Các nhà thơ Anh
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 18 trên tổng số 18 bài trong đề mục
cacbac 26.05.2008 09:46:22 (permalink)

 
BỤI
 
Một - hai - một - hai – ta đi khắp châu Phi
Ngày - đêm - ngày - đêm – khắp châu Phi đường dài
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Bảy - sáu - năm - mười một – hai chín dặm hôm nay
Bốn - mười một - mười bảy – ba hai dặm ngày mai
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Không- không- không- không – phía trước nhìn thấy ai
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Người - người - người - người – vì bụi điên, mất trí
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Xem- xem- xem- xem – nghĩ điều khác cho rồi
Ô - lạy - Chúa - tôi – như cuồng điên mất trí
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Đếm - đếm - đếm - đếm – đếm đạn trong dây cài
Nếu - mắt - buồn - ngủ – người trong hàng thức nhé
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Ta - không - sợ - gì -- đói, khát, đường dài
Nhưng - không - không - không – chỉ một điều tồi tệ
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Và chiến trường không miễn thứ cho ai!

Không - đến - nỗi - nào – với đồng đội ban ngày
Nhưng - khổ - nỗi - đêm – trên bước đường thiên lý
Bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Chiến trường không miễn thứ cho ai!

Tôi - đi - qua - địa ngục – sáu tuần và xin thề
Ở - đó - không - có – lò thiêu, bóng đêm và quỉ
Nhưng bụi - bụi - bụi - bụi – từ bước chân chiến sĩ
Và chiến trường không miễn thứ cho ai!
 
_______________
 
There's no discharge in the war! (Chiến trường không miễn thứ cho ai) – Câu kết ở mỗi khổ thơ trích từ quyển Ecclesiastes của Kinh Cựu ước: "There is no man that hath power over the spirit to retain the spirit; neither hath he power in the day of death; and there is no discharge in the war..." (Chẳng có ai cai trị được sinh khí để cầm sinh khí lại; lại chẳng có ai có quyền về ngày chết; trong khi tranh chiến chẳng có sự miễn thứ... Ecclesiastes 8:8). Câu này trong Kinh Thánh đã đi vào những khúc quân hành và Kipling nhắc lại theo nghĩa đen trần trụi: "Chiến trường không miễn thứ cho ai".
 
 
BÀI CA GỬI NGÀI MITHRAS
 

 
Mithras, thần buổi sớm và chúng tôi thổi kèn
Rôma cao hơn mọi quốc gia còn Ngài trên tất cả!
Chúng tôi lại lên đường khi đã điểm danh xong
Mithras cũng là lính, hãy cho chúng tôi sức khỏe!

Mithras, thần buổi trưa, cây cỏ bơi trong cái nóng
Mũ sắt đội trên đầu, xăng-đan rát bàn chân
Trong giờ giải lao - những đôi mắt mơ màng
Mithras cũng là lính, hãy giữ chúng tôi theo lời thề nguyện!

Mithras – vị thần của buổi chiều tà xế bóng
Ngài bất tử đi xuống từ trời rồi lại đi lên
Giờ phiên gác đã xong, bên chén rượu u buồn
Mithras cũng là lính, hãy giữ chúng tôi trong lành đến sáng!

Mithras, thần nửa đêm, ở đây con bò đã chết
Những đứa con của ngài trong bóng đêm. Những vật hy sinh
Ngài tạo ra nhiều con đường. Tất cả dẫn về ánh sáng quang vinh
Mithras cũng là lính, hãy dạy cho chúng tôi biết chết!
_______________
Mithras (Mithra) – thần mặt trời, thần của sự hoà thuận trong kinh Avesta. Mithra bảo vệ những quốc gia trung thành với hiệp ước và trừng phạt những ai vi phạm. Sự sùng bái Mithra rất phổ biến ở Đế chế La Mã những thế kỷ đầu sau CN, đặc biệt là trong quân đội.
 
#16
    cacbac 31.10.2008 07:55:44 (permalink)





    NẾU


    Nếu con có thể bình tâm khi mà tất cả
    Hết thảy kinh hoàng và đổ lỗi cho con
    Nếu con vẫn vững tin khi mọi người nghi kỵ
    Mặc ai đó không tin nhưng con vẫn vững lòng
    Nếu con biết đợi chờ và kiên nhẫn chờ trông
    Không lấy điều dối gian đáp lại điều gian dối
    Hoặc bị căm ghét mà không căm ghét lại
    Không nói những lời khôn, không ra vẻ thánh thần.

    Nếu con mơ ước mà không để ước mơ làm chủ đời con
    Nếu con có thể suy tư mà không lấy nó làm mục đích
    Nếu cả Thành công, Thất bại trên đường đời con gặp
    Mà vẫn như nhau - đối xử một tấm lòng
    Nếu con biết nghe sự thật những lời của con
    Bị kẻ bất lương làm bẫy lừa kẻ dại
    Hoặc nhìn đời con đổ vỡ, đành làm lại
    Và con cúi xuống dựng nên với công cụ đã mòn.

    Nếu con dám đem những đồng vốn của mình
    Đổ hết vào một trận ăn thua úp ngửa
    Đành làm lại từ đầu vì đã mất tất cả
    Mất mát của mình không một chút thở than
    Nếu con ép được con tim, thớ thịt đường gân
    Phục vụ cho mình để giành mục đích
    Và cố níu giữ, dù chẳng còn sức lực
    Nhưng ý chí vẫn đòi: "Hãy giữ vững lòng tin!".

    Nếu con giữ tư cách khi nói chuyện với mọi người
    Hay khi ngồi với Vua – thường dân không gián đoạn
    Nếu không để thiệt cho mình – dù với thù hay bạn
    Không còn để ai nợ nần hay còn nợ gì ai
    Nếu mỗi phút giây con có được trong đời
    Không để phí hoài mà luôn luôn đặt trên đường chạy
    Thì thế giới này sẽ là của con, cùng tất cả những gì trong đấy
    Và – quan trọng hơn – con trai, con là một Con Người!
    ______________
    *Bài thơ này in lần đầu ở tạp chí The American Magazine, tháng 10- 1910, sau đó in trong truyện ngắn Brother Square – Toes của tập truyện Rewards and Fairies, 1910.

    Cuối thế kỷ XX, nghĩa là chỉ mới đây, Đài BBC đã đề nghị thính giả chọn những bài thơ hay nhất của các nhà thơ Anh. Có hàng nghìn người tham gia và kết quả là bài thơ này được chọn nhiều nhất, mở đầu cho tập "Những bài thơ hay nhất của nước Anh". Nội dung và ý nghĩa của bài thơ có vẻ đã rõ ràng, tưởng không có gì phải giải thích thêm nhưng sự đời cái gì đã hay, đã nổi tiếng thì người ta càng hay trích dẫn, mô phỏng mà trích dẫn cũng theo nhiều vẻ khác nhau. Nhà văn Anh, Richard Aldington (1892-1962) trong tiểu thuyết nổi tiếng "Cái chết của một anh hùng" (Death of a Hero, 1929) viết về "thế hệ mất mát" trong chiến tranh Thế giới I đã trích dẫn Kipling để ca ngợi tính cứng rắn của người lính ngoài mặt trận, ca ngợi những ai biết chém giết mà không hề run sợ, và chỉ khi đó "... con trai, con là một Con Người!" Nhà đạo diễn người Anh Lindsay Anderson (1932-1994) cũng đã dùng tên bài thơ để đặt tên cho một bộ phim nổi tiếng "Nếu" (If, 1968), giải thưởng Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes, chứng minh rằng sự giáo dục theo những chuẩn mực của Kipling đôi khi cho kết quả ngược lại... Đấy chỉ là hai ví dụ tiêu biểu nhất trong văn chương và điện ảnh thế giới cho thấy bài thơ mới đọc qua có vẻ tất cả đều rõ ràng, thực ra vẫn ẩn giấu bên trong những ý nghĩa sâu xa mà một vài bản dịch chưa thể nào lột tả hết được...

    Dù sao, dù người đời có trích dẫn theo nhiều vẻ khác nhau càng cho thấy một điều là bài thơ này có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội phương Tây và đã trở thành bất tử. Cuối cùng xin dành một đôi dòng về đối tượng của bài thơ này – con trai của Kipling chết năm 1915 ở mặt trận nước Pháp. Cú sốc này Kipling đã không thể hồi phục cho đến hết đời.







    MẸ CỦA CON

    Nếu con bị chết treo trên vách núi
    Mẹ của con, ôi mẹ của con!
    Con biết rằng tình ai theo con mãi
    Mẹ của con, ôi mẹ của con!

    Nếu con bị đắm chìm trong biển cả
    Mẹ của con, ôi mẹ của con!
    Con biết rằng ai sẽ tuôn dòng lệ
    Mẹ của con, ôi mẹ của con!

    Nếu con bị đày đọa cả thể xác, tâm hồn
    Con biết ai cầu cho con bình an vô sự
    Mẹ của con, ôi mẹ của con!


    LỜI THỈNH CẦU

    Nếu như bạn yêu mến
    Những câu chuyện của tôi
    Cho tôi yên đêm này
    Nơi sau này bạn đến.

    Ý nghĩ về người chết
    Chỉ trong phút giây thôi
    Bạn hãy tìm trong sách
    Tôi gửi lại cho đời.


    THE LOVE SONG OF HAR DYAL

    Một mình em trên mái nhà nhìn về phương bắc
    Trông những vì sao lấp lánh giữa trời xanh
    Trời phương bắc phản chiếu bước chân anh
    Người yêu hãy quay về hoặc là em sẽ chết.

    Khu chợ nhỏ dưới chân em tĩnh mịch
    Đang ngủ say sưa những chú lạc đà
    Những chú lạc đà, những kẻ bị bắt tù
    Người yêu hãy quay về hoặc là em sẽ chết.

    Vợ của cha càng ngày càng cay nghiệt
    Em còng lưng làm việc suốt ngày đêm
    Nước mắt trào ra, em đau khổ, em buồn
    Người yêu hãy quay về hoặc là em sẽ chết.




    #17
      cacbac 07.09.2009 10:08:49 (permalink)

       
      William Butler Yeats (1865-1939) - nhà thơ, nhà soạn kịch Ai-len, giải Nobel Văn học năm 1923. Sinh ra giữa thời đại mà quê hương Ai-len của ông bắt đầu thức dậy một phong trào yêu nước, đỉnh cao là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1919-1923, thời đại này đã mang lại một xung lực cho sáng tác của William Butler Yeats.

      W.B. Yeats sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ. Bố là họa sĩ chân dung nổi tiếng, em trai cũng trở thành một họa sĩ lớn của Ai-len. Bản thân Yeats cũng từng học trường nghệ thuật và có ý định sẽ sống bằng nghề hội họa nhưng thơ ca đã xâm chiếm tâm hồn ông ngay từ những thành công đầu tiên. Năm 1868 cả gia đình chuyển đến London, năm 1880 trở về Dublin và năm 1887 quay lại London. Tại đây ông bắt đầu in những bài thơ và kịch đầu tiên trên các báo và tạp chí. Năm 1889 xuất bản cuốn sách đầu tiên Những cuộc viễn du của Oisin và các bài thơ khác, trường ca Những cuộc viễn du của Oisin – tác phẩm chính của tập sách này dựa theo những mô-típ dân gian của Ai-len. Cũng trong thời gian này Yeats gặp gỡ và làm quen với nữ nghệ sĩ Maud Gone – một trong những thủ lĩnh của phong trào giải phóng dân tộc Ai-len, tham gia tích cực vào phong trào “Phục hưng Ai-len”. Mục đích của phong trào này là phục hồi tiếng Gaelic, tìm hiểu văn hoá và lịch sử Ai-len, sáng tác những tác phẩm dựa trên những huyền thoại, truyền thuyết của Ai-len, thành lập nhà hát dân tộc. Năm 1904 Yeats cùng với một số bạn bè thành lập “Nhà hát Abbas” và làm giám đốc nhà hát này đến năm 1938.

      Sau năm 1910, các vở kịch nghệ thuật của W. Yeats chuyển hướng đột ngột sang viết bằng thơ, phong cách bí ẩn, có nhiều khoảng trống. Những vở kịch sau đó (ông viết cho số ít khán giả chọn lọc) là những thử nghiệm với vũ điệu, âm nhạc và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những vở kịch Noh của Nhật Bản. Từ năm 1922 đến năm 1928 W. Yeats là thượng nghị sĩ của Nhà nước Ireland tự do, tham gia nhiều hoạt động chính trị ở Ireland, sáng tác của ông thời kỳ này mất dần tính lãng mạn và trở nên thâm trầm sâu sắc. Hai tác phẩm đáng chú ý cuối cùng của ông là Rằm tháng Ba (1935) và Những bài thơ và những vở kịch cuối cùng (1940).

      Thơ ca của Yaets mang đậm hơi thở, phong cách dân tộc Ai-len. Nhiều đề tài, hình tượng trong thơ ông được lấy từ kho tàng thơ ca dân gian kết hợp với khuynh hướng biểu tượng và lãng mạn trữ tình. Tác phẩm của ông giàu hình tượng với những quan sát tinh tế, kết hợp vẻ đẹp bên ngoài với chiều sâu trí tuệ bên trong. Năm 1923 ông được trao giải Nobel Văn học vì sự nghiệp sáng tác phản ánh cao độ tinh thần dân tộc trong những tác phẩm điêu luyện. W. B. Yeats có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca Anh trong thế kỉ XX. Tên tuổi của ông đặt ngang hàng với những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX. Ông mất ngày 28-1-1939 tại miền nam nước Pháp.

      Tác phẩm:
      *Những cuộc viễn du của Oisin và các bài thơ khác (The wandering of Oisin and other poems, 1889), thơ.
      *John Sherman (1891), tiểu thuyết.
      *Nữ bá tước Cathleen (The countess Cathleen, 1892),kịch thơ.
      *Tặng bông hồng trên con đường thời gian (To the rose upon the road of time, 1893), thơ.
      *Xứ sở ham muốn của con tim (The land of heart’s desire, 1894), kịch thơ.
      *Những ngã tư đường (Crossways, 1889), tập thơ.
      *Hoa hồng (The rose, 1893), tập thơ.
      *Gió trong bãi sậy (The wind among the reeds, 1899), thơ.
      *Catheleen con gái Houlihan (Catheleen ni Houlihan, 1902), thơ.
      *Đồng hồ cát (The hour glass, 1903), kịch.
      *Trong bảy cánh rừng (In the seven woods, 1903), thơ.
      *Trước cửa Vua (The King’s thereshold, 1904), kịch thơ.
      *Nồi nước sốt (The pot of broth, 1904), hài kịch.
      *Bóng nước (The shadowy waters, 1906), kịch thơ.
      *Chiếc mũ màu xanh (The green helmet, 1910), thơ.
      *Trách nhiệm (Responsabilities, 1914), thơ.
      *Lễ Phục Sinh (Easter, 1916), thơ.
      *Bên giếng diều hâu (At the Hawk's well, 1916), kịch.
      *Những giấc mơ của xương (The dreaming of the bones, 1919), kịch.
      *Thiên nga ở Coole (The wild’s swans at Coole, 1919), thơ.
      *Bốn vở kịch cho vũ nữ (Four plays for the dancers, 1921), thơ.
      *Michael Robartes và vũ nữ (Michael Robartes and dancer, 1921), thơ.
      *Hoàng hậu - diễn viên (The player queen, 1922), kịch.
      *Bóng hình (A vision, 1925; tái bản 1937), tiểu luận.
      *Con mèo và mặt trăng (The cat and the moon, 1926), kịch.
      *Bảy bài thơ và một đoạn (Seven poems and one fragment, 1927), thơ.
      *Đám tang Parnell (Parnell's funeral, 1932, in 1935), thơ.
      *Cầu thang xoáy ốc và những bài thơ khác (The winding stair and other poems, 1933), thơ.
      *Vua những đồng hồ tháp lớn (The king of the great clock tower, 1935), kịch.
      *Rằm tháng Ba (A full moon in March, 1935), thơ.
      *Lời nguyền Cromwell (The curse of Cromwell, 1937), thơ.
      *Cái chết của Cuchulain (The death of Cuchulain, 1939), kịch.






      KHI EM ĐÃ GIÀ(1)

      Khi em đã già, mái tóc điểm bạc
      Một mình em bên bếp lửa, cúi đầu
      Em mở cuốn sách này, hãy đọc thật lâu
      Có bóng xưa toả ra từ ánh mắt.

      Biết bao kẻ yêu vẻ vui tươi phút chốc
      Yêu vẻ đẹp của em, giả dối hoặc chân thành
      Nhưng chỉ một người yêu tâm hồn hành hương của em
      Và yêu nét buồn đổi thay trên gương mặt.

      Em cúi xuống, giọng thì thào, khoan nhặt
      Đượm vẻ buồn sao tình vội qua mau
      Tình vút bay lên tận đỉnh núi cao
      Giữa đám đông các vì sao giấu mặt.
      _________
      (1)Bài thơ này viết về người yêu, ngưòi đẹp, nữ nghệ sĩ Maud Gonne – một trong những thủ lĩnh của phong trào giải phóng dân tộc Ailen. Nhờ sự ảnh hưởng của Maud Gonne mà Yeats đã xác định cho mình vị trí trong cuộc đấu tranh vì độc lập của Ailen…
      Bài thơ này mang sự ảnh hưởng rất chi tiết một bài sonnê nổi tiếng của Pierrè Ronsard (1524-1585) “Quand vous serez bien vieille, au soir à la chandelle…”




      NỖI BUỒN CỦA TÌNH YÊU

      Dưới mái hiên chim sẻ kêu ríu rít
      ánh trăng thanh và cả dải ngân hà
      Và tiếng lá đang hoà âm xào xạc
      át tiếng khóc than nhân thế mờ xa.

      Nàng thiếu nữ bờ môi hồng ảm đạm
      Tựa hồ như đau đớn cả trần gian
      Nàng giống như Odyssey bi thảm
      Như vua Priam trước cái chết hiên ngang.

      Và trỗi dậy, tiếng chim kêu ríu rít
      Và giữa bầu trời buồn bã ánh trăng
      Và tất cả tiếng lá cây xào xạc
      Hòa nhập vào tiếng khóc của trần gian.



      ĐI VÀO BUỔI HOÀNG HÔN

      Nào, con tim, hãy quên hết xiềng gông
      Hãy xua đi ý nghĩ về phải, trái
      Hãy cười lên trong hoàng hôn tê tái
      Hít thở vào giọt sương buổi bình minh.

      Mẹ của em Eire mãi mãi trẻ trung
      Sương vẫn trong và hoàng hôn tê tái
      Dù hy vọng đổ vào trong lửa cháy
      Của tình yêu bị vu khống chết dần.

      Nào con tim, hãy đến ngọn đồi con
      Nơi bí ẩn muôn đời tình huynh đệ
      Nơi mặt trời, mặt trăng và cây dẻ
      Ta nhận về ý chí của dòng sông.

      Và Chúa Trời sẽ đứng đấy một mình
      Và cuộc đời, thời gian còn bay mãi
      Và tình yêu không dịu êm bằng hoàng hôn tê tái
      Và hy vọng không quí bằng sương buổi bình minh.



       
       
       
      NGƯỜI YÊU KỂ VỀ BÔNG HỒNG NỞ TRONG TIM

      Tất cả những gì buồn bã trên đời: nghèo nàn, già cũ
      Tiếng kẽo kẹt bánh xe, tiếng trẻ khóc bên đường
      Vẻ mệt mỏi của thợ cày, tia nước lạnh mùa đông
      Làm sai hình ảnh của em, bông hồng trong tim anh đang nở.

      Thật đã lắm nỗi buồn, anh muốn xây lại nó
      Trên ngọn đồi cô đơn sẽ trải một màu xanh
      Để Đất và Trời sẽ biến thành một cái tráp vàng
      Đựng giấc mơ về em, bông hồng trong tim anh đang nở.


       
      TÂM TRẠNG

      Thời gian đang phân hủy
      Như ngọn nến lụi tàn
      Núi rừng và cây cối
      Vẫn sống ngày của mình
      Có điều chi nguồn cội
      Trong tâm trạng lửa sinh
      Hay là đang tàn lụi?



      GIỮA RỪNG CÂY DƯƠNG LIỄU

      Tôi và em gặp nhau giữa rừng cây dương liễu
      Bàn chân của em nhẹ nhàng rảo bước giữa rừng dương
      Hãy yêu em - nàng bảo tôi - như những chiếc lá trên cành
      Nhưng tôi dại dột, trẻ con, với nàng tôi không chịu.

      Trên bãi đất nhỏ bờ sông - nàng đứng bên tôi
      Bàn tay nàng nhẹ nhàng đặt trên vai tôi như là chiếc lá
      Hãy yêu em - nàng bảo tôi - như đập nước yêu cây cỏ
      Nhưng tôi trẻ con, dại dột... để bây giờ nước mắt đầy vơi.



      ANH MUỐN TẤM VẢI BẦU TRỜI

      Giá mà anh có tấm vải bầu trời
      Và trong đó ánh sáng vàng hay bạc
      Vải màu tối, màu xanh hay màu khác
      ánh sáng lung linh đêm cũng như ngày.

      Thì anh sẽ căng vải dưới chân em
      Nhưng khổ thân anh, chỉ là mơ ước
      Anh trải ước mơ dưới bàn chân em
      Em nhẹ nhàng lên giấc mơ hãy bước.



      RỪNG CÂY XÀO XẠC

      Em hãy về miền nước hồ lấp lánh
      Cùng chú hươu với tiếng thổn thức tình
      Và khi đó hãy ngắm nhìn hình ảnh
      Chẳng có ai yêu như em và anh!

      Em sẽ thấy nữ hoàng rất kiêu hãnh
      Với đôi hài trượt xuống tự trời xanh
      Khi mặt trời trong ánh vàng lấp lánh
      Chẳng có ai yêu như em và anh!

      Em hãy về miền rừng cây xào xạc
      Anh muốn kêu lên với những người tình:
      Ôi cuộc đời, ôi màu vàng mái tóc
      Chẳng có ai yêu như em và anh!



      NÀNG TIÊN CÁ

      Có một chàng trai bơi trong nước
      Chìm theo vẻ đẹp của nàng tiên
      Nàng tiên cá ép chàng vào thân mình
      Nàng mỉm cười kéo chàng xuống vực
      Mà quên rằng ngay cả trong hạnh phúc
      Thường vẫn hay chìm đắm những người tình.



      MẤT MÁT GÌ

      Tôi hát về mất mát, tôi sợ thành công
      Và lại như xưa tôi bước vào trận đánh
      Với mất mát của mình, dù vua hay người lính
      Bàn chân đứng hay đi, tôi xếp đặt cho mình
      Trên đá nhỏ bước chân đều vẫn giậm.



      THƯƠNG TÌNH

      Lòng thương hại đến vô cùng
      Trong trái tim yêu trú ẩn
      Những đám mây trên cuộc hành trình
      Của những người mua và bán
      Và một cơn gió lạnh
      Bóng cây phi tử chơi vơi
      Còn nước bây giờ màu xám
      Hãy coi chừng tình yêu của tôi.



      VĂN MỘ CHÍ SWIFT

      Swift ngàn thu yên giấc
      Tức giận một thuở đã từng
      Không còn xé tan lồng ngực.
      Cho người đời sẽ noi gương
      Anh từng là người lữ khách
      Vì tự do của quê hương.



      CHÉN NƯỚC CẠN KHÔ

      Chàng điên tìm ra chén nước
      Khi mà chết khát nhân dân
      Không dám làm cho môi ướt
      Sợ ánh trăng sẽ rủa nguyền.
      Chỉ vừa mới nhấp một hớp
      Thì con tim đã vỡ tung.
      Tôi cũng tìm ra chén nước
      Nhưng mà chén nước cạn khô
      Vì thế tôi cũng hoá rồ
      Và suốt đêm không ngủ được.



      SAU ĐÓ LÀ GÌ

      Bạn bè xưa trong lớp học cho rằng
      Nó sẽ trở thành người nổi tiếng
      Nó vẫn suy nghĩ và sống như thường
      Còn tất cả bạn bè lao động
      “Sau đó là gì?” lời nhà triết học còn vang.

      Mọi người đọc những gì nó viết
      Thế rồi theo tháng năm
      Nó làm ra nhiều tiền bạc
      Bè bạn, bạn bè quả thực
      “Sau đó là gì?” lời nhà triết học còn vang.

      Những thứ nó ước mơ trở thành hiện thực
      Có vợ, có nhà, có con gái, con trai
      Có vườn nho, có vườn rau cải bắp
      Trong số các nhà thơ nó là người thành đạt
      “Sau đó là gì?” còn vang vọng những lời.

      “Công việc đã xong – nó thầm nghĩ bụng –
      Ta muốn một điều như thuở bé con
      Chuyển về số không, cứ cho là ngớ ngẩn
      Bởi ta mang lại một điều lý tưởng”
      Nhưng “sau đó là gì?” lời chiếc bóng còn vang.



      BÀI CA PHỤ NỮ II

      Người đàn ông nào đến
      Nằm ở dưới chân ta
      Thì phận ta đàn bà
      Ta làm cho thỏa mãn.
      Những bông hoa ngát hương
      Ta rắc đầy trên giường
      Xin Chúa Trời độ lượng.

      Tình yêu người khao khát
      Làm mê hoặc tâm hồn
      Tình chỉ yêu thể xác
      Chứ tình không yêu hồn.
      Tình trong tình hai mặt
      Nhưng bản chất một phương
      Xin Chúa Trời độ lượng.

      Tâm hồn cần phải học
      Tình yêu ngự trong lòng
      Tình yêu theo thói thường
      Cao thượng và thú vật
      Nhìn ngắm hay ve vuốt
      Đâu hạnh phúc nhiều hơn?
      Xin Chúa Trời độ lượng.



      BÀI CA PHỤ NỮ III

      Khi em với người gặp gỡ chân tình
      Khi chàng hân hoan dưới bàn chân em
      Với hồn mình em nhớ đừng phụ bạc
      Đừng nghĩ rằng chàng chỉ cần thể xác
      Người phụ nữ khi yêu sẽ biết rằng
      Thân xác so cùng cái ác tồi hơn
      Tình phân chia đều đặn trong danh dự
      Không kém, không hơn cùng chung phận số
      Để cho nụ hôn êm ái của tình
      Không phải như lời con rắn nỉ non
      Hãy đưa bàn tay sờ lên thể xác
      Và thiên thần chốn thiên đàng thổn thức.



      CON TIM PHỤ NỮ

      Căn phòng nhỏ có để làm gì đâu
      Và nguyện cầu, nghỉ ngơi trong tĩnh lặng
      Chàng dẫn tôi đi về miền u ám
      Chúng tôi nằm ngực sát ngực bên nhau.

      Tôi đâu có cần gì mẹ lo âu
      Ngôi nhà đây, nơi này tôi sưởi ấm
      Bóng đen của mái tóc tôi dày rậm
      Giấu hai người khỏi những nỗi buồn đau.

      Giấu trong mái tóc và đôi mắt khát khao
      Tôi chẳng cần cuộc đời hay cái chết
      Con tim chàng và tim tôi hoà nhập
      Chúng tôi hít vào hơi thở của nhau.



      MÔ PHỎNG THƠ HAIKU CỦA NHẬT

      Một điều làm tôi kinh ngạc nhất
      Là tôi đã sống bảy mươi năm.

      (Hoan hô hoa của mùa xuân
      Vì mùa xuân nơi này lại đến).

      Bảy mươi năm tôi đã sống
      Không phải là người nghèo khổ, ăn xin
      Bảy mươi năm tôi đã sống
      Bảy mươi năm, cậu bé rồi đàn ông
      Chưa bao giờ tôi nhảy vì sung sướng.




       
       
       
      ẤN ĐỘ DÀNH CHO TÌNH YÊU

      Một hòn đảo mơ màng dưới bình minh
      Những cành cây êm đềm trong tĩnh lặng
      Chim công múa trên bãi cỏ mịn màng
      Chú vẹt đung đưa nhảy nhót trên cành
      Ngó chằm chặp bóng mình trong nước biển.

      ở nơi này con tàu ta cập bến
      Và ta lang thang tay nắm trong tay
      Môi kề môi trong êm ái thì thào
      Trên cỏ hoa và trên bờ cát trắng
      Rằng cõi muộn phiền ở chốn xa xôi.

      Ta bên nhau, xa cách với cuộc đời
      Ta giấu mình trong cỏ hoa êm ả
      Tình cháy lên bằng ngôi sao ấn Độ
      Ngôi sao băng như lửa của con tim
      Như sóng vỗ bờ, như cánh của chim.

      Bồ câu trắng vờn bay trong rừng rậm
      Một trăm ngày thở than và ai oán:
      Khi ta chết đi bóng ta vẫn nơi này
      Khi những con đường của chim đứt quãng
      Bóng vẫn mơ màng trên sóng nước, trên mây.



      CHỌN LỰA

      Trí tuệ con người dùng cho chọn lựa
      Để hoàn hảo hơn trong công việc, trong đời
      Nếu cho cái đầu tiên, cần chối bỏ
      Những nghĩ suy về cung điện trên trời.

      Có tin tức gì, khi kết thúc câu chuyện
      May mắn hay không ở điểm cuối cùng
      Bối rối nhìn vào hầu bao trống rỗng
      Phù phiếm của ngày, hối hận của đêm.



      CÁI CHẾT

      Không hy vọng, chẳng kinh hoàng
      Loài động vật trong ngày chết
      Còn con người đợi ngày kết thúc
      Với hy vọng và nỗi kinh hoàng.
      Con người chết không chỉ một lần
      Không chỉ một lần ngã xuống
      Rồi lại đứng lên kiêu hãnh
      Vững vàng trong cuộc đấu tranh
      Khó khăn, gian khổ coi thường
      Hơi thở căng đầy trong ngực
      Với cái chết đã từng quen
      Con người tạo nên cái chết.



      BÀI HÁT RU

      Thiên thần đang bay xuống
      Trên chiếc giường của con
      Thiên thần giờ đã chán
      Lời người chết thở than.

      Chúa nhìn con hạnh phúc
      Mỉm cười từ trên trời
      Bảy người bơi trong nước
      Đang cầu nguyện cho Ngài.

      Mẹ âu ếm hôn con
      Thở dài trong lặng lẽ
      Mai này mẹ sẽ buồn
      Khi mà con khôn lớn.



      KHÔN LÊN THEO THỜI GIAN

      Dù lá có nhiều nhưng cây chỉ một
      Ngày tháng dù nhiều – tuổi trẻ của tôi
      Như lá, như hoa ở dưới mặt trời
      Chỉ bây giờ mới hiểu ra sự thật.



      Wystan Hugh Auden viết về Yeats:

      Tưởng nhớ W. B. Yeats
      (Mất tháng giêng năm 1939)

      Anh ra đi giữa băng giá mùa đông
      Sông đóng băng, những phi trường hoang vắng
      Tuyết trắng rơi, phủ đầy lên bức tượng
      Rót xuống miệng của ngày một giọt thủy ngân
      Dường như mọi thiết bị đo đếm cũng đồng tình
      Ngày anh ra đi tối tăm và giá lạnh.

      Cách xa những ngày đau ốm của anh
      Chó sói hãy còn chạy giữa rừng xanh.
      Dòng sông quê không còn mê bờ đẹp
      Và ngôn ngữ của đám tang
      Ngăn cách thơ anh và cái chết.

      Nhưng với anh, ngày cuối, như chính anh
      Ngày của tin đồn và những cô y tá
      Đặt lên thi thể vẻ không yên
      Và hoang vu cả quãng trường lý trí.
      Vùng ngoại ô bao trùm lên lặng lẽ
      Những cảm giác dường như lặng ngừng
      Anh trở thành người cho đời ngưỡng mộ.

      Và bây giờ lan tỏa trong hàng trăm thành phố
      Anh mang cho những cảm giác không quen
      Để hạnh phúc trong cõi khác
      Và xử phạt theo bộ luật của lương tâm
      Lời của người đã chết
      Cùng với người đang sống ở trần gian.

      Nhưng sự quan trọng của ngày mai trong tiếng ồn
      Nơi những người môi giới om sòm trên sàn chứng khoán
      Nơi những kẻ nghèo khổ sở vì nghèo túng
      Và mỗi người đều có tự do của mình
      Nhưng cái ngày này không một ai hờ hững
      Như ý nghĩ về một ngày không bình thường
      Dường như mọi thiết bị đo đếm cũng đồng tình
      Ngày anh ra đi tối tăm và giá lạnh.
      #18
        Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 18 trên tổng số 18 bài trong đề mục
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9