kêu lên
                          Nhưng tự mình không nghĩ rằng nói vậy.

                          Tên thánh thần như một con chim lớn
                          Đã bay ra từ lồng ngực của anh
                          ở phía trước sẽ dày đặc màn sương
                          Còn phía sau còn chiếc lồng trống rỗng.



                          LADY GODIVA(1)

                          Tôi với vẻ dại dột, ngây thơ thuở gắn mình vào thế giới hoàng gia, quí tộc
                          Sợ những món hải vị sơn bào và chỉ dám liếc mắt nhìn ngó đội vệ binh
                          Và tôi cũng không có trách nhiệm với họ dù chỉ một chút hồn mình
                          Bởi thế tôi không tự hành hạ mình vì dáng hình kẻ khác.

                          Với vẻ quan trọng ngô nghê tôi chau mày trong chiếc mũ như mũ nhà thờ
                          Tôi không đứng một mình dưới cột đá hành lang của nhà băng Ai-cập
                          Và trên sông Nê-va màu vàng chanh, sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp
                          Cô gái Digan trước mặt tôi đã không còn nhảy múa nữa bao giờ.

                          Cảm nhận thấy những trận tử hình, từ tiếng thét gào của thời loạn lạc
                          Tôi chạy về phía biển Đen, để tìm đến những nàng tiên
                          Và thế rồi vì những người đẹp thuở ấy, những cô gái châu Âu dịu dàng
                          Tôi đã chịu đựng biết bao nhiêu là ngượng ngùng cùng đớn đau khó nhọc.

                          Không hiểu tại vì sao đến tận bây giờ thành phố này vẫn còn thỏa mãn
                          Với những ý nghĩ và tình cảm của tôi theo lề lối cổ xưa?
                          Thành phố vì những cơn nóng lạnh trở nên càn rỡ hơn hết bao giờ
                          Với vẻ tự ái đáng rủa nguyền, với vẻ trẻ trung và trống rỗng.

                          Có phải tại vì tôi đã từng ngắm nhìn trong bức tranh từ thời tôi còn nhỏ
                          Quí bà Godiva buông tuồng ngồi trên lưng ngựa màu hung
                          Và tôi thầm vụng, lén lút tự nhắc nhở trong lòng:
                          “Lady Godiva, vĩnh biệt! Tôi không còn nhớ Lady Godiva nữa…”
                          __________
                          (1)Lady Godiva (980-1067) – nữ bá tước, vợ của ngài bá tước Leofric III. Theo truyền thuyết của Anh, Godiva là một phụ nữ tuyệt đẹp đã yêu cầu chồng giảm thuế nặng cho dân chúng Coventry. Leofric hứa sẽ giảm thuế cho dân nếu vợ ông khỏa thân cưỡi ngựa dạo quanh thành phố Coventry. Leofric tin chắc rằng Godiva không bao giờ chịu làm như vậy. Không ngờ Godiva đồng ý, mặc dù có một chút khôn vặt – nàng đề nghị dân chúng vào một ngày hẹn trước đóng hết cửa và không nhìn ra đường phố. Và thế là Godiva đi hết một vòng quanh thành phố Coventry. Ngài bá tước vô cùng kinh ngạc trước tinh thần dám xả thân của phụ nữ nên giữ lời hứa của mình, đã giảm thuế cho dân chúng. Cũng theo truyền thuyết thì trong ngày hôm đó chỉ có duy nhất một chàng Tom tò mò (Peeping Tom) đã lén lút ngó nhìn qua cửa sổ và chính ngay trong khoảnh khắc nhìn thấy đã bị mù cả hai mắt.


                          CŨNG NHƯ BAO NGƯỜI KHÁC

                          Cũng như bao người khác
                          Anh muốn phụng thờ em
                          Những bờ môi khô khan
                          Vì ghen làm phép thuật.
                          Lời nói không xua được
                          Cơn khát của bờ môi
                          Thiếu em anh lại rồi
                          Khí hoang vu rậm rạp.

                          Không còn ghen chi hết
                          Nhưng anh muốn có em
                          Anh mang anh, tự mình
                          Như dâng cho đao phủ.
                          Không gọi tên em nữa
                          Không niềm vui không tình.
                          Thay dòng máu của anh
                          Bằng dửng dưng hoang dã.

                          Một phút giây thêm nữa
                          Và anh nói với em:
                          Chẳng vui mà đau khổ
                          Hình như tội lỗi đã
                          Đưa anh đến với em
                          Và châm chích cuống cuồng
                          Bờ môi màu thắm đỏ…

                          Quay về mau em nhé
                          Anh sợ chẳng có em
                          Anh không hề mạnh mẽ
                          Khi chưa cảm thấy em
                          Những gì anh muốn có
                          Anh nhìn thấy rõ ràng.
                          Không ghen gì em nữa
                          Nhưng anh gọi tên em.


                          DỊU DÀNG HƠN DỊU DÀNG

                          Dịu dàng hơn dịu dàng
                          Là gương mặt của em
                          Trắng hơn cả màu trắng
                          Là cánh tay của em
                          Cách cả cõi trần gian
                          Em bây giờ xa lắm
                          Và tất cả của em
                          Là điều không thể tránh.

                          Vì điều không thể tránh
                          Là nỗi buồn của em
                          Và những ngón tay êm
                          Cũng không hề nguội lạnh
                          Và tiếng động êm đềm
                          Từ những lời của em
                          Cũng không hề buồn nản
                          Và một cõi xa xăm
                          Của đôi mắt ngời sáng.




                          Ta sống đây...

                          Ta sống đây mà không cảm thấy đất nước mình
                          Lời của ta sau mười bước chân không nghe rõ
                          Còn ở nơi bắt đi người đang trò chuyện dở
                          Nơi ấy người ta nhớ kẻ miền rừng ở điện Kremlin.
                          Những ngón tay thô, béo múp như những con trùn
                          Còn lời, giống như những quả cân, chính xác
                          Như những con gián cười hàng ria vểnh ngược
                          Và tỏa ánh hào quang ống bốt dưới bàn chân.

                          Còn xung quanh ông ta là một lũ lưu manh
                          Ông ta chơi những đầy tớ nửa người nửa ngợm.
                          Ai người huýt gió, ai kêu meo meo, ai than vãn
                          Chỉ ông ấy giọng đều đều chỉ xuống chỉ lên
                          Như rèn móng ngựa, ông chiếu chỉ bằng sắc lệnh
                          Ai vào mắt, vào trán, ai vào lông mày, vào bẹn
                          Ai không phải tử hình – quả là sướng như tiên
                          Và bộ ngực rộng của người đàn ông Ô-xê-tin.
                          #28
                            cacbac 13.12.2007 18:41:47 (permalink)


                            Samuil Yakovlevich Marshak (tiếng Nga: Самуил Яковлевич Маршак, 3 tháng 11 năm 1887 – 4 tháng 6 năm 1964) là nhà văn, nhà thơ, dịch giả nổi tiếng của Nga.

                            Tiểu sử:
                            Samuil Marshak sinh ở Voronezh trong một gia đình người Do Thái. Samuil Marshak yêu thơ cổ điển và biết làm thơ từ bé. Năm 1902 cùng gia đình chuyển về Sankt-Peterburg, được làm quen với nhà phê bình nổi tiếng Vladimir Stasov, rồi qua Stasov làm quen với Maxim Gorky. Từ năm 1904 đến năm 1906 Samuil Marshak sống ở Yalta, Crimea cùng gia đình Maxim Gorky. Năm 1907 trở về Sankt-Peterburg, Samuil Marshak tham gia tạp chí Satirikon. Năm 1912 được sang Anh học triết học ở Đại học London, thời gian nghỉ hè ông thường đi bộ khắp nơi, được nghe những bài hát dân gian, bắt đầu dịch các bài ballad dân gian và chính ông là người đã làm cho những bài ballad dân gian này nổi tiếng bằng tiếng Nga. Năm 1914 về nước, ông bắt đầu in các bản dịch thơ William Blake, Robert Burn và các bài ballad Scotland ở các tạp chí Северные записки, Русская мысль… Năm 1917 ông tổ chức “Phố trẻ thơ” – một tổ hợp bao gồm trường học, thư viện, cửa hàng và nhà hát dành cho thiếu nhi ở Ekaterinodar (nay là Krasnodar). Thời kỳ này ông viết nhiều vở kịch cho nhà hát và thơ cho thiếu nhi. Năm 1922 trở về Sankt-Peterburg tổ chức trường học cho thiếu nhi trước tuổi đến trường. Các tác phẩm viết cho thiếu nhi của ông luôn dành được sự ưu ái của bạn đọc nhỏ tuổi, nhiều bài thơ, truyện thiếu nhi của ông trở thành những tác phẩm cố điển. Maxim Gorky gọi Samuil Marshak là “ông tổ của văn học thiếu nhi Nga”.

                            Thời kỳ Thế chiến II ông viết thơ trào phúng, những năm 1960 viết tự truyện. Với cuộc đời sáng tác trong gần 50 năm, ông để lại một di sản văn học đồ sộ gồm thơ, truyện, kịch, tự truyện. Ngoài ra, Samuil Marshak là dịch giả nổi tiếng với những bản dịch tác phẩm của William Shakespeare, Robert Burn, William Blake, Rudyard Kipling… ra tiếng Nga. Ông còn dịch cả thơ của chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông. Sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Samuil Marshak bốn lần được tặng Giải thưởng Stalin (1942, 1946, 1949, 1951), hai huân chương Lenin và nhiều huân, huy chương các loại. Ông mất ngày 4 tháng 6 năm 1954 ở Moskva.

                            Tác phẩm:
                            *Собрание сочинений, т. 1-8, М., 1968-72.


                            LỜI “ANH YÊU EM”

                            Trọng lượng thừa sẽ cản trở con thuyền
                            Những lời thừa có hại cho nhân vật
                            Lời “anh yêu em” sẽ vang lên chân thật
                            Và mạnh mẽ hơn “anh rất yêu em”.


                            GÁNH TÌNH NẶNG

                            Gánh tình nặng, dù hai người vẫn nặng
                            Thế mà tình ta anh gánh chỉ một thôi.
                            Phần cả hai đứa anh giữ gìn cẩn thận
                            Nhưng để làm gì? Cho ai? – không nói ra lời.



                            Trên quá khứ, như trên từng dãy núi

                            Trên quá khứ, như trên từng dãy núi
                            Nghệ thuật của anh theo đó lên cao
                            Còn nếu thiếu những dãy lịch sử bạc đầu
                            Thì nghệ thuật của anh chỉ là tổ mối.


                            Có không ít cuốn sách tôi đã in

                            Có không ít cuốn sách tôi đã in
                            Nhưng chúng như những con chim bay mất
                            Và tôi chỉ là tác giả một trang
                            Trang chưa ký tên, là trang sau chót.


                            Hãy để cho dòng đầu là bầu trời

                            Hãy để cho dòng đầu là bầu trời
                            Dòng thứ hai – những đám mây đầy nước
                            Qua dòng thứ ba là mưa đang rơi
                            Và bàn tay đứa bé bắt giọt nước.


                            Những giờ

                            Những giờ trôi, không nghe ra tiếng động
                            Nhưng những giờ mang đến những tháng năm.
                            Và mùa hè đi ra từ mùa xuân
                            Rồi mùa hè đi vào mùa thu muộn.


                            Những lời chúc bạn bè

                            Tôi chúc các anh tươi tốt, nở hoa
                            Chúc dành dụm và chúc sức khoẻ tốt
                            Sức khoẻ để dành cho bước đường xa
                            Và sức khoẻ là điều quan trọng nhất.

                            Chúc mỗi ngày, mỗi giờ của các anh
                            Mang đến cho các anh điều mới mẻ
                            Chúc đế cho nhân hậu trong lý trí
                            Còn trong con tim thì sẽ thông minh.

                            Tôi chúc các anh tự đáy lòng mình
                            Tôi chúc bạn bè mọi điều tốt đẹp
                            Mà những gì tốt đẹp, bạn biết không
                            Thường là ta phải trả bằng giá đắt!




                            Ngọn gió đời không làm em lo lắng

                            Ngọn gió đời không làm em lo lắng
                            Như gương nước hồ lạnh lẽo mùa đông.
                            Và ngay cả con tim rất nhạy cảm
                            Không thể nghe tiếng sóng rất nhẹ nhàng.

                            Em đã từng nhanh nhẹn và ngân vang
                            Và những bước chân của em nhẹ lắm!
                            Anh cứ ngỡ rằng những tia lửa sáng
                            Từ đôi bàn tay biết nói của em.

                            Em đã sống, đã hít thở bằng tình
                            Em đã đến, như mặt trời hào phóng
                            Rồi để lại những lời cuối của mình
                            Bao nhiêu ấm nồng, bao nhiêu ánh sáng!


                            Đã bao lần chạy đua với thời gian

                            Đã bao lần chạy đua với thời gian
                            Thời gian vẫn mang anh về phía trước
                            Anh quất roi, anh xua đuổi thời gian
                            Để nghe ra bước chân thời gian bước.

                            Còn bây giờ anh bước đi thủng thẳng
                            Nhưng mà trong bàn chân bước anh nghe
                            Nhưng cây sồi đang cùng nhau trò chuyện
                            Và mạch nước nguồn đang đổ xuống khe.

                            Đời trôi không chậm hơn, nhưng lặng hơn
                            Bởi thế mà trong rừng chiều lặng lẽ
                            Anh nghe lời tiễn biệt của lá cành
                            Không có em – anh nhận cho hai đứa.


                            Những bông hoa trên mồ rung lặng lẽ

                            Những bông hoa trên mồ rung lặng lẽ
                            Vì luồng hơi rất nhẹ giữa không trung
                            Trong cái đung đưa của bông hoa huệ
                            Anh nhìn ra bàn chân bước của em.

                            Không khuây được, anh buồn ngay lập tức
                            Em xưa từng xa lạ cảnh lăng xăng
                            Bước em đi thong thả và nhẹ nhàng
                            Như những bông hoa này – rất nghiêm khắc.


                            Tất cả chết trên đất liền, trên biển

                            Tất cả chết trên đất liền, trên biển
                            Nhưng con người, số kiếp nghiệt ngã hơn
                            Con người cần phải biết về bản án
                            Đã ký vào người ấy tự lúc sinh.

                            Nhưng hiểu rằng đời thấm thoát trôi nhanh
                            Con người sống – trái ngược cùng tất cả -
                            Con người sống và tính đến vĩnh hằng
                            Và thế giới này thuộc về người đó.




                            Vladimir Vladimirovich Maiakovsky (tiếng Nga: Влади́мир Влади́мирович Маяко́вский)(19/7/1893—14/4/1930) – nhà thơ Nga, một đại diện tiêu biểu nhất của trường phái thơ Vị lai, thế kỉ XX.

                            Tiểu sử:
                            Vladimir Maiakovsky sinh tại làng Baghdati, tỉnh Kutaisy, Gruzia trong một gia đình kiểm lâm. Vì sinh vào ngày sinh của bố nên được đặt tên trùng với tên bố. Cả bố và mẹ đều là những người có dòng dõi quí tộc. Lên 6 tuổi đã ham mê sách vở và thích đọc nhiều loại sách. Năm 1906, sau cái chết đột ngột của người bố, cả gia đình chuyển về Moskva. Năm 1908 vào đảng Dân chủ Xã hội Nga và tham gia hoạt động bí mật nên bỏ học từ lớp 5. Ba lần bị bắt giam, 11 tháng ngồi tù vì tội hoạt động cách mạng bí mật. Năm 1911 Maiakovsky học hội họa, điêu khắc và kiến trúc ở trường nghệ thuật. Tại đây Maiakovsky làm quen với David Burlyuk – một trong những thủ lĩnh của nhóm Vị lai. Burlyuk đánh giá cao tài thơ của Maiakovsky và khuyên nên tiếp tục sáng tác. Maiakovsky thường xuyên tham dự vào các buổi sinh hoạt văn nghệ và đọc thơ. Công chúng không thể không để ý một chàng trai – thi sĩ cao lớn, đẹp và rất thích tranh luận. Thời kỳ sau cách mạng Maiakovsky vẫn tích cực đi đọc thơ ở nhiều nơi. Được công chúng đánh giá là người đọc thơ hay tuyệt vời, giọng ngân vang và mạnh mẽ, là người biết truyền đạt đến người nghe những chi tiết của cả âm thanh lẫn sắc màu.
                            Từng có một thời trong các sách giáo khoa ở Liên Xô người ta gọi Maiakovsky là “lá cờ đầu của thơ ca Tháng Mười”, là “sự thể hiện sống động của một kiểu nhà thơ mới – người chiến sĩ tích cực đấu tranh cho tương lai tươi sáng của dân tộc”vv… Sau khi Liên Xô sụp đổ một số người lại đòi vứt Maiakovsky khỏi “Con tàu Hiện đại” như ngày nào Maiakovsky cùng với một số người đã ký tên vào bản tuyên ngôn của nhóm Vị lai: “vứt Puskin, Dostoievsky, Tolstoy vv và vv… khỏi Con tàu Hiện đại”. Những suy nghĩ nông nổi qua đi, ngày nay ý kiến trên cũng sai lầm như nhóm Vị lai ngày trước. Bởi vì tài năng của Maiakovsky vô cùng to lớn. Maiakovsky không phải như D. Burlyuk hay A. Kruchenykh – những người cùng ký tên vào bản tuyên ngôn năm 1912. Di sản thi ca của Maiakovsky rất đồ sộ và sự cách tân hình thức thơ của Maia đã có ảnh hưởng không chỉ đến thơ ca Nga mà thơ ca cả thế giới. Trường ca Đám mây mặc quần (Облако в штанах) được coi là một kiệt tác của Maiakovsky. Bài thơ tình với cảm xúc mãnh liệt đến mức hoang dại. Nhà thơ tạo nên một hình thức mới, một hơi thở mới cho thơ ca Nga bằng việc cắt đứt vần điệu, trộn lẫn ngôn ngữ nói, cách thức biểu đạt thô thiển với những câu thơ mềm mại. Người ta vẫn thường so sánh Maiakovsky với T. S. Eliot (1885-1965) – nhà thơ Anh, nhà cách tân thơ ca Anh-Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

                            Tác phẩm:
                            *Ночь (Đêm, 1912), thơ
                            *Владимир Маяковский (Vladimir Maiakovsky, 1914), bi kịch
                            *Облако в штанах (Đám mây mặc quần, 1915), trường ca
                            *Флейта-позвоночник (Cây sáo-cột sống, 1916), trường ca
                            *Человек (Con người, 1916—1917), trường ca
                            *Все сочиненное Владимиром Маяковским (Tuyển tập Vladimir Maikovsky, 1919)
                            *150000000, 1921, trường ca
                            * Владимир Ильич Ленин (Vladimir Ilich Lenin, 1924), trường ca
                            *Хорошо! (Tốt lắm!, 1927), trường ca
                            * Письмо Татьяне Яковлевой (Bức thư gửi Tatyana Yakovleva, 1928), thơ
                            *Клоп (Con rệp, 1929), kịch
                            *Баня (Nhà tắm, 1930), kịch


                            PHONG CÁCH HEINE*

                            Đôi mắt em bừng lên như tia chớp
                            em nói rằng em đã nhìn
                            thấy anh đi cùng cô gái khác.
                            Rằng anh là người đê tiện nhất
                            rằng anh là kẻ thấp hèn.
                            Và em bước
                            đi trên đường
                            em vừa đi vừa rủa.
                            Anh chỉ là nhà bác học tầm thường, em yêu ạ
                            những tiếng sấm kia em hãy giữ cho mình.
                            Nếu như tia chớp đã không giết được anh
                            thì tiếng sấm rền
                            nói có trời, anh không sợ.
                            1920
                            _________
                            *Heine, Heinrich (1797 – 1856) – nhà thơ Đức.




                            CƯ XỬ VỚI CÔ NƯƠNG

                            Buổi chiều này đã quyết
                            còn anh và em có là người tình?
                            Trời tối đen
                            không ai nhìn thấy hết.
                            Và anh đã quì xuống thật
                            quả thật
                            là anh
                            trong khi cúi mình
                            nói với em
                            như người cha tốt bụng:
                            “Dục tình như vách dựng đứng
                            con làm ơn
                            đứng tránh ra bên đường.
                            Tránh ra bên đường
                            con nhé”.
                            1920.
                            #29
                              cacbac 13.12.2007 18:44:25 (permalink)


                              Apollon Nikolayevich Maykov (tiếng Nga: Аполлон Николаевич Майков, 4 tháng 6 năm 1821 – 20 tháng 3 năm 1897) là nhà thơ Nga, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Sankt-Peterburg (1853).

                              Tiểu sử:
                              Apollon Maykov sinh ở Moskva, con trai của Nikolay Apollonovich Maykov, là nhà quí tộc, họa sĩ, viện sĩ. Mẹ và các anh chị em của Apollon Maykov đều là những nhà văn, nhà phê bình, dịch giả. Năm 1834 cả gia đình chuyển về Sankt-Peterburg. Từ năm 1837 – 1841 ông học luật ở Đại học Sankt-Peterburg, đầu tiên say mê hội hoạ nhưng về sau đã dành toàn bộ sức lực cho thơ ca.
                              Năm 1842 được Nga hoàng Nikolay I cho đi du lịch ở nước ngoài, ông sang Ý, Pháp, Đức và Áo-Hung. Năm 1844 trở về Nga, ông làm việc ở Bảo tàng Rumyantsev, gặp gỡ và làm quen với Belinsky, Nekrasov, Turgenev. Thời kỳ này ông trở thành nhà thơ nổi tiếng, thường xuyên được in thơ trên những tạp chí uy tín nhất của thời đó, ông cũng là người thường xuyên tham gia các buổi đọc thơ trước công chúng và dành được sự mến mộ của bạn đọc. Thời kỳ tiếp theo ông làm cố vấn và sau đó là chủ tịch của Hội đồng kiểm duyệt văn học nước ngoài. Năm 1870 ông dịch xong tác phẩm Слова о полку Игореве (Bài ca về cuộc hành binh Igor) ra tiếng Nga hiện đại, ngoài ra, ông còn dịch nhiều tác phẩm thơ cổ điển của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Belarus, Serbia, các tác phẩm của Heinrich Heine, Adam Mickiewicz, Goethe… Năm 1882 ông được tặng Giải thường Pushkin của Viện Hàn lâm Khoa học.
                              Apollon Maykov mất ở Sankt-Peterburg năm 1897.

                              Tác phẩm:
                              *Сборник «Стихотворения» (1842)
                              *Поэма «Две судьбы» (1845)
                              *Поэма «Машенька» (1846)
                              *Поэма «Савонарола» (1851)
                              *Поэма «Клермонтский собор» (1853)
                              *Цикл стихов «В антологическом роде»
                              *Цикл стихов «Века и народы»
                              *Цикл стихов «Вечные вопросы»
                              *Цикл стихов «Неаполитанский альбом»
                              *Цикл стихов «Новогреческие песни»
                              *Цикл стихов «Отзывы истории»
                              *Цикл стихов «Очерки Рима»
                              *Драма «Два мира» (1872)
                              *Драма «Три смерти» (1851)
                              *Драма «Смерть Люция» (1863)


                              FORTUNATA

                              Hãy yêu anh, đừng suy nghĩ trầm ngâm
                              Đừng buồn bã, đừng nghĩ điều bất hạnh
                              Đừng trách cứ hay nghi ngờ trống vắng!
                              Nghĩ suy gì? Anh của em, em của anh!

                              Hãy quên hết, và trao hết cho anh!..
                              Và em đừng nhìn anh buồn bã thế!
                              Đừng cố đoán ra con tim em nhé
                              Em đi đi – và trao hết cho tim!

                              Vì anh không hề đo đếm gì tình
                              Không, tình yêu là tâm hồn anh đó
                              Anh yêu, tin và anh tuyên thệ…
                              Em như cuộc đời biết mấy đẹp xinh!

                              Hạnh phúc sẽ không biến mất trong tình
                              Em hãy tin, người kiêu hãnh, như anh
                              Rằng đến muôn đời mình không từ giã
                              Và nụ hôn đến muôn thuở nghe em…
                              1845



                              Đừng nói rằng không có niềm cứu rỗi

                              Đừng nói rằng không có niềm cứu rỗi
                              Rằng em rã rời trong nỗi buồn thương:
                              Đêm càng tối ngôi sao càng chói lọi
                              Càng đau thương càng thấy Chúa gần hơn.


                              Hồn thế kỷ

                              Hồn thế kỷ là thần tượng của các anh
                              mà thế kỷ của các anh là khoảnh khắc ngắn ngủi.
                              Thần tượng sẽ rơi vào quên lãng, vô cùng…
                              Hỡi những kẻ điên cuồng!
                              chẳng lẽ lý trí của các anh không hiểu nổi
                              Rằng cao hơn mọi thế kỷ là cõi Vĩnh hằng!…


                              Hạnh phúc là gì?…

                              Hạnh phúc là gì?…
                              Trên con đường của mình
                              Nghĩa vụ sai khiến anh về đâu – hãy đến
                              Không biết kẻ thù, không đo điều ngăn cản
                              Hãy yêu, hãy hy vọng, hãy tin.


                              Ghi vào albom

                              Cuộc đời hãy còn trước mặt tôi đây
                              Tất cả trong mắt nhìn, tai nghe tiếng
                              Giống như một thành phố xa buổi sớm
                              Đầy âm thanh và ánh sáng đầy!..

                              Và tất cả những khổ đau ngày trước
                              Tôi nhớ về với một vẻ hân hoan
                              Như những bậc thang để tôi bước lên
                              Những bậc thang dẫn tôi về mục đích…




                              Dmitry Sergeyevich Merezhkovsky (tiếng Nga: Дмитрий Сергеевич Мережковский, 14 tháng 8 năm 1865 – 9 tháng 12 năm 1941) là nhà văn, nhà phê bình, nhà thơ Nga. Merezhkovsky là chồng của nữ nhà văn, nhà thơ Nga Zinaida Gippius.

                              Tiểu sử:
                              Dmitry Merezhkovsky sinh ở Sankt-Peterburg trong gia đình một công chức hoàng gia, là con thứ sáu của một gia đình có 9 người con. Từ năm 1884 đến 1889 học lịch sử và ngôn ngữ ở Đại học Sankt-Peterburg. Bắt đầu in thơ từ năm 13 tuổi trên các báo và tạp chí. Năm 15 tuổi, bố tổ chức cho Merezhkovsky gặp nhà văn Fyodor Dostoyevsky – là người không hài lòng với cuộc sống hiện tại của nhà thơ trẻ. “Để sáng tác tốt – cần đau khổ và đau khổ”, những lời này của Fyodor Dostoyevsky, không ngờ, được thể hiện trong số phận của Merezhkovsky sau này.

                              Năm 1888 in tập thơ đầu tiên, năm 1892 in tập thơ thứ 2. Năm 1896, chưa đến 30 tuổi, đã có tên trong Từ điển bách khoa “Brokgayz và Efron”, được gọi là “một nhà thơ nổi tiếng”. Năm 1889 Merezhkovsky cưới Zinaida Gippius, sau này cũng là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Nga sống lưu vong ở nước ngoài. Năm 1900 cùng với Zinaida Gippius, Vasily Rozanov và một số nhà thơ khác thành lập “Hội Triết học và Tôn giáo”. Dmitry Merezhkovsky chào mừng Cách mạng Tháng Hai nhưng chống đối Cách mạng Tháng Mười. Kết quả là sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, ông bỏ ra sống ở nước ngoài. Năm 1920 đi sang Ba Lan, sau đó sang Pháp. Sau khi ra nước ngoài, tác phẩm của Merezhkovsky hầu như không được nhắc đến ở Liên Xô. Di sản văn học của Merezhkovsky rất đồ sộ, bao gồm tiểu thuyết, các tác phẩm về triết học, tôn giáo, phê bình, thơ. Ngoài ra ông còn là người dịch nhiều tác gia cổ điển của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Tiểu thuyết của Merezhkovsky có sự ảnh hưởng đến các nhà văn lớn của thế giới như Mikhail Bulgakov, James Joyce, Thomas Mann…

                              Dmitry Merezhkovsky là người nhiều lần có tên trong danh sách đề cử giải Nobel Văn học nhưng vì ông là người ủng hộ Hitler và Mussolini nên không được trao giải. Năm 1939 ông phát biểu trên Đài phát thanh Paris ủng hộ Hitler bị phản đối. Sau đó là những ngày tháng nghèo túng và bệnh tật. Ông mất ngày 9 tháng 12 năm 1941 ở Paris bị Đức chiếm đóng. Tác phẩm của Dmitry Merezhkovsky bắt đầu được bạn đọc quan tâm ở phương Tây từ những năm 1950–1960, còn ở Nga từ những năm 1980-1990, thế kỷ XX.

                              Thư mục:
                              I.
                              *Полное собр. сочин., 17 тт., изд. т-ва М. О. Вольф, СПБ, 1911-1913; То же, 24 тт. (полнее), изд. т-ва Сытина, М., 1914-1915. Не вошли в "Собр. сочин.": 14 декабря, П., 1918;
                              *Рождение богов. Тутонкамон на Крите, Прага, 1925;
                              *Мессия, "Современ. записки", Париж, 1926, XXVII-XXXII (романы);
                              *Будет радость, П., 1916; Романтики, Петроград, 1917 (драмы);
                              *Две тайны русской поэзии. Некрасов и Тютчев, Петроград, 1915;
                              *Завет Белинского, Петроград, 1915 (критика).

                              II.
                              *Ларин О. Я., Хронологич. указатель произведений и литературы о произведениях Мережковского, при т. XXIV Полного собр. сочин., СПБ, 1915;
                              *Фомин А. Г., Библиография новейшей русской литературы, "Русская литература XX в.", под ред. С. А. Венгерова, т. II, вып. V, М., 1915;
                              *Мезьер А. В., Русская словесность с XI по XIX ст. включительно, ч. 2, СПБ, 1902;
                              *Владиславлев И. В., Русские писатели, изд. 4-е, Гиз. Л., 1924;
                              *Владиславлев И. В, Литература великого десятилетия (1917-1927), том I, Гиз, Москва, 1928;
                              *Мандельштам Р. С., Художественная литература в оценке русской марксистской критики, ред. Н. К. Пиксанова, издание 4-е, Гиз, Москва, 1928.




                              YÊU THƯƠNG – THÙ HẬN

                              Ta yêu nhau nhưng mà ta không hiểu
                              Cả hai người cái mới vẫn khát khao
                              Nhưng mà ta cũng không phản bội nhau
                              Dù tình yêu rất cầu kỳ, nũng nịu.

                              Ta muốn được tự do như ngày trước
                              Ta nghĩ rằng xiềng xích sẽ giật tung
                              Nhưng đều vô phương cứu chữa bao lần
                              Kiếp nô lệ của mình ta hiểu được.

                              Và cả hai đều không ưa tiên đoán
                              Vì cả hai không biết cách sống chung
                              Không thù hận bằng tất cả tấm lòng
                              Không yêu thương đến vô cùng vô tận.

                              Ôi, những điều quở trách muôn thuở ấy
                              Hận thù này quả láu lỉnh, tinh ranh
                              Cả hai cô đơn, cả hai thấy buồn
                              Cả hai thấy ghét – gần nhau mãi mãi.

                              Nhưng tranh cãi với em, anh mệt lử
                              Anh vẫn yêu, vẫn đau khổ, đọa đầy
                              Em yêu ơi, anh cảm nhận điều này
                              Nơi không có em, cuộc đời chẳng có.

                              Điều dối gian hay sự quỷ quyệt nào
                              Mà cả đời ta cùng nhau cãi cọ
                              Mỗi người đều muốn trở thành tiếm chủ
                              Có ai chịu làm nô lệ ai đâu.

                              Nhưng dù sao, tình chẳng cho ta quên
                              Mà lớn lên khắp nơi và muôn thuở
                              Như cái chết, mù quáng và mạnh mẽ
                              Tình yêu thương như thù hận mà em.

                              Chỉ khi một người đã dưới suối vàng
                              Thì người còn lại may ra hiểu được
                              Sức mạnh của tình yêu không thương xót
                              Trong giờ cuối cùng, trong phút lâm chung!




                              CÔ ĐƠN TRONG TÌNH YÊU

                              Trời dần tối trên thành phố lạ
                              Hai đứa ngồi quay mặt vào nhau
                              Trong bóng đêm lạnh lẽo, u sầu
                              Cả hai lặng im và đau khổ.

                              Và cả hai từ lâu hiểu rõ
                              Rằng ngôn từ bất lực, vô sinh:
                              Một khi rất tội nghiệp ở trong tim
                              Thì thể hiện bằng lời không thể.

                              Không điều gì và không ai có lỗi
                              Ai không thể nào thắng được kiêu hùng
                              Thì người này muôn thuở cô đơn
                              Ai yêu – phải trở thành nô lệ.

                              Khi khát khao hạnh phúc và lòng tốt
                              Sống lắt lay vất vưởng tháng ngày xanh
                              Tất cả chúng ta muôn thuở một mình
                              Anh sống một mình, một mình anh chết.

                              Trên kính cửa sổ một màu xám xịt
                              Đã tắt rồi ánh sáng buổi ban chiều
                              Chỉ cái chết dạy được cho ta yêu
                              Tất cả đi vào mà không lối thoát.
                               
                              ******************





                              Lev Aleksandrovich Mey (tiếng Nga: Лев Александрович Мей, 13 tháng 2 năm 1822 – 16 tháng 5 năm 1862) là một dịch giả, nhà viết kịch, nhà thơ Nga.

                              Tiểu sử:
                              Lev Mey sinh ở Moskva trong một gia đình quí tộc gốc Đức đã sa sút. Bố ông là một sĩ quan từng tham gia trận đánh Borodino nổi tiếng, mất khi ông mới 5 tuổi. Học xong trường Lycee, ông làm việc trong tòa thị chính Moskva. Những năm 1848 – 1853 là thành viên tích cực của tạp chí Москвитянин, làm quen với các nhà thơ: Grigoryev, Ostrovsky. Từ năm 1853 chuyển về sống ở Sankt-Peterburg, làm việc ở cơ quan lưu trữ và tập trung cho việc sáng tác. Ông cộng tác với các tạp chí: «Отечественные записки», «Сын отечества», «Светоч», «Время, và các báo: «Русский мир», «Иллюстрация». Từ năm 1862, vợ ông vay tiền của bạn bè mở tạp chí «Модный магазин» được bạn đọc đón chào rất nồng nhiệt.

                              Thơ của Lev Mey giàu nhạc điệu, nhiều bài thơ của ông lấy đề tài lịch sử và dân gian, chuyển tải một cách trung thành tâm lý và những nhân vật của lịch sử. Ngoài sáng tác thơ, văn, Lev Mey còn dịch nhiều nhà thơ lớn như Anacreon, Lord Byron, Johann Wolfgang von Goethe, Heinrich Heine, Taras Shevchenko, Adam Mickiewicz … ra tiếng Nga. Nhiều bản dịch thơ của ông đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Lev Mey mất ở Sankt-Peterburg năm 1862.

                              Tác phẩm:
                              *Хозяин, 1849
                              *Оборотень, 1858
                              *Песня про княгиню Ульяну Андреевну Вяземскую, 1858
                              *Песня про боярина Евпатия Коловрата, 1859
                              *Александр Невский, 1861
                              *Юдифь, 1855
                              *Еврейские песни, 1856
                              *Соборное Воскресенье, 1850
                              *Медвежья правда, 1850
                              *Гривенник, 1860
                              *Чубук, 1860
                              *Батя, 1861
                              *Царская невеста (1849)
                              *Псковитянка (1849-1859)
                              *Полн. собр. соч., 4 изд., т. 1-2, СПБ, 1911
                              *Избр. произв. [Вступ. ст. Г. М. Фридлендера], М. - Л., 1962
                              *Избр. произв. [Вступ. ст. К. К. Бухмейер], Л., 1972


                              Hỡi người ca sĩ

                              Hỡi người ca sĩ sống không lâu
                              Vì anh chẳng còn sức nữa
                              Nhưng tình yêu sẽ còn rất lâu
                              Những bông hoa trên mồ anh sẽ nhổ.

                              Và hồi âm bài hát trên mồ anh
                              Sẽ muôn thuở không hề im lặng
                              Một khi Chúa Trời chưa lên tiếng:
                              “Lazarus, ngươi hãy hồi sinh!”


                              Tôi muốn có một lời

                              Tôi muốn có một lời
                              Hoà vào nỗi buồn tôi
                              Rồi ném vào ngọn gió
                              Bay về nơi xa xôi.

                              Mặc dù lời có buồn
                              Theo gió đến với em
                              Mọi nơi và mọi lúc
                              Rót vào trong lòng em!

                              Nếu mỏi mệt mắt nhìn
                              Khép lại trong bóng đêm
                              Dù cho lời buồn bã
                              Vang trong mộng về em.


                              Tại sao?

                              Hỡi người đẹp xa xăm
                              Sao đi mơ về anh
                              Bừng lên trong tơi xốp
                              Một chiếc gối cô đơn?

                              Gập người trong bóng đêm!
                              Những con mắt lười nhác
                              Bụi tóc tơi và xốp
                              Và bờ môi kiêu hùng.

                              Anh mơ giữa đời thường
                              Giấc mộng của mùa xuân
                              Trong con tim đã mất
                              Đêm địa ngục trùm lên.

                              Hỡi người đẹp xa xăm
                              Sao đi mơ về anh
                              Nếu lạnh cùng giấc mộng
                              Một chiếc gối cô đơn?
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 8 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 109 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9