Các nhà thơ Pháp

Tác giả Bài
cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:11:58





Guillaume Apollinaire (tên thật bằng tiếng Ba Lan: Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris de Wąż-Kostrowitcki, 26 tháng 8 năm 1880 – 9 tháng 11 năm 1918) – nhà thơ Pháp gốc Ba Lan, một trong những nhà thơ lớn của Pháp đầu thế kỉ XX.

Tiểu sử:
Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris Kostrowitzky sinh ở Roma, Ý. Mẹ là Angelica Kostrowicka, một phụ nữ quí tộc đã sa sút chạy sang Ý sau cuộc bạo loạn 1863 – 1864 ở Ba Lan, bố không rõ. Năm 1887 Wilhelm Kostrowitzky cùng mẹ và em trai chuyển về Monaco. Học ở Monaco, Cannes. Từ năm 1899 chuyển về sống ở Paris, làm thơ, viết báo và trở thành nhà thơ nổi tiếng với bút danh Guillaume Apollinaire – là cách gọi bằng tiếng Pháp của hai tên Ba Lan Wilhelm và Apollinaris. Tháng 9 năm 1911 Guillaume Apollinaire bị bắt vào tù vì ông bị nghi tham gia vào vụ ăn cắp bức họa Mona Lisa nổi tiếng ở bảo tàng Louvre, một năm sau được trả tự do vì không tìm ra chứng cứ. Năm 1912 ông cùng bạn bè thành lập tạp chí “Chiều Paris” và làm chủ bút từ năm 1913. Cũng trong năm này in bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Cầu Mirabeau (Le Pont Mirabeau) và trường ca Zone, đưa Guillaume Apollinaire lên vị trí số một trong các nhà thơ đương thời. Năm 1913 in tập thơ Rượu (Alcools), năm 1914 in một số bài thơ viết theo kiểu tạo hình (Calligrammes). Khi chiến tranh thế giới I nổ ra, Guillaume Apollinaire tình nguyện ra trận với mong muốn được giải phóng Ba Lan nhưng bị thương nặng, trong thời gian này ông viết nhiều bài thơ về chiến tranh. Tháng 3 năm 1916 Guillaume Apollinaire được nhập quốc tịch Pháp và trở lại Paris tiếp tục sáng tác. Guillaume Apollinaire mất ở Paris vào năm 38 tuổi.

Tác phẩm:
*Les exploits d’un jeune Don Juan, 1907
*Les onze mille verges, 1907
*L'enchanteur pourrissant, 1909
*L'Hérèsiarque et Cie, 1910
*Le Théâtre Italien, 1910
*Le bestiaire ou le cortège d’Orphée, 1911
*Alcools, 1913
*Les peintres cubistes, 1913
*La Fin de Babylone, 1914
*Case d'Armons, 1915
*Le poète assassiné, 1916
*Les mamelles de Tirésias, 1917
*L'esprit nouveau et les poètes, 1918
*Calligrammes, 1918
*Le Flâneur des Deux Rives, 1918
*La femme assise, 1920
*Le guetteur mélancolique

Các tuyển tập:
*Oeuvres роétiques. P., 1956
*Oeuvres completes, t. 1-4, P., 1965—1966
*Oeuvres en prose complètes. Vol.1-2. Paris: Gallimard, 1991 (Bibliothèque de la Pléiade)




CẦU MIRABEAU

Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine
Trôi cả tình yêu của anh và em
Không biết anh có còn nên nhớ
Niềm vui sẽ đến theo sau nỗi ưu phiền.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Mặt đối mặt và tay trong tay nhau
Vòng tay ta như cầu
Dưới cầu dòng nước chảy
ánh mắt rã rời vì li biệt dài lâu.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Tình ra đi như dòng nước trôi nhanh
Tình yêu của em và anh
Cuộc đời ơi, sao mà chậm rãi
Hy vọng sao mà dữ dội cuồng điên.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Vẫn trôi đều ngày tuần, tháng năm
Quá khứ và tình yêu quay trở lại không còn
Chỉ một điều không bao giờ thay đổi
Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.


BÀI THƠ TẶNG LINDA

Cái tên nghe rất tôn giáo của em
Hơi kiêu kì - và đó là bản chất
Cái tên em bí ẩn không giấu được
Tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “xinh”.

Còn tiếng Đức có nghĩa là “dịu hiền”
Như tháng Tư giữa trời đêm trong gió
Cây gia thần tiên hát ca, nghiêng ngả
Trong tiếng xạc xào hương toả mùi đêm.

Tên của em đẹp hơn mọi cái tên!
Thời Hy Lạp cổ, đó là “thành phố”
Rất phồn thịnh, như thiên đàng, một thuở
Giữa những hoa hồng trên đảo Rhodes hát lên.
____________
*Bài thơ đi phân tích ý nghĩa tên của cô gái Linda. Từ “Lindo” bằng tiếng Tây Ban Nha nghĩa là đẹp, xinh. Bằng tiếng Đức (Die Linde – cây gia, cây đoạn; lind – dịu hiền, thuỳ mị). ở khổ thứ 3 nhắc đến tên gọi một thành phố Hy Lạp cổ đại – Lindos, nằm ở bờ phía đông đảo Rhodes.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:15:21





Louis Aragon (3 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 12 năm 1982) – nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị Pháp, thành viên của Viện hàn lâm Goncourt.

Tiểu sử:
Louis Aragon sinh ở Paris, là con ngoài giá thú của Marguerite và Andrieux. Học Đại học Y ở Paris. Sau này, Aragon chọn bút danh cho mình lấy tên của một vùng đất lịch sử ở Tây Ban Nha. Thời trẻ Aragon gần gũi với các nhóm Dada và Surrealism. Năm 1927 gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực tham gia các hoạt động báo chí. Năm 1932 cùng đoàn các nhà văn Quốc tế đến thăm vùng Ural của Liên Xô. Ấn tượng của chuyến đi này được Aragon thể hiện trong tập thơ Hourra l'Oural, (Hoan hô Ural, 1934). Vợ của Aragon là Elsa Triolet, một cô gái Liên Xô gốc Do Thái. Elsa Triolet là chị gái của Lilya Brich, vợ của nhà thơ Nga nổi tiếng Vladimir Mayakovsky, bản thân Elsa Triolet cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Thời kỳ Thế chiến II, Aragon tham gia phong trào Kháng chiến, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào này. Các tập thơ Le Crève-Cœur, (Dao trong tim, 1941); Les Yeux d'Elsa, (Đôi mắt Elsa, 1942); thể hiện lòng yêu nước và sự quay về với những đề tài tình yêu cổ điển. Ngoài thơ ca, Aragon còn là một nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị về những vấn đề của văn học hiện đại. Louis Aragon mất ở Paris năm 1982.

Tác phẩm:
Văn xuôi:
*Anicet ou le Panorama, 1921
*Les Aventures de Télémaque, 1922
*Le Libertinage, 1924
*Le Paysan de Paris, 1926
*Le Con d’Irène, 1927 (sous le nom d’Albert de Routisie)
*Les Cloches de Bâle, 1934 («Le Monde réel»)
*Les Beaux Quartiers, 1936 («Le Monde réel»), Prix Renaudot
*Les Voyageurs de l’Impériale, 1942 («Le Monde réel»)
*Aurélien, 1944 («Le Monde réel»)
*Servitude et Grandeur des Français. Scènes des années terribles, 1945
*Les Communistes (6 volumes), 1949—1951 et 1966—1967 («Le Monde réel»)
*La Semaine Sainte, 1958
*La Mise à mort, 1965
*Blanche ou l’oubli, 1967
*Henri Matisse, roman, 1971
*Théâtre/Roman, 1974
*Le Mentir-vrai, 1980
*La Défense de l’infini, 1986
*Les Aventures de Jean-Foutre La Bite, 1986

Thơ:
*Le Musée Grévin, publié sous le pseudonyme de François la Colère
*La rose et le réséda
*Feu de joie, 1919
*Le Mouvement perpétuel, 1926
*La Grande Gaîté, 1929
*Persécuté persécuteur, 1930—1931
*Hourra l’Oural, 1934
*Le Crève-Cœur, 1941
*Cantique à Elsa, 1942
*Les Yeux d’Elsa, 1942
*Brocéliande, 1942
*Le Musée Grevin, 1943
*La Diane Française, 1945
*En étrange pays dans mon pays lui-même, 1945
*Le Nouveau Crève-Cœur, 1948
*Le Roman inachevé, 1956
*Elsa, 1959
*Les Poètes, 1960
*Le Fou d’Elsa, 1963
*Il ne m’est Paris que d’Elsa, 1964
*Les Chambres, poème du temps qui ne passe pas, 1969





TÌNH HẠNH PHÚC KHÔNG HỀ CÓ

Con người chẳng có quyền gì. Không ở trong sức mạnh
Không ở trong tim, trong sự yếu đuối của mình
Khi giang rộng vòng tay – thì tai họa đứng sau lưng
Xiết chặt vào lòng – là giết mình mãi mãi
Sự hành hạ con người đôi cánh rộng mở ra
Tình hạnh phúc không hề có.

Bị tước mất vũ khí, đời người lính còn gì
Khi người ta đem đặt thứ khác vào số phận
Mỗi buổi sáng thức giấc thấy đời trống vắng
Rồi chờ đợi buổi chiều với một nỗi buồn thương
Không cần nước mắt đâu. Đó là cuộc đời anh
Tình hạnh phúc không hề có.

Tình của anh và nỗi đau, nỗi đau đớn của anh
Như con chim bị thương, em trong tim anh đó
Anh và em bước đi dưới ánh mắt thiên hạ.
Anh bện vào những lời rồi nhắc lại những lời anh
Vì đôi mắt của em mà người ta xin chết sẵn sàng
Tình hạnh phúc không hề có.

Không, ta đã muộn màng để học cách sống từ đầu
Cứ để cho hai con tim trong buổi chiều cùng đau khổ
Cần đau đớn để cho bài ca sinh hạ
Và lòng thương, khi đám cháy đã không còn
Cần thổn thức để cùng cây đàn ghi ta hát lên
Tình hạnh phúc không hề có.

Không có trên đời tình yêu mà không biết đến đau thương
Không có trên đời tình yêu mà khổ đau không mang đến
Không có trên đời tình yêu mà không sống bằng đau đớn
Và anh cũng như em, vẫn yêu đất nước quê hương
Không có tình yêu mà không có nước mắt, đau buồn
Tình hạnh phúc không có nhưng tình vẫn sống
Và đâu phải vì điều này mà anh hết yêu em.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:19:02





Joachim du Bellay (1522 – 1 tháng 1 năm 1560) – nhà thơ Pháp, thành viên nhóm Pléiade, được coi là một trong những nhà cải cách ngôn ngữ thơ ca Pháp thế kỷ XVI.

Tiểu sử
Joachim du Bellay sinh ở Lire, gần Angers (Pháp). Năm 1547 gặp Pierre de Ronsard, chủ soái nhóm Pléiade, đã từ chối chức vụ cao trong giáo hội để theo nghiệp thơ ca. Ông là tác giả của tác phẩm nổi tiếng: "La défense et l’illustration de la langue française" (Bảo vệ và phát triển tiếng Pháp), được coi là tuyên ngôn của nhóm Pléiade. Tác phẩm này đề ra phương hướng phát triển của thơ ca mới, phê phán thứ thơ bắt chước phong cách các nhà thơ cổ và sử dụng ngôn ngữ Latin. Joachim du Bellay là nhà thơ có công lớn trong việc làm giàu ngôn ngữ thơ ca Pháp, trong việc sáng tạo ra những thể loại thơ mới như ode, bi ca, sử thi… Ông cũng là tác giả của tác phẩm thơ châm biếm đầu tiên trong thơ Pháp: "Le poète courtisan".
Tuy vậy, nhiều tác phẩm của Joachim du Bellay vẫn ngược lại với lý thuyết mà ông đề cao. Người ta vẫn chỉ ra nhiều chỗ ông mô phỏng thơ cổ và sử dụng ngôn ngữ thơ Latin trong những tác phẩm đáng kể nhất. Đây cũng là đặc điểm của cả nhóm Pléiade.
Joachim du Bellay mất ở Paris năm 38 tuổi.

Thư mục
*L’Olive, Recueil de poésies
*Divers poèmes
*Les amours
*Antiquités de Rome
*Les Regrets; Jeux rustiques
*La défense et l’illustration de la langue françoise, choix, notice biographique et bibliographique par A. Séché, 1908
*Divers jeux rustiques et autres œuvres politiques, publ. sur l’éd. originale de 1558 et augm. des lettres de l’auteur avec notice de G. Colletet, bibliographie et notes par A. van Bever, 1912
*Œuvres poétiques, 5 vv., publ. par H. Chamard, 1919-1923 (Société des Textes Français Modernes)
*Divers jeux rustiques, éd. crit., publ. par H. Chamard, 1923.


Sonnê XXXV

Ông thầy thuốc chữa cơn sốt run
Bằng cách đắp lên người khăn ấm
Còn cơn sốt tình yêu khô và nóng
Chỉ dịu đi khi thỏ thẻ với tình.

Bếp lửa cháy em thổi nước vào trong
Thì ngọn lửa càng bốc lên vùn vụt
Ngọn lửa kia nếu em muốn dập
Cần phải đem dội nước bằng thùng.

Trong tình yêu bằng cách ấy được chăng?
Anh đã từng thử bằng cách như vậy
Tại vì sao không được hở ma Dame.

Càng cố sức dập ngọn lửa tình
Thì anh càng yêu em say đắm
Và không muốn ai dập lửa giùm anh!



XCI

Hãy trả lại cho vàng màu sắc
Màu sắc từng say đắm lòng tôi
Hãy trả về cho phương Đông châu ngọc
Tia sáng của mắt trả lại mặt trời.

Trả cho hoạ sĩ – nét mặt đầy bí ẩn
Cho Diana – bộ ngực, đôi má - thần bình minh
Trả cho thần chiến tranh – vầng trán rộng
Trả lại Eva – lời di huấn tinh ranh.

Ngọn lửa tình yêu hãy trả lại cho tình
Cho thần sắc đẹp – vẻ tuyệt vời hình thể
Trả cho những bầu trời – vẻ hoàn mỹ.

Trả cho san hô cái miệng màu xanh
Trả về cho đá - như đá những con tim
Vẻ quỉ quyệt màu đen – trả về cho sư tử.

XCVII

Trong nắng hè tuyệt đẹp hoa hồng
Khi hoa trắng trong như tuyết
Và nhẹ nhàng toả ra hơi mát
Trên cành, từ vết cắt màu xanh.

Màu trắng này tất cả đều thở bằng
Tất cả cúi đầu trước hoa cảm tạ
Khẽ chạm vào cành hoa con thú sợ
Thế là con thú chạy vòng quanh.

Nhưng người ta đem bẻ cành hoa
Thì hoa buồn bã, não nề
Rồi hoa trở về cát bụi…

Bông hoa của tôi người ta đoạt lấy
Còn tôi bay trong mộng, trong mơ
Chốn xa xôi, rồi kết thúc trong thơ.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:21:42





Jacques Romain Georges Brel (8 tháng 4 năm 1929 – 9 tháng 10 năm 1978) là nghệ sĩ, nhà thơ Bỉ sáng tác bằng tiếng Pháp.

Tiểu sử:
Jacques Brel sinh ở Schaarbeek, Bỉ. Từ những ngày học ở trường phổ thông đã rất mê diễn kịch. Năm 1951 Jacques Brel cưới vợ và có một con gái. Từ năm 1952 bắt đầu sáng tác những bài hát cho những buổi dạ hội. Năm 1953 ra đĩa hát dầu tiên. Năm 1953 Jacques Brel sang Paris theo lời mời của Jacques Canneti, người đáng giá cao tài năng của Brel qua những bài hát do ông sáng tác. Năm 1955, cả vợ và con gái cùng chuyển sang sống cùng Brel ở Paris. Năm 1956 Jacques Brel bắt đầu cộng tác với các nghệ sĩ Gérard Jouannest và Francois Rauber, biểu diễn trong các buổi hòa nhạc. Từ năm 1958 thường xuyên biểu diễn ở các nhà hát uy tín nhất của Paris. Năm 1966 Jacques Brel quyết định rời sân khấu. Ngày 16 tháng 5 năm 1967 ông tổ chức buổi hoà nhạc chia tay.

Từ năm 1967 Jacques Brel chuyển sang đóng phim và đạo diễn phim. Với điện ảnh, Jacques Brel cũng đạt đến đỉnh cao với nhiều bộ phim nổi tiếng do ông đóng vai chính. Nhiều bộ phim do ông đạo diễn cũng được đánh giá cao. Ngoài âm nhạc (chủ yếu nổi tiếng là một người viết phần lời xuất sắc) và điện ảnh, Jacques Brel còn là một nhà thơ nổi tiếng của Bỉ và Pháp. Ông mất ở Bobigny, ngoại ô Paris sau một thời gian bị bệnh kéo dài và mai táng tại đảo Marquesas.

Tác phẩm:
Đĩa hát:
*1953: Đĩa hát đầu tiên: La Foire/Il y a
*1954: Anbom đầu tiên : Jacques Brel et ses chansons
*1957: Quand on n’a que l’amour, Heureux Pardons,…
*1958: Je ne sais pas, Au printemps,…
*1958: Đĩa cho tạp chí Marie-Claire, Gồm các bài L’introduction à la Nativité và L'Évangile selon saint Luc
*1959: La valse à mille temps, Ne me quitte pas, Je t’aime, Isabelle, La mort, …
*1961: Marieke, Le moribond,…
*1962: Hoà nhạc tháng 10-1961
*1963: Les Bigotes, Les vieux, La Fanette,…
*1964: Jef, Les bonbons, Mathilde,…
*1965: Ces gens-là, Fernand,…
*1967: 67 comprenant Mon enfance, À jeun,…
*1968: Vesoul, L'éclusier,…
*1970: L’Homme de la Mancha
*1972: Ghi âm mới những bài hát cũ
*1977: Les Marquises
*1988: Jacques Brel — l’intégrale (10 CD)
*2003: Jacques Brel — l’intégrale (15 CD)

Phim:
*1968: Les risques du métier d'André Cayatte
*1968: La bande à Bonnot de Philippe Fourastié
*1969: Mon oncle Benjamin d'Édouard Molinaro
*1970: Mont-Dragon de Jean Valère
*1971: Les assassins de l’ordre de Marcel Carné
*1971: Franz
*1972: L’aventure c’est l’aventure de Claude Lelouch
*1972: Le bar de la Fourche d'Alain Levent
*1972: Le Far-West
*1973: L’emmerdeur d'Édouard Molinaro


NẾU BẠN CẦN

Bạn không hiểu gì.

Nếu bạn cần những con tàu để đi xa đâu đấy vì may mắn
Và nếu bạn cần con tàu trắng để bay về những xứ sở xa xăm
Để đi tìm bầu trời xanh mà hồn bạn đang khóc và than vãn
Hay tìm những bài ca hạnh phúc mà bạn có thể hát lên
Thì…

Nếu bạn cần ban mai để ngày mai bạn sẽ lại tin
Và ngày mai, để ngày mai mang về cho sức mạnh
Và trả về cho bạn niềm hy vọng đã mất rất lạ lùng
Và trả cho bạn bàn tay thủy chung mà bạn từng thả lỏng
Thì…

Nếu bạn cần những lời từng chép trong sách cổ
Để tìm sự thanh minh cho lời nói của mình
Và để thơ ca đối với bạn là một trò chơi chữ
Và tất cả cuộc đời bạn từ nay sẽ già hom
Thì…

Nếu bạn cần nỗi buồn để làm một quả mìn thông minh
Và cần tiếng ồn đường phố để giọng nói của lương tâm lấn át
Và cần những yếu đuối nhỏ nhặt để ra vẻ dịu dàng
Và cả những cơn giận dữ để cho mạnh mẽ và rắn chắc
Thì…

Thì bạn không hiểu gì.





LỜI CẦU KHẨN

Em là ngọn cờ, là hy vọng, là ánh sáng
Là lòng tin, là cơn nóng của tim
Em là bếp lửa trong đêm giá lạnh
Em – là chiếc chén Thánh của anh.

Em là đam mê, là khao khát, là đêm
Em là quyền lực, em là luật pháp
Em là hoa, là bánh mỳ, mật ngọt
Em là đất cày, là cày cuốc của anh.

Em là mặt trời, là sóng trắng, cánh buồm
Em là tiếng đàn, là bài ca dịu ngọt
Em là rượu, là tiếng cười, nước mắt
Em là con đường trong cuộc sống của anh.

Em là ngọn cờ, là ánh sáng của anh
Cơn nóng của tim, em là ngọn lửa
Em là máu, là thịt xương anh đó
Hãy quay về, anh vẫn đợi chờ em!..

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:24:57





Jean Nicolas Arthur Rimbaud (20 tháng 10 năm 1854 – 10 tháng 11 năm 1891) – nhà thơ Pháp, một trong những người sáng lập trường phái ấn tượng, là nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới văn học và nghệ thuật hiện đại.

Tiểu sử:
Arthur Rimbaud sinh ở Charleville (nay là Charleville-Mézières), miền đông bắc nước Pháp. Bố là Frédéric Rimbaud, một sĩ quan phục vụ ở Algeria, mẹ là Vitalie Cuif, xuất thân từ một gia đình nông dân. Bố mẹ chia tay nhau khi Arthur Rimbaud mới 4 tuổi nên sự giáo dục chủ yếu là từ mẹ. Thời kỳ học ở trường tiểu học đã nổi tiếng học giỏi tiếng Hy Lạp, tiếng Latin và các môn: lịch sử, địa lý. Năm 1865 vào học trường Colege Charleville là một trong những học sinh xuất sắc nhất của trường. Năm 1869 lần đầu tiên in ba bài thơ viết bằng tiếng Latin Xuân đã về (Ver erat), Thiên thần và đứa bé (L’Ange et l’enfant), Jugurtha (Jugurtha). Bài thơ Jugurtha được tặng giải nhất trong một cuộc thi thơ. Năm 1870, lên 16 tuổi Rimbaud in những bài thơ đầu tiên bằng tiếng Pháp, sau đó đi du lịch lên miền bắc nước Pháp và Bỉ. Ở Paris, Arthur Rimbaud làm quen và trở thành người yêu của Paul Verlaine, làm xôn xao dư luận Paris. Rimbaud tham gia Công xã Paris. Năm 1872, Verlaine bỏ gia đình cùng Rimbaud đi sang London. Khi trở về Bỉ, hai người cãi nhau, Verlaine dùng súng lục bắn Rimbaud bị thương phải vào tù 2 năm, còn Rimbaud trở về quê Charleville.

Kể từ đây cuộc đời của Rimbaud sang một trang mới, ông bỏ làm thơ hẳn và đi chu du hầu như khắp thế giới. Năm 1875 sang Đức, hết tiền phải đi bộ sang Milan, (Ý), sau đó ốm nặng phải quay về Pháp. Năm 1876 sang Áo, bị trục xuất, ông quay sang Hà Lan tham gia đội quân lê dương đi sang Indonesia. Ba tuần sau theo tàu chiến Anh trở về quê, sau đó sang Đức, Đan Mạch, Thuỵ Sĩ… Từ năm 1880 ông sang các nước châu Phi (Ai Cập, Ethiopia, Yemen) buôn súng, buôn cà phê và da thú. Tháng 2 năm 1891 bị bệnh phải quay trở về Pháp, đến tháng 10 ông qua đời ở Marseille vào tuổi 37.
Mặc dù sống một cuộc đời ngắn ngủi (thời gian sáng tác lại càng ngắn) nhưng Arthur Rimbaud đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của thơ ca Pháp. Ông là người có công trong việc làm giàu ngôn ngữ, hình tượng cũng như thể loại thơ ca… Nửa cuối thế kỷ XX Arthur Rimbaud trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng. Hình tượng Rimbaud được thể hiện qua rất nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới.

Tác phẩm:
*Poésies (Thơ)
*Le bateau ivre (Con tàu say, 1871)
*Une Saison en Enfer (Một mùa hè ở địa ngục, 1873)
*Illuminations (Linh cảm, 1874)
*Lettres (Thư từ)

Thư mục:
*Œuvres, [2 éd.], P., [1964]
*Œuvres, P., [1966]
*Е tiemble R. et GaucIere Y., Rimbaud, P., 1950
*Fowlie W., Rimbaud. [A critical study], Ch. - L., [1967]
*Gascar P., Rimbaud et la Commune, [P., 1971]; "Europe", 1973, № 529-30





CẢM TƯỞNG

Buổi chiều xanh, trên những con đường nhỏ
Rảo bước chân trên hoa cỏ nhẹ nhàng
Mơ ước trong đầu, trên tóc ngọn gió
Tôi nhận ra hơi mát dưới bàn chân.

Không nghĩ suy, không lời trên môi lặng
Nhưng con tim yêu hết thảy trên đời
Và ngọt ngào trong hoàng hôn thơ thẩn
Thiên nhiên tựa hồ như người đẹp cùng tôi.
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:30:31





Paul-Marie Verlaine (30 tháng 3 năm 1844 – 8 tháng 1 năm 1896) – nhà thơ Pháp, một trong những nhà thơ lớn của Pháp thế kỷ XIX.

Tiểu sử:
Paul-Marie Verlaine sinh ở Metz. Bố là kỹ sư xây dựng trong quân đội, mẹ xuất thân từ một gia đình nông dân khá giả. Năm 1851 gia đình chuyển về Paris. Năm 1855 Verlaine vào học trường lycee Bonapart ở Paris và đã bộc lộ sự say mê thơ ca. Năm 1858 gửi cho Victor Hugo trường ca La Mort (Cái chết). Năm 1862 nhận bằng cử nhân hùng biện, cũng trong năm này vào học luật tại Đại học Sorbonne nhưng một thời gian sau bỏ học. Từ tháng 10 năm 1863 làm ở công ty bảo hiểm, sau đó vào làm ở tòa thị chính Paris, tham gia nhóm thơ Parnasse. Năm 1866 in cuốn sách đầu tiên Poиmes saturniens chịu sự ảnh hưởng của nhóm Parnasse. Năm 1867 sang Brussele gặp Victor Hugo. Năm 1870 in tập thơ La bonne chanson (Bài ca tốt lành) tặng người yêu Mathilde Mauté. Sau khi chiến tranh Pháp – Phổ xảy ra, Verlaine phải vào lính nhưng thường xuyên lẩn tránh nghĩa vụ phải vào trại giam một tuần. Thời gian sau đó là những năm tháng tình ái với nhà thơ trẻ Arthur Rimbaud. Hai người đi sang Bỉ và Anh. Đây là quãng thời gian Verlaine viết những bài thơ hay nhất của mình. Năm 1874 in tập thơ Romances sans paroles (Những khúc lãng mạn không lời). Tháng 10 năm 1873 Verlaine cãi nhau với Rimbaud, dùng súng lục bắn vào tay Rimbaud bị vào tù hai năm và bị phạt 200 frans. Sau khi mãn hạn tù bị vợ và gia đình từ chối, Verlaine sang Anh dạy tiếng Pháp, dạy vẽ, làm gia sư. Năm 1882 trở về Pháp, sống và làm việc ở nhiều nơi. Năm 1894 được bầu là “Ông hoàng của các nhà thơ”. Năm 1895 viết bài giới thiệu cho “Tuyển tập tác phẩm Arthur Rimbaud”. Năm 1896 in cuốn sách cuối cùng La Mort (Cái chết). Ông mất ở Paris, mai táng tại nghĩa trang Cimetière de Batignolles, có ba ngàn người đến dự lễ tang.

Các nhà thơ phái ấn tượng gọi Verlaine là ông tổ của mình, còn nghệ thuật thi ca gọi Romances sans paroles của Verlaine là tuyên ngôn. Tuy vậy sự ảnh hưởng của Verlaine không chỉ giới hạn trong phạm vi một trường phái thơ. Verlaine là người sáng tạo một nghệ thuật thơ mới, phục hồi mối liên hệ với thơ ca dân gian, giữ gìn truyền thống nghệ thuật của thơ ca Pháp mà sau đấy được các nhà thơ lớn của Pháp trong thế kỷ XX tiếp tục.

Tác phẩm:
Thơ:
*Poèmes saturniens (1866)
*Les Amies (1867)
*Fêtes galantes (1869)
*La Bonne chanson (1870)
*Romances sans paroles (1874)
*Sagesse (1880)
*Jadis et naguère (1884)
*Amour (1888)
*Parallèlement (1889)
*Dédicaces (1890)
*Femmes (1890)
*Hombres (1891)
*Bonheur (1891)
*Chansons pour elle (1891)
*Liturgies intimes (1892)
*Élégies (1893)
*Odes en son honneur (1893)
*Dans les limbes (1894)
*Épigrammes (1894)
*Chair (1896)
*Invectives (1896)
*Biblio-sonnets (1913)
*Oeuvres oubliées (1926—1929)

Văn xuôi:
*Les Poètes maudits (1884)
*Louise Leclercq (1886)
*Les mémoires d’un veuf (1886)
*Mes hôpitaux (1891)
*Mes prisons (1893)
*Quinze jours en Hollande (1893)
*Vingt-sept biographies de poètes et littérateurs (parues dans «Les Hommes d’aujourd’hui»)
*Confessions (1895)




La Chanson des Ingénues

Những mắt xanh thơ ngây
Từ trong câu chuyện cổ
Khăn xếp quấn trên đầu
Người đời không còn nhớ.

Ta thân thiết vô vàn
Ánh sáng ngày tinh khiết
Như bí ẩn kín thầm
Như màu xanh mơ ước.

Ta chạy ra đồi cây
Chỉ bóng đêm rơi xuống
Cùng chuyện trò, bắt bướm
Cười vui suốt cả ngày.

Đội trên đầu mũ rơm
Che cho ta ánh nắng
Vải áo quần nhẹ mỏng
Còn màu nào trắng hơn!

Caussades hay Richelieux
Hay chàng Faublas
Ta nghe tiếng thầm thì
Và những mắt mỏi mệt.

Nhưng thở than vô ích
Các chàng chỉ đứng nhìn
Những chiếc váy thì thầm
Lời mỉa mai chua chát.

Trêu tức vẻ hình dung
Những chàng trai tinh nghịch
Vẻ kiêu kỳ trinh bạch
Tránh lời nói dịu dàng.

Nhưng dù sao trong tim
Những ý nghĩ kín thầm
Ngày mai rồi yêu mến
Điều hú họa gì chăng.




Xuân Diệu viết về tình yêu của Rimbaud và Verlaine

TÌNH TRAI

Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quên

Những bước song song xéo dặm trường
Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương
Họ đi, tay yếu trong tay mạnh
Nghe hát ân tình giữa gió sương

Kể chi chuyện trước với ngày sau
Quên gió môi son với áo màu
Thây kệ thiên đường và địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau...
  

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:37:25





René Char (14 tháng 6 năm 1907 – 19 tháng 2 năm 1988) là một trong những nhà thơ trữ tình lớn nhất của Pháp thế kỷ XX.

Tiểu sử:
René Char sinh ở L'Isle-sur-la-Sorgue, Vaucluse. Năm 1929 làm quen với André Breton, Paul Éluard và một số nhà thơ phái Siêu thực khác, in thơ ở tạp chí “Chủ nghĩa Siêu thực phục vụ cách mạng”, trở thành một nhà thơ nổi tiếng từ thời kỳ này. Từ năm 1935 không tham gia những hoạt động của phái nhưng vẫn giữ quan hệ với những người bạn cũ.

Những năm 1941 – 1945 René Char tham gia chiến đấu chống phát xít. Ký ức về những năm tháng chiến đấu được thể hiện trong nhiều tập thơ và văn xuôi. Tập thơ “Giận dữ và bí mật” xuất bản năm 1948 được Albert Camus gọi là “một hiện tượng dị thường của thơ ca Pháp sau “Cảm giác” của Arthur Rimbaud và “Rượu” của Guillaume Apollinaire.

Những năm cuối cuộc đời René Char về sống trong trang trại của mình ở Provence. Năm 1955 gặp nhà triết học Martin Heidegger ở Paris. Trở về Provence, Char tổ chức các cuộc hội thảo về triết học của Martin Heidegger ở Provence. Martin Heidegger viết tặng René Char một tập thơ và thường xuyên nhắc đến thơ của René Char trong các tác phẩm của mình.

Ngoài thơ, René Char còn là tác giả của nhiều tập sách danh ngôn nổi tiếng. Ông được tặng thưởng nhiều huân chương của nước Pháp. Một giải thưởng dành cho các nhà thơ trẻ nước Pháp mang tên ông. Ở L'Isle-sur-la-Sorgue có bảo tàng René Char.

Tác phẩm:
*Arsenal (1929).
*Ralentir Travaux (1930 - in cùng André Breton và Paul Eluard).
*Artine (1930).
*Le marteau sans maître (1934).
*Seuls demeurent (1943).
*le Poème pulvérisé (1945).
*Feuillets d'Hypnos (1946).
*Fureur et mystère (1948).
*Les Matinaux (1950).
*A une sérénité crispée (1951).
*Recherche de la base et du sommet (1955).
*La Parole en archipel (1962).
*Dans la pluie giboyeuse (1968).
*Le Nu perdu (1971).
*Aromates chasseurs (1976).
*Chants de la Balandrane (1977).
*Fenêtres dormantes et porte sur le toit (1979).
*Les voisinages de Van Gogh (1985).
*Éloge d'une soupçonnée (1988).
*Œuvres complètes (Tuyển tập tác phẩm in năm 1983, Jean Roudaut viết lời giới thiệu)


 SỰ AN ỦI

Tình yêu của tôi thơ thẩn trên đường phố. Chẳng lẽ còn ý nghĩa đi về đâu trong sự lựa chọn con đường? Đã lìa đứt sợi chỉ của thời gian. Giờ đã không còn là tình yêu tôi nữa mà mỗi người đều có thể chuyện trò. Tình đã quên tất cả, tình đã chẳng nhớ ra, ai đã trao cho tình linh hồn ngày đó.

Tình bây giờ đi tìm người như thế trong sự hứa hẹn của những ánh mắt nhìn. Tình xuyên qua không gian mà sự thủy chung của tôi vẫn giữ gìn. Tình vẽ ra hy vọng rồi xóa đi niềm hy vọng thật vô tâm. Tình trăm trận trăm thắng không tham dự vào những chiến công.

Tôi vẫn sống trong sâu thẳm của tình, giống như mảnh vỡ hạnh phúc của con tàu bị chìm. Tình không biết rằng sự cô đơn của tôi trở thành sự giàu có của tình. Trên đường kinh tuyến mênh mông, nơi đánh dấu sự thăng hoa của tình, tự do của tôi làm cho tình đổ vỡ.

Tình yêu của tôi thơ thẩn trên đường phố. Chẳng lẽ còn ý nghĩa đi về đâu trong sự lựa chọn con đường? Đã lìa đứt sợi chỉ của thời gian. Giờ đã không còn là tình yêu tôi nữa mà mỗi người đều có thể chuyện trò. Tình đã quên tất cả, tình đã chẳng nhớ ra, ai đã trao cho tình linh hồn ngày đó, ai đã chiếu sáng cho tình từ xa, để cho tình khỏi ngã.

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:42:34





Paul Claudel (tên đầy đủ: Paul-Louis-Charles-Marie Claudel) (5 tháng 8 năm 1868 – 23 tháng 2 năm 1955) là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ Pháp.

Tiểu sử:
Paul Claudel sinh ở Villeneuve-sur-Fère trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Bố là Louis-Prosper, mẹ là Louise Cerveaux. Hồi nhỏ học ở Lycee Bar-le-Duc, tỉnh Champagne, sau gia đình chuyển lên Paris học ở Lycée Louis-le-Grand. Từ năm 1893 làm ở Bộ ngoại giao Pháp. Từng làm lãnh sự và Đại sứ ở nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Paul Claudel được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, năm 1946 được bầu làm thành viên của Viện hàn lâm Pháp.

Paul Claudel được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, là nhà thơ có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Theo lời của chính Paul Claudel, thì cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Paul Claudel không quan tâm đề tài về “những người nào” mà “họ phải trở thành những người nào”. Với vai trò của một nhà thuyết giáo, ông làm thơ theo thể tự do (chịu ảnh hưởng của Walt Whitman) và những bài văn xuôi theo phong cách Kinh Thánh, mà theo lời ông, thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Những tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến Cinq grands odes (Năm bài ode lớn, 1910), La cantate а trois voix (Bản đại hợp xướng dành cho ba giọng, 1931). Ngoài ra, rất nhiều vở kịch của ông được dựng thành những bộ phim nổi tiếng. Ông mất ở Paris năm 1955.

Tác phẩm:
Kịch:
*Tête d'or (1890)
*La Jeune Fille Violaine (1892)
*La Ville (1893)
*L'Échange; Tête d'Or (1894)
*La Jeune Fille Violaine (1901)
*Le Repos du septième jour (1901)
*L'Otage (1911)
*L'Annonce faite à Marie (1912)
*L'Ours et la Lune (1917)
*Le Pain dur (1918)
*Les Choéphores d'Eschyle (1919)
*Le Père humilié (1920)
*Les Euménides d'Eschyle (1920)
*Protée (1920, первый вариант)
*Le Soulier de satin (1929)
*Le Livre de Christophe Colomb (1933)
*Jeanne d'Arc au bûcher (1939)
*La Sagesse ou la Parabole du destin (1939)
*L'Histoire de Tobie et de Sara (1942)
*Le Partage de midi (1948)
*Protée (1949)

Thơ:
*Connaissance de l'Est (1896)
*Poèmes de la Sexagésime (1905)
*Processionnal pour saluer le siècle nouveau (1907)
*Corona benignitatis anni dei (1915)
*La Messe là-bas (1919)
*Poèmes de guerre (1914-1916) (1922)
*Feuilles de saints (1925)
*Cent phrases pour éventails (1942)
*Visages radieux (1945)
*Accompagnements (1949)

Văn xuôi:
*Positions et propositions, tome I-II (1928, 1934)
*L'Oiseau noir dans le soleil levant (1929)
*Conversations dans le Loir-et-Cher (1935)
*Figures et paraboles (1936)
*Contacts et circonstances (1940)
*Seigneur, apprenez-nous à prier (1942)
*L'Œoeil écoute (1946)
*Emmaüs (1949)
*Une voix sur Israël (1950)
*L'Évangile d'Isaïe (1951)
*Paul Claudel interroge l'Apocalypse (1952)
*Paul Claudel interroge le Cantique des Cantiques (1954)
*Conversation sur Jean Racine (1956)
*Sous le signe du dragon (1957)
*Qui ne souffre pas... Réflexions sur le problème social (1958)
*Présence et prophétie (1958)
*La Rose et le rosaire (1959)
*Trois figures saintes pour le temps actuel (1959)

Nhật ký:
*Mémoires improvisés. Quarante et un entretiens avec Jean Amrouche (1954)
*Journal. Tome I : 1904-1932 (1968)
*Journal. Tome II : 1933-1955 (1969)

Thư từ:
*Correspondance de Paul Claudel et André Gide (1899-1926) (1949)
*Correspondance de Paul Claudel et André Suarès (1904-1938) (1951)
*Correspondance de Paul Claudel avec Gabriel Frizeau et Francis Jammes (1897-1938) (1952)
*Correspondance Paul Claudel et Darius Milhaud (1912-1953) (1961)
*Correspondance de Paul Claudel et Aurélien Lugné-Poë (1910-1928) (1964)
*Correspondances avec Copeau, Dullin, Jouvet (1966)
*Correspondance de Jean-Louis Barrault et Paul Claudel (1974)
*Correspondance de Paul Claudel et Jacques Rivière (1907-1924) (1984)
*Lettres de Paul Claudel à Élisabeth Sainte-Marie Perrin et à Audrey Parr (1990)
*Correspondance diplomatique. Tokyo (1921-1927) (1995)
*Correspondance de Paul Claudel et Gaston Gallimard (1911-1954) (1995)
*Le Poète et la Bible, volume 1, 1910-1946 (1998)
*Le Poète et la Bible, volume 2, 1945-1955 (2002)
*Correspondance de Paul Claudel avec les ecclésiastiques de son temps. Volume I, Le sacrement du monde et l'intention de gloire (2005)
*Une amitié perdue et retrouvée: correspondance de Paul Claudel et Romain Rolland (2005)





BALLADE

Ta đã từng ra đi biết bao lần, nhưng lần này – lần cuối.
Những người thân yêu ta bỏ lại. Con tàu không đợi, ta giã biệt trên đường.
Cảnh như thế này lặp lại đã nhiều lần, nhưng lần này – lần cuối.
Còn các bạn nghĩ rằng: ta biết đi đâu? Ta đang đi – hãy nhìn xem.
Vĩnh biệt mẹ! Sao mẹ khóc như người đang còn hy vọng hay ngờ vực?
Cái điều không thể khác, không đáng khóc, không đáng để nước mắt rơi từ đôi mắt của ta.
Hay các bạn quên rằng ta là bóng và đi, như bóng, các bạn cũng là bóng, bóng ma?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Ta chia tay những người phụ nữ: những người vợ chung thủy, những bạn gái, những người đáng trách.
Đã đành với tiếng thì thầm của phụ nữ: ta cô đơn, ta nhẹ nhàng như đứng trước tận cùng.
Nhưng trong giây phút cuối, trong giờ này ủ rũ và trang nghiêm
Cho phép ta nhìn vào gương mặt của em, một khi ta chưa trở thành người khác
Một khi ta chưa biến mất. Hãy cho ta nhìn vào gương mặt của em! Còn sau đấy thì em sẽ nhìn kẻ khác
Nhưng em hãy nói với ta dù chỉ một lời, rằng em sẽ yêu đứa con
Đứa con trai, linh hồn và máu của ta: cái tên “cha” sẽ trao cho người khác.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Vĩnh biệt nhé, bạn bè! Ta ở quá xa để có thể làm cho bạn bè tin tưởng
Chỉ sự tò mò và mạnh dạn. Mặt đất mà các bạn chưa từ giã một lần, gọi là bền vững cho mình.
Hãy để lại những thứ gì ta đã nhận, như một món quà, như mạch nguồn của sự vui vẻ bất thình lình:
Hiểu biết về sự uổng công và cái chết của con người, chỉ có ở những ai cho rằng mình đang sống.
Tất cả vẫn còn đây: khôn ngoan và đần độn, trống rỗng và dày đặc.
“Cuộc sống tự do, khoa học và nghệ thuật…” Ô, những anh em này có còn ở trong ta?
Có cho phép ra đi, nếu tĩnh lặng các người không thể đem cho?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Tiền đề

Các bạn ở lại, chúng tôi đã lên tàu, những cánh cửa lúc này đóng chặt.
Không còn gì ngoài khói trên trời. Đừng đợi rằng chúng tôi sẽ còn quay lại trần gian.
Không còn gì ngoài mặt trời và nước của Chúa Trời, như trong buổi đầu tiên.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.
  

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:45:20





Mooris Maeterlinck (1862-1949) - nhà viết kịch, nhà thơ, nhà triết học người Bỉ viết bằng tiếng Pháp (tên đầy đủ là Count Maurice (Mooris) Polidore Marie Bernhard Maeterlinck).

Sinh ngày 29-8-1962 tại Ghent trong một gia đình khá giả, bố làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại học Luật Mooris Maeterlinck lên tu nghiệp về luật tại Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, kí, phê bình cho các báo và tạp chí như Nước Bỉ trẻ (La Jeune Belgique), La Wallonie. Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Cuộc tàn sát những kẻ vô tội; năm 1889 xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được một nhà phê bình Pháp rất có thế lực là O. Mirbau hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối... Năm 1895 M. Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. M. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt. Năm 1909 ông viết xong vở kịch Con chim xanh là một kiệt tác sân khấu của kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh, trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu.
Mooris Maeterlinck được trao giải Nobel Văn học nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Ông thường sử dụng thể loại cổ tích bởi vì cổ tích là biểu hiện sâu nhất và giản dị nhất của nhận thức tập thể, khơi dậy những cảm xúc con người. Kịch của ông thể hiện những hệ thống triết lý hình thành một cách trực giác. Mô típ cái chết thường xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông ở giai đoạn cuối mang thêm màu sắc của chủ nghĩa thần bí. M. Maeterlinck được coi là một trong những người khởi đầu của sân khấu kịch phi lí; các vở kịch của ông đến ngày nay vẫn được dàn dựng ở nhiều nước trên thế giới.
Trong Thế chiến I, ông xin vào dân quân nhưng không được chấp nhận vì quá tuổi và nhà văn đã thể hiện lòng yêu nước bằng hàng loạt cuộc nói chuyện tuyên truyền ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1939 Đức quốc xã đe dọa chiếm cả châu Âu Mooris Maeterlinck chạy sang Bồ Đào Nha, khi cảm thấy rằng Bồ Đào Nha cũng sẽ bị Đức chiếm, ông cùng với vợ sang Mỹ. Năm 1947 ông trở về Nice, Pháp.
Ngoài giải Nobel Mooris Maeterlinck được tặng huân chương Đại thập tự của vua Leopold (1920), huân chương Thanh kiếm của Bồ Đào Nha (1939) và được vua Bỉ phong tước hiệu Bá tước (1932). Ông mất ngày 6-5-1949 tại Nice, Pháp.

Tác phẩm:
*Cuộc tàn sát những kẻ vô tội (Le massacre des innocénts, 1886), truyện.
* Vườn kính (Serres chaudes, 1889), tập thơ.
*Công chúa Maleine (La princesse Maleine, 1889), kịch.
*Người đàn bà đột nhập (L'intruse, 1890), kịch
*Những người mù (Les aveugles, 1890), kịch
*Bảy nàng công chúa (Les sept princesses, 1891), kịch
*Pelleas và Mélisande (Pelléas et Mélisande, 1892), kịch
*Alladine và Palomides (Alladine et Palomides, 1894), kịch
*Cái chết của Tintagiles (La mort de Tintagiles, 1894), kịch
*Kho báu của những kẻ nhẫn nhục (Le trésor des humbles, 1896), luận văn mĩ học.
*Mười hai bài hát (Douze chansons, 1896), thơ
*Aglavaine và Selysette (Aglavaine et Selysette, 1896), kịch cổ tích
*Khôn ngoan và định mệnh (Le sagesse et la destinée, 1898), khảo luận triết học
*Đời sống loài ong (La vie des abeilles, 1900), khảo luận.
*Ariane và gã Râu Xanh (Ariane et Barbe-Bleue, 1901), kịch
*Monna Vanna (1902), kịch
*Ngôi đền vùi lấp (Le temple enseveli, 1902)
*Joyselle (1903), kịch
*Điều kì diệu của thánh Antoine (Le miracle de Saint-Antoine, 1903), kịch
*Trí tuệ của hoa (L'intelligence des fleurs, 1907)
*Con chim xanh (L'oiseau bleu, 1909), kịch
*Thị trưởng Stilemonde (Bourgmestre de Stilemonde, 1919)
*Miền tiên cảnh lớn (La grande féerie, 1924), tiểu luận
*Tai họa đã qua (Le malheur passe, 1925), kịch
*Đời sống của mối (La vie des termites, 1926), tiểu luận
¬*Đời sống không gian vũ trụ (La vie de l'espase, 1928), tiểu luận
*Đời sống loài kiến (La vie des fourmis, 1930), tiểu luận
*Quy luật vĩ đại (La grande loi, 1933), tiểu luận
*Trước mặt Chúa (Devant Dieu, 1937), tiểu luận
*Thế giới khác, hay khớp vũ trụ (L'autre monde ou le cardan stellaire, 1942), tiểu luận


 
 NẾU MỘT NGÀY

Nếu một ngày người ấy quay trở lại
Thì em biết nói gì với người ta?
- Hãy nói rằng chị đã chờ mòn mỏi
Đến một hôm, đã kiệt sức trông chờ…

Thế nếu như người ấy không nhận ra
Nếu như em bị người ta gặng hỏi?
- Em cứ lựa lời nói với người ta
Có thể người ta cũng đau buồn đấy…

Nếu người hỏi biết tìm chị nơi đâu
Thì biết nói sao cho người yên dạ?
- Chiếc nhẫn vàng của chị em hãy trao
Cho người ta, đừng nói thêm gì cả…

Nhưng nếu như người ấy hỏi em rằng
Sao không có lửa, sao nhà vắng vậy?
- Em hãy chỉ vào cánh cửa mở toang
Và ngọn đèn đã tắt cho người ấy…

Thế nếu như người ấy hỏi em rằng
Chị có buồn, chị có từng than thở
- Em hãy nói rằng chị đã cười lên
Để người ta vì chị mà đau khổ…


CHÀNG TRAI ĐÃ RA ĐI

Chàng trai đã ra đi
(Cửa rung lên – tôi biết)
Chàng trai đã ra đi
Nàng mỉm cười vĩnh biệt…

Chàng trai quay trở lại
(Đèn nói – tôi biết mà)
Chàng trai quay trở lại
Nhưng nàng đã đi xa…

Tôi nhìn ra cái chết
(Tôi biết tâm hồn chàng)
Tôi nhìn ra cái chết
Tôi đã lấy hồn anh… 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:48:35





Molière (tên thật là Jean-Baptiste Poquelin; 15 tháng 1 năm 1622 – 17 tháng 2 năm 1673) là nhà thơ, nhà viết kịch, nghệ sĩ người Pháp, người sáng tạo ra thể loại kịch cổ điển, một bậc thầy của kịch nghệ châu Âu. Molière là tác giả của những kiệt tác Le Misanthrope, L'École des femmes, Tartuffe ou l'Imposteur, L'Avare ou l'École du mensonge và Le Bourgeois gentilhomme.

Tiểu sử:
Molière sinh ở Paris, trong một gia đình làm thợ của triều đình rất lâu đời. Lên 10 mồ côi mẹ. Molière học ở Jesuit Clermont College (nay là Lycée Louis-le-Grand), là nơi học sinh phần nhiều học bằng tiếng Latin. Molière thông thạo Latin và đã dịch tác phẩm “Về bản chất sự vật” của Lucretius sang tiếng Pháp (bản dịch bị thất lạc). Năm 1639 học xong Jesuit Clermont College, năm 1639 – 1640 học luật tại Đại học Orleans. Molière không theo con đường của bố mà chọn nghề diễn viên. Năm 1643 thành lập nhà hát Illustre Théâtre và lấy bút danh Molière từ đây. Sau một số thất bại, nhà hát phải giải thể, Molière cùng với một số người còn lại đi về biểu diễn ở tỉnh lẻ. Để cạnh tranh với những đoàn kịch của Ý, Molière bắt đầu sáng tác những vở kịch cho đoàn của mình. Năm 1655, ông viết vở kịch thơ đầu tiên L’étourdi (Gàn dở) và năm sau, 1656 viết vở Le dépit amoureux (Bất hòa của tình yêu). Đến năm 1658 đoàn kịch của Molière trở thành đoàn kịch nổi tiếng nhất ở các tỉnh. Được sự ủng hộ của nhiều bá tước, trong số này có cả anh trai của vua Louis XIV, đoàn kịch của ông được mời biểu diễn ở Louvre và đã gây được tiếng vang. Sau đó đoàn kịch của ông thường xuyên được biễu diễn ở nhà hát Bourbon. Từ đây, Molière đoạn tuyệt với bi kịch và chỉ đóng hài kịch.
Năm 1672 ông bị ốm nặng, nhiều bạn bè của ông đã qua đời, quan hệ với nhà vua cũng có phần lạnh nhạt hơn trước. Năm 1672-1673 ông viết vở kịch cuối cùng Le Malade imaginaire (Bệnh giả tưởng), trở lại với đề tài thầy thuốc bịp bợm và những bệnh nhân cả tin. Ngày 17 tháng 2 năm 1673, trong một buổi tập vở kịch này ông bị ngã và sau đó mấy giờ đồng hồ ông qua đời. Nhờ sự can thiệp của nhà vua, ông mới được an táng theo nghi lễ của nhà thờ, vì lúc đầu bị giáo chủ từ chối.

Molière để lại một di sản vô cùng đồ sộ với hơn 30 vở kịch nhiều thể loại. Ông thường xuyên thể nghiệm, chuyển thể và sáng tạo ra những hình thức mới cho kịch. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống đương thời cũng như hiện tại: quan hệ của cha mẹ và con cái, hôn nhân và gia đình, giáo dục, đạo đức xã hội (thói hiếu danh, kiêu ngạo, thói giả nhân giả nghĩa…), những vấn đề về tôn giáo, văn hóa, khoa học vv… Molière sử dụng thực tế không chỉ của đời sống đương thời mà còn dùng nhiều tích từ thời cổ đại và của nhiều nhà viết kịch thời Phục Hưng. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến kịch nghệ không chỉ của Pháp mà của cả thế giới.

Tác phẩm:
*Le Médecin volant (1645)
*La Jalousie du barbouillé (1650)
*L'Étourdi ou les Contretemps (1655)
*Le Dépit amoureux (December 16th 1656)
*Le Docteur amoureux (1658)
*Les Précieuses ridicules (1659)
*Sganarelle ou le Cocu imaginaire (1660)
*Dom Garcie de Navarre ou le Prince jaloux (1661)
*L'École des maris (1661)
*Les Fâcheux (1661)
*L'École des femmes (1662)
*La Jalousie du Gros-René (1663)
*La Critique de l'école des femmes (1663)
*L'Impromptu de Versailles (1663)
*Le Mariage forcé (1664)
*Gros-René, petit enfant (1664)
*La Princesse d'Élide (1664)
*Tartuffe ou l'Imposteur (1664)
*Dom Juan ou le Festin de pierre (1665)
*L'Amour médecin (1665)
*Le Misanthrope ou l'Atrabilaire amoureux (1666)
*Le Médecin malgré lui (1666)
*Mélicerte (1666)
*Pastorale comique (1667)
*Le Sicilien ou l'Amour peintre (1667)
*Amphitryon (1668)
*George Dandin ou le Mari confondu (1668)
*L'Avare ou l'École du mensonge (1668)
*Monsieur de Pourceaugnac (1669)
*Les Amants magnifiques (1670)
*Le Bourgeois gentilhomme (1670)
*Psyché (1671)
*Les Fourberies de Scapin (1671)
*La Comtesse d'Escarbagnas (1671)
*Les Femmes Savantes (1672)
*Le Malade imaginaire (1673)



STANZAS

Anh muốn cắt ngang giấc ngủ của em
Hơi thở của anh bắt em rực lửa
Vì em ngủ quá nhiều, em yêu ạ
Khi không yêu người ta ngủ nhiều chăng?

Em đừng sợ: không đến nỗi cực hình
Chuyện yêu đương, bệnh tình không đáng sợ
Khi yêu nhau thì trong từng hơi thở
Ta tìm ra phương thuốc chữa bệnh tim.

Tình là bệnh, một khi đem giấu tình
Hãy thừa nhận: sẽ thấy đời bỗng nhẹ
Đừng bí ẩn, tình không cần như thế
Nhưng mà em lo ngại, sợ thần linh!

Đâu nhẹ hơn em tìm thấy cho mình?
Vòng tù hãm lẽ nào em nguyền rủa
Hay tại vì em từng yêu nhiều quá
Không còn sức để thừa nhận cùng anh?

Anh van em, xin em hãy buông tha
Tranh cãi với tình chẳng còn dấu vết!
Em hãy yêu khi xuân còn khoe sắc
Năm tháng trôi đi không trở lại bao giờ.
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 18:59:41





Pierre de Ronsard (11 /9 /1524 – 27 /12 /1585) – nhà thơ Pháp thời Phục hưng, chủ soái của nhóm thơ La Pleiade (Thất tinh), là nhà thơ có sự ảnh hưởng đến sự phát triển của thơ ca Pháp hai thế kỉ sau đó.

Tiểu sử:
Pierre de Ronsard sinh ở Manoir de la Possonnière. Học ở Collège de Navarre, Paris, trở thành thị đồng của các con trai rồi các con gái của vua Francis I. Sau đó ông làm thư kí cho Lazare de Baïf, được sang Scotland và Anh. Trong lần đi sang Anh, ông làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng nhưng cũng trong thời gian này ông bị bệnh nặng, tai bị điếc. Kể từ đây ông tập trung sức lực cho thơ ca.
Ronsard làm thơ nhiều thể loại nhưng nổi tiếng nhất là những bài thơ tình viết về những người đẹp. Chính những tập thơ tình này mang lại vinh quang cho ông thời đó và vẫn rất nổi tiếng đến ngày nay. Trong thơ của Ronsard có rất nhiều phụ nữ nhưng có ba người nổi tiếng nhất: Cassandre, Marie, Helene. Đấy là những người phụ nữ trong đời thực chứ không phải là những nhân vật tưởng tượng. Năm 20 tuổi Ronsard gặp người đẹp Cassandre, rồi sau đấy chỉ gặp lại có một lần, vậy mà nhà thơ đã viết tặng người đẹp này Le Premier Livre des Odes (Quyển thơ tình thứ nhất) gồm hơn 400 bài thơ. Le deuxième Livre des Odes (Quyển thơ tình thứ hai), nhà thơ viết về người con gái có tên là Marie. Marie là một thôn nữ. Hình tượng Marie không còn cái vẻ đài các quí tộc như Cassandre mà giản dị, gần gũi hơn. Những năm tháng ở tuổi trung niên nhà thơ lại choáng váng vì một mối tình với người đẹp Helene, một cô gái quí tộc trẻ hơn nhà thơ 30 tuổi. Ngoài đời thực Helene là một cô gái xinh đẹp, kiêu kỳ và đỏng đảnh. Pierre Ronsard đã dành tặng người đẹp này, như ông viết, “một Odyssey bằng thơ sonnet”.
Ronsard là người thổi một luồng gió mới vào thơ ca Pháp. Ông là người đầu tiên đưa thiên nhiên và tình yêu vào thơ ca, đồng thời là người đổi mới hình thức lẫn ngôn ngữ thơ. Các nhà phê bình gọi Ronsard là ông tổ của thơ trữ tình Pháp. Thơ tình của Pierre Ronsard được dịch nhiều ra tiếng Việt trong thời gian gần đây.

Tác phẩm:
*Odes, 1550-1553
*Amours (Thơ tình, 1552)
*Continuations des Amours (Tiếp tục vẫn thơ tình, 1555)
*La Franciade, 1572, trường ca sử thi
*Sonnets pour Helene (Những bài sonnet gửi Helene, 1578)
Các tuyển tập tác phẩm:
*Oeuvres, 1560
*Œuvres complétes, t. 1-18, P., 1914-67
*Œuvres complètes, [v. 1-2, P., 1958
*Ronsard poéte lyrique, 3 éd., P., 1932
*Ronsard fra ali astri delle Pleiade, Torino



TÌNH YÊU VÀ CHIẾN TRANH

Thần tình yêu cũng giống thần chiến tranh
Cả hai thần đều sống nhờ trận mạc.
Một can đảm giữa thanh thiên bạch nhật
Một thần kia đi bí mật đường mình.

Một thần hiên ngang đánh chiếm tung hoành
Còn thần kia chỉ chui vào lặng lẽ
Cả hai thần không sợ gì xấu hổ
Đã thế còn vật chiếm được coi khinh.

Một thần giương cung để bắn người tình
Thần giương cung bắn kẻ địch của mình
Thần yêu nước, thần kia yêu nước mắt

Cả người lính, người tình đều khao khát
Đều nóng lòng muốn được lập chiến công
Muốn đánh nhau đến hơi thở cuối cùng.




KHỔ SỞ VÌ YÊU

Một buổi chiều khi còn lại mình em
Ngồi lặng lẽ trầm ngâm em mơ ước
Em nghĩ gì chỉ có trời biết được
Có vẻ như trong giấc mộng êm đềm.

Trong lặng yên anh đáp lại tình em
Muốn xua đi nỗi buồn em yêu mến
Dù sợ hãi vẫn nhà em anh đến
Nhưng giọng run run đã phản bội anh.

ánh mắt của em anh chẳng dám nhìn
Trước mặt em anh chỉ biết lặng im
Nhưng tay chân lại vô cùng lóng ngóng

Và hơi thở tưởng chừng như đứt quãng
Chỉ nỗi buồn và gương mặt xanh xao
Muốn nói rằng anh khổ sở biết bao.


TÌNH KỲ DIỆU

Ôi tình yêu, tình kỳ diệu biết bao
Bên người yêu chẳng lúc nào im bặt
Tôi nói hết chuyện trên trời, dưới đất
Dẫu suốt đêm cũng không chán tý nào

Nhưng bỗng nhiên có ai đấy ghé vào
Thì lời nói, nghĩ suy liền đổi khác
Câu lẫn lộn, ý tứ bay đâu mất
Lưỡi cứng đờ, lời ấp úng, nghẹn ngào.

Khách ra đi tôi trở lại lúc đầu
Dễ đùa vui, nói năng nghe hoạt bát
Dễ tìm ra những lời âu yếm nhất

Tôi vội vàng đi kể chuyện cho em
Chỉ hai người dù ngồi đế trăm năm
Và thấy tiếc dù rời nhau chốc lát.





SAO EM XUA ĐUỔI TÌNH YÊU

Chẳng lẽ em lại tàn nhẫn thế sao?
Xua đuổi tình, em không hề vui vẻ
Em hãy nhìn – dù sang bầy chim sẻ
Chim ác là hay sáo đá, bồ câu.

ánh bình minh lo thức dậy cho mau
Để vuốt ve ngày dài thêm một chút
Cây tơ hồng bám chặt vào cây cột
Sông, biển, rừng đều nhắc đến tình yêu.

Chú bé chăn trâu từ sáng đến chiều
Chỉ hát hoài một bài hát tình yêu.
Ai cũng yêu, tất cả đều vui vẻ

Ai cũng muốn nhận về và mong chia sẻ
Vậy thì sao em một mực khăng khăng
Xua đuổi tình yêu, em không chịu đầu hàng?


NẾU ANH LÀ THẦN

Nếu anh là thần thì em sẽ là tiên
Trước cung điện gọi về con sóng dữ
Anh gọi em là nàng tiên bất tử
Khoác lên đầu vương miện của đại dương.

Nếu anh là vua thì em sẽ bà hoàng
Trên kiệu vua nghe những lời khen ngợi
Ngựa phóng nhanh từ đâu cơn gió nổi
Mái tóc vàng để ngọn gió mơn man.

Nhưng anh không là vua, không phải thánh thần
Anh sinh ra là để phụng thờ em
Mọi lời em với anh đều đúng cả

Em là nỗi đau, là cuộc đời anh đó
Hãy yêu anh cho anh trở thành thần
Trở thành ông vua hạnh phúc, giàu sang.


TÌNH LÀ CUỘC CHIẾN TRANH

Biết bao lần ta đã giận hờn nhau
Rồi làm lành nhưng rồi ta lại vẫn
Thương rồi giận, kẻ chủ trò nghịch ngợm
Thần tình yêu công và tội như nhau.

Và cứ lặp đi, lặp lại thật nhiều
Gần rồi xa, bằng lòng rồi từ chối
Rồi cam kết chỉ trong giờ ngắn ngủi
Tất cả là triệu chứng bệnh tình yêu.

Ông trời đan xen từ thuở xa xưa
Mâu thuẫn tình yêu không thiếu, không thừa
Giận và thương tất cả đều bình đẳng

Cùng hoà quyện hy vọng và thất vọng
Tình yêu qủa là một cuộc chiến tranh
Khốc liệt, dài lâu rồi lại hoà bình.





GIỌNG TÌNH YÊU

Ngày hôm qua em bảo với tôi rằng
Em không thích những bài thơ bóng bẩy
Những bài thơ lạnh lẽo mà trong đấy
Không có van nài, tuyệt vọng, đau thương.

Lúc rảnh rang thường em vẫn thích hơn
Những câu thơ của tôi đầy ai oán
Bởi giọng tình yêu đớn đau, sầu thảm
Gợi cho em những cao thượng trong hồn.

Như cạm bẫy những lời em lôi cuốn
Quên giận hờn tôi đi tìm đồng cảm
Nhưng mà tôi trả giá cuộc đời mình

Để trên thơ từ đôi mắt gượng gạo
Sẻ rỏ xuống giọt nước mắt cá sấu
Trước khi lấy đời của kẻ cả tin.


VỘI HÁI NỤ HOA ĐỜI

Khi mà em đã về gặp tuổi già
Ngồi một mình buổi chiều bên lò sưởi
Em đọc những dòng thơ và nhớ lại:
“Những ngày xưa thơ đã viết Ronsard”.

Và tôi như nhà thi sĩ tài hoa
Cho nữ tỳ đem tên tôi khen ngợi
Em không ngủ và em quên mệt mỏi
Nghe những lời ca tụng của người ta.

Còn tôi ngủ yên giấc ngủ muôn đời
Tình chỉ là sự quên lãng mà thôi
Nhưng còn em những đêm dài không ngủ

Em buồn rầu nhớ lại những lời tôi.
Chớ miệt thị tình yêu mà hãy nhớ
Giữa mùa xuân vội hái nụ hoa đời.


NÀNG THƠ

Chia tay em tôi ngơ ngẩn làm sao
Trên cổ tôi ai đặt vào gánh nặng
Dù tôi cố hết sức ra tôi quẳng
Nhưng thiên nhiên người lại lấy đặt vào.

Thiếu tình yêu – tôi tấm vải nát nhàu
Chỉ yêu vào tôi thấy người khoẻ mạnh
Lòng rộn ràng và nàng thơ lại đến
Lại xôn xao những ý nghĩ trong đầu.

Nguồn cảm hứng cho Ronsard sáng tạo
Sẽ còn mãi đến muôn đời con cháu
Thề có trời, tôi chỉ hát về em!

Gương từ xưa người đời mãi không quên
Sắc đẹp và phẩm hạnh của Helène(1)
Từng cảm hứng cho Hôme sáng tạo.
----------------------
(1)Người con gái từng là nguồn cảm hứng cho Ronsard viết hàng trăm bài Sonnê có tên là Helène. Thời cổ đại Helen of Troja được thừa nhận là người có sắc đẹp thiên thần mà sự bắt cóc nàng đã trở thành nguyên nhân của cuộc chiến Tơ-roa được Hôme mô tả trong Ôđixê và Iliát.




GỬI AMADIS JAMYN(1)

Ba thời gian từ lúc ta sinh ra
Có hiện tại, tương lai và quá khứ
Ngày mai, than ôi! - biết gì đâu chứ
Tốt nhất đừng thiên kiến, chớ đoán mò.

Hôm qua đã đi như một giấc mơ
Và mãi mãi không còn quay về nữa
Chưa đến tương lai, không còn quá khứ
Chỉ mình ta làm chủ phút giây này.

Hãy nắm bắt, hãy biết sống hôm nay
Bởi thời gian vút qua như chiếc bóng
Bên chén rượu, quây quần quanh bè bạn

Một lần thôi hãy quý phút giây này
Hãy hát tình yêu, uống rượu và vui
Xua chiến tranh, nỗi buồn và cay đắng.
___________
(1)Amadis Jamyn (1538-1592) – nhà thơ Pháp.


EM ĐỪNG GIẢ TẢNG

Để người ta kiên nhẫn phụng thờ em
Em hãy yêu chứ em đừng giả tảng
Cho ngọn lửa tình yêu bừng toả sáng
Và lời yêu sẽ thành thật cất lên.

Em hãy vui tươi, ngoan ngoãn, dịu hiền
Trả lời thư và hỏi thăm tình cảm
Còn ở nơi thư và lời bị cấm
Thì mắt nói thay tình cảm của em.

Ngày một trăm lần xem trộm tấm hình
Rồi hôn lên, rồi ép vào trong ngực
Hồn và xác hai người hoà làm một

Biết dõi theo từng nhịp đập con tim
Để tình yêu thực sự sẽ nảy mầm
Chứ không phải chỉ yêu trong tưởng tượng.


THỨ ĐỒ KHÔNG BỀN VỮNG

Một bó hoa tươi tôi gửi cho nàng
Những bông hoa đã qua giờ đẹp nhất
Giá mà tôi ngày hôm nay không ngắt
Thì ngày mai hoa cũng sẽ héo tàn.

Nhắc cho nàng nghĩ đến cách hoa tươi
Rằng sắc đẹp thứ đồ không bền vững
Ngày hôm nay dù lung linh toả sáng
Vẫn qua mau như mọi thứ trên đời.

Cuộc đời trôi, cuộc đời trôi, ma Dame
Không phải đời! Ta trôi qua thời gian
Lòng âu yếm ở đời không khỏi chết.

Ta đem cản lại thời gian khắc nghiệt
Những đêm thanh ta dâng hết cho tình
Hãy yêu nhau ta đang có ngày xanh.




CÁI ĐẸP

Vũ khí mỗi loài được trời ban tặng:
Chim đại bàng – mỏ cong, đôi cánh mạnh
Trâu có sừng, ngựa có móng guốc kêu
Thỏ chạy nhanh, rắn lục có nọc nhiều
Loài cá bơi trời cho vây, cho vảy
Loài sư tử cho nanh to, vuốt khoẻ
Còn đàn ông trời cho sự khôn ngoan
Nhưng sự khôn ngoan phụ nữ không cần
Mà chiếm ta bằng đội quân hùng hậu
Cho sắc đẹp – mạnh hơn gươm, hơn giáo.
Thảy chúng ta trước cái đẹp nghiêng mình
Mạnh hơn con người, lửa, thép, thần tiên.


CÁI CHẾT

Giá mà ta có thể mua cái chết
Giá thời gian gia hạn được bằng vàng
Thì ý nghĩa cuộc đời ta đem giết
Ta chỉ cần quyền lực với giàu sang.

Để số phận với đời không trục trặc
Kéo thời gian theo ý muốn như là
Để cái chết ta đem tiền mua chuộc
Không mang hồn ta ra khỏi xác ta.

Nhưng tiền bạc không làm điều này được
Để kéo dài thêm dù chỉ một giờ
Thì ý nghĩa cả đời lo cóp nhặt
Rồi chất vào một đống để cho ma?

Nên bởi thế kiến thức và sách vở
Còn hơn những đồng tiền rỗng lanh canh
Sách sẽ vượt qua thời gian nghiệt ngã
Cuộc đời nhà thơ từ đó hồi sinh.
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:03:51





Fredéric Mistral (1830-1914) – nhà thơ Provence (Pháp), giải Nobel Văn học 1904.
 
F. Mistral sinh ngày 8 tháng 9 năm 1830 tại làng Maillane, Pháp, giữa Avignon và Arles của thung lũng sông Rhône. Ông lớn lên giữa khung cảnh thiên nhiên kỳ diệu của quê hương, giữa những người dân quê và ông sớm quen với công việc của họ. Bố ông là một trại chủ giàu có, người toàn tâm toàn ý với những phong tục của đức tin và tổ tiên. Mẹ ông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ của ông qua những bài hát và truyền thống quê hương. Trong suốt thời gian theo học ở Avignon, cậu bé đã đọc những tác phẩm của Homer và Virgil, những tác phẩm đã tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn ông. Một trong các giáo sư, nhà thơ Joseph Roumanille, đã thổi vào ông tình yêu tha thiết đối với tiếng mẹ đẻ, tiếng Provence. Năm 1851 ông tốt nghiệp Đại học rồi dành toàn bộ thời gian của mình cho sự nghiệp văn học. Năm 1854 ông cùng với sáu nhà thơ khác đã sáng lập Félibrige - Hiệp hội Hỗ trợ Phát triển Ngôn ngữ và Văn học Provence, xuất bản tạp chí Almanach Provence cùng Joseph Roumanille. Suốt đời F. Mistral hoạt động không mệt mỏi cho Félibrige và mơ ước phục hồi nền văn học và ngôn ngữ Provence.
Năm 1859 ông xuất bản thiên trường ca Miréio, viết về một cô gái thôn quê ngoan ngoãn và xinh đẹp không thể lấy được người mình yêu vì bố cô không đồng ý. Tuyệt vọng, cô trốn nhà đến nương nhờ tại một nhà thờ nơi hành hương của những người theo đạo Three Saint Marys trên đảo Camargue, vùng châu thổ sông Rhône. Tác giả đã kể lại một cách quyến rũ tình yêu trẻ trung của cô gái và mô tả bằng nghệ thuật bậc thầy cuộc chạy trốn của cô qua cao nguyên Crau lởm chởm đá. Kiệt sức vì cái nắng như thiêu như đốt của vùng Camargue, cô gái trẻ bất hạnh cuối cùng cũng đến được nhà thờ để chết. Nơi đó, trong ảo ảnh, ba vị thánh Mary đã hiện lên trước mắt cô đúng lúc cô trút hơi thở cuối cùng. Bi kịch tình yêu này được nhiều nhà thơ lớn của nước Pháp đánh giá cao. A. Lamartine vốn là một người luôn cẩn trọng vẫn bị quyến rũ bởi những tác phẩm hay, đã viết: “Một nhà thơ vĩ đại đã ra đời". Ông so sánh thơ của F. Mistral với một hòn đảo trong quần đảo, một Delos trôi nổi đã phải tự tách mình ra khỏi quần thể để âm thầm đến với Provence ngát hương. Năm 1875 F. Mistral xuất bản tập thơ Những hòn đảo vàng, gồm những bài thơ trữ tình bất hủ. Cuốn từ điển Provence - Pháp Kho báu Félibrige là tác phẩm độc đáo của ông, mang tính bách khoa thư, chứa đựng những kiến thức phong phú về phương ngữ, văn học dân gian, phong tục tập quán, tín ngưỡng của một nền văn hóa. Năm 1890 ông hoàn thành vở kịch duy nhất của mình là Nữ hoàng Jano.
Năm 1904, năm thứ 50 của phong trào Félibrige, F. Mistral nhận giải Nobel (cùng với nhà viết kịch Tây Ban Nha J. Echegaray) vì lí tưởng cao cả và những cống hiến lớn lao cho sự phục hồi tinh thần dân tộc. Ông đã dùng tiền của giải thưởng Nobel lập Bảo tàng Văn hóa Dân gian Provence.
F. Mistral mất ngày 25-3-1914 do bị cảm lạnh khi đang nghiên cứu văn khắc trên quả chuông nhà thờ Mainllane, để lại những câu thơ khiến người ta nghĩ rằng: các nền văn minh có thể chết nhưng không bao giờ biến mất. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

Tác phẩm:
*Miréio (1859), trường ca
*Calendau (1867), trường ca
*Những hòn đảo vàng (Lis isclo d'or, 1876), tập thơ
*Nerto(1884), thơ.
*Kho báu Felibrige (Lou tresor dóu Félibrige, 1878-1886), từ điển
*Nữ hoàng Jano (La Rèino Jano, 1890), kịch
*Trường ca sông Rhone (Lou Pouèmo dóu Rhone, 1897), trường ca
*Hồi kí Mistral (Moun espelido: memori è raconte, 1906), hồi kí
* Mùa thu hoạch oliu (Les oulivado,1912), tập thơ



MAGALI

- Ôi Magali, ôi thiên thần của anh
Hãy thức dậy và nhìn ra cửa sổ
Tiếng lục lạc của anh đang kêu đó
Cùng với tiếng vĩ cầm.
Trời đầy sao và đợi ánh bình minh
Nhưng mà em hãy hiện
Những vì sao sẽ trở thành màu xám
Khi đứng trước em.

“Hãy để tôi yên cùng với cây đàn
Tôi không yêu những lời dại dột
Còn nếu không, tôi như con cá chạch
Sẽ lặn vào giữa sâu thẳm màu xanh”.
- Ôi Magali, Magali của anh
Nếu mà em trở thành con cá chạch
Thì anh sẽ làm người đi câu bắt
Và em sẽ là của anh.

“Nhưng một khi vằng lưới anh chưa buông
Thì tôi đã thành con chim bay vào bụi
Và sẽ mỉm cười anh đau khổ với
Đống vằng lưới của anh”.
- Ôi Magali, nếu như em trở thành
Con chim bay vào bụi
Thì anh làm người săn chim cùng với lưới
Và em sẽ là của anh.

“Thì khi đó tôi cất cánh bay cao
Và sẽ hoá thành đám mây, xa thẳm
Tôi sẽ bay về nơi cuối tận
Theo gió, đuổi những con tàu”.
- Ôi Magali, nếu em theo ngọn gió
Bay về chốn xa xăm
Thì anh sẽ hoá thành bão tố
Và em sẽ là của anh.

“Trước bão tố tôi sẽ không đầu hàng
Đã có mặt trời che chở
Nơi đó tôi cháy như ngọn lửa
Và toả ánh hào quang!”
- Nếu em thành ánh sáng, Magali của anh
Thì anh sẽ hoá thành con rắn biển
Dưới ánh mặt trời anh sưởi ấm
Và em sẽ là của anh.

“Không ánh sáng, chẳng lửa hồng
Sẽ không trao cho con rắn
Tôi sẽ hoá thành trăng lạnh
Sẽ bơi trên mặt đất ngủ mơ màng…”
- Ôi Magali, nếu em hoá thành trăng
ánh trăng trong đêm vắng
Thì anh sẽ hoá thành làn sương mỏng
Và em sẽ là của anh.

“Lời gian dối không thể chiếm được tôi
Tôi sẽ tìm ra lối thoát
Sẽ hoá thành một rừng cây
Và sẽ đeo vỏ cây bì lên mặt…”
- Ôi Magali, Magali, em cứ việc
Cứ là một rừng xanh
Còn anh sẽ là dây trường xuân quấn chặt
Và em sẽ là của anh.

“Tôi sẽ vào tu viện, theo con đường
Thoát cõi đời lăng xăng, bận rộn
Để sống trong nghiêm khắc, lặng yên, màu trắng
Giữa lời nguyện cầu và sự trắng trong…”
- Ôi Magali, nơi đó em trở thành
Một Nàng dâu của Chúa
Còn anh sẽ thành cái bàn hầu hạ
Và em sẽ là của anh.

“Không! Nếu bằng sức mạnh hoặc láu lỉnh, tinh ranh
Mà người ta cho anh vào tu viện
Thì sẽ thấy một nấm mồ khói hương bay quyện
Và cây thập ác, mô đất mới đắp lên!”
- Ôi Magali, nếu em cứ giấu mình
Trong ngôi mồ bí ẩn
Thì anh đây sẽ đi về đất lạnh
Để em sẽ là của anh.

“Khoan, đừng vội đi đâu… em sẽ ra ngoài hiên
Để cho, không một ai nghe thấy
Chiếc nhẫn pha lê này, anh cầm lấy
Và hãy đừng quên, đừng phụ tình em…”
- Ôi Magali của anh!...
Bây giờ em hãy nhìn
Con tim này này mở rộng
Những vì sao sẽ trở thành màu xám
Khi đứng trước em!
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:06:49





Sully Prudhomme tên thật là René Francois Armand Prudhomme, sinh ngày 16/3/1839. Bố mất lúc S. Prudhomme lên hai tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông cùng mẹ và chị gái chuyển đến sống với một người chú. Năm lên 8 tuổi vào học trường Lycee Bonapart. Cậu bé học giỏi toán, say mê ngôn ngữ và thơ Pháp. Từ năm 1860, đã phải tự đi làm nhiều nghề kiếm sống, buổi tối về nghiên cứu triết học và làm thơ. Năm 1865 in tập thơ đầu tay ký bút danh Sully Prudhomme (tên bố) được đánh giá cao. Năm sau, một nhà xuất bản in thơ của ông vào tập Parnasse ngày nay (Le Parnasse contemporain) - một thứ tuyên ngôn của các nhà thơ nhóm Parnasse phản đối lại trường phái lãng mạn. Năm 1870, nổ ra chiến tranh Pháp - Phổ, ông tự nguyện gia nhập dân quân. Những túng thiếu, vất vả trong thời kỳ quân Phổ phong tỏa Paris khiến sức khỏe đã yếu của ông càng thêm trầm trọng, ông bị liệt và phải cắt hai chân sau khi cuộc phong tỏa chấm dứt. Trong thời kỳ chữa bệnh, ông vẫn viết thơ ái quốc (ấn tượng chiến tranh, 1870), cổ vũ thơ truyền thống, phản đối thơ tự do, chủ nghĩa tượng trưng, suy đồi (Di chúc thơ, 1900). Năm 1888 ông xuất bản trường ca Hạnh phúc, gồm 4000 câu thơ, khẳng định hạnh phúc có thể đạt được nhờ sự ham học hỏi, nhờ khoa học, nhờ lòng thiện và sự hy sinh. Năm 1901 S. Prudhomme trở thành người đầu tiên trên thế giới được trao giải Nobel “vì những giá trị văn chương xuất sắc, chủ nghĩa lí tưởng cao cả, nghệ thuật hoàn thiện và sự kết hợp tuyệt vời giữa tình cảm và tài năng”.
Sully Prudhomme mất tại nhà riêng ở ngoại ô Paris ngày 7/9/1907. Tên tuổi Sully Prudhomme còn nổi tiếng là người dùng tiền của giải thưởng Nobel lập ra một giải thưởng dành cho các nhà thơ trẻ nước Pháp.

Tác phẩm:
- Tứ tuyệt và các bài thơ (Stances et poèmes, 1865), thơ.
- Thử thách (Les épreuves, 1866), thơ.
- Những phác thảo về Italia (Croquis Italiens, 1866-1868), thơ.
- Nỗi cô đơn (Les solitudes, 1869), thơ.
- ấn tượng chiến tranh (Impression de la guerre, 1870), thơ.
- Nước Pháp (Le France, 1870), thơ.
- Định mệnh (Les destins, 1872), thơ.
- Loài hoa nổi loạn (La révolte des fleurs), thơ.
- Lòng dịu dàng hoài phí (Les vaines tendresses, 1875), thơ.
- Hạnh phúc (Le bonheur, 1888), trường ca.
- Công lí (La justice, 1888), thơ.
- Di chúc thơ (Le testament poétique, 1900), tiểu luận.
- Tôn giáo đích thực theo Pascal (La vraie religion selon Pascal, 1905), khảo luận.
- Vấn đề mục đích cuối cùng (Le problème des causes finale, 1906), khảo luận.
- Tâm lí của sự tự do lựa chọn (Psychologie du libre arbitre, 1906), khảo luận.
- Phiêu bạt (Les epaves, xuất bản năm 1908), thơ.


BÌNH VỠ

Trong chiếc bình này bông hoa đã héo
Quạt nan của ai chạm đến vô tình
Trong khoảnh khắc, chỉ chạm vào rất khẽ
Và không ai còn nhớ đến quạt nan.

Nhưng vết rạn không thể nhìn bằng mắt
Trên lớp kết tinh đọng lại quanh bình
Và có vẻ dài theo từng giờ khắc
Trên chiếc bình vết rạn cứ dần loang.

Còn nước, giống như nước mắt bất lực
Nước theo nhau, từng giọt nhỏ trên sàn
Những cánh hoa đã vỡ ra tan tác
Treo lòng thòng, nhìn chúng thấy buồn hơn.

Tôi ngắm nhìn chiếc bình mà không thể
Không nhận ra bất hạnh giấu trong bình
Sao không ai kêu với tôi đau khổ:
Đừng động vào – bình đã vỡ rồi em!

Rất thường khi những bàn tay âu yếm
Chạm vào tim mà không để ý nhìn
Do không biết hay là do buồn chán
Nhưng không điều gì có thể bỏ quên:

Con tim nhớ, gom những gì tim sợ
Và xót xa đem chia sẻ từng phần
Như bông hoa từ chiếc bình đã vỡ
Nỗi đam mê như hoa đã héo hon.

Em không thể thấm sâu bằng con mắt
Xuyên vào tim, nơi vết rạn trùm lên
Rằng tim khóc bằng máu và nước mắt
Đừng động vào bởi đã vỡ con tim.





GIỐNG NHAU

Nếu em muốn biết được vì sao anh
Lại yêu em chân thành, tha thiết vậy?
Em yêu ạ, anh yêu em là bởi
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.

ánh mắt em đầy hy vọng nhưng buồn
Tỏa ánh sáng chói ngời như tia chớp
Trong lòng em ngập tràn bao mơ ước
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.

Thân hình em kì diệu và mong manh
Như người đẹp thành Tơ-roa thuở trước
Vẻ lộng lẫy trên mái tóc, trên ngực
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.

Tình yêu chân thành, tha thiết cháy lên
Mỗi giây phút lời “yêu em” anh nói
Nhưng em bước đi, không thèm ngoái lại
Em giống như thời tuổi trẻ của anh.


GIỌT SƯƠNG

Ta nhìn thấy, rất buồn bã trong mơ
Những giọt sương lấp lánh trên đồng cỏ
Bàn tay lạnh của đêm đen đã thả
Những giọt sương lên những cánh hoa.

Những giọt sương rơi xuống từ đâu vậy?
Không mây mù, nơi ấy chẳng hề mưa.
Thì ra trước khi lấp lánh trên hoa
Trong không khí sương đã từng run rẩy.

Những giọt lệ từ đâu trong đôi mắt?
Giữa trời xanh không một dấu vết buồn.
Thì ra trước khi ánh lên trong mắt
Dòng lệ đã từng ấp ủ trong tim.

Đời vẫn thế, bóng giấu mình trong ngực
Nước mắt mơ màng, run rẩy trong tim
Và ngay cả những ngày vui, hạnh phúc
Những giọt lệ buồn vẫn cứ trào dâng.

 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:11:11





Saint-John Perse (1887-1975), nhà thơ, nhà ngoại giao Pháp, giải Nobel Văn học 1960. Sinh ngày 31-5-1887 tại một hòn đảo nhỏ gần Guadelupa, vùng biển Caribe. Học luật và kinh tế chính trị, ông phục vụ trong ngành ngoại giao Pháp. Năm 1940, do phê phán chính sách thân Hitler của giới cầm quyền Pháp, ông bị cách chức, bị tước quyền công dân, chức tước, phần thưởng và tịch thu tài sản. Saint-John Perse chạy sang Mỹ, bắt đầu một thời kỳ lưu đày - như tên gọi một tác phẩm nổi tiếng của ông. Từ năm 1941 tới 1945, Saint - John Perse là cố vấn văn học cho Thư viện Quốc hội Mỹ. Sau Thế chiến II, ông được phục hồi tư cách công dân và chức tước nhưng không quay trở lại nghề ngoại giao, xin về hưu và sống thường xuyên ở Mỹ.
Sait-John Perse là bút danh của nhà ngoại giao Alexis Saint Leger. Phần đầu của bút danh này: Sait-John - là cách viết bằng tiếng Anh của Thánh Giăng (Thánh tông đồ) – người được coi là tác giả của Kinh Phúc âm IV, sách Khải Huyền và ba lá thư trong Tân Ước. Phần sau: “Perse” - đấy là họ của nhà thơ trào phúng La Mã Aulus Persius Flaccus (34-62), người cùng thời với Hoàng đế Neron. Cách chọn bút danh này cho thấy thái độ của nhà thơ đối với văn minh đương thời đi cùng với di sản văn hoá của qúa khứ trong mục đích và sáng tạo của mình.
Tác phẩm văn học đầu tiên của ông là Tụng ca (viết năm 1910). Năm 1924 ông viết trường ca Anabase được T.S. Eliot chuyển ngữ sang tiếng Anh. Nhiều tác phẩm của ông được viết sau khi ông định cư ở Mỹ như Lưu đày (1942), Bài thơ về người phụ nữ nước ngoài (1943), Mưa rào (1943)...
Các nhà phê bình gọi Sait-John Perse là “nhà thơ của mọi nhà thơ” vì tính đa dạng, phong cách trang trọng, ngôn ngữ mang tính văn chương cao của thơ ông. Tác phẩm của Sait-John Perse mở ra trước mắt ta một thế giới kỳ lạ - thế giới của đại dương bao la, thế giới của những nền văn minh cổ đại, thế giới của những người du mục, những người đi chinh phục, những nhà thơ, những nhà tiên tri… với những lời kêu gọi hướng tới những hành động cao cả của con người. Những lời kêu gọi này luôn cao thượng và mang đầy chất nhân văn nhưng cũng rất bí ẩn. Một số trường ca của Sait-John Perse đã được dịch sang tiếng Việt.
Năm 1960 Sait-John Perse được tặng giải Nobel Văn học. Ông mất ngày 20-9-1975 tại Pháp.

Tác phẩm:
- Tụng ca (éloges, 1910).
- Tình bạn của hoàng tử (Amitié du prince, 1924), trường ca.
- Anabase (1924), thơ.
- Lưu đày (Exil, 1942), trường ca.
- Bài thơ tặng người phụ nữ nước ngoài (Poème à l'etrangère, 1943), thơ.
- Mưa rào (Pluies, 1943), thơ.
- Tuyết (Neiges, 1944), thơ.
- Gió (Vents, 1946), thơ.
- Những mốc trên biển (Amers, 1957), thơ.
- Biên niên sử (Chronique, 1960), thơ.
- Chim (Oiseaux, 1963), thơ.


 
 MƯA RÀO
(Trích)


I

Mưa rừng ngập mặn trải vòm lá của rễ cây trên Thành phố
San hô sữa nhân lên trong sương nòi giống của mình
Một ý nghĩ trần truồng, giống như đấu sĩ của thành Rôm(1), dưới nước mưa tuôn, mái tóc đuôi sam dập dờn, dương dương tự đắc.

Trường ca hãy hát lên dưới tiếng kêu quang quác và tiếng thanh la não bạt của đề tài
Trường ca hãy hát lên sau tiếng bước chân rầm rập, dưới dây cương co giật của đề tài
Quyền của ngươi – là quyền đêm tân hôn của những Người phụ nữ Tiên tri trinh bạch.

Kén vàng vỡ ra và chìm vào tổng trấn đen mờ mịt, trong màu xanh của vũng nước đêm
Còn trên chiếc gối êm, trong khoảnh khắc của mắt nhìn, trên ấm áp của bìa rừng, đôi mắt ai mơ màng, thiu thiu ngủ
Đã tung ra bốn phía, đã vần xoay quay trở, đã lột truồng không hề xấu hổ hoa hồng của trường ca.

Chúa Trời vĩ đại, tiếng cười chúa tể, mặt đất bốc khói trên ổ gian phi của gió, tựa hồ như thịt mỡ của heo rừng
Còn đất sét cô đơn dưới ve vuốt dịu dàng của những cơn mưa vô tội, và đồng nội dưới những đôi chân trần không ngủ suốt đêm
Bọt của sương, nước ngầm như rượu vang, những linh hồn đất cát và rượu thuốc trường sinh của sự lãng quên.

Thần thánh thiêng liêng, Chúa Trời vĩ đại, tiếng cười chúa tể, và đây là đất đai để cày cấy gieo trồng
Và ở đây tiếng vọng cả một đoàn đi vào buổi xấu trời trong năm, đi khỏi cơn giận của biển cả, đại dương
Ở đây bầy chết của đất đai trong đổ nát hoang tàn, giờ mới sinh nằm trong tã lót và trong con tim của niêm luật thơ ca mà chưa ai biết được.

II

Giống nòi Tabor(2) không tổ quốc! Cha ông du mục! Những mẹ Digan! Những cơn Mưa Rào Sibyl!
Ôi, những cơn Mưa Rào nghe theo đẳng cấp của con người, bây giờ ta còn biết chia sẻ cùng ai danh dự của những đêm thức trắng?
Trên gối giường của ta ai sẽ đốt lửa lên và ai sẽ làm cho ấm buổi chiều sau tiếng rì rào của nến?

Dãy Andes(3) đang im lặng trên mái nhà ta, cây chuông nhỏ vui mừng trong máu của ta, cây chuông đang gióng lên để ngợi ca vinh quang của Mưa Rào vĩ đại!
Ta cùng với Mưa Rào, hãy đứng lại: những mỏ kim cương của ta trên mũi giáo phiên bản của mưa!
Bọt nước sôi âm ỉ trên những bờ môi của trường ca, giống như dòng sữa của san hô!

Trong phần mở đầu đang nhảy múa những câu thơ, tựa hồ như một lời van xin con rắn
Một ý nghĩ trần truồng, giống như con dao đang rì rào nổi loạn
Và nhịp điệu xưa cũ, mô-típ cổ xưa đang làm lành với cô nàng thích cô độc – trường ca.

Chúa Trời vĩ đại, tiếng cười chúa tể, xin hãy giữ gìn ta khỏi sự ngợi ca, khỏi những bản tụng ca, và những tấm lòng đại lượng.
Chúa Trời vĩ đại, tiếng cười chúa tể, ôi có biết bao nhiêu hờn giận trên môi của Mưa Rào!
Và những khói sương nào, những cồn cát lưỡi liềm của dối gian thay đổi cho nhau, những vũng nước dối gian nào đang bơi dưới mưa sau tiếng kêu đàn sếu!

Trong đêm sáng của giờ chính ngọ ta lặng im, giữ lại một nửa lời chưa nói
Và ta đi tìm từng hạt nhỏ của sự nghĩ suy về tồn tại… Làn khói trên những viên đá của bếp lò giờ lại bay lên
Và Mưa Rào trên mái nhà thổn thức mơ màng, hầm đôi chân của mình trong những bàn tay ta bé bỏng.

III

Những chị Assur(4) dẫn những đứa em phóng đãng, những đội quân của Mưa Rào đổ bộ xuống đất đai
Những áo giáp pha lê, vàng và sắt tây, những cành cọ của những ông hoàng trên những vành mũ giáp
Giống như bà hoàng Dido(5), mà dấu vết còn tươi như ngọc trên những bức tường của Vương quốc Carthage.

Tựa như phu nhân của ngài Cortez(6) đang nhìn vào bức chân dung, khói sương như mơ màng trong những bài Kinh bị lãng quên trong bóng đêm rừng rậm…
Màu thanh thiên Amazon của kiếm đánh dấu cho ta bằng ánh trăng thanh, bằng màu của kim cương và màu của ngọc
Màu xanh của Tháng Tư đang gieo hạt và tụ tập vào gương của hợp kim sắt thép với thủy ngân!

Rầm rập tiếng bước chân của đội ngũ kiêu hùng sau cửa sổ khuê phòng, tiếng giậm chân của những dòng nước trong sương nhà tắm
Màu thanh thiên Amazon, ôi những dòng nước lao như tên bắn, những bộ dây thắng của sao, và tia sáng từ những chiếc cung bay vào trong gió!
Màu thanh thiên của người vũ nữ, ôi những dòng nước đang nhảy múa, dàn đồng ca của nước đổ xuống trần gian!

Ôi hằng hà vô số của màu xanh, mưa lấm tấm, mưa phùn, những nàng Vestal(7) với những bánh xe của đại bàng đang trải đều khắp mọi phía
Những ngọn giáo bao bọc quanh thành phố, những lưỡi dao sắt của những cọng cây khô, những gươm giáo của dương liễu, của nho – mưa làm cho xổ tung ra bím tóc
Ôi cả một luồng Toledo(8) của thép! Ôi trường kiếm của thân cây, ngũ cốc tuôn đầy eo biển của mùa cắt cỏ!

… Và thành phố pha lê đang nhân đôi trong cây hương đàn ấp ủ, những chuỗi hạt cườm bằng kính của đường phố thênh thang, sự khôn ngoan của những đài phun có những cửa miệng bằng đồng
Người ngoại quốc đang đọc, ngọn gió đang lật những tờ áp phích của ta
Ngọn gió đang bay lượn trên những mái nhà, người đàn bà Indian cho kẻ đi thuê nhà cùng ngủ lại.

V

Ta nhận thức ra sự vĩ đại của Mưa Rào trong cuộc sống ồn ào nơi đô hội, trong những lo toan vặt vãnh của đời thường.
Nhưng bỗng nghe thấy mùi của ozôn, mùi nhựa của cây xanh trong tiếng rì rào của gió.
Mưa trả về cho ta hình người, Mưa nhào nặn ta lần nữa, và đằng sau cái mặt nạ nghe ra mùi tươi mát của đất đai.

Nhưng trên tầm cao của đại bàng chẳng lẽ ký ức không còn trang điểm cho ai? Hay là ta hát lên bài Thánh ca đã từ lâu quên lãng, trên những con đường rợp bóng của khu vườn khi giẫm lên những chiếc lá vàng trong Kinh của mùa lá rụng?
Những lối mòn trên những cánh đồng hoa tuy líp trong giấc mộng, đang dần cạn nước hồ, xương của đá trong giếng chẳng lẽ không xứng với những vần thơ, những vần thơ được viết bằng ngòi bút của nhà thi sĩ?
Những bông hoa hồng xưa cũ trong bàn tay của kẻ tật nguyền, những đứa bé con trong bộng cây ô-liu trăm tuổi, trên chùm nho những con ong buồn rượi, những con ong trên cành thuỷ dương mai và chiếc cầu thang hẹp trong phòng kín của người goá phụ chẳng lẽ lại không xứng với một lời?

Vẻ dịu dàng của thủy dương mai, của cây lô hội, đam mê của mộc lan, sự vô sinh của những kẻ lỗi lầm, mặt đất làm khô vẻ oi nồng của điều nhận thức.
Những cơn giông có màu xanh mái tóc bện vào mái tóc của ngọc và ngó nhìn vào gương của những ông chủ nhà băng. Gương mặt của nữ thần chìm xuống rong rêu và chìm sâu vào bùn đất.
Những ý nghĩ trẻ trung xếp thành rường cột và ngồi xuống quanh bàn chính khách. Bầy im lặng đứng trên những cánh đồng màu trắng của trường ca.

Trên những vách đá Mưa Rào hãy rót ra, hãy rót ra trên những cây Thánh giá và hãy rót lên bia mộ của dòng họ Habsburger(9), lên những chiếc linh xa của biết bao nguyên soái, lên những lăng mộ như dầu ô-liu trong ngày rửa tội.
Mưa Rào hãy dỡ ra từ vách núi tro tàn của những cuộc chiến chưa xa, hãy dỡ ra trên biển tro tàn màu trắng của những ai từng bơi đến trên những chiếc thuyền Caravella(10).
Và hãy cứ để cho muôn thuở người ta ngồi trên ngai sắt, như trên kiềng ba chân vững chắc, trên vách đá trần truồng, trên bốn ngọn gió dưới bầu trời hồng với những cơn mê sảng của mình, những cơn mê sảng chất đầy phẫn nộ của nhân dân.

Và trên biển muôn đời còn bay lượn khói sương của Cái Thiện và Cái Ác, còn bay lượn tro tàn của những câu cổ tích, những truyền thuyết – những câu chuyện muôn đời còn âm ỉ, không phai…
“Ta mong muốn đoàn tụ, chung sống với con người nhưng mặt đất với tâm hồn lạ lẫm xa xôi lại khát khao ly biệt…”

VI

…………………………………………† ?…………………………..

Hãy để cho lời đi trước! Ta viết lên những bài ca thời đại cho những kẻ du hành và những khúc hát lên đường dành cho những kẻ lưu đày không ngủ.

VII

Hãy mang con số, cho những con đường của ta và chúng ta là những kẻ không nhà. Hơi nước thánh thần của những người đã chết ta áp vào bằng những đôi môi khô rát. Còn ngươi vây quanh xác chết trong dòng nước bình minh – mặt đất lúc này ở trong xiềng xích của chiến tranh – hãy rửa lên gương mặt của người đang sống, hãy rửa sạch, Mưa Rào! Hãy rửa lên những gương mặt giận dữ thương đau, hãy rửa lên những gương mặt dịu dàng đằm thắm… bởi vì con đường của họ chật hẹp và bé bỏng, và họ là những kẻ không nhà, không nơi trú ẩn.

Hãy rửa lên ngai vàng cho những kẻ đầy sức mạnh. Trong hào quang của sức mạnh họ ngồi vào bàn ăn uống, tất cả những ai không say bởi rượu của con người, những ai thích tận hưởng, thích uống say những giọt nước mắt rơi, con tim của ai không bao giờ xúc phạm, tên của ai không còn vang vọng trong những giọng oang oang(11)…

Hãy rửa lên sự chậm chạp và sự rình rang, những phép tắc của con đường nhận thức. Hãy rửa sạch, Mưa Rào! Hãy rửa như gai nước mắt lên những kẻ thanh cao, lên những người may mắn, hãy rửa lên mắt những kẻ khôn ngoan chín chắn, những kẻ trung quân, những người cao thượng, những tài năng, hãy rửa lên phông màn và lên đôi mắt của nhà thi sĩ, hãy rửa lên mắt những ông bầu, ông chủ, những người mộ đạo, những kẻ quyền hành… lên đôi mắt của những kẻ rình rang theo phép tắc của thánh thần giữ đúng.

Hãy rửa sạch, Mưa Rào, hãy tránh xa việc thiện, những ân nhân, những người hành động và rác rưởi của những nhà hùng biện với bờ môi đại chúng chớ động vào. Hãy rửa sạch, Mưa Rào, hãy rửa bàn tay những quan toà, những người đi xét xử, bàn tay những bà đỡ, bàn tay những kẻ may áo liệm cho người đã yên giấc nghìn thu, hãy rửa bàn tay cho kẻ sáng mắt như mù, hãy rửa bàn tay cho những người tàn phế mà vạm vỡ, những bàn tay bẩn xin hãy rửa, những bàn tay trên vầng trán của nhân loại đang cày, mà xưa nay chỉ dùng roi vọt, mặc cho việc làm tốt đẹp của những người hành động thanh cao.

Hãy rửa sạch, Mưa Rào, hãy rửa lịch sử của giống nòi, bộ tộc, những ký ức thành văn, những bộ sử nghìn năm, những truyền thuyết, những phát minh… Hãy rửa sạch những bản hiến chương, những sắc lệnh của vua chúa, giáo hoàng, những hiệp ước liên minh, những bài tranh luận.

Hãy rửa sạch, Mưa Rào! Những lời vĩ đại trong trái tim người, hãy rửa sạch những lời nói muôn đời, những lời tiên tri, những lời cầu nguyện, hãy rửa sạch trong tim những lời vui sướng, những điệu ngân nga, những khúc bi ca, những rông-đô, những nghịch lý, những lời trái ngược, hãy rửa sạch những đêm dài mơ ước, những đêm không ngủ vì nhận thức, hãy rửa sạch ngày khánh tiết của trí khôn, hãy rửa sạch những tài năng, những tâm hồn chứa đầy khát vọng… và những sự nghiệp lớn lao trong trái tim người.

VIII

Mưa rừng ngập mặn mang vòm lá của rễ cây từ Thành phố, ngọn gió trời mang ý nghĩ của người phiêu lãng đến cùng ta
Và ý nghĩ này sẽ không giã từ ta! Nhưng sẽ không chối từ sự thật đắng cay như một nắm tro tàn cát bụi
Và trên mái nhà của ta sẽ còn lại mãi, những ai biết nghe theo sự xuất hiện của Mưa, hành cước của đất đai trong những cây gia to nhỏ thầm thì, là biểu tượng và là dấu hiệu của sự diễu hành sột soạt.

Những hứa hẹn suông! Mùa gieo hạt đổ dồn ra uổng phí! Làn khói đang trải lên con đường của người trần thế!
Tia chớp bên ngưỡng cửa! Còn ta đứng ở ngoại ô thành phố với đôi mắt buồn bã nhìn về
Vĩ đại những cơn mưa – dưới cái roi quất của tháng Tư, những bộ lưng lấm đầy đất bụi – những cơn Mưa Rào vĩ đại, giống như những kẻ cuồng tín Flagellants(12), roi da vút lên, dằng dặc cả một đoàn trong cơn mê sảng.

Còn ta chỉ một mình trần truồng với đất đai trần như nhộng, với cơn u mê đã chín, với mùn đất đang thức dậy trong hơi nước bốc hơi
Những ốc đảo của đất đai xếp thành những cặp song đôi trong những mầm cây dương xỉ, trong mảnh vỡ của đá hoa cẩm thạch, trong hài cốt của ma-môn(13)
Và thân xác của hoa hồng bị cơn gió làm mòn, mùi đất đai bốc lên, giống như người phụ nữ đã trở thành phụ nữ.

Và thành phố như lóa mắt vì ánh chớp của một trăm nghìn lưỡi dao mờ tỏ, chuyến bay của đại bàng sáng lên trên biển Labrador(14), còn bầu trời trong chiếc chén của những đài phun có hình thù đập vỡ
Con heo vàng trong cây cột của mặt trời đang tan rã trên quãng trường ngái ngủ, chất khoáng hồng đơn đang hoan hỉ trên cửa chính môn, và trong bờ giậu của khu vườn một chiếc bóng màu đen đã đứng dậy trong những bàn chân màu bạc
Những góa phụ trẻ trung đang ấp ủ một niềm khao khát, trong băng tang màu đen, như trong mộ phần, những bình đựng di hài có màu tái nhợt.

Và ngọn gió đang lượn trên chiếc lược của ngôn từ, trên những bờ môi của trường ca bọt mép đang sôi lên âm ỉ
Đang lấp lóe những ý nghĩ vô cùng mới mẻ và lùi lại trước nhịp bước của nghĩ suy:
“Ôi bài hát diệu kỳ, ôi bài hát diệu kỳ, ôi diệu kỳ biết bao bài hát của những cơn Mưa Rào đã chết”, nhưng, Mưa Rào! Còn câm nín biết bao bản trường ca của ta hãy còn chưa viết hết!

IX

Đêm đã đến đây, và những cánh cổng bây giờ đóng chặt, ôi thật nặng nề biết bao những giọt nước trời trên những vòng nguyệt quế ẩm ướt của Latinh!
Trên mũi giáo phiên bản của ý nghĩ các người có chất khoáng kim cương! Hãy đập vỡ những gông xiềng, hãy đánh gục những linh hồn của những con rồng có cả trăm con mắt kinh hãi
Ôi Chúa Trời vĩ đại, tiếng cười của chúa tể, xin hãy phá cho tan tành những náo loạn hôm nay ở chốn trần gian.

*

Và nhất định sẽ có niềm vui sướng hân hoan, ôi Chúa Trời vĩ đại, trên ngưỡng cửa hao gầy của cuốn sách mòn mỏi, nơi tiếng cười của ta sẽ làm cho kinh hãi những con công màu xanh của sự vinh quang.
1943
___________________

(1)Đấu sĩ của thành Rôm (Gladiatores) – những người đấu kiếm với nhau hoặc với thú dữ trên khán đài. Thời Đế chế La Mã, những kẻ trước khi bước vào cuộc đấu hô to: “Ave Caesar, moritori te salutant” (Hoàng đế tối cao, những kẻ đi vào cái chết xin kính chào). Trò đấu này xuất hiện từ thế kỉ 3 tr. CN và đến đầu thế kỉ 5 thì bị cấm.
(2)Tabor – tên gọi một nhóm người Digan du mục. Sibyl (Sibylla) – xem chú thích ở bài Những mốc trên biển.
(3)Andes – dãy núi ở Nam Mỹ.
(4)Assur (Ashur) – người sáng lập ra vương quốc Assyria và Nineveh cổ đại. Đây cũng là một tích trong Kinh Thánh (Cựu Ước_E-xê-chi-ên, chương 23).
(5)Dido – theo thần thoại Hy Lạp, là con gái vua Tyre, nữ hoàng của vương quốc Carthage cổ đại.
(6)Cortez (Cortes), Hernando (1485 – 1547) – nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, người chinh phục vương quốc Aztec ở Mêhicô.
(7)Vestal (Vestale) – xem chú thích ở bài Những mốc trên biển.
(8)Toledo – thành phố ở Tây Ban Nha, nổi tiếng với nghề luyện kim và đúc gươm giáo.
(9) Habsburger – dòng họ cai trị ở nước Áo từ năm 1282 – 1918; ở Tiệp và Hungari từ năm 1526 – 1918; ở Tây Ban Nha từ năm 1516 – 1700; ở Hà Lan từ năm 1477 – 1794.
(10)Caravella (tiếng Italia) – thuyền buồm đi biển có mạn tàu cao, phổ biến ở các nước vùng Địa trung hải từ thế kỉ 13 – 17. Colombo (1451-1506) vượt Đại Tây Dương bằng thuyền này và Vasco da Gama (1469-1524) - người đầu tiên đi từ Lisbon đến Ấn Độ cũng bằng thuyền này.
(11)Theo Kinh Thánh, những giọng oang oang của lính Israel đã làm cho đổ những bức tường kiên cố của thành phố Jericho.
(12)Flagellants – những người theo một giáo phái cuồng tín thời Trung cổ ở châu Âu, hành đạo bằng cách dùng roi da đánh vào mình để chuộc lỗi lầm.
(13)Ma-môn – theo Kinh Thánh là thần giàu có (Tân Ước_Ma-thi-ơ 6:24; Luca 16:13).
(14)Labrador – tên một bán đảo, tên một biển ở Canada.


 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:13:35





NHỮNG MỐC TRÊN BIỂN
(Trích)

Tiếng hoan ca

1

Ôi Biển, Biển xướng lên những giấc mơ đồ sộ, chẳng lẽ có một lần trong một buổi hoàng hôn nào đó ngươi bỏ lại ta nơi thành phố, trên tảng đá, quanh bờ dương liễu có hình hoạ tiết sắc đồng?
Rộng hơn đám đông, cái vòng này quyến rũ ta trên bờ dốc của thế kỉ hoàng hôn không tắt - ôi Biển lớn, Biển màu xanh, tựa như bình minh ở Phương Đông của người trần.
Biển khoan khoái, tưng bừng, Biển trong thang bậc của mình, cao hơn bài tụng ca khắc trên đá, Biển trong ngày lễ và ngày lễ này trong buổi giao thời, ngày lễ và tiếng rì rào với con người như nhau – Biển không hề ngủ mà như kẻ canh giấc ngủ cho người…

Hoa hồng trên mộ đã không còn toả mùi hương và linh hồn lạ lùng của mình giờ sống động đã không còn mở ra giữa những cành lá cọ… Và có phải ta đã từng đắng cay một lúc nào đó, hở những con người, những con người đang sống, trên môi?
Ta nhìn thấy trong vũng tàu như ngọn lửa xa xôi một hình thù đồ sộ đang mỉm cười, đang nghỉ – Biển giờ đang hoan hỉ tựa như ngày Thánh lễ, trong hoa cỏ màu xanh, tựa như ngày lễ mà ta kỉ niệm cho mình.
Biển khắp mọi nơi đang vui mừng dưới đôi cánh chim ưng của những đám mây màu bạc – như vị thái ấp quí tộc, thuế má không phải nộp hay như vị chúa đất với những cánh đồng rộng lớn mênh mông…

Ngày ta sinh ra ngọn gió hãy mang hơi nước! Sự hào phóng của ta chinh phục cả khán đài nhà hát!.. Những ngọn giáo phương Nam run rẩy, háo hức trước miền khoái lạc. Tiếng trống của cõi hư vô nhường chỗ cho tiếng sáo trần gian. Và từ bốn phía Đại dương đã tàn héo những bông hồng.
Trên gác sân màu trắng đặt hình nghiêng của Ngài Tetrarch!(1)

2

“Ta bắt các người phải khóc – vì chúng ta tỏ lòng biết ơn.

Khóc vì biết ơn, không phải vì đau khổ.
Vì sự bối rối trong tim, ngọn nguồn ta không rõ
Như phút giây trên Biển trước khi ngọn gió ra đời..”

Người của Biển đã thay mặt Biển nói những lời
Ca ngợi Biển, ca ngợi tình yêu và khát khao có Biển
Từ bốn phía chân trời ngọn nguồn khoái lạc về Biển kia hướng đến…

“Ta kể cho các người nghe câu chuyện cổ, các người hãy nghe ta
Bằng từ ngữ giản đơn như câu chuyện cổ ngày xưa
Những lời nghiêm khắc nhưng trang nhã, giản đơn, câu chuyện của ta sẽ làm cho các người mừng vui khôn xiết.

Dù câu chuyện này con người muốn được nghe mà không biết gì về cái chết
Câu chuyện với vẻ tươi mát của mình sẽ đi đến với những con tim
Dù câu chuyện là lòng thương, là ngọn gió dịu dàng từ Biển thổi lên bờ trong buổi chiều lấp loá.

Và trong số các người có kẻ ngồi trên cây lắng nghe câu chuyện của ta buồn bã
Liệu còn có ai mà không đứng dậy và không bước theo ta với một nụ cười
Rồi đi vào tổ rồng của tuổi ấu thơ và đi vào tiếng bánh xe đưa đám vang lên ở chốn xa xôi”.

3

Thơ ca, là để hòa theo tiếng thét gào của Biển.
Thơ ca, là để phụ họa cho bài hát diễu hành xung quanh Biển.
Như sự chuyển động của bàn thờ, như sức hút của dàn đồng ca, đổ xuống những dòng thơ.

Đó là bài ca vĩ đại mà trước đây chưa từng hát bao giờ, và Biển ở trong ta, Biển sẽ hát bài ca
Ta mang Biển trong mình, Biển sẽ hát lên cho đến chừng nào ta còn thở
Biển ở trong ta, Biển sẽ hát ca, mang vẻ tươi mát của mình và tiếng động dịu êm truyền đi khắp vũ trụ.

Thơ ca là để kìm nén cơn xúc động của đêm trên Biển. Thơ ca, là để ta tận hưởng cuộc đời ta với Biển.
Và đó là giấc mộng từ Biển sinh ra mà trước đây chưa mơ thấy bao giờ, và Biển sống trong ta, Biển sẽ bơi trong giấc mộng.
Biển giăng lưới trong ta, Biển sẽ bơi đến tận cùng vực thẳm, Biển giăng thời gian và những con đường vĩ đại của bóng đêm.

Biển liều lĩnh, vô tâm, Biển hân hoan chào đón, Biển rì rào hối hận, ôi Biển trong con nước triều dâng.
Biển réo ầm ầm trong màu nước thanh thiên, trong trí tuệ bẩm sinh, trong tiếng kêu thần thánh của mình - ôi những nàng trinh nữ!
Như thầy bói Sibylla(2) trong vòng hoa ngồi trên chiếc ghế sắt của mình, Biển sôi ầm ầm trắng xoá…

4

Ô Biển, ta ca tụng Biển, Biển còn đến muôn năm, Biển không biết giận hờn và luôn luôn xứng với lời ca tụng.
Ta mời Biển đến, Biển là khách quí của ta, còn nói về công lao thì ta im lặng
Và không nói một lời về Biển mà ta chỉ nói về sự trị vì của Biển ở trong tim
Như khi ta dâng cống vật bằng xương voi, bằng đá hoa cương
Và lời ca tụng của mình lên chúa đất Suzerain.

Ta chào Biển, trước Biển ta phủ phục, cúi mình mà không thấy thấp hèn
Ta trao cho Biển ân huệ của mình và trước Biển thân thể rung lên
Và khói của sự hài lòng bao phủ lên trí thông minh của người hâm mộ
Và niềm vui từ đó, rằng đã có những lời để với một nụ cười ta nói lời cảm tạ

Và ta kính cẩn trước Người, ôi Biển, ta chào đón Biển quang vinh, rằng sẽ còn lâu trong kí ức của Biển giữ gìn, tựa hồ như ngày lễ của con tim…

5

Mà bởi vì đã từ lâu ta mong ước kín thầm về một trường ca như thế, ta thêm vào những lời thường nhật của mình bức tranh có màu sặc sỡ, vẻ huy hoàng của bao la biển cả – nơi mép rừng giữa màu đen của lá hiện ra mạch máu của thanh thiên và trong những mắt lưới sống động rung rinh có chiếc vảy của con cá vô cùng to lớn!

Và liệu ai có thể chộp được ta bất thình lình cùng với những lời nói kín thầm đằng sau sự bảo vệ đáng tin của nụ cười nhã nhặn? Nhưng giữa những người thân và bè bạn từ lưỡi của ta bỗng tuôn ra những thứ quí hiếm kia – có thể là ở trong góc Vườn thành phố, hay ở trong những hàng rào chạm trổ của Cơ quan Hành chính Quốc gia, hoặc có thể là, có ai đó nhìn ra, giữa những câu nói hững hờ ta đột ngột quay lưng và nhìn về trên ngôi nhà Cơ quan quản lý tàu bè có một con chim đang nhẹ nhàng bay lướt.

Bởi vì trường ca này đã từ lâu ta mơ ước và ta mỉm cười hạnh phúc, bởi vì ta giữ gìn sự chung thủy với trường ca – ta nắm bắt, ta sửng sốt, ta say sưa giống hệt như chú san hô và lắng nghe theo nhịp của thủy triều lên xuống – giống như giờ nửa đêm lang thang trong giấc mộng, giống như sự dâng lên chầm chậm của dòng nước chiêm bao, khi từ chốn xa xôi dòng nước thủy triều vuốt ve lên những dây thừng rất cẩn trọng.

Và từ đâu mà trường ca như thế hiện ra trong đầu – thì đấy là điều đáng để cho ta suy ngẫm. Nhưng mà những trường ca mang lại cho ta niềm vui sướng hân hoan, chẳng lẽ điều này lại còn ít ỏi chăng? Nhưng mà thôi, lạy Chúa! Có lẽ ta phải giữ mình, phòng bị một khi cuộc chuyện trò chưa rẽ quá xa xôi… Hãy nhìn kìa các người, hãy nhìn ra đường phố, hãy nhìn vào chỗ rẽ, những cô con gái đẹp tuyệt vời của Sao chổi Halley, những vị khách của bầu trời trong trang phục của những nàng Vestale(3) bị bầu trời đêm quyến rũ, trong khoảnh khắc họ biết giữ mình giữa bàn tay, trên vòng xoay của hình elíp ấy.

Phu nhân của cuộc hôn nhân không hề môn đăng hộ đối vẫn giấu mình trước người đời ở một nơi xa xôi nào đấy. Ô Biển, bài hát đăng quang cho Biển sẽ là như vậy: “Bài hát cuối cùng của ta! Bài hát cuối cùng của ta!… và người của Biển bài ca này sẽ hát…” Và ta đề nghị những ai không phải bài ca thì sẽ là người chứng kiến cho sự tốt lành của Biển – Biển không có những bức tường, Biển không có hành lang, không khúc hát Aliscans(4), không cổng chính trang nghiêm, Biển không có những đại thần trên những sân gác hình tròn và không có trên những con đường những con thú dữ dằn có cánh.

Ta nhận về những trường ca và nhận về cho mình trách nhiệm. Giống như người hiểu ra sự bắt đầu của sự nghiệp lớn lao theo lời hứa hẹn đã viết ra và giải thích những lời, và điều này Hội những người trao tặng sẽ thỉnh cầu thôi, vì rằng công việc này chính là sứ mệnh. Và sẽ không một ai biết khi nào và ở đâu người này đã viết; thiên hạ sẽ nói với các người rằng đấy là ở khu phố có những kẻ nhẫn tâm và khắc nghiệt, mà có thể là ở khu phố của những người đúc thép – trong giờ nổi dậy của nhân dân – giữa những hồi chuông gọi người ta dập lửa, và tiếng trống báo thức giờ sớm sủa của đồn binh…

Và sáng ra Biển Mới trên vách đá cười lên. Và trên trang sách của người này, giống như một chiếc gương, đang ngắm nhìn một Người Đàn Bà Xa Lạ… Bởi vì đã từ lâu người này mơ ước kín thầm một trường ca như thế, người ấy nhìn ra sứ mệnh của mình trong bản trường ca… Thế rồi trong một buổi chiều vẻ dịu dàng không thể chịu nổi kia làm cho người này chìm nghỉm, thế là người này dám cả gan thú nhận và cảm thấy sốt ruột vô cùng. Người ấy bỗng cười lên và đưa ra lời đề nghị… “Bài hát cuối cùng của ta! Bài hát cuối cùng của ta!… và người của Biển bài ca này sẽ hát!…”
______________
(1)Lãnh chúa Hi Lạp cổ.
(2)Sibylla (Sibyllae) – những người phụ nữ có tài tiên tri. Nổi tiếng nhất là Sibylla ở Cumai (Cumis), người đã xem bói cho Aineas.
(3)Vestale (Vestal Virgins) – theo truyền thuyết La Mã, là những nàng tư tế của nữ thần Vesta, những người giữ gìn ngọn lửa thánh. Những trinh nữ xinh đẹp được chọn từ những gia đình quí tộc Roma và họ phải phụng sự cho nữ thần 30 năm, ai vi phạm lời nguyền sẽ bị chôn sống.
(4)Khúc hát Aliscans – bản anh hùng ca của Pháp do tác giả vô danh sáng tác vào khoảng năm 1165.
 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:16:41





ANABASE
(Trích)

Bài ca

Dưới chiếc lá sắc đồng sinh ra một chú ngựa non. Con người đặt vào bàn tay cho ta trái khổ. Người xa lạ. Người đi qua. Ta cứ ngỡ rằng đang nghe ra những lời về xứ khác… “Chào con gái của ta, dưới những hàng cây lớn nhất”.

Bởi Mặt Trời đi vào chòm sao Sư Tử và Người Xa Lạ đặt ngón tay vào miệng kẻ đã chết rồi. Người cười. Người nói chuyện cùng ta về hoa cỏ. Ái chà! Cho những xứ sở này biết bao nhiêu là hơi thở! Thật dễ dàng những con đường của ta! Thật sung sướng biết bao trong những chiếc tù và, còn trong bộ lông có biết bao điều khôn ngoan vì nhục nhã ê chề cho đôi cánh!... “Tâm hồn ta, cô gái trưởng thành, ngươi có tính tình xa lạ với phong cách sống của ta”.

Dưới chiếc lá sắc đồng sinh ra một chú ngựa non. Con người đặt vào bàn tay cho ta trái khổ. Người xa lạ. Người đi qua. Và đây là tiếng động vang xa trong sắc đồng cây gỗ. Hoa hồng và nhựa, quà tặng của bài ca! Và tiếng sấm, và tiếng sáo trong nhà! Ái chà. Thật dễ dàng những con đường của ta, trong một năm có biết bao nhiêu là mạo hiểm, và Người xa lạ không giống với một ai, trên những con đường của khắp trái đất này. “Chào con gái của ta, với bộ áo quần đẹp nhất”.

VII

Trên mặt đất màu vàng này ta sống chẳng dài lâu…

Mùa hè rộng hơn một vương quốc đang móc vào không gian có nhiều tầng khí quyển. Mặt đất rộng lớn đang trôi bồng bềnh, và những góc nhỏ của mình đang lụi tàn trong tro bụi. Màu của diêm sinh, màu của đồng, màu của những gì tàn lụi, cả mặt đất ngập tràn trong cỏ và hoa đang cháy lên bằng cọng rơm của mùa đông đã qua, từ bọt biển màu xanh cây bầu trời đang lựa màu tím hoa cà từ những dòng nước ép.
Và những mỏ mi ca có biết! Chẳng có một loại ngũ cốc sạch nào trong những chòm râu của gió. Còn ánh sáng như dầu, như mỡ. Xuyên qua khe hở của trăm năm gắn chặt ta vào những chiếc răng của tận cùng, và ta vẫn biết rằng đá làm vấy bẩn lên mang, im lặng cả một đoàn ngập chìm trong ánh sáng, và con tim của ta bắt đầu quan tâm lo lắng về việc ăn châu chấu và mật ong rừng(1).

Những con lạc đà cái lặng lẽ khi cắt lông, bao trùm lên những đường chỉ khâu màu tím, những ngọn đồi di chuyển trong im lặng trên đồng bằng bị đốt thành màu trắng toát như bông, hãy để cho chúng cúi mình, chúng cúi mình trong khói, nơi mà trong đất bụi đang chết những người dân.
Những đường tuyến to lớn lặng lẽ đi vào màu xanh của những cánh đồng nho rộng lớn. Trên những cánh đồng đang chín dần màu tím của tai ương, những đám mây cát đang bay mơ màng trên những dòng sông chết của những thế kỉ mờ xa…


Dịu êm hơn giọng nói trên xác tử thi, dịu êm hơn giọng nói của ngày. Có bao nhiêu dịu dàng trong trái tim người có lẽ nào ta đo được?… “Ta gọi hồn ta! – hồn ta tối tăm vì mùi của ngựa”. Một vài con chim trên mặt đất bay về phía tây đang học theo cách bay của những con chim biển…
Phương đông bầu trời màu xám, như miền đất thánh, như màu trắng của người mù, ở đó có những đám mây nhởn nhơ, ở đó có những con bọ cạp đang vần xoay móng guốc. Hơi thở vì khói mà tranh luận với ta, còn trên mặt đất tất cả đang đợi chờ, đợi chờ mặt đất sinh ra những điều kì lạ!…

Vào buổi giữa trưa, khi cây mã đề mở ra hòn đá trên ngôi mộ, một người mắt không mở đang làm tươi mát đôi vai của mình trong giấc ngủ nghìn năm. Những người kỵ sĩ của giấc mộng vĩnh hằng thay cho những hòn đá chết, bằng hơi thở của những con đường vô ích đang cất giọng hướng về ta! Biết tìm ở đâu ra, biết tìm ở đâu ra những người tài xế, những người sẽ ra tay bảo vệ những dòng sông, những dòng sông trong ngày cưới của mình?
Dòng nước vĩ đại sôi lên chuyển động trên mặt đất, và tất cả muối của đất đều run lên trong giấc mộng. Và bỗng nhiên, bỗng nhiên những giọng nói này của ta họ muốn. Các dân tộc hãy nêu gương trên những dòng sông chết, hãy cứ để cho họ gửi lời kêu gọi về những thế kỷ đang phía trước! Hãy giơ đá lên vì danh dự của ta, hãy giơ đá lên trong im lặng đợi chờ và trong sự canh chừng nơi chốn, trên những con đường rộng lớn có một đội kỵ mã bằng đồng!…

(Bóng của một con chim lớn bay vút qua trước mặt ta).

Bài ca

Dừng con ngựa của mình dưới gốc cây, một màu xanh dâng đầy, ta huýt lên một tiếng sáo vô cùng trong sạch, rằng sẽ không có bờ bến hứa hẹn nào ngăn cách, bờ bến nào có thể giữ được sông. (Những chiếc lá buổi sáng màu xanh, những chiếc lá sống theo hình bóng của vinh quang)…

Và không phải để cho một người không buồn bã, nhưng mà khi thức dậy trước bình minh, đứng dưới gốc cây già người ấy dè chừng, khi tựa cằm vào ngôi sao sau chót, người ấy nhìn thấy trong sâu thẳm của bầu trời đói khát những thứ sạch sẽ và to lớn vô cùng, những thứ mà sẽ biến thành vui sướng hân hoan…

Dừng con ngựa của mình dưới gốc cây thì thầm, ta huýt lên một tiếng sáo còn trong sạch hơn thế nữa… Và thế gian sẽ không nhìn thấy ngày này, nếu như họ không còn nữa. Nhưng về người anh em, nhà thi sĩ, sẽ nhận được tin. Người đó lại đã viết ra một thứ thứ thật dịu dàng. Và có một số người đã đọc.
___________________
(1)Nói về sự chịu ăn uống cực khổ đói khát theo truyền thuyết, khi Giăng tới đồng vắng vừa làm vừa giảng phép báp-têm cho dân chúng (Tân Ước_Mác1: 4-6). Giăng ở đây là Jean Baptiste (thế kỉ I) – nhà tiên tri Do Thái. Sống khổ hạnh trong sa mạc, tập hợp môn đệ và giảng đạo về sự hoán cải nội tâm. Ông rửa tội bằng cách đắm mình xuống sông Giô-đanh (Gioóc-đa-ni). Chúa Giê-su được ông làm lễ rửa tội ở đây (Tân Ước_Mác1: 9).


 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:19:14
SAINT JOHN PERSE
(Bài viết của Roger Garaudy)



Một nhân vật của Claudel(1) đã đưa ra định nghĩa về thơ ca như sau:

Con trai ơi! Khi giữa mọi người cha là thi sĩ
Cha sẽ viết bài thơ không kích cỡ, không vần
Và sẽ nhận thức ra trong sâu thẳm tâm hồn
Cả năng khiếu, thiên chức từ hai phía
Thu nhận về mình cả cuộc đời trần thế –
Rồi tạo nên những lời ai cũng hiểu ra.
 Trong định nghĩa này bao hàm vấn đề mà thơ của Saint John Perse đặt ra, nói đúng hơn là sự thách thức: mối liên hệ nào giữa thế giới bên ngoài, giữa cuộc đời mà nhà thơ thu nhận vào mình với những lời mà nhà thơ tái tạo trong tác phẩm của mình?
Đi tìm hiểu thơ Saint John Perse – trước hết là tìm hiểu qui luật của sự biến hoá, sự thể hiện này.

***
Nhiệm vụ này vô cùng khó khăn, vì chúng ta đi nói về nhà thơ vẫn khăng khăng phủ nhận mối liên hệ giữa địa vị xã hội và sáng tạo của mình. Và nếu chúng ta tin vào lời ông thì không thể xác định được mối liên hệ nào giữa cuộc đời của Alexis Leger, người mà trong một thời gian dài, dưới nhiều chính phủ khác nhau, thực tế là người sáng tạo chính sách ngoại giao của nước Pháp và những trường ca của Saint John Perse.
“Điều quan trọng, xin đừng trích dẫn xuất xứ về hoạt động ngoại giao của tôi - ông viết cho M. P. Fouche năm 1948 – không phải vô tình mà tôi dùng bút danh và luôn luôn tuân thủ nguyên tắc chia đôi một cá nhân. Thực chất, đi xác lập một sự liên hệ nào đấy giữa Saint John Perse và Alexis Leger nhất định sẽ làm sai lệch cái nhìn của bạn đọc và rất có hại cho bạn đọc trong việc cảm nhận thơ tôi”.
Chúng ta buộc lòng phải từ chối những đòi hỏi này, vi phạm điều cấm chỉ này để cố gắng mở ra ý nghĩa tác phẩm của một trong những nhà thơ lớn nhất thời đại chúng ta.
Vì rằng, những gì mà tác phẩm xác nhận quan trọng hơn ý muốn của tác giả. Mà trước hết, rõ ràng là toàn bộ chất liệu tạo nên thế giới thơ Saint John Perse (tôi nói chất liệu chứ không phải qui tắc xây dựng của ông), được lấy từ kinh nghiệm sống của Alexis Leger. Sự lựa chọn hình tượng, từ ngữ để thể hiện nó, nguyên tắc chọn lựa và phong cách thể hiện của toàn bộ những ấn tượng giàu có, kỳ lạ, của những hoài niệm, những khát khao để tạo thành trường ca – tất cả những điều này cũng được khai thác từ cuộc đời ông.
Đó là tuổi thơ của hoàng tử trên một hòn đảo của quần đảo Antilles(2), một hòn đảo nhỏ mất hút trong biển Caribê, “ở đó nước xanh lên dưới ánh mặt trời”. Ở đây, trên hòn đảo thần tiên này, tuổi thơ của ông trôi đi giữa những vẻ đẹp được tạo nên bởi thiên nhiên và bàn tay con người, những vẻ đẹp lạ kỳ và huyền diệu. Như chiếc thuyền buồm bị cơn bão ném lên giữa hòn đảo, cậu bé sống giữa miền cây cối sum suê của vùng nhiệt đới và chính nó đã tạo nên cái thế giới cầu kỳ của tuổi thơ ông…

Không chỉ tuổi thơ hoàng tử của ông mà cả nghề nghiệp hoàng tử của ông đã cho phép ông làm nên những cuộc du hành đi qua sa mạc Gô-bi hay bơi trên biển Ấn độ dương, và chuyến lưu đày sang nước Mỹ (khi Petain(3) buộc ông từ chức), đã mở rộng thêm phạm vi của những ấn tượng và sự hiểu biết về hành tinh của chúng ta. Nghề nghiệp hoàng tử, hoàng tử - khách viễn du trên biển, đi qua nhiều xứ sở, thu thập được nhiều dấu tích và chứng kiến tầm vóc những con người của các nền văn hoá cổ xưa, các nền văn minh đã mất, và từ đó mà suy ngẫm về sức mạnh của quyền lực, về sự lưu đày, về biển, về sa mạc, về nỗi giận dữ, về niềm hy vọng, về bài ca được cất lên từ lòng người.
Ngôn ngữ của nhà thơ mang trong mình dấu vết cuộc đời ông: từ việc lựa chọn màu sắc và cây cối của tuổi thơ đến những hình tượng và từ vựng dùng trong công sở, cả những dòng chữ đề, những khẩu hiệu treo trên tường.
Điều này giúp chúng ta hiểu rằng tại vì sao Saint John Perse đòi hỏi sự phân biệt rạch ròi giữa thế giới mà ông sống với thế giới mà ông tái tạo trong thơ - mặc dù chất liệu trong cả hai trường hợp kia chỉ là một, còn qui luật chi phối cuộc đời thì không chỉ khác mà còn trái ngược với nhau: con người này là một và chia đôi. Cuộc đời ông là một tổng thể thống nhất nhưng qui luật cuộc đời thì mâu thuẫn.

***

“Tôi luôn tuân thủ nguyên tắc chia đôi một cá nhân”. – Saint John Perse đã viết vậy. Con người chia làm hai nửa này thuộc về thời đại của mình, thời phân chia con người…
Ông lãnh đạo nền ngoại giao Pháp trước chiến tranh thế giới thứ II – những năm này nước Pháp đã mất đi vai trò một cường quốc. Ông sống qua cơn hấp hối này, sự suy tàn này. Chúng tôi không có ý định phân tích ở đây vai trò cá nhân hay trách nhiệm của ông về việc này. Chỉ lưu ý rằng trên cơ sở hiểu biết trong tác phẩm của ông có một sự nhận thức về sự phá sản này. Chia sẻ quan điểm của Briand(4), người mà ông là một cộng tác viên gần gũi, Leger từ năm 1933 luôn theo dõi “sự lộng hành của chủ nghĩa Hitler”.
Những thế lực giai cấp và mối quan hệ lẫn nhau của nó đã dẫn đến việc phản bội quyền lợi dân tộc và sự thất bại năm 1940 chưa từng có mặt trong dự đoán của nhà ngoại giao nhưng nhà thơ đứng lên chống lại bộ máy này, cái bộ máy mà ngài tổng thư ký của Quai d’Orsay(5) là một mắt xích quan trọng. Ông cảm nhận hết tất cả áp lực của thói ghẻ lạnh đã thành một trò chơi của những thế lực thù ghét ông, đe dọa tiêu diệt ông. Ông bắt đầu nghi ngờ cả thể kỷ lịch sử của con người. Thất bại năm 1940 thô bạo mở ra trước mắt ông sự bất hoà sâu sắc và thói ghẻ lạnh này. Và thế là sinh ra những trường ca tuyệt vời nhất của Saint John Perse. Phản ứng đầu tiên của ông là sự đoạn tuyệt, là sự từ chối. “Và sẽ không bao giờ còn nữa cùng ta những gì ưng thuận, bằng lòng xưa đã có” - ông viết trong “Những ngọn gió”.
“Ô, những niềm hy vọng quá lớn lao ta đã đặt vào bước chân của người trên đá! Ô, ta đã tin một cách ngây thơ quá độ, rằng đằng sau cái mặt nạ ẩn giấu gương mặt con người!”
“Cả trăm năm mờ mịt khói sương vì đã tắt lịch sử”.
“Và không lẽ các người chẳng nhìn ra, rằng tất cả bỗng nhiên sụp đổ, rằng cả trục, cột buồm và dây rợ, rằng cả cánh buồm trùm lên gương mặt của lòng tin, rằng cả tấm vải cánh buồm của sự hư không và cái vẻ bên ngoài giả dối? Và rằng đã đến thời gian cuối, đành mang rìu búa chạy lên boong?”
“Tất cả đành làm lại từ đầu. Tất cả đều nói lại. Và ánh mắt sắc như lưỡi hái trên tài sản sẽ đưa qua đưa lại”.
Ý cuối cùng rất đặc trưng và hoàn toàn chẳng vô tình; tài sản mâu thuẫn với sự tồn tại. Trong trường ca “ Những mốc ngoài khơi” ông viết: “Nhưng tự hào về cuộc đời mình hãy còn chưa thành tập quán, niềm kiêu hãnh hãy còn đi đó đi đây, và ta hãy còn chưa có nó trong tay”.
Đấy là đề tài trung tâm, đề tài về sự ghẻ lạnh, qui luật chính mà K. Marx(6) đã rút ra như vậy: “Tồn tại của anh càng bé… thì tài sản của anh càng lớn…”. Thế giới của tài sản, của sở hữu, thế giới của sự ghẻ lạnh, nơi mà những quan hệ con người nhìn theo bề ngoài là khó hiểu, là thù địch với ông và chúng thống trị ông. Thế giới “vật chất hoá” này đặt toàn bộ gánh nặng của mình lên con người và cản trở sự phát triển của tồn tại.
Mâu thuẫn này xuyên suốt toàn bộ chủ nghĩa nhân đạo tư sản, từ Goethe(7) đến Saint John Perse.
Bi kịch của Saint John Perse là bi kịch của sự chia đôi một cá nhân đã thành lẽ tất nhiên của cái thế giới nơi mà ông sống và giai cấp của ông: hoạt động xã hội của mình ông không thể làm thành đối tượng của thơ ca, còn thơ ca của mình không thể biến thành hành động. Cuộc đời của ông không thể thi vị hoá hoạt động, không trở thành hiện thực của thơ ca.
Sự phân đôi này thể hiện sự phân đôi của cả một thời đại, tính chất hai mặt của toàn bộ chủ nghĩa nhân đạo tư sản mà kết quả cuối cùng là sáng tạo thơ ca của Saint John Perse. Thơ ông - đấy là mặt trái của hoạt động, là mặt đối lập, mâu thuẫn, đồng thời là sự giống nhau. Bài học cay đắng của “Anabase” là không thể trở thành người chinh phục thế giới này, tuy nhiên “…về người anh em, nhà thi sĩ, người ta sẽ nhận được tin”. Ở nơi kết thúc hành động thì bài ca được bắt đầu: “ và người kể chuyện ngồi dưới gốc cây già”.

***

Sáng tạo của Saint John Perse là bậc cuối của sự tiến hoá thơ được bắt đầu từ thế kỷ XIX. Trước đó người nghệ sĩ không nghi ngờ về sự tồn tại của thế giới bên ngoài hay bên trong thiên nhiên để làm hình mẫu cái hiện thực mà nghệ thuật phải tái tạo bằng những phương tiện của mình.
Chủ nghĩa lãng mạn nghi ngờ tiền đề này.
Người nghệ sĩ trở nên bàng quan với đối tượng khi mà những thứ như truyền thống, xã hội, ngôn ngữ ấn định, hoặc làm cho anh ta bất động. Hậu quả bất di bất dịch của sự hờ hững với đối tượng là ý nghĩa lớn hơn cả chủ thể. Nhiệm vụ của sáng tạo là không chỉ kể về thế giới mà còn tạo nên một thế giới khác. Thơ ca, theo ngữ nguyên của từ này, trở thành sự sáng tạo chân chính. Sự hình dung thơ ca học được ở Đức Chúa Trời tiếp tục sự nghiệp sáng tạo.
Thiên nhiên, đã đành, mang lại sắc màu, hình thái, vẻ bề ngoài của sự vật, nhưng chỉ là nguyên liệu. Phủ nhận trách nhiệm tái tạo, sao chép vật thể, người nghệ sĩ tách những yếu tố hiện thực khỏi thói quen, khỏi ý nghĩa chung và từ đó tạo nên một thế giới khác.
Quả thực, quay mặt khỏi cái hiện thực mà họ chối bỏ, người nghệ sĩ và nhà thơ mù quáng tuân theo qui luật lịch sử của sự phát triển và những mâu thuẫn bên trong của nó.
Lautreamont(8) khát khao “chống lại trời” hay Rimbaud đả phá “thời giết chóc” đã đi tìm lối thoát từ những mâu thuẫn giữa cuộc đời và thơ ca. Rimbaud không có khả năng sống cuộc đời của một con người và một nhà thơ ở nước Pháp, nơi những người công xã ca khúc khải hoàn đã chấp nhận im lặng và sống cuộc đời vất vưởng của kẻ phiêu lưu ở Harare. Nerval trở nên điên cuồng và tự tử. Baudelaire đi tìm những thế giới khác vì không đủ sức để sống trong thế giới này, giống như albatros của mình hay thiên nga buồn Mallarme. Jarry tạo nên hình tượng “Ubu roi” với tiếng cười trầm, đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu “qui luật điều hành những ngoại lệ và sự giải thích vũ trụ xung quanh thế giới này”.
Họ mỗi người mỗi vẻ, những tài năng khác nhau, và tất cả họ, từ những người lãng mạn đến những người siêu thực đều thuộc về một thế hệ, một giống người, mà đối với giống người này tất cả những gì tồn tại đều là thường lệ. Họ nhìn thấy vẻ hùng tráng trong sự từ chối mọi thực dụng về quan niệm xã hội (không nhận thức được rằng trong nền tảng của nó là xã hội tư bản chủ nghĩa) và trong sự tạo dựng vũ trụ của con người. Saint John Perse thuộc về thế hệ này, giống người này.
Đạt đến định đề cuối cùng, làm thành hình thức về sự có mặt của con người trong cuộc đời, thơ ca thay thế cho ông triết học. 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 12.01.2008 19:25:11
***

Tất cả được bắt đầu từ sự phủ nhận và nổi loạn, từ sự nhận thức rằng thế giới này xa lạ với con người: “Ta mong muốn đoàn tụ, chung sống với con người nhưng mặt đất với tâm hồn lạ lẫm, xa xôi lại khát khao ly biệt”, từ sự nhận thức rằng “cuộc đời này điên rồ, mù quáng”. Thế giới này của những gã con buôn, nơi mà “những quốc gia được đem ra bán mua dưới mặt trời lạm phát, những cao nguyên thuần phục, những miền đất được đẩy giá lên cao sau hương thơm ngát của hoa hồng”. “Còn sau đấy hiện ra những kẻ bán buôn và đổi chác. Những người từ xa xôi đến với chủ tâm lừa lọc. Và đi sau họ là những cảnh sát lành nghề và những nhà luật pháp…
Và đi theo sau họ – những sứ giả của giáo hoàng đi kiếm tìm những doanh thu béo bở…
Còn ta mơ màng giữa những kẻ huyên hoang như Thượng Đế!”
“Những cuốn sách đọc xong vẫn kín mít như bưng trong giấc ngủ – lẽ nào lại thế? Hy vọng ở đâu, lối thoát ở nơi nào?… Sự cao thượng, thanh cao – chỉ là giả dối!… Chức vô địch, đứng đầu – là sự phản bội!…
Và danh dự giã từ những đầu óc nổi tiếng nhất trần gian…”
Trong con mắt của Saint John Perse cả thế giới này lang thang và đang sụp đổ. Và đó là thế giới của ông.
Perse không tìm cách trốn chạy hay ẩn náu trong một tháp ngà nào đấy.
Con người này không tin vào Thượng đế nên không thể, khác với Claudel, đi tìm ý nghĩa cuộc đời ngoài bản thân mình.
Tuy nhiên, không một phút giây ông để mất lòng tin vào cuộc đời, vào con người, vào tương lai. Trên đỉnh điểm của tai họa ông giữ một sự lạc quan vô bờ bến, một lòng tin vào thắng lợi cuối cùng của con người, của những nền văn minh và thành quả của nó. Ta gặp ở ông một sự nhiệt tình có tính chất dự báo, khác với với những người lãng mạn trước năm 1848, lòng tin nhân hậu của Edgar Quinet(9) trong “Assuerus” – thì đã gần gũi với ta – và cảm xúc sử thi cao cả của con người đã cổ vũ cho Walt Whitman và Emile Verhaeren.
Lòng tin này có nguồn gốc từ xa xưa, khi con người sống trong hoà hợp với thế giới sự vật, khi còn sự thống nhất với vật chất có trong danh dự của con người, điều mà Perse có được từ thiên đường của tuổi thơ… “Quê hương tuyệt vời lại một lần nữa cần chinh phục, quê hương tuyệt vời của Vua từ xưa ta không nhìn thấy và vật bảo bối kiêu kỳ ở trong bài hát của ta”.
Thơ của Saint John Perse bắt đầu từ tiếng reo vui, từ tình yêu cuộc sống mà giá như ông là một tín đồ thì sẽ thành lời cầu nguyện và mãi mãi sẽ là “Tụng ca”, như tên ông đặt cho tập thơ đầu tay của mình. “Đấy là cái tên gọi tuyệt vời - ông viết cho Andre Gide(10) – mà tôi sẽ in một hoặc nhiều tập, không bao giờ tôi muốn một cái tên khác”.
Phẩm chất cao cả nhất - đó là sự gắn bó say mê với cuộc sống trong những thay đổi của nó: từ sự lên men của sinh lực trong cơ thể ta đến cảm giác vũ trụ của năng lượng con người, những thứ kích thích lịch sử, mang lại cho con người lòng tin vào tương lai.
Quả vậy, sáng tạo thơ ca của Saint John Perse có vẻ như một trường ca lớn, một bộ sử thi thống nhất về con người, thu nhận trong đó tất cả kinh nghiệm của mình, tất cả các nền văn minh, “huyền thoại bao thế kỉ” theo thước đo của thời đại chúng ta, cho phép ta cảm nhận, cho ta sống bằng ngọn gió trên biển lịch sử và với cảm giác tự hào ta tham dự vào những chuyển động này…
Yếu tố trung tâm trong thế giới quan của Saint John Perse là ý tưởng hình thành của Heraclitus(11) – liên tục huỷ diệt và liên tục sinh ra. Qui mô hoàn vũ, hình thức sấm ngôn, trường ca của nhà tiên tri Heraclitus gần gũi nhất với sáng tạo của Saint John Perse.
“Thế giới là một thực thể thống nhất – Heraclitus viết – không do một ai trong số các thánh thần hay con người tạo nên mà đã, đang và sẽ mãi mãi là ngọn lửa sống, theo qui luật cháy lên và theo qui luật lụi tàn… Dù anh có đi theo con đường nào đi nữa thì giới hạn của tâm linh anh không thể tìm ra… Đối với người sảng khoái tồn tại một thế giới thống nhất chung, còn người đờ đẫn sẽ rơi vào trong thế giới của riêng mình…”
Những câu trích từ tác phẩm của Heraclitus Ephesus gợi nhớ lối tư duy và phong cách của những câu châm ngôn trên những bức tường cổ – những tượng đài của những nền văn minh đã mất. Những trích đoạn mà Saint John Perse có vẻ đã giải mã và tái tạo lại trong thơ mình, truyền vào trong đó hơi thở của cuộc sống mới và tuổi trẻ. Trong con người có sự hồi hộp của biển và của gió. Tên gọi những tác phẩm lớn nhất của Saint John Perse là những trường ca về biển và về gió - đó là những lời bóng gió của con người không biết đến giới hạn. “Và không nói gì về biển mà ta chỉ nói về sự trị vì của biển ở trong tim”. “Những kẻ du hành vĩ đại của công việc, của ước mơ, những kẻ chuyện trò luôn khát khao những miền xa thẳm”. “Những kẻ phiêu lưu, mạo hiểm của tâm linh”. “Những kẻ đi kiếm tìm những con đường tự do và nước”.
Biển là chủ đề chính trong tác phẩm của Saint John Perse, cũng giống như tác giả của Odyssey vậy. Biển là nhu cầu, là khát vọng, biển là vô tận, vô cùng…
Biển - đó là lời kêu gọi mở ra những vùng đất mới cho những người đi chinh phục: “Ô biển Balboa(12)!... Biển rực sáng, chói lòa, biển của bài ca sức mạnh, biển xa hoa, sang trọng, nơi mỗi buổi chiều có một người thả con ngựa xốn xang… Nhưng giá như tất cả ta đều biết được rằng cả cuộc đời ta – chỉ là một chuỗi luân phiên quay về những gì đã biết?
Ô ký ức, ngươi luôn vượt quá ta, ngươi đầu tiên đặt chân đến bến bờ chưa một ai nhận ra, nơi mà ta chưa bao giờ có mặt”.
Biển là khát vọng của con người không biết đến giới hạn. Con người không có Thượng Đế, chỉ là con người nhưng không biết đến giới hạn: “Nào, hãy đi tiếp nữa, đi tiếp nữa – thử còn có điều gì ngoài mình ta đang có, thử còn có điều gì ngoài một con người?… Nửa đêm trên biển sau Giữa trưa… Và con người, một mình, giống như chiếc đồng hồ, chiếc bàn mỏng manh trên làn khăn nước…”
Cả trường ca – mà có thể là điều này quan trọng nhất – “trái ngược với những nghi ngờ thầm thĩ” ca ngợi nỗi ao ước, nỗi khát khao đủ đầy, vô tận…
Biển là vô bờ bến, biển giống như tình yêu. Cũng như các nhà thơ siêu thực, cũng giống như Aragon(13) đã viết: “Yêu – nghĩa là trước hết vượt ra khỏi giới hạn của bản thân mình”, Saint John Perse nhìn thấy trong tình yêu một sự trung gian giữa con người của thế giới vật chất và lịch sử: “Ô những cái mang giữa biển và tôi!…”
Trong thơ của Perse hình tượng biển và tình yêu gắn chặt với nhau, như những người đưa tin của những miền vô tận.
“Nỗi cô đơn trong tim của người đàn ông. Người đàn ông lạ lùng, người đàn ông vô biên bên người đàn bà - bên bờ biển”.
“Và con người đuổi theo trên đá cho đến khi gặp phiến đá cuối cùng, rồi cúi mình trước biển nghìn năm và nhìn thấy trong diệp thạch ánh lên một thân hình phụ nữ trong những cơn co giật không ngừng, trong triệu con sóng dâng lên – tựa như bụng những nàng tiên trong khoảnh khắc đang khoe vẻ đẹp trần truồng”.
Tình yêu với phụ nữ và tình yêu với biển đều vô tận như nhau, là bản chất của biểu tượng và là vật bảo đảm cho sự phì nhiêu của sáng tạo.
“Và đây. Ngọn gió vút lên cao. Và chiếc bàn chải của nhà thể thao đang bơi theo dòng nước chảy. Nếu biển đã cầm lên khí giới thì đừng một ai cãi lại!… Ta có nên gọi là tình yêu vĩ đại, tình yêu có hành động biếng lười?”
“Tình yêu – cũng là hành động mà thôi! Ta kêu gọi cái chết về chứng kiến, vì rằng chỉ có tình yêu dám cùng cái chết so đo sức mạnh… Không quyền lực, chẳng vinh quang không biết được đối phương, những thứ có sức mạnh như nhau trong trái tim của người trần”.
Nhà thơ biết thức dậy trong ta nỗi khát khao đặc biệt, làm say mê ta, mở ra trong ta một nghị lực mới để vượt qua những giới hạn, để làm việc không ngừng.
Ông khao khát sự đầy đủ mà không mong muốn chạy trốn. Nhu cầu trong tất cả những gì mà con người còn thiếu thốn. Và đi theo điều này là lòng tin tuyệt đối vào con người, vào tương lai không một chút lo sợ nhìn vào “mặt đất lại được sinh ra dưới biểu tượng màu hồng, mở ra từ cao điểm”.
Trái ngược với tất cả những nhà tiên tri giả hiệu của sự nghi ngờ, của điều vô nghĩa hay sự tuyệt vọng mà hiện nay người ta vẫn đưa ra mời gọi tuổi trẻ như những người thầy, Saint John Perse dựa trên sự vận động của con người hàng thế kỷ nay và nhìn thấy trong triết học của Heraclitus về con người và hoạt động sáng tạo của họ, đòi hỏi nghệ thuật phải nói về sự cao cả và hân hoan, để nghệ thuật cổ vũ sự hành động:
“Hãy cứ để cho trước dáng hình của biển người ta sẽ hứa hẹn cùng ta những đợt sóng – những tác phẩm tuyệt đẹp, muôn đời, những tác phẩm sống động, tuyệt vời – những tác phẩm vĩ đại và mãnh liệt không nguôi… để trả về cho ta phong cách của tồn tại, xứng đáng với con người…
Ai sẽ hồi sinh cho ta trong dòng nước chuyển động không ngừng những lời vĩ đại của nhân dân?”
Nhưng sự ca tụng con người và hành động của họ ở Perse không phải là sự ca tụng của một người lẻ loi và mỗi ngày một ít - điều này có thế thấy từ “Anabase” đến “Những ngọn gió” và “Những mốc ngoài khơi” – nó trở thành sự ca tụng những người đi chinh phục. Tất nhiên, Perse khác với Eluard(14), không chuyển đổi “từ chân trời một người sang chân trời tất cả mọi người”. Con đường đấu tranh của quần chúng chưa bao giờ là con đường của ông.
Nhưng, mặc dù với quan điểm quí tộc về cuộc sống cũng như sáng tạo của ông, Saint John Perse – trước hết là nhà thơ sử thi. Mà những thiên sử thi – từ những huyền thoại của ấn Độ đến những khúc saga của vùng Scandinavia, từ Kinh Thánh đến “Iliát” và “Bài ca Roland”(La Chanson de Roland) – không bao giờ là sáng tác của một người mà là sáng tạo của nhân dân, là những gì mà nhà thơ có thể thu nhận.
Chỉ có tâm hồn của quần chúng nhân dân có thể dâng lên đến tầm những chuyển động vĩ đại của thiên nhiên và lịch sử, mở ra ý nghĩa của nó và mang tiếng vọng tới ngàn sau.
Con người có ý định tạo nên trường ca như vậy, không thể đứng một mình, mà người đó phải cùng với quần chúng nhân dân. “Và Thi sĩ – cùng với chúng ta, với mọi người, trên con đường lớn của thời gian.
Vun vút con tàu của thời gian, vun vút con tàu của gió.
Giải thích những thông điệp là mối quan tâm của nhà thi sĩ”.
“Tiếng reo vui! Tiếng hò reo Thượng Đế! Hãy cứ để cho Ngài gặp ta giữa đám đông ầm ĩ mà không ở trong phòng.
Và nhắc lại đám đông, Ngài gọi ta, lăn ta đi đến tận cùng bến bờ xa thính giác…”
Những trường ca này đầy ắp lòng tin, vang lên bài ca của thời đại chúng ta và mang xa đến những thời đại mới của lịch sử, rằng Saint John Perse biết “nghe tiếng vọng xa xôi của những người bất tử và biết nghe ngôn ngữ của nhân dân”, và giữ gìn trong ký ức dấu tích của những nền văn minh cổ đại, giữ gìn tất cả những gì chứng kiến sự chuyển động của con người trong mỗi thời đại và biết giành lấy “tiếng reo của loài người, mà lúc này không một ai nghe rõ”…
Đấy là tất cả lịch sử, tựa như một con sóng hùng vĩ mang ta đi tới tương lai. Không phải một người mà cùng với tất cả. Ta hãy lắng nghe:
“…Giương cánh cung của đám đông, giữ ta bằng dây cung của mình. Và ngươi, đang nhảy múa giữa đám đông, ngươi, những lời cha cao cả, - trên bãi cát dài, ô Biển cả - liệu ngươi có trở thành biển của bí ẩn lặng câm, bằng giấc mộng xa xăm, còn xa hơn giấc mơ của giống nòi Sarmat?”(15)
Cuốn hút theo cảm hứng này, dâng lên từ vực sâu thế kỷ, từ lao động, đấu tranh của loài người, dựa trên sử thi xa xôi, Saint John Perse kêu gọi và đón chào một thế giới mới. Ta hãy lắng nghe ông:
“Và nhà thơ luôn luôn cùng các bạn. Cùng các bạn ý nghĩ của nhà thơ, như sự im lặng canh chờ. Thì hãy cứ để cho đến khi trời tối, hãy cứ để mặc nhà thơ bằng cái nhìn hờn dỗi sẽ nắm bắt niềm hạnh phúc sắp tới của con người!
Tôi vì các bạn mà đưa đến trong đôi mắt nhà thơ vực thẳm. Còn những giấc mơ của nhà thơ thì các bạn sẽ biến thành hành động”.
Vì rằng “công việc liên quan đến con người”, và chính công việc “là sự chứng kiến về con người”, tôi muốn lưu ý điều này trong tác phẩm của Saint John Perse…
“Đấy là niềm hy vọng, những hạt giống của hy vọng bằng những đôi mắt trên đất hãy ném – niềm hy vọng thế kia chưa từng có ai ban tặng cho người.
Và đây – sự trưởng thành đột ngột của một thế giới khác trong con tim chính ngọ của đêm…
Tất cả vàng bạc của nhà băng và của những tầng hầm của Quốc gia các bạn vẫn hãy còn thiếu thốn để mà mua những cổ phiếu vô giá này.
… Ta hãy nhớ về một bờ bến khác! Và ta hãy cúi mình trước Mặt trời đen đang bơi xuống thấp!”
Tôi không biết được tương lai nào mà Saint John Perse tin tưởng và hân hoan chào mừng đến vậy, tôi cũng không biết được những vàng bạc trong nhà băng hay tầng hầm của những quốc gia nào mà ông nhắc đến một cách giận dữ và mặt trời đen nào mà ông chờ đợi hiện ra. Nhưng trong những trường ca của ông ca ngợi vẻ cao cả, hùng tráng của con người và kêu gọi họ ở giữa đám đông, giữa mọi người, đề cao lòng tin vào tương lai của nhân loại, bản thân tôi là người đấu tranh cho sự thể hiện những hy vọng cụ thể của những người ở các quốc gia châu á, Phi, Mỹ Latinh, những người đã vùng dậy và không còn bao giờ chịu cúi đầu, những người đã dứt khoát từ bỏ quá khứ để xây dựng cho mình tương lai xã hội chủ nghĩa.
Đối với tôi không quan trọng, nếu như Saint John Perse có ý định thức dậy trong con người những ước mơ khác, những viễn cảnh khác, mà quan trọng là ông thức dậy trong tôi những ước mơ này, vẽ ra chính những viễn cảnh này, ca tụng và tạo ra tình hữu ái của những ai tin tưởng vào tương lai, bất kể những gì chia cách chúng ta, trái ngược với sự nghi ngờ, điều phi lý và sự tuyệt vọng.
Tôi yêu nhà thơ hoài niệm về quá khứ như vầy:
“Khi con người trong ngọn gió tự do hãy còn chưa biết dửng dưng và hãy còn chưa biết trèo lên đồi núi”.
Tôi yêu nhà thơ chào đón tương lai như thế này:
“Mặt trời hãy sinh ra! Tiếng hò reo của nhà Vua! Những Thủ lĩnh, Toàn quyền của những giới hạn hãy còn phía trước!
Ta giữa những người đón chào sự xâm nhập của thần thánh mới…”
Saint John Perse muốn cho những trường ca của ông tạo nên hình tượng của một nền văn minh mới lý tưởng, trên cơ sở đỉnh cao của những thời đại lịch sử – một nền văn minh thể hiện được toàn bộ lịch sử của con người, của những chinh phục, những chiến công, tất cả vẻ hào hùng của loài người trong mọi biểu hiện của nó.
Đấy không chỉ là ca ngợi một lối sống tích cực, mà còn là ý chí của Hegel(16) tạo nên một cá nhân phát triển toàn diện, làm giàu cho mình toàn bộ lịch sử của nhân loại, của những cá nhân trong quá khứ. Phong cách của loại thơ này là phong cách của cuộc sống. Tại sao những tình cảm của loại thơ này không có trong tôi, người chiến sỹ, mà lại khác với những tình cảm đã cổ vũ cho tác giả của nó?
Chẳng can hệ gì đến tôi, rằng tác giả, có thể, quay lưng lại với tương lai, tạo nên những cái là ý nghĩa của cuộc đời tôi – nếu như những bài ca do ông viết ra đi cùng với tôi trên con đường của mình: con mắt ông hướng về mặt trời, còn ta – ta làm những việc vặt vãnh chỉ để cho qua ngày, mà khả năng nhìn thấy trước, cả nhà thơ lẫn nhà tiên tri đều không có được.
Tôi cũng chẳng hề lôi kéo về phía mình, những người Mác-xít, một nhà thơ mà xa cách với chúng tôi không chỉ như một nhà ngoại giao của Quai d’Orsay mà còn tác phẩm của ông. Tuy nhiên trong bản hợp xướng anh hùng về sự chuyển động của nhân loại như thơ của Saint John Perse, ta cảm nhận được một tình yêu mãnh liệt với con người. Cái niềm lạc quan ấy, sự hiểu biết cuộc đời ấy và sự ca tụng con người cao cả là những gì gần gũi, là những gì mà ta quí trọng, vang lên trong ý nghĩa của ta và trong cuộc đấu tranh hàng ngày.
Và đây là những cái rất chung:
“Những chiếc bóng to lớn màu xanh đang chuyển động trên đồng bằng, trong im lặng xua bầu trời đi xuống đất… Vì rằng ta là những mục phu của tương lai..”
“Ta đưa lên trong tay, trong những bàn tay của mình nóng bỏng – tựa như một dàn những đôi cánh – một trái tim buồn bã của người trần, trong trái tim này có một tình yêu kín thầm, có lửa và có khao khát, ước mong…
Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe này đêm – trong sân những tu viện bỏ hoang, dưới những mái vòm ầm vang, giữa những đống tro tàn linh thiêng, những thành phố, những mô đất cổ – hãy lắng nghe tiếng bước chân của những linh hồn không nơi ở.
Có vẻ như đang giấu mình một thú dữ của rừng hoang.
Và đây là ta, thế kỷ vinh quang! Hãy đem trái tim người đo đếm”.
Vâng, tôi tâm đắc chủ nghĩa nhân đạo của người ngợi ca hạnh phúc và sự cao cả. Ông mang trong mình tất cả quá khứ của con người và không thể bằng lòng với hiện tại. Với ông – thơ ca là những gì thể hiện bản chất con người và cuộc đời trong quá trình hình thành.
Tất cả thơ ông bắt nguồn từ điều đòi hỏi này.

***

Nhiệm vụ của từ ngữ - không phải sao chép sự vật, không lấy khuôn mẫu cho mình, mà ngược lại, đào bới lên định nghĩa của chúng, nắm bắt giới hạn vị lợi, ý nghĩa của chúng, lấy ra như tia lửa từ đá, những khả năng không nhìn thấy trước, những ý nghĩ còn ẩn giấu mà từ ngữ mang trong mình và sẽ biến hiện thực thông thường nhất thành chất liệu.
Hiện thực có trong mình nhiều hơn so với sự hoạt động thường ngày, nhiều hơn những con đường mà hoạt động này đã đi qua, nhiều hơn những mối liên hệ theo thói quen.
Sự vật – chỉ là một phần của cái mà chúng định nghĩa. Đối với Baudelaire cả vũ trụ nhạy cảm là kho chứa hình tượng, ký hiệu, là cuốn từ điển của hình thức mà từ đó trò chơi sự tương xứng cho phép lấy ra những ngân vang bất ngờ.
Sự tương xứng giữa những cảm xúc khác nhau xuất hiện khi Saint John Perse hồi tưởng: “những con cá đang bơi tựa như chủ đề theo sự phát triển của bài ca”. Sự tương xứng giữa sự vật và sự mong muốn của ta: “Trí khôn của ngày có hình dáng một cây gỗ đẹp”. Sự tương xứng giữa sự vật và ý nghĩa trong giới hạn của vũ trụ…
Đây là đề tài chủ đạo trong thơ của Saint John Perse, cũng như trong thơ của Paul Claudel. Tuy nhiên, với một sự khác biệt cơ bản, đối với Claudel theo đạo Thiên Chúa thì ý nghĩa này đã đặt vào trong vũ trụ và con người chỉ việc giải mã nó trong sách thánh, trong khi đối với nhà nhân văn và vô thần Saint John Perse thì trong thế giới không có những giá trị nào khác ngoài hoạt động và sáng tạo của con người…
Con người tìm thấy nguồn cảm hứng chỉ ở trong những chiến công hiện tại của mình, chỉ ở trong những hoạt động đã qua của mình.
Mục đích của thơ ca là để nhận thức ý nghĩa này, là để chuyển tải trong đó thông điệp hay khải huyền, và không thể biến thành những hình thức thơ cổ điển có vần điệu. Lời của những nhà tiên tri đều thu nhận hình thức thơ của các loại kinh: từ thơ của Kinh Thánh đến thơ của Zarathustra(17), từ thơ của Claudel đến thơ của Saint John Perse.
Phong cách của tượng đài về sự vĩ đại, cao cả của con người thu nhận trong mình trí tuệ và lòng tin của mọi dân tộc, mọi thời đại, tất cả những huyền thoại, truyền thuyết, tất cả những gì do bàn tay con người tạo nên, tái tạo nó như một bộ sử thi bằng cách giải mã những dấu vết, những ký ức của quá khứ. Phong cách như vậy đối với Saint John Perse không quá cầu kỳ, không quá trang trọng. Những câu chú này chúng ta đôi khi ngỡ rằng quá bóng bẩy và trang trọng, “lời của những nhà tiên tri mang lại”. Nhưng chẳng lẽ có thể biểu hiện sự sinh ra của một thực tại mới bằng một phong cách nào khác, ngoài phong cách trang trọng, oai nghiêm này?
“Vinh quang của ta trên cát! Vinh quang của ta trên cát!… Và điều này không có gì sai lầm, sơ suất, ô những kẻ hành hương…
Trên cuộc đời xin hãy huýt gió lên, những vỏ sò xin hãy hát lên trên dòng nước!
Ta đứng trên bờ vực và trên bọt nước, trên cát nóng bừng lên. Ta sẽ ngủ hằng đêm trong bể nước và trong những con thuyền, trong những nơi thâm cốc cùng sơn, nơi trú ngụ những gì là vĩ đại”.
Nhà thơ ghi nhận về giới hạn của con người tựa hồ như là chính giọng nói của tồn tại… Trong “Những mốc ngoài khơi” thể hiện bản chất thơ ca Saint John Perse:
“Ái chà, ta biết những lời để dành cho ngươi và ta không biết được những lời đầy đủ
Và tình yêu cản trở ta với đám đông từ ngữ
Và lời của ta không còn nữa, không còn là những dấu hiệu nữa bây giờ
Chúng là sự vật được gọi tên bây giờ, chúng tự thân là sự vật
Hoặc là nói cho chính xác: ta trở thành những câu chuyện của ta, ta trở thành lời
Ta trở thành ngươi, bởi vì trước đây ta và ngươi không hoà hợp, ta trở thành thơ và bút pháp của thơ, và sự chuyển động biển khơi của nó
Và ta khoác vào áo choàng của nhịp điệu bao la…”
Đấy là những lời có hình bầu dục, là ngôn ngữ ám chỉ, khó hiểu, ngôn ngữ của giới luật, của lễ nghi với đặc trưng của những lời cầu nguyện, những câu thần chú, là ngôn ngữ mà trong đó hình ảnh và nhịp điệu, ý nghĩ và âm thanh tạo thành một khối thống nhất.
Đấy là những thuộc tính của thơ Saint John Perse, sự hoà hợp lạ lùng của ý nghĩ và âm nhạc đòi hỏi sự có mặt và chuyển động của chúng ta. Và không nghi ngờ, đấy là tiêu chuẩn quan trọng nhất của thơ ca. Sự chuyển động của trường ca cho ta thấy sơ đồ của vần điệu và âm nhạc cuốn hút ta. Có nên ngắt quãng nó hay chỉ đơn giản là kéo lệch chúng đi – và nói như Paul Valery(18), “có cái gì đó vỡ ra như cốc chén hay là pha lê”. Ta hãy nghe trường ca về biển này một lần nữa:
“…Biển Vaal(19), biển Mammon, biển của tên gọi bất kỳ và thế kỷ!
Biển một lòng chung thủy và chung những mơ ước của ta, vì rằng thiếu biển thì giấc mơ không thể sống qua –
Biển là vết thương bên sườn và là dàn đồng ca cổ xưa bên cánh cổng
Và là điều xúc phạm, là ánh huy hoàng, là vẻ hân hoan, là cơn mê sảng…”

***

(…) Có thể, Saint John Perse trở nên quí giá đối với chúng ta trước hết là bởi (và ở đây chúng ta lại trích dẫn ông, để dành cho ông lời cuối):
“… Ai nhìn thấy trong giấc mộng của mình những qui luật khác về những cuộc du hành trên mặt đất và ai kiên nhẫn đi tìm đất đỏ trong sâu thẳm mờ xa, để tạo nên hình bóng của ước mơ”
“… Ai tìm ra trong hơi mát âu lo rồi đứng lên từ bờ vực thẳm để ngọn gió thổi lên ý tưởng và ai can trường thổi tù và trước cổng lớn của ngày mai”.
_________________
(1)Claudel, Paul Louis Charles Marie (1868-1955) – nhà thơ, nhà ngoại giao Pháp.
(2)Antilles – quần đảo ở Đông Ấn gồm những đảo lớn như: Cuba, Jamaica, Haiti, Puerto Rico… những đảo nhỏ như: Trinadad, Tobago, Barbados…
(3)Petain, Henri Philippe (1856-1951) – chính khách. Từ 1940-1944 là thủ tướng và là người đứng đầu nước Pháp.
(4)Briand, Aristide (1862-1932) – chính khách. Bộ trưởng ngoại giao, thủ tướng Pháp những năm 1909-1931. Giải Nobel Hoà bình năm 1926.
(5)Quai d’Orsay - đường phố bên bờ sông Seine, nơi có toà nhà Bộ Ngoại giao Pháp. Cụm từ “Quai d’Orsay” thường được dùng đồng nghĩa với Bộ Ngoại giao Pháp.
(6)Marx, Karl (1818-1883) – nhà tư tưởng, người sáng lập chủ nghĩa Mác.
(7)Goethe, Johann Wolfgang von (1749-1832) – nhà tư tưởng, nhà thơ Đức.
(8)Lautreamont, Comte de tên thật là Isidore Lucien Ducasse (1846-1870) – nhà văn, nhà thơ Pháp.
- Rimbaud, (Jean Nicolas) Arthur (1854-1891) – nhà thơ Pháp.
- Harare – thủ đô của Zimbabwe (châu Phi).
- Nerval, Gerard de tên thật là Gerard Labrunie (1808-1855) – nhà văn, nhà thơ Pháp.
- Baudelaire, Charles Pierre (1821-1867) – nhà thơ Pháp, chủ soái phái hình tượng.
- Mallarme, Stephane (1842-1898) – nhà thơ Pháp.
- Jarry, Alfred (1873-1906) – nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Pháp.
(9)Quinet, Edgar (1803-1875) – chính khách, nhà sử học Pháp.
- Whitman, Walt (1819-1892) – nhà thơ Mỹ.
- Verhaeren, Emile (1855-1916) – nhà thơ Bỉ.
(10)Gide, Andre (1869-1951) – nhà văn Pháp, giải Nobel Văn học năm 1947.
(11)Heraclitus (540-480 tr. CN) – nhà triết học Hy Lạp cổ đại.
(12)Balboa, Vasco Nunez de (1475-1591) – nhà chinh phục Trung–Nam Mỹ (conquistator). Năm 1513 là người đầu tiên đi qua eo Panama để sang bờ Thái Bình Dương.
(13)Aragon, Louis (1897-1982) – nhà thơ, nhà văn Pháp.
(14)Eluard, Paul (1895-1952) – nhà thơ Pháp.
(15)Sarmat (Sarmatian, Sarmatai, Sauromatai) – tên gọi một bộ tộc người sống ở châu Âu khoảng thế kỉ 6-4 tr. CN (nay vùng đất này là lãnh thổ Nga, một phần Đức, Áo).
(16)Hegel, Georg Wilhelm Friedrich (1770-1831) – nhà triết học Đức.
(17)Zarathustra (sống khoảng trên 1000 năm tr. CN) – nhà tiên tri Ba Tư, nhà thơ, người sáng lập đạo Thờ Lửa.
(18)Valery, Paul Ambroise (1871-1945) – nhà văn, nhà thơ Pháp.
(19)Vaal – thần nước, thần chiến tranh của người Do Thái cổ.
- Mammon – theo Kinh Thánh là thần giàu có (Tân Ước_Ma-thi-ơ 6:24; Luca 16:13).



© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch, chú giải
"Các nhà thơ Pháp"
printed with kind permission

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 10.04.2008 11:08:30

 
Frédéric Mistral (tiếp theo)
 
 
GẶP GỠ
 
Tôi đi qua bãi tắm
Trên bãi cát vàng
Vẻ dịu dàng của cô gái da ngăm
Bừng lên như ảo ảnh
Và khung cửa mở toang
Bờ môi của em
Uống ngọn gió mặt trời
Cửa đóng.

Nàng tựa hồ như giấc mộng
“Anh hãy là của em” –
Tôi cầu nguyện. Nỗi đam mê dâng lên
Lòng tôi trĩu nặng. Nàng giơ cánh tay tuyệt trần
Và kêu lên:
“Hãy để cho đôi cánh
Của tình yêu đưa ta đến hào quang”.

Thung lũng tình yêu
Trong bóng rừng sồi. Con đường dẫn ta về đập nước
Của những điều khao khát
Ta đến gần hơn chốn xa xôi
Ta ở đây chỉ có hai người
Cuộc đời hãy chết
Nhưng hãy gìn giữ thơ tôi.

Hãy gìn giữ tiếng thì thầm dịu ngọt
Những giấc mơ giữa ban ngày
Những nụ hôn khao khát
Những tình cảm mê say
Hãy gìn giữ những giọt lệ, tiếng cười
Và bầu nhiệt huyết
Của tình yêu sơ suất
Và hãy giữ gìn khoảng rộng bao la.

Cây cỏ mọc trên núi An-pơ
Hút vào những tuyết
Rồi hương thơm lại rót
Trên cỏ và hoa
Mùa xuân đến tự bao giờ
Trên bờ môi người yêu dấu nhất
Và nụ cười trên môi
Hương thơm ngào ngạt.

Khi mũi tên vô hình
Vào tôi đâm thủng
Tiếng gọi của người tình
Trong cỏ hoa vang vọng
Không còn nghe tiếng sấm vang lên
Và nước trên đồi đổ xuống
Dòng thác lăn nhanh
Như tên bắn.

Trong thung lũng đam mê
Và trong tổ lá
Khi hạnh phúc ta nhớ về
Rơi xuống một ngôi sao lạ
Vội vàng ngạt thở
Rơi xuống thật xa
Than ôi, lối quay trở về
Dành cho ta đã không còn nữa.

Em mỉm cười rồi nói cho tôi biết
Trong ngày lễ ở Aliskampe
Ngọn gió biển mang em về
Ở đó em nhìn tận mắt
Lễ mi-xa của Chúa Giê-su.

 

 

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 24.06.2008 14:44:48
 
Frédéric Mistral (tiếp)
 
 
GỬI LOUIS

Tình đốt lên ngọn lửa
Ngọn lửa cháy bừng lên
ánh hào quang rạng rỡ
Trong ánh mắt người tình.

Giờ nỗi buồn vây quanh
Như bóng đêm dày đặc
Nhưng sẽ đến hào quang
Khoảnh khắc cần nắm bắt.

Hỡi chàng trai si tình
Tình yêu như đồng cỏ
Giao cho người cắt cỏ.

Bông hoa đỏ cháy lên
Xin nói cùng người bạn
Hãy trao cho dao chạm.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 24.06.2008 15:06:47
 
Frédéric Mistral (tiếp)
 
 
GỬI LOUIS

Tình đốt lên ngọn lửa
Ngọn lửa cháy bừng lên
ánh hào quang rạng rỡ
Trong ánh mắt người tình.

Giờ nỗi buồn vây quanh
Như bóng đêm dày đặc
Nhưng sẽ đến hào quang
Khoảnh khắc cần nắm bắt.

Hỡi chàng trai si tình
Tình yêu như đồng cỏ
Giao cho người cắt cỏ.

Bông hoa đỏ cháy lên
Xin nói cùng người bạn
Hãy trao cho dao chạm.


cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 08.10.2008 09:39:32

Sully Prudhomme (tiếp)


CHƯA BAO GIỜ NGHE TÊN

Chưa bao giờ nghe tên, chưa nhìn thấy
Chưa bao giờ tôi từng gọi tên em
Nhưng chung thủy và vui lòng chờ đợi
Đến muôn đời, tôi vẫn mãi yêu em!

Tôi giang tay hướng về em, cầu nguyện
Chẳng hề gì khép lại cánh tay run
Bởi vòng tay lại về em hướng đến
Đến muôn đời, tôi vẫn mãi yêu em!

Chỉ là ước mơ, chỉ là hy vọng
Theo dòng lệ này, như nước, tan nhanh
Tuôn dòng lệ, tôi vui mừng sung sướng
Đến muôn đời, tôi vẫn mãi yêu em!

Chưa bao giờ nghe tên, chưa nhìn thấy
Chưa bao giờ tôi từng gọi tên em
Nhưng tôi biết em, tôi cảm tạ em
Đến muôn đời, tôi yêu em, mãi mãi!


HORA PRIMA*

Tôi chào đón ngày khi còn chưa thức dậy
Bằng ánh sáng của mình ngày chạm đến thế kỉ tôi
Nhưng tôi chưa nhận ra sự tiếp xúc như vậy
Khi ngày nhìn hồn tôi xuyên qua giấc mơ đời.

Tôi nằm im trên giường, không cử động
Như pho tượng đá trên những nấm mồ
Trong đầu tôi những nghĩ suy rất sáng
Tràn ngập ánh mặt trời, tôi không mở mắt ra.

Tôi cảm thấy như trong ánh bình minh
Chào vầng dương, dàn đồng ca đang hát
Và trong tim tôi có tiếng hót của chim
Không thấy hoa, chỉ mùi hương ngào ngạt.

Ngoài thực tại, ngoài những điều lo lắng
Của cuộc đời, tôi cảm thấy như là
Rất ngọt ngào, tất cả niềm vui sướng
Không ngủ mà đang sống, tựa trong mơ.
________________
Hora prima: giờ thức tỉnh (tiếng Latinh).




cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 25.03.2009 15:26:39
SỰ CỨU RỖI TRONG NGHỆ THUẬT

Nếu chỉ có trời xanh và biển xanh
Màu đỏ của hoa hồng, màu vàng lúa mạch
Thì vẻ đẹp khô khan vuốt ve ánh mắt
Niềm vui của ta thật cay đắng vô cùng.

Nhưng có vẻ đẹp khác ở chốn trần gian:
Nụ cười đắng cay trong nước mắt cúi xuống
Dễ thương hơn cả màu xanh của trời, của biển
Đó là bóng hình người phụ nữ yêu thương.

Linh hồn ta chịu đau khổ muôn năm
Nhưng giữa những bài ca, sau những lời to nhỏ
Đau khổ của tình yêu vẫn đắm đuối mê hồn.

Nghệ thuật hãy cứu ta, như áo giáp binh
Để bóng hình thân thương, ta yêu mà không đau khổ
Như màu của trời xanh, như hương của hoa hồng!

cacbac
  • Số bài : 412
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.10.2007
RE: Các nhà thơ Pháp - 18.03.2010 14:05:27


Paul-Marie Verlaine (tiếp)



THU CA

Mùa thu nức nở
Rót ra nỗi buồn
Và tiếng vĩ cầm
Cho lòng đau thắt.
Chất đầy trong ngực
Nỗi buồn cô đơn.

Nỗi buồn nặng hơn
Khi tiếng chuông ngân
Trong đêm vắng vẻ
Xao xuyến ngập lòng.
Nhớ về ngày cũ
Nước mắt trào dâng.

Ta chạy ra đồng
Hỡi cơn gió độc
Bao nhiêu mơ ước
Mi hãy cuốn phăng
Vào đêm tối mịt
Như chiếc lá vàng.







PHỤ NỮ VÀ MÈO

Phụ nữ chơi với mèo – trò chơi cổ điển
Như núi đồi với mũ trắng trên đầu
Thâu đêm suốt sáng, liên tục với nhau
Bàn tay trắng vuốt ve bàn chân trắng.

Một bên giận dữ, âm thầm bí ẩn
Khi vuốt ve vị chúa tể của mình
Giấu sau găng tay mềm mại tơ nhung
Là con dao mổ lẹ làng của móng.

Bên kia giấu vẻ dữ dằn sâu kín
Dịu dàng vuốt ve chúa tể của mình
Nhưng quỉ sứ ở nơi này trú ẩn.

Trong bóng đêm, giữa chăn êm gối ấm
Sau tiếng cười của phụ nữ vang lên
Bốn mắt lửa như lân tinh phát sáng.



ÁNH TRĂNG

Hồn của trăng tinh tế tựa khu vườn
Nơi những mặt nạ lang thang thơ thẩn
Chúng múa may nhảy múa, đàn ngân tiếng
Nhưng trong mắt lấp lánh một nỗi buồn.

Tiếng nhạc u sầu cứ thế ngân lên
Chúng hát về tình yêu bằng điệu thứ
Không tin hạnh phúc, không tin gì cả
Những lời ca hòa nhập với ánh trăng.

Và ánh trăng lạnh lẽo, đẹp nhưng buồn
Trong mê man họa mi giờ im tiếng
Chỉ trong lòng gào lên từng đợt sóng
Giữa những tượng đài có một đài phun.






KHÔNG BAO GIỜ NỮA

Hoài niệm ơi, mi hành hạ gì ta?
Trời mùa thu nhuốm sắc màu buồn bã
Những con chim đang bay tìm xứ lạ
Ngọn gió vờn những chiếc lá mùa thu.

Ta với nàng sánh bước giữa ngày thu
Mà cứ ngỡ hai người trong giấc mộng
Bằng một giọng của trời xanh nàng bỗng
Hỏi: “Anh hạnh phúc với những ngày qua?”

Giọng nói ngọt ngào, ánh mắt xao xuyến
Ta lặng im đáp lại một nụ cười
Và bờ môi nhẹ hôn bàn tay trắng.

Ôi bông hoa đầu thơm ngát xinh tươi!
Ôi giọng nói êm đềm trong gió thoảng
Và lời “vâng” âu yếm tự bờ môi!