Vladimir Semyonovich Vysotsky (tiếng Nga: Влади́мир Семёнович Высо́цкий, 25 tháng 1 năm 1938 – 25 tháng 7 năm 1980) – là nhà thơ, ca sĩ Xô Viết gốc Do Thái nổi tiếng thế giới, ông là tác giả những bài hát do chính ông thể hiện với cây đàn ghi ta. Vladimir Vysotsky được coi là một trong những nhà thơ lón nhất của Nga thế kỷ XX. Tên của ông đã được đặt cho các vệ tinh.
Tiểu sử: Vladimir Vysotsky sinh và mất đều ở thủ đô Moskva. Nguồn gốc và chủng tộc hiện vẫn có những ý kiến khác nhau. Từ thời ông bà, và ngay cả bố của Vysotsky vẫn có hai giả thiết. Họ là người ở tỉnh Bretsk, một tỉnh giáp với Ba Lan và nay thuộc cộng hòa Belarus.
Tuổi thơ ở thủ đô Moskva. Những năm thế chiến II, từ 1941 đến 1943, sơ tán về tỉnh Chkalov (nay là tỉnh Orenburg). Năm 1947 bố và mẹ ly dị, Vladimir về sống với bố và vợ hai của bố. Những năm 1947 – 1949 sống ở Đức – là nơi mà bố của Vladimir làm việc. Ở đây Vladimir bắt đầu học đàn dương cầm.
Năm 1956 học trường Đại học Kỹ sư xây dựng nhưng được một học kỳ thì bỏ. Sau đó vào học trường Nghệ thuật Moskva từ 1956 – 1960. Sau khi tốt nghiệp Vladimir Vysotsky bắt đầu cuộc đời nghệ sĩ đầu tiên ở nhà hát Pushkin, sau đó là nhà hát Taganka. Vladimir Visotsky tham gia hàng chục vai diễn trong hàng chục bộ phim, trong đó có nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới.
Vladimir Vysotsky biết làm thơ từ nhỏ. Ông sáng tác tất cả hơn 600 bài thơ và bài hát. Trong số này có rất nhiều bài hát viết cho phim và kịch. Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi, kịch bản sân khấu, phim và chuyện cổ tích. Ông sáng tác nhạc từ năm 1960 cho những bài thơ của mình. Những bài hát của ông được tuổi trẻ cả nước hát và ông cũng thường xuyên đi biểu diễn ở nước ngoài, đặc biệt là ở các nước Phương Tây.
Vladimir Vysotsky kết hôn ba lần. Hai người vợ đầu tiên được khoảng 5 năm. Người cuối cùng, từ năm 1970 đến cuối đời. Người vợ đầu tiên có một đứa con trai và mang họ Vysotsky nhưng thực ra là con của người đàn ông khác.
Những năm cuối đời ông trở thành thần tượng của giới trẻ Xô Viết, đặc biệt nổi tiếng ở thập niên cuối cùng. Vladimir Vysotsky mất ngày 25 tháng 7 năm 1980 ở Moskva. Cả nước khóc cái chết của ông. Đám tang của ông có hàng chục nghìn người tham dự. Mặc dù vậy, sự thừa nhận chính thức chỉ đến với ông sau khi chết. Ông được công nhận Nghệ sĩ công huân của Liên bang Nga năm 1986. Năm 1987 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô.
Sau khi mất, toàn bộ sáng tác của ông được in thành sách và ghi thành nhiều bộ đĩa cả ở Liên Xô cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Thơ và bài hát của ông hiện tại đã được dịch ra 52 thứ tiếng trên thế giới. Tiếng Việt có bản dịch của Nguyễn Viết Thắng với khoảng 30 bài.
Một số phim tham gia: • 1959 — Sverstnitsy (Сверстницы) - Mosfilm; Director: V. Ordynskii
• 1961 — Karyera Dimy Gorina (Карьера Димы Горина) – M. Gorkii Studio Director: F. Dovlatyan & L. Mirskii
• 1962 — 713-iy Prosit Posadku (713-й просит посадку) – Lenfilm; Director: G. Nikulin
• 1962 — Uvol'neniye na bereg (Увольнение на берег) – Mosfilm; Director: F. Mironer
• 1963 — Shtrafnoy udar (Штрафной удар) – M. Gorkii Studio; Director: V. Dorman
• 1963 — The Alive and the Dead (Живые и мёртвые) – Mosfilm; Director: Aleksandr Stolper
• 1965 — Na zavtrashney ulitse (На завтрашней улице) – Mosfilm; Director: F. Filipov
• 1965 — Nash dom (Наш дом) – Mosfilm; Director: V. Pronin
• 1965 — Stryapuha (Стряпуха) – Mosfilm; Director: E. Keosyan
• 1966 — Ya rodom iz detstva (Я родом из детства) – Belarusfilm; Director: V. Turov
• 1966 — Sasha-Sashen'ka (Саша-Сашенька) – Belarusfilm; Director: V. Chetverikov
• 1967 — Vertikal' (Вертикаль) – Odessa Film Studio; Director: Stanislav Govorukhin & B. Durov
• 1967 — Korotkiye vstrechi (Короткие встречи) – Odessa Film Studio; Director: Kira Muratova
• 1967 — Voyna pod kryshami (Война под крышами) – Belarusfilm; Director: V. Turov
• 1968 — Interventsiya (Интервенция) – Lenfilm; Director: Gennady Poloka
• 1968 — Khozyain taygi (Хозяин тайги) – Mosfilm; Director: V. Nazarov
• 1968 — Two Comrades Were Serving (Служили два товарища) – Mosfilm; Director: E. Karyelov
• 1969 — Opasnye gastroli (Опасные гастроли) – Odessa Film Studio; Director: G. Yungvald-Hilkevich
• 1969 — Bely vzryv (Белый взрыв) – Odessa Film Studio; Director: Stanislav Govorukhin
• 1972 — Chetvyorty (Четвёртый) – Mosfilm; Director: A. Stolper
• 1973 — Plohkoy khoroshy chelovek (Плохой хороший человек) – Lenfilm; Director: I. Heifits
• 1974 — Yedinstvennaya doroga (Единственная дорога) – Mosfilm & Titograd Studio; Director: V. Pavlovich
• 1975 — Yedinstvennaya (Единственная) – Lenfilm; Director: I. Heifits
• 1975 — Begstvo mistera Mak-Kinli (Бегство мистера Мак-Кинли) – Mosfilm; Director: M. Shveitser
• 1976 — Skaz pro to, kak tsar Pyotr arapa zhenil (Сказ про то, как царь Пётр арапа женил) – Mosfilm; Director: Alexander Mitta
• 1977 — Ők ketten (Они вдвоём) – Mafilm; Director: M. Mészáros
• 1979 — The Meeting Place Cannot Be Changed (Место встречи изменить нельзя); directed by Stanislav Govorukhin
• 1979 — Little Tragedies (Маленькие трагедии); directed by Mikhail Shveytser
Thư mục: • Wladimir Wyssozki. Aufbau Verlag 1989 (DDR) : Zerreißt mir nicht meine silbernen Saiten....
• Vysotsky, Vladimir (1990): Hamlet With a Guitar. Moscow, Progress Publishers. ISBN 5-01-001125-5
• Vysotsky, Vladimir (2003): Songs, Poems, Prose. Moscow, Eksmo. ISBN
• Vysotsky, Vladimir / Mer, Nathan (trans) (1991): Songs & Poems. ISBN 0-89697-399-9
• Vysotsky, Vladimir (1991): I Love, Therefore I Live. ISBN 0-569-09274-4
• Vlady, Marina (1987): Vladimir ou Le Vol Arrêté. Paris, Ed. Fayard. ISBN 2-213-02062-0 (Vladimir or the Aborted Flight)
• Влади М. Владимир, или Прерванный полет. М.: Прогресс, 1989.
• Vlady, Marina / Meinert, Joachim (transl) (1991): Eine Liebe zwischen zwei Welten. Mein Leben mit Wladimir Wyssozki. Weimar, Aufbau Verlag. ISBN
Một số bài thơ đã dịch ra Tiếng Việt: NGƯỜI ĐẸP ĐƯỢC YÊU THƯỜNG XUYÊN, CẦN MẪN HƠN
Người đẹp được yêu thường xuyên, cần mẫn hơn
Ít, nhưng nhanh hơn – với người vui vẻ
Hiếm khi được yêu – những người lặng lẽ
Nhưng nếu được yêu thì mạnh mẽ hơn.
Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.
Nàng đang đọc những cuốn tiểu thuyết buồn
Để nàng so sánh, bạn thì tin tưởng
Vì rằng có những bông tuy líp đen
Để người ta ngỡ trắng hơn màu trắng.
Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.
Lời chạy nhảy, bị gò bó – thế nhưng
Bạn đừng bao giờ sợ rằng chậm trễ.
Lời có nhiều, nhưng nếu như có thể
Chỉ nói khi bạn không thể nào không.
Bạn đừng gào lên những lời dịu dàng
Mà hãy giữ chúng trong vòng tù hãm
Mặc những con tàu gào rống trong đêm
Nhưng còn bạn thì giữ bề im lặng
Vội vã – thì đi tìm gió ngoài đồng.
TÔI YÊU EM BÂY GIỜ...
Tôi yêu em bây giờ
Công khai – không hề bí mật
Cháy trong ánh sáng của em – không “sau”, không “trước”.
Cười hay khóc, nhưng tôi yêu bây giờ
Trong quá khứ - không muốn, còn tương lai – không biết.
Trong quá khứ là “tôi đã yêu em” –
Đau buồn hơn cả ngôi mộ người đã chết
Tất cả sự dịu dàng trong tôi như bị trói tay chân
Mặc dù nhà thơ của mọi nhà thơ từng viết:
“Tôi đã yêu em, và có lẽ tình…”
Người ta nói như thế về cái đã héo tàn
Và trong đó lòng trắc ẩn có nghĩa là độ lượng
Giống như đối với ông vua đã bị truất quyền.
Trong đó có lòng thương về sự khao khát không còn
Nơi mà sự khát khao đã không còn nhanh nhẹn
Và có vẻ như không tin đối với “tôi yêu em”.
Tôi yêu em bây giờ –
Không vết nhơ, không mất mát
Thế kỷ của tôi là bây giờ - tôi không cắt tĩnh mạch!
Trong thời gian, trong sự tiếp tục, bây giờ -
Tôi không thở bằng quá khứ và tương lai không cuồng nhiệt.
Tôi bơi qua, lội qua và đi đến
Với em – dù cho có bị chặt đầu!
Với xích dưới chân và những quả cân trọng lượng
Chỉ mong em đừng bắt ép gì nếu em nhầm lẫn
Để sau “tôi đang yêu” tôi thêm vào “sẽ vẫn còn yêu”.
Có cay đắng trong “tôi sẽ”, mới lạ lùng sao
Chữ ký giả mạo và lỗ đục sâu
Và khe hở rút lui để làm dự trữ
Dưới tận đáy ly sâu nọc độc không màu.
Và giống như điều sỉ nhục cho thì hiện tại
Nghi ngờ “tôi đang yêu” ngay lúc này sao.
Tôi nhìn giấc mơ Pháp
Với đủ kiểu thời gian
Nơi mà cả quá khứ lẫn tương lai đều khác.
Tôi cảm thấy như đang bêu xấu mình
Trước hàng rào ngôn ngữ tôi đành bất lực.
Ái chà, sự khác biệt trong nhiều ngôn ngữ
Không có vị trí – mà thất bại hoàn toàn
Nhưng lối thoát cả hai đứa sẽ đi tìm.
Tôi yêu em và trong những thời gian phức tạp –
Và trong tương lai, và ở trong quá khứ này em.
BÀI BALLAD VỀ TÌNH YÊU
Khi dòng nước của cơn Đại hồng thủy
Quay trở lại lần nữa với bến bờ
Thì từ bọt của dòng nước xưa kia
Tình yêu thoát lên bờ trong lặng lẽ
Và tan trong không khí đến hạn kỳ
Mà hạn kỳ thì có nhiều vô kể.
Và hãy vẫn còn những người ngớ ngẩn
Thở đầy căng cái thứ hỗn hợp này
Họ không chờ hình phạt hay phần thưởng
Mà chỉ nghĩ rằng hít thở vậy thôi
Họ rơi vào nhịp thở không bằng phẳng
Nhịp thở như vầy – nhịp thở chơi vơi.
Tôi trải giường cho những kẻ đang yêu
Để họ hát cả ngoài đời, trong mộng!..
Tôi đang thở – nghĩa là tôi đang yêu!
Tôi đang yêu – nghĩa là tôi đang sống!
Và sẽ có nhiều giang hồ phiêu bạt:
Xứ sở tình yêu, xứ sở mênh mông!
Tình thử thách những hiệp sĩ của mình
Cứ mỗi ngày vặn hỏi càng nghiêm khắc:
Tình đòi hỏi chia ly và khoảng cách
Không nghỉ ngơi, không cho ngủ cho yên.
Nhưng không quay lại những kẻ điên cuồng
Mà họ bằng lòng trả bằng mọi giá
Sẵn sàng mạo hiểm cả cuộc đời mình
Để cho không làm rách và để giữ
Sợi chỉ thần tiên, sợi chỉ vô hình
Mà người ta đã căng ra giữa họ.
Tôi trải giường cho những kẻ đang yêu
Để họ hát cả ngoài đời, trong mộng!..
Tôi đang thở – nghĩa là tôi đang yêu!
Tôi đang yêu – nghĩa là tôi đang sống!
Nhưng có khối kẻ chết ngạt vì tình
Gọi tình yêu nhưng chưa từng gọi đến
Biết bao nhiêu trống vắng với tin đồn
Nhưng tổng số này ngâm trong máu nóng.
Còn ta đặt những ngọn nến đầu giường
Thờ những kẻ chết mà chưa được nhận.
Linh hồn họ trong cỏ hoa thơ thẩn
Giọng nói rồi sẽ hòa nhập cùng nhau
Và một nhịp thở cùng chung vĩnh viễn
Thổn thức trên môi – khi họ gặp nhau
Trên bến đò ngang run rẩy, trên cầu
Và trên những ngã tư đời chật lắm.
Cơn gió mát làm say người được chọn
Quấn bàn chân, làm người chết hồi sinh
Bởi vì rằng, nếu như bạn chưa từng
Yêu – nghĩa là chưa thở và chưa sống.
KHÚC CA VỀ NHÀ TIÊN TRI CASSANDRA
Thành Tơ-roa lâu ngày bị bao vây
Vẫn trở thành một pháo đài đứng vững
Nhưng dân Tơ-roa đã không tin tưởng.
Nếu không, đã còn cho đến ngày nay.
Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.
Trong cái đêm từ bụng con ngựa gỗ
Cái chết đi ra (như có cánh bay)
Trên đám đông hoảng loạn và cuồng si
Ai đó kêu: “Lỗi lầm do phù thủy!”
Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.
Trong đêm hoảng lọan, trong cái chết này
Khi lời dự báo trở thành hiện thực
Giá mà đám đông tìm ra một phút
Để trừng phạt cho cái thói quen này.
Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.
Kết cục giản đơn – dù bất thường, đáng giận:
Một người Hy Lạp tìm ra Cassandra
Nhưng dùng không như Cassandra, mà
Như người chiến thắng giản đơn, nhàm chán.
Cô gái cuồng điên nhắc đi nhắc lại:
“Ta thấy Tơ-roa sẽ cháy thành tro… “
Nhưng người mục kích, nhưng nhà tiên tri
Muôn đời nay bị thiêu trên lửa cháy.