Mooris Maeterlinck (1862-1949) - nhà viết kịch, nhà thơ, nhà triết học người Bỉ viết bằng tiếng Pháp (tên đầy đủ là Count Maurice (Mooris) Polidore Marie Bernhard Maeterlinck).
Sinh ngày 29-8-1962 tại Ghent trong một gia đình khá giả, bố làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại học Luật Mooris Maeterlinck lên tu nghiệp về luật tại Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, kí, phê bình cho các báo và tạp chí như Nước Bỉ trẻ (La Jeune Belgique), La Wallonie. Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Cuộc tàn sát những kẻ vô tội; năm 1889 xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được một nhà phê bình Pháp rất có thế lực là O. Mirbau hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối... Năm 1895 M. Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. M. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt. Năm 1909 ông viết xong vở kịch
Con chim xanh là một kiệt tác sân khấu của kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh, trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu.
Mooris Maeterlinck được trao giải Nobel Văn học nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Ông thường sử dụng thể loại cổ tích bởi vì cổ tích là biểu hiện sâu nhất và giản dị nhất của nhận thức tập thể, khơi dậy những cảm xúc con người. Kịch của ông thể hiện những hệ thống triết lý hình thành một cách trực giác. Mô típ cái chết thường xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông ở giai đoạn cuối mang thêm màu sắc của chủ nghĩa thần bí. M. Maeterlinck được coi là một trong những người khởi đầu của sân khấu kịch phi lí; các vở kịch của ông đến ngày nay vẫn được dàn dựng ở nhiều nước trên thế giới.
Trong Thế chiến I, ông xin vào dân quân nhưng không được chấp nhận vì quá tuổi và nhà văn đã thể hiện lòng yêu nước bằng hàng loạt cuộc nói chuyện tuyên truyền ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1939 Đức quốc xã đe dọa chiếm cả châu Âu Mooris Maeterlinck chạy sang Bồ Đào Nha, khi cảm thấy rằng Bồ Đào Nha cũng sẽ bị Đức chiếm, ông cùng với vợ sang Mỹ. Năm 1947 ông trở về Nice, Pháp.
Ngoài giải Nobel Mooris Maeterlinck được tặng huân chương Đại thập tự của vua Leopold (1920), huân chương Thanh kiếm của Bồ Đào Nha (1939) và được vua Bỉ phong tước hiệu Bá tước (1932). Ông mất ngày 6-5-1949 tại Nice, Pháp.
Tác phẩm: *Cuộc tàn sát những kẻ vô tội (Le massacre des innocénts, 1886), truyện.
* Vườn kính (Serres chaudes, 1889), tập thơ.
*Công chúa Maleine (La princesse Maleine, 1889), kịch.
*Người đàn bà đột nhập (L'intruse, 1890), kịch
*Những người mù (Les aveugles, 1890), kịch
*Bảy nàng công chúa (Les sept princesses, 1891), kịch
*Pelleas và Mélisande (Pelléas et Mélisande, 1892), kịch
*Alladine và Palomides (Alladine et Palomides, 1894), kịch
*Cái chết của Tintagiles (La mort de Tintagiles, 1894), kịch
*Kho báu của những kẻ nhẫn nhục (Le trésor des humbles, 1896), luận văn mĩ học.
*Mười hai bài hát (Douze chansons, 1896), thơ
*Aglavaine và Selysette (Aglavaine et Selysette, 1896), kịch cổ tích
*Khôn ngoan và định mệnh (Le sagesse et la destinée, 1898), khảo luận triết học
*Đời sống loài ong (La vie des abeilles, 1900), khảo luận.
*Ariane và gã Râu Xanh (Ariane et Barbe-Bleue, 1901), kịch
*Monna Vanna (1902), kịch
*Ngôi đền vùi lấp (Le temple enseveli, 1902)
*Joyselle (1903), kịch
*Điều kì diệu của thánh Antoine (Le miracle de Saint-Antoine, 1903), kịch
*Trí tuệ của hoa (L'intelligence des fleurs, 1907)
*Con chim xanh (L'oiseau bleu, 1909), kịch
*Thị trưởng Stilemonde (Bourgmestre de Stilemonde, 1919)
*Miền tiên cảnh lớn (La grande féerie, 1924), tiểu luận
*Tai họa đã qua (Le malheur passe, 1925), kịch
*Đời sống của mối (La vie des termites, 1926), tiểu luận
¬*Đời sống không gian vũ trụ (La vie de l'espase, 1928), tiểu luận
*Đời sống loài kiến (La vie des fourmis, 1930), tiểu luận
*Quy luật vĩ đại (La grande loi, 1933), tiểu luận
*Trước mặt Chúa (Devant Dieu, 1937), tiểu luận
*Thế giới khác, hay khớp vũ trụ (L'autre monde ou le cardan stellaire, 1942), tiểu luận
