Biến Cố Vịnh Bắc Việt (tài liệu chiến tranh)
lyenson 01.01.2008 12:17:35 (permalink)
Biến Cố Vịnh Bắc Việt (tài liệu chiến tranh)
Tác giả: Trần Ðỗ Cẩm
Nguồn tư liệu.

LỜI TÁC GIẢ: Vụ đụng độ giữa các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ và những ngư lôi đĩnh Cộng Sản Bắc Việt tại Vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt và hậu quả vô cùng quan trọng. Đây không phải là một trận hải chiến lớn liên quan tới nhiều chiến hạm hay thương vong đôi bên lên tới một con số cao, nhưng có hậu quả vô cùng quan trọng. Các sử gia đều cho rằng biến cố này đã khơi ngòi cho việc quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, tương tự như trận tấn công bất ngờ tại Trân Châu Cảng đã mở màn cho cuộc chiến tranh Mỹ-Nhật tại Thái Bình Dương thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Nhưng cho tới nay, dù cuộc đụng độ xảy ra đã trên 30 năm và đã làm tốn hao nhiều giấy mực, nhiều chi tiết vẫn chưa được sáng tỏ. Có thể nói "Biến Cố Vịnh Bắc Việt" tuy là đề tài được đề cập nhiều nhất cũng như bàn cãi sôi nổi nhất tại Hoa Kỳ mỗi khi nhắc tới chiến tranh Việt Nam, nhưng vẫn còn chứa đựng nhiều bí ẩn nhất. Những "nghi vấn" này không những đã làm nhiều sử gia thắc mắc, ngay cả những người liên quan chủ chốt cũng muốn tìm câu trả lời.
Mới đây nhất, khi cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ là Robert McNamara --người được mệnh danh là "kiến trúc sư" của cuộc chiến tranh-- sang thăm Việt Nam vào năm 1995, ông cũng đã hỏi đối thủ Võ Nguyên Giáp: "Cho tới bây giờ tôi vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra tại Vịnh Bắc Việt vào hai ngày 2 và 4 tháng 8 năm 1964. Tôi nghĩ rất có thể chúng tôi đã phạm phải hai suy đoán sai lầm quan trọng... Vậy điều chúng tôi gọi vụ đụng độ vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, thường được gọi là cuộc tấn công thứ nhì, có thật sự xảy ra không?"
Một vị cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng khi đặt câu hỏi như vậy đã chứng tỏ không nắm vững tình hình, không biết mình biết người, nhưng vẫn đưa ra nhiều quyết định quan trọng sinh tử trong quá khứ. Thật là điều không tưởng tượng nổi! Vì vậy, nhiều người đã chê bai câu hỏi "ngớ ngẩn" và làm bẽ mặt Hoa Kỳ này.
Võ Nguyên Giáp đã trả lời câu hỏi "ngây thơ" của người đã từng quyết định sự thắng bại của cuộc chiến tại Việt Nam thế nào? Biến cố Vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 đã diễn tiến ra sao? Những nghi vấn gì vẫn còn chưa được sáng tỏ? Chúng tôi sẽ tuần tự mô tả lại những sự kiện liên quan trực tiếp hay gián tiếp để độc giả dễ bề theo dõi và tự tìm câu trả lời.

NHỮNG HOẠT ÐỘNG BIỆT KÍCH NHẮM VÀO BẮC VIỆT
Ngay từ sau hiệp định Genève năm 1954 chia đôi đất nước, cả hai phe Quốc Gia và Cộng Sản đã để lại trong "lòng địch" một số gián điệp với mục đích thu thập tin tức tình báo và quấy rối đối phương. Tuy nhiên, lúc ban dầu, những hoạt động này thường chỉ có tính cách "nằm vùng" chờ thời cơ hơn là tích cực xâm nhập hoặc phá hoại.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cơ quan tình báo được đặt dưới quyền Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Trung Tá Lê Quang Tung, Chánh Sở Liên Lạc đảm nhiệm những công tác đặc biệt dưới quyền Bác Sĩ Tuyến. Đại Úy Ngô Thế Linh, Trưởng Phòng 45 --coi như "Sở Bắc"-- đặc trách về những công tác đặc biệt ngoại biên gồm Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Người em của Trung Tá Tung là Đại Úy Lê Quang Triệu, nghe nói là một đại đội trưởng thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, lo về vấn đề quản trị hành chánh. Đa số những nhân viên phục vụ được tuyển mộ trong số những người gốc Công Giáo hoặc trong đảng Cần Lao.
Các ông Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Nhu cũng dính dáng đến các hoạt động tình báo với sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Vào năm 1955, một toán biệt kích sáu người gốc Quảng Bình dùng ghe buồm giống như ghe miền Bắc xâm nhập Bắc Việt. Vì có thể trà trộn với những ghe đánh cá địa phương nên những chuyến công tác ban đầu kéo dài chừng vài ba ngày này không bị Cộng Sản phát hiện.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/21636/99004E6E44B54C91ADAB0C613EBF1F2D.jpg[/image]
Hình chụp tại Ðà Nẵng vào khoảng đầu thập niên sáu mươi, với các sĩ quan Hoa Kỳ thuộc Toán-1 Hải Quân Ðặc Biệt đang huấn luyện một số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa thuộc Liên Ðội Người Nhái. (HÌNH ẢNH: Website Ngô Thế Linh).

Tới năm 1958, Tổng Thống Diệm lại yêu cầu cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (thường được gọi là "cơ quan CIA," viết tắt của chữ Central Intelligence Agency) trợ giúp để đẩy mạnh hoạt động biệt kích. Do đó những hoạt động xâm nhập miền Bắc được gia tăng vào khoảng năm 1960 bằng phương tiện ghe buồm. Vùng duyên hải Bắc Việt có rất nhiều ghe đánh cá nên các ghe xâm nhập có thể trà trộn dễ dàng không bị khám phá.
Qua năm 1961, với sự trợ giúp tích cực của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ, miền Nam bắt đầu tổ chức những vụ xâm nhập qui mô hơn bằng đường hàng không. Các toán biệt kích do Hoa Kỳ huấn luyện tinh thục và võ trang tối tân được thả bằng máy bay vào vùng thượng du Bắc Việt. Phi công dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Cao Kỳ bay những phi vụ đầu tiên. Sau đó, những phi công người Đài Loan đảm nhiện những phi vụ kế tiếp.
Về mặt huấn luyện các biệt kích quân miền Nam, ngoài Hoa Kỳ, Đài Loan cũng góp phần tham dự. Vào năm 1960, một toán người nhái Việt Nam được gửi sang Đài Loan để thụ huấn. Đến năm 1961, có 20 huấn luyện viên người nhái của Đài Loan đến Việt Nam để mở các khóa huấn luyện tại Vũng Tàu và Đà Nẵng.
Sở dĩ Đài Loan hợp tác với các hoạt động biệt kích của miền Nam vì họ cũng muốn nhân dịp thăm dò sự cộng tác của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và Trung Cộng. Nhiều tài liệu cho biết vào cuối thập niên 50, đã có một số các cuộc hành quân Biệt Hải giữa biệt kích Nam Việt Nam và Đài Loan xuất phát từ Đài Loan nhắm vào vùng biển Hải Phòng, Móng Cáy, giáp ranh giới Hoa Việt.
CHIẾN DỊCH OPLAN-34A
Tới năm 1963, Hoa Kỳ quyết định đẩy mạnh các hoạt động biệt kích nhắm vào các cơ sở quân sự của Bắc Việt. Bộ Tham Mưu Quân Ðội Hoa Kỳ chỉ thị Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, soạn thảo một kế hoạch đặc biệt gọi là OPLAN 34-63 (Operation Plan) do lực lượng miền Nam đảm nhiệm với sự trợ giúp phương tiện của Hoa Kỳ.
Sau nhiều cuộc thảo luận giữa CIA và Quân Đội Hoa Kỳ, kế hoạch OPLAN 34-63 được biến cải trở thành OPLAN 34A vào tháng 12 năm 1964. Theo kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ huấn luyện những quân nhân Việt Nam, đa số gốc người Bắc để xâm nhập miền Bắc với mục tiêu tuyên truyền móc nối, thả truyền đơn, phá hoại và ngăn chặn các tàu bè Việt Cộng chuyên chở vũ khí vào miền Nam. Nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của các toán biệt kích là điều-nghiên hệ thống phòng thủ của Bắc Việt và thu thập tin tức tình báo cần thiết để có thể hoàn thành kế hoạch oanh tạc cũng như đổ bộ Bắc Việt khi cần.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/21636/4B73AA6BF81045A7BD923EE696DB8F2E.jpg[/image]
Hình chụp Ðại Tá Sadler (trái) đang trao băng khen-ngợi cho Trung Tá Robert McKnight. Trung Tá Knight là "xếp" của các cuộc hành-quân OPLAN-34A, tương đương với Ðại Tá Ngô Thế Linh của phía Việt Nam Cộng Hòa. Cả hai người đều là sĩ quan chỉ-huy điều hành chiến dịch này trong thời gian từ 1964 đến 1967. (HÌNH ẢNH: Website Ngô Thế Linh).


Về phía Cộng Sản Bắc Việt được Nga Sô cho biết về các hoạt động tình báo của miền Nam nên cũng ráo riết chuẩn bị đề phòng. Nga Sô còn viện trợ cho Bắc Việt nhiều khinh tốc đĩnh tuần duyên trang bị ngư lôi, hỏa tiễn, đại bác phòng không và phòng duyên cùng những giàn radar phòng thủ duyên hải.
Bờ biển miền Bắc từ Vĩ Tuyến 17 tới vùng Hải Phòng, Móng Cáy gần biên giới Hoa Việt gồm nhiều đảo nhỏ và những mỏm núi cao thuộc giãi Hoành Sơn (núi đâm ngang ra biển). Ngang Vĩ Tuyến 17 gần Đồng Hới có đảo Hòn Cọp. Vùng Vinh, Bến Thủy có đảo Hòn Mật. Xa hơn về phía Bắc có các đảo Hòn Mê, Hòn Niếu gần Thanh Hóa, Sầm Sơn rồi tới Vịnh Hạ Long với các đảo Cát Bà, Cái Bầu, Cái Bàn v.v... Các mũi biển quan trọng gồm Mũi Ron, Mũi Vinh Sơn, Mũi Sót v.v...
Trên các hải đảo và các mũi đá cao dọc duyên hải, Cộng Sản Bắc Việt đặt các đài radar và hải pháo phòng duyên để theo dõi và ngăn chận các hoạt động xâm nhập của biệt kích cũng như của chiến hạm Hoa Kỳ hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Việt.
Tới ngày 24 tháng giêng năm 1964, Hoa Kỳ thành lập Toán Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Group, gọi tắt là "SOG") và đặt dưới quyền của Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự Mỹ tại Việt Nam (Military Assistance Command Vietnam, tức "MACV") nên thường được gọi tắt là MACV-SOG. Sau này để đánh lạc hướng địch và cũng để giảm bớt ấn tượng nặng về quân sự, Toán Hành Quân Đặc Biệt được đổi tên là Toán Nghiên Cứu và Quan Sát (Studies and Observations Group), nhưng vẫn được gọi tắt là MACV-SOG.
Về phía Việt Nam, một cơ quan tương đương tên là Sở Kỹ Thuật (Strategic Technical Service) được thành lập vào ngày 12 tháng Giêng năm 1964 để làm việc hàng ngang với MACV-SOG. Đây là hậu thân của Sở Khai Thác Địa Hình (Topographic Exploitation Service) và Sở Liên Lạc do Đại Tá Lê Quang Tung điều động dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau này, Sở Kỹ Thuật được đổi thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate).
Như vậy, về phía Việt Nam, Nha Kỹ Thuật là cơ quan chịu trách nhiệm tổng quát về các hoạt động biệt kích trên thủy, bộ cũng như đường hàng không.
SỞ PHÒNG VỆ DUYÊN HẢI
Dưới cơ quan MACV-SOG, Hải Quân Hoa Kỳ có Nhóm Cố Vấn Hải Quân (Navy Advisory Detachment, hoặc "NAD") để hoạt động với Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service, viết tắt là "CSS") còn được gọi là Lực Lượng Hải Tuần của Hải Quân Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật. Nhóm NAD/CSS này đặt căn cứ tại tòa nhà "Bạch Tượng" đôi khi còn gọi là "Nhà Trắng" ở vùng bán đảo Sơn Chà, Đà Nẵng.
Các doanh trại của Sở Phòng Vệ Duyên Hải nằm ngay dưới chân Núi Khỉ (Monkey Mountain) gần căn cứ Hải Quân Tiên Sa thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Các chiến đĩnh của Lực Lượng Hải Tuần đậu tại cầu tàu riêng biệt trong khu cảng Deep Water Pier gần bán đảo Tiên Sa. Khu cảng này rất gần bãi ủi của các tàu chuyển vận LST (Landing Ship Tank) của Hải Quân Hoa Kỳ.
Việc thám sát mục tiêu cho các chuyến công tác của Lực Lượng Hải Tuần phần lớn do phi cơ gián điệp U-2 đảm trách. Căn cứ U-2 chính đặt tại Phi Luật Tân. Nhưng vào khoảng giữa năm 1964, tại phi trường Biên Hòa lúc nào cũng có hai phi cơ U-2 túc trực. Vào ngày có chuyến công tác, phi cơ U-2 bay từ lúc sáng sớm ra Bắc để thám sát mục tiêu lần chót, đến trưa MACV-SOG tại Sài Gòn đã có không ảnh.
Trước khi xuống tàu đi công tác, các Hạm Trưởng PTF [1] đều tham dự một buổi thuyết trình về chuyến công tác và nghiên cứu những tấm không ảnh mục tiêu này. Tuy nhiên vì U-2 phải bay rất cao ngoài tầm hỏa tiễn phòng không nên thường hình nhỏ không được rõ ràng. Vì vậy sau này Hoa Kỳ dùng những phi cơ nhỏ không người lái (drone) bay thấp hơn để chụp hình mục tiêu trước mỗi chuyến công tác. Ngoài ra, cũng có kế hoạch chụp hình ban đêm bằng radar.
[1] VNCTLS GHI CHÚ: PTF, viết tắt của chữ Patrol Torpedo Fast, tức loại khinh tốc đỉnh được trang bị ống phóng ngư lôi. Tuy được gọi là "tàu phóng ngư-lôi," nhưng trong các chuyến công tác ra Bắc của Lực Lượng Hải Tuần, các tàu PTFchỉ được trang bị đại liên, súng phóng lựu, và bích-kích pháo trực xạ. Các ống phóng ngư lôi được tháo gỡ vì loại vũ khí này không có nhiều lợi thế trong trường hợp Lực Lượng Hải Tuần phải giao chiến với các tàu tuần-duyên Bắc Việt.

Vì Lực Lượng Hải Tuần là một đơn vị đặc biệt của Hải Quân nên ít người biết tới, ngay cả đối với đa số các quân nhân Hải Quân Việt Nam. Mới đây, một số hồ sơ Hoa Kỳ được giải mật nên có vài quyển sách do ngưới Mỹ viết nói qua về Lực Lượng Hải Tuần.
Nhưng rất tiếc, cũng giống như những tài liệu khác của người Mỹ nói về chiến tranh Việt Nam, nhiều sự thực đã vô tình hay cố ý bị xuyên tạc gây ngộ nhận không hay. Đây có thể là "thói quen" của người Mỹ, kể cả các "sử gia," thường xuýt xoa tâng bốc người thắng trận (winner) và coi rẻ kẻ bại trận (loser). Chúng tôi là người đã phục vụ tại Lực Lượng Hải Tuần liên tiếp 5 năm với nhiều chuyến công tác từ năm 1965 đến 1970, tiện đây thấy cần phải nói lên những sự thật.
Trước hết là quyển sách Tonkin Gulf and the Escalation of VietNam War (tạm dịch "Chiến Tranh Việt Nam và Cường Ðộ Gia Tăng qua Vịnh Bắc Việt") của tác giả Edwin E. Moise. Ông này là giáo sư sử học chuyên về chiến tranh Việt Nam tại trường Đại Học Clemson, tiểu bang North Carolina.
Theo dư luận, giáo sư Moise được coi là người có nhiều tài liệu nhất và có thẩm quyền nhất về phương diện sử học khi nói về chiến tranh Việt Nam. Tóm lại, ông Moise được coi như là "sử gia" chuyên về chiến thanh Việt Nam. Trước khi xuất bản sách này, ông Moise có tới gặp chúng tôi tại nhà riêng để hỏi một số chi tiết về Lực Lượng Hải Tuần cũng như các loại và đặc tính của các chiến đĩnh PT.
Sách của ông Moise có đoạn nói về nghi vấn nhân viên Hải Quân Hoa Kỳ "bí mật" có đi theo nhân viên Hải Quân Việt Nam trong các chuyến công tác ra Bắc không (trang 15)? Ông Moise trích lời của Đại Tá Phil Bucklew là cấp chỉ huy của toán nhân viên Hoa Kỳ này cho rằng, "Ông không biết bất cứ trường hợp nào những chiến đĩnh PTF đi công tác từ Đà Nẵng mà KHÔNG có nhân viên Hoa Kỳ trên đó" (He did not aware of any cases in which the PTF's from Danang went on combat operations without American personnel aboard. His recollection is that the American were running the boats, with Vietnamese along in what was essentially an apprenticeship role).
Đại Tá Bucklew còn "nhớ" lại rằng những nhân viên Hải Quân Hoa Kỳ trực tiếp điều khiển chiến đĩnh, còn thủy thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai trò "phụ việc." Đại Tá Bucklew cũng nói tuy có đề nghị để nhân viên Việt Nam điều khiển chiến đĩnh trong khi công tác, nhưng đề nghị này bị từ chối vì nhân viên Việt Nam không đủ khả năng (the Vietnamese did not have the skills).
Còn ông Đô Đốc Roy Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội thời đó cũng nói: "Thủy thủ đoàn Việt Nam không tin tưởng được (unreliable) nên phải dùng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ để thay thế." Ông Đô Đốc "khá chắc chắn" rằng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ đã được dùng trong các công tác đánh phá ngoài Bắc từ tháng 8 năm 1964 hay chỉ ít lâu sau đó."

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/21636/298D34532CC64B99BFE4756378719431.jpg[/image] 
Tấm hình chụp vào năm 1963 tại vịnh Subic Bay ở Phi Luật Tân. Chiếc khinh-tốc đỉnh trong hình là PTF-3, lúc này đang thời gian được tu bổ, về sau này lại được mang qua Việt Nam để tham dự trong các cuộc đột kích dọc ven biển Bắc Việt. (HÌNH ẢNH: Jack Duncan).

Về việc có người Mỹ đi theo trong những chuyến công tác hay không, trước năm 1965 chúng tôi không không dám nói chắc vì lúc đó chưa có mặt tại Lực Lượng Hải Tuần. Nhưng theo những bạn bè đi trước nói lại và suy đoán, chúng tôi tin rằng chỉ có thủy thủ đoàn Việt Nam trong những chuyến công tác.
Nhưng trong khoảng thời gian từ năm 1965 tới 1970 là thời gian chúng tôi phục vụ tại Lực Lượng Hải Tuần với nhiệm vụ hạm phó rồi hạm trưởng PTF trong hàng trăm "combat missions," chắc chắn, quả quyết không hề có người Mỹ nào đi theo tàu chúng tôi hay tàu khác trong những chuyến công tác vượt Vĩ Tuyến 17. Nhân viên Hoa Kỳ chỉ đi theo trong những chuyến huấn luyện dưới Vĩ Tuyến 17. Còn về vấn đề khả năng và kinh nghiệm thật rất khó nói. Nếu không có khả năng hay không tin tưởng được, chắc chắn chúng tôi đã khó có thể an toàn trở về sau 5 năm công tác liên tiếp tại vùng biển Bắc Việt.
Nhưng dù một Đô Đốc Hoa Kỳ thường khoe khoang là thủy thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai phụ việc đi nữa, nếu phục vụ tại lực lượng PTF trong một "tour" chỉ có sáu tháng, lại thường nằm trong phòng lạnh ăn hút, không đi một chuyến công tác rồi đổi đi nơi khác, cũng khó có "khả năng" hơn một thủy thủ Hải Quân Việt Nam phục vụ đã lâu năm.
Chuyện thứ hai trong sách của sử gia Moise là việc bận đồng phục (uniform) hay quân phục trong lúc công tác. Trang 15, ông Moise viết: "Có nhiều bằng cớ chứng tỏ thủy thủ đoàn các chiến đĩnh Nasty là người của Hải Quân Việt Nam và mặc quân phục Hải Quân trong lúc công tác." Tác giả đã nói đúng về việc thủy thủ đoàn thuộc Hải Quân Việt Nam, nhưng việc "mặc quân phục Hải Quân trong khi công tác" là điều không đúng.
Một nhân viên khi tình nguyện gia nhập Lực Lượng Hải Tuần, tuy quân số vẫn thuộc Hải Quân và vẫn lãnh lương Hải Quân hàng tháng, nhưng không trực thuộc quyền điều động của Hải Quân. Mỗi người ký một giao kèo phục vụ trong vòng sáu tháng, sau đó nếu muốn có thể ký tiếp hay thuyên chuyển về Hải Quân. Có thể nói lúc đó nhân viên Lực Lượng Hải Tuần coi như vừa là Hải Quân, vừa là dân sự. Ngay cả tên cũng thay đổi, ngoại trừ tên thật vẫn giữ trong thẻ quân nhân. Khi đi công tác, không ai được phép mặc quân phục Hải Quân, thông thường mặc thường phục không ai mang lon đội mũ. Riêng chúng tôi chỉ mặc bộ bà ba đen.
Những lúc ở trong doanh trại không đi công tác, chúng tôi chỉ mặc quân phục Hải Quân khi có thượng cấp Hải Quân viếng thăm và mặc tiểu lễ chào cờ vào sáng thứ hai và nghe "câu chuyện dưới cờ" của Đô Đốc Tư Lệnh Trần Văn Chơn. Vả lại, trong nhiều công tác Tâm Lý Chiến ra Bắc, chúng tôi có nhiệm vụ đóng vai nhân viên của mặt trận "Gươm Thiêng Ái Quốc" --coi như một phong trào nổi dậy tại miền Bắc-- để phát radio (dân miền Bắc gọi là "đài"), truyền đơn và quà cho ngư phủ miền Bắc. Nếu bận quân phục Hải Quân VNCH thì đâu còn là "đồng chí miền bắc" nữa.
Tóm lại, tuyệt đối không có việc mặc quân phục Hải Quân trong những chuyến công tác, ngoại trừ trong sách của sử gia Moise hay "nhớ lại" của các giới chức cố vấn Mỹ.
Hiện nay, các anh em cựu Lực Lượng Hải Tuần còn có mặt tại Hoa Kỳ rất nhiều. Vì tuy tham dự nhiều chuyến công tác vượt vĩ tuyến nguy hiểm nhưng luôn luôn nắm thế "thượng phong" nên rất ít khi bị thiệt hại. Bạn đọc có thể dễ dàng tiếp xúc với các cựu chiến sĩ Hải Tuần để phối kiểm những chi tiết nêu trên.
Vào khoảng giữa năm 1964, cường độ hoạt động của Lực Lượng Hải Tuần gia tăng. Nhiều chuyến công tác thành công phá hủy một số đài radar, cơ sở duyên-phòng và căn cứ Hải Quân của Bắc Việt. Nhiều ngư phủ Bắc Việt cũng bị bắt đem về Cù Lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng để khai thác tin tức, sau đó lại được trả về nguyên quán ngoài Bắc.
Dĩ nhiên, để chống lại các hoạt động biệt kích bằng đường biển này, Cộng Sản Bắc Việt cũng ráo riết gia tăng hệ thống phòng thủ duyên hải. Các chuyến công tác do đó trở nên nguy hiểm và hồi hộp hơn nhiều.
Vào mùa hè năm 1964, trong lúc các chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Hải Tuần thường xuyên thực hiện những chuyến công tác biệt kích bí mật trong khuôn khổ OPLAN-34A thì Hải Quân Hoa Kỳ cũng có kế hoạch riêng nhằm công khai thám sát bờ biển Bắc Việt. Kế hoạch của Hải Quân Hoa Kỳ mang bí danh DeSoto.
KẾ HOẠCH TUẦN TIỂU DESOTO
Hải Quân Hoa Kỳ thường tổ chức những cuộc tuần tiễu mang bí danh DeSoto dọc theo bờ biển các quốc gia vùng Á Châu Thái Bình Dương để thám sát và thu thập tin tức tình báo bằng những dụng cụ "nghe lén" và "nhìn lén" đặc biệt.
Vào tháng 4 năm 1964, Khu Trục Hạm (KTH) DeHaven thực hiện chuyến công tác DeSoto đầu tiên dọc theo bờ biển Trung Cộng, sau đó công tác tiếp tục mỗi tháng một lần, liên tiếp trong vòng năm tháng. Trung Cộng chỉ phản ứng chiếu lệ.
Trong các chuyến công tác vào tháng 10 năm 1962 do Khu Trục Hạm Hollister (DD-788) và tháng 11 năm 1962 với Khu Trục Hạm Shelton, lần đầu tiên chiến hạm Hoa Kỳ thám sát cả bờ biển Bắc Hàn. Cũng như những lần trước, phía Cộng Sản không có phản ứng mạnh. Vào khoảng cuối năm 1962, Khu Trục Hạm Agerholm (DD-826) xuất phát từ Keelung (tại Đài Loan) lần đầu tiên thám sát Vịnh Bắc Việt và vùng đảo Hải Nam nhưng không vào cách bờ dưới 20 hải lý.
Trong năm 1963, có tổng cộng 6 công tác DeSoto dọc bờ biển Trung Cộng, Nga Sô, Bắc Hàn và Bắc Việt nhưng vẫn giữ khoảng cách 20 hải lý. Trong chuyến công tác vào tháng 4 năm 1963, khi Khu Trục Hạm Richard Edwards (DD-950) tuần tiễu khu vực giữa đảo Hải Nam và bờ biển Bắc Việt, có sáu tàu tuần duyên Bắc Việt và một số phi cơ Trung Cộng theo dõi, nhưng Trung Cộng cũng chỉ phản kháng chiếu lệ. Cộng Sản Bắc Việt không lên tiếng.
Sang đầu năm 1964, Bộ Tư Lệnh Liên Quân Hoa Kỳ ra lệnh thực hiện thêm nhiều chuyến tuần tiễu DeSoto trong vùng Vịnh Bắc Việt để thâu thập những tin tức tình báo sau đây:

Hệ thống phòng thủ mặt biển gồm phối trí và khả năng của các chiến hạm phòng duyên, kể cả tiềm thủy đĩnh.
Hệ thống phòng không gồm phối trí và khả năng đối phó với các mục tiêu trên không và trên biển.
Hoạt động của các thương thuyền.
Khả năng điện tử duyên phòng.
Chụp hình và xác định hệ thống phòng thủ.
Thâu thập tin tức tình báo và thủy đạo.

Mỗi chuyến công tác DeSoto thường do một khu trục hạm mang những dụng cụ kiểm thám điện tử đặc biệt, xuất phát từ căn cứ Keelung (tại Đài Loan) đảm nhiệm.
Ngày 25 tháng 2 năm 1964, Khu Trục Hạm John Craig có Đại Tá Edward Williams, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn Khu Trục Hạm 12 tháp tùng, xuất phát từ Đài Loan để thi hành công tác tuần tiễu Vịnh Bắc Việt với Khu Trục Hạm Ingersoll (DD-652) bên ngoài vịnh để yểm trợ khi cần. Tuy Trung Cộng cho một chiến hạm loại Kronstadt và phi cơ theo dõi nhưng không xảy ra biến cố nào quan trọng. Khu Trục Hạm Craig hoàn tất nhiệm vụ vào ngày 9 tháng 3 năm 1964.
Đến đầu tháng 7 năm 1964, cơ quan MACV tại Sài Gòn yêu cầu Hải Quân cung cấp thêm tin tức tình báo dọc theo bờ biển Bắc Việt, nhất là tại những nơi các chiến đĩnh OPLAN-34A thường hoạt động. Vì vậy Đô Đốc Ulysses G. Sharp, người vừa thay thế Đô Đốc Felt trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, ra lệnh tiếp tục các cuộc tuần tiễu thám sát DeSoto. Các Đô Đốc Moorer, Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương và Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội chỉ định Khu Trục Hạm Picking (DD-685) đảm nhận công tác.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/21636/985706C1F19E4A97AA0817D2AD7FB814.jpg[/image]
Hình chụp khu-trục hạm USS DeHaven đang lướt sóng trong vùng biển động, chạy bên cạnh một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Ở phía sau thân-tàu có hai dàn đại-bác đôi, tương tựa như loại hải-pháo gắn trên khu-trục hạm USS Maddox. Tháng 4 năm 1964, chiếc USS DeHaven là chiến hạm đầu tiên của Mỹ tham dự trong chiến dịch tuần-thám DeSoto ngoài khơi Vịnh Bắc Việt. (HÌNH ẢNH: Hải Quân Hoa Kỳ).

Chiến hạm dự trù khởi hành từ Keelung vào ngày 28 tháng 7 năm 1964 với Đại Tá John Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn Khu Trục Hạm-192 tháp tùng. Phân Đoàn Khu Trục Hạm-192 thuộc Lực Lượng Hoa Kỳ tại Đài Loan do Đô Đốc Robert A. MacPherson chỉ huy. Theo kế hoạch, chiến hạm tuần tiễu không được vào gần bờ dưới 8 hải lý (hải phận Bắc Việt) và cách các hải đảo dưới 4 hải lý và còn phải tới đúng các chuẩn điểm (check points) theo lộ trình và thời điểm vạch sẵn (xem bản đồ trục tuần tiễu ấn định).
Đô Đốc Johnson cũng ra lệnh cho Khu Trục Hạm Maddox đặc biệt ghi nhận vị trí và tầm hoạt động của những đài radar, hải đăng, các dấu mốc quan trọng cũng như chi tiết về thủy đạo, nhất là tại vùng các cửa sông. Chiến hạm cũng chụp hình những vị trí quan trọng dọc theo duyên hải Bắc Việt. Có lẽ Hoa Kỳ muốn thâu thập trước các chi tiết cần thiết để chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ sau này.
Chiến hạm Maddox chỉ được chạy cách bờ biển Trung Cộng không dưới 15 hải lý và cách các đảo không dưới 12 hải lý. Sau khi đi hết trục tuần tiễu ấn định dọc bờ biển Việt Nam từ Vĩ Tuyến 17 đến biên giới Hoa Việt vùng Móng Cáy, Hải Phòng, Khu Trục Hạm Maddox sẽ tạt xa hơn về phía Đông để tiến gần về phía đảo Hải Nam của Trung Cộng. Mục đích là để thăm dò sự liên hệ duyên phòng hỗ tương giữa Việt Cộng và Trung Cộng xem đôi bên có trao đổi hay "bàn giao" nhau những tin tức tình báo hay không.
Vì các chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Hải Tuần và chiến hạm DeSoto tuy đảm nhiệm công tác riêng biệt nhưng sẽ hoạt động chung một vùng nên nhiều biện pháp cần thiết được hoạch định để tránh làm trở ngại hoặc ngộ nhận. Chiến hạm DeSoto sẽ theo đúng lộ trình và giờ giấc đã vạch sẵn, còn chiến đĩnh Lực Lượng Hải Tuần sẽ hoạt động tại vùng riêng biệt cách xa. Về không-yểm, hàng không mẫu hạm Ticonderoga lúc đó đang hoạt động tại điểm Yankee ngang Vĩ Tuyến 17 ngoài khơi Đà Nẵng sẽ yểm trợ chiến hạm DeSoto khi cần.
Tất cả mọi chuẩn bị và huấn thị cho chuyến công tác DeSoto tại Vịnh Bắc Việt vào mùa hè năm 1964 đã đầy đủ, nhưng tới gần ngày công tác, Khu Trục Hạm Maddox (DD-731) được chỉ định thay thế Khu Trục Hạm Picking. Trong lúc đó, hoạt động của các chiến đĩnh Lực Lượng Hải Tuần cũng gia tăng trong Vịnh Bắc Việt.
Ngày 22 tháng 7/1964, các chiến đĩnh PTF-3, 4, 5 và 6 thám sát vùng Đồng Hới và bắt về một số ngư phủ để khai thác tin tức.
Ngày 30 tháng 7/1964, các chiến đĩnh PTF-2, 3, 5 và 6 rời Đà Nẵng đi đánh phá các đảo Hòn Mê và Hòn Niếu. Hồi 23 giờ 15 phút, bốn chiến đĩnh đến mục tiêu tại vị trí vĩ độ 19 Bắc, kinh độ 106.16 Đông phía đông-nam Hòn Mê. Tại đây, các chiến đĩnh chia làm hai toán. Các PTF-3 và 6 đảm nhận mục tiêu Hòn Mê, trong lúc PTF-5 và 2 hướng về Hòn Niếu.
Hai chiến đĩnh dự trù đổ toán Biệt Hải lên Hòn Mê bị địch phát hiện và nổ súng khiến bốn người trên PTF-6 bị thương. Toán Hòn Niếu cũng không đổ được quân. Khoảng sau nửa đêm, các chiến đĩnh bắn phá mục tiêu được chỉ định bằng đại bác 57 ly, 40 ly và 20 ly gây nhiều tiếng nổ phụ. Khoảng một giờ sáng ngày 31/7, hai toán chiến đĩnh rời mục tiêu trở về tới Đà Nẵng vào khoảng 11 giờ trưa ngày 31 tháng 7.
KHU TRỤC HẠM USS MADDOX VÀO VỊNH BẮC VIỆT
Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Maddox là Hải Quân Trung Tá Herbert Ogier, nhưng Hải Quân Đại Tá John Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn (Khu Trục Hạm) Khu Trục Hạm192 là Chỉ Huy Trưởng công tác DeSoto. Tuy trọng tâm của cuộc tuần tiễu là thám sát bờ biển Việt Nam, nhưng Hải Quân Hoa Kỳ cũng muốn tiện dịp thăm dò thêm khả năng phòng duyên của Trung Cộng, nhưng tương đối dè dặt hơn.
Chiến hạm Maddox chỉ được chạy cách bờ biển Trung Cộng không dưới 15 hải lý và cách các đảo không dưới 12 hải lý. Sau khi đi hết trục tuần tiễu ấn định dọc bờ biển Việt Nam từ Vĩ Tuyến 17 đến biên giới Hoa Việt vùng Móng Cáy, Hải Phòng, Khu Trục Hạm Maddox sẽ tạt xa hơn về phía đông để tiến gần về phía đảo Hải Nam của Trung Cộng. Mục đích là để thăm dò sự liên hệ duyên phòng hỗ tương giữa Việt Cộng và Trung Cộng xem đôi bên có trao đổi hay "bàn giao" nhau những tin tức tình báo hay không
TRUNG TÂM KIỂM THÍNH LƯU ĐỘNG
Một trong những nhiệm vụ chính của chiến hạm Maddox là "nghe lén" những công điện truyền tin của Bắc Việt, nhất là những liên lạc dính dáng tới việc điều động duyên phòng. Nếu định được vị trí của những trung tâm truyền tin và nội dung của các công điện trao đổi giữa Bộ Chỉ Huy và các tàu tuần tiễu, Hoa Kỳ có thể biết rõ khả năng duyên phòng của Bắc Việt.
Tuy nhiên, không hẳn chỉ có các chiến hạm DeSoto mới có khả năng kiểm thính. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ có nhiều căn cứ chuyên xâm nhập hệ thống truyền tin của Bắc Việt để "nghe lén." Một trong những căn cứ này là Trung Tâm Truyền Tin Hải Quân đặt tại San Miguel bên Phi Luật Tân. Một căn cứ phụ nhỏ hơn đặt tại Phú Bài, gần Huế. Ngoài ra, còn có những đơn vị kiểm thính lưu động dùng phi cơ C-130 cất cánh từ Thái Lan bay dọc theo bờ biển Bắc Việt.
Phương tiện kiểm thính lưu động dùng trong các cuộc tuần tiễu DeSoto của Hải Quân được gọi là "communications van" hay "com van." Đây là một phòng kín lớn bằng sắt, tương tự như những thùng "connex" chở hàng, trong đó có trang bị nhiều dụng cụ truyền tin điện tử đặc biệt.
Trước khi khởi hành sang Việt Nam, một "com van" được chuyển từ Khu Trục Hạm MacKenzie sang Khu Trục Hạm Maddox tại Keelung. Khu Trục Hạm MacKenzie lúc đó vừa hoàn tất một chuyến công tác DeSoto tại vùng biển Nhật Bản vào giữa tháng 7 năm 1964. Nhân viên truyền tin lo việc kiểm thính trên Khu Trục Hạm Maddox được qui tụ từ San Miguel, Nhật và Hawai, tổng cộng chừng 15 người, do Đại Úy Gerrel Moore, Phụ Tá Sĩ Quan Truyền Tin tại căn cứ Hải Không Quân Shu Lin Kou ở Đài Loan chỉ huy.
Nhóm kiểm thính này được chia làm hai toán, mỗi toán thay phiên nhau làm việc mỗi 12 giờ. Trong phòng làm việc có ba máy thâu thanh để kiểm thính. Một máy thâu thanh VHF (Very High Frequency) có gắn máy thâu băng để nghe những liên lạc âm thoại ngắn tầm, thường là giữa các tàu bè.
Lúc đó, các chiến đĩnh hải quân Bắc Việt xử dụng máy truyền tin loại P-609 của Nga Sô trên tần số từ 100 đến 150 megaherz với tầm hoạt động chỉ chừng vài ba hải lý, sau này mới dùng máy truyền tin tương đối khá hơn là loại P-108.
Nhân viên kiểm thính Hoa Kỳ biết ít nhiều tiếng Việt nhưng không rành rẽ lắm. Ngoài ra, còn có hai máy thâu thanh loại HF (High Frequency) dùng để kiểm thính các liên lạc tầm xa dùng ký hiệu Morse. Những máy HF không có máy ghi âm. Ngoài toán kiểm thính, trên chiến hạm Maddox chỉ có bốn người được quyền coi những công điện bắt được: đó là Đại Tá Herrick, vị sĩ quan phụ tá, Trung Tá Ogier và Hạm Phó Khu Trục Hạm Maddox.
Điều đáng để ý là khả năng "nghe lén" của phòng kiểm thính lưu động này rất giới hạn so với các trung tâm San Miguel và Phú Bài. Vì với ba máy thâu, Khu Trục Hạm Maddox chỉ túc trực được trên ba tần số khác nhau, trong khi các trung tâm kia có nhiều máy nên bắt được hầu hết các công điện của Hải Quân Bắc Việt. Có lẽ lợi điểm duy nhất của Khu Trục Hạm Maddox là có thể nghe được những liên lạc âm thoại ngắn tầm trên tần số VHF.
Trong buổi thuyết trình sau cùng vào ngày 27 tháng 7 tại Đài Loan trước khi khởi hành cuộc tuần tiễu, các sĩ quan của Khu Trục Hạm Maddox được thông báo có lẽ chiến hạm sẽ không gặp sự chống đối nào trong lúc thi hành nhiệm vụ tại Vịnh Bắc Việt.
Để khỏi bị mang tiếng là "gây hấn," Đại Tá Herrick cẩn thận ra lệnh cho các ổ súng trên chiến hạm đều giữ vị thế nằm ngang, không nhắm vào bất cứ mục tiêu nào trên biển cũng như trên không nếu chưa được lệnh. Trong trường hợp chiến hạm bị tấn công, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga nằm tại vị trí Yankee ngoài khơi Đà Nẵng sẽ tới yểm trợ.
VẤN ĐỀ GIỜ GIẤC TRONG HẢI QUÂN
Chiến hạm Maddox hoạt động trong Vịnh Bắc Việt nhưng các cơ quan báo cáo liên hệ lại ở tại Sài Gòn, Subic, Hawai và Washington v.v. đều nằm trên những múi giờ khác nhau nên việc qui định giờ giấc chính xác khi các biến cố xảy ra trở nên rắc rối và khó phân biệt. Vì vậy, cần nói rõ sự khác biệt về vấn đề giờ giấc để việc theo dõi các hoạt động của chiến hạm Maddox tại Vịnh Bắc Việt được dễ dàng, hợp lý và thứ tự.
Lãnh thổ Việt Nam nằm trong khoảng từ kinh độ 104 đến 110 độ Đông nên thuộc cả hai múi giờ G (Golfe --kinh độ 90 đến 105 Đông) và H (Hotel --kinh độ 105 đến 120 Đông). Trước đây vào thời Pháp thuộc, Việt Nam chọn giờ G, tức là trước giờ Quốc Tế (còn gọi là giờ GMT --Greenwich Mean Time-- hay giờ Zulu) bảy tiếng đồng hồ, nhưng dưới trào Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại đổi sang giờ Hotel, tức là trước giờ Zulu tám tiếng đồng hồ. Bắc Việt vẫn dùng giờ G nên miền chỉ riêng giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam giờ giấc đã khác biệt nhau một tiếng đồng hồ.
Giờ dùng trong bài viết này là giờ quân sự, mỗi ngày 24 giờ, kèm theo "múi giờ" theo đúng qui ước giờ giấc hải quân quốc tế. Thí dụ 1430H có nghĩa là 2 giờ 30 chiều, múi giờ Hotel tức là giờ miền Nam Việt Nam. Giờ Hotel còn được gọi là giờ -8 vì muốn đổi sang giờ Quốc Tế, ta phải "trừ 8" tiếng đồng hồ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.01.2008 12:28:53 bởi lyenson >
Attached Image(s)
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9