Nhờ Tin có ông trời
Kính dâng mùa Phật-Đản 2546 và Vu-Lan Báo-Hiếu năm 2002
Tứ Hiếu :
‘’ Một, dưỡng nuôi là hiếu dưỡng bình thường
Hai, hiếu hạnh là việc làm hiếu thảo
Ba, hiếu tâm là lòng thành con, cháu,
Dù ở xa cũng hướng đến cha mẹ hiền
Ba hiếu trên chỉ giúp thể xác được bình yên
Nhưng không thể cứu tội căn cho Phụ-Mẫu
Chưa tạo phước lành ai hiểu thấu
Khi lâm chung siêu đọa ai tận tường
Hiếu thứ tư, hiếu đạo vượt bình thường...!’’.
(Bước Chân Xuất Thế)
*
‘’Cha mẹ sanh con trời sanh tánh !’’. Câu nói này thường xuyên phát ra từ miệng của người đời. Vì có những cha mẹ hiền mà lại sanh những đứa con ngổ nghịch, cứng đầu, hoặc ngược lại...
... Vào đầu thập niên 1940 ở ấp Bình-Thượng, làng Bình-Chánh (Chợ-Lớn). Trong một gia đình nọ, có hai anh em chú bác ruột, tên Tự và Nhiên là hai đứa con trai duy nhứt của hai anh em ông Hội Đồng Nguyễn Hữu Thanh và ông Cả Nguyễn Hữu Thản. Tự và Nhiên hồi lúc còn nhỏ thì ngoan ngoãn, học hành rất siêng năng. Rồi bỗng nhiên đến tuổi mười lăm mười sáu thì chẳng chịu tiếp tục học gì nữa mà tối ngày chỉ rong chơi lêu lõng. Đến khi mười tám mười chín tuổi thì hai cậu lại đi phá làng phá xóm, rồi trở thành ăn-cướp nổi tiếng trong làng. Chẳng hiểu trong đầu hai cậu nghĩ gì ? Hai cậu rủ nhau đi ăn-cướp. Khi cướp xong thì lấy tiền bạc vàng vòng phân phát cho những người nghèo trong làng. Vì thế mà chỉ có dân nhà giàu sợ họ. Chớ dân nghèo thì lại thích. Làm giòng họ, cha mẹ phải mang tiếng và sầu khổ vô cùng. Việt Nam mình có câu : ‘’Luật vua thua lệ làng’’. Vì thế mà chẳng ai dám bắt họ.
Hai bà Mẹ của hai cậu là khổ nhứt. Một hôm ông bà Hội Đồng Thanh mời bà con quyến thuộc trong gia đình họp lại để bày mưu lập kế tính chuyện bắt cho bằng được hai thằng con ngổ nghịch đem về trị tội. Bà Hội Đồng Thanh biết con rất thương mình. Bà giả bệnh nặng, rồi nhờ người nhắn Tự phải về gặp mặt bà gấp.
Được tin mẹ bệnh, Tự nói với Nhiên :
- Nhiên ơi ! Tao phải về thăm má tao. Mày dám về với tao không ?
Nhiên nhìn Tự, lòng nghĩ : ‘’Từ hồi nào tới giờ mình theo anh Tự. Nay ảnh về thì mình cũng về chứ ?’’. Nhiên gật đầu :
- Về thì về. Ba em khó hơn ba anh. Ổng mà bắt được em chắc ổng xiềng em vô cột nhà quá !
- Nếu, mầy sợ thì mầy đừng theo tao về. Bộ tao không ngán ba tao sao ? Nhưng tao thương má tao lắm. Tao sẽ rình chờ chừng nào ba tao đi hội họp, hay ai mời đi ăn nhậu thì tao vô nhà.
- Anh có ý đó rất hay.
- Tao sẽ cho người gặp con Út Ngân, nhỏ làm nhà tao, bảo nó cho tin tức coi ông già tao chừng nào vắng nhà.
- Anh tin nó sao ?
- Nó sợ tao như cọp. Nó không dám cãi hay nói láo với tao đâu.
Vài hôm sau, Út Ngân nghe phong phanh là ông Hội Đồng Thanh đi ra ngoài làng họp và không ăn cơm nhà. Cô liền đi cho Tự hay tin. Và đồng thời cho bà Hội Đồng Thanh biết là Tự sẽ về đêm nay để thăm bà. Bà lật đật xức dầu cù-là leo lên giường nằm trùm mền và làm bộ rên.
Tự và Nhiên lén về. Vô nhà Tự đến giường hỏi mẹ :
- Má ơi ! Có con với thằng Nhiên về thăm má nè. Má bệnh gì vậy má ?
Nhiên cũng hỏi :
- Bác Hai, bác bệnh gì vậy bác ?
Bà Hội Đồng Thanh trở mình qua vừa rên vừa nói :
- Đã hai ba ông thầy thuốc đến bắt mạch, họ nói bác bị thúi ruột. Chắc bác sẽ chết sớm quá con ơi !
Tự nghe mẹ nói, lòng cậu rung lên :
- Má đừng nói vậy má ơi !
Bà Hội Đồng Thanh vẫn nằm trùm mền và nói :
- Con sợ má chết sao ? Nếu thật vậy, thì con đâu có làm khổ mẹ cha như thế này. Thôi, để má chết cho rồi !
Nhiên nhìn Tự lắc đầu :
- Anh thấy chưa ?
Bất chợt từ trong phòng có năm sáu người ùa ra đè Tự và Nhiên xuống, họ lấy bao bố trùm đầu hai cậu và lấy dây luột cột lại.
Thế là mưu kế bắt Tự và Nhiên đã thành công. Hùm dữ còn không ăn thịt con. Ông Hội Đồng Thanh và ông Cả Thản nhờ mấy gia-nhân xích lòi-tói vô chân hai cậu. Ông Cả Thản dẫn Nhiên về nhà. Còn ông Hội Đồng Thanh thì xiềng Tự vào cây cột lớn giữa nhà. Tự tức giận con Út Ngân cành hông. Hăm dọa Út : ‘’Nếu tao được sút chuồng là tao giết mầy, Út Ngân ơi !’’.
Mấy ngày Tự bị xiềng xích. Chỉ có mẹ cậu đem cơm và đổ bô tiêu-tiện cho cậu. Bà Hội Đồng Thanh không dám cho Út Ngân đến gần Tự. Út Ngân vì sợ Tự giết nên xin nghỉ việc về quê.
Ông Hội Đồng Thanh gọi các anh em trong giòng họ lại nhà. Ông chẳng dám rầy la con mà ông chỉ năn nỉ. Bà Hội Đồng cũng khóc lóc nhẹ lời năn nỉ con mình. Nhưng chưa dám tháo xiềng cho con vì sợ cậu chạy thoát.
Tự thấy mẹ khổ vì mình. Lòng cậu rất thương mẹ nhưng lại bất mãn người cha thuộc loại ‘’cường hào ác bá’’. Ông Hội Đồng Thanh rất sắt lệnh với dân làng, nhưng với con thì ông phải chùng bước. Ông năn nỉ Tự trước mặt mọi người :
- Ba lạy con, con hãy từ bỏ ăn-cướp mà trở về nhà, ba má sẽ lo cưới vợ cho con. Con đi ăn-cướp ác quá. Trời, Phật sẽ hại con sau này đó. Ba xin con hãy chừa bỏ đi. Rồi con muốn gì ba cũng chìu theo ý con.
Tự bị xiềng, lòng tức giận lắm. Cậu đứng lên và nói :
- Nè, tất cả mọi người làm chứng nghe. Cho tôi ra điều kiện với ba tôi.
Ai ai cũng nhìn ông Hội Đồng. Ông gật đầu. Mọi người đều gật đầu theo. Ông Cả Thản đứng lên đến gần nói với Tự :
- Thằng Nhiên nó nói, con là người cầm đầu trong bọn. Con ngưng là nó ngừng liền theo con. Hồi nãy, nó đòi theo chú qua đây mà chú không cho. Chú cũng xin con hãy nghe lời ba con đi.
Ông Hội Đồng Thanh nhìn vợ, ý bảo vợ rót nước trà thêm vào tách mọi người. Ông thở ra, nhìn con và nói :
- Điều kiện gì ? Mầy cứ nói ra đi.
Tự ngồi bệt xuống sàn nhà, tay khoanh qua hai đầu gối, nói :
- Ba, và chú Ba bớt ở ác với những Tá-điền và dân nghèo trong làng... Con sẽ nghe lời ba má cưới vợ. Nhưng... nếu có ông trời thì sau khi con có vợ. Ông trời cho vợ con sanh một cặp trai, và một cặp gái. Con sẽ không phá mấy nhà giàu nữa...
Mọi người nhìn ông Hội Đồng Thanh. Ý bảo ông nên hứa đại cho vui lòng Tự. Ông lắc đầu, rồi nói lớn :
- Thiệt, mầy là thằng coi Trời-Phật không ra gì. Trời sẽ đánh mầy. Trời ơi ! Xin ngó xuống mà coi nè trời !
Ông Cả Thản nhẹ giọng nói với anh :
- Anh Hai, anh nên giằng cơn giận. Cháu nó có lòng tin nên mới nói vậy. Anh nên bằng lòng đi.
Ông Hội Đồng Thanh lấy hột quẹt đốt ống điếu, hít vài hơi, ông đứng dậy và nói ngọt với con :
- Rồi, ba hứa với con trước mặt mọi người đây. Ba bằng lòng những điều kiện của con.
Ánh mắt của Tự đổi lại hiền từ. Nhưng cậu chỉ vào chân và hỏi cha cái giọng hơi mất dạy :
- Vậy, sao ba không mở lòi tói cho con ?
Bà Hội Đồng vừa nghe con hỏi, bà liền đến bàn thờ vói tay lấy chìa khóa cầm trong tay. Bà đi lại gần năn nỉ chồng :
- Ông à. Ông mở lòi tói cho con đi.
- Bà nữa hả ! Cứ bênh vực nó hoài. Bởi vậy, người ta nói : con hư tại mẹ mà !
Ông Thản tiếp lời anh :
- Xin anh nên mở khóa xiềng cho cháu.
- Chú Ba nó, có dám mở xiềng cho thằng Nhiên chưa ?
- Dạ, tại vì dấu anh, chớ thằng Nhiên không có bị xiềng như cháu Tự đây đâu. Nó tự do đi lại từ hỗm rày.
Mặc dù, ông Thản không cho Nhiên đến đây, nhưng Nhiên cũng rình rình mò đến đứng đằng sau bếp nghe ngóng. Bất chợt, Nhiên lù lù ra và quỳ gối chấp tay nói với ông Hội Đồng Thanh :
- Dạ, con lạy bác Hai, con sẽ không theo anh Tự nữa. Xin bác tha cho anh Tự. Con bảo đảm, nếu anh Tự thất hứa với bác. Con sẽ thế mạng. Xin bác mở xiềng cho anh Tự.
Ông Hội Đồng nhìn Nhiên. Rồi ông giựt chìa khóa trên tay vợ và quăng trước mặt Nhiên, ông bảo :
- Nè, mầy mở cho nó đi. Nhớ nghe hôn. Có gì thì mầy lãnh tội dùm nó.
Tất cả mọi người thở nhẹ nhàng...
Sau đó, Tự và Nhiên trở lại những đứa con ngoan ngoãn như xưa. Và nghe lời mẹ cha cưới vợ đàng hoàng.
Hai năm sau, vợ Tự song sanh hai đứa con gái. Tự lại bất mãn. Vì cậu xin hai đứa con trai trước mà lại cho con gái. Tự liền qua nhà Nhiên tính chuyện ‘’phá làng’’ nữa. Vợ Nhiên đang bụng chửa dạ mang. Nhiên nhứt định không làm theo Tự, và khuyên Tự hết lời. Tự thấy không có Nhiên thì như cua không càng. Cậu lại đi lên Chợ-Lớn vào mấy sòng bài cờ bạc, hút xách, chơi bời. Tự tưởng mình thuộc loại thứ dữ, nhưng nào ngờ ở trên Chợ-Lớn còn dữ tợn hơn. Một hôm, Tự gặp dân cờ-gian, bạc lận gì không biết. Tự gây gỗ với họ nên bị dân anh-chị đánh bễ đầu sưng mặt. Tự trở về nhà xin tiền mẹ. Mẹ cậu đâu có quyền hành gì tiền bạc. Bà thương con quá nên lòn rút được một số tiền của chồng đưa cho con. Nhiều lần như vậy, ông Hội Đồng Thanh nghi là bị mất cắp tiền. Ông hành tội vợ. Bà vợ khổ quá nên sanh bệnh thật.
Tự hết đường gỡ gặc. Lại thấy mẹ bệnh nặng. Vợ cậu lại đang mang thai. Cậu rất muốn trở về nhà, nhưng sợ gặp cha thì kỳ này sẽ bị cha xiềng múc chỉ. Nên cậu cứ lang thang lòng vòng trên Chợ-Lớn như thằng ăn mày.
Căn bệnh trầm cảm của bà Hội Đồng Thanh càng ngày càng nặng, không có thuốc men gì chữa nổi. Bà không ăn uống, thân xác ốm o, kiệt sức sắp lìa đời. Bà xin phép và năn nỉ chồng cho thằng con về thấy mặt bà lần cuối cùng. Ông Hội Đồng nhứt quyết không chịu, vì ông đã tuyên bố từ con rồi.
Đến ngày vợ Tự vào nhà sanh, lại song sanh hai đứa con trai. Tự nghe tin ấy, trong lòng chấn động như bị trời đánh vì quá sợ ông trời. Tự nhủ : ‘’Có ông Trời thiệt rồi !’’. Tự trở về Bình-Thượng vào tiệm hớt tóc quen, cậu quỳ lạy xin họ cạo đầu dùm. Rồi mang cái đầu trọc lóc, thân xác tồi tàn về nộp mạng với cha.
Căn bệnh nặng, xem như nan-y của bà Hội Đồng Thanh. Nhưng sau khi bà nghe con mình hối hận và cạo đầu. Như liều thuốc tiên, bà nghe nhẹ người, tinh thần khoan khoái và lại đòi ăn uống...
Tất cả giòng họ thấy sự linh ứng đó. Họ hàng cùng họp lại nhà ông Hội Đồng Thanh để làm chay cúng Phật và sẵn dịp tha thứ cho Tự lần nữa.
Tự sợ Trời, và lòng thật sự tin có Trời, Phật. Cậu xin cha xây cất một ngôi chùa nho nhỏ và rủ Nhiên đi tu với cậu. Nhiên sẵn có tâm tánh hiền từ. Nhưng vì bị ông anh con bác rủ đi ăn-cướp nhà giàu cho nhà nghèo cậu xiêu lòng nghe theo. Nên bây giờ cũng thấy trong lòng mang nhiều tội lỗi. Cậu cũng bỏ vợ con mà theo Tự vô chùa tu chung.
Từ đó, Nguyễn Hữu Tự và Nguyễn Hữu Nhiên xả bỏ hết chuyện hồng trần mà vĩnh viễn theo bước chân của Đức Từ Phụ Thích-Ca-Mâu-Ni để tu hành, phó mặc cho vợ con sống sao tùy ý.
Lòng mẹ thương con bao la, nên bà Hội Đồng Thanh cũng đi theo con vô chùa làm Bà-Vãi, công quả nấu nướng trong chùa. Bà giao phó việc nhà cơm nước cho vợ của Tự và Chuông, đứa tớ trai lo cho chồng bà...
Nhờ tin có Ông Trời, hay là nhờ có Chân-Tu mà Tự và Nhiên bỏ đời vào chùa tu tới ngày nay... ? ? ?
(Ivry-sur-Seine, Bạch-Am, ngày 10-04-2002.)
Lá Rơi Về Cội Ngày biển quê hương nổi cơn sóng gió dữ dội, làm én nhạn tung cánh bay đi tìm đất Tự Do khắp bốn biển năm Châu !
Rời khỏi quê hương yêu dấu. Mười tám năm sau...
Vào mùa hè, Khanh trở về Sài-gòn thăm quê-hương. Chàng tạm trú tại khách sạn Majestic góc đường Tự Do - bến Bạch Đằng quận nhứt (Sài-gòn). Mấy ngày đi viếng những cảnh cũ đường xưa, lòng vòng một mình buồn tẻ. Vì vợ con không đi theo. Một chiều, Khanh cảm thấy mệt mỏi, chàng nhấc điện thoại gọi xuống phòng tiếp tân nhờ họ kêu cho chàng một nàng kiều-nữ đấm bóp...
Hải Lệ, cô gái xinh như mộng, đẹp như mơ, dáng vóc thon thon, nước da trắng trẻo, mái tóc thề tha thướt, đôi mắt sáng ướt long lanh dưới màn lệ mỏng, sóng mũi dọc dừa, miệng cười như đóa hồng chớm nở. Cô tô son điểm phấn rất đơn sơ, cô mặc quần Jean, chiếc áo thun trắng có in hai chữ Sài-Gòn màu vàng rực trước ngực. Ai nhìn cô là có cảm tình ngay. Bởi không thể nào cho cô làm cái nghề đấm bóp được... Nhưng buồn thay !
Hải Lệ xách giỏ lên gõ cửa phòng số... rồi đẩy cửa đi vào gật đầu chào Khanh và tự giới thiệu tên mình. Khanh chẳng để ý gì đến sắc vóc của cô mà chỉ cần đưa lưng cho cô đấm bóp thôi.
Hải Lệ bắt tay vào việc... Sau nửa tiếng đồng hồ, cô thoa dầu, xoa bóp, nắn nót khắp thân người Khanh. Giây phút hưởng thụ khoan khoái, hồn lâng lâng vào trong cơn mê-lộ. Làm Khanh thèm khát ái ân cao độ... Chàng xoay mình nằm ngửa, định đưa tay lên mơn trớn vuốt ve cánh hoa non vừa hé nụ để tiến vào động hoa vàng. Tự nhiên Khanh có linh cảm lạ lùng, chàng nhìn kỹ gương mặt Hải-Lệ, rồi tự hỏi :‘’Sao cô bé này có nhiều nét giống hệt một người mình đã quen !’’. Khanh vội đẩy cô ra, rồi bật ngồi dậy thật nhanh và hỏi :
- Ba má em làm nghề gì, ở đâu ?
Hải Lệ hết hồn và ngơ ngác, rồi từ từ trả lời :
- Dạ, em có má, chớ không có ba !
- Ba em đâu ?
- Má em nói, ba em bị tử trận hồi đó rồi !
- Em có biết ba em tên gì không ?
- Dạ, má em thường nói, ba em là thằng cha ‘’Sở-Khanh’’. Mà nghe đâu ông ấy tên... giống anh đó.
- Còn tên má em ?
- Má em tên Tím !
- Tím !
Khanh thấy cái tên Tím chàng không quen. Chàng hỏi tiếp :
- Năm nay em được mấy tuổi ?
- Dạ, em vừa mười tám tuổi.
- Má em làm nghề gì ?
- Hồi đó, má em làm thâu ngân viên cho nhà hàng Đồng-Khánh trong Chợ-Lớn.
Khanh chẳng quen biết ai làm nghề ấy, chàng tiếp :
- Còn bây giờ ?
Trên gương mặt Hải Lệ hiện lên nét buồn, đôi mắt long lanh tươm lệ, cô nói :
- Hiện giờ... thì má em đang bệnh nặng lắm !
- Bệnh gì ?
- Bệnh tim... tới thời kỳ nguy ngặt !
- Ở nhà hay ở nhà thương ?
- Đâu có tiền mà nằm nhà thương !
- Vậy là nằm nhà à ?
- Dạ !
- Còn tên của em ?
- Hồi nãy, em đã nói rồi. Sao anh còn hỏi. Em tên Hải Lệ. Mà anh hỏi làm chi dữ vậy ? Anh điều tra như là công-an !
- Xin lỗi em ! Anh quên mất rồi ! Công-an đâu mà Công-an. Em làm ơn cho anh đến thăm má em được không ?
- Để làm gì ?
- Thì... thì để anh thăm cho biết vậy mà. Biết đâu anh có quen ?
- Trời đất ! Làm sao có quen được ? Thôi, không được đâu anh ơi !
- Không sao đâu ! Em cứ cho anh lại nhà em đi.
- Thôi được. Em cho anh địa chỉ. Rồi mai mốt anh lại. Chớ đừng có đi chung với em bữa nay.
- Tại sao em sợ ?
- Lối xóm thấy kỳ lắm ! Ai mà dắt khách về nhà !
- Không. Anh không phải là khách của em. Bằng chứng là giữa anh và em chưa có...
Nói đến đây Khanh khựng lại. Chàng nhìn Hải Lệ kỹ hơn. Rồi chàng tiếp :
- Sao em giống hệt một cô... anh quen hồi xưa quá ! Tự nhiên anh thấy thương em như con.
Hải Lệ lõ đôi mắt bồ câu tròn xoe nhìn Khanh, tự nhủ : Ông này cũng phải năm mươi tuổi trở lên rồi. Ổng nói mình đáng con của ổng cũng phải !
Hải Lệ mỉm cười :
- Làm sao em được cái hân hạnh làm con của anh !
- Tại sao không được ? Nếu anh có vợ sớm, thì con anh lớn hơn em nữa đó. Nè, anh muốn đến nhà em. Để thăm má em. Coi anh có giúp má em được gì không. Em đừng sợ.
Hải Lệ nhứt quyết không chịu, cô nhìn Khanh :
- Em nói là không được. Mai hay mốt gì anh đến đi. Để về nhà, em nói cho má em biết trước cái đã.
Khanh nghe trong người ruột gan nóng bừng lên. Chàng đứng dậy đi đến áo veste móc bóp lấy hai trăm đô-la ra đưa cho Lệ và nói :
- Nè, em cầm số tiền này về đưa má em đi bác sĩ. Chiều mai, lối ba bốn giờ anh sẽ đến nhà em. Em ghi địa chỉ thật, chớ đừng cho địa chỉ ma nha ! Anh ngán mấy cô lắm !
Hải Lệ nhìn Khanh, cảm thấy chàng là người thành thật. Cô lấy viết, vừa viết địa chỉ vừa hỏi :
- Sao anh sợ em cho địa chỉ ma. Chắc anh đã bị kiểu ấy nhiều rồi phải không ?
Hải Lệ đưa miếng giấy đã ghi địa chỉ cho Khanh. Khanh lấy đọc, chàng thấy nét chữ của Lệ rất đẹp và cứng, chàng nghĩ : Cô bé này có trình độ học vấn cũng khá, chớ không phải là dân dốt ! Khanh xoay qua nhìn Hải-Lệ và trả lời :
- Không. Anh chưa bị, mà hồi xưa mấy thằng bạn của anh bị nhiều lần lắm. Nhà em ở miệt Bình-Tiên cầu Cây-Gõ hả ?
- Dạ... Xóm em ở nghèo khổ lắm ! Anh có tới thì nhớ hỏi là nhà cô Ba Tím nha ! Vì trong hẻm nhỏ và quanh co lắm !
- Má em mấy tuổi ?
- Ba mươi sáu !
Khanh bóp trán, suy nghĩ vài giây :
- Má em trẻ vậy à !
- Dạ, má em sanh em ra, lúc má em cỡ em bây giờ.
- Thôi, em về đi. Chiều mai anh đến nhà em.
- Dạ, chào anh ! Ý quên ! Chào chú cháu về !
- Ừa, gọi bằng chú mới đúng đó ! Mai chú gặp cháu nha !
- Dạ !
Hải Lệ ra về mà trong lòng cô mừng vô hạn. Vì Khanh chưa làm gì đến thân xác cô mà còn cho số tiền khá lớn. Bởi vì đi đấm-bóp kiểu như vậy giỏi lắm được cỡ vài chục đô-la là cùng. Mà còn chia cho người dẫn mối vài chục phần trăm nữa. Hải Lệ cũng biết ma-lanh và khôn. Cô dấu một trăm đô trong quần lót. Chỉ nói là ông khách xộp cho một trăm đô-la thôi. Những người dẫn mối, tuy khách đã trả tiền họ rồi. Nhưng các cô vẫn chia thêm. Là vì làm như thế họ mới kêu tới. Nếu không thì sẽ bị ế, bị phèo. Mọi nghề trên đời, nghề nào cũng phải có lương, có lời, có huê-hồng, tiền đầu, tiền đuôi... không nhiều thì cũng ít, chớ có ai làm không công bao giờ đâu !
*
Trưa hôm sau, Khanh bao xe-ôm chạy vô Chợ-Lớn ăn trưa và bảo cậu xe-ôm chạy lòng vòng qua cầu Cây-Gõ tìm đến địa chỉ của Hải Lệ đưa chiều hôm qua.
Đến nơi, vào xóm lao-động nhà cửa chằng chịt, chen chúc. Thật là xô bồ xô bộn. Những vũng sình lầy có đầy rau muống và cỏ hoang mọc tùm lum tà la khi xưa. Bây giờ thì dân chúng đã lấp và cất nhà đầy ngập. Khanh hỏi thăm từng nhà, lần lần vô tới nhà mẹ con cô Ba Tím. Khanh bước vô căn nhà nhỏ bé lụp xụp. Bên trong có cái bàn nhỏ vài chiếc ghế đẩu, trên giường trải chiếc chiếu bông cũ mèm xơ xác. Một người đàn bà gầy ốm đang nằm bất động như chết, đắp chiếc mền nhà binh lủng hai ba lổ lên tới cổ. Khanh định mở miệng hỏi thăm thì Hải Lệ về tới, cô vội vàn nói :
- Dạ, mời chú ngồi. Má ơi ! Có chú Việt-Kiều đến thăm má nè !
Khanh vội cản :
- Được rồi cháu ! Để má cháu ngủ.
Tím nghe văng vẳng tiếng người, nàng định ngồi dậy. Nhưng vì sức lực quá yếu nên chỉ xoay mình qua gật đầu chào, đôi mắt mất thần lờ mờ nhìn ông khách. Khanh thấy nét mặt bà ấy quen. Nhưng không thể nào moi tim óc để nhớ là quen ở đâu. Vi cái tên Tím xa lạ với chàng quá. Còn Tím thì nhận ra Khanh liền. Hải Lệ đến đỡ mẹ ngồi dậy. Trong lòng Tím nghe mừng, nhưng vì tự ái và còn ôm hận bị Khanh bỏ rơi ngày xưa ấy... Nước mắt Tím tuôn trào, cổ họng nghèn nghẹn, nàng cố gắng chào hỏi Khanh :
- Chào ông ! Cám ơn ông có lòng đến thăm tôi. Hôm qua tôi có nghe con tôi nói về ông. Nhưng...
Nói đến đây, Tím ho lên sặc sụa. Khanh nhìn kỹ Tím, chàng toát mồ hôi hột, rồi bằng một giọng run run :
- Cẩm ! Cẩm phải không ? Cẩm ơi ! Anh là Khanh đây nè !
Tím lắc đầu, rồi khóc ngất lên. Hải Lệ không hiểu gì cả. Em hết hồn mà ôm vuốt ngực mẹ và hỏi :
- Sao chú Khanh gọi má là Cẩm ?
Giọng thều thào yếu ớt, thở lấy hơi lên, Tím vẫn lắc đầu :
- Ông ấy... lầm người rồi !
Khanh đứng lên tiến đến giường bằng một giọng nhẹ nhàng, nhưng buồn thảm :
- Trời ơi ! Oan trái ! Nhưng cũng cám ơn trời đã đưa đẩy con gặp hoàn cảnh này. Cẩm ! Cẩm ơi ! Em hãy bình tĩnh mà nói thật dùm anh. Có phải Hải Lệ là con của anh không ?
Tím nghe Khanh hỏi bằng một giọng cầu khẩn, nước mắt nàng ràn rụa tuôn chảy nhiều thêm, nàng gật gật đầu... Vài phút sau đôi mắt Tím trợn trắng, tay chân giựt bắn người lên, nàng ngất liệm luôn. Hải Lệ sợ quá khóc thét hoảng hốt và nói lớn :
- Chú Khanh, chú làm má con chết rồi nè ! Má ơi, má đừng bỏ con nghe má ! Chú Khanh ! Chú Khanh ơi ! Cứu má con ! Cứu dùm má con chú Khanh ơi !
Khanh vội ôm Tím vào lòng và gọi :
- Cẩm ơi ! Tỉnh dậy đi em ! Tỉnh dậy Cẩm ơi ! Đừng bỏ con và anh em ơi !
Khanh vói gọi cậu xe-ôm, bảo cậu chạy ra ngoài kêu xe để chở Tím đi nhà thương gấp... Nhưng đã quá trễ, vì Tím đã tắt thở sau cái gật đầu đầy nước mắt. Dường như nàng an lòng giao con lại cho cha nó. Còn Hải Lệ thì khóc nức nỡ và kêu mẹ thảm thiết !
Trời cao có thấu cho chăng ?
Cành hoa bé nhỏ, khổ đằng đằng đeo !
Đám tang của Tím thật buồn. Do chính tay Khanh lo tròn vẹn. Có được năm ba người hàng xóm đi đưa. Vì mẹ con của Tím không có mấy ai là bạn bè thân thuộc. Nàng chỉ còn duy nhứt một người anh cùng cha khác mẹ tên Mầu, hiện sinh sống ở miệt Mỹ-Tho. Nhưng hai anh em không thuận với nhau từ mười mấy năm qua.
Sau khi hỏa táng Tím xong. Khanh và Hải Lệ ôm hủ tro đem vô chùa Xá-Lợi gởi trong đó.
Bây giờ Khanh kề bên đứa con gái bạc phần. Khanh bảo Hải Lệ thu dọn đồ đạc và quần áo theo chàng ra Sài-gòn. Khanh đổi khách sạn khác nhỏ hơn gần chợ Bàn-Cờ cho đỡ tốn tiền.
Còn một tuần nữa là tới ngày Khanh phải trở về Mỹ. Khanh đi tìm nhà người quen để mướn cho Hải Lệ ở tạm chờ ngày chàng về Mỹ lo giấy tờ cho Hải Lệ sang Mỹ đoàn tụ cùng gia đình chàng.
Trời khiến, giữa tình cốt nhục, nghĩa cha con. Nên Hải Lệ không có một cữ chỉ nào bất mãn hay hờn giận cha mình. Mà em vâng lời những gì cha dạy bảo. Dầu sao đi nữa, Hải Lệ cũng được mẹ cho ăn học tới lớp mười một.
Sau hai tuần lễ, hai cha con hàn gắn những vết thương lòng... Khanh đưa Lệ đi lấy máu và cắt chút tóc để chàng đem về Mỹ, có gì thì chàng sẽ chứng minh mà được quyền nhìn nhận con mình.
Đến ngày Khanh trở về Mỹ. Hai cha con lấy taxi lên phi trường Tân-Sơn-Nhứt. Trong túi Khanh còn tám ngàn đô-la, chàng đưa hết cho Lệ và căn dặn :
- Con ráng gìn giữ cẩn thận số tiền này mà tạm sống chờ ba về rước con. Hoặc có thể con đi một mình, đến nơi ba sẽ ra phi trường đón. Con biết nói tiếng Anh mà sợ gì. à, hay là con đi ghi tên tiếp tục sự học và học thêm chữ Anh. Và con nhớ, thỉnh thoảng vào chùa thăm má con và nghe lời các thầy chỉ cách cúng bốn mươi chín ngày. Chừng đúng một trăm ngày, nếu con muốn xả tang má cũng được. Thời buổi này tang chế người ta cũng có phần chăm chước hơn xưa. Ba về Mỹ lo thủ tục, trễ lắm là cỡ sáu tháng con sẽ được qua Mỹ. Tiền ăn ở, ba đã đóng đầy đủ cho họ một năm, con khỏi lo gì cả. Nếu ba có cần giấy tờ gì ở bên này, thì có ông luật sư Phan lo, mà nếu ông ấy có gọi con để ký giấy tờ. Con nhớ đi đến văn phòng ông ta nghe con ! Địa chỉ và số điện thoại ở nhà và trong sở của ba, con nhớ cất kỹ. Con muốn gọi ba bất cứ lúc nào cũng được hết nha. Nhớ nghe con !
- Dạ !
Mặc dù Hải Lệ là cô gái mười tám tuổi, sống trong một xả-hội phức tạp và đầy nghiệt ngã thương đau. Cô cũng nếm ít nhiều kinh nghiệm đời. Nhưng sự việc trên vừa xẩy ra quá bất ngờ nên làm tâm hồn cô còn trong tình trạng bàng hoàng như người trong cơn mộng. Có vui buồn lẫn lộn. Vui, vì được gặp cha. Còn buồn, vì vừa mất người mẹ thân yêu đã hy sinh nuôi nấng cô suốt mười tám năm nhiều lận đận. Nhưng để có chút gì an ủi, cô mất mẹ mà bây giờ được gặp cha. Nhờ thế, cô mới thoát ra cái nghề đấm-bóp mà cô đã làm hơn một năm nay. Vì mẹ cô mang căn bệnh tim càng ngày càng nặng. Để cho tròn chữ hiếu, Hải Lệ phải nghỉ học, cô cố gắng tìm kiếm việc làm đàng hoàng, nhưng rất khó. Cuối cùng cô phải hành nghề trên.
Bao nhiêu lời dặn dò của Khanh, Hải Lệ ngồi nghe và ghi nhớ rất kỹ. Sắp tới giờ máy bay bay. Hai cha con bịn rịn bằng những giọt lệ lăng dài trên má. Khanh ôm con hôn mạnh hai bên má, rồi đi vô trong. Hải Lệ đứng bên ngoài vẫy tay đến khi Khanh khuất dạng. Nàng thẩn thờ đi ra ngoài lấy xích-lô trở về nhà trọ. Chú xích-lô đạp xe từ từ lăng bánh dưới ánh nắng vàng chói chang nóng bức giữa mùa hè Sài-gòn.
Khanh vào trong máy bay ngồi gài dây nịt an toàn đàng hoàng. Máy bay từ từ cất cánh, Khanh thẩn thờ nhìn ra cửa sổ nhỏ mà nghe lòng thương đứa con gái vô cùng. Chàng nghĩ : ‘’Không ngờ mình có một đứa con gái xinh đẹp hiền ngoan như thế. Cũng may là mình có giác quan thứ sáu bén nhạy. Nếu không, thì chắc mình phải tự tử chết quá ! Và nếu không có mình đến kịp thời, thì thân xác con mình sẽ vùi chôn vào chốn bụi hồng đầy nhơ nhuốc suốt cuộc đời rồi. Thật tội nghiệp cho con mình và Cẩm quá ! Biết lấy gì đền đáp tấm tình của nàng bây giờ. Thôi, mình chỉ mong sao lo chu toàn cho Hải Lệ để vơi đi phần nào tội lỗi của mình đối với Cẩm. Ngày xưa, Cẩm yêu mình chân thật, còn mình thì có ý chơi qua đường với nàng. Trời ơi ! Tôi thật là thằng đàn ông khốn nạn !’’. Nghĩ đến đây, Khanh phát rùng mình toát mồ hôi lạnh và mắt rưng rưng, lòng xót xa cho đời Cẩm và đứa con gái thương yêu. Giây phút suy nghĩ, Khanh nghe tim mình hồi họp từng cơn, lòng tự nhủ : ‘’Cám ơn trời, Phật đã cứu con thoát cảnh loạn luân. Mình sẽ nói lên sự thật, để nhắn nhủ với những đấng mày râu, nam tử (nếu ai có một thời bay bướm lúc còn trẻ...), thì trước khi thèm muốn giải quyết sự thỏa mãn tình ái với người con gái nào tuổi đáng con mình, thì phải nhớ hỏi lý lịch về người mẹ cô ấy thật rõ ràng kỹ càng để tránh khỏi cảnh thảm thương đáng chết được !’’
Mặc dù Khanh chưa mang tội loạn luân, nhưng tòa án lương tâm nó vẫn dày vò hành hạ tâm hồn chàng không ít. Rồi Khanh giựt mình lo lắng, vì sợ vợ chàng sẽ không chấp nhận cho Hải Lệ qua ở chung và có thể xẩy ra những chuyện không hay cho gia đình. Khanh suy nghĩ lo lắng miên man và tự trách mình đủ điều. Làm tinh thần chàng mệt đừ. Sau đó, Khanh ngả đầu vào ghế mà ngủ thiếp một giấc dài tới Washington DC.
Cầu xin gió thuận mưa hòa
Cho đời yên lặng, cho hoa hé cười
Cho vườn xuân mãi thắm tươi
Nắng vàng, mây biếc sáng ngời muôn phương.
*
Sau khi Khanh trở về Mỹ. Chàng thường liên lạc với con gái từ trong sở. Về nhà thì chàng cứ trầm tư suy nghĩ. Bởi vì Khanh chưa dám mở miệng nói với vợ và hai con biết. Nhưng chàng âm thầm đi lo giấy tờ cho Hải Lệ. Một tháng sau, trong bộ ngoại giao Mỹ cho biết, là sự liên hệ giữa Việt-Nam và Mỹ, chưa có tòa đại-sứ. Và hơn nữa, Hải Lệ đã quá mười tám tuổi, cô chỉ xin chiếu khán xuất ngoại từ bên Việt-Nam. Nếu bên ấy, họ cấp cho đi, thì bên Mỹ sẵn sàng cho nhập cảnh. Vì Khanh là cha và chàng đã vô dân Mỹ lâu rồi.
Mấy tháng trời, Khanh điện thoại qua lại với ông luật sư Phan, và hối thúc ông lo nhanh. Khanh phải tốn tiền khá nhiều mới xong việc.
Khi Khanh được nghe tin còn hai tháng nữa Hải Lệ sẽ qua Mỹ. Một buổi thứ bảy đang ngồi ăn cơm tối. Khanh ngập ngừng mở miệng nói với vợ con :
- Hoa à ! Ăn cơm xong, chút nữa em và Tuấn, Tú qua salon uống cà-phê. Vì anh có chuyện rất quan trọng muốn nói cùng em và hai con.
Hoa, vợ Khanh khoảng năm mươi tuổi. Bà rất lanh lợi và tính toán. Nhưng bà khó chuyên quyền chồng được. Bởi tánh tình của ông Khanh khá cứng rắn. Bà Hoa chỉ nghi và đoán mò, nghĩ là từ khi Khanh đi Việt-Nam về mấy tháng nay chàng có tâm sự riêng tư, chắc chàng bị vướng víu ái-tình với cô nào. Hoa là loại ghen theo kiểu Hoạn-Thư, bà cố đè nén máu ghen để ý theo dõi chồng thôi. Còn Tuấn và Tú thì không để ý việc gì cả. Bởi hai cậu tối ngày lo ăn học.
Hoa nghe Khanh nói thế, nàng đưa ánh mắt cú rọ nhìn Khanh :
- Em thấy, từ khi anh đi Việt-Nam về tóc anh bạc trắng hết cả đầu. Chuyện gì thì anh cứ nói đi cần gì mà phải qua salon.
Tuy nói vậy, nhưng Hoa quay sang Tú :
- Tú, con lo nấu nước pha cà-phê rồi thức cho ba bây nói chuyện quan trọng !
Tú, đứa con trai được mưới bảy tuổi. Còn Tuấn hai mươi tuổi. Cả hai còn đi học.
Ăn cơm xong, họ lo dọn dẹp. Tú pha hai tách cà-phê cho cha mẹ. Còn hai cậu uống cô-ca. Khanh vẫn ngập ngừng hỏi này hỏi nọ với hai đứa nhỏ về sự học hành. Cuối cùng chàng mở lời :
- Hoa, anh có đứa con gái ở Việt-Nam !
Cả ba mẹ con của Hoa giật mình. bà hỏi :
- Mấy tuổi ?
- Mười tám tuổi !
- Vậy, vậy là sao ? Bộ hồi trước anh... anh đã có... Trời ơi !
Tuấn đến gần mẹ :
- Má, má bình tĩnh để cho ba nói hết.
Tú cũng đến ngồi trên thành ghế salon vuốt mẹ :
- Má để cho ba nói đi má à !
Khanh bưng tách cà-phê lên ực một cái. Chàng nói tiếp :
- Hồi trước, anh có quen một cô tên Cẩm. Em biết đời trai độc thân mà. Nhưng anh cũng không ngờ...
Nói đến đây Khanh ngừng lại. Còn Hoa thì bảo Tú đi nhúng nước khăn cho bà lau mặt, bà hỏi chồng :
- Bây giờ cô ấy đã khôn lớn. Có chồng chưa ?
Khanh nghe giọng nói của Hoa trầm tĩnh, mà gay gắt. Ông không còn cách nào hơn. Vì Hải Lệ sắp qua đây và ở trong căn nhà này. Nên Khanh kể hết sự thật cho vợ con nghe...
(... ... )
Tuấn, Tú lắng tai nghe hết câu chuyện, trong lòng hai cậu rất vui. Nhưng Hoa không bằng lòng, bà nói :
- Đem nó qua đây làm gì. Biểu nó ở bên Viêt-Nam, rồi mỗi tháng gởi vài trăm đô cho nó sống. Chớ em không chấp nhận cô Hải Lệ ở trong nhà này.
Khanh nghe vợ nói gắt. Ông liền bảo Tuấn và Tú :
- Các con cho ba nói chuyện riêng với má nghe các con !
Tuấn và Tú bỏ đi vô phòng. Đứa đọc sách, đứa chơi máy điện tử. Còn lại hai vợ chồng, Khanh nhỏ nhẹ nói với vợ :
- Anh van xin em hãy tội nghiệp dùm con Hải Lệ. Mẹ nó đã chết rồi. Hiện giờ đời nó bơ vơ lắm.
- Thì mai mốt nó lấy chồng sẽ hết bơ vơ.
- Anh muốn cho Hải Lệ qua đây để tiếp tục sự học.
- Ai đóng tiền ?
- Thì lúc đầu mình giúp đỡ. Từ từ con nó sẽ tìm việc, vừa đi làm vừa đi học.
Bà Hoa nổi cáu lên :
- Nói thiệt cho anh nghe rõ đây. Tôi không chấp nhận.
- Anh van xin em, đừng đẩy anh vào con đường khó xử.
- Biết có phải là con của anh không. Hay là anh bị người ta gạt !
- Em đừng nghĩ vậy. Vì anh đã có đủ bằng chứng.
- Tôi đã nhứt quyết rồi. Không được, là không được !
Bà Hoa đứng dậy đi lấy nước lạnh uống và nói vói :
- Cái thứ bá vơ. Rồi nhận bừa nhận đại.
Khanh nổi nóng :
- Anh cấm em không được nói bậy nha !
- Bậy gì ? Mới đi về có một chuyến Việt-Nam là gây sóng gió.
Khanh ôm đầu, rồi ngước lên nói :
- Sóng gió gì đâu ? Đáng lý ra, em nên mừng cho anh và thương hại con bé. Nhưng anh hoàn toàn thất vọng.
- Thất vọng ! Nếu anh thất vọng thì dễ mà !
- Dễ ! Dễ là như thế nào ?
- Ly dị !
Khanh nói hơi lớn tiếng :
- Đàn bà ở đây, hở ra là đòi ly dị. Em bắt chước thiên hạ hả ? Sao em không nhớ... nhớ...
Nói đến đây, Khanh kịp nín lại. Trong lòng chàng muốn nhắc lại dĩ vãng của Hoa. Nhưng tâm hồn quân tử không cho phép chàng nói. Nhưng Hoa lại nóng lên :
- Nhớ gì ? Hả, anh muốn tôi nhớ gì nói luôn ra đi.
Khanh cố nhịn nhục, chàng đứng lên đi vô phòng của Tuấn. Tuấn lại hé cửa nghe lén hết câu chuyện của cha mẹ vừa cãi vã. Tuấn lỡ trớn, cậu đi ra salon ngồi khuyên mẹ :
- Má à, xin má tội nghiệp dùm em gái con.
Bà Hoa vì quá ghen, nên bà vội hỏi con :
- Ai là em gái mầy ? Mầy, mầy là...
Khanh chợt tới gần và bụm miệng vợ :
- Em đừng có điên rồi nói bậy đi nghe !
Hoa gạt tay Khanh ra, mắt quắc lên :
- Tôi điên hay ông điên ?
Khanh chịu hết nỗi :
- Tùy em !
Tâm hồn Hoa quá ích kỹ. Bà lấy ngón tay chỉ Khanh mà nói với Tuấn :
- Người này không phải cha của mầy. Mầy đừng có bênh bậy.
Tuấn nghe mẹ vừa nói, làm tâm hồn cậu bị chấn động mạnh, cậu liền hỏi cha mẹ :
- Má nói cái gì kỳ vậy má ? Ba ! Sao má nói vậy ba ?
Khanh thấy tình trạng này cũng chẳng dấu diếm làm chi nữa, và Tuấn cũng hai mươi tuổi rồi. Khanh nói một giọng buồn :
- Lời má con nói không sai sự thật ! Nhưng lúc nào ba cũng xem con như con ruột.
Tuấn bị cú sốc, cậu liền đứng lên chạy vô phòng lấy áo khoác và đi nhanh ra xe đề máy vọt mất. Bà Hoa hết hồn gọi Tuấn, nhưng cậu đã đi rồi. Bà quay qua nhìn Khanh và khóc thét nói lớn :
- Con tôi mà có bề gì là do ông tất cả đó !
Khanh chỉ ngồi gục đầu, mà trong lòng chất chồng nỗi khổ ! Còn Hoa thì hồi họp lo cho Tuấn !
Khanh và Hoa lấy nhau đã mười tám năm. Đêm nay là lần đầu tiên hai người cãi lộn về vấn đề con cái. Làm Khanh khổ tâm vô cùng. Mà Hoa có sung sướng gì đâu ! Bởi do lòng ích kỷ của bà đã làm trong gia đình xào xáo. Phải bà có chút từ tâm thì mọi việc đẹp đẽ biết bao nhiêu !
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ yêu thương con chồng.
Hai người quen biết nhau trong những ngày cùng ở chung đảo Guam. Hoa ẵm bé Tuấn trốn chạy. Lúc ấy, Tuấn được hai tuổi. Khanh thương yêu Hoa vì đồng cảnh ly hương với nhau. Chàng chẳng ngại Hoa đã có con vô thừa nhận. Khanh cưới Hoa và nhìn nhận bé Tuấn như con ruột của mình. Rồi một năm sau bé Tú chào đời. Khanh và Hoa là hai kẻ trắng tay xây dựng sự nghiệp từ đó đến bây giờ.
Đã hơn nửa đêm mà Tuấn chưa về, làm cả nhà sốt ruột chẳng ai ngủ được.
Còn Tuấn sau khi lái xe chạy lòng vòng, rồi đến công viên... ngồi một mình, cậu nghĩ : ‘’Trời ơi ! Mình không phải là con của ba ! Trời ơi ! Ba tôi là ai ? Từ thuở nhỏ tới giờ có nghe ba má nói gì đâu. Vì chuyện của em Hải Lệ nên mới lòi ra, đó cũng là dịp may để cho sự thật được phơi bày. Bây giờ mình còn kính trọng và thương ba nhiều hơn xưa nữa. Biết rằng, mình làm vậy má sẽ tức giận lắm. Nhưng không sao, từ từ mình và thằng Tú họp nhau thuyết phục má. Ba Khanh thật là người đáng kính, đáng yêu thương hơn bao giờ hết. Ba có tâm hồn quân tử và cao thượng quá ! Ba yêu thương và cưng chiều mình như thằng Tú. Mình còn nhớ là có nhiều lần mình phá phách bị má rầy đánh đít, ba chạy lại bênh vực mình mà rầy má. Và có một lần, lúc mình được bảy tám tuổi, vô tình được nghe ba nói với má : Bé Tuấn đẹp trai lắm, tại nó là con trai cho nên hay rắn mắc và phá phách, em ráng trông chừng đừng để nó chạy nhảy quá, rủi ro bị té mang thẹo trên mặt làm hết đẹp trai con mình đó. Nếu nó làm bậy thì mình nên phạt không cho ăn bánh kẹo, chớ đừng đánh đòn, vì bị đòn thường, riết con nó sẽ lì đòn là mình khó dạy đó...’’
Nghĩ nhớ đến đây, nước mắt Tuấn ràn rụa. Cậu ôm đầu và kêu lên : ‘’Ba ! Ba ơi ! Con là con của ba. Em Hải Lệ là em gái của con. Con sẽ năn nỉ và lạy má cho em con đoàn tụ với mình. Ba ơi ! Ba ơi ! Con là con của ba !’’
Sau khi Tuấn khóc hét một mình giữa trời đêm. Rồi cậu leo lên xe lái về nhà. Bà Hoa nghe tiếng xe, bà mở cửa đi ra :
- Con làm má sợ quá Tuấn ơi ! Con đi đâu mấy tiếng đồng hồ vậy ?
Tuấn nín thinh không nói tiếng nào với mẹ mà đi thẳng vô phòng. Bà Hoa đi theo con, bà hỏi tiếp :
- Sao má hỏi con, con không trả lời ?
Đôi mắt Tuấn còn đọng đầy lệ, cậu quay lại nhìn mẹ và nói :
- Má muốn con nói gì bây giờ ? Khuya rồi, má đi ngủ đi. Mai sẽ nói chuyện tiếp !
Bà Hoa tức mình hỏi :
- Mầy bênh ổng mà bỏ má mầy hả ?
- Trời ơi ! Con lạy má mà !
- Bây giờ mầy khôn lớn, có ăn học sắp làm ông Tòa rồi !
- Để cho ba và thằng Tú ngủ má ơi !
- Còn tao ?
- Thì má cũng đi ngủ đi. Mai con sẽ mở phiên tòa...
Bà Hoa thấy nói chuyện không nỗi nữa với con mình. Nên bà đi ra và nói vói lại :
- Ừa ! Mai mầy xử má mầy coi được không nha !
Sáng chủ nhật, ánh nắng vàng tỏa khắp bầu trời, tiếng chim ríu rít hót vang ngoài sân vườn. Trong căn nhà lớn rộng của Khanh còn chìm trong giấc ngủ. Vì đêm qua ai cũng ngủ trễ...
Tiếng điện thoại reo vang, Tuấn ngồi dậy chạy nhanh ra salon nhấc lên :
- A-lô ! Dạ, tôi nghe !
- A-lô ! Dạ, thưa có phải nhà của ông Võ Quan Khanh không ?.
- Đúng rồi, xin cho biết quí danh ?
- Con gái ông Khanh !
- Oh ! Hải Lệ !
- Ủa, ai đó, anh Tuấn hay Tú vậy ?
- Anh Tuấn đây. Em đợi một chút, anh vô gọi ba nha ! ... Ba ơi ! Có Hải Lệ gọi qua.
Cả nhà thức dậy hết. Tuấn đưa điện thoại cho cha. Khanh bấm nút phát ra cho cả nhà cùng nghe :
- A-lô ! Hải Lệ, con khỏe không ? Con cứ tự nhiên nói chuyện đi.
- Dạ, thưa ba ! Con điện thoại cho ba biết, là con sẽ đi về Mỹ-Tho tìm cậu Hai Mầu coi có gặp không, để con từ giã cậu con đi Mỹ. Còn hai tháng nữa con sẽ gặp ba, dì, anh Tuấn và em Tú. Con nôn quá ba ơi !
Bà Hoa nghe đến tên Hai Mầu, nét mặt bà đổi sắc. Bất chợt bà nói với chồng :
- Ông, ông đưa tôi nói chuyện với Hải Lệ vài lời coi.
Ông Khanh khựng lại và nhìn các con. Tuy ông hơi sợ bà vợ nói bậy làm con nhỏ khổ nữa. Nhưng ông không thể từ chối được, bèn đưa điện thoại cho Hoa. Giọng của Hoa hơi run run :
- A-lô ! Tôi là vợ ông Khanh. Xin lỗi cô, chúng tôi ở đây cùng nghe cô nói chuyện trong điện thoại với ba cô. Xin cô cho tôi hỏi thăm.
- Dạ, thưa dì, dì cứ tự nhiên.
- Hồi nãy cô nói, cậu cô là Hai Mầu ở Mỹ-Tho. Vậy ông ấy già hay trẻ ?
- Dạ, cậu con cũng trọng tuổi rồi. Nghe má con nói, cậu ấy lớn hơn má con gần hai chục tuổi. Năm nay chắc cậu con cũng cỡ năm mươi lăm hay năm mươi sáu tuổi gì đó.
- Má cô tên Cẩm phải không ?
- Dạ, thưa không !
Hoa nhìn chồng và hỏi :
- Ủa, sao kỳ vậy ?
Khanh nói :
- Với anh thì tên Cẩm. Còn tên thật là cô Ba Tím.
Bà Hoa toát mồ hôi, và buông lời nhẹ :
- Trời ơi ! Đúng rồi !
Tuấn vội hỏi mẹ :
- Má, má sao vậy má ?
Bà lắc đầu, đưa điện thoại cho Khanh, bà đứng dậy đi vô nhà tắm. Ngoài này mấy cha của Khanh con tha hồ thay phiên nhau nói chuyện với Hải Lệ.
Bà Hoa đánh răng rửa mặt xong. Bà ra bếp lo ăn sáng cho chồng con như thường lệ. Ba cha con của Khanh thấy Hoa nín thinh làm ai cũng ngán, sợ bà lên cơn gợi lại chuyện cãi vã tối hôm qua. Nhưng bà ngồi ăn và có vẻ lo cho chồng con chu đáo hơn mọi bữa. Rồi bà nhìn chồng con và hỏi :
- Sao, trưa nay tất cả có đi ra phố, rồi đi ăn ở ngoài như thường lệ không ?
Tú lấy tay xoa xoa trên vai mẹ và đưa ngón tay lên nói :
- Con !
Tuấn cũng làm theo :
- Con nữa ! ... Còn ba ! Sao ba không đưa tay lên luôn ?
- Thôi, hôm nay ba ở nhà.
Tuấn và Tú đồng hỏi :
- Sao vậy ba ? Đi, đi nghe ba !
- Ba nhức đầu lắm !
Hoa biết chồng còn khổ vì mình lắm, bà lấy tay khều chồng :
- Xin anh làm ơn đi cho các con vui.
- Nếu muốn tôi đi, thì tôi ra điều kiện được không ?
Hoa nhìn hai con và mỉm cười, bà nói :
- Rồi, chịu. Tụi con cũng chịu luôn cho ba vui nghe !
Tuấn và Tú đồng reo :
- Ok ! Ok !
Khanh thấy Hoa thay đổi bất ngờ, không giống như tối hôm qua nữa, nghe trong lòng nhẹ nhàng, ông từ tốn nói :
- Vậy thì kể từ đây, vấn đề của Hải Lệ không còn rắc rối. Hải Lệ sẽ qua đây ở trong căn nhà này và tiếp tục đi học. Bà không chống đối tôi nữa chớ ? Bà hứa đi, hứa trước mặt các con đi.
Hoa nhìn hai con :
- Nè, tụi con làm chứng nha. Má không nhắc tới mà ba bây nhắc đó nha !
Sau cơn sóng gió đêm qua. Sáng nay gia đình Khanh bỗng nhiên yên tịnh.
Nhờ đâu mà êm ái như vậy ?
Chẳng qua là như thế này... Bởi ngày trước Hai Mầu là người tình của bà Hoa. Họ vương víu với nhau một thời gian rất ngắn ở đất Sài-gòn, rồi chia tay. Trong lúc họ chia tay, Hoa có thai Tuấn vài tháng mà nàng không biết. Đến khi biết thì Hai Mầu đã đi rồi. Cậu trở về Mỹ-Tho mấy tháng sau là cậu cưới vợ. Mọi việc đã trễ, Hoa cam đành gánh chịu nuôi con một mình.
Trái đất tuy rộng, nhưng tròn, quay lòng vòng. Kẻ ở Việt-Nam người tha hương sống xa lơ xa lắc, rồi cũng gặp lại nhau, mà lại gặp trong một hoàn cảnh thật là đặc biệt. Ngẫm nghĩ, ông trời thật oái oăm và đôi khi rắn mắc nên mới sắp bày ra những cảnh trớ trêu, rồi cuối cùng ông bù đáp lại đầy đủ. Không biết có phải nhân loại là đào kép hát mà ông trời vẽ vời tuồng tích đặt cho mỗi người một vai để đóng tuồng trên sân khấu đời này chăng ?
Bây giờ tới phiên bà Hoa đang gặp cơn sóng động trong lòng mà chồng con chẳng ai hiểu nỗi chuyện thầm kín ở tận đáy lòng bà. Thật đúng với câu : Cá ăn kiến, rồi có ngày kiến ăn cá.
Nhưng làm sao bà Hoa âm thầm chịu đựng cho nổi, và hơn nữa, bà cũng sợ Tuấn và Hải Lệ nghĩ là không có ruột rà máu mủ,
rồi sanh lòng yêu nhau là sẽ chết hết cả đám. Nên cuối cùng, bà phải kể ra tất cả sự thật cho chồng con nghe...
*
Hải Lệ xuống Mỹ-Tho tìm được người cậu. Cậu Hai Mầu có vợ con nhà cửa đàng hoàng. Mặc dù ngày xưa ông ruồng bỏ đứa em cùng cha khác mẹ. Lý do, bởi vì Tím có chửa hoang. Nhưng thời gian ông cũng quên lãng chẳng còn giận hờn gì nữa. Hôm nay nghe cô cháu kể lại sự tình, làm cậu rất hối hận và xúc động. Suốt buổi chiều hôm ấy, hai cậu cháu hàn huyên tâm sự.
Mặt trời đã xuống thấp phía tây. Hải Lệ xin phép cậu trở lên Sài-gòn. Cậu Hai Mầu, chúc cô cháu qua Mỹ bình an nhiều may mắn và sẽ được sung sướng mãi sau này. Hải Lệ cũng chúc cậu mình ở lại may mắn và an lành. Hai cậu cháu trao đổi địa chỉ. Rồi Hải Lệ từ giã cậu đón xe đò trở lên Sài-gòn .
Sáng mai là tới ngày Hải Lệ lên đường. Tối hôm nay cô xuống nhà ăn cơm chung và nói cám ơn để từ giã hai vợ chồng người chủ nhà. Đêm nay Hải Lệ không làm sao ngủ được. Trong lòng cô nôn nao mà cứ nằm thao thức. Đến sáng lấy taxi, một mình một thân lên phi trường, đợi tới giờ máy bay, bay qua Mỹ.
Còn bên nhà ông Khanh, hai vợ chồng ông nghỉ làm, Tuấn và Tú nghỉ học ngày hôm ấy. Cả gia đình Khanh kéo lên phi trường đón Hải Lệ về nhà.
Kể từ đó, Hải Lệ như chiếc Lá rơi về cội được hưởng tràn đầy tình thương yêu của mọi người trong một gia đình ấm cúng.
(Ivry-sur-Seine, 2/2001)
Nguyệt Hạ
Thanh Vinh, kỹ sư điện toán, khoảng ba mươi tuổi. Hơn hai năm nay được chi nhánh hãng IBM mướn và giao cho chức vụ phó giám đốc tại Quận-Cam Californie (Hoa Kỳ). Trong dịp nghỉ hè về Paris thăm cha mẹ. Thanh Vinh để ý và làm quen nữ chiêu đãi viên hàng không trên chuyến bay hãng Air-France từ Los-Angeles về Paris.
Nguyệt Thủy, cô gái mang hai dòng máu Việt-Mỹ, ba mươi hai tuổi.. Theo mẹ là Nguyệt Hạ hồi hương về Pháp cuối năm 1975. Nguyệt Thủy được mẹ lo cho ăn học và trở thành nữ chiêu đãi viên hàng không xinh đẹp và khả ái. Tuy đã trên ba mươi tuổi mà vẫn còn độc thân.Vì phải lo cho bà mẹ bị nghiện rượu mấy năm nay, tối ngày mẹ cô cứ say sưa, không ăn mà chỉ có uống rượu thôi. Thân xác suy mòn, tiều tụy, sắc hương chẳng còn chút gì tồn tại. Tuy Nguyệt Thủy rất khổ tâm, nhưng bổn phận làm con phải tròn chữ hiếu.
Từ khi lên ngồi trên máy bay, Thanh Vinh cứ ngắm nhìn và để ý Nguyệt Thủy, khi thấy cách cô đối đãi và chăm sóc hành khách. Cậu nghĩ : Cô đầm này dáng điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ, chắc có máu Á-Châu ? Vậy đợi cổ đi đến gần, mình hỏi tiếng Việt thử coi !
Nguyệt Thủy nãy giờ cũng để ý Thanh Vinh, cô đẩy chầm chậm xe nước đến gần Thanh Vinh. Không bỏ lỡ cơ hội, cậu đưa mắt nhìn lên hỏi :
- Xin lỗi cô nói tiếng Việt được không ?
Nguyệt Thủy mỉm cười trả lời :
- Dạ được một chút !
- Cô cho tôi xin ly nước cam !
- ... Dạ mời ông !
- Cám ơn cô !...Tôi tên Thanh Vinh ! Xin cô cho biết quý danh ?
- Jannine... !
- ... Có tên Việt không ?
- Nguyệt Thủy !
- Nguyệt Thủy ! Ô ! Tên cô đẹp quá !... Mẹ tôi cũng tên Nguyệt...
Nguyệt Thủy lõ đôi mắt tròn xoe nhìn, và nghĩ : ‘’Ông trẻ này lại nịnh đầm !’’. Thanh Vinh cảm thấy Nguyệt Thủy không mấy gì hài lòng khi cậu nói mẹ cậu trùng tên với cô, cậu liền đính chánh :
- Mẹ tôi tên Nguyệt Thu !
Nguyệt Thủy mỉm cười :
- Vậy à ! Xin lỗi ! Thủy đi làm... Chút nữa, tới lúc chiếu phim Thủy rảnh, anh qua quày bar bên kia uống nước !
- Vâng !
Thanh Vinh được nói chuyện cùng Nguyệt Thủy vài lời xong. Cậu nghĩ : ‘’Nếu mình không bạo dạn hỏi tiếng Việt, thì chắc cô cũng không nói đâu ! Lạ thật ! Lai mà giống y như đầm thiệt’’. Thanh Vinh mỉm cười sung sướng. Sau đó, cô cậu gặp nhau cùng chuyện trò và thăm hỏi gia cảnh...
*
Máy bay đáp xuống phi trường Charles-De-Gaulle rất đúng giờ. Tất cả hành khách ra khỏi máy bay. Họ nối đuôi trình giấy thông hành và đi lấy hành lý. Thanh Vinh nán đứng đợi Nguyệt Thủy ra cùng phi hành đoàn. Vừa thấy Nguyệt Thủy, cậu vội vàn đưa tấm danh thiếp và nói :
- Tôi về đây chỉ được có ba tuần, nếu hôm nào cô rảnh nhớ gọi đến số này, và mời cô đi dùng cơm với tôi một lần nhé !
Nguyệt Thủy tươi cười đưa tay lấy tấm danh thiếp và nói nhanh :
- Dạ, cám ơn anh ! Thủy được nghỉ ba ngày. Sau đó sẽ bay lại đường bay này !
- Vậy tối mai...Thủy gọi... nha !
- Thủy không dám hứa !
- Thôi... Chào Thủy nhé !
Thanh Vinh nghe trong lòng vui vui, và Nguyệt Thủy cũng không khác gì ! Cô nghĩ : ‘’AnhVinh ăn nói dịu dàng, lại còn đẹp trai nữa ‘’. Cô nhìn tấm danh thiếp đề : ‘’Giám đốc kỹ sư điện tử’’. Tự thốt lên : ‘’Ghê quá ! Mấy ông trai trẻ này ! ‘’
Nguyệt Thủy theo đồng nghiệp đi thẳng ra ngoài, leo lên chiếc xe buýt Air-France để đưa họ tới Porte-de-Maillot thả xuống đó, rồi mạnh ai tùy tiện về nhà nấy.
Nguyệt Thủy về đến nhà gần bảy giờ tối, tự tiện lấy chìa khóa mở cửa vô nhà. Cô gọi mẹ. Nhưng bà Nguyệt Hạ đi đâu mất, trên bàn hai ba chai rượu vin Bordeaux cạn đáy nằm đó, Nguyệt Thủy gom bỏ vào thùng rác. Cô đi tắm. Tắm xong ra salon mở T.V. ngồi nghe tin tức. Khoảng nửa tiếng đồng sau, cô đứng lên nhìn ra cửa sổ, nghe khắc khoải tâm hồn, tự hỏi : ‘’Không biết mẹ mình đi đâu rồi cà ? Cô nghe lòng buồn buồn, trở vô, đến mở cái xách tay lấy tấm danh thiếp đọc số điện thoại Thanh Vinh ghi cạnh mấy số bên Mỹ. Cô ưởng ngực hít thật mạnh và thở ra một hơi dài để lấy tinh thần gọi cho Thanh Vinh .
Tiếng điện thoại reo vang trong căn appartement năm phòng, rộng cả trăm thước vuông nằm trong một khu vườn lớn (Résidence de Vaugirard) có nhiều cây cổ thụ che đầy bóng mát và đủ loại hoa kiểng trông thật là sang trọng. Bà Nguyệt Thu đang đặt bàn ăn, bà thò tay nhấc điện thoại :
- A-lô ! Tôi nghe đây !
- A-lô ! Dạ thưa bà có ông Thanh Vinh nhà không ?
- Vâng có ! Xin lỗi cô cho tôi được biết quí danh !
- Dạ thưa bà, cháu tên Nguyệt Thủy !
- Nguyệt thủy ?
Bà Nguyệt Thu hơi ngạc nhiên bởi cái tên quen quen, bà tiếp :
- Vâng, xin cô chờ một tí nhé ! Vinh ơi ! Có điện thoại của con. Cha chả, mới về là có nàng gọi rồi !
Thanh Vinh tươi cười nhận điện thoại qua tay mẹ :
- Dạ, con cám ơn mẹ !... A-lô tôi nghe !
- Nguyệt Thủy đây ! Xin lỗi, Thủy có phiền gì anh Vinh không ?
- Không. Rất hân hạnh nữa là khác.
- Anh về với ba mẹ chắc vui lắm...hén ?
- Vâng, cám ơn Thủy. Tôi vui lắm ! Còn cô ?
Nguyệt Thủy nín thinh vài giây... :
- Dạ... Thủy cũng thường thôi !
- Sau nghe giọng nói của Thủy hơi gợn buồn vậy ?
- Dạ, đâu có !
- Bác gái khỏe chứ ?
- Dạ, cám ơn anh. Má Thủy khỏe... à ... tối nay anh làm gì ?
- Mẹ tôi bảo, ăn cơm xong đi ngủ sớm !
Nguyệt Thủy bỗng cười khúc khích, nói đùa đùa :
- Anh Vinh được mẹ cưng như em bé bê-bê hén !
Thanh Vinh đổi điện thoại không giây đi vào phòng, lên giường nằm nói chuyện cho thoải mái :
- Cả năm mới về gặp mẹ vài ba tuần. Nên mẹ muốn ở nhà. Nhưng... còn Thủy có đi chơi đâu tối nay không ?
- Chưa biết ! Tại Thủy thấy số điện thoại của anh cùng đường giây với nhà Thủy. Chắc anh Vinh ở gần đây quá ?
- Nhà ba mẹ tôi ở Paris mười lăm. Còn Thủy ?
- Quận mười bốn, gần Porte-d’Orléans !
- Thế thì mình ở gần nhau rồi.
- Nhà anh ở porte nào mà gần ?
- Porte-de-Versailles.
Bà Nguyệt Thu gõ cửa phòng và gọi :
- Vinh à ! Đói bụng chưa ? Ra ăn cơm con ơi !
- Dạ, con ra liền mẹ à !
- Thủy phiền anh Vinh quá !
- Không. Không có phiền đâu Thủy à ! Thủy cho xin số điện thoại liền được không ? Hồi chiều lo nói chuyện mà quên xin.
- Anh ghi nha !
- Rồi, chút nữa tôi gọi lại nhé !
- Dạ.
Cơm đã dọn sẵn ba má Thanh Vinh ngồi chờ. Cậu bước ra phòng ăn đến bàn, ông Thanh Phong hỏi :
- Mới về, mà con nói chuyện với ai lâu thế ?
Bà Nguyệt Thu đỡ lời dùm con trai cưng của bà :
- Thì bạn của nó chớ ai !
Ông Thanh Phong hỏi tiếp :
- Bạn gái hả con ?
- Dạ.
- Quen ở đâu vậy ?
- Dạ, con vừa quen trên đường bay về đây.
Bà Nguyệt Thu tiếp :
- Ông sao hay để ý tới bạn bè của nó chi vậy. Thôi ăn cơm đi con. Rồi còn nghỉ ngơi nữa.
Dùng cơm xong, Thanh Vinh phụ mẹ dọn chén bát xuống bếp. Trong đầu nghĩ đến Nguyệt Thủy thật nhiều. Loay hoay với mẹ một hồi, cậu vô phòng điện thoại lại nhà Nguyệt Thủy, Nguyệt Thủy nghe điện thoại reo thấy mừng mừng trong lòng liền chạy nhanh đến bắt lên :
- A-lô ! ...
- Thủy hả ! Vinh đây, Thủy ăn cơm chưa ?
- Chưa !
- Trời ơi ! Giờ này mà chưa ăn cơm !
Nguyệt Thủy nín thinh, bên đầu giây tiếp :
- A-lô ! A-lô !
- Thủy nghe mà, anh Vinh nói tiếp đi.
- Thủy muốn đi ra ngoài ăn gì không ? Cho địa chỉ, Vinh sẽ đến đưa Thủy đi ăn.
- Anh Vinh ăn rồi mà !
- Ăn nữa đâu có sao ! Bác gái có nhà không ?
Nguyệt Thủy ấm ớ... :
- ...Ơ...ơ không !
- Cho địa chỉ nhé !
- Anh có viết chưa ? Thủy đọc nè ! Số...đường Général Leclerc quận mười bốn, số mật-mã...lầu năm, tay mặt.
- Rồi, nửa tiếng nữa Vinh đến rước Thủy nhé !
Thanh Vinh vào phòng thay quần áo, cậu mặc quần Jean, áo T.sirt trắng, phía trước ngực in chữ California màu đen. Thanh Vinh vừa bước ra khỏi phòng gặp ba mẹ cậu đang ngồi xem truyền hình, hai ông bà cùng hỏi :
- Giờ này con đi đâu vậy ?
- Dạ, con thả một vòng để ngắm cảnh Paris về đêm ba má à !
Bà Nguyệt Thu căn dặn con :
- Đừng đi khuya quá nghe con !
- Dạ, thưa ba cho con mượn xe !
- Chia khóa ba treo đàng kia, và giấy xe trong cặp-táp của ba kìa.
- ... Con cám ơn ba ! Thưa ba mẹ con đi !
Đàng này, Nguyệt Thủy cảm thấy trong lòng xôn xao, rộn ràng. Cô trang điểm chút son phấn đơn sơ, chải mái tóc cắt úp chấm vai và kẹp vén qua bên mép tai trái, cô mặc chiếc rốp lửng màu tím tay ngắn sát nách, dài khỏi đầu gối, gương mặt hơi trái xoan, đôi mắt to đượm nét buồn, nước da trắng hồng mịn màn, vóc dáng cao ráo, mảnh mai...
Thanh Vinh tướng diện đạo mạo, trẻ trung, cao gần một thước tám, gương mặt chữ điền, ánh mắt trong sáng và thông minh, cộng thêm nụ cười rất tế nhị. Hai cô cậu trông thật xứng đôi vừa lứa !
Thanh Vinh lái xe đến rước Nguyệt Thủy. Hai người đưa nhau ra miệt Champs-Élysées..
Tìm chỗ đậu xe xong, vào nhà hàng... Vì đã gần mười một giờ khuya rồi nên họ chỉ vào nhà hàng ăn đêm thôi. Nguyệt Thủy và Thanh Vinh, hai người đều lựa món sà-lách Niçoise, trộn đủ thứ, như cà-tô-mát, cá thu hộp, ô-liu đen, phó-mát, jambon... và cùng gọi hai ly bia express.
Đầu tháng tám, mùa hè ban đêm vẫn nóng cỡ hai mươi bảy, hai mươi tám độ. Hai bên lề đường người ta vẫn còn đi dạo đông đảo. Ăn uống xong, Thanh Vinh đưa Nguyệt Thủy về, và họ cùng hẹn nhau hôm sau.
Nguyệt Thủy vừa vô nhà, thấy mẹ đang nằm ngả nghiêng trên salon, miệng thì ngâm thơ lảm nhảm...
Hoa tươi ong bướm lượn quanh
Hoa tàn ong bướm bay nhanh cái...vèo.
Bây giờ hết cảnh đói nghèo
Mà sao tình bạn chán phèo quá đi...
Ngâm mấy câu thơ xong, là bà cười khặc khặc như người mất trí. Nguyệt Thủy biết mẹ mình đang say sướt mướt. Cô nhè nhẹ đến gần hỏi :
- Má à ! Má ăn gì chưa ?
Bà Nguyệt Hạ giựt mình, ngồi dậy, đôi mắt nặng oằn, nhướng nhướng, nhìn nhìn con và nói một giọng nhè nhè, nhừa nhựa... :
- ...Ăn gì, ăn ...cái gì bây giờ ? ... Ư...ư... con về hồi nào đó ?
- Dạ, con về hồi chiều này ! Má ăn gì chưa ? Con đi nấu chút súp cho má ăn nghe !
- Thôi. Ăn cái gì ? Nè... nè con khui dùm má chai rượu, má mới mua đó.
- Má say quá rồi, uống chi nữa !
- Say đâu mà say chứ ! Hổng khui thì... thì tao khui.
Bà Nguyệt Hạ vừa đứng lên là ngả xuống liền, từ trong miệng bay ra mùi rượu nực nồng làm Nguyệt Thủy muốn nghẹt thở. Nhưng cô cũng ráng chìu ý mẹ đi khui rượu. Cô xách chai rượu xuống bếp khui xong đem lên, trên này bà Nguyệt Hạ đã ngái khò khò tại salon. Nguyệt Thủy lấy mền đắp lên cho mẹ, cô vào phòng thay đồ ngủ, nằm trằn trọc suy nghĩ đến Thanh Vinh, người con trai mà cô vừa quen nhưng sao trong lòng lại nghe vấn vương tình cảm đậm. Biết rằng, việc làm, ngành của cô, cô giao thiệp rất nhiều đàn ông, con trai, mà chưa dám để ý đến một ai, chỉ xem họ như bạn đồng nghiệp. Mặc dầu có vài ba cậu muốn thân thiện. Nhưng cô vẫn từ chối. Bởi cô thường mang cái mặc cảm là có bà mẹ bệnh hoạn như thế, cô khổ tâm lắm. Hơn nữa, cô chỉ giao thiệp với người Âu-Mỹ ít khi được quen với Việt Nam. Bởi bận đi làm rồi về lo cho mẹ. Có đôi khi cô muốn tự nguyện không lấy chồng. Nhưng bây giờ cô gặp được Thanh Vinh, làm tâm hồn cô đang thay đổi...
Căn appartement ba phòng do tiền của Nguyệt Thủy dành dụm và gom góp một số nữ trang của mẹ bán nhập vô để đủ mua góp. Đã có chỗ cho hai mẹ con, mỗi người một phòng ngủ mà dường như salon là giường ngủ thường niên của bà Nguyệt Hạ. Nguyệt Thủy đoán mẹ mình có một nỗi buồn đau, u uất gì đó. Dù vậy, mẹ cô cũng ráng lo cho cô ăn học đến nơi, đến chốn. Từ ngày Nguyệt Thủy học ra trường và đi làm đến nay đã gần mười năm. Rồi bỗng nhiên vài năm nay mẹ cô lại uống rượu say sưa. Những năm Nguyệt Thủy còn đi học, bà đi làm từ hai giờ chiều đến ba bốn giờ sáng. Nhưng gần mười năm nay bà không còn đi làm như thế nữa. Chẳng biết bà buồn chuyện chi mà sanh ra như vậy. Phải chăng bà quá cô đơn, hay lý do gì đó ? Nhưng tại sao bà không nghĩ đến đứa con gái mà bà hết mực thương yêu lo lắng khi bà còn trẻ ? Thật cũng lạ !
*
Cuộc gặp gỡ giữa Nguyệt Thủy và Thanh Vinh, đem đến cả hai một tình cảm càng ngày càng thiết tha và sâu đậm. Sau khi Thanh Vinh hết ba tuần lễ nghỉ hè. Cậu trở lại Cali. làm việc. Nguyệt Thủy vẫn tiếp tục nghề của cô. Mỗi lần bay đi và về, cô nghỉ ở nhà được ba ngày. Từ dạo đó Thanh Vinh và Nguyệt Thủy thường xuyên viết thư cho nhau. Và thỉnh thoảng họ hẹn gặp nhau ở Los-Angeles. Kết cuộc mối tình giữa hai người rất thắm thiết.
Một năm sau, cũng vào mùa hè. Thanh Vinh trở về Paris và xin cha mẹ cưới Nguyệt Thủy cho cậu. Một hôm Thanh Vinh mời mẹ cha đi ăn cơm chung với hai mẹ con Nguyệt Thủy, sẵn dịp giới thiệu cho cha mẹ đôi bên biết mặt. Họ hẹn nhau đến một nhà hàng Tàu ở quận mười ba.
Trước mấy ngày, Nguyệt Thủy năn nỉ mẹ bớt uống rượu. Bà Nguyệt Hạ nghe lời con, nhưng bà phải uống thuốc an thần cho tĩnh táo tâm thần.
Đến ngày hẹn đi ăn. Ông bà Thanh Phong và con trai đến nhà hàng trước. Mười phút sau Nguyệt Thủy dẫn mẹ vào. Bà Nguyệt Thu vừa thấy Nguyệt Hạ, bà sửng sốt, làm mặt nghiêm xem như chưa từng quen biết nhau, bà nghĩ : Trời ơi ! Sao mà ông trời sắp đặt chi quái ác như vầy ? Nguyệt Hạ cũng ngạc nhiên không ít.
Thanh Vinh đứng lên giới thiệu :
- Dạ, thưa ba má, đây là bác Nguyệt Hạ mẹ của Nguyệt Thủy đấy ba má !
Hai ông bà Thanh Phong đều đứng lên chào. Nét mặt Nguyệt Thu thay đổi không tự nhiên chút nào. Mọi người ngồi bàn... Cậu bồi bàn đem mấy tờ thực đơn đưa mỗi người... Bà Nguyệt Thu lựa lựa... Sau đó, mọi người đều chọn menu năm phần... Người ta vừa bưng đồ ăn ra... Bàn phía bên trong. Thật ngẫu nhiên ! Bà Lệ Huyền cũng đi ăn với bạn bè.
Vào thập niên sáu mươi khi xưa Lệ Huyền là bạn của Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu. Hai bà vừa thấy Lệ Huyền cả hai đều hết hồn. Lệ Huyền nhìn ra thấy hai người bạn cũ, bà đứng lên õng a, õng ẹo đi qua bàn chào hỏi, cười nói sang sảng :
- Nguyệt Thu ! Nguyệt Hạ !...Thiệt là trái đất tròn ! Sao mà tụi bây gặp lại nhau được vậy ?
Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu muốn đứng tim, bốn mắt nhìn nhau. Còn ông Thanh Phong, Thanh Vinh và Nguyệt Thủy không hiểu gì hết, nên chỉ gật đầu chào. Bà Nguyệt Thu lúng túng chẳng biết phải làm sao, bà liền nói :
- à, ờ cũng ngẩu nhiên thôi ! Mai mốt mình gặp sau nhé Lệ Huyền ! Vì bữa nay con trai tao mời... ăn cơm.
Nguyệt Thu bối rối, lật đật bảo con cho số điện thoại mà không cần suy nghĩ :
- Vinh, con ghi số điện thoại nhà mình cho dì Huyền đi con !
Thanh Vinh cũng làm theo lời mẹ. Lệ Huyền lấy số điện thoại và chúc cả bàn ăn ngon, bà õng ẹo đi trở về bàn.
Bữa cơm Tàu thịnh soạn, ông Thanh Phong, Thanh Vinh cùng Nguyệt Thủy ăn rất tự nhiên. Chỉ có bà Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu là nuốt hết nỗi. Ăn xong tính tiền, mọi người ra về. Hai bà, Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu muốn nghẹt thở...
*
Vào khoảng năm 1964, Nguyệt Hạ là cô vũ nữ hai mươi tuổi làm tại phòng trà... giữa thủ đô Sài-gòn. Lúc đó, cô mướn một căn phòng nhỏ. Chung quanh có các cô, cậu sinh viên học đủ ngành. Phòng của Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu cạnh bên. Dạo ấy, Nguyệt Thu nữ sinh viên trường luật, năm thứ hai. Cô sanh trưởng trong một gia đình người Bắc di cư vào Nam năm 1954, cư ngụ trên Hố Nai (Biên Hòa), gia cảnh không mấy gì khá giả cho lắm, hôm nào rảnh là Nguyệt Thu qua phòng Nguyệt Hạ để tâm sự, than thở, nói là gia đình cô nghèo mà cô tiếp tục học hành thì không giúp được gì cho mẹ cha ở nhà. Nguyệt Hạ nghe động lòng. Mặc dù cô mang thân làm vũ nữ, nhưng tấm lòng của cô hay thương người, nhứt là các sinh viên nghèo mà chăm học nên cô hay tặng chút ít tiền bạc để mua sách vỡ... Nguyệt Hạ nghe những lời than thở của Nguyệt Thu, thấy vậy, cô mới rủ Nguyệt Thu nên đi làm vũ nữ với cô, chớ đi dạy kèm tiền đâu có bao nhiêu. Vì nào là tiền phòng, tiền học, tiền sách... còn không đủ, thì làm sao có tiền mà giúp gia đình. Nguyệt Thu nghe những gì Nguyệt Hạ cắt nghĩa trong việc làm ấy. Nên cô không ngần ngại đi làm ngay vài ngày sau đó. Bởi nơi vũ trường có nhiều khách ngoại quốc. Vì Nguyệt Thu nói rất khá sinh ngữ Anh và Pháp. Cách nói chuyện của cô thật hoạt bát và duyên dáng.
Sau đó, ngày ngày Nguyệt Thu đi vào trường đại học. Đêm đêm xách giỏ đi làm vũ nữ. Từ nhà ra đi, cô vẫn mặc áo dài trắng, quần đen, xách cặp-táp theo giống như đi dạy kèm cho học sinh. Nhưng khi đến nơi vũ trường, cô thay đổi xiêm-y theo phòng trà. Cô trang điểm phấn son rất đơn sơ, và luôn giữ tư cách lịch sự, đàng hoàng, trên gương mặt có vẻ ngây thơ, vì cô mới va chạm đời, cô rất ăn khách là nhờ những điểm ấy, không bao giờ cô đi chơi khách. Nếu kẹt quá thì đẩy qua cho Nguyệt Hạ giải quyết vấn đề ấy thay thế ! Cô chỉ tiếp khách, khách mời uống nước ‘’trà Sàigòn’’, cô được chia đôi với chủ và có một chút tiền lương cố định hàng tháng. Chủ biết cô có trình độ học vấn khá cao nên rất quý cô và chủ thường nhờ cô coi sổ sách. Tuy Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu đồng tuổi, nhưng Nguyệt Hạ ra đời sớm nên sành sõi và rất vững nghề, cô rất thích làm anh hùng che chở, bênh vực Nguyệt Thu khi bị những tay anh chị... đụng đến, Nguyệt Hạ xem Nguyệt Thu như cánh hoa yếu đuối. Hai người bạn gái thân thương nhau lắm. Trong khi đó lại có thêm một cô bạn đồng nghiệp là Lệ Huyền. Thỉnh thoảng cả ba đi ăn sáng trong chợ Sài-gòn hoặc thả bộ vào các Thương-Xá đại lộ Lê-Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do để mua sắm son phấn, áo quần v.v... Nhưng Nguyệt Thu không mấy gì hạp với Lệ Huyền. Bởi Lệ Huyền hay móc lò, kê tủ đứng, nói Nguyệt Thu là : ‘’Nữ sinh viên còn trinh, biết đâu xe nhà binh ...’’. Lệ Huyền nói xong, cô cười khặc khặc, khà khà. Bởi cô thiếu tư cách và thô lỗ nên khi nào có cô đi chung thì Nguyệt Thu nét mặt không mấy gì được vui.
Suốt mấy năm liền, Nguyệt Thu vừa đi làm vừa đi học đại học. Sau đó, cô thi đậu bằng cử nhân luật, cô bắt đầu đi làm tập sự có được chút tiền thù lao. Từ đó cô dứt khoát bỏ nghề vũ nữ bất đắc dĩ ! Nhưng cô vẫn còn ở chỗ cũ. Cũng vừa lúc đó, Nguyệt Hạ có chửa hoang với người khách Mỹ, bụng càng ngày càng bự, cô phải nghỉ làm để chờ ngày sinh nở. Cái nghề tiền rừng bạc biển. Nhưng khi hết đi làm chỉ một thời gian ngắn là tiền cạn khô. Nguyệt Hạ ngày đêm suy nghĩ, cô qua phòng Nguyệt Thu than thở :
- Nguyệt Thu à ! Chắc tao phải đi tìm nơi khác, chứ ở đây tao thấy mắc cỡ với mấy anh chị sinh viên quá hà Nguyệt Thu ơi ! Kiếm chỗ nào phòng rộng hơn một chút. Tao với mầy mướn chung nha !
- Tìm đâu ra bây giờ ?
- Thiếu gì !
- Mầy biết hả Nguyệt Hạ ?
- Ừa, tao nghe bên hẻm đường Trần Quí Cáp có chỗ cho mướn, phòng sạch sẽ hơn ở đây và giá cũng phải chăng.
- Đừng có đắc tiền lắm là được rồi.
- Tùy theo mình muốn lấy phòng nhỏ hay lớn thôi.
Nguyệt Thu và Nguyệt Hạ dắt nhau đi xem phòng. Cuối cùng hai cô đồng ý mướn và hì hụt dọn đến hẻm Trần Quý Cáp.
Gần đến ngày sanh nở, Nguyệt Hạ túng thiếu nên muốn vào nhà thương Từ-Dũ sanh cho đỡ tốn tiền. Nhưng Nguyệt Thu không bằng lòng, vì cô đã đi làm luật sư có khá tiền, cô sẵn sàng lo giúp Nguyệt Hạ hết mình. Cô đưa Nguyệt Hạ đi sanh trong một nhà bảo sanh tư... Tình nghĩa chi giao cao như núi, rộng như biển trời. Hai cô thề thốt, kết tình bạn keo sơn chẳng bao giờ nhạt phai.
Nguyệt Hạ sanh con gái, cô và Nguyệt Thu, đều bằng lòng đặt tên cho bé là Nguyệt Thủy. Khi bé Nguyệt Thủy được vài tháng, Nguyệt Hạ mướn vú nuôi, cô trở lại nghề cũ, còn Nguyệt Thu thì gia đình gọi về lấy chồng. Từ đó Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu phải chia tay. Nguyệt Thu lấy ông dược sĩ vừa ra trường, tên Nguyễn Thanh Phong ba mươi tuổi. Cưới xong vài tháng sau thì ông dẫn vợ sang Pháp cùng tu nghiệp và sống luôn bên ấy. Vài năm sau hai ông bà có đứa con trai đặt tên là Thanh Vinh.
*
Một cuộc đổi đời, vào tháng 4 năm 1975, Nguyệt Hạ và con hồi hương về Pháp. Nhờ gia đình của Nguyệt Hạ khi xưa có quốc tịch Pháp. Nên được hồi tịch.
Sang Pháp, bé Nguyệt Thủy được tám tuổi, Nguyệt Hạ và con lúc đầu được chánh phủ trợ cấp, và cho ở trong trại tạm cư ngoại ô Paris. Sáu tháng sau họ muốn đưa hai mẹ con cô đến những tỉnh xa xôi. Nguyệt Hạ không thích sống xa Paris. Người ta nói : nếu cô không chịu đi, thì phải tự túc lo liệu, họ chỉ trợ cấp tám trăm quan mỗi tháng thôi. Lúc đầu hai mẹ con sống rất là vất vã với số tiền ấy. Nguyệt Hạ phải bán vài món nữ trang và nhờ người đứng ra bảo đảm mướn một phòng nhỏ (chambre de bonne). Sau đó Nguyệt Hạ định đi tim việc làm. Nhưng nàng suy nghĩ, rồi tự hỏi : ‘’Làm gì bây giờ ? Trong khi mình chẳng có bằng cấp gì cả ! Tiếng Pháp nói dở, tiếng Anh cũng chẳng khá hơn ! Ai mướn mình bây giờ ?’’
Cuối cùng nàng soi gương ngắm lại vóc dáng, rồi an ủi tự nhủ : ‘’Với chút hương sắc của tuổi ba mươi này, mình hy vọng trong mấy hộp đêm người ta sẽ không từ chối’’.
Bao nhiêu ngày Nguyệt Hạ hy vọng và nghĩ ngợi lung tung. Sau đó, nàng mướn người giữ bé Nguyệt Thủy, và đi tìm việc trong các vũ trường. Nguyệt Hạ xem nghề cũ ấy là nghề của nàng trên cõi đời này rồi. Mấy đêm liền lẩn quần, loanh quanh trong ba bốn hộp-đêm. Nàng được việc làm. Trở lại cảnh cũ mà xứ người, mỗi nơi luật lệ khác nhau. Lúc đầu còn bỡ ngỡ, nhưng chỉ vài ngày là hiểu ngay. Nguyệt Hạ đi làm, trước để lo thân và nuôi cho con ăn học, cùng phụ giúp chút ít cho gia đình bên nhà.
Suốt mười mấy năm dài Nguyệt Hạ làm nghề vũ nữ kiêm chiêu đãi viên một trong những hộp-đêm sang trọng tại thủ đô ánh sáng Paris. Nhờ có quốc tịch Pháp, nên người ta khai báo đàng hoàng. Nguyệt Hạ được may mắn gặp thời cũng là tiền rừng bạc biển. Nàng đổi phòng rộng rãi hơn. Cuộc sống hai mẹ con được khá gấp bội phần khi xưa. Nàng luôn khuyên dạy con : ‘’Con ráng ăn học, chớ đừng để thân phận dốt nát như mẹ, phải rửa chén, lau bàn...’’. Vì nàng nói dối với con là đi chạy bàn cho nhà hàng về đêm. Nguyệt Thủy tâm tánh hiền ngoan và rất nghe lời của mẹ dạy. Cô cố gắng chăm học. Sau khi cô đậu tú tài đôi xong, liền đi ghi danh thi tuyển ngành chiêu đãi viên hàng không. Cô được trúng tuyển và tiếp tục đi học thêm. Mấy năm sau Nguyệt Thủy ra trường và được đi làm, tiền lương khá cao. Cô năn nỉ mẹ nghỉ làm đêm. Vì cô đủ sức nuôi mẹ. Nguyệt Hạ cũng cảm thấy quá mệt mỏi với cái nghề ấy. Hơn nữa, hương sắc cũng đã tàn phai theo những năm tháng phong trần, sương gió... Nên bà nghe lời con mà giải nghệ liền sau đó.
Bấy giờ Nguyệt Hạ đã trên bốn mươi tuổi, bà nghĩ : ‘’Ở không cũng buồn !’’. Bởi bà quen với phấn son, trưng diện và muốn tiếp xúc với người đồng hương. Nên bà đi tìm việc lòng vòng trong khu có nhiều tiệm Việt Nam. Cuối cùng, bà xin được một chân bán băng tại Trung Tâm băng nhạc Vân-Phương trong những ngày cuối tuần.
Rồi một buổi chiều thu... Vào ngày thứ bảy, ngoài trời gió thổi hiu hiu, man mác lạnh, ngàn chiếc lá vàng lác đác rơi rơi. Trong tiệm khách ra vào mua băng đông nghẹt. Nguyệt Hạ đang tươi cười, vui vẻ đứng bán băng, bất chợt nhìn thấy Nguyệt Thu vào tiệm. Vừa gặp lại người bạn năm xưa chưa kịp chào hỏi vui mừng gì cả. thì Nguyệt Thu đưa ngón tay lên miệng suỵt và lắc đầu, từ từ tiến lại gần nói nhỏ với Nguyệt Hạ :
- Có chồng tao đứng ngoài kia !
Nguyệt Hạ sửng sốt, nước mắt muốn trào ra. cố nén lòng, nuốt thương đau, đôi môi run run gượng cười, tiếp Nguyệt Thu như người khách lạ chưa từng quen biết.
Qua tuần sau, Nguyệt Thu gọi điện thoại đến tiệm... muốn hẹn riêng với Nguyệt Hạ để hai chị em cùng tâm sự. Nhưng Nguyệt Hạ nói :
- Nguyệt Thu à ! Theo tao thấy mầy muốn dấu bặt cái dĩ vãng xa xưa. Thì nên dấu đi ! Kể từ bây giờ tụi mình xem nhau như đã chết hết rồi. Hoặc như chưa bao giờ có quen biết với nhau !
Nguyệt Thu khóc nức nỡ trong điện thoại, và nói :
- Nguyệt Hạ ơi ! Xin mầy thông cảm cho hoàn cảnh của tao. Không phải tao làm phách, hay khinh rẻ mầy, hoặc tao quên thuở cơ hàn của chúng mình khi xưa đâu !
Nguyệt Hạ cũng nghẹn ngào :
- Cái dĩ vãng xấu xa ấy, mầy dấu là phải ! Vì đối với người đời. Họ không bao giờ thông cảm. Nhứt là đối với chồng mầy. Hạnh phúc của mầy, cũng chính là hạnh phúc của tao đó Nguyệt Thu à ! Mầy đừng lo và cũng đừng tìm gặp tao nữa, hãy xóa đi nhe ! Tao chúc mầy mãi mãi hạnh phúc bên cạnh chồng con.
Nguyệt Thu chúc lại :
- Tao cũng cầu chúc mầy và đứa con gái được an lành !
Từ dạo ấy, Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu không hề gặp lại nhau. Rồi bây giờ, trong cảnh tình của các con. Hai bà đang đứng trước ngã ba đường thật khó xử. Đã hơn ba mươi năm qua dĩ vãng không bay mất, bây giờ nó lại quây về. Có lẽ người khổ nhứt là Nguyệt Thu !
Ông Thanh Phong đã thấy mặt Nguyệt Thủy, một cô gái lai, ông hơi phân vân, sợ con ông sẽ khổ vì mấy cô đầm lai. Nhưng ông chẳng biết phải làm sao. Còn bà Nguyệt Thu thì cứ ôm ắp cái dĩ vãng xa xưa mà trong lòng lo âu, hồi họp, sợ chồng sẽ biết được. Hai ông bà mỗi người ôm mỗi nỗi khổ.
Trong khi họ lo lắng chẳng yên lòng. Lệ Huyền điện thoại lại thường xuyên, bởi bà Nguyệt Thu trong lúc lính quýnh bảo con bà cho số điện thoại nhà. Bà không ngờ Lệ Huyền vẫn còn cái tâm xấu như xưa. Lệ Huyền cố ý muốn gặp riêng ông Thanh Phong thôi. Bữa nay Nguyệt Thu cùng con trai đi phố. Lệ Huyền gọi lại :
- A-lô !
- A-lô ! Lệ Huyền đây ! Có con Nguyệt Thu nhà không vậy anh ?
Ông Thanh Phong thấy khó chịu cách Lệ Huyền gọi vợ ông bằng con...này, con nọ, ông trả lời :
- Không ! Nhà tôi đi vắng rồi ! Có chuyện gì thì chị nhắn lại tôi đi !
- May quá ! Không có Nguyệt Thu ở nhà... thì tốt !
- Chuyện gì vậy chị Lệ Huyền ?
- Tôi nghe loáng thoáng con anh sắp lấy con gái của con Nguyệt Hạ phải không ?
- ... Gia đình chúng tôi mới bàn tính thôi, chớ chưa có gì rõ ràng.
- Anh có biết rõ về con Nguyệt Hạ không ?
- Dạ không ! Mà chuyện của sắp nhỏ. Có dính líu gì người lớn đâu ! Chúng nó cũng lớn quá rồi !
- Con Nguyệt Thu nó có nói với anh là con Nguyệt Hạ bạn của nó khi xưa ở Sài-gòn không ?
- Xin lỗi ! Chị nói gì mà tôi không hiểu ? Nguyệt Hạ nào bạn của vợ tôi đâu ? ... à ! Có phải chị Nguyệt Hạ...tôi nhớ rồi ! Mà bà ấy đâu phải bạn của vợ tôi !
Ông Thanh Phong bóp đầu suy nghĩ. Lệ Huyền sẵn đã không ưa Nguyệt Hạ và Nguyệt Thu từ xưa, nay bà ta muốn có dịp trả thù đời. Bà dở vọng như là tội nghiệp ông Thanh Phong :
- Trời ơi ! Anh sống với vợ anh mấy mươi năm mà anh không biết khi xưa nó làm cái nghề gì à ?
- Vợ tôi là luật sư mà chị ? Thôi, chị muốn nói gì thì đợi vợ tôi về rồi chị gọi lại nói.
- Tôi muốn nói thiệt chuyện bí mật của vợ anh đã dấu anh mấy mươi năm kìa !
Ông Thanh Phong nghe. Ông bắt đầu thấy bực, nhưng làm sao ông không muốn nghe được ? Ông bèn hỏi Lệ Huyền :
- Chuyện gì mà bí mật dữ vậy chị ?
Lệ Huyền ỡm ờ... rồi nói :
- Chẳng có gì quan trọng lắm ! Ở đời ! Dĩ vãng ai mà không có ! Nhưng... đối với tình nghĩa vợ chồng phải nói thật, tại sao mà con Nguyệt Thu nó dấu anh kìa ?
Ông Thanh Phong càng nghe như lửa đốt ruột, ông mạnh giọng nói hơi lớn tiếng :
- Chuyện gì chị cứ nói ra đi, chị cứ lòng vòng hoài làm tôi nóng ruột quá !
- Anh muốn biết thiệt hôn ?
- Thì chị nói đi !
- Được rồi ! Tôi nói cho anh biết, là bởi vì tôi quý anh lắm đấy !
- Tôi không cần chị quý hay khinh, mà tôi muốn nghe chị nói thật hết về vợ tôi thôi !
Trong bụng của Lệ Huyền đã nư, bà nói thầm : - Kỳ này tao cho chúng bây biết tay của bà. Cho chúng bây đứt tình, đoạn nghĩa luôn...ha ha... Rồi Lệ Huyền làm bộ thở ra và từ từ nói :
- Ngày xưa... tôi với con Nguyệt Hạ là vũ nữ làm chung với nhau, mà... mà có cả con Nguyệt Thu vợ của anh nữa ! Ba đứa tụi tôi thân nhau lắm !
Ông Thanh Phong vừa nghe như bị trời đánh. Ông đứng dậy đi lấy nước mát hớp mấy ngụm nuốt vào, ông nói nhanh :
- Thôi bấy nhiêu đó đủ rồi. Tôi rất cám ơn chị ! Chào chị !
Ông Thanh Phong cúp liền điện thoại, ông dựa lưng, ngửa đầu, dang hai cánh tay thẳng ra trên salon, mắt nhìn lên trần nhà thấy mình như trong cơn ác mộng, ông nhủ thầm : Trời ơi ! Mình lầm Nguyệt Thu mấy chục năm nay rồi !
Ông đứng dậy, ra trước cửa sổ ngó lên trời, ông hồi tưởng lại ba mươi hai năm qua, ngày cưới Nguyệt Thu. Bất chợt ông tự hỏi : - Nguyệt Thu khi xưa làm vũ nữ, mà sao nàng vẫn còn trinh trắng khi về làm vợ mình kìa ? Dạo đó, mình đâu phải là thằng con nít mới lớn lên đâu ! à, có thể là bạn của Nguyệt Hạ thôi ! Ông Thanh Phong tự hỏi, rồi tự trả lời, cuối cùng, ông nghe trong lòng nhẹ bớt phần nào. Nhưng ông lại nghĩ việc khác : - Mình không thể bằng lòng cho Thanh Vinh cưới cô đầm lai ấy được. Tuy có học và đẹp, nhưng cái ngành của cô ta làm rất là phức tạp. Không khéo, thì con trai mình sẽ khổ vì cô ấy ! Từng tuổi này, mình mới nếm mùi rắc rối ! Thật là khổ ! Vợ ơi ! Con ơi !
Chiều hôm ấy, bà Nguyệt Thu và con về nhà. thấy chồng ngồi yên một chỗ, ông không hỏi, không nói gì đến vợ con. Bà xuống bếp lo cơm tối xong, dọn lên cả ba đều vào bàn ăn. Bà Nguyệt Thu thấy chồng hôm nay có thái độ lạ, bà hỏi :
- Anh có chuyện gì buồn phải không ?
- Ăn cơm đi, đừng hỏi gì nữa cả !
Ông quay sang nhìn Thanh Vinh và tiếp :
- Còn việc con muốn cưới cô Nguyệt Thủy kể như không được rồi.
Thanh Vinh nghe cha vừa nói, cậu buông liền chén đủa xuống bàn. Cổ họng nghèn nghẹn nhìn cha mẹ, cậu hỏi :
- Chuyện gì vậy ba mẹ ?
- Hỏi mẹ con đi !
Bà Nguyệt Thu lại sửng sốt :
- Trời ơi ! Có chuyện gì sao anh không nói ra, mà ắp úng hoài vậy ? Nói đi, nói đại đi !
- Em với bà Nguyệt Hạ má cô Nguyệt Thủy là bạn. Tại sao em không nói cho tôi biết ?
Bà Nguyệt Thu muốn ngất xỉu vì lời nói vừa rồi của chồng. Mặt bà tái nhợt, tay run run, nước mắt tuôn rơi. Thanh Vinh không hiểu, lại càng không hiểu thêm. Cậu nhìn mẹ, nhìn cha, buông ra lời nức nỡ :
- Nếu ba không thương Nguyệt Thủy thì tụi con đành cam chịu, chớ ba má đừng có gây gỗ. Vì từ hồi nào đến gìờ ba má sống hạnh phúc, êm đềm. Nay, tại vì việc hôn nhơn của con mà ba má mất vui, thì làm sao con vui được ?
Bà Nguyệt Thu nghẹn ngào nói :
- Không có hề gì đâu con, con hãy bình tĩnh, việc gì rồi để từ từ má giải quyết với ba con. Má sẽ nói ra hết cho con và ba con nghe câu chuyện.
Vài ngày sau Nguyệt Thu trân mình kể lể hết sự tình cho chồng và con bà nghe. Sự thật đã phơi bày, bà thấy nhẹ người. Nói xong, lại lo lo trong lòng, bà nhũ thầm : Nếu chồng mình không thông cảm, hoặc không tin mình, thì mình phó mặc chuyện gì đến rồi sẽ đến !
Thanh Vinh nghe câu chuyện ấy xong, lòng cậu lại càng thấy thương hai mẹ con Nguyệt Hạ hơn nữa. Còn ông Thanh Phong đứng lên nhìn trời qua cửa sổ mà thở ra, rồi ông chấp tay sau đít đi tới đi lui, bỗng quay lại ông nói với vợ :
- Chuyện em dấu anh hơn ba mươi năm nay, anh thông cảm, anh sẽ không nghĩ gì đến nữa. Nhưng...anh quyết định không bằng lòng hỏi cưới cô Nguyệt Thủy cho thằng Vinh.
Thanh Vinh kêu lên :
- Ba ! Ba ơi ! Nguyệt Thủy đâu có tội tình gì, mà ba không thương chứ ? Trời ơi trời !
Bà Nguyệt Thu thấy con mình đau đớn, bà đến ngồi gần ôm hai vai con vuốt, và an ủi :
- Con đừng buồn nữa, để má năn nỉ ba con !
Thanh Vinh đứng dậy đi vô phòng của cậu. Ngoài salon còn lại hai ông bà Thanh Phong. Cả hai không ai nói gì nữa cả. Mỗi người mỗi ý nghĩ...Bà Nguyệt Thu đi xuống bếp lo cơm.
Hôm sau, ông Thanh Phong chờ vợ con đi vắng, ở nhà ông liền điện thoại gặp ngay bà Nguyệt Hạ, bằng một giọng cứng rắn và nghiêm nghị, ông nói :
- Chuyện sắp nhỏ không thành đâu nhé chị !
Bà Nguyệt Hạ bị cứng họng. Ông Thanh Phong nói tiếp với cái giọng như là một lệnh truyền :
- Hôm nay đây. Tôi yêu cầu chị nên khuyên con gái của chị, phải xa lánh con trai tôi tức khắc ! Tôi có mấy lời, mong chị hiểu nhiều hơn nữa. Chào chị !
Bà Nguyệt Hạ nghe những lời của ông Thanh Phong nói, bà im lặng, nín thinh, mà không nói nổi một câu nào.
Thanh Vinh hẹn được Nguyệt Thủy ở một quán cà-phê gần nhà cô, để hỏi lại thử xem hư thực thế nào ! Cả hai gặp nhau, Thanh Vinh nắm tay Nguyệt Thủy và hỏi :
- Nguyệt Thủy à ! Em có biết, mẹ em hồi thuở sanh tiền làm nghề gì không ?
Nguyệt Thủy đã hiểu rõ câu chuyện. Cô cố nén lòng, nuốt nước mắt trở vào tim. Nhưng không làm sao xoa dịu được cơn đau, cô khóc và nấc lên thành tiếng, nghẹn ngào nói :
- Anh hãy nhìn kỹ hình dạng của em là gì đây ? Em là đứa con gái lai Mỹ. Còn mẹ em, dù mẹ em có làm gì xấu xa đi nữa, thì cũng mãi mãi là mẹ của em. Mẹ em, người đã hy sinh cho em, cho gia đình, và đôi khi hy sinh luôn cả người dưng nước lã nữa anh à !
Nói đến đây, Nguyệt Thủy nuốt nỗi đau, tủi buồn, nàng tiếp :
- Từ cái ngày mình gặp dì Lệ Huyền, mẹ em biết sẽ không dấu được ai, nên người kể hết cho em nghe rồi. Vì mẹ em nghi, là dì Lệ Huyền sẽ không để yên cho mẹ anh sống đời hạnh phúc đâu. Bà ấy có mối thù riêng gì đó với mẹ anh khi xưa. Theo mẹ em đoán, là dì Lệ Huyền ganh ghét với mẹ anh. Bởi vì, dì Nguyệt Thu có học, có giáo dục, đẹp và hiền, lại được mẹ em thương và có chồng, có con và được sống hạnh phúc đàng hoàng. Còn dì Lệ Huyền, thì lang bang, không con, không chồng, học hành thì... chắc cỡ như mẹ em là cùng. Nhưng hai người, hai tánh tình thật là khác nhau !
Thanh Vinh ngồi lắng nghe Nguyệt Thủy, chàng đưa hai bàn tay lên ôm đầu. Lòng chàng thấy thương hai mẹ con Nguyệt Thủy thêm, vì họ chân thật.
Nguyệt Thủy nói tiếp :
- Anh biết tại vì sao, trên ba mươi tuổi mà em chưa lấy chồng không ? Biết bao nhiêu lần em muốn đánh bật cái mặc cảm lai Mỹ ra khỏi lòng mình. Nhưng sao nó cứ lảng vảng bao quanh em hoài. Rồi năm rồi, bỗng gặp anh và quen với anh đến ngày nay. Thú thật với anh ! Lúc nào em cũng cảm thấy lo sợ. Sợ người ta sẽ chê trách và khinh rẻ, vì em là con gái của một người đàn bà là loại gái giang hồ, dốt nát, thất học ...là...là... Thôi. Bây giờ thì mọi việc rõ ràng quá rồi, em có nói nhiều cũng vô ích !. Phận làm con mà ! Sự việc như vậy rồi ! Thôi thì phần anh, anh lo. Còn phần em, để mặc em lo. Sự đời nó là vậy đó ! Mình hãy chia tay, hoặc xem nhau như bạn qua đường đi anh Vinh à !
Thanh Vinh nắm tay Nguyệt Thủy, chàng lắc đầu và nói :
- Má anh đã kể cho anh nghe y như em vừa kể. Thật tội nghiệp cho dì Nguyệt Hạ và em quá !
- Thôi, anh đừng tội nghiệp hay thương hại làm gì ! Vì đời là thế !
- Mà anh yêu em chân thành !... Không thể được. Anh phải tranh thủ với ba anh mới được. Anh phải nói chuyện với ba anh. Dù sao ba anh cũng là người có ăn học, thì phải có kiến thức rộng mới được chứ ! Theo anh biết, tánh ba anh từ thuở giờ rất bình dân. Ông đối xử với nhân viên trong nhà thuốc Tây... như người thân gia đình. Và ông cũng thường hay đi hủy lạo chung với những phái đoàn Từ-Thiện để thăm nôm các gia đình nghèo. Anh hy vọng là ba anh sẽ thông cảm !
- Tùy anh quyết định, chớ em và má em thì như vậy rồi ! Thân phận hẩm hiu của mẹ con em thế đó. Có lẽ vì thế mà má em cứ uống rượu cho quên đời !
- Thôi anh về ! Anh sẽ gọi cho em sau nha !
Thanh Vinh và Nguyệt Thủy tạm biệt, chia tay. Lòng của hai cô cậu đau buồn vô tận. Nguyệt Thủy lẵng lặng đi lên nhà.
*
Sau khi Nguyệt Hạ nhận được cú điện của ông Thanh Phong. Bà biết con mình bị từ hôn. Bà buồn đến đỗi quẩn trí, bà chịu hết nỗi, cứ cho là lỗi ở tại nơi bà. Vì cuộc đời của bà có một dĩ vãng mà người đời cho là xấu xa. Nên làm con gái của bà phải chịu khổ lây.
Mấy tuần Nguyệt Hạ suy nghĩ và khổ tâm vô cùng. Bà nằm, ngồi không yên chút nào. Bà cứ uống rượu, mà không còn thấy say nữa. Bà lại nghĩ đến cái chết để cho khuất mắt mọi người. Bà diện cớ đi khám bác sĩ xin thuốc an thần và thuốc ngủ để cay rượu. Bà đi khám một loạt bốn năm ông bác sĩ, được có nhiều toa mà mua thuốc. Mua được một số thuốc, bà đem về lén hòa vô rượu, chờ Nguyệt Thủy đi vắng, ở nhà bà uống hết vô bụng. May thay ! Vừa uống thuốc xong, Nguyệt Thủy cũng vừa về tới. Vô nhà, cô thấy mẹ nằm dài trên salon, cô nghĩ : ‘’Mẹ lại say rượu nữa rồi !’’. Nguyệt Thủy đi xuống sau bếp định rót nước uống, bỗng chợt thấy một hộp thuốc trống không rớt bên cạnh thùng rác, cô cầm lên đọc, thấy là thuốc ngủ, cô bươi vạch thùng rác, lại có thêm ba hộp trống không nữa. Cô thất thần, lật đật gọi sở cứu cấp chở mẹ vào nhà thương... rửa ruột. Bà Nguyệt Hạ xem như thoát chết. Nhưng bà bị hôn mê bất tỉnh.
Sự việc đáng tiếc xẩy ra, Nguyệt Thủy khóc nức nỡ và gọi cho Thanh Vinh hay. Thanh Vinh cùng mẹ chạy liền vào bệnh viện... thăm Nguyệt Hạ. Hai mẹ con bất kể chồng, cha. Bởi ông Thanh Phong quá cố chấp mà nghe lời Lệ Huyền. Bà Nguyệt Thu tức mình, nghĩ trong bụng : ‘’Con Lệ Huyền này, sao mà nó ác chi mà ác dữ vậy. Ông trời cho nó trôi qua đây làm chi để nó làm khổ người ta chứ ? Nguyệt Hạ ơi ! Tao không có bỏ mầy đâu !’’
Hai mẹ con Nguyệt Thu vào phòng, chỉ nhìn cái xác vướng đầy dây ống để chuyền nước biển và máy hô hấp... Hơi thở của Nguyệt Hạ thoi thóp. Vì bà vẫn còn trong tình trạng hôn mê. Nguyệt Thu cầm tay bạn nước mắt đôi dòng.
Sau hơn một tuần lễ, Nguyệt Hạ mới hồi phục. Bà vừa thấy Nguyệt Thu trở lại thăm. Hai người bạn thân ôm nhau khóc nức nỡ. Bà Nguyệt Thu hứa :
- Từ đây cho tới chết tao với mầy mãi mãi là bạn, Và tụi miinh sẽ không bao giờ xa cách nhau nữa.
Nguyệt Hạ đôi mắt lệ còn đọng đầy, giọng nói yếu ớt :
- Không được đâu Nguyệt Thu à ! Còn chồng mầy nữa chớ ! Xin đừng vì mẹ con tao mà gia đình mầy mất hạnh phúc ! Người Việt mình, thời buổi nào cũng còn giữ mãi cái thành kiến... Nhứt là dân Việt Nam mình. Thôi, số phận của mẹ con tao trời đã dành sẵn vậy rồi !
Nguyệt Thu vẫn ôm bạn, và vỗ lưng nói :
-Mầy đừng lo buồn nữa, và cũng đừng lo cho thân tao. Tao tranh thủ cho các con, chớ tao không cần bản thân tao nữa đâu. Nhưng tao có chút hy vọng, là ba thằng Vinh không hẹp lượng gì đâu. Bởi vì từ ngày ổng cưới tới bây giờ, tánh ổng tao biết quá ! Ổng cũng rất từ tâm, thương người. Tại bất chợt con Lệ Huyền... Tại nó hết ! Nó vẫn còn tâm tánh xấu xa, ích kỹ, cố tình hại tao với mầy. Nên nó có cơ hội trả thù, chờ có dịp mà kể chuyện xưa của tụi mình cho chồng tao nghe. Chồng tao, ổng bị cú sốc mới như vậy đó thôi.
Nguyệt Thủy và Thanh Vinh đứng nghe hai bà mẹ than thở, nước mắt cô cậu cũng không cầm được. Bà Nguyệt Hạ hỏi con :
- Bác sĩ có nói chừng nào cho má ra bệnh viện không con ?
- Dạ có ! Bác sĩ nói, má ở đây cỡ ba bốn ngày nữa thôi má à !
- Thôi, tối rồi con về với dì Thu và Vinh đi ! Bữa nay má thấy khỏe nhiều lắm !
Nhìn Nguyệt Thu, bà tiếp :
- Nguyệt Thu à ! Mầy cũng về với tụi nhỏ đi. Tao rất cám ơn mầy !
- Ơn nghĩa gì giữa tao với mầy ? Tụi mình đã xem nhau như ruột thịt dính liền thân rồi mà !
Bà Nguyệt Thu ôm hôn bạn, và nói :
- Mầy ráng nằm đây thêm vài ngày nữa thôi. Có gì mai tao vô nữa. Các con lại hôn mẹ bây rồi về với mẹ. Thôi, tao về nghe Nguyệt Hạ !
Cả ba ra về, bà Nguyệt Hạ còn lại trong phòng một mình, bà thấy nhẹ lòng đôi chút dùm cho con gái của bà. Nhưng còn Nguyệt Thu với Thanh Phong sẽ ra sao đây ? Bà nghe lâng lâng buồn !
Còn Nguyệt Thu nghĩ : ‘’Nếu chồng mình không chịu. Thì mình cũng phó mặc cho ông ấy. Mình nhứt định giữ gìn tình nghĩa là quan trọng hơn hết, và, mình chấp nhận cho Thanh Vinh và Nguyệt Thủy kết duyên với nhau’’. Sau bao ngày ông Thanh Phong suy nghĩ thiệt, hơn, nghe lòng hối hận, ông nghĩ : ‘’Mình được người đời cho mình là hiền đức. Không lẽ ngày nay vì nghe lời của bà Lệ Huyền, mà mình lại trở thành kẻ ác đức sao đây ? Mình thiệt là nông nỗi, nóng nảy, hấp tấp. Điện thoại làm chi để cho chị Nguyệt Hạ như thế ! Cũng may là không sao. Nếu chỉ chết, thì chắc mình sẽ ân hận suốt cả đời quá !’’. Ông Thanh Phong tự trách mình xong. Ông chờ vợ con về, nhờ đưa ông đi thăm bà Nguyệt Hạ để nói vài lời xin lỗi và bằng lòng hỏi cưới Nguyệt Thủy cho Thanh Vinh.
*
Đám cưới của Thanh Vinh và Nguyệt Thủy thật linh đình, do vợ chồng ông Thanh Phong đứng ra làm chủ hôn và mời bạn bè thân thuộc đôi bên trên dưới khoảng ba trăm người. Từ đó hai gia đình kết nghĩa sui gia rất thân tình. Họ sống một cuộc đời thật là hạnh phúc.
Sau khi đám cưới xong, Nguyệt Thủy phải theo chồng qua Cali. Cô xin hãng Air-France chuyển từ chiêu đãi viên hàng không qua làm tiếp đãi viên văn phòng cùng hãng tại Los-Angeles. Còn vài ngày trước khi đi, Nguyệt Thủy thấy mẹ vui vẻ và bớt uống rượu. Cô đề nghị với mẹ :
- Má à ! Má qua Mỹ sống với tụi con nghe má ? Nhà mình để đó, lâu lâu về Paris thăm nhà.
- Chưa được đâu con.
- Sao vậy má ?
Bà Nguyệt Hạ gật gật đầu và mỉm cười :
- Má phải vô nhà thương cai rượu trước đã. Sau đó sẽ tính sau !
Nguyệt Thủy vừa nghe mẹ mình tự nguyện muốn đi cai rượu cô vui mừng quá, vội chạy lại ôm mẹ hôn hít hai ba cái. Vì từ lâu cô cũng muốn đem mẹ đi. Nhưng sợ mẹ cô bị chạm tự ái giận lên là khổ hơn nữa. Bởi cô biết quá tánh của mẹ rất cứng rắn, ít chịu ai khuyên bảo hoặc sai khiến.
Bà Nguyệt Hạ đã bằng lòng cho con đưa vào dưỡng đường đặc biệt, bà ở trong đó một tháng cai rượu. Và sau khi cai rượu xong, bà chỉ muốn đi đi, về về Paris - Los-Angeles thôi, chớ bà không thích bỏ hẳn nhà của hai mẹ con bà và cả Paris thơ mộng ! Từ đó bà sống vui và yêu đời hơn bao giờ hết.
Giữa mùa hè đầy nắng ấm, Nguyệt Thu đến nhà Nguyệt Hạ rủ nhau đi ăn bánh, uống cà-phê và thả bộ dạo mát, ngắm cảnh, ngắm hoa trong vườn Lục-Xâm-Bảo. Hai bà tươi cười, sung sướng và tha hồ nhắc về dĩ vãng xa xưa. Vì cả hai bà bây giờ không còn mang cái mặc cảm, lo âu hay sợ sệt ai nữa cả...
Chân tình giữ vẹn sắt son
Chi giao nghĩa trọng như non biển trời
Bây giờ sự thật trải phơi
Nguyệt Thu, Nguyệt Hạ trọn lời thề xưa.
(Ivry-sur-Seine, Bạch-Am đêm hè 8/2000)
Bút Ký