Các nhà thơ Mỹ
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 22 bài trong đề mục
cacbac 18.12.2007 18:52:12 (permalink)


Emily Elizabeth Dickinson (12 /10 /1830 – 15 /5 /1886) – nhà thơ Mỹ, cùng với Walt Whitman, Emily Dickinson là nhà thơ đặc sắc nhất của Mỹ thế kỉ XIX.

Tiểu sử:
Emily Dickinson sinh ở Amherst, Massachusetts. Học xong trường College, Emily Dickinson sống một cuộc sống thu mình, hầu như không ra khỏi nhà. Việc làm thơ của bà cũng không một ai biết. Những bài thơ đầu tiên của bà được in năm 1890 nhưng không mấy ai để ý. Tuyển tập thơ đầu tiên chỉ được in ra vào năm 1955. Thế kỷ XX, Emily Dickinson được thừa nhận là một nhà thơ lớn của nước Mỹ. Bà là người đầu tiên trong thơ Mỹ sử dụng lối thơ hai câu liền vần (para-rhyme). Emily Dickinson để lại cho đời gần 2000 bài thơ. Những bài thơ nho nhỏ nhưng được đáng giá là đầy ắp những ý tưởng mới lạ và độc đáo. Thơ của Emily Dickison được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt.

Tác phẩm:
*Dickinson, Emily (2006). Emily Dickinson's Herbarium. Cambridge, Mass.: Belknap Press of Harvard University Press.
*Farr, Judith; Louise Carter (2004). The Gardens of Emily Dickinson. Cambridge, Mass.; London: Harvard University Press.





47

Nào, con tim! Về người ấy đêm này
Ta và mi hãy cùng quên lãng.
Ta sẽ quên nguồn sáng
Còn mi – nồng ấm, mê say.

Khi quên rồi, mi hãy nói cho ta
Để ta, sẽ bắt đầu tim nhé
Chứ bây giờ mi lần lữa
Thì ta vẫn cứ nhớ về.

137

Yêu nước – những ai trong cơn khát
Quí đất – người đang giữa đại dương
Vui vẻ, hân hoan chỉ biết đến khi buồn
Ai đang chiến đấu – kẻ yêu hoà bình nhất.
Còn ta yêu – là khi tình đã mất
Khi tuyết trắng trời ta lại nhớ về chim.

224

Em chẳng có gì mới mẻ với anh đâu
Bởi biết bao ngày ta đã sống
Bởi đêm vẫn gìn giữ những vì sao
Mà mắt ta đã quen nhìn ngắm.

Có thể không từng để ý hai ta
Nhưng nếu mà không có chúng
Thì đường trở về nhà
Tìm ra ta đã chẳng.

686

Nghe rằng: “Thời gian làm lành hẳn”
Thời gian không chữa khỏi bao giờ.
Nỗi đau giống như bắp cơ
Càng săn chắc theo năm tháng.

Nhưng thời gian sẽ kiểm tra
Qua khổ đau có còn lành lặn
Nghĩa là, ta buồn lo cho phí uổng
Nghĩa là ta chưa đau khổ bao giờ.

887

Ta chăm chút tình yêu giống như áo quần
Và sau đó ta đem cất vào tủ
Cho đến một khi chưa thành đồ cổ
Thì ta lấy ra từ đó và mang.


#1
    cacbac 18.12.2007 18:57:50 (permalink)


    Robert Lee Frost (26 tháng ba năm 1874 – 29 tháng 2 năm 1963) – nhà thơ Mỹ bốn lần đoạt giải Pulitzer (1924, 1931, 1937, 1943).

    Tiểu sử:
    Robert Frost sinh ở San Francisco. Bố mất năm R. Frost lên 11 tuổi. Gia đình chuyển về Massachusetts, Frost học tiểu học ở Lawrence. Năm 1892 học Dartmouth College, các năm 1897-1899 học Đại học Harvard. Năm 1912 cả gia đình chuyển sang Anh, đầu tiên ở Glasgow, sau chuyển về Beaconsfield gần London. Thời gian này R. Frost in tập thơ đầu tiên A Boy's Will (Ước muốn của chàng trai, 1913). Tập thơ thứ hai North of Boston (Phía Bắc Boston được độc giả và giới phê bình đánh giá cao.

    Năm 1915 Frost quay trở về Mỹ tậu trang trại ở Franconia, New Hampshire nhưng cuộc sống vẫn khó khăn, phải đi dạy thêm ở các trường Đại học và đọc thơ ở các câu lạc bộ. Tập thơ New Hampshire, 1923 mang lại cho R. Frost giải thưởng Pulitzer đầu tiкn năm 1924. Tập Colleted Poems (Tuyển tập thơ, 1930) được tặng giải Pulitzer thứ hai. Hai tập A Further Range (Về phía xa, 1936) và A Witness Tree (Cây làm chứng, 1942) mang lại thêm hai giải Pulitzer. Tập thơ cuối cùng In the Clearing (Trong rừng thưa, 1962) bao gồm những bài thơ hay không kém những tập đầu tiên. Tổng thống John Kennedy đã mời R. Frost đọc thơ trong ngày nhậm chức của mình. Năm 1962 R. Frost sang thăm Liên Xô. Ông mất ở Boston.

    Tác phẩm:
    *A Boy's Will (Ước muốn của chàng trai, 1913)
    *North of Boston (Phía Bắc Boston, 1914)
    *Mountain Interva (Giữa núi đồi, 1916)
    *Selected Poems, 1923
    *West-Running Brook (Con suối phía tây, 1928)
    *Selected Poems, 1928
    *Colleted Poems (Tuyển tập thơ, 1930)
    *Collected Poems of Robert Frost, 1930
    *A Witness Tree (Cây làm chứng, 1942)
    *Masque of Reason (Mặt nạ của lý trí, 1945)
    *Masque of Mercy (Mặt nạ của lòng nhân từ, 1947)
    *Complete Poems of Robert Frost, 1951
    *In the Clearing (Trong rừng thưa, 1962)
    *The Poetry of Robert Frost, (New York, 1969).



    TÌNH YÊU VÀ MỘT CÂU HỎI

    Người xa lạ gõ cửa trong chiều vắng
    Đấy – ngôi nhà của một đôi uyên ương.
    Cây gậy của người có màu trắng và xanh
    Còn trong lòng một nỗi lo đè nặng.
    Người xa lạ bằng mắt nhiều hơn miệng
    Hỏi chàng rể cho nghỉ lại đêm này
    Đôi mắt người nhìn con đường xa xôi
    Những ánh lửa khắp nơi đều tắt ngấm.

    Và chàng rể liền bước ra ngoài cổng:
    “Ta hãy cùng nhau ngó vào bầu trời
    Có một câu hỏi cho anh và tôi
    Mà bầu trời đêm hãy còn giấu kín”.
    Những chiếc lá của kim ngân rụng xuống
    Quả mọng kim ngân đang thẫm màu xanh
    Ngọn gió mùa thu như gió mùa đông
    “Người xa lạ, tôi đây mong biết lắm”.

    Cô dâu một mình trong nhà im lặng
    Khát khao như bếp lửa trước mặt nàng
    Bếp lửa làm cho đôi má thêm hồng
    Và ý nghĩ - trong tim đầy ước muốn.

    Chàng rể ngó nhìn con đường xa vắng
    Nhưng nghĩ suy chỉ quanh quẩn bên nàng
    Mong giữ trái tim yêu trong lồng vàng
    Và chốt bạc đem chốt ngoài cửa đóng.

    Chàng rể nghĩ rằng hãy còn ít lắm
    Chia sẻ bánh mỳ, chia sẻ hầu bao
    Thành tâm cầu Chúa giúp cho người nghèo
    Hay trừng phạt kẻ giàu cho đích đáng.

    Và liệu có phải đấy là số phận
    Khách đến mang hạnh phúc cho hai người
    Hay tai họa sẽ đổ xuống đêm nay
    Thì câu trả lời chàng mong biết lắm.




    ĐỒNG CỎ

    Tôi ra đi dọn đồng cỏ mùa xuân
    Trên đồng cỏ tôi sẽ cào lá rụng
    Và đồng cỏ sạch sẽ, tôi ngắm nhìn
    Rồi tôi sẽ quay về. – Em hãy đến.

    Tôi ra đi giúp cho con bê non
    Đứng bên mẹ. Bê hãy còn bé lắm
    Bước chân bê chao đảo, chưa vững vàng
    Rồi tôi sẽ quay về. – Em hãy đến.


    NGỌN GIÓ VÀ BÔNG HOA TRÊN CỬA SỔ

    Người đang yêu, xin hãy tạm quên tình
    Và bạn hãy lắng nghe câu chuyện kể:
    Nàng – là bông hoa trên cửa sổ
    Còn chàng – cơn gió lạnh mùa đông.

    Gió để ý và nhìn thấy hoa hồng
    Khi mặt trời mùa đông xuất hiện
    Ánh mặt trời làm tan băng trên kính.
    Và chim oanh đã thức dậy trong lồng
    Gió nhìn thấy bông hoa trong cửa sổ
    Nhưng gió không biết được phải làm gì
    Nhìn thấy hoa rồi gió đã bay đi
    Để đêm khuya lại quay về nơi đó.

    Bởi vì gió chỉ là cơn gió
    Đã đành, cơn gió lạnh mùa đông
    Chỉ biết vùi đầu trong tuyết miên man…
    Không hay biết tình yêu là gì cả.

    Nhưng dù sao ngọn gió cứ thấy buồn
    Ngọn gió lung lay khung cửa sổ
    Để cho hoa hồng không thể ngủ
    Khi nơi này ngọn gió đến trong đêm.
    Để biết đâu, bông hoa sẽ xiêu lòng
    Rồi cùng gió biến vào đêm vắng
    Về cái nơi dịu êm và tĩnh lặng
    Nơi có bàn có bếp lửa và gương.

    Nhưng bông hoa đã không nói không rằng
    Biết lấy gì để đáp lời ngọn gió
    Và trăm ngàn dặm cách xa, sau đó
    Ngọn gió sang ngày gặp buổi bình minh.


    LỬA VÀ BĂNG GIÁ

    Ai đấy nói rằng thế gian sẽ chìm trong lửa
    Ai đấy nói rằng ngày tận thế trong băng.
    Còn tôi thì tôi chỉ mong
    Như người nói rằng thế gian chìm trong lửa.
    Nhưng nếu phải chịu cả hai điều tai họa
    Tôi nghĩ sẽ nhận thức ra được sự thù hằn
    Và để phá tan băng giá vĩnh hằng
    Thì cũng tốt
    Không sao cả.

    #2
      cacbac 18.12.2007 19:20:27 (permalink)


      Henry Wadsworth Longfellow (27 /2 /1807 – 24 /3 /1882) – nhà thơ Mỹ, tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng: “Bài ca về Hiawatha”, “Bản thánh ca của cuộc đời”, “Excelsior”… Ông cũng là tác giả của bản dịch Thần khúc ra tiếng Anh hay nhất.

      Tiểu sử:
      Henry Wadsworth Longfellow sinh ở Portland, Maine. Năm 1825 học xong Bowdoin College được mời làm giáo sư dạy các ngôn ngữ mới. Chuẩn bị cho công việc này, ông lên đường sang châu Âu, đến các nước Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Đức học tiếng và nghiên cứu về văn hoá, lịch sử của các nước này. Từ năm 1829-1835 dạy ở Bowdoin College. Năm 1831 cưới vợ và xuất bản tập thơ Outre-Mer (Ở nước ngoài). Năm 1835, Đại học Harvard mời ông dạy các ngôn ngữ mới và ông lại lên đường sang châu Âu du lịch. Vợ ông mất trong thời kỳ này, ông một mình trở về Mỹ năm 1836, dạy ở Đại học Harvard đến năm 1854.

      Tập thơ đầu tiên Voices of the Night (Giọng của đêm, 1839) có bài thơ Bản thánh ca của cuộc đời làm cho Longfellow trở thành nhà thơ nổi tiếng trong tất cả mọi tầng lớp của xã hội. Tập thơ Ballads and Other Poems (Những bài Ballad và những bài thơ khác, 1842) có bài thơ Excelsior cũng là một bài thơ rất nổi tiếng. Năm 1843 ông cưới vợ lần thứ hai và tiếp tục sáng tác nhiều. Năm 1861 vợ thứ hai của ông lại qua đời, Longfellow rất buồn và đau khổ nhưng vẫn sáng tác đều. Ông bỏ ra nhiều năm dể dịch trọn vẹn bộ “Thần khúc” của Dante ra tiếng Anh, được dánh giá là bản dịch tốt nhất trong số rất nhiều bản dịch ra tiếng Anh. Những năm cuối đời ông bị bệnh khớp nhưng vẫn luôn thoải mái tâm hồn và vẫn làm việc nhiều. Ông mất ở Cambridge, Massachusetts năm 1882.
       
      Henry Wadsworth Longfellow là nhà thơ rất nổi tiếng không chỉ ở Mỹ mà cả ở nước ngoài nhưng ở Việt Nam mới chỉ có một số bài thơ của Longfellow được dịch ra tiếng Việt.

      Tác phẩm:
      *Coplas de Don Jorge Manrique (Bản dịch từ tiếng Tây Ban Nha, 1833)
      *Outre-Mer: A Pilgrimage Beyond the Sea (Ở nước ngoài: Chuyến hành hương qua biển, 1835)
      *Voices of the Night: Ballads; and other Poems (Giọng của đêm, 1839)
      *Ballads and Other Poems (Những bài Ballad và những bài thơ khác, 1842)
      *The Spanish Student (Sinh viên Tây Ban Nha, kịch 3 hồi, 1843)
      *Poets and Poetry of Europe (Các nhà thơ và thơ ca châu Âu, bản dịch, 1844)
      *Evangeline: A Tale of Acadie (Câu chuyện Acadie, trường ca sử thi, 1847)
      *The Golden Legend (Truyền thuyết vàng, bi kịch thơ, 1851)
      *The Song of Hiawatha (Bài ca về Hiawatha, trường ca sử thi, 1855)
      *The Courtship of Miles Standish and Other Poems (Lời tỏ tình của Miles Standish, 1858)
      *Tales of a Wayside Inn (Poetry)(1863)
      *Dante's Divine Comedy (Thần khúc của Dante, dịch, 1867)
      *The New England Tragedies (Những bi kịch nước Anh mới, 1868)
      *Three Books of Song (Ba quyển sách bài ca, 1872)





      MEZZO CAMMIN

      Đến nửa đường đời, tôi để mất dấu vết
      Của tháng ngày qua. Xúc cảm ở đâu rồi
      Đâu khát khao thời tuổi trẻ, để xây
      Một lâu đài của bài ca cao vút.

      Đâu phải biếng lười và phải đâu hạnh phúc
      Đâu mê say, yêu tha thiết nồng nàn
      Nhưng nỗi buồn có lẽ tự lúc sinh
      Là lo lắng, là tai ương, chết chóc.

      Từ nửa đường lên đồi, tôi nhìn thấy
      Quá khứ dưới chân, tất cả tối mù
      Và thành phố mịt mờ trong lửa khói

      Chỉ tiếng kêu than, niềm vui chẳng thấy
      Nghe trên đầu tôi, trong ngọn gió thu
      Dòng thác Chết ầm ầm trên cao ấy*.
      _____________
      *Đây là bài Sonnet tự thuật viết năm 1842, khi nhà thơ tròn 35 tuổi – một nửa đường đời theo Dante. Tên gọi của bài thơ trích từ dòng thơ đầu của “Thần khúc”: “Nel mezzo del cammin di nostra vita…”(Con đường đời tôi đã đi đến nửa… - bản dịch của Hồ Thượng Tuy). Mezzo cammin – nửa đường, nghĩa là nửa đường đời.





      CAO HƠN*

      Trên con đường bóng đêm và băng giá
      Một chàng trai đi lên núi An-pơ
      Mặc tuyết rơi, trong tay một lá cờ
      Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
      Cao hơn!

      Vầng trán mang nét buồn vì suy nghĩ
      Nhưng ánh mắt sắc như một lưỡi gươm
      Và nghe như tiếng kèn bạc vang lên
      Một ngôn ngữ không ai hay biết cả:
      Cao hơn!

      Những ánh đèn trong những nhà hạnh phúc
      Bếp lửa gia đình ấm áp gọi mời
      Nhưng bóng ma và băng giá ngoài trời
      Bờ môi chàng như thì thào: cứ mặc
      Cao hơn!

      Một ông già bảo chàng: “Không đi được!
      Nơi ấy bóng đêm, tuyết lở, sông băng
      Chảy cuồn cuộn và rộng lớn mênh mông!”
      Nhưng lại vẫn câu trả lời dứt khoát:
      Cao hơn!

      Cô gái gọi: “Em xin chàng dừng bước
      Hãy áp mái đầu trên ngực của em!”
      Trong đôi mắt chàng ánh sáng màu xanh
      Nhưng câu đáp lại như lời thổn thức:
      Cao hơn!

      “Hãy coi chừng những cành thông khô đấy!
      Và sông băng, tuyết lở hãy coi chừng!”
      Một người nông dân kêu lên với chàng
      Nhưng giọng trả lời từ trên cao ấy:
      Cao hơn!

      Ở đèo Sait-Bernard chàng gặp nạn
      Khi đi lên cao, vào buổi cầu kinh
      Những lời cầu nguyện dường như lặng ngừng
      Một giọng nói giữa không trung vang vọng:
      Cao hơn!

      Xác kẻ du hành vùi trong tuyết phủ
      Chỉ chó tìm ra sau một thời gian
      Vẫn lá cờ nguyên vẹn trong tay chàng
      Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
      Cao hơn!

      Giờ ở đó, giữa lạnh lùng màu xám
      Chàng yên giấc với vẻ đẹp tuyệt vời
      Từ bầu trời sáng sủa và xa xôi
      Một giọng nói như ngôi sao rụng xuống:
      Cao hơn!
      _________
      *Bài thơ này lần đầu in trong tập “Ballads and Other Poems” năm 1842 nổi tiếng như một lời tuyên ngôn vì những lý tưởng cao cả. Sau đó, bài thơ này trở thành đối tượng của vô vàn những bài thơ phóng tác và nhại theo nó.
      Excelsior! (tiếng Latinh) – Cao hơn! (Cao hơn nữa!). Trên biểu tượng của bang New York có dòng chữ này.





      BẢN THÁNH CA CỦA CUỘC ĐỜI

      Xin đừng nói bằng một giọng u buồn
      Rằng cuộc đời là một giấc mơ suông!
      Linh hồn chết là linh hồn thiu ngủ
      Nghĩa sâu xa của đời sống còn không.

      Đời là thực! Đời là một chiến công
      Thân mất đi nhưng linh hồn còn mãi
      “Thân cát bụi lại trở về cát bụi”
      Lời trên đây không phải nói về hồn.

      Không buồn khổ và cũng không hưởng lạc
      Mà mục tiêu ta sống ở đời này
      Vì ngày mai đẹp hơn ngày hôm nay
      Cuộc đời giục ta đi về phía trước.

      Nghệ thuật dài lâu, thời gian có ít
      Đừng để mất trong đó một điều gì
      Hãy nhớ rằng tiếng kèn của đám ma
      Là tiếng tim ta liên hồi đang đập.

      Trong cuộc sống nhiều chông gai thử thách
      Và cuộc đời riêng ngắn ngủi, tầm thường
      Chớ làm một kẻ nô lệ đáng thương
      Mà anh hùng, thử thách qua trận mạc.

      Đừng than khóc điều gì trong quá khứ
      Hay ước ao gì đó ở tương lai
      Mà hãy hành động vì ngày hôm nay
      Tin sức mình, và chỉ tin ở Chúa.

      Những chiến công của bao người vĩ đại
      Thúc giục ta đi tiếp một con đường
      Mà rồi đây trên cát của thời gian
      Dấu chân mình, biết đâu, ta để lại.

      Dấu chân ấy một ngày mai có thể
      Giúp được những người lầm lạc đau thương
      Nhìn thấy giấu chân họ sẽ vững lòng
      Và khơi dậy niềm phấn khích trong họ.

      Vậy thì chúng ta đứng lên hành động
      Hãy tận tâm với công việc hết mình
      Biết học hỏi trong lao động quang vinh
      Và đợi chờ một ngày vui sẽ đến.


      MŨI TÊN VÀ BÀI CA

      Tôi phóng lên trời một mũi tên
      Mũi tên rơi nơi nào không biết được
      Thật uổng phí ánh mắt tôi dõi nhìn
      Lao vút nhanh rồi mũi tên mất hút.

      Và tôi thả bài ca vào trời xanh
      Không biết được lời bay đi đâu đó
      Có ai thấy, có ai biết được rằng
      ở nơi nào bài ca trong ngọn gió.

      Mãi sau đó rất lâu, trên cây sồi
      Tôi tìm thấy mũi tên còn nguyên vẹn
      Và bài ca vẫn đầy đủ những lời
      Tôi tìm thấy trong con tim người bạn.
      #3
        cacbac 18.12.2007 19:30:30 (permalink)


        Walt Whitman (31/5/1819 – 26/3/1892) – nhà thơ, nhà báo, nhà nhân văn, nhà cải cách thơ Mỹ, tác giả của tập thơ Lá cỏ nổi tiếng thế giới.

        Tiểu sử
        Walt Whitman sinh ở West Hills, Long Island, là con thứ hai trong chín đứa con của Walter và Louisa Van Velsor Whitman. Bố làm nghề thợ mộc, được ông nội chia cho một phần đất xây nhà, nay vẫn còn được lưu giữ như là “nơi sinh của Walt Whitman”. Mẹ là con gái của một người chăn nuôi gốc Hà Lan nhưng họ hàng trước đó đều là những người đi biển. Năm Whitman lên 4 tuổi, gia đình chuyển về Brooklyn, tại đây bắt đầu đến trường. Cũng trong thời gian này bắt đầu làm quen với nghề xuất bản, in ấn và bắt đầu thích viết. Từ năm 16 đến 21 tuổi làm nghề dạy học và viết loạt bài Sun-Down Papers from the Desk of a Schoolmaster (Những ghi chép từ chiếc bàn thầy giáo buổi hoàng hôn). Năm 1841 thôi nghề dạy học, trở về New York City làm ở nhà in. Năm 1842 biên tập cho báo New York Aurora nhưng chỉ sau một thời gian ngắn phải chuyển sang làm với các tờ báo khác vì những bài viết phê phán tư bản bóc lột thợ thuyền. Thời gian này Whitman bắt đầu dành nhiều thời gian cho thơ ca.
        Những năm 1852-1854 làm nghề thầu xây dựng. Đầu năm 1855 bắt đầu chuẩn bị tập thơ Leaves of Grass (Lá cỏ). Do không tìm được nhà tài trợ, Whitman tự bỏ tiền túi và chế bản một phần cuốn sách. Tập thơ in lần đầu này gồm 12 bài thơ và một bài mở đầu, sau này có tên gọi Song of Myself (Hát về mình). Thay vì đề tên tác giả ở trang bìa, Walt Whitman in chân dung của mình mặc áo trắng, quần công nhân và đội mũ ống. Trong bài mở đầu nhà thơ tự giới thiệu “Walt Whitman, người Manhattan”, bắt đầu bằng “I celebrate myself, and sing myself”. Chủ đề xuyên suốt của tập thơ là ý nghĩa của đời sống con người trong mối liên hệ giữa tâm hồn và thể xác, giữa thần thánh và người trần mắt thịt, sự tiến hóa của những hình thái cuộc sống, sự bình đẳng giữa mọi sinh linh và cuộc phiêu lãng muôn thuở của linh hồn trong quá trình sinh, tử và hồi sinh lại. Tập thơ ra đời không được đón chào như tác giả mong đợi, giới phê bình coi đó là những vần thơ “thông tục, tầm thường”.. Tuy vậy “Lá cỏ” ngay lập tức được Ralph Waldo Emerson, là người lúc đó đã rất nổi tiếng, đánh giá cao. Ralph Waldo Emerson gửi thư khen ngợi và động viên Walt Whitman. Năm 1856 in lại lần thứ hai có bổ sung thêm những bài thơ mới khác cùng với bức thư của Ralph Waldo Emerson. Và sau đó được bổ sung, in lại rất nhiều lần, chỉ tính thời Walt Whitman còn sống đã được in lại 6 lần. Tập thơ “Lá cỏ” là tác phẩm thơ duy nhất thể hiện vẻ muôn mặt của đời sống nước Mỹ và đề cao tư tưởng dân chủ. Thế kỷ XX, “Lá cỏ” được thừa nhận là một trong những sự kiện văn học quan trọng nhất, đã làm một cuộc cách mạng trong thi ca, với sự ra đời của một thể thơ mới – thơ tự do, mà Walt Whitman là người khởi xướng.

        Thơ của Walt Whitman có sự ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ lớn của thế giới như: T. S. Eliot, Ezra Pound, Galway Kinnell, Langston Hughes, William Carlos Williams, Pablo Neruda, Arthur Rimbaud, Federico García Lorca, Fernando Pessoa, Vladimir Mayakovsky…

        Tác phẩm:
        *Leaves of Grass, 1855 - 95 trang; 12 bài thơ
        *Leaves of Grass, 1856 – 32 bài thơ
        *Leaves of Grass, 1860 –456 trang; 178 bài thơ
        *Drum-Taps, 1865
        *Leaves of Grass, 1867 - 6 bài thơ mới
        *Leaves of Grass, 1871–72 thêm 120 trang
        *Memoranda During the War, 1875
        *Leaves of Grass, 1881–82 - thêm 17 bài thơ mới, bớt 39 bài khác
        *Leaves of Grass, 1891–92
        *Walt Whitman, Poetry and Prose (Justin Kaplan, ed.)
        *Walt Whitman: Selected Poems, American Poets Project (Harold Bloom, ed.)



        Song of Myself (Hát về mình)

        1
        Tôi ca tụng mình, tôi hát về mình
        Và cái tôi nhận về thì quí vị cũng nhận về mình như thế
        Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về quí vị.

        Tôi là người lữ thứ, tôi gọi hồn tôi về
        Tôi, kẻ vô công rồi nghề, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè.

        Lưỡi tôi, mỗi nguyên tử trong máu tôi là từ đất đai, từ không khí này
        Sinh ra từ cha mẹ ở đây, và họ cũng sinh ra ở đây
        Năm này tôi 37, cái tuổi tràn trề sinh lực
        Và hy vọng sẽ không ngừng cho đến ngày tôi chết.

        Những giáo điều và những trường học sẽ trống không
        Cứ để cho quay lại một thời gian, chúng tốt đẹp ở nơi cần, nhưng ta sẽ không quên
        Tôi tiếp nhận Tự nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc
        Nói hết mọi điều với sức lực buổi đầu tiên.

        7
        Ai đấy nghĩ rằng sinh ra trên đời này là hạnh phúc?
        Tôi vội vàng nói với người này (anh hoặc chị) rằng chết cũng là hạnh phúc, tôi biết điều này.

        Tôi chết cùng với người đang chết và sinh ra cùng đứa bé vừa sinh, tôi ở giữa mũ và giày
        Tôi nhìn thấy những vật khác nhau, không cái nào giống cái nào, mọi thứ đều tốt đẹp
        Mặt đất tốt, những ngôi sao cũng tốt và những thứ phụ thuộc vào cũng tốt.

        Tôi không phải là đất mà cũng chẳng phải là những thứ phụ thuộc của đất đai
        Tôi là đồng chí, là bạn của mọi người, họ cũng là những người bất tử như tôi
        (Họ không biết rằng họ bất tử nhưng tôi biết.)

        Mọi thứ đều tồn tại tự thân và vì những cái của mình, với tôi là những gì thuộc về đàn ông và phụ nữ
        Với tôi, đấy là những chàng trai, những người biết yêu thương phụ nữ
        Với tôi, đấy là những người đàn ông kiêu hãnh, biết không để ai xúc phạm điều gì
        Với tôi, đấy là người tình và cô gái già quá lứa, là những người mẹ, những cụ bà
        Với tôi, đấy là những bờ môi hay cười, những đôi mắt nhiều khi rơi lệ
        Với tôi, đấy là con trẻ và những người sinh ra con trẻ.

        Hãy buông tấm màn trang trí! Quí vị chẳng có gì sai trái với tôi, không có ai là người xưa cũ, bị thải hồi
        Tôi nhìn xuyên qua vải bông kẻ, vải len mỏng khổ đôi
        Tôi có mặt ở khắp nơi, giữa những người kiên trì, những người biết tiếp thu, những người đầy sinh lực, và quí vị không thể nào xa tôi được.

        17
        Đây quả thực là ý nghĩ của tất cả mọi người, sống ở mọi thời, mọi xứ sở chứ không chỉ của riêng tôi
        Nếu những ý nghĩ này không phải là của bạn, mà chỉ của tôi, thì chúng không đáng kể gì hoặc gần như là như thế
        Nếu chúng không phải là điều bí ẩn và không phải là lời giải điều bí ẩn thì cũng chẳng đáng gì hết cả
        Nếu chúng không ở thật gần mà không ở thật xa thì chúng cũng chẳng đáng gì.

        Đấy là cỏ, cỏ mọc khắp nơi, ở nơi nào có đất và nước
        Đấy là không khí cho tất cả mọi người trên mặt đất.

        ***



        Đêm bên bờ biển một mình

        Đêm bên bờ biển một mình
        Biển như bà mẹ già giọng khàn khàn hát ru mặt đất
        Còn tôi nhìn những ngôi sao sáng, nghĩ về mạch nguồn của vũ trụ, tương lai.

        Khoảng rộng bao la bao trùm lấy muôn loài
        Mọi tinh cầu, bé và to, thấy và không, mặt trời, mặt trăng và những vì tinh tú
        Mọi khoảng cách của thời gian, vô vàn hình thái
        Mọi linh hồn, mọi cơ thể sống trong sự khác nhau và trong những thế giới khác nhau
        Mọi thể khí, lỏng, khoáng, thực vật, gia súc và cá
        Mọi dân tộc, sắc màu, sự dã man, văn minh và ngôn ngữ.
        Mọi cá tính đã từng tồn tại hoặc có thể đã từng tồn tại ở hành tinh khác hoặc hành tinh này
        Mọi cuộc sống, cái chết, tất cả đều ở trong quá khứ, hiện tại, tương lai
        Khoảng rộng bao la tất cả bao trùm và bao giờ cũng thế
        Và mãi mãi vẫn bao trùm và giữ lấy cho mình.

        Khi tôi đọc cuốn sách

        Khi tôi đọc cuốn sách, là tiểu sử của người nổi tiếng
        Cuốn sách này (tôi nói), có phải tác giả gọi ra đời sống con người?
        Vậy thì khi tôi chết, ai đấy cũng sẽ viết về cuộc đời của tôi?
        (Có vẻ như người này biết về cuộc đời tôi rất giỏi
        Không, tôi nghĩ rằng cuộc đời thực của mình, tôi cũng không biết nổi
        Chẳng qua chỉ là những câu ám chỉ bóng gió mà thôi
        Những thứ mà tôi vẫn đi tìm cho mình để đánh dấu ở đây.)
        #4
          cacbac 18.12.2007 19:36:35 (permalink)


          Irwin Allen Ginsberg (3/6/1926 – 5 /4/1997) – nhà thơ Mỹ, tác giả của bài thơ Tiếng tru (Howl) nổi tiếng thế giới, là một trong những thủ lĩnh của “Thế hệ Beat” những năm 60, thế kỉ XX.

          Tiểu sử:
          Allen Ginsberg sinh tại Newark, New Jersey, là con của Naomi Levi Ginsberg, một phụ nữ Nga gốc Do Thái và Louis Ginsberg, một nhà thơ có uy tín ở địa phương. Allen Ginsberg học Đại học Columbia. Bước ngoặt trong đời chàng sinh viên đang mơ ước trở thành luật gia chuyên về luật lao động là khi ông gặp Jack Kerouack và Williams S. Burroughs, những nhà văn về sau sẽ trở thành nòng cốt của phong trào Beat. Tốt nghiệp đại học năm 1948, ông làm rất nhiều nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị... Năm 1950 Allen Ginsberg đến San Francisco, ở đó ông gặp các nhà thơ Kenneth Rexroth, Gary Snyder, Lawrence Ferlinghetti.
          Ngày 13 tháng 10 năm 1955, Ginsberg đọc bài thơ dài Tiếng tru (Howl) tại Gallery Six ở San Fransisco trước một cử tọa cuồng nhiệt. Bài thơ được Hiệu sách City Lights (Đèn Thành phố) của Ferlinghetti xuất bản năm 1956, đã bị ra tòa với tội danh “văn hóa phẩm bẩn thỉu”, nhưng kết quả là trắng án. Bài thơ này được dịch ra 23 thứ tiếng trên thế giới. Howl và những bài thơ sau đó của Ginsberg thể hiện sự ảnh hưởng của thơ cổ Ấn Độ, các nhà thơ siêu thực Pháp, nhà thơ Anh thế kỷ XIX William Blake và các nhà thơ Mỹ Walt Whitman, William Carlos Williams…
          Ginsberg đã làm thay đổi giọng thơ Mỹ và trở thành bộ mặt trung tâm của trào lưu phản - văn hóa những năm 60. Trong thời nhiễu loạn ấy giới trẻ Mỹ đã coi ông như người dẫn đường tinh thần, một Đạo sư của những kẻ “rời bỏ”. Ông cũng tham gia những cuộc phản đối chính trị và đưa tinh thần ấy vào thơ (đòi quyền tự do, quyền của những kẻ yếu - nhất là những người đồng tính luyến ái, chống nhà nước cảnh sát Mỹ, chống chiến tranh Việt Nam và bom hạt nhân),
          Allen Ginsberg đã được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Ông mất tại New York City vì bệnh ung thư gan.

          Tác phẩm:
          *Howl and Other Poems (Tiếng tru và những bài thơ khác, 1956)
          *Empty Mirror: Early Poems (1961),
          *Kaddish and Other Poems (Kaddish và những bài thơ khác, 1961)
          *Reality Sandwiches (Thực tế cô đọng, 1963)
          *Wichita Vortex Sutra (1966)
          *T. V. Baby Poems (1967)
          *Planet News (Tin tức của hành tinh, 1968)
          *The Fall of America (Sự sụp đổ của nước Mỹ, 1972)
          *The Fall of America: Poems of these States (1973)
          *Mind Breaths: Poems 1971 - 1976 (1978)
          *Plutonian Ode: Poems 1977 - 1980 (1982)
          *Many Loves (1984)
          *Cosmopolitan Greetings: Poems, 1986 - 1992 (1994)
          *Collected Poems 1947–1980 (1984)
          *Selected Poems: 1947–1995 (1996)



          SIÊU THỊ Ở CALIFORLIA

          Tôi nghĩ gì về ông đêm nay, Walt Whitman, khi đi theo những đường phố nhỏ dưới hàng cây, ngắm trăng tròn mà đầu đau nhức nhối.
          Mệt và đói, tôi đi mua hình ảnh cho mình, ghé vào siêu thị trái cây sáng đèn nê-ông, tôi mơ màng về những điều thơ ông nói!
          Những trái đào và những vùng nửa tối! Những gia đình cả nhà đi mua sắm ban đêm! Những lối đi đầy các ông chồng! Những bà vợ bên đống lê, những đứa bé bên đống cà chua! – còn ông, Garcia Lorca, ông đang làm gì dưới kia, bên những quả dưa hấu vậy?
          Tôi thấy ông, Walt Whitman, không con cái, bợm nhậu già cô đơn đang sờ những tảng thịt trong tủ băng và đang ngó nhìn những chú bán hàng tạp hóa.
          Tôi nghe những lời ông hỏi: Ai giết thịt heo? Giá chuối bao nhiêu? Cậu có phải Thiên thần của tớ?
          Tôi đi theo ông, lang thang giữa những dãy lon sáng lóa mà cứ ngỡ như đang dõi theo bước chân tôi những thiết bị bảo vệ của cửa hàng.
          Ta cùng sải bước chân theo những hành lang, trong sự tưởng tượng cô đơn ta cùng nếm vị artisô ngon, tận hưởng mọi mỹ vị cao lương nằm trong tủ ướp băng và không bao giờ đi qua chỗ cô thu ngân.
          Ta đi đâu bây giờ, Walt Whitman? Một giờ nữa là người ta đóng cửa. Đêm nay chòm râu của ông sẽ hướng về đâu?
          (Tôi chạm vào quyển sách của ông và tôi ước ao về một cuộc phiêu lưu của chúng mình trong siêu thị mà cảm thấy tất cả đều nhảm nhí).
          Ta sẽ thơ thẩn suốt đêm trên những con đường vắng vẻ? Cây thả bóng lá bóng cành vào bóng và đèn đóm trong các nhà tắt ngấm, chỉ còn lại hai ta.
          Ta thơ thẩn mà mơ về tình yêu nước Mỹ đã mờ xa, khi đi qua những chiếc ô-tô màu xanh trên đường ta về nhà, mái nhà tranh của chúng mình chìm trong im lặng.
          Ôi, người cha thân yêu chòm râu bạc trắng, người thầy giáo già cô đơn dạy lòng dũng cảm, ông đã từng có nước Mỹ nào khi Charon chở ông sang bờ khói sương mờ mịt, và ông đứng nhìn con thuyền dần biến mất trên dòng đen kịt của Lethe?(1)
          ____________
          (1)Charon – ông già lái đò chở những âm hồn dưới địa ngục. Lethe – dòng sông dưới địa ngục. Charon chở những âm hồn qua sông Acheron và sông Styx, chứ không phải qua sông Lethe. Sông Lethe, tiếng Hy Lạp nghĩa là Quên lãng, được đặt ở ngoài ngục để cho những âm hồn đến rửa ráy sau khi đã chuộc lỗi lầm, để dòng sông này sẽ cuốn đi những kỉ niệm đau buồn về những điều lầm lỗi (Allen Ginsberg nhầm chi tiết này).



          BÀI CA

          Gánh nặng chốn trần gian
          là tình.
          Dưới gánh nặng
          của sự cô đơn
          dưới gánh nặng của sự không bằng lòng

          gánh nặng
          gánh nặng ta mang
          là tình.

          Ai người phủ nhận?
          Rằng trong mộng
          tình chạm
          vào thân
          trong ý tưởng
          tình làm nên
          điều kỳ diệu, kỳ công
          trong trí tưởng tượng
          tình đau buồn
          một khi chưa sinh
          trong người trần –
          nhìn từ trái tim
          tinh khiết cháy lên –
          vì gánh nặng chốn trần gian
          là tình

          nhưng gánh nặng ta mang
          mệt mỏi
          ta cần sự dịu êm
          trong vòng tay tình ái
          và cuối cùng
          có tĩnh lặng, dịu êm
          trong vòng tay tình ái

          nhưng chẳng có dịu êm
          chẳng tình
          không ngủ
          không nói mớ
          về tình –
          lạnh lẽo hay điên cuồng
          ám ảnh bởi thiên thần
          hay máy móc
          thì điều cuối cùng mong ước –
          là tình
          - chẳng cay đắng trong lòng
          không thể nào phủ nhận
          không thể nào giấu diếm
          dù có chối phăng:

          gánh nặng quả vô cùng nặng

          ta cần đem cho
          mà chẳng nhận về
          như ý tưởng
          từng đến
          trong sự cô đơn
          trong tất cả vẻ huy hoàng
          trong sự thừa mứa của tình.

          Thân xác ấm nồng
          cùng toả sáng lên
          trong bóng tối
          bàn tay qua lại
          về điểm trung tâm
          của xác thân
          làn da run bần bật
          vì hạnh phúc
          và tâm hồn
          hân hoan trong ánh mắt –

          vâng, vâng
          quả thật rằng
          tôi ao ước
          tôi luôn luôn ao ước
          tôi luôn luôn ao ước
          quay trở về
          với thể xác kia
          nơi tôi sinh ra ngày trước.
          #5
            cacbac 18.12.2007 19:46:56 (permalink)


            Carl August Sandburg (6/1/1878—22/7/1967) – nhà thơ, nhà văn, nhà thư mục, người sưu tầm văn hóa dân gian Mỹ.

            Tiểu sử:
            Carl August Sandburg sinh ở Galesburg, Illinois trong một gia đình nhập cư người Thụy Điển. Thời trẻ phải làm rất nhiều nghề để kiếm sống. Năm 1898 tham gia đoàn tình nguyện của chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ, đi sang Puerto Rico. Khi trở về, học trường Lombard College ở Galesburg. Ở đây bắt đầu in những bài thơ đầu tiên. Năm 1902 bắt đầu làm báo và tham gia hoạt động chính trị. Năm 1913 chuyển đến Chicago, cộng tác với các báo Chicago Daily NewsThe Day Book. Cũng trong thời gian này thường xuyên in thơ ở tạp chí Thơ và trở thành một nhà thơ nổi tiếng của nước Mỹ.
            Ngoài thơ ca, sự nghiệp văn xuôi của Sandburg cũng rất đồ sộ. Ông đặc biệt nổi tiếng với các tập sách viết về Abraham Lincoln, về chiến tranh và các tập sách biên soạn, sưu tầm những bài hát của dân gian. Carl August Sandburg được tặng hai giải Pulitze và giải Grammy.

            Tác phẩm:
            *Chicago Poems (Những bài thơ Chicago, 1916), thơ
            *Cornhuskers (Người thu hoạch ngô, 1918), thơ
            *Chicago Race Riots (Những cuộc bạo loạn sắc tộc ở Chicago: Walter Lippmann viết lời giới thiệu, 1919), văn xuôi
            *Smoke and Steel (Khói và thép, 1920), thơ
            *Rootabaga Stories (Những câu chuyện Rootabaga, 1920), truyện thiếu nhi
            *Rootabaga Pigeons (Bồ câu Rootabaga, 1923), truyện thiếu nhi
            *Selected Poems (Thơ tuyển. 1926), thơ
            *Abraham Lincoln: The Prairie Years (Abraham Lincoln: Những năm thơ ấu, 1926)
            *The American Songbag (Túi bài ca nước Mỹ, 1927), thơ dân gian
            *Songs of America (Những bài ca của nước Mỹ, 1927), thơ dân gian
            *Good Morning, America ( Chào nước Mỹ, 1928), thơ
            *Early Moon (Trăng non, 1930), thơ
            *Potato Face (Gương mặt khoai tây, 1930), truyện thiếu nhi
            *Mary Lincoln: Wife and Widow (Mary Lincoln: Người vợ và goá phụ, 1932), sách tiểu sử
            *The People, Yes (Nhân dân, Vâng, 1936), thơ
            *Abraham Lincoln: The War Years (Abraham Lincoln: Những năm chiến tranh, 1939), sách tiểu sử
            *Remembrance Rock (Đá của kí ức, 1948), tiểu thuyết
            *The New American Songbag (Túi bài ca mới của nước Mỹ, 1950), thơ dân gian
            *Complete Poems (Tuyển tập thơ, 1950), thơ
            *Always the Young Strangers (Mãi mãi là những người xa lạ trẻ trung, 1953), tự truyện
            *Selected poems of Carl Sandburg (Thơ tuyển, Rebecca West hiệu đính, 1954), thơ


            BA LỜI

            Ngày còn bé tôi từng nghe ba lời
            Cả nghìn người Pháp chết trên đường phố
            Vì: Tự do, Bình đẳng và Bác ái
            Tôi hỏi: vì sao họ chết vì lời.

            Tôi lớn lên, những chú bác râu đầy
            Bảo tôi rằng có ba lời quan trọng:
            Mẹ, Gia đình, Bầu trời – còn khi người lớn
            Người đeo huân chương bảo: Sự bất diệt, Bổn phận, Chúa Trời
            Họ nói ba lời này mà xúc động khôn nguôi.

            Trên chiếc đồng hồ lớn ngày tháng nối đuôi
            Những số phận người, bỗng nhiên chuyển động
            Từ đất nước Nga vô cùng rộng lớn
            Binh lính, thợ thuyền không sợ chết xông lên
            Vì: Đất đai, vì Cơm áo, Hòa bình.

            Tôi thấy chàng thủy thủ Mỹ, trong một lần
            Cùng cô gái trẻ, nàng ngồi trên đầu gối
            Chàng thủy thủ bảo: có ba lời cần nói
            Cho anh xin ít trứng, ít giăm bông
            Và gì nữa? – Và một chút tình
            Em yêu của anh!”




            CỎ

            Xác chất đống ở Austerlitz và Waterloo(1)
            Chôn xuống mộ, và hãy cho tôi làm việc
            Tôi là cỏ: tôi che lấp hết.

            Và xác chất đống ở Gettysburg
            Và xác chất đống ở Ypres, Verdun
            Chôn xuống mộ, và hãy cho tôi làm việc.
            Hai năm, mười năm, và hành khách hỏi người soát vé:
            Đây là chỗ nào?
            Chúng ta đang ở đâu?

            Tôi là cỏ
            Hãy cho tôi làm việc.
            _________________
            (1)Austerlitz (nay là Slavkov, cộng hòa Séc) – nơi từng diễn ra trận đánh nổi tiếng của Napoleon năm 1805.
            Waterloo – thành phố ở Bỉ nơi diễn ra trận đánh nổi tiếng của Napoleon năm 1815.
            Gettysburg – thành phố ở Mỹ năm 1863 ở đây xảy ra một trận đánh lớn trong thời kì Nội chiến.
            Ypress – thành phố ở Bỉ, nơi xảy ra một trận đánh lớn trong chiến tranh Thế giới 1.
            Verdun – thành phố ở Pháp
            , nơi diễn ra trận đánh giữa Đức và Pháp trong chiến tranh Thế giới 1.



            XE LỬA TỐC HÀNH

            Tôi đi trên xe lửa tốc hành, con tàu của niềm tự hào dân tộc.
            Con tàu lướt trên thảo nguyên, qua khói sương, mười lăm toa với cả nghìn hành khách.
            (Tất cả các toa tàu rồi sẽ thành một chùm sắt gỉ và tất cả hành khách cười trong toa ăn, toa ngủ rồi sẽ trở thành tro).
            Tôi hỏi một người đàn ông trong toa hút thuốc: đi về đâu, và người ấy trả lời: “Omaha”.
            #6
              cacbac 18.12.2007 19:54:45 (permalink)


              William Carlos Williams (thường viết tắt là WCW, 17 tháng 9 năm 1883 – 4 tháng 3 năm 1963) – nhà thơ Mỹ, một gương mặt quan trọng của thơ ca Mỹ thế kỷ XX.

              Tiểu sử:
              William Carlos Williams sinh tại Rutherford, New Jersey. Bố là William George Williams - người Anh di cư sang Mỹ, mẹ là Helene Raquel Williams – người gốc Pháp sinh ở Puerto-Rico. Năm 1902 vào học khoa y ở Đại học Pennsylvania. Thời sinh viên kết bạn với Ezra Pound, Marianne Moore và Hilda Doolittle. William Carlos Williams cả đời hành nghề bác sĩ ở thành phố quê hương và cứ khoảng 2 năm lại in một tập thơ. Những tác phẩm đáng kể nhất của ông có thể kể đến: In the American Grain (Trên đất Mỹ, 1925) – sách về những danh nhân nước Mỹ, The Great American Novel (Tiểu thuyết vĩ đại của nước Mỹ, 1923) – viết về tiểu Ulysses của James Joyce, The White Mule (Mule trắng, 1938) – tiểu thuyết về trẻ sơ sinh, Spring and All, (Mùa xuân và tất cả, 1923) – tập thơ, Collected Later Poems, (Tuyển tập thơ thời kỳ sau, 1950), Paterson (Tập thơ, 1946–1958)

              William Carlos Williams là nhà thơ đã làm thay đổi diện mạo thơ ca Mỹ hiện đại. Ông là nhà thơ góp phần quan trọng nâng cao ý thức về tính đặc thù của văn chương Mỹ. Một nền văn chương đề cao sự cụ thể, tính địa phương, và sự trực tiếp trong ngôn ngữ. Ông quan niệm ngôn ngữ thơ phải có khả năng truyền đạt trực tiếp, như cái cách mà nó được sử dụng trong đàm thoại hàng ngày. Ông phản đối ngôn ngữ “gợi mở” nghệ thuật của T. S. Elliot, gọi tác phẩm Đất hoang là “một thảm họa vĩ đại”. Thơ, theo ông, phải mang tính đặc thù địa phương, cụ thể và chính xác. Khẩu hiệu thơ nổi tiếng của Williams: “không ý tưởng, chỉ bằng vào sự vật”. Dưới đây là một bài thơ rất nổi tiếng trong những năm 20, thế kỷ XX.

              so much depends
              upon
              a red wheel
              barrow
              glazed with rain
              water
              beside the white
              chickens.


              quá nhiều thứ
              phụ thuộc
              vào chiếc xe ba gác
              màu đỏ
              che phủ bới
              nước mưa
              bên cạnh đàn gà
              màu trắng.


              Bài thơ là một câu gồm 14 từ rất đơn giản, không vần điệu và không sử dụng một thủ thuật nào cả. Nhìn sự vật và hiện tượng theo một cách mới mẻ như vốn có, không theo những khuôn phép cũ – đó là đòi hỏi của thơ Mỹ hiện đại mà William Carlos Williams là một trong những người đi đầu. Trong tinh thần này, Williams hoàn toàn đi ngược lại những nhà hiện đại chủ nghĩa đương thời như T.S. Elliot, Wallace Stevens. Ông khước từ tính biểu tượng của sự vật trong thơ. Tuy vậy, trong trường ca Paterson viết vào lúc cuối đời, nhiều hình ảnh trong thơ ông cũng mang tính biểu tượng. Với trường ca Paterson, ông cho thấy những tầng lớp phức tạp của kiểu thơ trí tuệ mà trước đây ông khước từ. Williams Carlos Williams được tặng giải thưởng thơ năm 1950. Năm 1963 được tặng huy chương vàng của Viện nghệ thuật Quốc gia và giải Pulitzer. Ông là nhà thơ ảnh hưởng đến nhiều tên tuổi nổi tiếng như Allen Ginsberg, Charles Olson, Denise Levertov, Robert Creeley, Robert Lowell...

               
              Tác phẩm:
              Thơ:
              *Poems (1909)
              *Five of Shot of Five (1910)
              *The Tempers (1913)
              *Al Que Quiere (1917)
              *Kora in Hell. Improvisations (1920, repr. 1973)
              *Sour Grapes (1921)
              *Spring and All (1923)
              *Go Go (1923)
              *The Cod Head (1932)
              *Collected Poems, 1921-1931 (1934)
              *An Early Martyr and Other Poems (1935)
              *Adam & Eve & The City (1936)
              *The Complete Collected Poems of William Carlos Williams, 1906-1938 (1938)
              *The Broken Span (1941)
              *The Wedge (1944)
              *Paterson (Book I, (1946); Book II, (1948); Book III, (1949); Book IV, (1951); Book V, (1958)
              *Clouds, Aigeltinger, Russia (1948)
              *The Collected Later Poems (1950; rev. ed.1963)
              *Collected Earlier Poems (1951; rev. ed., 1966)
              *The Desert Music and Other Poems (1954)
              *Journey to Love (1955)
              *Pictures from Brueghel and Other Poems (1962)
              *Paterson (Books I-V in one volume, (1963)
              *Imaginations (1970)
              *Collected Poems: Volume 1, 1909-1939 (1988)
              *Collected Poems: Volume 2, 1939-1962 (1989)
              *Early Poems (1997)
              Văn xuôi:
              *Kora in Hell (1920)
              *The Great American Novel (1923)
              *Spring and All (1923)
              *In the American Grain (1925, 1967, repr. New Directions 2004)
              *A Voyage to Pagany (1928; repr. 1970)
              *Novelette and Other Prose (1932)
              *The Knife of the Times, and Other Stories (1932; repr. 1974)
              *White Mule (1937; repr. 1967)
              *Life along the Passaic River (1938)
              *In the Money (1940; repr. 1967)
              *Make Light of It: Collected Stories (1950)
              *Autobiography (1951; 1967)
              *The Build-Up (1952)
              *Selected Essays (1954)
              *The Selected Letters of William Carlos Williams (1957)
              *I Wanted to Write a Poem: The Autobiography of the Works of a Poet (1958)
              *Yes, Mrs. Williams: A Personal Record of My Mother (1959)
              *The Farmers' Daughters: Collected Stories (1961)
              *Imaginations (1970)
              *The Embodiment of Knowledge (1974)
              *Interviews With William Carlos Williams: "Speaking Straight Ahead" (1976)
              *A Recognizable Image: William Carlos Williams on Art and Artists (1978)
              *Pound/Williams: Selected Letters of Ezra Pound and William Carlos Williams (1996)
              *The Collected Stories of William Carlos Williams (1996)
              *The Letters of Denise Levertov and William Carlos Williams (1998)
              *William Carlos Williams and Charles Tomlinson: A Transatlantic Connection (1998)
              Kịch:
              *Many Loves and Other Plays: The Collected Plays of William Carlos Williams (1961)
              Truyện ngắn:
              *The Knife of the Times
              *The Use of Force



              Lời biện hộ

              Tại vì sao ngày hôm nay tôi viết?

              Đó là vẻ đẹp
              những gương mặt khủng khiếp
              của những kẻ vô danh
              gợi cho tôi cảm xúc:

              những phụ nữ da đen
              ngày làm việc của những công nhân
              già cả và giàu kinh nghiệm
              trở về nhà rất muộn
              trong bộ quần áo nát nhàu
              những gương mặt của họ giống như
              cây sối Florentine xưa cũ.

              Và nữa

              Những bộ mặt của
              Quí vị gây cảm hứng cho tôi –
              những con người –
              đáng nể nhưng
              đó là chuyện khác.


              Chân dung người vô sản

              Một người phụ nữ to lớn đầu trần
              mặc yếm

              Với mái tóc chải bóng
              đứng ở bên đường

              một chân mang bít tất phụ nữ
              chạm đến lề đường

              Chiếc giày nàng cầm trong tay. Và nhìn
              vào trong rất chăm chú

              Người phụ nữ lôi cái đế giày bằng giấy
              muốn tìm chiếc đinh

              Đã từ lâu làm đau chân nàng


              Chiếc xe ba gác màu đỏ

              quá nhiều thứ
              phụ thuộc

              vào chiếc xe ba gác
              màu đỏ

              che phủ bới
              nước mưa

              bên cạnh đàn gà
              màu trắng.


              Ký ức tháng Tư

              Bạn nói: “Tình yêu là, tình yêu là:
              chiếc lá cây dương, là chùm liễu rủ
              là chiếc lược của mưa của gió
              là giọt nhỏ và tiếng leng keng –
              những cành lá rung rinh” – Ha!
              Tình không bao giờ đến những nơi này cả.


                Điều cần nói

              Anh đã ăn
              những quả nho khô
              lấy từ
              trong tủ lạnh

              những quả nho
              mà em định
              để dành cho bữa sáng

              Tha lỗi cho anh
              nho thật là ngon
              thật ngọt
              và thật mát
              #7
                cacbac 18.12.2007 20:02:43 (permalink)


                Stephen Crane (1 /11 /1871 – 5 / 6 /1900) – nhà văn, nhà thơ Mỹ, một đại diện của trường phái ấn tượng.

                Tiểu sử:
                Stephen Crane sinh ở Newark, New Jersey. Bố là mục sư, mất khi Crane mới 10 tuổi. Năm 1888 học xong trung học, Crane vào học Lafayette College, sau đó học Đại học Syracuse. Bắt đầu viết từ năm 15 tuổi. Thời trẻ Crane viết báo và thích môn bóng chày. Năm 1891 mẹ mất, Crane đến New York thuê nhà ở, làm phóng viên của báo New York Tribune và viết bài cho một số báo khác. Năm 1893 viết cuốn , Maggie: A Girl of the Streets (Maggie: Cô gái của đường phố). Các nhà xuất bản từ chối in nên Crane bỏ tiền của mình ra in và lấy bút danh Johnston Smith. Sách bán không chạy những được các nhà phê bình Hamlin Garland và William Dean Howells khen ngợi. Cũng trong thời gian này Crane sáng tác nhiều thơ. Tập thơ The Black Riders and Other Lines (Những kị sĩ đen và những dòng khác, 1895) sử dụng thể thơ tự do của Walt Whitman với lối thơ cô đọng. Cùng với thơ, Crane viết The Red Badge of Courage (Dấu hiệu đỏ của lòng dũng cảm) là cuốn sách nổi tiếng thế giới. Cho đến nay vẫn được coi là cuốn tiểu thuyết hay nhất viết về Nội chiến ở Mỹ. Cuốn sách này sau được in trong các số báo, mang lại cho tác giả tiếng tăm và tiền bạc.
                Năm 1895 Crane đi về các bang miền Tây nước Mỹ và Mexico. Năm 1896 sang Cuba. Ngày 2-2-1897 con tàu mà Crane đi bị chìm trên biển, Crane may mắn thoát được vào bờ. Năm 1897, Crane làm phóng viên chiến trường trong chiến tranh Hy Lạp – Thổ Nhĩ Kỳ. sau khi chiến tranh kết thúc, Crane đi sang Anh. Những năm cuối đời, Crane bị bệnh lao nhưng vẫn phải làm việc vì mắc nợ nhiều. Năm 1900 ông phải đọc cho người khác chép cuốn tiểu thuyết cuối cùng The O'Ruddy. Ông mất ở khu nghỉ mỏt Badenweiler, Đức năm 1900. Thơ của Stephen Crane gần đây được dịch nhiều sang tiếng Việt.

                Tác phẩm:
                *Maggie: A Girl of the Streets (Maggie: Cô gái của đường phố).
                *The Black Riders and Other Lines (Những kị sĩ đen và những dòng khác, 1895)
                *The Red Badge of Courage (Dấu hiệu đỏ của lòng dũng cảm)
                *The Blue Hotel (Khách sạn màu xanh, 1895) phóng sự
                *George's Mother (Mẹ của George, 1896), tiểu thuyết
                *The Third Violet (Màu tím thứ ba, 1896), tiểu thuyết
                *The Open Boat and Other Tales of Adventure (Biển mở và những câu chuyện phiêu lưu khác, 1898), truyện
                *War is kind (Chiến tranh tốt, 1899), thơ
                *The Monster and Other Stories (Quái vật và những câu chuyện khác, 1899), truyện
                *Wounds in the Rain (Vết thương trong mưa, 1900), truyện
                *Whilomville Stories (Những câu chuyện Whilomville, 1900), truyện
                *The O'Ruddy, tiểu thuyết



                Đánh số thứ tự theo cuốn: The Poems of Stephen Crane. A critical edition by Joseph Katz. New York, 1966.

                1
                Những kỵ sĩ đen từ biển tới
                Tiếng khiên và tiếng giáo mác khua vang
                Tiếng móng guốc ngựa rì rầm
                Tóc như sóng và tiếng kêu hoang dã
                Bay đi trong gió
                Đấy là sự Lỗi Lầm.

                3
                Trên sa mạc
                Tôi gặp một người hoang dã trần truồng
                Ngồi chồm hỗm trên đất
                Giữ trong tay trái tim của mình
                Và ăn trái tim.
                Tôi hỏi: “Có ngon không anh bạn?”
                Người này trả lời: “Cay đắng lắm
                Nhưng mà tôi thích tim
                Bởi vì tim cay đắng
                Và bởi vì đấy tim mình”.

                4
                Vâng, lưỡi tôi có cả một ngàn
                Nhưng 999 cái là gian dối
                Tôi hy vọng dù chỉ còn một cái
                Được hát lên như tôi vẫn ước mong
                Nhưng cái này cũng đang chết trong mồm.

                5
                Một hôm có người đi đến
                Nói rằng
                “Hãy xếp cho tôi tất cả người trên mặt đất thành hàng”
                Và ngay lập tức
                Tiếng kêu la khủng khiếp vang lên
                Người ta không muốn xếp thành hàng
                Cả thế giới tranh chấp cãi cọ
                Và cứ thế rất nhiều năm sau đó
                Và máu đổ
                Máu những ai không muốn đứng thành hàng
                Và những ai muốn được đứng trong hàng.
                Rốt cuộc, người này trước khi chết khóc than
                Còn những người trong cuộc tranh giành đẫm máu
                Nhưng điều chân lý giản đơn vẫn không hiểu thấu.

                7
                Chiếc bóng bí huyền cứ bám lấy tôi
                Anh là ai?
                Anh từ đâu đến?
                Hãy nói giùm tôi điều này có đúng
                Hay sự thật đắng cay tựa lửa nung
                Hãy nói giùm!
                Anh đừng sợ rằng tôi không dám
                Tôi có thừa can đảm
                Xin hãy nói giùm!

                8
                Tôi tìm kiếm nơi này
                Tôi kiếm tìm nơi nọ
                Người yêu không đâu có cả
                Nhưng ngay trong lúc này
                Nàng ở trong tim của tôi đây.
                Tôi không hề than phiền, oán trách
                Người tôi đi tìm dù có đẹp
                Cũng không thể sánh với người
                Đang sống trong tim tôi.

                9
                Tôi đứng trên đồi cao
                Nhìn xuống: có biết bao con quỉ
                Lượn lờ, bay nhảy.
                Say sưa với lỗi lầm.
                Một quỉ nhìn lên, cười nhe răng
                Bảo tôi: “Chào người anh em, đồng chí!”

                10
                Giá như cả thế giới mênh mông này chao đảo
                Bỏ lại sau mình nỗi sợ hãi màu đen
                Và đêm đến vô cùng
                Chẳng Thượng Đế, chẳng người, chẳng nơi anh đang đứng
                Tất cả những điều nay, với anh đâu có gì quan trọng
                Nếu em đứng gần với những bàn tay màu trắng của em
                Thì ta sẽ bước trên con đường dài trước khi đến diệt vong.

                16
                Lòng nhân hậu chỉ là dối gian
                Là đồ chơi của phụ nữ
                Là niềm vui của một số đàn ông nào đó.
                Nhưng khi có mặt sự công bằng
                Thì xem kìa, những bức tường của ngôi đền
                Có thể nhìn xuyên qua được
                Ngươi chỉ là một hình thức của bóng mà thôi.

                17
                Một đoàn người bước đi trên đường
                Họ không biết được đi về đâu cả
                Dù thành đạt hay tai ương đi nữa
                Thì tất cả đều là số phận chung.

                Có một người tìm con đường mới hơn
                Người này bước vào hoang vu rừng rậm
                Cuối cùng, người này đã chết một mình
                Nhưng ai cũng nói rằng anh ta dũng cảm.

                32
                Hai hay ba thiên thần
                Bay sát gần mặt đất.
                Thiên thần nhìn thấy ngôi đền dẹp.
                Dân chúng đổ về như những dòng suối đen
                Liên tục, không ngừng
                Thiên thần không làm sao hiểu được
                Tại vì sao, tại vì sao
                Dân chúng đổ về và ở đó rất lâu.

                33
                Tôi gặp một người khi đi trên đường
                Người này nhìn tôi bằng ánh mắt cảm tình
                Bảo tôi: “Anh hãy cho tôi xem dụng cụ”
                Và tôi lấy ra một thứ
                Cho người này xem
                Người bảo tôi: “Đấy là lỗi lầm”
                Tôi lấy ra cái khác
                Người lại bảo: “Đấy là lỗi lầm”
                Tôi cho người xem cái nữa
                Lại vẫn: “Đấy là lỗi lầm”
                Và cứ như thế đến cùng.
                “Đấy là lỗi lầm” – người này luôn nói vậy.
                Cuối cùng tôi kêu lên
                ”Nhưng mà tôi không còn thứ khác”.
                Người này nhìn sang
                Với ánh mắt cảm tình
                Và nói: “Ôi, linh hồn tội nghiệp”.

                34
                Tôi đứng trên con đường lớn
                Còn ở xung quanh
                Là những kẻ bán hàng rong
                Với tôi họ làm điệu bộ
                Họ đưa ra những bức tượng nhỏ
                Và bảo: “Đây là Đức Chúa của tôi
                Tôi yêu Đức Chúa này”.

                Tôi bảo: “Xin để tôi yên!
                Hãy cất đi tượng Chúa của các anh
                Và hãy để mặc tôi với Chúa của mình
                Tôi không thể mua tượng của người xa lạ
                Cho dù các anh vẫn tin hơn tất cả”.

                36
                Tôi gặp một nhà tiên tri
                Người này giữ trong tay
                Quyển sách những lời hay ý đẹp

                – Ông ơi – tôi bảo –
                Ông cho con xem chút nào.
                – Ô, con ơi – người này bắt đầu.
                – Ông ơi – tôi xin phép ngắt lời –
                Ông đừng nghĩ rằng con là trẻ nhỏ
                Con đã biết rất nhiều thứ đó
                Kể cả những thứ viết trong sách này
                Vâng, rất nhiều thứ.

                Nhà tiên tri mỉm cười
                Và mở cuốn sách
                Những dòng chữ hiện ra trước mắt tôi
                Thật là lùng: tôi bị mù ngay lập tức.

                40
                – Anh có yêu em không?
                – Anh yêu em.
                – Thế mà anh nhát gan như cáy.

                – Nhưng mà, em yêu, quả vậy.
                Khi anh muốn đến với em
                Thì dư luận, gai góc vô vàn
                Điều phiền muộn của anh
                Cuộc sống của anh
                Vô cùng rối rắm
                Giống như khăn che mạng
                Những điều này cản trở bước chân anh
                Không điều gì anh có thể làm
                Một cách yên ổn
                Và anh chẳng dám.

                – Nếu anh yêu em
                Thì không tồn tại cả thế gian
                Không dư luận
                Tất cả chỉ là vớ vẩn
                Chỉ có tình em
                Và ý nghĩ về tình.
                Anh có yêu em không?

                – Anh yêu em
                – Thế mà anh nhát gan như cáy
                –Nhưng mà, em yêu, quả vậy.

                41
                Tình yêu đi bộ một mình
                Bàn chân êm rộp lên vì đá sắc
                Và bụi gai cứa lên gương mặt.
                Tình yêu tìm ra người bạn đồng hành
                Nhưng than ôi, người này không giúp gì được cả
                Bởi người này có tên là Đau Khổ của Tim.

                42
                Tôi đi trên sa mạc
                Và tôi kêu lên:
                “Chúa ơi, hãy đưa con thoát khỏi chốn này”
                Một giọng nói: “Đấy không phải là sa mạc”
                Tôi kêu: “Nhưng mà, hãy nhìn xem
                Cát, hơi nóng và chân trời mênh mông
                Lại giọng nói: “Đấy không phải là sa mạc”.
                #8
                  cacbac 18.12.2007 20:06:52 (permalink)


                  43
                  Lời của gió thì thầm:
                  “Tạm biệt! Tạm biệt!”
                  Những giọng nói thì thầm trong bóng đêm:
                  “Tạm biệt! Tạm biệt!”
                  Tôi giơ đôi bàn tay ra phía trước
                  Và kêu: “Không! Không!”
                  Lời của gió thì thầm:
                  “Tạm biệt! Tạm biệt!”
                  Những giọng nói thì thầm trong bóng đêm:
                  “Tạm biệt! Tạm biệt!”

                  44
                  Tôi đã từng ở trong bóng tối
                  Tôi không nhìn ra từ ngữ của mình
                  Không ao ước của con tim.
                  Bỗng đột ngột bừng lên ánh sáng

                  “Hãy cho tôi về lại với bóng đêm”

                  45
                  Truyền thống, các người chỉ dành cho trẻ sơ sinh
                  Là sữa lớn nhanh dành cho trẻ nhỏ
                  Chứ không phải đồ ăn dành cho những ông bố
                  Bởi vì -
                  Nhưng than ôi, tất cả chúng ta đều là trẻ nhỏ.

                  46
                  Vô vàn con quỉ đỏ từ trái tim
                  Nhảy ra trang giấy
                  Những con quỉ bé tí xíu
                  Rằng ngòi bút có thể đè lên
                  Và có nhiều con tung tăng trong mực
                  Kỳ lạ vô cùng
                  Viết bằng thứ nước phân chuồng
                  Trút ra những cảm xúc của trái tim.

                  47
                  “Hãy nghĩ như tôi nghĩ – một người nói thế –
                  Hoặc anh là kẻ xấu xa gớm ghiếc
                  Anh là con cóc”.

                  Suy nghĩ một lát rồi tôi trả lời
                  “Nếu thế thì tôi xin làm con cóc thôi”.

                  48
                  Xưa có một anh chàng
                  Quả là rất khôn ngoan
                  Trong mọi thứ đồ uống
                  Chàng chọn đồ uống đắng
                  Trong mọi thứ đụng chạm
                  Chàng chỉ thích kim châm.
                  Cuối cùng, chàng thốt lên rằng
                  “Không có gì hết cả
                  Không cuộc đời
                  Không niềm vui
                  Không đau đớn
                  Chỉ có quan điểm
                  Quan điểm đáng rủa nguyền!”

                  50

                  Em nói rằng em thánh thần, trong sạch
                  Thì anh vẫn biết thế mà
                  Bởi vì lỗi lầm của em anh chẳng nhìn ra
                  Nhưng mà những kẻ khác
                  Nhìn thấy lỗi lầm của người bạn của anh.

                  85

                  Em bảo anh rằng em thấy Chúa Trời
                  Anh bảo em đó là trang giấy
                  Và một ngọn nến đang cháy
                  Và con lừa dán mắt vào thôi.

                  103
                  Em tình yêu của anh
                  Em là tĩnh lặng trong buổi hoàng hôn
                  Khi những chiếc lá màu xanh yên lặng
                  Khi những chiếc lá trên cành rụng xuống
                  Và những dòng suối nhỏ hát lên
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Em là bão tố
                  Là những lỗ hổng giữa trời đen đúa
                  Và nức nở không ngừng
                  Rồi trút nước làm cây rung
                  Thở hổn hển
                  Cuối cùng im hẳn
                  Chỉ tiếng kêu buồn của con cú cô đơn
                  Khổ thân anh!

                  Em tình yêu của anh
                  Em là vật trang sức lấp lánh
                  Mà trong lúc đùa
                  Anh trót làm cho
                  Vỡ ra thành nhiều mảnh
                  Dai dẳng một nỗi buồn
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Mệt mỏi cành hoa tím
                  Cúi đầu trong ánh nắng
                  Tỏ vẻ bất cần
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Là cát bụi của tình yêu ngày trước
                  Anh giấu trong cát bụi này gương mặt
                  Và anh yêu thương
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Em là bộ râu cằm
                  Trên gương mặt của người đàn ông khác
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Và em là một ngôi đền
                  Trong ngôi đền có chiếc bàn thờ cúng
                  Trái tim anh đặt ở trên bàn
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Em là yên tĩnh
                  Dù gian dối trong tình
                  Anh biết rằng gian dối của em là sự thật
                  Và sự thật là gian dối của em
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Em là người tư tế
                  Trong tay em là con dao máu đỏ
                  Và số phận bắt anh theo đuổi đến cùng
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Là cái đầu lâu với con mắt ngọc
                  Và anh yêu em
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Và anh thấy sợ em
                  Giá cái chết của em mang về cho anh yên ổn
                  Thì anh sẽ giết em
                  Khổ thân anh.

                  Em tình yêu của anh
                  Em là cái chết
                  Quả vậy, em là cái chết
                  Đen hơn cả bóng đêm
                  Nhưng mà anh yêu em
                  Anh yêu em
                  Khổ thân anh, khổ đau này hãy đến.

                  107
                  Em yêu, tại vì sao sau lưng em
                  Anh luôn thấy chiếc bóng người tình ngày trước?
                  Chẳng lẽ điề này có thực
                  Hay đấy là kí ức đáng nguyền rủa gấp ba
                  Của hạnh phúc ngày qua?
                  Bệnh dịch cho hắn ta, nếu đã chết
                  Bệnh dịch cho hắn ta, nếu còn sống sót
                  Cái bị thịt
                  Bám vào chiếc bóng thường xuyên
                  Giữa anh và sự tĩnh lặng của anh!

                  108
                  Dù sao thì em vẫn hạnh phúc với anh
                  Anh đâu phải thằng đần
                  Để mà dại dột đập đầu vào sắt
                  Anh nghe ra cõi lòng em thổn thức
                  Và nhìn đôi bàn tay run rẩy hướng về anh
                  Từng có một thời gian
                  Chúa phù hộ cho chúng mình
                  Người ta muốn anh trở thành quí tộc
                  Với vẻ ngạo mạn coi người như rơm rác
                  Tao nhã nói ra những ý nghĩ của mình.
                  Than ôi, người yêu đã mất của anh
                  Anh không thể nào trở thành quí tộc
                  Anh nói “Em yêu”
                  Em nói: “Anh yêu”
                  Và ta bắt chước những người cao thượng
                  Mà không để ý gì đến dòng máu nóng
                  Chảy ra từ trái tim anh.

                  109
                  Anh nghe tiếng em cười
                  Nghe ra trong niềm vui
                  Bề sâu cõi lòng anh đau đớn
                  Anh biết rằng anh còn lại một mình
                  Một mình với tình yêu của mình
                  Tình run rẩy và tội nghiệp
                  Chỉ một tình yêu nhỏ nhặt
                  Bay đến cùng anh
                  Vào lúc nửa đêm
                  Ta giống như hai sinh linh
                  Bên đống lửa trong đêm đã tắt.

                  110
                  Anh thấy thật lạ lùng trong buổi hoàng hôn
                  Khi ánh sáng màu hồng trang điểm những buổi chiều của em
                  Khi hãy còn chưa cháy bừng lên như lửa
                  Anh thấy thật lạ lùng trong buổi hoàng hôn
                  Em sẽ nhớ về một thời gian
                  Ngày em yêu anh đó
                  Tình yêu chúng mình, với em, là tất cả
                  Chẳng lẽ kỷ niệm bây giờ chỉ là thứ bỏ đi?
                  Mặc quần áo ngày xưa
                  Cũ sờn và lạc mốt?
                  Khổ thân anh, ôi tình đã mất
                  Vì tình yêu bây giờ đối với anh
                  Là một giấc mơ chốn thiên đường
                  Với vô vàn những mặt trời sáng láng.

                  111
                  Tình yêu gặp anh giữa ngày
                  Tình yêu liều lĩnh
                  Từ giã bóng đêm dày
                  Lộng lẫy trong ánh sáng.
                  Khi đó anh nhìn ra hiển hiện
                  Rằng tình thật vụng về
                  Dại dột, huyênh hoang, kẻ vụng về không mắt
                  Đập vỡ con tim của những người bất chấp
                  Như thằng ngốc đập chiếc bát của mình
                  Và anh nguyền rủa tình
                  Từ đầu đến chân đầy những lời nguyền rủa
                  Vì tất cả những dại dột điên rồ trong tâm trí
                  Nhưng cuối cùng
                  Tình cười lên và chỉ vào ngực của anh
                  Nơi con tim vẫn đập vì em, em yêu ạ.

                  112
                  Anh nhìn thấy gương mặt em đỏ bừng
                  Vì tình yêu đối với anh
                  Đôi bàn tay đẹp của em điên cuồng
                  Bờ môi run và thì thầm những lời gì đấy
                  Và – quả vậy –
                  Có phải đấy là ân huệ với anh?
                  Bây giờ em đã chẳng yêu anh
                  Nhưng em đã từng yêu ngày trước
                  Và trong tình yêu ngày trước
                  Em đã trao anh ân huệ muôn đời
                  Rằng anh có thể nghĩ về em, em ơi.

                  115
                  Người phụ nữ trần truồng và một chú lùn đã chết
                  Thừa mứa và sự dửng dưng
                  Chú lùn tội nghiệp!
                  Ngươi làm vua cùng dại dột những ông hoàng
                  Rồi chết theo tiếng lục lạc và rượu vang
                  Kết thúc cuộc đời bằng trò khôi hài tuyệt vọng
                  Tuy vậy, cả trước và sau chú lùn, trong cuộc sống
                  Luôn có một anh hề trong mọi thời gian
                  -Anh hề muôn thuở –
                  Người phụ nữ trần truồng.

                  122
                  Nếu anh đi tìm bạn giữa mọi người
                  Hãy nhớ rằng: người ta quảng cáo cho hàng của họ.
                  Nếu anh muốn hạnh phúc giữa mọi người
                  Hãy nhớ rằng: người ta quảng cáo cho hàng của họ
                  Nếu anh đi tìm sự thịnh vượng cho mọi người
                  Hãy nhớ rằng: người ta quảng cáo cho hàng của họ
                  Nếu anh muốn nguyền rủa hết thảy mọi người
                  Hãy nhớ rằng: người ta quảng cáo cho hàng của họ
                  Người ta quảng cáo cho hàng của họ
                  Người ta quảng cáo cho hàng của họ
                  Nếu anh muốn gây sự chú ý của mọi người
                  Hãy nhớ rằng:
                  Anh sẽ giúp hoặc cản trở người ta quảng cáo cho hàng của họ

                  123
                  Chàng trai và cô gái bên chỗ ngoặt của dòng sông
                  Có ánh sáng dịu dàng nhung tơ của nước
                  Nơi ánh trăng rót xuống những cành cây độc cần
                  Ôi, đêm tối tăm, đêm tuyệt đẹp.

                  Chàng trai và cô gái trên cầu, tay vịn lan can
                  Hai chiếc bóng dập dờn trên dòng nước
                  Ngọn gió hát gì trong hoa cỏ ven sông
                  Ôi, đêm tối tăm, đêm tuyệt đẹp.

                  Chàng trai và cô gái bơi xuồng
                  Và mái chèo khua lên ánh bạc.

                  126
                  Rượu cũ em cất là để cho anh
                  Trong những chiếc bình tuyệt vọng
                  Uống nhiều rượu của cuộc đời anh
                  Trong những chiếc bình tuyệt vọng.

                  Máu, tiếng kêu và náo loạn đến trong mơ
                  Màu trắng vật vờ trong mắt người chết
                  Sự can đảm lơ là đến khủng khiếp của trẻ thơ.

                  135
                  Thập ác của tôi!

                  Thập ác của anh?
                  Thập ác thực
                  Làm từ đồng Xtécling
                  Đồng đôla hoặc đồng phờrăng
                  Tôi chìa bàn tay của mình
                  Để chịu đóng đinh
                  Để hiểu ra sự túng thiếu
                  -Nỗi khổ đau vĩ đại –
                  Thiếu tiền.


                  #9
                    cacbac 18.12.2007 20:12:49 (permalink)


                    Edward Estlin Cummings (14/10/1894—3/9/1962), thường viết: e. e. cummings, là nhà thơ, họa sĩ, nhà soạn kịch, nhà văn Mỹ. E. E. Cummings là tác giả của hơn 900 bài thơ, nhiều vở kịch, tác phẩm hội họa và một số tiểu thuyết, được coi là một nhà thơ xuất sắc của thế kỉ XX.

                    Tiểu sử:
                    E. E. Cummings sinh ở Cambridge, Massachusetts, học Đại học Harvard trong các năm 1911-1916. Năm 1915 nhận bằng cử nhân (B. A) và năm 1916 – bằng thạc sĩ (M. A). Bắt đầu làm thơ từ năm 1912 và thường in thơ ở báo Harvard Monthly. Năm 1916 in một số bài thơ trong cuốn “Eight Harvard Poets” (Tám nhà thơ Harvard), cũng trong năm này tình nguyện sang Pháp làm lính cứu thương. 5 tháng sau khi sang Pháp bị bắt giam ở trại Dépôt de Triage gần 4 tháng vì bị nghi làm gián điệp. Ký ức về những ngày tháng trong trại giam được Cummings kể lại trong tiểu thuyết “Phòng to”( The Enormous Room). Sau khi được trả tự do nhờ sự can thiệp của bố, Cummings trở về Mỹ và phục vụ quân đội đến tháng 11-1918. Năm 1923 Cummings trở lại Pháp học tiếp hội họa mà trước đây đã học ở Harvard. Thời gian này Cummings đi du lịch nhiều ở châu Âu, kể cả sang Liên Xô.

                    Thơ ca:
                    Từ những tập thơ đầu “Tulips and Chimneys, 1923” (Hoa Tuylíp và Ống khói), “Is 5, 1926” (Bằng 5) Cummings đã sử dụng kiến thức hội họa trong thơ, bắt buộc người đọc không chỉ “đọc” mà còn phải “ngắm” thơ và luôn làm đau đầu các nhà in thời đó. Thí dụ, bài thơ "a leaf falls loneliness" được viết:

                    l(a

                    le
                    af
                    fa

                    ll

                    s)
                    one
                    l

                    iness

                    E. E. Cummings không chỉ là người sáng tạo ra một phong cách thơ độc đáo mà thơ ông có nội dung sâu sắc và chất hài hước chua cay. Mặc dù vậy, trong thơ của Cummings vẫn nói nhiều về tình yêu, tình bạn và những tình cảm khác của con người.

                    Tác phẩm:
                    *The Enormous Room (Phòng to, 1922), tiểu thuyết
                    *Tulips and Chimneys ( Hoa Tuylíp và Ống khói,1923), thơ
                    *& (1925), thơ
                    *XLI Poems (1925), thơ
                    *is 5 (1926), thơ
                    *HIM (1927), kịch
                    *Eimi (1933), truyện
                    *Collected Poems (1938), thơ
                    *50 Poems (1940), thơ
                    *1 × 1 (1944), thơ
                    *Xaipe: Seventy-One Poems (1950), thơ
                    *Poems, 1923—1954 (1954), thơ
                    *95 Poems (1958), thơ
                    *73 Poems (1963, thơ





                    PLATO NÓI(1)

                    plato nói
                    với anh; anh không
                    tin (jesus

                    nói với anh; anh
                    không tin)

                    lão

                    tử
                    dĩ nhiên nói
                    với anh, và tướng
                    (vâng

                    quả vậy)
                    sherman;
                    còn nói nhiều hơn
                    (anh tin
                    hoặc

                    không) bạn
                    nói với anh; tôi nói
                    với anh; chúng ta nói với anh
                    anh không tin, không

                    thưa ngài) cuối cùng
                    mảnh đạn nhật
                    làm từ sắt

                    của đường hầm số sáu
                    rơi trên đầu anh; mới nói

                    được với anh.
                    ________
                    (1)Bài thơ này mới xem qua, ta ngỡ là một trò chơi ngộ nghĩnh. Trên thực tế, đây là câu chuyện buồn về một người lính Mỹ. Anh ta không tin, hoặc có thể, chưa hiểu lắm những học thuyết của Plato, Lão Tử, Giê-su nhưng có một điều còn thuyết phục hơn học thuyết của các nhà tư tưởng, nói được với anh ta về cái Thiện và cái Ác. Đó là “a nipponized bit of the old sixth avenue el”, nghĩa là mảnh đạn Nhật, làm từ sắt của đường hầm số Sáu (ở New York). Những năm 30 thế kỉ XX người Mỹ bán sắt đường hầm này thành sắt vụn cho người Nhật. Trong chiến tranh, đạn của Nhật làm từ sắt Mỹ rơi lên đầu lính Mỹ.


                    SAM LÀ MỘT CON NGƯỜI(1)

                    mưa dông hay mưa đá
                    sam làm xong mới thôi
                    làm những gì có thể
                    khi còn sống trên đời

                    sam là một con người

                    chắc khỏe như cây cầu
                    vạm vỡ như con gấu
                    như con chuột – nhanh nhảu
                    cũng giống như anh thôi

                    (tuyết hay là mặt trời)

                    đi về cõi hư vô
                    như tất cả ông vua
                    còn anh rồi sẽ đọc
                    và chim sẽ thổn thức

                    chim đớp muỗi nhớ về

                    con tim từng rộng mở
                    như thế giới mênh mông
                    có chỗ cho thiên thần
                    có chỗ cho quỉ sứ

                    vâng, thưa ngài đúng thế

                    điều gì sẽ tốt hơn
                    hay điều gì xấu hơn
                    không một ai có thể
                    biết được cho rõ rành

                    (không một ai có thể)

                    sam là một con người
                    cười xếch đến mang tai
                    làm việc như quỉ sứ
                    khi còn sống trên đời

                    yên giấc nhé, sam ơi
                    ________
                    (1)Sam là nhân vật có thật, là hàng xóm ở trang trại của Cummings.
                    #10
                      cacbac 18.12.2007 20:21:17 (permalink)


                      Langston Hughes (1 tháng 2 năm 1902 – 22 tháng 5 năm 1967) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Mỹ.
                      Tiểu sử:
                      Langston Hughes sinh ở Joplin, bang Missouri. Là con trai của Carrie Langston Hughes và James Nathaniel Hughes. Sau khi học xong bậc trung học Langston Hughes làm giáo viên dạy tiếng Anh ở Mexico. Một thời gian sống ở châu Âu. Năm 1924 nhà thơ Vachel Lindsay phát hiện ra nhà thơ tương lai Langston Hughes, động viên và giúp Hughes in tập thơ đầu tiên Weary Blues, (Những khúc Blue buồn, 1926). Khi đã bắt đầu nổi tiếng Hughes mới vào học Đại học Lincoln và tốt nghiệp năm 1929. Năm 1943 nhận bằng tiến sĩ Văn chương của Đại học Lincoln, năm 1963 nhận bằng tiến sĩ Văn chương thứ hai của Đại học Howard. Năm 1932 đi sang Liên Xô, sau đó sang Trung Quốc, Nhật Bản. Năm 1937 sang Tây Ban Nha và trở về Mỹ.
                      Langston Hughes là tác giả của 16 tập thơ, nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch và truyện viết cho thiếu nhi. Đáng kể nhất có thể kể đến các tập thơ: Shakespeare in Harlem (Shakespeare ở Harlem, 1942), One Way Ticket (Vé một chiều, 1949), Montage of a Dream Deferred, (Dựng lại giấc mơ bị hoãn, 1951), The Panther and the Lash (Con báo và cái roi, 1967); các vở kịch: Mulatto, (Người da ngăm, 1935), Black Nativity (Giáng sinh đen, 1961); các tập truyện: Laughing to Keep From Crying (Cười để khỏi khóc, 1952), The Big Sea (Biển lớn, 1940); tiểu thuyết: Not Without Laughter (Cười qua nước mắt, 1930)… Một đặc điểm của thơ Langston Hughes là sự kết hợp nhiều thể loại và sử dụng những bài hát dân gian của người da đen.

                      Tác phẩm:
                      Thơ:
                      *The Weary Blues. Knopf, 1926
                      *Fine Clothes to the Jew. Knopf, 1927
                      *The Negro Mother and Other Dramatic Recitations, 1931
                      *Dear Lovely Death, 1931
                      *The Dream Keeper and Other Poems. Knopf, 1932
                      *Scottsboro Limited: Four Poems and a Play. N.Y.: Golden Stair Press, 1932
                      *Shakespeare in Harlem. Knopf, 1942
                      *Freedom's Plow. 1943
                      *Fields of Wonder. Knopf,1947
                      *One-Way Ticket. 1949
                      *Montage of a Dream Deferred. Holt, 1951
                      *Selected Poems of Langston Hughes. 1958
                      *Ask Your Mama: 12 Moods for Jazz. Hill & Wang, 1961
                      *The Panther and the Lash: Poems of Our Times, 1967
                      *The Collected Poems of Langston Hughes. Knopf, 1994
                      *Let America Be America Again 2005
                      Văn xuôi:
                      *Not Without Laughter. Knopf, 1930
                      *The Ways of White Folks. Knopf, 1934
                      *Simple Speaks His Mind. 1950
                      *Laughing to Keep from Crying, Holt, 1952
                      *Simple Takes a Wife. 1953
                      *Sweet Flypaper of Life, photographs by Roy DeCarava. 1955
                      *Simple Stakes a Claim. 1957
                      *Tambourines to Glory (book), 1958
                      *The Best of Simple. 1961
                      *Simple's Uncle Sam. 1965
                      *Something in Common and Other Stories. Hill & Wang, 1963
                      *Short Stories of Langston Hughes. Hill & Wang, 1996
                      *The Big Sea. New York: Knopf, 1940
                      *Famous American Negroes. 1954
                      *Marian Anderson: Famous Concert Singer. 1954
                      *I Wonder as I Wander. New York: Rinehart & Co., 1956
                      *A Pictorial History of the Negro in America, with Milton Meltzer. 1956
                      *Famous Negro Heroes of America. 1958
                      *Fight for Freedom: The Story of the NAACP. 1962
                      Kịch:
                      *Mule Bone, with Zora Neale Hurston. 1931
                      *Mulatto. 1935 (renamed The Barrier, an opera, in 1950)
                      *Troubled Island, with William Grant Still. 1936
                      *Little Ham. 1936
                      *Emperor of Haiti. 1936
                      *Don't You Want to be Free? 1938
                      *Street Scene, contributed lyrics. 1947
                      *Tambourines to glory. 1956
                      *Simply Heavenly. 1957
                      *Black Nativity. 1961
                      *Five Plays by Langston Hughes. Bloomington: Indiana University Press, 1963.
                      *Jericho-Jim Crow. 1964
                      Truyện thiếu nhi:
                      *Popo and Fifina, with Arna Bontemps. 1932
                      *The First Book of the Negroes. 1952
                      *The First Book of Jazz. 1954
                      *The First Book of Rhythms. 1954
                      *The First Book of the West Indies. 1956
                      *First Book of Africa. 1964



                      ĐỜI VẪN ĐẸP SAO

                      Anh đi ra bờ sông
                      Ngồi lên mỏm đá.
                      Không cần nghĩ suy gì cả
                      Anh nhảy xuống sông.

                      Anh lặn xuống nhiều lần
                      Cứ ngỡ là anh chìm nghỉm!
                      Giá mà dòng nước ấm
                      Và cạn hơn – lòng sông.

                      Nhưng dòng nước
                      Chảy trên sông
                      Lạnh vô cùng!


                      Thang máy anh bước vào
                      Mười sáu tầng nhà cao
                      Anh nhớ em, và nghĩ:
                      Sẽ không nhảy xuống đâu!

                      Một nỗi buồn vơi đầy
                      Anh muốn kêu lên ầm ĩ
                      Giá mà không cao như thế
                      Thì anh nhảy xuống chết ngay!

                      Nhưng mà cao
                      Nhà cao lắm!
                      Thật là cao!

                      Giờ anh vẫn sống mà em
                      Và anh vẫn còn sống nữa.
                      Có để làm gì cơ chứ
                      Sinh ra rồi chết vì tình.

                      Em có nghe tiếng anh kêu
                      Và có thấy anh đang khóc
                      Nhưng mà anh không muốn chết
                      Anh không muốn chết, em yêu!

                      Đời vẫn đẹp sao!
                      Ngọt ngào như rượu!
                      Đời vẫn đẹp sao!


                      NHỮNG ỐNG NHỔ BẰNG ĐỒNG

                      Rửa những ống nhổ, này chàng trai!
                      Detroit,
                      Chicago,
                      Atlantic City,
                      Palm Beach.
                      Rửa những ống nhổ đờm
                      Ống khói bếp trong khách sạn
                      Chùi khói thuốc ở ngoài tiền sảnh
                      Đổ những ống nhổ đờm
                      Đấy là cuộc đời của con.
                      Này, chàng trai!
                      Năm xu
                      Một hào
                      Một đô
                      Hai đô một ngày.
                      Này, chàng trai!
                      Năm xu
                      Một hào
                      Một đô
                      Hai đô
                      Để mua giày cho bé
                      Để trả tiền thuê nhà
                      Để chủ nhật đi nhà thờ
                      Ôi lạy chúa!
                      Nhà thờ và con trẻ
                      Chủ nhật và phụ nữ
                      Pha trộn đồng năm xu
                      Đồng đô và lau chùi ống nhổ
                      Và trả tiền thuê nhà
                      Này, chàng trai!
                      Cái bát đồng tau sáng ngời dâng cho Chúa.
                      Bát đòng sáng loáng như cái chũm chọe
                      Của các cô vũ nữ vua David ngày xưa
                      Như chén vàng của vua Solomon ngày trước.
                      Này, chàng trai!
                      Ống nhổ sạch đặt lên làm bàn thờ Chúa
                      Ống nhổ sạch bóng và sáng ngời
                      Ta có thể trả cho những cái này
                      Hãy đi lại đây, chàng trai!



                      LAO CÔNG

                      Tôi phải nói
                      Vâng, thưa ngài!
                      Với ông trong mọi ngày.
                      Vâng, thưa ngài!
                      Vâng, thưa ngài!
                      Suốt cả cuộc đời tôi
                      Chạy lên ngọn núi lớn
                      Của vâng, thưa ngài!

                      Nhà giàu da trắng
                      Giành cả thế giới này
                      Cho phép tôi
                      Xin được đánh giày
                      Vâng, thưa ngài!
                      #11
                        cacbac 18.12.2007 20:26:56 (permalink)


                        Edna St. Vincent Millay (22 tháng 2 năm 1892 – 19 tháng 10 năm 1950) – nữ nhà thơ Mỹ, là người phụ nữ đầu tiên được tặng giải Pulitzer.
                        Tiểu sử:
                        Millay sinh ở Rockland, Maine. Học ở Camden High School. Làm thơ từ những ngày còn là sinh viên. Năm 1917 xuất bản tập thơ đầu tiên Renascence and Other Poems. Đầu những năm 20 là nghệ sĩ của nhà hát Provincetown Players. Thời gian này Millay viết 3 vở kịch thơ cho nhà hát này. Năm 1923, tập thơ The Harp-Weaver, and Other Poems được tặng giải Pulitzer, trở thành người phụ nữ đầu tiên được nhận giải thưởng này. Millay là tác giả của hơn 10 tập thơ. Đáng kể nhất có thể kể đến: Collected Sonnets, 1941; Collected Poems, 1956. Thơ của bà là những tình cảm chân thành được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị mà tao nhã, giọng thơ nhỏ nhẹ nhưng dễ gây xúc động lòng người.
                        Ngoài thơ và kịch sáng tác, Millay còn là người dịch Les Fleurs du mal (Những bông hoa ác) của Charles Baudelaire ra tiếng Anh rất nổi tiếng.


                        TÌNH ĐÂU PHẢI LÀ TẤT CẢ

                        Tình đâu phải là tất cả: không cơm ăn, nước uống
                        Chẳng giấc ngủ ngon, không mái nhà che nắng che mưa
                        Cũng không phải chiếc bè thả xuống, một khi mà
                        Kẻ chết đuối đang dần dần chìm xuống.

                        Tình không thể làm đầy trong lồng ngực
                        Không khí cho ta, khi khó thở, nhọc nhằn
                        Tình không lọc máu, không gắn kết xương
                        Nhưng nếu thiếu tình, người ta sẽ chết.

                        Em cứ ngỡ rằng trong giờ khắc khó nhọc
                        Khi đớn đau, khi buồn bã vô cùng
                        Để đổi lấy hòa bình cho thân xác
                        Hay sự lặng yên em đem bán tình anh

                        Hoặc kỷ niệm những đêm, đổi lấy đồ ăn.
                        Cũng có thể. Nhưng mà em chẳng cần.



                        KHÔNG PHẢI CHẾT VÌ LÒNG THƯƠNG

                        Không phải chết vì lòng thương, mà phải sống
                        Và uống và ăn để khỏe mạnh, lớn lên
                        Để máu nóng, để cho vững chắc xương
                        Để cảm nhận và trí khôn mở rộng
                        Ai kẻ xoay xở, bày mưu, kén chọn
                        Cứ mặc người ta kén cá chọn canh
                        Lòng thương hại của ta chỉ có chừng
                        Rồi không khéo sức lực đều phí uổng!
                        Ngày tháng Chín màu xanh nơi này, nơi nọ
                        Phong đỏ bừng trên những ngọn đồi xanh
                        Và mây trắng bay lượn giữa không trung
                        Người yếu đuối có lẽ cần giúp đỡ.
                        Ta nhất định sẽ xua đi nỗi buồn
                        Uống cốc đầy, ăn hạnh phúc như cơm.
                        #12
                          cacbac 18.12.2007 20:31:05 (permalink)


                          Frederic Ogden Nash (19 tháng 8 năm 1902 – 19 tháng 5 năm 1971) – nhà thơ trào phúng Mỹ, tác giả của những tập thơ châm biếm chua cay mà nhẹ nhàng.

                          Tiểu sử:
                          Ogden Nash sinh ở Rye, New York. Sau khi học xong St. George's School (Middletown, Rhode Island), Nash vào học Đại học Harvard nhưng một năm sau nghỉ học, trở về St. George's dạy học. Một thời gian Nash làm việc ở công ty quảng cáo, sau đó tập trung toàn bộ cho thơ ca. Năm 1950 được bầu làm thành viên của Viện Văn học và Nghệ thuật Quốc gia. Ông mất ở Baltimore năm 1971.
                          Thành tựu đặc sắc nhất của Nash là thơ trào phúng. Ông biết cách châm biếm một cách chua cay thói khoa trương và lố bịch. Một trong những đặc điểm của thơ ông là cứ sau một câu ngắn lại một câu rất dài nhưng vẫn có vần điệu và niêm luật rất chặt chẽ. Bài thơ The Christmas That Almost Wasn’t (Lễ Giáng sinh hầu như chưa xảy ra, 1957) được coi là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Nash.

                          Tác phẩm:
                          Các tập thơ tiêu biểu:
                          *Tự mình là người xa lạ ở đây (I'm a Stranger Here Myself, 1938).
                          *Gương mặt người thân (The Face Is Familiar, 1940).
                          *Những dự định tốt lành (Good Intentions, 1942).
                          *Nhiều năm về trước (Many Long Years Ago, 1945).
                          *Trái ngược (Versus, 1949).
                          *Từ đây anh không đi đến đó (You Can't Get There From Here, 1957).
                          *Tất cả, trừ em và anh (Everyone But Thee and Me, 1962).
                          *Những dòng trong ngày cưới (Marriage Lines, 1964).
                          *Những cuộc phiêu lưu chưa kể của Santa Clause (The Untold Adventures of Santa Clause, 1964).
                          *Cối xay gió không ngừng (There's Always Another Windmill, 1968).
                          *Con chó già nằm sủa (The Old Dog Barks Backwards, 1972).




                          THIÊN NHIÊN BIẾT RÕ

                          Tôi không biết chính xác con người từ cái thời Hector ngày xưa ngày xửa ấy
                          Nhưng tôi tin rằng người ta vẫn bắt đầu mỗi ngày bằng việc sáng ra thức dậy.
                          Vâng, con người đã ngủ rồi thức dậy hàng trăm năm
                          Trong cung điện, nhà tù hay trong toa xe lửa hạng sang.
                          Người thượng cổ cần thức dậy trước khi loài khủng long thức dậy
                          Verdi* cần thức dậy trước khi viết ra vở “Anvil Chorus” bất tử ấy
                          Alexander** cần thức dậy trước khi tiếp tục lên đường chinh phục đất đai
                          Ngay cả Rip Van Winkle*** thức dậy trèo lên núi rồi sau đó mới lại ngủ say.
                          Vâng, loài hoa bắt nguồn từ hoa và loài chim kia thì cũng vậy
                          Còn con người muôn đời nay, mỗi ngày đêm vẫn cần ít nhất một lần thức dậy
                          Không cần bắt ép loài chim hót như chim, thay vì như chuột, vì rằng chim có nguồn gốc từ chim
                          Và vì rằng hoa có nguồn gốc từ hoa, không cần bắt ép chúng tỏa mùi hương thay mùi cao su cháy hay xà phòng
                          Nhưng con người đã bao thế hệ xưa nay vẫn thường xuyên sống cả đời trên đệm lông chim hay nệm cỏ
                          Bởi vì không biết cách thức dậy mỗi buổi sáng theo lương tâm của mình hay ai đó, đồng hồ báo thức hay người phục vụ.
                          Còn tôi rút ra một kết luận rõ ràng – như đã nói từ đầu
                          Nếu như Thiên nhiên chỉ định con người thức dậy mỗi buổi sáng, thì người ta sẽ thức dậy tự nhiên chứ chẳng cần phải ép buộc gì đâu.
                          ____________
                          *Verdi, Giuseppe (1813 – 1901) – nhạc sĩ Italia.
                          **Alexander Đại đế (356 – 323 tr. CN) – Hoàng đế Macedonia, vị tướng lừng danh thời cổ đại.
                          ***Rip van Winkle – nhân vật trong truyện cùng tên của nhà văn Washington Irving (1783 – 1859), người đã ngủ trong gần hai mươi năm.
                          #13
                            cacbac 18.12.2007 20:37:24 (permalink)


                            Sylvia Plath (27/10/1932—11/2/1963) – nữ nhà thơ, nhà văn Mỹ. Người đời thường so sánh thơ của Sylvia Plath với loại “thơ xưng tội”(confessional poetry) của Robert Lowell và W.D. Snodgrass.

                            Cuộc đời:
                            Sylvia Plath sinh ở Boston, Massachussets (Mỹ). Lên 8 tuổi mồ côi bố, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính cách, số phận và sáng tác của S. Plath sau đó. Năm 1955 học xong trường Smith College danh tiếng, S. Plath được nhận học bổng Fulbright và tiếp tục sang Anh học Đại học Cambridge. Năm 1956 lấy chồng – nhà thơ Anh Ted Hughes. Mùa hè năm 1962 họ chia tay nhau. Tháng 2-1963 S. Plath tự tử.

                            Tác phẩm:
                            Khi còn sống, S. Plath mới in một tập thơ “The Colossus, 1960” và tiểu thuyết “The Bell Jar, 1963”(Lọ chuông) với bút danh Victoria Lucas. Sau khi mất, các tập thơ: “Ariel, 1965”, “Crosing the Water, 1971”, “Winter Trees, 1972”(Cây mùa đông) được xuất bản. Nhà thơ Ted Hughes – chồng cũ của S. Plath tập hợp và in “Tuyển tập thơ – Collected Poems” năm 1981. Năm sau, 1982 được trao giải Pulitze – một điều hiếm thấy trong lịch sử của giải thưởng vốn chỉ trao cho những người còn sống. Sylvia Plath được coi là một nhà thơ nữ đặc sắc của Mỹ trong thế kỷ XX.




                            BẢN TÌNH CA CỦA CÔ GÁI ĐIÊN

                            Nhắm mắt lại, cả thế giới lụi tàn
                            Mở mắt ra, tất cả đều mới mẻ
                            (Em cứ ngỡ rằng em đã nghĩ ra anh).

                            Những ngôi sao với màu đỏ và xanh
                            Dưới trời hoàng hôn tối đen như mực
                            Nhắm mắt vào, cả thế giới lụi tàn.

                            Hướng về ánh mắt, bờ môi dịu dàng
                            Và những bài ca dưới trăng em đợi
                            (Em cứ ngỡ rằng, em đã nghĩ ra anh).

                            Cả cơn nóng địa ngục và Thượng Đế không còn
                            Biến mất hết cả thần tiên, quỷ sứ
                            Nhắm mắt vào, cả thế giới lụi tàn.

                            Em mơ màng những câu nói của anh
                            Rồi lớn lên, và rồi em quên lãng
                            (Em cứ ngỡ rằng, em đã nghĩ ra anh).

                            Yêu con chim tiếng sấm, trong cái lần
                            Giữa mùa xuân, không dữ dằn đến nỗi
                            Nhắm mắt vào, cả thế gian tàn lụi
                            (Em cứ ngỡ rằng, em đã nghĩ ra anh).


                            GƯƠNG

                            Tôi bằng bạc. Tôi không thành kiến, mà chính xác
                            Nhìn thấy thứ gì, hấp thụ hết vào gương
                            Như vốn có – không bị phủ mờ bởi ghét và thương
                            Tôi không dữ dằn, tôi chỉ yêu sự thật.
                            Con mắt của Chúa, con mắt trong bốn góc
                            Thường suy tư, nhìn đối diện bức tường
                            Bức tường hồng vấy bẩn. Tôi nhìn, tôi suy ngẫm
                            Tường là một phần của trái tim. Nhưng tường run bắn
                            Bóng tối và mặt người làm cho cách biệt thường xuyên.

                            Tôi là mặt nước hồ. Phụ nữ cúi trên gương
                            Họ nhìn vào tôi để tìm ra con người thật
                            Rồi hướng về nến và trăng – những kẻ chuyên lừa lọc
                            Tôi nhìn thấy lưng nàng và phản chiếu trong gương
                            Phụ nữ khóc lên, hai bàn tay phụ nữ run run
                            Phụ nữ cần gương. Phụ nữ đi rồi trở lại
                            Mỗi buổi sáng khuôn mặt hiện trước gương từ bóng tối
                            Phụ nữ chìm trong gương cả thiếu nữ, cả khi đà luống tuổi
                            Ngày lại ngày đứng trước gương như con cá khủng khiếp vô cùng.


                            CÂY ANH TÚC THÁNG MƯỜI

                            Ngay cả mây trời sáng nay cũng không sai nổi váy
                            Không có người phụ nữ ở trong xe cấp cứu
                            Trái tim đỏ của nàng ánh lên áo khoác đến sững sờ –

                            Tặng vật của tình yêu
                            Tự ý và dứt khoát
                            Dưới trời

                            Cháy như lửa và nguôi
                            Thán khí bừng trong đôi mắt
                            Lờ đờ dưới vành mũ quả dưa.

                            Ôi, lạy Chúa, ta là ai
                            Sẽ kêu lên những lời đã muộn
                            Trong rừng băng, trong bình minh của những bụi thỉ xa.


                            KHÚC HÁT BAN MAI

                            Tình yêu dẫn dắt anh như chiếc đồng hồ vàng
                            Bà mụ vỗ vào chân, vào tiếng kêu của anh
                            Chiếm chỗ của mình trong từng nguyên tố.

                            Những lời vang lên đón chào anh. Bức tượng mới
                            Trong bảo tàng, anh trần truồng che chở
                            Bóng của chúng tôi. Quanh anh như những bức tường.

                            Em sẽ là mẹ của anh, không hơn
                            Một đám mây tan trong gương, phản chiếu
                            Trong bàn tay của gió sự ra đi chầm chậm của mình.

                            Hơi thở của anh như sâu bướm suốt đêm
                            Nhấp nháy giữa hoa hồng, và em tỉnh giấc
                            Nghe tiếng rì rào của biển chốn xa xăm.

                            Một tiếng kêu, em suýt ngã xuống từ giường
                            Như một con bò sữa trong chiếc áo đêm
                            Miệng anh mở như miệng mèo. Hình vuông cửa sổ

                            Có màu trắng, nuốt những ngôi sao. Còn anh thử
                            Nắm bàn tay của bao nhiêu câu chữ
                            Những nguyên âm sạch vẫy vùng như những quả bóng giữa không trung.





                            TÌNH ĐỊCH

                            Nếu trăng mỉm cười, trăng cũng giống như cô
                            Cô cũng gây ấn tượng như trăng, y hệt
                            Ấn tượng của một cái gì đó đẹp, nhưng hủy diệt
                            Đều là những kẻ ưa gom ánh sáng về mình
                            Miệng trăng làm khổ đời, còn miệng cô thản nhiên.

                            Làm mọi thứ trở thành đá, là tài năng đầu tiên
                            Của cô ở đây, còn tôi thấy mình trong lăng mộ
                            Gõ ngón tay trên bàn cẩm thạch, cô tìm thuốc lá
                            Hằn học như phụ nữ nhưng không cáu bẳn bực mình
                            Rồi thốt ra một điều gì có chứng cớ hiển nhiên.

                            Trăng cũng lăng mạ những thần dân của mình
                            Nhưng giữa ban ngày trăng quả là lố bịch
                            Sự bất mãn của cô ở trong bàn tay khác
                            Xuyên qua đường bưu điện, vẻ quyến rũ thường xuyên
                            Trắng và trong, nhưng như thán khí lan truyền.

                            Không ngày nào không nghe về cô những cái tin
                            Có thể cô đi dạo ở châu Phi, nhưng nghĩ về tôi đấy.


                            NGÀY THỨ HAI MUÔN THUỞ

                            Anh sẽ là ngày thứ Hai muôn thuở
                            Và sẽ đứng trong trăng.

                            Người trăng đứng trong vỏ bọc của mình
                            Thích ẩn mình sau đống củi
                            Ánh sáng rơi như phấn và lạnh lẽo
                            Trên vải trải giường.
                            Răng đập vào nhau giữa những đỉnh bệnh phong
                            Và những miệng hoả diệm sơn đã tắt.

                            Nó cũng chống lại thứ đen ngòm giá buốt
                            Có thể chặt củi mà chẳng nghỉ ngơi
                            Cho đến một khi cái bóng ma của mặt trời
                            Chưa bị phòng sáng của nó làm cho mờ nhạt
                            Còn bây giờ công việc của địa ngục ngày thứ Hai trên quả cầu trăng
                            Không còn lửa, bảy biển lạnh trói vào mắt cá của chân.

                            #14
                              cacbac 18.12.2007 20:48:45 (permalink)


                              Edgar Allan Poe (19 tháng 1 năm 1809 – 7 tháng 10 năm 1849) là nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ Mỹ. Edgar Poe là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Charles Pierre Baudelaire, Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky, Sir Arthur Conan Doyle…

                              Tiểu sử:
                              Edgar Poe sinh ở Boston, là con thứ hai của David Poe và Elizabeth Arnold Hopkins Poe. Bố mẹ mất sớm, Poe được John Allan nhận làm con nuôi. Từ đó Allan trở thành họ thứ hai của Edgar. Những năm 1815 – 1820 Edgar Poe cùng gia đình Allan đi sang Anh, Poe học ở trường Richmond. Năm 1826 vào học Đại học Virginia nhưng chỉ học được một học kỳ thì bỏ. Năm 1827 Poe trở về Boston in cuốn Tamerlane and Other Poems, cũng trong năm này Poe gia nhập quân đội và 2 năm sau đấy, khi mẹ nuôi mất, Poe xin ra quân. Năm 1829 in tập sách thứ hai: Al Aaraaf, Tamerlane, and Minor Poems. Năm 1830 vào học trường quân đội nhưng cũng chỉ được một năm lại bỏ học. Trở về New York, Poe in cuốn Poems. Năm 1833 in truyện MS Found in a Bottle được tặng giải thưởng của một tạp chí ở Bantimore. Năm 1836 Poe cưới vợ, là một cô gái mới 14 tuổi. Những năm từ 1836-1842 Poe làm biên tập của nhiều tạp chí. Năm 1845 in bài thơ Raven (Con quạ), là tác phẩm nổi tiếng nhất của Edgar Poe. Năm 1847, vợ chết, Poe bị ốm nặng, cả năm hầu như không sáng tác nhưng 2 năm sau đó ông viết được nhiều bài thơ nổi tiếng như: The Bells, For Annie, Annabel Lee, Eldorado… Năm 1849 ông sống với một người phụ nữ mà ngày xưa hai người từng yêu nhau. Thời gian sau đấy không có tư liệu về tiểu sử của Poe. Ngày 3 tháng 10 năm 1849 người ta tìm thấy ông trong một quán rượu ở Bantimore. Ông mất ngày 7 tháng 10 năm năm 1849.

                              Tác phẩm:
                              Tác phẩm của Edgar Allan Poe được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chủ yếu của thế giới. Những bản dịch của Charles Pierre Baudelaire, Stéphane Mallarmé ra tiếng Pháp tác phẩm của Poe trở thành những bản dịch nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn, nhà thơ lớn khắp thế giới. Tuy nhiên, Edgar Allan Poe bằng tiếng Việt hầu như chưa có gì, ngoài một số bài thơ. Dưới đây là phần nói về những bài thơ đã được dịch sang tiếng Việt.

                              Bài thơ Eldorado lần đầu tiên in ở tạp chí Flag of Our Union tháng 4 năm 1849. Tiếng Tây Ban Nha “El Dorado” có nghĩa là “dát vàng”. Nguồn gốc của từ này xuất phát từ một tục lệ của một bộ tộc người da đỏ khi nhà vua mới lên ngôi họ đem cát vàng rắc lên người nhà vua. Từ đó sinh ra truyền thuyết về “người dát vàng “El Dorado” mà những nhà thám hiểm Tây Ban Nha từng gặp đâu đó ở Nam Mỹ. Trên thực tế nó được bắt nguồn từ những lời kể của nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Francisco de Orellana về một vùng đất nằm giữa sông Amazon và hồ Parima ở Guiana (Nam Mỹ). Một người Tây Ban Nha khác có tên là Martinez còn kể khắp châu Âu rằng ông ta từng sống 7 tháng ở thủ đô Manoa của vương quốc Eldorado này và mô tả tỉ mỉ về cung điện của nhà vua bằng vàng ròng, còn nhà vua cứ buổi sáng rửa hết vàng, buổi tối trước khi đi ngủ lại dát vàng lên người. Truyền thuyết này sau đó trở thành đề tài cho tin đồn về một xứ sở có rất nhiều vàng mà những người dân ở đó đem vàng dát lên người. Sau đấy, có rất nhiều đoàn thám hiểm (không chỉ của người Tây Ban Nha mà còn của người Anh) đi tìm vùng đất này. Cuộc thám hiểm quan trọng nhất do nhà thám hiểm người Anh Walter Raleigh thực hiện vào đầu thế kỷ XVII. Suốt gần 300 người ta đi tìm Eldorado mà không thấy, nhưng những cuộc tìm kiếm này đã đem lại nhiều kết quả khoa học về địa lý học và dân tộc học rất quan trọng. Tháng 1 năm 1848 người ta tìm thấy vàng ở California thì người đời cho đấy là “El Dorado”. Bài thơ này của Edgar Allan Poe viết trong những ngày tháng được gọi là “Cơn sốt vàng” (California Gold Rush) đó, nhưng đề tài Eldorado tác giả hoàn toàn viết theo cách của mình.
                              Chàng hiệp sĩ suốt cả cuộc đời đi tìm miền đất xa lạ, mà có thể là không tồn tại trên đời, tất nhiên, không giống như những kẻ khát khao đi tìm vàng. Thành ra, bài thơ này viết về con người đi tìm cái tuyệt đối. Khổ thơ cuối, qua lời của chiếc bóng phiêu du, nói rằng “Eldorado” thật, không có ở cõi đời này mà ở bên kia thế giới.

                              Bài thơ Annabel Lee lần đầu in ở báo New York Tribune ngày 9 tháng 10 năm 1849, hai ngày sau khi nhà thơ qua đời. Nhiều nhà thư mục khẳng định đây là bài thơ tác giả viết về người vợ của mình chết khi hãy còn rất trẻ. Tuy vậy, từ năm 1846, nghĩa là trước cái chết của vợ ông, Edgar Allan Poe đã viết trong tác phẩm The Philosophy of Composition (Triết học của sáng tạo) rằng: “…Cái chết của người phụ nữ đẹp, ngoài mọi điều nghi ngờ, là đối tượng của thi ca và cũng không hề nghi ngờ rằng, với đối tượng này thích hợp hơn hết là bờ môi của người tình đang đau khổ”. Đây cũng là đề tài trong những bài thơ nổi tiếng khác của ông như Raven, Ulalume.



                              Danh mục tác phẩm:
                              Văn xuôi:
                              *Berenice
                              *The Black Cat
                              *The Cask of Amontillado
                              *The Fall of the House of Usher
                              *The Gold-Bug
                              *Hop-Frog
                              *Ligeia
                              *The Man of the Crowd
                              *The Masque of the Red Death
                              *The Murders in the Rue Morgue
                              *The Pit and the Pendulum
                              *The Purloined Letter
                              *The Tell-Tale Heart
                              *Philosophy of Composition

                              Thơ:
                              *Annabel Lee
                              *The Bells
                              *The City in the Sea
                              *Eldorado
                              *The Haunted Palace
                              *Lenore
                              *The Raven
                              *Ulalume



                              Eldorado

                              Xưa có chàng hiệp sĩ
                              Trẻ trung và vui vẻ
                              Ngày sáng hay đêm mờ
                              Luôn đi về phía trước
                              Chàng hát vang câu hát
                              Chàng đi tìm Eldorado.

                              Nhưng thời gian thấm thoắt
                              Đến lúc già, bạc tóc
                              Con tim chàng mơ hồ
                              Mà chàng trai không thể
                              Tìm đâu ra xứ sở
                              Giống như là Eldorado.

                              Rồi một hôm, chàng bỗng
                              Gặp trên đường chiếc bóng
                              Một chiếc bóng phiêu du
                              “Này bóng – chàng gặng hỏi –
                              Ở đâu miền đất ấy
                              Có tên là Eldorado?”

                              “Sau Núi Trăng chót vót –
                              Chiếc bóng kia liền đáp –
                              Qua chín núi bảy hồ
                              Rồi đi qua Thung lũng
                              Qua vương quốc của Bóng
                              Nếu muốn tìm Eldorado!”



                              Annabel Lee

                              Chuyện xảy ra đã nhiều năm về trước
                              Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
                              Một cô gái, hẳn mọi người dã biết
                              Nàng có tên là Annabel Lee
                              Nàng đã sống với một điều ao ước
                              Yêu người và được yêu lại nhường kia.

                              Nàng con trẻ, tôi cũng là con trẻ
                              Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
                              Chưa từng có ai yêu nhau như thế
                              Như tôi và nàng Annabel Lee
                              Yêu đến mức để thiên thần ghen tỵ
                              Dù thiên thần vẫn ở chốn xanh kia.

                              Chính vì thế mà đã từ lâu lắm
                              Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
                              Cơn gió lạnh từ mây đen ập xuống
                              Đã giết chết nàng Annabel Lee
                              Anh em, họ hàng cao sang đổ đến
                              Những người thân đã mang xác nàng đi
                              Rồi họ đã chôn nàng trong mồ lạnh
                              Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì.

                              Niềm hạnh phúc, dù mới là một nửa
                              Mà thiên thần đã ganh tỵ nhường kia
                              Chính vì thế (mọi người hay biết cả
                              Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì)
                              Cơn gió lạnh từ đám mây đen đúa
                              Đã giết chết nàng Annabel Lee.

                              Nhưng tình yêu chúng tôi càng mạnh mẽ
                              Hơn những ai sống hạnh phúc đến già
                              Và những ai khôn khéo đã chắc gì –
                              Dù cả thiên thần ngự trên cao ấy
                              Hay quỉ ma dưới sóng biển rầm rì
                              Cũng không ngăn cách nổi hồn tôi với
                              Linh hồn của nàng Annabel Lee.

                              Ánh trăng sáng gợi ra nhiều giấc mộng
                              Tôi mơ về nàng Annabel Lee
                              Nhìn những ngôi sao thấy đôi mắt sáng
                              Đẹp tuyệt vời của Annabel Lee
                              Cứ hằng đêm, hằng đêm tôi lại đến
                              Với người vợ hiền, người yêu, người bạn
                              Năm trong nấm mồ bên chốn biển xa
                              Đang ngủ yên trong sóng biển rầm rì.


                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 22 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9