HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN!

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 76 bài trong đề mục
Tác giả Bài
venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 17.02.2008 22:21:53
Mình rất thích lịch sử và mình rất muốn trao đổi về lịch sử dân tộc Việt Nam. Bạn nào yêu thích lịch sử giống mình thì hãy trao đổi với mình. Sau đây là vấn đề mình đang thắc mắc mong các bạn chỉ giáo!
 
01. Bạn nào cho mình biết, cơ tầng văn hóa Việt Nam hiện đại được hình thành từ những yếu tố (thành tố) nào?
 
02. Bạn nghĩ gì về vai trò của Hoàng Đế Lý Công Uẩn - người sáng lập vương triều Lý - trong lịch sử Việt Nam (chúng ta đang hướng tới dịp kỷ niệm NGÀN NĂM THĂNG LONG - HÀ NỘI.
7
8
blog

SĨ ĐOAN
  • Số bài : 6301
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 19.01.2008
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 06.03.2008 19:25:50
LÝ CÔNG UẨN LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ
 
Năm ất tị vô cùng thương tiếc (1)
Vua Đại Hành về cõi Niết bàn
Truyền ngôi báu cho chàng Long Việt.
Các hoàng tử muốn triệt giành ngôi
Bảy tháng trời, ôi thôi đẫm máu!
Ngồi ngai vàng chưa ráo mồ hôi
Bị Long Đỉnh tranh ngôi giết chết(2)
Một con người mất hết tính người
So tích xưa ngang đời Trụ Kiệt(3)
Anh chung dòng dám diệt chi ai!
Bọn tù phạm- chặc tay, đốt sống
Kẻ nào chống- bỏ sọt nhấn sông
Hoặc leo cây- đốn hông gãy ngã
Mượn đầu Sư- sóc mía- hả buồn!
Tìm vui thích trước luồng huyết đỏ
Chơi sa đọa, ngự triều nằm đó
Ai muốn tâu cần có thằng hề
Bẫm khôi hài vua mê tít mắt(!)
Một ông vua quá quắc nước nhà
Nên thành tục gọi ra Ngọa Triều(!)
 
Năm kỉ dậu, bao điều sẽ đến?(4)
Lonh Đỉnh mất ai mến, ai thương?
Con còn bé- ai vương triều đại?
Tôn Công Uẩn- sáng khai sơn hà!(5)
Lên ngôi đế hiệu là Thế Tổ
Dời Kinh đô ra chỗ La Thành(6)
Lấy cớ thấy Rồng đổi Thăng Long
Cải Hoa Lư làm Trường An Phủ
Và Cổ Pháp làm Thiên Đức Phủ
Xuất tiền kho xây đủ chùa chiền...
Năm mậu ngọ sai liền bá quan (8)
Nguyễn Đạo Thành, Phạm Hạc... sang Tàu
Thỉnh Kinh Tam Tạng đưa vào Đại Hưng (9)
Nhận cầu phong- Giao Chỉ Quận Vương.
Thời gian sau phong Nam Bình Vương.
Nước láng giềng Chiêm Thành, Chân Lạp
Giữ phận mình cống nạp luân phiên.
Việc giao bang bình yên suông sẻ
Tuy trong nước lẻ tẻ nổi lên
Nhưng dập tắt bởi lệnh oai hùng!!!
...
                                 SĨ ĐOAN
-----------------------------------------------------------------------
1- Năm 1005.
2- Con thứ.
3-Độc ác ví như vua Trụ Kiệt bên Tàu.
4- Năm 1009.
5- Lý Công Uẩn giữ chứ Điện Tiền chỉ huy sứ.
6- Đất Hoa Lư chật hẹp không thể mở mang ra chỗ đô hội.Tháng bảy năm Thuận Thiên (1010) khởi sự dời dô , lấy cớ thấy Rồng đổi thành Thăng Long tức là Hà Nội bây giờ.
7- Năm 1018
8- Kho chứa tàng thư.
9- Ở Diễn Châu thuộcNghệ an và mạn Thượng du.
Kỉ niệm xưa chơn tình lưu giữ
Trử trong lòng chẳng chút nhạt phai!

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 10.03.2008 01:19:40
Bạn Sĩ Đoan thân mên!
Dạo này mình không online nên bây giờ mới vào và biết bạn cũng quan tâm đến vấn đề của mình! Cám ơn bạn nhé!
Mấy hôm nữa mình sẽ cung cấp cho bạn và các bạn yêu sử về nguồn gốc của Lý Công Uẩn. Nếu bạn có tài liệu gì thì có thể cho mình xin theo địa chỉ thuongtranthu@yahoo.com được không vì mình đang học về lịch sử và văn hoá Việt Nam mà!
7
8
blog

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
Hai Bà Trưng - 14.03.2008 05:29:50
Nhân ngày 6 tháng 2 âm lịch là ngày giỗ Hai Bà Trưng,
xin góp với các bạn bài về Trưng Nữ Vương do Vương Trùng Dương biên soạn,
trích đăng từ diễn đàn Xứ Quảng:

TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)
Anh Thư Khởi Nghĩa Mở Đường...

Vương Trùng Dương biên soạn

tranh  của họa sĩ Vi Vi
Vào đầu thế kỷ thứ I, nước ta còn bị lệ thuộc nhà Đông Hán (25-220) bên Trung Hoa, Thái thú Giao Chỉ là Tô Định vô cùng bạo ngược, làm lắm điều tàn ác, người người oán hận. Chính sách ngoại biên của nhà Hán với nhiều luật lệ ngặt nghèo, khắt khe đã khơi dậy ngọn lửa oán hờn trong lòng dân nước Việt.

Trưng Trắc sinh năm Giáp Tuất (năm 14 sau Tây Lịch), quê ở Mê Linh (Yên Lãng, Phúc Yên nay thuộc vùng Hạ Lôi, Yên Lãng, Vĩnh Phú). Cha là Trưng Định, làm quan Lạc Tướng ở huyện Mê Linh. Mẹ là bà Man Thiên, tức Trần Thị Đoan, dòng dõi Hùng Vương.

Gia đình ông Đặng Tập ở Chu Diên thuộc dòng dõi Lạc Tướng, con trai ông là Đặng Thi Sách, khôi ngô, giỏi võ nghệ, có tinh thần yêu nước. Được tin ở Mê Linh có hai nữ lưu có ý chí kiên cường, dám chém đầu Tích Lâm khi buông lời khả ố, chọc ghẹo nên tìm đến kết thân.

Thi Sách và Trưng Trắc cùng chung chí hướng, tài giỏi võ nghệ, tâm đầu ý hợp nên kết nghĩa phu thê.

Năm 39, Tô Định giết Thi Sách. Vừa giận thù nhà, vừa hận nợ nước, nên Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị chiêu binh mãi mã phất cờ khởi nghĩa đánh quân nhà Hán. Sau khi làm lễ để tang chồng, Trưng Trắc thảo tờ hịch kể tội ác của quân nhà Hán và kêu gọi dân chúng đứng dậy chống giặc thù để phổ biến khắp nơi.

Dưới bóng cờ nương tử, nghĩa binh Mê Linh phá quận trị Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về dưới bóng cờ khởi nghĩa nhằm tiêu diệt quân xâm lăng. Chẳng bao lâu, quân của Hai Bà Trưng đã đánh hạ được tất cả 65 thành, Tô Định khiếp sợ, chạy về Nam Hải chịu tội với vua Hán.

Tin thắng trận bay đi, nhân dân các quận Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay), Cửu Chân và Nhật Nam (Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay) hưởng ứng rất đông theo tiếng gọi của hai vị nữ anh thư. Thanh thế của lực lượng khởi nghĩa thật lừng lẫy.

Trưng Trắc lên ngôi vua, tự xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh chấm dứt 150 năm Bắc thuộc lần thứ nhất (111 trước Tây Lịch đến 39 sau Tây Lịch). Trưng Trắc lên ngôi vua, phong cho Trưng Nhị làm Bình Khôi Tướng Quân, nắm giữ toàn thể quân lực.

Tháng Chạp, năm 41, vua Hán Quang Võ phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, mang 20 vạn quân sang đánh. Trận kịch chiến dữ dội giữa đại quân của Mã Viện với dân binh do Trưng Nữ Vương thống lĩnh đã diễn ra ở Lăng Bạc (Đông Triều - Yên Phong, Hà Bắc). Quân Mã Viện mai phục trên các triền đất cao giữa vùng Lăng Bạc bị Trưng Nữ Vương đem quân tới chận đánh. Trận chiến đầu tiên với đạo quân của Mã Viện đã mang lại thắng lợi nhưng quân sĩ đã hy sinh quá nhiều; trước tình thế đó, Trưng Nữ Vương thu quân về giữ Cấm Khê (Hà Nội - Quốc Oai - Hà Tây).

Mã Viện xin tăng cường thêm quân rồi tiếp tục kéo binh xâm lược, trận huyết chiến lại xảy ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Đáy. Qua bốn trận thư hùng với quân địch, hàng vạn quân dân Việt đã bị giết và bị bắt. Quyết chống trả với quân giặc đến cùng, Trưng Nữ Vương phải bỏ Cấm Khê lui quân về đến Hát Giang, nơi đây vì quân ít, thế cô và cùng đường, hai vị anh thư không muốn rơi vào tay quân địch bèn gieo mình xuống sông tự vận để bảo toàn danh tiết. Đó là ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43). Theo Nam Sử, Trưng Trắc hưởng dương 29 tuổi.
Mã Viện đem phủ trị về đóng ở Mê Linh, dựng trụ đồng nơi phân chia địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nhằm đe dọa, người dân cam phận sống trong cảnh lầm than!

Ngày nay, ngoài quê hương Mê Linh, tại bãi Đồng Nhân ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội có ngôi đền cất từ năm Nhâm Tuất (1142) thờ Hai Bà Trưng rất lớn. Tại Hát Môn, Sơn Tây có Miếu Hát thờ Hai Bà Trưng, theo dân gian, nơi nầy rất linh thiêng...
Để tỏ lòng tôn kính, hàng năm vẫn tổ chức lễ kỷ niệm hai vị anh thư Trưng Trắc và Trưng Nhị vào ngày mùng 6 tháng 2 Âm lịch.

Trong “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca” có bốn câu:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân...”
Sách “Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập” có những vần thơ vịnh Hai Bà Trưng:
“Giúp dân dẹp loạn trả thù mình
Chị rủ cùng em kết nghĩa binh
Tô Định bay hồn vang một trận
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.
Mới dày bảo vị gia ơn trọng
Đã đội hoa quan xuống phúc lành
Còn nước, còn non, còn miếu mạo
Nữ trung đệ nhất đấng tài danh”.

Vua Tự Đức đã đề cập về hai vị nữ anh thư: “Hai Bà Trưng là khách quần thoa, thế mà lóng hăng việc nghĩa, còn làm rung động được triều đình nhà Hán! Dẫu thế lực yếu, thời vận ngửa nghiêng, cũng đủ dấy dức lòng người, rỡ ràng sử sách...”

Đây là hai vị nữ lưu đầu tiên trong lịch sử nước nhà đã dấy lên ngọn cờ khởi nghĩa, chống trả ách xâm lược của Bắc Phương.

Sau ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đất nước lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài đến 5 thế kỷ (43-544).


Vương Trùng Dương

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2008 05:44:42 bởi Ngọc Lý >

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 17.03.2008 23:23:28



- Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp.
Cổ Pháp vốn là tên hương ở thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ X  thì được  đổi thành châu và sang  thế kỷ XI được nhà Lý  đổi thành phủ Thiên Đức. Ngày nay, vùng đất này thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh.
- Mẹ của Lý Công Uẩn là người họ Phạm (có truyền thuyết chỉ rõ bà tên là Phạm Thị Ngà).
Sự ra đời của Lý Công Uẩn gắn liền với câu chuyện huyền thoại rằng: bà mẹ họ Phạm “đi chơi chùa Tiên Sơn” rồi được giao hợp với người thần à sinh ra Lý Công Uẩn vào ngày 12.2 năm Giáp Tuất (tức 8.3.974).
Vấn đề đặt ra là cha của Lý Công Uẩn là ai?
Thông qua một số truyền thuyết dân gian hiện vẫn còn lưu truyền  ở vùng Bắc Ninh đã cung cấp cho chúng ta những thông tin hé lộ phần nào đó về vấn đề này:
Vào thế kỷ X, ở làng Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh bây giờ có 1 người đàn bà goá chồng họ Phạm, do nhà nghèo nên phải đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp. Nhà sư trụ trì chùa này là Lý Khánh Văn đã đi lại với bà. Đến khi bà thụ thai, Thiền sư Lý Khánh Văn sợ mang tiếng thiên hạ chê cười  nên đã tìm mọi cách kiếm cớ đuổi bà đi. Sau ngày sinh nở, bà bọc đứa con vào một tấm áo và đem đến gửi trước cửa chùa Cổ Pháp. Nhà sư họ Lý thấy đứa trẻ cốt cách khác người nên đã đem về nhận làm con nuôi và đặt tên cho đứa trẻ theo họ mình là Lý Công Uẩn. Vì lẽ đó mà đương thời, dân gian  có câu ca chế giễu nhà sư này rằng:
“Con ai đem đến chùa này
Nam mô di phật, con thầy thầy nuôi”.
Còn về chùa Cổ Pháp: nay thuộc xã Đại Đình, nằm ngay cạnh làng Đình Bảng. Vì vậy làng Đình Bảng thuộc châu Cổ Pháp xưa được coi là quê hương của Lý Công Uẩn. Ngày nay tại đây còn nhiều di tích, lễ hội và truyền thuyết về Lý Công Uẩn cũng như khu rừng cấm, lăng mộ các vị vua Lý, đền Đô (đền Bát Đế – nơi thờ phụng hương khói tám vị hoàng đế triều Lý).
- Lý Công Uẩn mặt mũi khôi ngô, thông minh, hiểu biết trước tuổi, lại lộ một tính cách khác người.
Tương truyền rằng: có lần, nhà sư họ Lý sai Lý Công Uẩn đem đặt oản lên bàn thờ cúng phật, cậu bé đã khoét oản ăn trước nhưng không hiểu sao Lý Khánh Văn biết nên đã phạt nặng Lý Công Uẩn. Cậu bé cho rằng việc mình khoét oản ăn thì chỉ có tượng Hộ pháp biết nên nhân lúc nhà sư họ Lý đi vắng đã tát tượng 3 cái rồi lấy son viết lên lưng tượng “đồ tam thiên lý” (đày đi ba ngàn dặm). Đêm hôm đó Lý Khánh Văn nằm mơ Hộ pháp buồn rầu đến từ biệt: “Hoàng Đế đã phạt đày tôi đi xã, xin chào ông ở lại”.
Sư Lý Khánh Văn sợ hãi sáng ra lên chùa thì thấy chữ như lời Họ pháp nhắc đến trong mộng nên sai người rửa mãi không được đến khi Lý Công Uẩn lấy tay xoa đi dòng chữ đã mất.
Lý Công Uẩn càng lớn càng thông minh. Thiền sư Lý Khánh Văn phải nhờ người em ruột dạy bảo giúp là Thiền sư Vạn Hạnh vì ông là người nổi tiếng đương thời.
Tương truyền rằng: sang ở với Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn vẫn không thay đổi tính cách nên có lần bị phạt trói suốt đêm vào một cái cột. Bị muỗi đốt không ngủ đượcm, Lý Công Uẩn làm thơ:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Cùng trăng thanh thả giấc thần tiên
Đêm ngày nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ thiên hà xã tắc nghiêng”.
Sư Vạn Hạnh tình cờ nghe được tự nhủ thầm “Đứa trẻ này không phải người thường, sau này lớn lên ắt hẳn có thể giải nguy, gỡ rối, làm bậc minh chúa trong thiên hạ”. Và từ đó, ông thay đổi cách dạy bảo.
- Do sự nuôi dưỡng của hai vị Thiền sư nổi tiếng thế kỷ X là Lý Khánh Văn và Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã trở thành người có học vấn trong giới Phật giáo lúc bấy giờ.
Khi Lý Công Uẩn đến tuổi trưởng thành, được Vạn Hạnh tiến cử vào làm quan nhà Lê đời vua Lê Đại Hành (941 – 1005). Đến đời vua Lê Long Đĩnh (tức Lê Ngoạ Triều 986 – 1009), ông thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, là một chức võ quan cao cấp chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô.
- Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), Lê Long Đĩnh chết, Thiền sư Vạn Hạnh cùng các trọng thần như Đào Cam Mộc trong triều suy tôn Lý Công Uẩn lên làm vua sáng lập ra vương triều Lý.
Xung quan việc lên ngôi của Lý Công Uẩn cũng được dân gian phủ đầy những huyền thoại.  phản ánh cuộc vận động chính trị mạnh mẽ của giới Phật giáo Việt Nam cùng quần thần ủng hộ đối với Lý Công Uẩn.Tương truyền rằng lúc Ngoạ Triều còn sống đã xảy ra 1 hiện tượng ở châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh hiện ra những dòng chữ:
“Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập địa
Mộc di tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn linh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình”
Mấy câu này ý nói là vua thì chết yểu, bề tôi cường thịnh, họ Lê mất và họ Lý lên. Vạn Hạnh thấy vậy khuyên Lý Công Uẩn nên chớp thời cơ nhưng ông sợ việc bại lộ nên đã đem Vạn Hạnh đi giấu ở chùa Tiên Sơn.
Về phía nhà Lê, Lê Ngoạ Triều ăn khế thì thấy có hột mận (chữ lý = cây mận) nên đã tin sấm ngữ và tìm giết hết những người họ Lý riêng Lý Công Uẩn ở bên lại không hay biết.
- Lý Công Uẩn lên ngôi tại Hoa Lư vào ngày 2.11 năm Kỷ Dậu (21.11.1009) và ban đại xá cho thiên hạ, lấy năm 1010 là năm Thuận Thiên thứ nhất mở ra vương triều Lý – một vương triều oanh liệt có nhiều cống hiến đặc biệt cho dân tộc Việt Nam.
 

7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 17.03.2008 23:32:16
Chào bạn Ngoc Lý.
Mình rất cám ơn bạn đã post bài về "cuộc khởi nghĩa củaTrưng nữ vương". Mình sẽ sớm post bài về những vấn đề liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà, kể cả các nữ tướng dưới trướng của Hai Bà nữa. Hy vọng rằng với những gì mình có và với những hiểu biết của mình sẽ góp phần nào đó giúp mọi người có thêm tư liệu về lịch sử dân tộc của chúng ta - Dân tộc Việt Nam anh hùng!
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 18.03.2008 22:26:03
CUỘC KHỞI GNHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG (40 - 43 AD)
 
Ngọc Lý và các bạn yêu lịch sử dân tộc thân mến!
Mình rất vui khi bạn và các bạn khác cùng quan tâm đến Lịch sử dân tộc chúng ta. Có thể nói dân tộc Việt Nam chúng ta lạ vô cùng, văn hoá Việt Nam còn lạ hơn nữa!!! Đúng không!? Này nhé, một dân tộc nhỏ bé như dân tộc Việt Nam ta mà thoát khỏi ách ngót ngàn năm Bắc thuộc của các đế chế phong kiến phương Bắc. Không những thế, dân tộc ta lại còn kháng chiến giành thắng lợi trước những thế lực hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại:
 
+ Thời trung đại, kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên thắng lợi hoàn toàn - một lực lượng bất khả chiến bại đối với mọi quốc gia thời Trung đại từ châu Á đến châu Âu.
+ Thời cận và hiện đại: đấu tranh giải phóng dân tộc trước hai địch thủ  - hai đế quốc đặc biệt hùng mạnh: Thực dân Pháp - thực dân đầu sỏ hùng mạnh nhất thời cận đại; đế quốc Mỹ - đế quốc đầu sỏ hùng mạnh nhất thời hiện đại.
 
Vấn đề đặt ra là: điều gì làm nên những kỳ tích đó? Cơ sở nền tảng nào đảm bảo cho dân tộc ta bách chiến bách thắng tất cả các thế lực xâm lược trong lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước, bảo toàn nền độc lập và lãnh thổ dân tộc?
 
Hôm nay, để giải đáp phần nào cho những thắc mắc trên, tôi xin cung cấp cho các bạn thêm tài liệu tham khảo về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nhưng, nếu ai đọc và ham thích lịch sử dân tộc xin cho mình hỏi:
 
01. Tại sao trang mở đầu lịch sử, khai sinh ra dân tộc Việt Nam lại là phụ nữ và mở đầu trang lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc chúng ta cũng là người phụ nữ?
 
02. Bạn nghĩ gì về vai trò người phụ nữ trong văn hoá Việt Nam?
Sau đây xin mời các bạn cùng tìm hiểu về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng.


Dưới ách đô hộ của nhà Đông Hán, nhân dân Âu Lạc càng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn thời Triệu và Tây Hán. Năm 34, Tô Định thay Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ càng tàn bạo, tham lam hơn. Y cùng bọn tay chân ra sức đốc thúc nhân dân nộp cống, thuế, thẳng tay trừng trị những người có tư tưởng và hành vi chống lại chính quyền đô hộ, chèn ép và ràng buộc các quan lại bản địa. Do đó, mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân Giao Chỉ với Tô Định và chính quyền đô hộ càng ngày thêm sâu sắc. Không những ở Giao Chỉ mà các quận Cửu Chân và Nhật Nam đều có mâu thuẫn sâu sắc với chính quyền đô hộ của nhà Đông Hán. Nhiều cuộc đấu tranh lẻ tẻ đã diễn ra ở Kinh Môn (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh), Duyên Hà (Thái Bình), Bắc Giang v.v... do các quý tộc bản địa lãnh đạo. Tất cả những cuộc nổi dậy đó đều bị Tô Định và chính quyền đô hộ đàn áp tàn bạo. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ đã lên tới cực điểm. Đó là thời cơ để Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) hô hào nhân dân vùng lên khởi nghĩa vũ trang.

Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em, con lạc tướng huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), thuộc dòng dõi “họ Hùng”. Mẹ hai bà là bà Man Thiện (tức Trần Thị Đoan) thuộc dòng dõi quý tộc bản địa có ý thức bất khuất và tự chủ. Theo sự ghi chép của sử sách nhà Hán thì Trưng Trắc là người “rất hùng dũng” “có can đảm, dũng lược”. Bà vừa có sức khoẻ vừa có chí lớn. Chồng bà là Thi Sách, con trai của lạc tướng Chu Diên (Hà Tây). Mối quan hệ thông gia gắn bó giữa hai gia đình quý tộc càng làm tăng thêm uy thế của Hai Bà Trưng và càng khiến Tô Định theo dõi, chú ý hơn. Mặc dù vậy, với sự giúp đỡ và cổ vũ của bà Man Thiện, lại được sự ủng hộ của nhiều quan lang, phụ đạo và nhân dân quanh vùng, Trưng Trắc cùng em gái đã hô hào nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Đầu năm 40, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Hát Môn (cửa sông Hát, huyện Phúc Thọ, Hà Tây). Khi cờ nghĩa phất lên, liền được đông đảo nhân dân khắp nơi nhiệt liệt hưởng ứng. “Trưng Trắc, Trưng Nhị hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành trì ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng”.

Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Rất nhiều phụ nữ đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa và trở thành những tướng soái của Hai Bà như nữ tướng Lê Chân, Vũ Thục Nương, Thiều Hoa, Diệu Tiên, Man Thiện, Đào Kỳ v.v... Hai Bà còn liên lạc và phối hợp với các cuộc đấu tranh vũ trang ở các địa phương khác đang hoạt động độc lập. Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân lớn mạnh nhanh chóng. Cả nước đã đứng lên theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Hai Bà chỉ huy nghĩa quân ồ ạt tiến về vây hãm quận lỵ Giao Chỉ. Tô Định hoảng hốt bỏ thành trì tháo chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa toàn thắng. Cả bốn quận được giải phóng. Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Nền độc lập, tự chủ của đất nước, dân tộc được khôi phục sau hơn 150 năm bị nô lệ.

Được các lạc tướng, tầng lớp quý tộc và nhân dâncả nước ủng hộ và suy tôn, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã xưng Vương (Trưng nữ Vương) bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền tự chủ, lấy Mê Linh làm Kinh đô của cả nước, phong chức tước cho những người có công lao lớn trong sự nghiệp giành lại độc lập. Bà Trần Thị Đoan được phong làm Man Hoàng hậu, nữ tướng Lê Chân được phong làm Thánh thiên Công chúa, nữ tướng Thiều Hoa làm Phụ Vương Công chúa Đông quân tướng quân, nữ tướng Ngọc Lâm làm Thánh Chân Công chúa, nữ tướng Vũ Thục Nương làm Bát nàn Công chúa v.v...

Tổ chức chính quyền tự chủ của Hai Bà Trưng còn rất sơ sài. Chúng ta chưa tìm thấy tài liệu mô tả về tổ chức và hoạt động của nhà nước tự chủ thời Hai Bà Trưng. Nhưng điều có thể khẳng định đó là một nhà nước độc lập, tự chủ của nhân dân ta.
 
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Chính quyền mới do Trưng Vương đứng đầu đã xá thuế 2 năm liền cho nhân dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhân dân Âu Lạc được sống trong một đất nước độc lập, tự chủ trong gần 2 năm.

Mùa hè năm 42, Vua nhà Hán phong Mã Viện làm Phúc Ba tướng quân chỉ huy đạo quân kéo sang xâm lược nước ta. Bấy giờ Mã Viện đã 58 tuổi, là một lão tướng có nhiều chiến công và kinh nghiệm đàn áp phong trào đấu tranh vũ trang của các dân tộc Tạng- Miến và nông dân ở An Huy (Trung Quốc). Cùng với Mã Viện còn có Phiêu kị tướng quân Đoàn Chí được phong làm Lâu thuyền tướng quân chỉ huy đạo binh thuyền sang Giao Chỉ. Lưu Long vốn làm thái thú Nam quận (Hồ Bắc) được phong làm Trung lang tướng quân tước hầu làm phó tướng cho Mã Viện, Binh lạc hầu Hàn Vũ. Quân xâm lược nhà Hán kéo vào xâm lược nước ta lần này vào khoảng hai vạn bao gồm 8000 lính tuyển từ các quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lang, 12.000 lính lấy ở các quận thuộc bộ Giao Chỉ, 2000 thuyền bè với một đạo thuỷ quân. Đạo quân xâm lược này toàn người Hoa Nam (Trung Quốc) nên rất dễ thích nghi với thuỷ thổ nước ta với những viên tướng tàn ác, giàu kinh nghiệm chiến đấu.

Quân Mã Viện chia thành hai đạo: một đạo quân bộ do Mã Viện trực tiếp chỉ huy vượt qua Quảng Tây, Quảng Đông đến Hợp Phố tiến vào Âu Lạc. Đạo thuỷ quân do Đoàn Chí chỉ huy theo đường biển đến Hợp Phố để hội quân với đạo quân bộ của Mã Viện để cùng tiến vào Âu Lạc. Đến Hợp Phố, Đoàn Chí chết. Viện thống suấtcả 2 đạo thuỷ, bộ. Quân Mã Viện theo hai đường thuỷ, bộ kéo vào Âu Lạc. Từ vùng ven biển nước ta, hai đạo quân thuỷ bộ ngược sông Bạch Đằng tới Lục Đầu Giang tiến sâu vào Giao Chỉ, đến thẳng Lãng Bạc (Tiên Du, Bắc Ninh). Mùa hạ năm 43, quân giặc ráo riết chuẩn bị tấn công vào quân đội của Hai Bà Trưng.
Sau một thời gian chờ đợi, chưa thấy Mã Viện tiến quân, Hai Bà Trưng chủ động kéo quân tấn công giặc. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra ở vùng Lãng Bạc. Quân của Hai Bà Trưng chiến đấu kiên cường nhưng do quân giặc mạnh và đông, có lực lượng thuỷ bộ phối hợp với nhau, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân Hai Bà Trưng thiếu trang bị và thiếu kinh nghiệm chiến đấu nên bị thất bại nặng nề, nhiều người bị hy sinh hoặc bị bắt. Hai Bà phải lui quân về Mê Linh rồi về Cấm Khê (vùng chân núi Ba Vì). Mã Viện tấn công vào Cấm Khê; quân của Hai Bà Trưng bị đánh bại, Hai Bà chạy đến sông Hát (sông Đáy) thì nhảy xuống sông tự tử, một số tướng lĩnh noi theo gương Hai Bà Trưng cũng tự tử.

Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế cũng liều với sông
.

Sau khi đánh bại được quân chủ lực của Hai Bà Trưng, Mã Viện còn phải vất vả và khó khăn trong việc tiêu diệt nhiều đội quân kháng chiến ở rải rác các quận, huyện, mãi tới cuối năm 43 mới cơ bản hoàn thành sau khi tiêu diệt được một bộ phận nghĩa quân Trưng Vương do lão tướng Đô Dương chỉ huy hoạt động ở quận Cửu Chân. Cuộc xâm lược của Mã Viện đã tàn sát hàng vạn nhân dân Lạc Việt. Nhiều quý tộc bản địa bị giết, bị bắt đày sang Trung Quốc (Linh Lăng- Hồ Nam). Chế độ Lạc tướng bị bãi bỏ, nhà Hán thực hiện chế độ trực trị tới cấp huyện.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng bị thất bại, đất nước ta lại rơi vào ách đô hộ của phong kiến Hán tộc, nhưng nó đã có một ý nghĩa thời đại to lớn, định hướng, mở đường cho công cuộc giành lại độc lập của nhân dân ta sau đó, trong suốt hơn một nghìn năm bị đô hộ. Đó là ý chí kiên quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại nền độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Chính vì lẽ đó, sau thất bại của Trưng nữ Vương, đã có nhiều cuộc nổi dậy chống lại nền đô hộ của phong kiến phương Bắc tiếp theo nổ ra khắp nơi.
7
8
blog

SĨ ĐOAN
  • Số bài : 6301
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 19.01.2008
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 22.03.2008 13:19:52
 LIỆT NỮ NHỊ TRƯNG
          (40-43)
Nhà Đông Hán chẳng tu nhân lễ
Đáy lòng tham chẳng thể đong đầy
Vét tất cả sức người sức của
Bủa lên rừng xuống tận bể sâu
Đi đến đâu gieo sầu gieo khổ
Nhổ không chừa nếu khó thuận ưng.
 
Năm giáp ngọ- Tô Định- Thái Thú (1)
Bộ Giao Chỉ gầm rú thở than(2)
Năm canh tý giết chàng Thi Sách
Mối căm thù anh ách muôn dân
Dồn sức mạnh người thân Thi Sách-
Vợ Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị
Đôi gái tài ở huyện Mê Linh
Con Lạc tướng ngụ làng Hạ Lôi
Cùng nhân dân sục sôi đánh giặc
Đuổi quân thù trốn bặt Nam Hải
Quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố
Cố đồng tâm tận lực Nhị Trưng
Như thác đổ dời non lấp bể
Sang thành trì dễ trở bàn tay
Sáu mươi lăm thành chớ một, hai
Rồi xưng vua ngự ngay Mê Linh.(3)
 
Năm tân sửu Mã Viện đánh tràn (4)
Men bờ biển phá rừng đào núi
Giáp binh Trưng mất trận kinh hoàng.
Quân ô hợp rã tan nhanh chóng
Bà rút về trú đóng Cẩm Khê(5)
Vừa xây dựng vừa lo bá tánh
Nhưng quân thù quyết đánh sạch sanh.
Sông Hát Giang lưu danh muôn thuở 
Khí tiết Bà rộ nở non sông!
Nhân dân ta tỏ lòng kính mến
Đấng anh hùng phận nữ trung cang
Lập đền thờ khắp chốn dương gian
Mùng sáu tháng hai- vang lễ hội
Tưởng nhớ Bà - sống dậy non sông!!!.
 
BẮC THUỘC LẦN 2 (43-544)
ĐÔNG HÁN ( 25-220)
 
Đất nước ta rơi vào Đông Hán
Dựng trụ đồng phân dáng phân khu (6)
Khắc " Đồng trụ chiết- Giao Chỉ diệt" (7)
Dọa dân lành chớ thiệt gì đâu!
Thời gian lâu dần trôi nên núi (8)
Tận bây giờ biết bới đâu ra.
Từ ngày ấy Hán ta sa súc
Bọn quan tham ra sức hòanh hành
Bắt dân lành xuống bể mò trai...
Lên rừng rậm săn nai, tê giác...
...
                                 SĨ ĐOAN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2008 22:13:16 bởi SĨ ĐOAN >
Kỉ niệm xưa chơn tình lưu giữ
Trử trong lòng chẳng chút nhạt phai!

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 02.04.2008 23:55:00
CHIẾU DỜI ĐÔ (THIÊN ĐÔ CHIẾU)
Tác giả: Lý Công Uẩn (974 - 1028)

PHIÊN ÂM:

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hối thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản khúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao vương cố đô Đại – la thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc, Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?

DỊCH NGHĨA:

Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ nhà Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.

Huống chi thành Đại La – đô cũ của Cao vương – ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nan Bắc, Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tươi tốt. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?

(Trích theo Uỷ Ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện Văn học (1977): Thơ văn Lý - Trần, tập 1. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.04.2008 00:01:03 bởi ngocdiep87 >
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 19.04.2008 01:58:39
huhuhu! Cai topic nay cua minh chac som chet yeu qua!
Co ai ghe tham hay xin post them bai cho minh di! May hom nay minh ban chua danh may dc nen chua the bo sung them tu lieu.
7
8
blog

ĐạoCấy
  • Số bài : 365
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 10.05.2007
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 19.04.2008 17:36:06
Đừng khóc chớ. Cái Pic này hay lắm, cám ơn Ngocdiep.
Mỗi lần đăng nhập là vào xem có bài viết mới không. Chờ bài viết tiếp của bạn, đừng khóc chớ, xấu lắm

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 20.04.2008 15:56:31
TỨ ĐẠI THIỀN SƯ NỔI TIẾNG DƯỚI TRIỀU LÝ (1009 - 1225)
Để khỏi sự mong mỏi của Đạo Cấy, minh lại tiếp tục post bài vậy. Dưới đây là hành trạng của 04 Đại Thiền sư nổi tiếng của nước ta dưới triều Lý. Mời Đạo Cấy và các bạn cùng tìm hiểu, và nếu có thể, hãy post cho mình những tư liệu mà các bạn biết về các vị Thiền sư này vào đây cho mình nhé! Mình xin cảm ơn các bạn trước!
 

ĐẠI THIỀN SƯ VẠN HẠNH
(? – 1018)
Nguyễn Vạn Hạnh tên thực và năm sinh đều chưa rõ, chỉ biết ông là người châu Cổ Pháp (cùng quê với Lý Công Uẩn - Ngọcdiệp87 chú thích thêm), lộ Bắc Giang. Từ nhỏ, ông đã học thông tam giáo (Phật giáo – Nho giáo và Đạo giáo - Ngọcdiệp87 chú thích thêm), đặc biệt rất say mê đạo Phật.
Năm 21 tuổi, ông đi tu ở chùa Lục Tổ, hương Dịch Bảng (nay là Đình Bảng - Ngọcdiệp87 chú thích thêm) và lập thành thế hệ thứ 12 dòng thiền Nam phương. Tuy theo đạo Phật nhưng ông vẫn quan tâm đến những biến cố chính trị, xã hội trong giai đoạn đó. Ông đã góp nhiều ý kiến giúp Lê Đại Hành (980 – 1005) chống giặc ngoại xâm và dựng nước, sau đó lại góp phần giúp Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009 (chính xác là ngày 02 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tức là ngày 21 tháng 11 năm 1009 tại kinh đô Hoa Lư – Ninh Bình - Ngọcdiệp87 chú thích thêm). Là một gnười có cái nhìn nhạy bén về thời cuộc như vậy nên trong thời Lê thế kỷ X, ông đã được vua Lê Đại Hành (tức Lê Hoàn  - Ngọcdiệp87 chú thích thêm) tôn kính; sang thời nhà Lý, càng được triều đình trọng đại. Lý Thái Tổ (1009 – 1028) đã phong cho ông làm quốc sư (ông được đứng đầu hàng ngũ Tăng quan tham dự triều chính và bàn những vấn đề trọng yếu của đất nước - Ngọcdiệp87 chú thích thêm).
Ông mất ngày 15 tháng 05 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thuận Thiên thứ IX (tức là ngày 30 tháng 06 năm 1018).
Trong cuộc đời, ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị nhưng hầu hết trong số đó đã thất truyền (đặc biệt trong thời nước ta bị nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược và cai trị). Thông qua khảo cứu của các nhà nghiên cứu Hán Nôm thì những tác phẩm Thiền sư Vạn Hạnh để lại cho chúng ta ngày nay chỉ còn 05 bài thơ, có tính chất những lời sấm ký và lời kệ. Ngoài ra còn có một ít lời phát biểu về thời cuộc.

TỪ ĐẠO HẠNH 
(? – 1117)
Từ Lộ là con của ông Từ Vinh. Ông đã giữ chức Tăng quan đồ án dưới triều Lý, sinh năm nào và quê quán ở đâu đến nay chúng ta chưa rõ, chỉ biết ông trú quan ở hương Yên Lãng (tục gọi là làng Láng)
Theo TULA, ông là nhà sư thuộc thế hệ thứ 12 dòng thiền Nam phương, nhưng qua sử sách, phương pháp tu hành của ông lại gần với phái Mật tông. Ông đi tu ở chàu Thiên Phúc trên núi Phật Tích, châu Quốc Oai. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết được hành trạng đích thực của Thiền sư Từ Đạo Hạnh như thế nào. Nhưng theo TULA thì ông từng kết bạn với hai nhà sư là Minh Không và Giác Hải và cả ba người đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu về đạo Phật. Có thể nói đây là một trong những nhân vật và giữa truyền thuyết và sự thực khó phân định ranh giới cho minh bạch. Ông mất vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Hội Trường Đại Khánh năm thứ tám (tức năm 1117). Hiện những tác phẩm ông để lại cho chúng ta chỉ còn 04 bài thơ.
 
DƯƠNG KHÔNG LỘ
(? – 1119)
Dương Không Lộ, tên thực và năm sinh đều chưa rõ. Người hương Hải Thanh. Tổ tiên vốn làm nghề chài lưới. Đến đời ông mới bỏ nghề ấy đi tu và trở thành thế hệ thư 09 dòng thiền Quang Bích. Từng tu ở các chùa Nghiêm Quang, Chúc Thánh và Hà Trạch.
Ông chuyên tâm nghiên cứu về Thiền tông và Mật tông. Thường ngày cùng Thiền sư Giác Hẩi du ngoạn những nơi danh lam thắng cảnh. Sống giản dị điềm đạm, không màng danh lợi.
Ông đã viên tịch vào ngày 03 tháng 06 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 đời vua Lý  Nhân Tông (tức ngày 12 tháng 07 năm 1119). Cũng như nhiều nhà sư nổi tiếng khác, ông từng viết nhiều tác phẩm nhưng qua chiến tranh loạn lạc nên tuyệt đại bộ phận những tác phẩm ấy đều đã thất truyền. Ngày nay, các nhà nghiên cứu mới chỉ phát hiện ra 02 bài thơ còn lại của ông mà thôi.
 
NGUYỄN GIÁC HẢI.
(? - ?)
Nguyễn Giác Hải là người hương Hành Thanh, cùng quê với Thiền sư Không Lộ. Năm sinh, năm mất và tên thật của ông đều chưa được biết rõ (chỉ biết pháp danh Giác hải thiền sư!!!). Lúc trẻ, ông làm nghề đánh bắt cá, thường coi thuyền làm nhà, lênh đênh trên sóng nước, ngao du khắp đó đây. Năm 25 tuổi, ông bỏ nghề đánh cá đền ở chùa Hà Trạch, rồi kế thừa thiền sư Không Lộ, trở thành một nhà sư trong thế hệ thứ 10 dòng thiền Quang Bích.
Cũng như Từ Đạo Hạnh và Không lộ, Giác Hải thiền sư là một nhà sư để lại nhiều truyền thuyết lỳ lạ. Nhưng điều có thể biết chắc là các vua nhà Lý đều tỏ lòng kính trọng ông. Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) rất tin phục xem như bậc thầy. Vua từng làm thơ ca ngợi ông (đó là các bài Tán Giác Hải Thiền sư và bài Thông Huyền đạo nhân) và mỗi khi ra chơi Hải Thanh, bao giờ vua cũng vào chùa thăm ông trước.
Đến đời Lý Thần Tông (1128 – 1137), nhiều lần vua triệu ông vào cung song ông đều lấy cớ già yếu để từ chối. Tác phẩm ông để lại chỉ còn 02 bài thơ.
7
8
blog

[TNT]x_x_x
  • Số bài : 3
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.04.2008
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 01.05.2008 15:52:45
Thêm một vài nét về Lý Công Uẩn:

LÝ CÔNG UẨN - ĐỊNH MỆNH MỘT LỜI TIÊN TRI


Chúng ta đều biết Lý Công Uẩn là vi vua khai sáng cơ nghiệp đế vương 8 đời của dòng họ Lý. Nhưng ít người biết được sự nghiệp đế vương của Người gần như đã đựoc tiên đoán trước khi mà người thầy của Ngài - thiền sư Vạn Hạnh đã từng khen Lý Công Uẩn rằng: "Đứa bé này không phải người thường sau này lớn lên ắt có thể giải nguy, gỡ rối làm bậc minh chủ trong thiên hạ" (ĐVSKTT bản kỷ, quyễn II, trang 1b) đó là một lời tiên tri có tính cách định mệnh cho lịch sử Đại Cồ Việt, cho những ai đang làm vua hay sẽ làm vua sẽ phải chết, phải nhường ngôi hay phải bị phế lập và là một bản án tử hình cho Lý Công Uẩn nếu như lời tiên tri này lọt vào tai Đại Hành Hoàng Đế hay các con cái của ông là những người sẽ nối ngôi.
Lời khen, lời dự đoán hay sấm ký này nếu được phát ngôn từ một người có ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng hay trong giới quan lại thì đó là một lời tuyên chiến mà Lý Công Uẩn phải mang suốt cả cuộc sống của ông ta chỉ trừ khi ông ta làm vua, hoặc trốn là nước ngoài hay ở ẩn trong núi rừng hang ốc. Nếu những người đang cầm quyền mê tín dị đoan và tin rằng ông trở thành thiên tử thì chắc chắn ông sẽ trở thành kẻ bị săn đuổi.
Lời tuyên bố này là một quả bom trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, nó là một trong những nguy cơ làm xáo trộn trật tự xã hội, tạo ra một sự chia rẻ nghi kỵ lẫn nhau, sẽ tạo ra một câu hỏi "Ai là đứa bé sẽ làm vua đây?" Thiền sư Vạn Hạnh đã chỉ đích danh đó là Lý Công Uẩn con nuôi của Lý Khánh Văn và là học trò của ông.
Ngọa Triều Hoàng Đế là Lê Long Đĩnh, con trai thứ 5 trong 10 hoàng tử của Hoàng Đế Lê Đại Hành, mẹ của ông có thể là một phụ nữ người Chiêm Thành hay con gái của một quan chỉ hậu (lời chú thích ĐVSKTT trang 232 )
LÝ LỊCH CỦA LÝ CÔNG UẨN:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản ký, quyễn II, trang 240 chép: "Thái tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ PHạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức điện tiền chỉ huy sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua... là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học, lại ưa thsich dị đoan, bị lụy vì chuyện đó."
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính biên, quyễn II, trang 283 chép: "...Khi ngài lên ba, sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nuôi làm con, nhân đấy lấy theo họ Lý."
Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thì Sĩ, bản ký, quyễn II, trang 192 chép: "...Vua lúc bé thông minh, vẽ người tuấn tú khác thường, khi 7 tuổi Khánh Văn gởi nhờ sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học."
Đại Việt Sử Lược trang 110 chép: "Vua theo giúp vua Lê Trung Tông, lúc Trung Tông bị bọn Ngọa Triều giết, quần thần đều chạy trốn hết mất cả, chỉ còn một mình vua ôm thây Trung Tông mà khóc. Ngọa Triều khen là người trung, phong làm Tả Thân Vệ Điện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ."
THIỀN SƯ VẠN HẠNH:
Được mô tả như sau: ÔNg người làng Cổ Pháp (ĐÌnh Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) cùng làng với Lý Công Uẩn, ông sinh vào khoảng từ năm 940 đến 950, tức là trong thời kỳ Ngô Quyền làm vua, ông họ Nguyễn, chưa rõ tên tục là gì. Nhà ông đời đời thờ Phật, từ thuở nhỏ ông đã tỏ ra thông minh khác thường, học khắp Tam giáo, khảo cứu nhiều luận của nhà Phật và rất nhạt nhẽo với chuyện áo xiêm. Năm hai mươi tuổi thì ông xuất gia, cúng với Định Huệ thiền sư theo học Lục tổ ở chùa Đình Bảng phủ Thiên Đức (Từ Sơn). Trong khi công việc nhà chùa hơi rỗi, ông lại cặm cụi học tập quên cả mõi mệt.
Sau khi Lục Tổ chết rồi, học lực của ông rất tiến. Những câu ông nói, đều thành ra lời phù sấm. Vua Lê Đại Hành rất là tôn kính.
Đầu hiệu Thiên PHúc (năm 980), nước ta bị tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo đem quân sang đánh, vua mời ông vào triều để hỏi chuyện được thua, ông đoán trong 21 ngày quân giặc tất nhiên phải lui. Rồi sau quả đúng như lời ông nói, ông đã từng tiên tri rằng Lý Công Uẩn sẽ làm vua từ khi Thái Hậu Dương Văn Nga vợ của vua Đinh Tiên Hoàng khóac áo bào lên vai Lê Hoàn, lúc đó Lý Công uẩn chỉ mới sáu bảy tuổi.
Vạn Hạnh là thày dạy học Lý Công Uẩn, vừa là quân sư cho họ Lý ông nói: "Người này không phải tầm thường, mai sau tất làm chúa cả nước." Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính biên, quyễn II, trang 280).
Vạn Hạnh đã từng khuyên người học trò của mình hãy đoạt lấy ngôi báu trong tay Lê Long Đĩnh trong Đại Việt Sử Lược trang 113 chép: "Gần đây tôi thấy bài sấm văn lạ, biết nhà Lê đương mất, mà nhà Lý đương lên. Họ Lý lại không có ai khoan hòa, nhân hậu và trung thứ như ông, nên rất đuợc lòng dân, nay tuổi tôi đã hơn 70 rồi, chỉ sợ không kịp thấy sự thịnh trị mà lấy làm giận."
Còn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư lại chép rõ ràng hơn lời Vạn Hạnh nói với Lý Công Uẩn: "...không ai bằng Thân Vệ (Lý Công Uẩn) là người khoan thứ nhân từ, được lòng dân, lại đang nắm binh, giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải là Thân vệ còn ai được nỗi nữa."
Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, ông phong ngay cho Vạn Hạnh làm quốc sư, Vạn Hạnh sống trên dưới 90 tuổi mới chết (1025)
Ngô Sĩ Liên cho rằng: "Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ đã biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt hơn bọn thường vậy..."
Còn Ngô Thì Sĩ thì cho rằng: "Sư Vạn Hạnh có chí khí hơn đời, ôm tài lược phò tá nghiệp vương, kiến thức hơn hẳn mọi người, tính toán, biết trước sự việc, cũng là tay lỗi lạc trong giới thiền, nhưng hay tìm điều bí ẩn để làm việc quái đản, chỉ tu về pháp thuật mà không tu về đạo đức. Khi thờ vua Lê Đại hành thường dùng phép bói để đoán việc hành quân, thắng hay bại, nói nhiều điều rất đúng, đến khi biết nhà Lý sắp dấy lên, đặt ra câu sấm, giả làm chữ sét đánh để làm thần kỳ hóa cái thuật của mình... Xướng lên những thuyết mê tín, hoặc để gieo tai họa cho thiên hạ và đời sau là cái đầu mối của ác nghiệp. Nhà PHật nói là: "Hết thảy đều do tâm người mà tạo nên". Vạn Hạnh phạm vào điều ấy đầu tiên đấy". (ĐẠi Việt Sử Ký Tiền Biên, trang 205).
CUỘC CHÍNH BIẾN
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 237 mô tả diễn biến từng giờ của cuộc "đảo chính" thầm lặng không đổ máu chỉ xảy ra trong hai ngày như sau:
"Ngày Tân Hợi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) Ngọa Triều chết, ngày Quý Sửu (tức là 2 ngày sau) Lý Công Uẩn, tự lập làm vua.
Trước đấy ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỷ dấu sét đánh thấy có chữ "thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh, hòa đao mộc lạp, thập bác tử thành, đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung kiến nâật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình...".
Vạn Hạnh tự đoán riêng đại ý mấy câu nói rằng vua thì còn non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương đông mọc ra thì thứ nhân ở phương tây lặn mất, trải sáu bảy năm thì thiên hạ thái bình.
Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ, được lòng dân, lại đang nắm binh, giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải là thân vệ còn ai đương nỗi nữa, tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may ngàn năm có một."
Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh mang Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song cũng từ đấy lấy làm tự phụ, mới nảy ra lòng dòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.
Có lần Ngọa Triều ăn quả khế lại thấy hột mận, mới tin lời sấm ngữ, ngầm tìm người họ Lý giết đi, thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh, rốt cuộc vẫn không biếtĐến khi Ngọa Triều băng, vua nối còn bé, Công Uẩn cùng với Hữu Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đê mỗi người "được" đem 500 quân tùy long vào làm túc vệ.
Khi ấy Chi Hậu Đào Cam Mộc dò biết Công uẩn có ý muốn nhận việc bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu nên không kham nổi khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nháo nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ lúc này không nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm Đinh Lễ, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm gì?".
Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó, nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả thong thả bảo: "Sao ông lại nói thế, tôi bắt ông nộp quan."
Cam Mộc thong thả bảo Uẩn rằng: "Tôi thấy thiên thời nhân sự thế, cho nên mới dám phát ngôn, Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết."
Công Uẩn nói: "Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi."
Hôm sau Cam Mộc lại bảo Công Uẩn: "Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che dấu được nửa. Chuyển họa làm phúc, chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, thân vệ còn nghi ngại gì nữa?".
Công Uẩn nói: "Tôi đã hiểu rõ ý ông không khác gì với ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì tính kế thế nào?".
Cam Mộc nói: "Thân vệ là người khoan thứ nhân từ, lòng người chịu theo, hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, thân vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau mà kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được."
Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với các khanh sĩ và các quan ai cũng vui theo và ngay ngày hôm ấy tất cả đều họp trong triều, bàn rằng: "Hiện nay dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập thân vệ làm thiên tử, lở bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có còn giữ được cái đầu hay không?".
Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử lên ngôi hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô "vạn tuế", vang dậy cả triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu Thuận thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, bỏ ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết.
Đọc qua đoạn mô tả trên ta có thể tóm tắt cuộc đối thoại giữa Lý Công Uẩn, Đào Cam Mộc và Vạn Hạnh như sau:
Đào Cam Mộc nhân lúc vắng nói kích với Lý Công Uẩn rằng: "Gần đây chúa - thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa...".
"Sao ông lại nói thế, tôi bắt ông nộp quan."
"Ông lại muốn cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo."
Hôm sau (ngày Quý sửu) Cam Mộc nói với Công Uẩn:
"Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn... đây là lúc trời trao, người theo."
"Tôi đã hiểu rõ ý ông không khác gì với ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì tính kế thế nào?".
Đào Cam Mộc đã răn đe quần thần: "...Bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập thân vệ (Lý Công Uẩn) làm thiên tử, lở bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có còn giữ được cái đầu hay không?".
Còn sư Vạn Hạnh thì nói: "Không ai bằng thân vệ là người khoan thứ nhân từ, được lòng dân, lại đang nắm binh, giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải là thân vệ còn ai đương nỗi nữa."
Ở đây ta không bàn đến, không đặt câu hỏi về nguyên nhân sâu xa của biến cố này, không nhận định về Vạn Hạnh trong vai trò Đạo và Đời của ngài, chưa đặt ra những nghi vấn về cái chết của hai anh em Long Đĩnh, chưa phân tích Long Đĩnh với danh hiệu Ngọa Triều là của ông đặt ra, do Lý Công Uẩn hay là do các quân thần, các sử gia gán cho ông?
Với sự kiện trích dẫn trên đây bây giờ thì ta có thể hình dung rằng biến cố là một cuộc đảo chánh có kế hoạch được chuẩn bị từ nhiều năm trước và quyết liệt hơn là khi vua Lê Đại Hành tấn phong Long Việt là anh cùng mẹ với Long Đĩnh làm thái tử vào tháng giêng năm 1004.
Cái chết của Long Việt và Long Đĩnh có phải nằm trong một kế hoạch để đưa Lý Công Uẩn lên làm thiên tử... để cho phù hợp một câu chuyện hoang đường mà Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 240 đã chép: "Trước ở viện Cẩm Tuyền chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ "Thiên Tử". Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm Thiên Tử. Đến nay, vua (Lý Công Uẩn) sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là ứng nghiệm."
Cái chết của hai người con trai của Đại Hành hoàng đế và việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua phải chăng là Định Mệnh Của Một Lời Tiên Tri?

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 03.05.2008 22:40:21
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG LẦN 2 (1075 - 1077) CỦA QUÂN DÂN ĐẠI VIỆT DƯỚI TRIỀU LÝ.

l. Triều Tống tiếp tục mưu đồ bành trướng .

Cuối thế kỉ X, năm 981, Lê Hoàn đã đánh tan hai đạo quân xâm lược Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Đại Cồ Việt và buộc nhà Tống phải giữ ''hòa hiếu" trong một thời gian dài, nhưng trong thâm tâm các vua Tống vẫn chưa từ bỏ ý đồ đánh chiếm nước ta. Khi mới thiết lập vương triều, năm 960, nhà Tống chưa thống nhất được hoàn toàn đất nước. Phía bắc và phía tây bắc hai tộc Khiết Đan và Đảng Hạng vẫn kiểm soát một phần đất đai Trung Quốc. Khiết Đan lập ra nước Đại Liêu (vùng Nhiệt Hà), Đảng Hạng lập ra nước Hạ (vùng Cam Túc). Nhà Tống rất vất vả vì hai nước này. Từ cuối thế kỉ X và nửa đầu thế kỉ XI, luôn luôn có chiến tranh Tống - Liêu, Tống - Hạ.

Trong hoàn cảnh đó, Tống Thần Tông và tể tướng Vương An Thạch chủ trương gây chiến với Đại Việt. Họ còn hi vọng dùng chiến công ngoài biên thùy để trấn áp phe đối lập trong triều. Hơn nữa họ lại còn mong dọa nạt Liêu Hạ. Họ bàn rằng: ''Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu Hạ sẽ phải kiêng nể".

Nhà Tống tổ chức ở khu vực biên giới Việt - Trung thành một hệ thống căn cứ xâm lược lợi hại, tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Như vậy con đường hành quân từ nước Tống vào Đại Việt chỉ có một hướng quá vùng này mà thôi. Vùng này có thành Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây) và cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông) rất thuận lợi cho xuất quân từ Tống vào Đại Việt. Ung Châu nằm trên điểm hợp lưu của sông Tả Giang và Hữu Giang, là một vị trí quan trọng của Quảng Tây: Bao quanh phía Nam Ung Châu sẵn có nam trại Hoành Sơn, Thái Bình, vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long. Từ Ung Châu đến cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu khoảng trên 100km, từ Khâm Châu chỉ một ngày thuyền là đến châu Vĩnh An (Móng Cái) của Đại Việt.

Ở Ung Châu, căn cứ hậu cần lớn nhất chuẩn bị cho cuộc xâm lược Đại Việt năm 1071, triều Tống đã cử Tô Giám, một lão tướng có nhiều kinh nghiệm, đã từng đánh thắng Nùng Trí Cao và rất am hiểu tình hình Đại Việt đến phụ trách. Tô Giám cho xây thành Ung Châu rất kiên cố. Thành có riêng 5000 quân (3.000 đóng ở 5 trại xung quanh) chuyên lo việc biên thùy.

Tất cả những điều trên đây đã bộc lộ rõ mưu toan bành trướng của triều Tống đối với Đại Việt. Vương triều Lý đã nhận thức được sâu sắc ý đồ đó. Các vua đầu tiên của nhà Lý đã có kế hoạch bảo vệ Tổ quốc rất chủ động. Bên ngoài, các vua Lý một mặt hết sức mềm dẻo để có quan hệ ngoại giao bình thường, nhưng mặt khác, nối tiếp chính sách của các vua thời Tiền Lê, các vua Lý tăng cường phòng thủ biên giới phía bắc, kiên quyết chống trả những cuộc xâm lấn của nhà Tống.

2. Phá tan cứ điểm xâm lược Ung Châu bẻ gãy từ đầu thế chủ động của Tống.


Năm 1072, vua Lý Thánh Tông chết: Vua Nhân Tông mới 6 tuổi lên nối ngôi. Nhà Tống cho rằng đó là một cơ hội tốt nên càng đẩy mạnh việc chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Ở vùng Ung Châu, Lưu Di hoạt động quá lộ liễu đến nỗi Tô Giám phải khuyên can: Giám lại đưa thư cho Di, bảo đừng làm những sự khiêu khích giặc''. Trước tình hình đó, triều đình nhà Lý đã đối phó rất khẩn trương. Vua Nhân Tông lúc này còn nhỏ tuổi nên tất cả quyền binh đều nằm trong tay quan phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt. Chính Lý Thường Kiệt đã đảm đương công việc tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược ở thế kỉ XI.

Năm 1074, Lý Thường Kiệt đã mời Lý Đạo Thành vốn là quan thái sư đời Thánh Tông, từ Nghệ An trở lại triều đình. giữ chức Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Hai ông đã hợp lực cùng lo toan việc nước trong lúc nguy nan.
Sau khi củng cố lại lực lượng, ngăn ngừa bất trắc phía nam, Lý Thường Kiệt không bị động chờ đợi giặc mà đã quyết định tiến công địch trước để đẩy giặc vào thế bị động, giành giấy thế chủ động cho cuộc kháng chiến. Ông nói: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc''.
Triều đình tán thành chủ trương đó. Lý Thường Kiệt liền tổ chức một cuộc tập kích vào đất Tống nhằm phá tan các cứ điểm xâm lược Ung, Khâm, Liêm mà chủ yếu là thành Ung Châu rồi quay về phòng thủ đất nước, chủ động đến đánh địch.

Trong cuộc tập kích này, Lý Thường Kiệt đã huy động hơn 10 vạn quân thủy bộ. Về mặt bộ, lực lượng chủ yếu là quân lính các tộc thiểu số do các tù trưởng của họ là Tông Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An chỉ huy. Phụ trách chung là Tông Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu. Chủ lực của đợt tập kích đã theo đường thủy, do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, đóng ở châu Vành An (Móng Cái, Quảng Ninh).

Ngày 27- 10- 1075 chiến dịch tập kích quân địch của Lý Thường Kiệt bắt đầu. Ngày 30- 12- 1075 quân ta tiến đánh Khâm Châu. Ngày 2- 1- 1076, quân ta đánh chiến Liêm Châu dễ dàng. Quân Tống không cản nổi đường tiến của quân ta. Nhưng để làm sáng tỏ mục đích của cuộc tập kích vào đất Tống, để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, Lý Thường Kiệt đã cho niêm yết khắp nơi tờ ''Phạt Tống lộ bố văn". Ngày 18- 1- 1076, Tông Đản kéo quân đến ngoại thành Ung Châu. Ngay sau đó, đại quân Lý Thường Kiệt cũng đến nơi.

Cuộc vây thành Ung Châu kéo dài hơn một tháng. Quân địch khốn quẫn vì cạn lương, thiếu nước... Viện binh lại bị tiêu diệt không đến được. Đến ngày 1- 3- l076, quân ta mới hạ được Ung Châu. Cuộc chiến đấu quyết liệt đã kết thúc sau 42 ngày. Mục đích của cuộc tiến công Ung Châu là để tự vệ một cách tích cực. Đó là một bộ phận khăng khít, là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Bằng cuộc tiến công táo bạo đó, Lý Thường Kiệt đã đẩy kẻ thù vào thế bị động và tạo ra nhiều điều kiện có lợi để đánh bại âm mưu của kẻ thù. Những căn cứ quân sự và hậu cần mà nhà Tống dốc bao công phu, thời gian xây dựng, phút chốc bị phá hủy tan tành. Cuộc hành binh xâm lược của chúng phải chậm trễ vì gặp nhiều khó khăn.

3. Dự phòng tuyến phá giặc.


Biết chắc quân Tống thế nào cũng sang xâm lược để thực hiện mục đích đã theo đuổi từ lâu và để phục thù, nên Lý Thường Kiệt đã chủ động rút về rất sớm để xúc tiến việc chuẩn bị kháng chiến. Nhà Tống không nghĩ đến việc quân ta tiến sang đánh phá các căn cứ xâm lược Ung, Khám, Liêm. Và một tháng sau khi mất châu Khâm, châu Liêm, triều đình Tống mới biết tin. Bị bất ngờ, vua tôi Tống rất hoảng sợ. Ti binh lược Quảng Tây xin thêm viện binh, lương thực, khí giới. Vua Tống ra lệnh phải cố thủ Quảng Tây. Triều đình cách chức Tri Quế Châu của Lưu Di, cho Quảng Tây 50.000 quan tiền để mộ thêm quân, mua thêm thóc. Đồng thời triều đình Tống quyết định đem ngay đại binh đánh thắng vào nước ta vừa thực hiện ý đồ xâm lược, vừa giải vây cho Ung Châu.

Ngày 2-2- l076 Triệu Tiết, người đã có nhiều chiến công đánh nước Hạ, được cử làm An Nam đạo hành doanh mã bộ đô tổng quản. Nhiều tướng giỏi khác ở biên thùy phía bắc như Lý Hiến, Yên Đạt, Ôn Cảo v.v... làm tùy tùng cho Triệu Tiết. Vua Tống lại viết "Thảo Giao Chỉ chiếu'' dụ dỗ ta: "Chiếu cho quân Giao Chỉ hay: khi thấy quan quân đến thì đừng chạy. Dân chúng đã chịu khổ sở lâu ngày, nếu dỗ được chúa các ngươi vào nội phủ, trẫm sẽ thưởng tước lộc cho. Càn Đức (vua Lý Nhân Tông - TG) còn trẻ, việc làm loạn không phải tự ngươi gây ra. Ngày nào ngươi tới chầu, trẫm sẽ tha thứ cho.

Đạo quân của Triệu Tiết chưa lên đường thì quân ta đã hạ được thành Ung Châu và rút về nước. Một lần nữa nhà Tống lại phải bị động thay đổi kế hoạch, dừng cuộc tiến quân, chuẩn bị kĩ càng hơn. Trước hết là sắp xếp lại tướng tá. Triệu Tiết và Lý Hiến mâu thuẫn với nhau, nên vua Tống phải cử thêm tướng Quách Quỳ.

Bấy giờ Quách Quỳ nhận chức chánh tướng, Triệu Tiết làm phó lo việc binh lương. Quách Quỳ cũng là tướng miền Bắc, đã từng giúp Phạm Trọng Yêm chống Hạ. Các tùy tướng cũng đều lấy từ các doanh trại Tây Bắc. Binh sĩ được huy động là l0 vạn quân kị bộ, 1 vạn ngựa. Trong số này 4,5 vạn là quân rút từ miền biên giới Liêu Hạ, do 9 tướng chỉ huy. Số còn lại là trưng tập ở các lộ, đặc biệt là các lộ dọc đường từ kinh đô đến Ung Châu.

Ngoài l0 vạn quân chiến đấu còn có 20 vạn phu đi phục vụ. Như vậy là bộ phận chủ yếu của đạo quân xâm lược này là những võ quan và binh sĩ thiện chiến. Trang bị của bố binh Tống ngoài vũ khí thông thường còn có máy bắn đá và hỏa tiễn (pháo thăng thiên). Vua Tống còn sai hàn lâm y quân viện chọn 57 bài thuốc trị lam chướng làm thành thuốc hoàn cho mang theo để chữa bệnh cho binh sĩ.

Lý Thường Kiệt thấy rằng Tống là một vương quốc lớn và đã điều động một đạo quân xâm lược khổng lồ ( binh phu hơn 30 vạn);vì thế nếu ta đem toàn bộ lực lượng ra quyết chiến với chủ lực địch ngay khi chúng mới vào biên giới thì rất bất lợi. Nhưng mặt khác ông lại thấy nhà Tống tiến hành cuộc chiến tranh này trong thế bị động, trong lúc gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là sự uy hiếp của Liêu, Hạ. Nhà Tống không thể kéo dài chiến tranh, không thể dốc nhiều lực lượng cho chiến tranh. Vua Tống dặn Quách Quỳ ''phải lo việc An Nam cho chóng xong". Còn về phía ta thì tiềm lực vật chất tuy là hơn địch, nhưng vua tôi, quân dân đều đồng lòng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc với tư thế chủ động của người vừa giành thắng lợi trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến và ta lại được chiến đấu trên đất nước mình, quê hương mình.

Lý Thường Kiệt quyết định sẽ chặn đứng bước tiến của quân xâm lược trước miền đất chủ yếu của Tổ quốc. Đó là kinh đô Thăng Long, đầu não của lực lượng kháng chiến, là phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh) quê hương của nhà Lý, là vùng đồng bằng phì nhiêu giàu có, đông dân. Đó cũng chính là mục tiêu chủ yếu mà quân địch cần đánh chiếm.

Thủy binh địch tập trung ở Khâm Châu. Từ Khâm Châu, theo Chu Khứ Phi, tác giả sách Lĩnh ngoại đại đáp (đời Tống) thuyền đi một ngày đến châu Vành An. ở Vành An thuyền theo sông Đông Kênh vào cửa Bạch Đằng, lên Vạn Xuân (Phả Lại trên sông Lục Đầu) để vào Thăng Long hoặc tiếp ứng các ngả cho các cánh quân bộ. Thủy binh địch không phải là lực lượng lớn, lại không tinh nhuệ nhưng có nhiệm vụ phối hợp với bộ binh "ghé và bờ Bắc sông để chở đại quân qua sông"'.

Về mặt biển, phía ta tướng Lý Kế Nguyên phụ trách một đội thủy binh đóng dọc sông Đông Kênh. Sông Đông Kênh là đoạn nối ven biển giữa đất liền và các hải cảng từ Móng Cái vào đến cửa Bạch Đằng. Lý Kế Nguyên phải chặn bằng được thủy binh địch, làm thất bại kế hoạch - hợp quân thuỷ bộ của Tống.

Lực lượng chủ yếu của địch trong cuộc xâm lược này là bộ binh và kị binh. Quân kị, quân bộ tập kết ở Ung Châu và các trại xung quanh. Từ đó quân địch sẽ theo nhiều đường qua vùng Đông Bắc nước ta để tiến vào Thăng Long.
Các mũi tiến công của bộ binh địch đều phải đi qua vùng núi rừng Đông Bắc hiểm trở. Đó là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Tày. Lý Thường Kiệt giao cho các tù trưởng chỉ huy các đội quân thiểu số, lúc đó gọi là quân thượng du - lợi dụng địa hình, đón đánh địch.

Phò mã Thân Cảnh Phúc, thủ lĩnh châu Quang Lang đóng quân ở động Giáp (vùng Kép, Bắc Giang), khống chế con đường chính Lạng Sơn – Thăng Long. Lợi hại nhất là những đội phục binh của ông đặt ở đèo Quyết Lí và ải Giáp Khẩu.

Yểm trợ cho Thân Cảnh Phúc về phía tây là quân của Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh, Hoàng Kim Mãn ở vùng Châu Môn, ngăn chặn đường từ Bình Gia (Lạng Sơn) đến Thái Nguyên. Phía đông Thân Cảnh Phúc là quân của Vi Thủ An đóng ở châu Tô Mậu ngăn chặn đường từ Tư Lăng (thuộc Ung Châu) đến Lạng Châu. Những đạo quân thiểu số trên đây rất thông thạo địa hình, là nỗi e ngại lớn cho kẻ địch. Triệu Tiết nói rằng: ''Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều cầm cường binh''.

Nhưng lực lượng vũ trang của các dân tộc miền núi này rõ ràng là không thể chặn đứng được giặc. Với sức mạnh to lớn ban đầu, các mũi tiến công của bộ binh Tống có thể vượt qua những chiến tuyến phụ của quân ta. Tuy nhiên muốn đến được Thăng Long, dù đi đường nào, cũng phải qua sông Cầu. Dòng sông chặn ngang tất cả các con đường bộ từ Quảng Tây vào Thiên Đức (Thăng Long). Đường thủy từ Bạch Đằng muốn vào Thiên Đức – Thăng Long cũng phải qua sông Cầu ở khu vực Vạn Xuân. Thượng lưu sông Cầu rất hiểm trở, khúc sông từ Thái Nguyên đến Đa Phúc có thể qua lại được nhưng sang sông rồi lại gặp phải dãy núi Tam Đảo khó vượt qua.

Tại bờ nam sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt cho đắp đất làm chiến lũy dọc sông. Phía ngoài lũy, mặt giáp sông, ông sai đắp cọc tre làm nhiều lớp giậu. Dưới bãi sông còn có những hố chông ngầm. Sông rộng, chông ngầm, giậu dày, luỹ cao kết hợp với nhau chặt chẽ tạo thành một chiến tuyến lợi hại.
Nói chung chiến tuyến Như Nguyệt chạy dài từ Ngã Ba Xà đến Vạn Xuân (Phả Lại). Nhưng trên đoạn sông này, hai bên bờ có nhiều chỗ núi ăn sát bờ sông (núi Nham Biền ở huyện Việt Yên, Bắc Giang), hoặc rừng cây um tùm. Ở những chỗ đó không cần thiết phải đắp chiến luỹ. Lý Thường Kiệt chỉ cho tập trung đắp luỹ làm rào ở những nơi địch có khả năng vượt sông và quan trọng nhất là khu vực bến Như Nguyệt, Thị Cầu, Vạn Xuân.

Quân chủ lực được điều đến để chiến đấu bên chiến lũy. Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy ở đây. Một bộ phận quân đóng ngay bên phòng tuyến ở những vị trí xung yếu, những nơi địch có thể vượt qua. Theo sách Việt điện u linh, Lý Thường Kiệt cho đóng thành những trại quân: Như Nguyệt, Thị cầu Phấn Đồng (xã Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh) và Vạn Xuân. Đây là những cứ điểm quan trọng có thể liên hoàn thủy bộ, ứng cứu cho nhau nhanh chóng kịp thời. Theo truyền thuyết dân gian của một số làng thì đại bản doanh Lý Thường Kiệt ở xã Yên Phụ (Yên Phong, Bắc Ninh). Xã này nằm trên con đường cổ từ bến Như Nguyệt về Thăng Long, cách Như Nguyệt khoảng 6 km, không xa các đường khác về Thăng Long. Nơi đây lại có núi Thất Diệu gồm bảy ngọn núi thấp nổi lên giữa cánh đồng. Vị trí và địa hình này có thể phù hợp với yêu cầu chỉ huy sở của đại quân đã nêu ở trên.

Toàn bộ chủ lực quân, thủy bộ của ta trên chiến tuyến Như Nguyệt có thể và trên 6 vạn. Lý Thường Kiệt đã kết hợp địa hình tự nhiên, bãi chướng ngại vật với quân đội mà bố trí lực lượng có trọng điểm để vừa có thể kiểm soát, bảo vệ được toàn chiến tuyến vừa có thể nhanh chóng tập trung đánh lại có hiệu quả những mũi đột phá của địch và tổ chức phản công khi có thời cơ.

4. Đập tan 30 vạn quân xâm lược Tống.


Quân Tống bắt đầu cuộc xâm lược nước ta vào mùa thu năm 1076. Tháng 7 âm lịch (năm Bính Thìn) toàn bộ quân đội của Quách Quỳ đã có mặt ở Đàm Châu (Hồ Nam) chuẩn bị xuống Ung Châu. Quách Quỳ cho những đội quân tiên phong đánh chiếm một vài nơi ở địa đầu nước ta để thăm dò tình hình. Giữa tháng 8 năm 1076, tướng địch Nhâm Khởi đánh chiếm được trại Ngọc Sơn ở biên giới châu Vĩnh An (Móng Cái). Quách Quỳ liền ra lệnh cho Hòa Mâu và Dương Tùng Tiên đem thủy quân lên đường. Từ Khâm Châu, thủy quân địch sang hải phận châu Vĩnh An để định theo sông Đông Kênh vào Bạch Đằng.
Lý Kế Nguyên lập tức cho quân ra chặn đứng thủy quân Tống. Lý Kế Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong bộ kế hoạch kháng chiến của Lý Thường Kiệt, chặn đứng thủy quân do Hòa Mâu và Dương Tùng Tiên chi huy.

Trên đường bộ, Quách Quỳ cho một số tướng giỏi như Yên Đạt, Tu Kỷ tiến đánh Quảng Nguyên vào tháng 12- 1076. Lưu Kỉ và quân sĩ chiến đấu rất hăng hái, giết và bắt được khá nhiều giặc. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, nhân dân ở phía bắc châu Quảng Nguyên cũng tham gia đánh giặc chống cướp phá. Cho đến đầu năm l077, khi kiểm soát được Quảng Nguyên thì địch đã bị thiệt hại khá nhiều. Đại quân Quách Quỳ từ châu Tư Minh (Bằng Tường, Quảng Tây) theo nhiều ngả tiến vào nước ta. Ngày 8- 1- 1077 Quách Quỳ chỉ huy bộ phận chủ yếu, vượt ải Nam Quan vào Lạng Sơn. Địch theo đường thiên lí xuống Thăng Long. Quân ta rút khỏi Quyết Lí. Theo lệnh trên, Thân Cảnh Phúc cho quân trong rừng núi ven đường thiên lí, tiếp tục chiến đấu đánh tiêu hao địch. Thân Cảnh Phúc vẫn ở vùng động Giáp ráo riết đôn đốc quân chuẩn bị đánh giặc ở, ải Giáp Khẩu (Chi Lăng).

Quách Quỳ bỏ ý định tiến thẳng qua ải Giáp Khẩu theo đường thiên lí mà đem quân sang phía tây. Quân Tống vượt dãy núi Bắc Sơn đến Yên Thế rồi tới ven sông Cầu vùng Thái Nguyên. Sách Tục tư trị thông giám trường biên viết: ''Giặc đặt phục binh ở cửa ải Giáp Khẩu để đón quân ta. Quỳ biết nên đi đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh mà tiến rồi tới sông Phú Lương''.

Ngày 18- l- 1077, đại quân Quách Quỳ đến bờ Bắc của đoạn đầu sông Như Nguyệt đối diện với bến đò Như Nguyệt, với đường cái lớn về Thăng Long. Định muốn hành quân tiếp, nhưng trước mặt là dòng Như Nguyệt và chiến tuyến của quân ở bờ Nam. Quách Quỳ định tổ chức vượt sông, tấn công quân ta, tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch dự định. Nhưng thủy binh địch bặt hẳn tăm tích. Quách Quỳ phải quyết định tạm đóng quân lại ở bờ Bắc sông Như Nguyệt. Với ý đồ chuẩn bị vượt sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nên địch không dàn đều lực lượng trên trận tuyến dài mà chúng đóng thành từng khối ở những vị trí xung yếu nhất là những bến đò, những con đường thuận lợi tiến về Thăng Long. Một bộ phận quan trọng quân Tống do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy đóng ở bờ Bắc bến đò Như Nguyệt vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, Hà Bắc Phía địch, đại bản doanh của Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu đóng quân của Triệu Tiết, Miêu Lí ở vùng xã Mai Đình 60 dặm khoảng hơn 30 kilômét. Đó có thể là địa điểm đối diện với Thị Cầu khu vực thị xã Bắc Ninh) thuộc huyện Việt Yên ngày nay. Đây là vị trí trọng yếu nằm trên đường thiên lí. Đạo quân do Quách Quỳ trực tiếp chỉ huy này là một trong những đạo quân chính.

Như vậy là địch chia quân làm hai khối lớn do chánh tướng và phó tướng trực tiếp chỉ huy, đóng cách nhau hơn 30 kilômét ở Bắc sông Như Nguyệt trước mặt hai bên đò lớn nằm trên hai trục đường quan trọng tiến về Thăng Long.
Khoảng giữa hai khối quân lớn, địch còn đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thể liên hệ, tiếp ứng cho nhau khi tổ chức vượt sông hoặc khi bị tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ Lát xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên). Khu núi Tiên Lát gồm có Núi Voi, núi Chúc, núi Lều, núi Phượng Hoàng... cao dưới 80 mét. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể nhìn rõ một vệt dài ở bờ Nam sông Như Nguyệt từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long (đều thuộc huyện Yên Phong) và đến cả vùng Thị Cầu.

Tiến xuống bờ Bắc sông Như Nguyệt, quân Tống chỉ còn cách Thăng Long khoảng 20 kilômét (tính theo đoạn Như Nguyệt - Thăng Long). Quách Quỳ nóng lòng muốn chiếm Thăng Long để thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Việc Quách Quỳ phải tạm dừng lại đợi thủy quân vào hợp đồng tác chiến là rất bất đắc dĩ.

Tướng giặc Vương Tiến được lệnh bắc cầu phao qua bến Như Nguyệt để cho đội quân xung kích của Miêu Lý sang sông. Đội quân này khoảng hai nghìn tên nhờ cầu phao qua sông dễ dàng và sau đấy chọc thủng được một chiến tuyến của quân ta.

Lợi dụng địa hình vùng Yên Phụ (Yên Phong, Bắc Ninh), Lý Thường Kiệt đánh giặc rất dữ dội. Giặc thua tan tác, số sống sót cùng Miêu Lý hoảng hốt chạy về bến Như Nguyệt, nhưng đến, nơi thì cầu phao đã bị cắt và quân ta lại tiến quân mạnh mẽ. Bên kia sông, Triệu Tiết cho bè sang cứu không được. Sách Tục tư trị thông giám trường biên chép: "Binh thế đứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc (chỉ quân ta - TG) ngăn chặn rơi ngã xuống bờ sông”. Phần lớn đội quân xung kích của địch bị tiêu diệt. Miêu Lý và một số ít tàn binh chạy về bờ Bắc. Cuộc tiến công mở màn của địch bên bờ Như nguyệt đã bị quân dân ta đập tan nhanh chóng.

Sau đó Quách Quỳ lại huy động một lực lượng mạnh hơn và đóng bè lớn qua sông lần hai. Mỗi lần bè đưa được 500 tên. Bè không có nhiều, lại phải quay về đón số mới. Hết lớp này đến lớp khác, quân Tống đỗ sang bờ Nam Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông. Chúng chặt đốt những hàng rào bằng tre. Nhưng rào dày mấy tầng quân ta trặn chiến lũy lại đánh xuống dữ dội. Lớp trước bị tiêu diệt, lớp sang cứu viện cũng bị đánh tan. Học giả họ Trình nhà Tống đã mô tả như sau: ''Dùng bè chở 500 quân vượt sông vừa chặt vừa đốt mấy lần trại rào bằng tre không được. Đem bè không về chở cứu binh bị giặc (chỉ quân Lý Thường Kiệt - TG) bắt giết. Thế là quân ta không được cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được''.

Hai lần vượt sông hai lần thất bại thảm hại, vì thế nên tuy còn trong tay gần nguyên vẹn số quân 10 vạn, số phu 20 vạn mà Quách Quỳ không dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Quỳ quyết định, dứt khoát phải chờ thủy binh và buồn rầu ra lệnh "Ai bàn đánh sẽ chém".

Chủ lực của địch là bộ binh và kị binh đã không thể liên hệ được với thủy binh và bị chặn đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy chiếm được khu Đông Bắc và bắc ngạn sông Cầu nhưng đã mất thế chủ động tiến công và bị hãm trong một địa bàn rất bất lợi. Đó là vùng thượng du và trung du, dân cư thưa thớt, quân Tống không thể vơ vét cướp bóc được. Lương ăn của đạo quân xâm lược hoàn toàn trông chờ vào việc vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ của dân phu.

Quân dân ta vòng sau lưng địch lại phát triển các hoạt động du kích quấy rối liên tục. Những đoàn phu vận chuyển lương thực luôn bị chặn đánh. Những đội quân thượng du của ta cùng với dân chúng các tộc người thiểu số len lỏi trong rừng sâu, núi cao thường bất ngờ tiến ra đánh tỉa. Hoạt động mạnh nhất là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc ở vùng động Giáp. Sách Đại việt sử kí dẫn một đoạn trong sách Quế Hải chí như sau: ''Viên tri châu quan lang là phò mã bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì giết chết hoặc bắt về... Người ta cho là một vị thiên thần''. Quân Tống rất hoang mang lo sợ.

Hai tháng đã trôi qua quân Tống ngày càng bị tiêu hao về số lượng và đặc biệt nghiêm trọng, là quân Tống không thể vơ vét cướp bóc của cải được. Lương ăn của đạo quân xâm lược hoàn toàn trông chờ vào việc vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ của dân phu. Viên quan chuyển vận sứ Lý Bình Nhất đã tính phải có 40 vạn phu, nhưng nhà Tống chỉ điều được 20 vạn. Do đó một số vũ khí và tên sắt của quân lính đã phải bỏ lại, lương thực không mang được nhiều.

Quân Tống tuy thế suy lực giảm nhưng vẫn còn một số lượng khá đông. Chúng vẫn đóng trên một trận tuyến dài khoảng 30 kilômét ở bờ Bắc sông Như Nguyệt. Từ lúc chuyển sang thế tạm thời cố thủ, chúng không dám tiến công ta dù bị khiêu khích, nhưng lại có âm mưu nhử quân ta sang bờ Bắc để tiêu diệt. Chúng đã bàn tính: "Nhử người tới đất mình lợi hơn mình tới đất người. Vậy nên ''giả cách không phòng bị, chúng nó (chỉ quân ta -TG) ắt tới đánh.

Trong điều kiện quân địch còn đông và lo phòng thủ như vậy nên ta không thể mở một cuộc tổng tiến công bao vây tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lý Thường Kiệt chủ trương mở nhiều cuộc công kích để vừa có thể chia sẻ lực lượng vừa tiêu diệt được nhiều địch. Hai đối tượng chính mà Lý Thường Kiệt tập trung lực lượng đánh vào là khối quân của Quách Quỳ và Triệu Tiết.

Lý Thường Kiệt cử hai hoàng tử Hoẵng Chân và Chiêu Văn đem 400 chiến thuyền chở hai vạn quân từ Vạn Xuân ngược sông Như Nguyệt mở một cuộc tiến công vào doanh trại Quách Quỳ. Sử nhà Tống đã mô tả: "Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh”.

Cuộc tiến công của thủy quân ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhưng quân ta cũng bị tổn thất, Hai hoàng tử Hương Chân, Chiêu Văn và mấy nghìn quân đã hi sinh. Cuộc tiến công chính diện này không chỉ nhằm tiêu diệt sinh lực địch mà còn nhằm thu hút lực lượng và tập trung sự chú ý của các khối quân địch vào đây. Việc đó tạo nên thời cơ cho mũi tiến công khác, mũi tiến công chủ yếu của Lý Thường Kiệt, bất ngờ tập kích vào chỗ sơ hở của địch để giành thắng lợi quyết định.

Trong lúc chính tướng Quách Quỳ mải lo đối phó với sự tiến công mạnh của thủy binh ta, Triệu Tiết và các tướng phụ trách các doanh trại khác cũng chăm chú theo dõi diễn biến chiến sự ở đó, thì gần như đồng thời, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đại quân ban đêm vượt bến đò Như Nguyệt, đánh úp doanh trại phó tướng Triệu Tiết ở xã Mai Đình đối diện với bến đò Như Nguyệt.
Khi đại bản doanh của Quách Quỳ bị tiến công ồ ạt, toàn bộ quân Tống ở các nơi và bản thân Triệu Tiết đang dồn sự chú ý vào mặt trận phía Quách Quỳ. Quân trở tay không kịp, bị đại bại, quân số bị tiêu diệt đến năm sáu phần mười. Sách Đại Việt sử lược đời Trần chép: ''Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống, mười phần chết đến năm, sáu".

Sử sách ghi chép quá sơ sài về diễn biến của trận tập kích này. Đại Việt sử kí toàn thư ghi "Một đêm quân sĩ (của ta), chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Đây chính là bài thơ thần kích động tinh thần yêu nước thành sức mạnh chiến đấu trực tiếp diệt thù. Nhân dân địa phương vẫn truyền tụng nhiều chi tiết và chỉ rõ những di tích ghi lại chiến công oanh liệt này, khu vực doanh trại địch biến thành bãi chiến trường. Hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp cánh đồng, gò đất. Nhân dân địa phương gọi là cánh đồng xác, gò xác.

Thất bại này của quân Tống thật quá nặng nề. Chỉ một đêm, toàn bộ doanh trại gồm 3,4 vạn quân bị đánh tan tành, binh sĩ thương vong gần hết. Thắng lợi của trận tập kích xuất phát từ bến Như Nguyệt này cộng với những thiệt hại mà ta gây cho địch ở khối quân Quách Qùy làm cho thế phòng ngự của quân Tống ở bờ Bắc bị rung chuyển hoàn toàn. Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ hai này vào cuối mùa xuân năm 1077. Đó là chiến thắng của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa kết thúc chiến tranh. Qua lời than vãn của tướng địch ở trên cho thấy quân Tống đã ở vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nếu còn đóng quân thì rõ ràng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, Nhưng rút lui thì mất thể diện của thiên triều''. Biết rõ ý chí xâm lược của giặc đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa đề nghị ''giảng hòa'', thực chất là mở một lối thoát cho quân Tống. Đó là chủ trương kết thúc chiến tranh mềm dẻo của Lý Thường Kiệt: ''dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu.

Ngay lập tức, vào tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Qùy sợ quân ta tập kích nên bí mật cho binh sĩ rút lui vào ban đêm. Tống sử đã ghi lại cảnh tượng đó như sau: ''Qùy muốn rút quân về, sợ giặc tập kích, bèn bắt quân lính khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn giẫm xéo lên nhau. Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân theo sát lấy lại đất đai đến đấy. Quân ta nhanh chóng thu hồi các Châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang. Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) là miền đất có nhiều tài nguyên, nhất là mỏ vàng, nên nhà Tống có âm mưu chiếm đóng lâu dài. Nhưng rồi bằng những biện pháp đấu tranh kiên quyết, nhà Lý cũng lấy lại được vào năm 1079. Từ trận đột kích Ung Châu đến trận tập kích Như Nguyệt (Mai Thượng) 30 vạn lính và phu của nhà Tống bị tiêu diệt. Trong lần xuất chinh 1076 - 1077 thì mười vạn quân ra đi, khi về còn lại hơn hai vạn (23.400). Tám vạn trong số hai mươi vạn phu đã bỏ mạng.
Toàn bộ chi phí chiến tranh được người nhà Tống tính ra là 5.100.000 lạng vàng.

(Nguồn: Trương Hữu Quýnh (cb - 1998) - Đại cương lịch sử Việt Nam, t1. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr 150 - 164)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.05.2008 22:50:19 bởi ngocdiep87 >
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 09.05.2008 15:27:06
Uhm! Chắc giờ mọi người chẳng ai thích tìm hiểu về lịch sử nữa rồi! Mọi người mải mê gì vậy??? Ai vô thì bổ sung cho mình vài bài xem nào!
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 15.05.2008 01:06:30
        Vài lời dẫn nhập:

        Vào thế kỷ XVIII, đất nước ta rơi vào tình trạng hỗn chiến giữa các thế lực phong kiến nhằm tranh quyền cai trị đất nước. Cuộc hỗn chiến đó đã đẩy cuộc sống của toàn dân Đại Việt vào cảnh khốn cùng. Trước tình hình đó, nhân dân các nơi đã đứng lên khởi nghĩa mong thoát khỏi áp bức. Vì lẽ đó, trong tiến trình lịch sử Việt Nam, các nhà sử học đã đặt tên thế kỷ XVII - XVIII là thế kỷ khởi nghĩa nông dân.

        Nổi lên trên hết trong các cuộc khởi nghĩa đó là phong trào nông dân Tây Sơn do anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Lữ - Nguyễn Huệ lãnh đạo. Trong phong trào này, người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ với sự mưu trí và dũng cảm đã nổi lên thành linh hồn của phong trào. Ông là người đã có công tái thống nhất và mở rộng lãnh thổ của quốc gia từ ải Nam Quan (Lạng Sơn ngày nay) đến vùng đất mũi Cà Mau, giành lại nền độc lập cho dân tộc.

        Dưới đây là một trong nhiều tư liệu nói về thân thế, sự nghiệp của người anh hùng đó. Mình mong các bạn đọc và cho mình thêm tài liệu nếu bạn sưu tầm được nhé.


Người hiến sắc cờ cho vua Quang Trung


Nửa sau thế kỷ XVIII, khi cửa Thử cạn dần, việc buôn bán ở Nước Mặn chuyển xuống Gò Bồi và Quy Nhơn. Bấy giờ, ở làng Vĩnh Khánh xưa (tức hai làng Cẩm Thượng và Chánh Thành sau này), đã hình thành một trung tâm thương mại mới. Nơi đây, có một nhà buôn giàu lòng nghĩa hiệp, hiệu là Huyền Khê. Ông có ghe thuyền buôn bán đường biển, đường sông, thường xuyên dong thuyền ra Bắc vào Nam buôn bán.

Biết rõ kẻ sĩ và dân tình thời bấy giờ oán hận Trương Phúc Loan tham bỉ, vơ vét của cải nhân dân, nên khi Nguyễn Nhạc mời ra giúp sức chuẩn bị dấy binh cứu dân giúp đời, ông liền hiến toàn bộ tài sản và cùng gia nhân ra ứng nghĩa. Biết ông là người giỏi quản lý, nên Nguyễn Nhạc giao cho ông làm đệ tam trại chủ, chuyên lo việc quân lương. Từ đấy, nhà phú thương trở thành vị tướng hậu cần, phục vụ quân đội Tây Sơn. Ngoài lo việc hậu cần cho nghĩa quân, ông còn hiến kế giúp vua phát triển sản xuất, đẩy mạnh khai hoang, mở mang ngành nghề, buôn bán, vừa tạo cuộc sống yên bình cho dân, vừa gầy dựng tiềm lực kinh tế cho nghĩa quân. Suốt 8 năm chinh chiến ở Đàng Trong, công lao lo quân lương, quân nhu cho hàng vạn binh sĩ của Huyền Khê không nhỏ.

Biết tài ông, Nguyễn Huệ tin dùng, đưa ông theo khi tiến quân đánh chiếm Phú Xuân rồi ra Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, cần có đế hiệu, kỳ hiệu riêng, nên họp quần thần để hỏi ý kiến mọi người. Trong lúc các bề tôi mỗi người một ý, vua còn cân nhắc, thì Huyền Khê đứng dậy nói:

- Thưa Vương Thượng, ngài lên ngôi Hoàng Đế dẫn quân đánh đuổi giặc Mãn Thanh là việc thuận ý trời, hợp lòng người. Nhưng ngài và Thái Đức Hoàng Đế là anh em, cùng một cội, cùng dấy nghĩa trừ tàn khử bạo, kỳ hiệu của Trung ương Hoàng Đế sắc đào thì kỳ hiệu của ta cũng nên dùng sắc đào và cần thêm hình nét ở giữa để làm sáng tỏ đại nghĩa của triều ta.

Bắc Bình Vương cả cười:

- Ý tiên sinh thật hợp với ý ta. Sắc đào thể hiện chí nguyện hy sinh xương máu cứu nước, cứu dân của ba quân. Trước, ta đã đem quân ra Bắc Hà phù Lê diệt Trịnh, nay ta lại đem quân ra quét sạch lũ hung đồ, nghĩa lớn sáng ngời như vầng nhật nguyệt. Vì vậy, đế hiệu ta là Quang Trung, kỳ hiệu phải là sắc đào có mặt trời vàng nằm giữa. Thế mới sáng tỏ chí nguyện của ta và muôn dân.

Vương vừa dứt lời thì quần thần đã tung hô: Hoàng Đế vạn tuế!

Thế là rạng ngày 25 tháng 11 năm 1778, lá cờ triều đại Quang Trung tung bay trên kỳ đài núi Bân trong lễ tế trời lên ngôi của Quang Trung. Nhìn lá cờ đào bay, mưu sĩ Huyền Khê vững niềm tin vào trận đại thắng nay mai và mừng thầm ý mình hợp ý nhà vua.

Sưu tầm theo: http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/vndncn/details.asp?topic=32&subtopic=227&leader_topic=527&id=BT250714753
 


7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 16.05.2008 23:02:04
        Vài lời đề dẫn thêm: tiếp theo tư liệu vừa post lên về người anh hùng dân tộc áo vải cờ đào Quang Trung Nguyễn Huệ, Mình tiếp tục post thêm tài liệu này để các bạn cùng đọc và suy ngẫm. Đây là tư liệu được trích dẫn từ trang web Quên hương. Mình mong các bạn giúp mình cho thêm tư liệu về nhân vật lịch sử này nhé!


Quang Trung và nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo

 
Không ngạo nghễ như Caesar - một vị hoàng đế La Mã cổ đại - nhưng Quang Trung hoàng đế có một niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước kẻ thù. Đó là những chiến thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ.

Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.

Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi.

Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm lược.

Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.

Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ

Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh của Nguyễn Huệ là sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân: táo bạo, thần tốc và vô cùng tự tin.

Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785), thay vì chọn khúc sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như đoạn từ Cái Bè đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút - một khúc sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh.

Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết định ra đòn phủ đầu.

Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).

Biến thần tốc thành sức mạnh

Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó nếu cuộc tấn công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ.

4 năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút, đội quân của Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt 29 vạn quân Thanh năm 1789.

Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì chỉ nguyên cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng đã là một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự.

Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết, quân của ông bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ, hoảng sợ hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng mồng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do đích thân Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) thì một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội).

Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến thắng khác: chiến thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục, chiến thắng Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh chóng và dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời gian để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau.

Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm trong binh pháp của ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy cảm" với thời cơ, ông còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa thế mạnh của mình.

Nắm chắc thời cơ

Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới danh nghĩa giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh quân Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi cho quân Tây Sơn.

Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào nhà", Nguyễn Huệ nhanh chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau đó, ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh. Tất cả những chuyện lên ngôi hoàng đế, triệu tập binh sĩ, rồi xuất binh chỉ diễn ra trong vòng... 1 ngày.

Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng đế Quang Trung đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và tiêu diệt địch.

Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ An để lấy thêm quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ và cách đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất ưng ý. Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân ta mạnh hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thù thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn một chút thì khó lòng được nó".

Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm lược. Đó là lúc đội quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân dân.

Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân Tây Sơn thì đã rút mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa), lại thêm được nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng khinh đối thủ.

Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời cơ tốt nhất để tận diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc việc hành quân nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch, khiến địch ngày càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là vấn đề thời gian.

Anh hùng nước Nam

Lúc tuyển thêm binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã đưa lời dụ tướng sĩ:

"Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chính luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ".

Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận ra rằng nước Nam là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào Thăng Long đúng với khí thế ấy.

Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả sự thất bại của quân Thanh: "Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết ..., thây ngổn ngang đầy đồng, máy chảy thành suối. Quân Thanh đại bại".

Những mũi tấn công sắc sảo của quân Tây Sơn luôn giáng cho quân địch những đòn chí mạng. Bởi thế, chỉ một trận Rạch Gầm - Xoài Mút mà quân Xiêm sau này "sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Còn nhà Thanh cũng tắt luôn âm mưu xâm lược nước Nam từ trận đại bại đó.


Theo Quê Hương
 
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 18.05.2008 00:06:45
NHỮNG VỊ TƯỚNG DƯỚI TRƯỚNG QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ

      ND87 đề dẫn thêm:
     
       Trong lịch sử mỗi quốc gia dân tộc hay lịch sử thế giới, mỗi thời đại, mỗi thời kỳ hoặc giai đoạn lịch sử đều nổi lên những cá nhân lịch sử - họ chính là hiện thân của chính giai đoạn, thời kỳ, thời đại hoặc của một quốc gia dân tộc đó.
       
       Mác - Ăngghen đã từng nói "
Tự nhiên mà hoàn toàn ngẫu nhiên mà một vĩ nhân nào đó xuất hiện ở một thời đại nhất định nào đó. Nhưng nếu như chúng ta phế bỏ người đó đi thì lại xuất hiện sự đòi hỏi phải có người khác thay thế và người thay thế này sẽ xuất hiện - thích hợp ít hay nhiều, nhưng cuối cùng cũng xuất hiện"
. Việc tìm hiểu về các cá nhân lịch sử cùng với những hoạt động, những đóng góp của họ đối với lịch sử là vô cùng cần thiết, kể cả những diễn tiến tình cảm, tư tưởng của họ.
      
       Tuy nhiên, chúng ta cũng không đề cao quá, sùng bái quá những gì mà bản thân các vĩ nhân lịch sử không có. Nếu không có nhân dân thì không có vĩ nhân. Đó là lẽ hiển nhiên của lịch sử. Nhưng nếu không có vĩ nhân lịch sử thì không có những thăng trầm và phát triển của lịch sử. Đó cũng là lẽ hiển nhiên. Như vậy, khi nói về một cá nhân lịch sử thì, chúng ta cần nhìn nhận cá nhân lịch sử đó trong bối cảnh cụ thể và những mỗi quan hệ chằng chéo của xã hội đương thời tác động đến cá nhân lịch sử đó. Đồng thời, chúng ta cũng cần đặt cá nhân đó trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân và với dân tộc... Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể khôi phục, nhìn nhận và đánh giá đúng về các cá nhân lịch sử đó.

       Trong lịch sử Việt Nam ở giai đoạn từ thế kỷ XVII - XVIII, khởi nghĩa nông dân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ là một điển hình về phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam. Tuy nhiên, để làm onannên những những thắng lợi, ngoài Nguyễn Huệ thì chúng ta còn cần kể đến các vị tướng lãnh tham gia chỉ đạo cuộc chiến với những cống hiến to lớn của họ.

       Vì lẽ đó, việc tìm hiểu, sưu tầm các thông tin về các vị tướng tham gia phong trào nông dân Tây Sơn là vấn đề cần thiết.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2008 00:15:42 bởi ngocdiep87 >
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 18.05.2008 00:13:25
 PHẠM VĂN LÂN - HUYỀN THOẠI VỀ MỘT VỊ TƯỚNG TRONG PHONG TRÀO TÂY SƠN (1)

Huyền thoại về một vị tướng (2)



    Trong hàng tướng soái Tây Sơn, Phan Văn Lân không những tinh thông võ nghệ, mà còn có biệt tài về khí công. Lân lại là người trí dũng, khiêm nhường, kín đáo, đánh trận giỏi, thưởng phạt công minh, được vua khao thưởng tiền bạc thường đem khao quân cùng hưởng chung. Đức và tài trong đạo làm tướng của Lân quả thật trọn vẹn.
    Buổi đầu tụ nghĩa, Lân đi giữa bãi tập binh như một nho sinh yếu đuối. Tính Lân lại rụt rè, ít nói, nên không được ai để mắt đến. Nhưng với con mắt tinh đời, Nguyễn Huệ lại thấy ở con người này có điều gì mà mình chưa hiểu hết. Một lần, Huệ cùng Lân xuống núi chiêu hiền, gặp toán cướp chặn đường đòi mãi lộ. Lân múa gươm bảo vệ Huệ, rồi đột nhiên như bị đánh bật ra xa. Đợi khi toán cướp vây quanh, định xông vào bắt Huệ đang ở thế thủ, Lân bất ngờ quay lại, phi thân vào giữa đám côn đồ, đánh cho chúng chạy tán loạn. Từ đó, Nguyễn Huệ biết rõ bản lĩnh và tài năng của Lân.
    Lân cho người thân tín biết mình đã dày công luyện tập môn võ mà Phạm Ngũ Lão đã truyền lại qua một nhà sư Thiên Thai Tự. Về sau, lại thờ thầy giáo Hiến làm thầy. Một lần, có nhà sư ở Thiếu Lâm Tự sang, giúp Tây Sơn Vương huấn luyện quân sĩ. Sư nghe tiếng Lân mới ngỏ lời thử sức. Tướng sĩ nóng lòng chờ xem một cuộc tỉ thí long trời lở đất, nào ngờ chỉ thấy Lân xách ghế lên giữa lầu, rồi rủ tay áo ngồi xuống mời nhà sư ra tay. Sư vận hết công lực chạy quanh vung tay đấm đá vào tấm thân mảnh dẻ của Lân. Một lúc sau, thấy nhà sư thấm mệt, công lực chẳng còn, Lân mới nghiêng mình đưa tay gạt cú đá của nhà sư. Cái gạt nhẹ nhàng của Lân làm cho thân hình nhà sư bay đi như một viên đạn, may chỉ bị trọng thương. Lần khác, Lân bị các tướng giữ lại trong Tử Cấm Thành xin trổ tài võ nghệ. Bất đắc dĩ, Lân bảo họ chồng ba hòn đá, rồi nghiêng bàn tay chém xẻ đôi cả ba cùng một lúc.
    Biết Lân dũng mãnh, có tài đánh chớp nhoáng, Tây Sơn Tam Kiệt thường cử ông cầm quân tiên phong trong các trận ác liệt. Lân cùng Nguyễn Lữ vào đánh chiếm thành Gia Định lần đầu tiên như trở bàn tay. Trong đại phá quân Thanh, là tướng tiên phong, Lân nhanh chóng diệt gọn đồn lũy tiền tiêu của địch, cấp tốc đuổi bắt bọn thám báo quân Thanh không sót một tên. Trong trận Ngọc Hồi, Lân chỉ huy tiền quân cảm tử, khiêng ván chống đạn xông lên áp sát lũy giặc, mở lối cho đại quân ào ạt xông vào.
    Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, không ai biết số phận của vị kiệt tướng này ra sao nữa. Người thì kể, khi nghe tin Nguyễn Quang Toản bị bắt, Lân tự đâm cổ chết trong bản doanh. Người khác bảo: ông bí mật về đất Tây Sơn, ẩn mình trên núi cao, thỉnh thoảng có về thăm Thiên Thai Tự.
(1): Tiêu đề do ngocdiep87 đặt cho rõ hơn.
(2): Sưu tấm từ: http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/vndncn/details.asp?topic=32&subtopic=227&leader_topic=527&id=BT2950757446
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 30.05.2008 10:09:41
Chào các bạn!
Như mình đã nói, việc nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá - lịch sử dân tộc Việt là một vấn đề hay nhưng quá rộng lớn. Ai dám khẳng định mình biết hết về lịch sử và văn hoá dân tộc mình! Đó là điều không thể và không đủ khả năng!!! (Hic! Nói vậy không biết mọi người nghĩ thế nào nhỉ!?). Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không tìm hiểu và nghiên cứu, học tập nó. Vì một lẽ đơn giản, chúng ta là người Việt. Vấn đề chúng ta hiểu về lịch sử dân tộc dù là ít hay nhiều cũng góp phần làm cho chúng ta “Việt” hơn trong một thế giới đang dần xoá nhoà đi những ranh giới tự nhiên.
Văn hoá và lịch sử dân tộc Việt sẽ giúp chúng ta biết mình là ai, mình thuộc về nơi nào, quê hương chúng ta ở đâu trên bản đồ thế giới ngày nay. Mình nghĩ như vậy đó! Bạn có ý kiến gì không? Bạn phản hồi cho mình biết suy nghĩ của bạn về lịch sử - văn hoá dân tộc chúng ta được không? Bạn có dám chia sẻ cho mình và mọi người biết điều bạn nghĩ không???
Đơn giản vì kiến thức của chúng ta thì hữu hạn mà tri thức nhân loại thì vô hạn. Những điều suy nghĩ của tôi và bạn chưa chắc đã đúng. Vậy tại sao chúng ta không cùng trao đổi, học tập lẫn nhau. Cha ông chúng ta từng nói “Học thầy không tày học bạn” cơ mà!
(Mình đang thất vọng lắm đó bạn ơi! Chẳng ai trong diễn đàn quan tâm đến mấy topic mà mình đưa ra cả. Chẳng lẽ…. chẳng lẽ … buồn vậy sao???)
Tiếp vậy………….Mình lại tự tìm tài liệu và “cô đơn” post vậy!
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 30.05.2008 10:14:03
VỀ NGÀY MẤT CỦA NGÔ THÌ NHẬM.
LÊ THÀNH LÂN.
 
Ngô Thì Nhậm, tự là Hi Doãn, hiệu là Đạt Hiên, sinh ngày 11 tháng 09 năm Bính Dần (tức ngày 25 tháng 10 năm 1746) tại làng Tả Thanh Oai (tên nôm là làng Tó) thuộc huyện Thanh Trì, Hà Tây.
Ông là một nhà tri thức lỗi lạc, một nhà văn hoá lớn, với Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, ông còn là một nhà tư tưởng; ông là nhà thơ, một cây bút tiêu biểu của văn học Tây Sơn; với việc chủ xướng nước cờ Tam Điệp, ông còn là một nhà chiến lược quân sự giỏi; với việc ông được Quang Trung giao “dùng ngòi bút thay giáo binh” để đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng Đống Đa, ông thực sự là một nhà ngoại giao tài ba.
Người phương Tây thường chú ý đến ngày sinh và làm lễ kỷ niệm vào dịp đó. Người phương Đông ta lại khác, coi trọng ngày kỵ, làm giỗ để tưởng nhớ đến người xưa. Vậy mà từ lâu ta chưa có cái nhìn thống nhất về ngày mất của Ngô Thì Nhậm.
Trên tạp chí Tổ quốc số 304, Lê Thước cho rằng Ngô Thì Nhậm mất vào ngày 16 tháng 02 năm Quý Hợi và đổi ra lịch dương là ngày 07 tháng 03 năm 1803.
Trên tạp chí Văn học số 05 – 1973, Tảo Trang lại đổi ngày 16 tháng 02 thành 09 tháng 03 năm 1803.
Mai Quốc Liên trong Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm cho rằng ngày 16 tháng 02 này chính là ngày Canh Thìn và Ngô Thì Nhậm mất ngay tại Văn Miếu, đồng thời còn viết thêm “có thuyết nói về nhà được ít lâu thì mất”.
Trên tờ Người Hà Nội số 141, chúng tôi đã có lần thử lý giải vấn đề này, tuy không sai nhưng chưa được thuyết phục lắm vì phải dựa vào cuốn lịch chép tay tên là Lịch đại niên ký bách chúng kinh. Lần này, chúng tôi muốn bàn lại một cách chuẩn xác hơn.
Trước tiên, chúng tôi xin dẫn ra đây những tư liệu gốc.
Đại Nam thực lục tập III, trang 108 viết:
“Tháng hai ….
Ngày Canh Thìn …
Đóng gông giải bọn thượng thư Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan đến Bắc thành. Trước là bọn Nhậm thú tội, vua không nỡ giết, đặc biệt hạ lệnh cho giải về kinh. Đặng Trần Thường dâng biểu nói: “Bọn Nhậm thân làm tôi nhà Lê mà cam tâm theo giặc, bày lời nói dối để lừa nhà Thanh, hãm đồng loại vào chỗ bất nghĩa, xét tội ác chẻ hết tre cũng khó biên hết, thực là kẻ có tội nhất trong danh giáo. Nếu kẻ này mà không giết thì răn bảo người sau sao được?”. Vua bèn hạ lệnh đưa ra Bắc thành để nghị tội. Thành thần bàn cho là tội bọn Nhậm đáng phải giết, nhưng đã có chiếu nói rõ nguỵ quan ra thú thì đều miễn tội. Vậy xin tha bọn Nhậm tội chết, chỉ đánh để làm nhục. Vua y cho. Hạ lệnh kể tội ở học đường phủ Phụng Thiên (tức là Quốc Tử Giám nhà Lê cũ) mà đánh đau. Nhậm bị đánh chết”.
Ngô Gia thế phả cho biết Ngô Thì Nhậm bị mất vào giờ Hợi (từ 21 đến 23 giờ) ngày 16 tháng Hai.
Hậu duệ của ông ở Tó cho biết, theo người xưa truyền lại thì sau trận đòn thù, ông được đón về nhà thì mất.
Ở đây có chỗ ghi ngày theo can chi, có chỗ ghi theo âm lịch. Muốn lý giải đúng phải dùng phương pháp niên đại học khảo sát kỹ về lịch, đặc biệt là lịch Việt Nam.
Trong cuốn Lịch hai thế kỷ (1802 – 2010) và các lịch vĩnh cửu, NXB Thuận Hoá, 1995, chúng tôi đã nêu ra kết quả nghiên cứu về lịch nhà Nguyễn, đặc biệt là năm 1993, phát hiện cuốn Khâm định vạn niên thủ mà chúng tôi xác định là được khắc in vào một trong hai năm Kỷ Dậu (1849) hoặc Canh Tuất (1850), có 360 năm lịch Việt Nam, từ năm Giáp Thìn (1544) đến năm Quý Mão (1903).
Trong ảnh 1, chúng tôi giới thiệu lịch của 11 năm đầu nhà Nguyễn (Việt Nam), từ năm Nhâm Tuất (1802) đến năm Nhâm Thìn (1812) dẫn từ cuốn lịch cổ nói trên.
Để cómột ấn tượng rõ ràng, chúng tôi giới thiệu lịch nhà Thanh (Trung Quốc) từ năm Quý Hợi (1803) đến năm Ất Sửu (1805), ở ảnh 02, dẫn từ cuốn Nhị Thập sử sóc nhuận biểu của Trần Viễn.
Theo kết quả khảo cứu của chúng tôi, trong 11 năm đầu (1802 – 1812), nhà Nguyễn soạn lịch theo phép Đại Thống (dùng phép xấp xỉ bậc ba); trong khi đó nhà Thanh soạn lịch theo phép Thời Hiến (dùng lượng giác), nên lịch hai nước khác hẳn nhau. Cụ thể có bốn lần khác nhau lớn, tức là khác nhau về tháng nhuận:
- Năm Quý Hợi (1803) Việt Nam nhuận tháng Giêng, Trung Quốc nhuận tháng Hai.
- Năm Ất Sửu (1805) Việt Nam nhuận tháng Tám, Trung Quốc nhuận tháng Sáu.
- Năm Mậu Thìn (1808) Việt Nam nhuận tháng Sáu, Trung Quốc nhuận tháng Tám.
- Năm Tân Mùi (1811) Việt Nam nhuận tháng Hai, Trung Quốc nhuận tháng Ba.
Ta hãy khảo sát năm Quý Hợi: ở ảnh một, lịch Việt Nam là cột thứ hai tính từ bên phải; ở ảnh hai, lịch Trung Quốc là cột một kể từ bên phải.
Lịch Trung Quốc nhuận tháng Hai, mồng một tháng Hai là ngày Đinh Dậu (đứng thứ 34 trong 60 hoa giáp), tức là ngày 22 tháng Hai năm 1803, mồng một tháng Hai nhuận là ngày Bính Dần (đứng thứ ba), tức là ngày 23 tháng Ba năm 1803. Ngày Canh Thìn (đứng thứ 17) không có trong tháng Hai mà có trong tháng Hai nhuận của lịch Trung Quốc. Bởi thế trước khi tìm ra lịch Việt Nam, các nhà khảo cứu rất lúng túng, về nguyên tắc là không thể đổi được.
Lịch Việt Nam nhuận tháng Giêng. Ngày mồng một tháng Hai là ngày Bính Dần (đứng thứ ba), là ngày 23 tháng Ba năm 1803. Ngày Canh Thìn (đứng thư 17) là ngày 15 âm, tức là ngày mồng sáu tháng Tư năm 1803.
Bây giờ ta thấy các tư liệu đều đúng và khớp với nhau:
Đại Nam thực lục cho biết Ngô Thì Nhậm bị đánh đòn vào ngày Canh Thìn, tức là ngày 15 tháng Hai và là ngày mồng sáu tháng Tư năm 1803. Ta có thể hiểu các sử gia đã lấy sự kiện ông bị đánh làm tiêu chí để ghi và vì thế lấy ngày Canh Thìn. Nguyên nhân của sự kiện đó là do trước đây ông đã làm thượng thư cho nhà Tây Sơn. Hậu quả của trận đòn này là sau đó ông bị chết.
- Theo các hậu duệ của ông, sau trận đòn gia đình đã đón ông về nhà, rồi ông mất tại nhà riêng ở Tó.
- Theo Ngô Gia thế phả, ông bị mất vào giờ Hợi ngày hôm sau, tức là ngày 16 tháng Hai, tức là vào khoảng từ 21 đến 23 giờ ngày mồng bảy tháng Tư năm 1803.
Cũng cần nói thêm rằng, đúng như Đại Nam thực lục đã dùng lịch trong cuốn Khâm Định vạn niên thư này qua một bằng chứng nữa là ở trang 104, tập III có ghi tháng Giêng năm này nhuận.
 
ND87 trích đăng từ: Hội khoa học lịch sử Việt Nam: LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC. Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Trẻ xuất bản, năm 1999, trang 363 – 366.
 
 
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 07.06.2008 15:50:41
HUYỀN THOẠI VỀ LOA THÀNH







Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta.



Loa Thành hay Cổ Loa Thành, còn có tên khác là Tư Long Thành, người Trung Quốc thường gọi là Côn Lôn Thành, chính là kinh thành của nước ta thời An Dương Vương. Di tích Loa Thành nay vẫn còn ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta. Việc đắp thành khó khăn này đã được tiến hành như thế nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỷ, quyển 1, từ tờ 6a đến tờ 7b) chép rằng:

“Thành này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở khiến nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi công đắp lại'' .

...''Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi cười mà nói rằng:

- Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?

Vua liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói :

- Cứ đợi Giang Sứ đến.

Xong, cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông, từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang Sứ, bàn được chuyện tương lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:

- Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ, ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hoá thành. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm  tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ tự nhiên xây được bền vững.

Nhà vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán nói:

- Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc hoạ. Nhà vua cười nói:

- Sống chết đều có số mệnh cả, ma quỷ mà làm gì nổi?

Nói rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin vua đuổi theo chúng. Tới núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để đem đi chôn. Thấy nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:

- Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.

Vua xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn. Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về. Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:

- Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống giữ?

Rùa vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:

- Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì không lo gì.

Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.

Lời bàn: Nước bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu, đã thế, trình độ kỹ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà nhà vua dám dốc sức xây thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại, ở một góc độ nào đó, cũng có thể coi là biểu tượng của những thách thức chất chồng đó thôi.

Việc nhà vua nghênh đón Giang Sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang Sứ không chút quản ngại, cùng vua lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết lòng phò tá chí lớn của nhà vua!

Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỷ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng; “Việc làm của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh, thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi thần giáng mà suy” (Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỷ, quyển 1, tờ 10-b).

Như An Dương Vương, thần minh giáng lần đầu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc gia Âu Lạc hùng mạnh; thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.


Sưu tầm từ
http://vitinfo.com.vn/Muctin/Honviet/Dauanthoigian/38855/default.aspx
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 08.06.2008 23:37:17
ND dẫn thêm: Như đã nhiều lần mình nói về vai trò người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc: những người phụ nữ Việt Nam đâu chỉ đảm việc nhà mà còn đặc biệt cống hiến sức mình cho tổ quốc, không chỉ ra chiến trường mà còn hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác - những lĩnh vực mà tưởng chừng chỉ là đặc quyền của nam giới - như lĩnh vực chính trị, điều hành đất nước không thua kém gì nam giới! Không những vậy, có người vì sự cống hiến đó mà toàn dân phong gọi là Phật Bà như trường hợp Nguyên phi Ỷ Lan thời Lý là một ví dụ điển hình. Bà thay chồng cai trị đất nước được toàn dân khâm phục: mùa màng bội thu, nhân dân gọi Bà là Phật Bà sống! Chồng bà - vua Lý Thánh Tông - đi đánh giặc Chiêm Thành nghe tin về Bà  tự thấy xấu hổ mà dốc sức cầm quân đánh giặc....
Dưới đây là một tư liệu về Đức Phật Bà Nguyên phi Ỷ Lan. Mời các bạn cùng đọc và suy ngẫm.

Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan


Hoàng Thái hậu Ỷ Lan tương truyền có tên là Lê Thị Khiết, còn có tên là Lê Thị Yến. Bà sinh năm Giáp Thân, Thiên Cảm Thánh Võ thứ nhất (1044) tháng 3 ngày 7. Nguyên quán trại trang Thổ Lỗi, nay thuộc xã Như Quỳnh, huyện Văn Lâm. Con gái ông Lê Công Thiết và bà Vũ Thị Tình, làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Năm bà 12 tuổi thị mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế. Năm bà 16 tuổi cha cũng qua đời, nhờ bà mẹ kế nuôi dạy.

Bấy giờ đương thời Lý Thánh Tông(1023-1072) đã cao tuổi mà chưa có con trai. Vua và hoàng hậu đi cầu tự nhiều nơi nhưng không thành. Đình thần bèn mở hội cầu duyên ở Thổ Lỗi, chỉ dụ cho các làng trong vùng mở hội thông sức cho nhà dân có con gái đẹp phải ăn vận chỉnh tề đi dự hội.

Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi. Khi xa giá tới cổng ở đầu làng,nghe có tiếng hát rất quyến rũ của một người con gái trong nương dâu, Vua cho hạ kiệu đi bộ, thì người con gái dừng tay, từ trong ruộng dâu đi ra nép vào một gốc dâu nhìn về phía xa giá. Vua truền lệnh gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh. Đó chính là Khiết Nương. Vua truyền lệnh tuyển người con gái ấy vào cung, rước về Lan cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Từ đó Khiết Nương có tên là Ỷ Lan

Trong cung bà được học hành, khi sinh người con trai thứ nhất là Càn Đức, được phong là Thần phi. Sinh người con trai thứ hai là Minh Nhân Vương,bà được phong là Nguyên Phi. Đến khi vua Lý Thánh Tông mất, Càn Đức lên nối ngôi lấy hiệu là Nhân Tông, bà được phong là Hoàng Thái Hậu

Ỷ Lan đã hai lần làm nhiếp chính:

Lần thứ nhất vào năm 1069. Tương truyền năm ấy, Lý Thánh Tông mang quân đi đánh giặc phương Nam nhưng không thắng, bèn đem quân về. Đến Mạt Liên(Tiên Lữ bây giờ) Lý Thánh Tông nghe tin báo rằng Nguyên Phi Ỷ Lan đã giúp vào chính sự, trong nước yên ổn, lòng dân vui vẻ, được nhân dân quý trọng, tôn vinh.

Lý Thánh Tông nói” Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông thì chẳng được việc gì”. Vua liền quay lại Nam chiến và đã chiến thắng. Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước của vua Lý Thánh Tông, có vai trò không nhỏ của Nguyên Phi Ỷ Lan.

Lần thứ hai khi vua Lý Thánh Tông mất(1072), Lý Nhân Tông(Càn Đức) mới 7 tuổi lên ngôi vua, bà được tôn làm Hoàng Thái Phi, rồi Hoàng Thái hậu. Là một phụ nữ tài trí, đức độ, lại được Lý Thường Kiệt ủng hộ nên Hoàng Thái Hậu đã có những đóng góp tích cực vào cơ nghiệp nhà Lý.

Trong tám đời vua triều Lý, Lý Nhân Tông là người có chiến công hiển hách nhất. Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt , quân dân Dậi Việt đã đánh tan quân xâm lược Tống năm 1076, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Nhân Tông trị vì, đối với bên ngoài thì nước lớn kiêng nể, nước nhỏ mến phục, trong nước thái bình, nhân dân no ấm.

Về nội trị, bà ban hành nhiều chính sách tiến bộ như chuộc nô tỳ, tha cung nữ, giảm tô thuế, cấm giết trâu bò. Là người hâm mộ đạo Phật, có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa, am hiểu phật học, không kém các thiền sư nổi tiếng đương thời. Bà có viết một bài kệ:

Sắc thị không, không tức sắc

Không thị sắc, sắc tức không

Sắc không quân bất quản

Phương đắc khế chân không.

Nghĩa là:

Sắc là không, không tức sắc

Không là sắc, sắc tức không

Sắc không đều chẳng quản

Mới được hợp chân tông.

Với bài kệ này, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan được các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác gia văn học thời Lý- Trần

Bà mất ngày 25 tháng 7 năm 1117. Tại quê hương và nhiều nơi đã xây dựng chùa tháp, đền thờ bà. Cùng với những ngôi đền lớn thờ bà ở huyện Gia Lâm(Hà Nội), hiện ở Hưng Yên có hai ngôi: Đền Ghênh xã Như Quỳnh và chùa Hương Lãng xã Minh Hải đều thuộc Văn Lâm.
Sưu tầm từ:
http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/chuyende/hungyen/details.asp?topic=195&subtopic=397&leader_topic=907&id=BT1610869788
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 00:53:18
PHÁT HIỆN NẾP ÁO TIỂU THỪA TRÊN TƯỢNG VUA TRẦN NHÂN TÔNG


700 năm sau ngày mất của đức Trần Nhân Tông, tìm về Yên tử để chiêm bái thêm một lần pho tượng của ngài hiện đặt trong tháp tổ Huệ Quang. Tương truyền pho tượng đó cho chính vua Trần Anh Tông cho tạc ngay sau một năm ngài mất. Pho tượng được tạc bằng đá xanh Ninh Bình, chia ra làm 2 phần, một phần ngai có bốn mặt hổ phù đặt rời phần bệ và tượng.
Bệ và tượng được tạc trên cùng một khối đá, hoa văn bệ tượng đơn giản viền ngoài là hoa cúc đời Trần, lớp trong là hai con rồng chầu hoa sen. Chỉ cần đọc những lớp mã ý nghĩa ở phần bệ tượng thôi cũng là cả một điều thú vị.
Phần ngai bốn chân hổ phù bắt buộc phải rời khỏi phần bệ vì Trần Nhân Tông là vị vua xuất gia đi tu; ở phần bệ gắn liền với tượng có trang trí hoa văn hoa cúc vốn là biểu tượng văn hóa của triều đại nhà Trần; rồng chầu hoa sen (không phải là rồng chầu mặt nguyệt, hay hỏa châu) cho thấy vào đầu triều đại nhà Trần đến đời vua Anh Tông, Phật giáo chính là quốc giáo của Đại Việt, hình tượng con rồng biểu tượng cho quyền lực của nhà vua chầu một đóa hoa sen được cách điệu là biểu tượng của Phật giáo. Sách Thánh đăng ngữ lục còn chép lại: Mùa đông năm Giáp thìn (1304), vua Anh Tông dâng biểu xin thụ Bồ tát giới tại gia.
Nhưng mã văn hóa không chỉ nằm lại ở phần bệ tượng mà dồn cả vào pho tượng vua Trần Nhân Tông. Pho tượng cao khoảng 50cm, vua Nhân Tông trong tư thế của một vị thiền sư ngồi kiết già, hay tay đặt lên đầu gối, tay phải bắt ấn, tay trái đặt buông gần đầu gối, vua ngồi thiền mở mắt, ánh mắt được các nghệ nhân dân gian điểm nhã trông hiền từ, pho tượng đẹp giản dị toát lên một vẻ thoát tục.
Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng được nhìn tận mắt pho tượng đức Nhân Tông ở trong tháp tổ về chất liệu và kỹ thuật điêu khắc về pho tượng trong tháp Huệ Quang cho biết: “Chỉ riêng cánh tay của pho tượng, với kỹ thuật chế tác đá trên chất liệu như thế và thời bây giờ phải thợ lành nghề phải làm hết ba tháng”. Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng đã về thử làm một phiên bản như vậy trong sự hỗ trợ rất nhiều của máy móc hiện đại trong vòng một tháng hoàn thành được tác phẩm chỉ đạt được độ chính xác 70% so với mẫu trong tháp.
Trước đó một nhóm họa sĩ của Vụ Mĩ Thuật cũng tiến hành dựng phiên bản bằng thạch cao trong dự án dựng tượng vua Trần Nhân Tông trên đỉnh An Kỳ Sinh sau thời gian tương đương như thế đã nặn một phiên bản khác nhưng không một nét nào mang hình ảnh của Trần Nhân Tông.
Tượng vua Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang quả là công trình tuyệt mĩ về mặt mĩ thuật, nhưng đặc biệt hơn cả là pho tượng đó tồn tại trong đó những bí ẩn  mà mãi cho đến ngày nay chúng ta mới đặt câu hỏi và bắt đầu trên con đường khám phá: Đó chính là nếp áo tiểu thừa mà những người thợ chế tác cùng thời khoác cho bức tượng.
Như chúng ta đã biết rõ ràng thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại Thừa vậy nếp áo Tiểu Thừa của đệ nhất tổ một dòng thiền Đại thừa mang ý nghĩa gì?
Tìm lại một chút lịch sử các pho tượng cổ vua Nhân Tông, ngoài pho tượng đặt trong tháp Huệ Quang ra còn có một số pho tượng khác vua cũng mặc áo tiểu thừa: hệ thống ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ ở Côn Sơn; ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ trong chùa Đồng cũ được xây dựng đầu thế kỷ 20… còn lại đa phần các pho tượng khác vua vẫn mặc áo Đại Thừa.
Giở lại một số sách sử chép về cuộc đời bắt đầu khi vua xuất gia tu hành đến đắc đạo thành Phật ta thấy có một số sự kiện sư sau:
Sách Thánh Đăng Ngữ Lục chép: “ Năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ 7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà”
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Tháng 8 (năm kỷ hợi) Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”
Sách Thánh Đăng ngữ lục chép lại: Khi mất vua Nhân tông được tôn hiệu Đại thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Huệ Điều Ngự Tổ Phật.
Như vậy có một điều khẳng định là vua Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật
Sau khi vua vào Yên Tử tu tập, vẫn theo sách Đại Việt Việt Sử Ký Toàn Thư thì tháng 3 năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng Nhân Tông đi sang Chiêm Thành, và chính chuyến đi này ngài đã làm một nước cờ chính trị vô cùng khôn khéo là dàn xếp cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân nhà Trần để đổi lấy hai châu Ô, Lý mà không mất một mũi tên hòn đạn. Cuốn sử trên cũng ghi chép khá rõ ràng diễn biến cuộc hôn nhân này:
Rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), sau chuyến đi Chiêm về, Thượng hoàng mở Pháp hội vô lượng bố thí tiền bạc cho dân nghèo tại chùa Phổ Minh; tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng tiếp một vị sư tu theo lối Du Già ở Chiêm Thành sang nước ta; Tháng 2 năm Ất Tị(1305) nước Chiêm sai Chế Bồ Đài mang phẩm vật bàn chuyện hôn sự; tháng 6 năm Bính Ngọ(1306) tổ chức đám cưới cho công chúa Huyền Trân và vua Chiêm là Chế Mân; tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân mất cũng chính ngài là người sai Trần Khắc Chung đem quân lừa đưa được công chúa về tránh cảnh con gái mình phải thiêu cùng vua Chiêm.
Như vậy có thể nói chỉ có thời gian từ tháng 8 năm 1299 đến tháng 3 năm 1301 trong sử không thấy chép gì những chuyện của vua Nhân Tông trong thời gian ở Yên Tử, chứng tỏ trong thời gian này ngài ở Yên Tử và tu tập rốt ráo trong thời gian gần 2 năm. Tuy vậy sau 2 năm tu hành ngộ đạo, tính từ khi ngày xuống núi có buổi thuyết pháp đầu tiên giảng về Khóa Hư Lục tại chùa Vĩnh Nghiêm thì những việc đối ngoại quan trọng của đất nước trong đó có chuyện lấy hai châu Ô, Lý chính là do một mình vua Nhân Tông chỉ đạo.
Sau một thời gian xuất thế để tu đạo, cả một quãng thời gian dài sau thời điểm chứng đắc ngộ đạo Trần Nhân Tông đóng vai trò là một thiền sư nhập thế. Suốt từ năm 1301 cho đến cuối đời thái độ xuất thế và nhập thế của vua Trần Nhân Tông luôn có sự biến đổi. Lúc ngài trong hành trạng của một vị khất sĩ ngay trong kinh thành của nước Chiêm; có lúc ngài như một thiền sư Lâm Tế trong buổi giảng về thiền tại chùa Sùng Nghiêm vào năm 1304 theo lời tả trong sách Thánh Đăng Ngữ Lục; có lúc ngài nhập thế như một nhà Nho khi tính nước cờ chính trị vô cùng sáng suốt để đổi lấy hai châu Ô, Lý... Chính  thái đội hành tàng xuất xử của ngài làm cho nhiều người tìm hiểu về cuộc đời của ngày như lạc vào trong một mê cung và có lẽ chính từ đây câu chuyện về Thiền Phái Trúc Lâm mới được bắt đầu giở sang một trang mới.
Cuối tháng 12 vừa rồi, có dịp đi lại trên con đường rất nhiều khả năng đó chính là con đường cổ xích tùng mà vua Trần Nhân Tông đã đi vào Yên Tử  để tu khổ hạnh. Cuối con đường chúng tôi vô cùng ngạc nhiên về một rừng tùng cổ thụ mở ra trước mắt, những thân cây lớn độ hai người ôm mọc thành rừng với số lượng khá nhiều, bên cạnh là một rừng trúc, những thân trúc to bằng cổ tay mọc thẳng đứng rắn rỏi, mỗi cơn gió len được vào nơi đây đều làm những lá trúc reo lên trên những tay trúc mảnh dẻ, rồi bất chợt một vài chiếc là vèo rụng như nhắc nhở du khách về kiếp phù sinh của đời người.
Một vị thiền sư chỉ cho tôi mé bên kia của rừng Tùng, rừng Trúc này là một rừng Mai vàng. Rừng mai  mọc ở bên đằng thác vàng chạy dọc từ chùa Hoa Yên xuống vị trí ga cáp treo bây giờ, vào những tháng xuân, du khách hành hương rợp ngợp trước một rừng mai vàng trên triền núi Yên Tử, đoạn từ am Thiền Định sang Thác Vàng vốn ít khách qua lại đến ngày tết trong không khí lành lạnh của những ngày đông đang còn vương vấn, ngắm hơi núi phả ra những dải sương và cánh mai vàng rơi lác đác trên con đường đá thật không có gì khoái hoạt bằng.
Bất giác tưởng tượng đến cảnh đó, nghĩ đến ngày cuối năm mà nhớ tới câu thơ của Huyền Quang Lý Đạo Tái: Tuế vãn trung sơn vô lịch nhật/Cúc khai hoa xứ tức trùng dương (Năm gần hết, giữa rừng không có lịch/ Thấy hoa cúc nở, biết là tiết trùng dương đến rồi); đọc hết câu mới giật mình khám phá ra một điều vô cùng thú vị: Hóa ra ở Yên Tử ngay từ sớm đã song hành tồn tại “tứ quý”: Tùng – Cúc – Trúc – Mai là những vẻ đẹp tượng trưng cho đức hạnh của người quân tử theo mĩ học Nho giáo.
Một thánh địa của Phật giáo lại chất chứa trong đó những vẻ đẹp biểu tượng cho đức hạnh của người quân tử theo quan niệm Nho giáo thì quả là đặc biệt. Nếu lạm nghĩ thêm một tí nữa thì trước đó rất lâu tượng đá An Kỳ Sinh đã đứng sừng sững gần hai mươi thế kỷ. Và chỉ nghĩ thêm được chừng đó thôi mọi thứ đã gần thông suốt trên quãng đường đi khám phả chỉ một dải núi men sườn dãy Yên Tử đã tồn tại ba vẻ đẹp của ba thứ tôn giáo hòa chung trong nhịp đập mà trái tim chính là Thiền Phái Trúc Lâm.
Nhớ lại một câu nói nữa cũng của thiền sư Phù Vân với vua Thái Tông cũng được chép lại trong cuốn sách Thiền tông chỉ nam tự: Sơn bản vô Phật/Duy tồn hồ tâm/Tâm tịch nhi tri/Thị danh chân Phật; Để đến sau này trong yếu chỉ của mình mà chính là của Thiền phái Trúc Lâm với bài phú Cư Trần Lạc Đạo đức Điều ngự giác hoàng đã tiếp nhận một lần nữa lời nói của thiền sư Phù Vân trong câu: Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. Câu của vua Thái Tông chép lại có nghĩa là: Trên núi vốn không có Phật/ Phật chính nằm trong tâm/ Tâm lặng mà biết được/Đấy chính là Phật thật sự.
Sưu tầm từ:

http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=977&Itemid=67

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.06.2008 00:59:36 bởi ngocdiep87 >
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:34:02
CHÙM BÀI VỀ CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT

VÕ VĂN KIỆT - NHÀ LÃNH ĐẠO KIỆT XUẤT THỜI KỲ ĐỔI MỚI




Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt và sinh viên trường ĐH Quốc gia Hà Nội
Xin trân trọng giới thiệu bài viết về nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã được đăng tải nhân dịp sinh nhật 85 tuổi (23/11/1922 – 23/11/2007) của nhà lãnh đạo kiệt xuất này.



Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời
Với tuổi đời 85 và 70 năm tham gia cách mạng (1938 – 2007), ông đã cống hiến gần như toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc và đổi mới đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với một giai đoạn lịch sử oai hùng và đầy thử thách của dân tộc qua những hoạt động phong phú và nổi bật mang dấu ấn đặc sắc, dấu ấn Võ Văn Kiệt. Dấu ấn về tư tưởng và quyết tâm đổi mới đất nước, đưa đất nước vượt qua tình trạng khó khăn, trì trệ, từng bước phát triển và hội nhập. Dấu ấn về bầu nhiệt huyết không hề vơi cạn theo thời gian và tuổi tác của con người.
Võ Văn Kiệt thuộc thế hệ lãnh đạo hàng đầu đi tiên phong trên con đường đổi mới đất nước. Ông quan niệm rõ ràng và nhất quán về đổi mới: “Đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ hay từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà là nhận thức lại một cách đúng đắn hơn về một chủ nghĩa xã hội nhân bản, hoàn thiện, với lý tưởng phục vụ con người, vì con người”.
Ông là nhà lãnh đạo có sự đóng góp xuất sắc bởi tầm nhìn sâu rộng và trí tuệ sắc sảo. Những phẩm chất tiêu biểu đó, một phần do bẩm sinh, do tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài ở những nơi đầu sóng ngọn gió của cách mạng, và đặc biệt do phong cách gần gũi bình dị, khả năng tập hợp và khai thác có hiệu quả những tri thức tiên tiến của một tập thể chuyên gia giỏi về nhiều mặt; chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật v.v….
Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường (Ba Bường), và Võ Văn Kiệt thời kỳ chiến tranh giải phóng miền Nam Việt Nam. Ảnh tư liệu
Nhờ thế, ông cùng với lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa ra được những quyết sách đúng đắn, những giải pháp hiệu quả cho sự phát triển của đất nước. Nhiều chủ trương của Chính phủ mang dấu ấn của cá nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, nhưng không phải được mọi người đồng tình ngay từ đầu.
Để biến đường lối, chủ trương thành hiện thực, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng thể hiện một phong cách lãnh đạo sâu sát, cụ thể và đặc biệt lòng dũng cảm đến mức quyết liệt. Và trên hết là bầu nhiệt huyết đối với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân không hề vơi cạn.
Ông thể hiện phong cách, tinh thần đó không chỉ khi ở cương vị nhà lãnh đạo cao nhất của một thành phố (Bí thư Thành uỷ TP. HCM), của Chính phủ, mà cả khi ông không còn giữ trọng trách nào trong Đảng và Nhà nước.
Trong 10 năm nay (1997 – 2007), trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, lại thấy Công dân Võ Văn Kiệt lên tiếng. Có khi là một bài viết, có lúc là bài trả lời phỏng vấn, và đặc biệt có cả những bức thư ngỏ công khai gửi lên các cấp lãnh đạo đất nước.
Trong thời gian gần đây, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước dồn dập hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến “đóng góp với đại hội X”, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về “thành phố dọc sông Hồng”, việc “xây nhà Quốc hội” v.v....Những ý kiến của ông được trình bày thẳng thắn và chứa tâm huyết lớn với nước với dân. Dù được chấp nhận hay không, các ý kiến của ông đều rất quý, rất đáng trân trọng, phù hợp lòng dân và được người dân mong chờ, đón nhận.
Tư tưởng “đổi mới”, hành động “đổi mới”, công lao trong sự nghiệp “đổi mới” cùng với bầu nhiệt huyết với đất nước và nhân dân của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước xuất sắc, một hình ảnh tiêu biểu của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt thực sự được nhân dân cả nước yêu quý với tên gọi thân thiết Sáu Dân và được bạn bè trên thế giới nể trọng. Đó là món quà quý giá nhất cuộc đời dành tặng ông.



GS Trần Thanh MinhSưu tầm từ:
http://vitinfo.com.vn/muctin/CTXH/45214/default.aspx

7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:37:11
VÕ VĂN KIỆT VÀ CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
õ



Khi còn đương nhiệm, thủ tướng Võ Văn Kiệt là người rất quan tâm đến giáo dục
VIT - Trong con mắt và trái tim của chúng tôi, Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo xuất sắc, một Thủ tướng tiêu biểu cho tầm nhìn, trí tuệ và phong cách lãnh đạo mới.



Viết về một nhà lãnh đạo đã từng đảm nhiệm những trọng trách lớn của Đảng và Nhà nước như đồng chí Võ Văn Kiệt là một việc rất khó, bởi tính da dạng và phức tạp của những công việc mà đồng chí đảm nhiệm, từ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng đến đối ngoại... ở đây, chúng tôi chỉ muốn nêu lên một khía cạnh nhỏ trong công tác lãnh đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt mà chúng tôi được trực tiếp chứng kiến - công tác giáo dục đại học - thể hiện tầm nhìn, trí tuệ và bản lĩnh của một nhà lãnh đạo.
Việc nhìn lại và đánh giá những cống hiến của đồng chí Võ Văn Kiệt ở thời điểm này chắc chắn là dễ khách quan, trung thực hơn, vì đồng chí không còn giữ bất cứ cương vị gì trong bộ máy của Nhà nước và Đảng. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi vẫn gọi đồng chí là Thủ tướng, vì trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình thì những năm ở cương vị Thủ tướng Chính phủ đồng chí đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người dân Việt Nam và bè bạn quốc tế.
Trong con mắt và trái tim của chúng tôi, Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo xuất sắc, một Thủ tướng tiêu biểu cho tầm nhìn, trí tuệ và phong cách lãnh đạo mới. Trí tuệ của Thủ tướng, một phần do bẩm sinh, nhưng quan trọng hơn là Thủ tướng đã biết tập hợp, khai thác trí tuệ của các chuyên gia, của tập thể, biết phân biệt đúng sai, phải trái trong muôn vàn ý kiến khác nhau đó để cuối cùng trở thành chủ trương đúng đắn của mình. Có chủ trương rồi, Thủ tướng đã thể hiện lòng dũng cảm, bản lĩnh cao cường để thực hiện cho bằng được cái chủ trương đó, đặc biệt là khi nó được đưa ra trong bối cảnh còn có những ý kiến trái ngược nhau. Và cuối cùng, tất cả những nỗ lực của Thủ tướng đã được thể hiện bằng hiệu quả của việc làm, đưa lại lợi ích cho dân, cho nước.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng các Phó thủ tướng: Phan Văn Khải, Nguyễn Khánh, Trần Đức Lương họp bàn về quy hoạch chung chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây trong đó có khu đô thị Đại học Quốc gia Hà Nội (ảnh chụp năm 1995)
 
Một trong những thành tựu đáng kể của giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây là sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Đại học Quốc gia Hà Nội - một đại học có quyền chủ động cao trong đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy.
Việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học có thể so sánh như một thứ “Khoán 10” trong giáo dục đại học. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng, phù hợp với quy luật phát triển đại học trên thế giới, đặc biệt là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão - “một ngày bằng hai mươi năm”.
Khi trao đổi với các nhà khoa học giáo dục nước ngoài, đặc biệt là các nước có nền giáo dục tiên tiến như Nga, Mỹ, Nhật, Pháp, Anh..., về ý tưởng, mô hình tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi đều nhận được sự tán đồng và sự hợp tác nhiệt tình vì chỉ với mô hình đại học có quyền tự chủ cao như Đại học Quốc gia Hà Nội, trường đại học mới có thể phát triển nhanh, đạt chất lượng cao, mới theo kịp trình độ đại học của các nước phát triển.
Dưới đây, qua việc trình bày ý kiến về giáo dục đại học và Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi muốn phản ánh những suy nghĩ và tầm nhìn chiến lược của đồng chí Võ Văn Kiệt về các vấn đề này.
Những năm trước đây, các trường đại học của nước ta mặc dầu đã có nhiều đóng góp lớn lao cho sự nghiệp cách mạng giành độc lập tự do và thống nhất đất nước, cho công cuộc xây dựng nền kinh tế và phát triển xã hội, song do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên việc quản lý các trường đại học quá chặt chẽ, kém hiệu quả, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của cơ sở đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu nhân lực có trình độ đại học thay đổi, đòi hỏi sự trang bị kiến thức rộng, dễ dịch chuyển nghề, thông thạo ngoại ngữ, tin học... Do vậy, việc tổ chức, quản lý đào tạo theo kiểu cũ không còn thích hợp nữa.
Mỗi trường đại học là một trung tâm trí tuệ. Nếu khơi dậy được tiềm năng này thì trường đại học sẽ phát triển mạnh. Mỗi trường đại học có đặc thù riêng. Các trường đại học phải năng động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, đặc biệt là trong điều kiện hạn hẹp của các nguồn nhân lực và tài chính của Nhà nước. Các trường đại học phải đua tranh nhau phát triển, nâng cao uy tín của trường mình trong xã hội bằng chất lượng đào tạo. Do vậy, việc phát huy cao độ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học là biện pháp hàng đầu để phát triển nhà trường, nâng cao chất lượng đào tạo. Đây chính là “Khoán 10” trong giáo dục đại học. Vai trò quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo là rất lớn và quan trọng. Song Bộ không nên làm thay chức năng của các trường đại học. Chỉ có như vậy, nền giáo dục đại học của nước ta mới phát triển nhanh, có chất lượng cao.
Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi phải có phương thức quản lý, đảm bảo tính năng động, sáng tạo của những tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ trong hành lang pháp luật. Điều này được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực kinh tế. Những khái niệm về các tổ chức sản xuất, kinh doanh “trực thuộc bộ”, “bộ chủ quan” đã tỏ ra lỗi thời, cản trở sản xuất phát triển. Thay vì sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch do Bộ giao trước kia, xí nghiệp phải tự tìm hiểu nhu cầu của thị trường, phải tự tổ chức sản xuất với chất lượng do người tiêu dùng yêu cầu, tiêu thụ được sản phẩm và phải tự đảm bảo doanh thu để giải quyết đời sống cho cán bộ, công nhân viên của xí nghiệp và phát triển sản xuất. Chính vì vậy, mà Chính phủ dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ra biện pháp quan trọng: “Chấm dứt sự can thiệp trực tiếp của bộ quản lý ngành và các bộ chức năng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên”. Tình hình này cũng đúng trong lĩnh vực giáo dục.
Ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải là một bộ phận tiên tiến nhất của xã hội, phải nhạy cảm nhất và đi đầu trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tiếc rằng, cho đến nay chúng ta vẫn đang trong trạng thái trì trệ, những vấn đề lớn về quản lý đại học về cơ bản vẫn theo cách cũ, từ thời bao cấp. Các trường đại học vẫn còn chịu bó tay trước nhiều việc cần làm và có khả năng làm. Giáo dục nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Chủ trương tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới trường dại học và cao đẳng, xây dựng các Đại học Quốc gia, đã được đặt ra từ lâu (Quyết định 73/HĐBT) và được làm nhiều lần, ở nhiều cấp, nhưng trong một thời gian dài không triển khai được. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Đại học Quốc gia với những ý tưởng mới về một nền giáo dục đại học. Sự ra đời của hai Đại học Quốc gia là mốc đổi mới sâu sắc trong cơ cấu hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện loại trường đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Việc xây dựng ĐHQG nhằm mục tiêu để Việt Nam ta nhanh chóng có những trung tâm đại học mạnh, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các đại học Quốc gia được xây dựng sẽ có tác dụng thúc đẩy đối với toàn bộ hệ thống đại học của nước ta.
Về cơ cấu, Đại học Quốc gia là một trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Ưu điểm nổi bật nhất của đại học đa ngành, đa lĩnh vực là sự hỗ trợ mạnh mẽ giữa các lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo khác nhau, cùng nhau sử dụng chung đội ngũ cán bộ, sử dụng chung các trang thiết bị, phương tiện giảng dạy và do vậy nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác đào tạo đại học cũng như nghiên cứu khoa học. Xây dựng các đại học đa ngành, đa lĩnh vực là cách làm phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Cần có một cơ chế tự chủ để một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực phát huy được năng lực sáng tạo của mình trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt trong một buổi làm việc với trường Đại học Quốc gia Hà Nội
Xét về mặt tổ chức, ĐHQG là cấp trên trực tiếp của các trường thành viên. Không nên biến ĐHQG thành một cấp hành chính trung gian giữa các trường thành viên và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Muốn vậy, phải xoá bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với ĐHQG, bởi vì nếu ĐHQG có bộ chủ quản thì đương nhiên nó trở thành cấp trung gian cồng kềnh giữa Bộ và các trường thành viên khác.
Các nhiệm vụ cơ bản được đặt ra đối với ĐHQG Hà Nội rất lớn: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở trình độ đại học và trên đại học. Đặc biệt chú trọng đào tạo nhân tài trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ mũi nhọn và giáo dục. Tiến hành nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ mũi nhọn, thẩm định về mặt khoa học và công nghệ các dự án, công trình lớn cấp quốc gia, góp phần đưa những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất và đời sống, gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 10/12/1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký Nghị định thành lập ĐHQGHN. Tiếp theo đó là thời gian hoàn thiện ý tưởng và mô hình ĐHQG, thể hiện trong văn bản quy chế đầu tiên của ĐHQGHN được ban hành vào ngày 5/9/1994. Quy chế này đã phản ánh khá đầy đủ những ý tưởng chiến lược của Thủ tướng về giáo dục đại học.
Tư tưởng đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đại học như đã nói ở trên đã gặp không ít khó khăn khi thực hiện ở trong ngành cũng như ở bên ngoài, do nhận thức, do thói quen và cả do lợi ích cục bộ nữa. Mặc dù vậy, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đưa ra những ý kiến quyết định vào các thời điểm khó khăn nhất đối với ĐHQGHN. Đồng chí trước sau như một vẫn kiên quyết chỉ đạo việc xây dựng ĐHQGHN theo tinh thần đổi mới đã đề ra và đã đạt được thành công to lớn.
Nhờ được quyền tự chủ cao và được tạo điều kiện thuận lợi, ĐHQGHN đã phát triển vượt bậc, nâng cao chất lượng mọi mặt công tác, đã mở ra những ngành đào tạo mới, mở hệ đào tạo cử nhân tài năng, tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển công tác nghiên cứu khoa học, tăng nhanh cơ sở vật chất và trang thiết bị. Học sinh của ĐHQGHN đã đạt được nhiều giải cao trong các kỳ thi Toán, Lý, Tin, Vật lý, Hoá quốc tế, đem lại niềm vinh quang và tự hào cho Tổ quốc. So với năm đầu mới thành lập, ngày nay kinh phí cho hoạt động khoa học đã tăng gấp 20 lần, số diện tích lớp học, nơi làm việc, ký túc xá xây mới bằng tổng diện tích đã xây được trong 50 năm trước đó...
Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất của ĐHQG cho đàng hoàng, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc. Đích thân Thủ tướng đã đi tìm địa điểm để xây dựng ĐHQGHN. Cán bộ và sinh viên của ĐHQGHN rất xúc động khi được biết rằng vào một ngày chủ nhật Thủ tướng đã đi thị sát các địa điểm có thể xây dựng ĐHQGHN. Đến một nơi, do không được thông báo trước nên cổng thường trực không mở. Thế là Thủ tướng và cả đoàn tuỳ tùng đã phải leo qua hàng rào để vào tận nơi quan sát khu đất và ngày nay khu đất ấy đã được xây dựng thành trung tâm điều hành khang trang của ĐHQGHN, nơi đã đón tiếp nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, nhiều nguyên thủ các quốc gia. Sau nhiều ngày suy tính về tương lai của một đại học lớn, Thủ tướng đã quyết định dành cho ĐHQGHN một khu đất đẹp, rộng trên 1000ha tại Hòa Lạc. Khi đó có những cán bộ thắc mắc sao lại đi xa vậy? Song bây giờ mọi người đều nhận ra sự sáng suốt của việc lựa chọn địa điểm này: ĐHQG phải có môi trường sinh hoạt rộng thoáng, phải đáp ứng cho nhu cầu phát triển của cả trăm năm sau, xứng đáng là một đại học lớn trong khu vực và trên thế giới. Ngày nay, nhờ việc mở ra con đường cao tốc Láng - Hòa Lạc (cũng do Thủ tướng chủ trương) mà cả phía Tây của Hà Nội đang phát triển mạnh và thời gian đi từ Hà Nội đến Hoà Lạc chỉ còn 30 phút, nghĩa là còn nhanh hơn đi trong nội thành vào những giờ cao điểm. Việc hình thành quyết định này một phần là do Thủ tướng đã quan sát kỹ các trường đại học lớn ở các nước mà Thủ tướng đã đi thăm. Tôi còn nhớ, Thủ tướng đã có ấn tượng rất mạnh sau khi đi thăm một khu đại học lớn ở Mianma với thời gian xây dựng chỉ có 3 năm. Sau đó, Thủ tướng đã chỉ thị cho chúng tôi sang nghiên cứu kinh nghiệm của nơi này.
Nói đến con đường Láng - Hoà Lạc để phát triển miền Tây Hà Nội, thiết tưởng cũng nên nhắc đến con đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài (cũng được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt). Nhớ lại thủa nào, việc đi về giữa sân bay Nội Bài và Hà Nội là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Thời gian đi từ Nội Bài đến Hà Nội có khi phải mất đến 2 giờ. Có lần, khi chia tay với chúng tôi rời nước bạn để về Hà Nội, người ta chúc chúng tôi không bị tắc đường trên cầu Long Biên. Ngày nay, ai có việc phải đi máy bay thì hoàn toàn có thể yên tâm, chỉ cần 30 phút từ Hà Nội đến sân bay Nội Bài theo con đường cao tốc Thăng Long.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người rất cương quyết khi chỉ đạo thực hiện, xong cũng là người lãnh đạo biết lắng nghe, gần gũi cán bộ dưới quyền mình.
Đồng chí đã nhiều lần gặp gỡ cán bộ khoa học, giúp tháo gỡ những khó khăn mà họ đang gặp, động viên họ hoàn thành nhiệm vụ. Về tác phong này của các đồng chí lãnh đạo, tôi thích nhắc đến câu chuyện do chính Viện sĩ Trần Đại Nghĩa kể lại: Mỗi lần gọi điện xin gặp Bác Hồ, anh Nghĩa đều phải chuẩn bị sẵn ô tô và người lái xe, bởi vì nếu không bận việc thường Bác Hồ cho anh Nghĩa đến gặp Bác ngay tức khắc.
Chỉ ít ngày sau khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt bổ nhiệm tôi giữ chức vụ Giám đốc của ĐHQGHN, Thủ tướng đã tiếp tôi tại Văn phòng Chính phủ, vào lúc 17 giờ của một ngày làm việc, ngày 30/5/1994, đúng như đã hẹn, mặc dù đồng chí đang chủ trì cuộc họp của Thường vụ Chính phủ. Sau này, tôi đã có nhiều lần được làm việc với đồng chí Thủ tướng và lần nào đồng chí cũng rất đúng hẹn. Điều này gây cho chúng tôi ấn tượng tốt rằng mình được tôn trọng. Được tiếp xúc với đồng chí, chúng tôi cảm thấy mình sáng hơn về nhận thức, cao hơn về quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ và học hỏi được nhiều hơn về công tác lãnh đạo.
Suốt gần 10 năm qua, được làm việc dưới sự chỉ đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt, khi thì ở cương vị Thủ tướng Chính phủ, khi thì ở cương vị Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và cả khi đồng chí không còn giữ chức vụ gì nữa, trong tôi vẫn một lòng ngưỡng mộ nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước ta - đồng chí Võ Văn Kiệt. ở con người đồng chí luôn luôn có những ý tưởng lớn, táo bạo nhưng có cơ sở khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau và dám chịu trách nhiệm, kiên quyết tổ chức thực hiện bằng được những ý tưởng đó với động cơ trong sáng vì dân, vì nước. Những nhà lãnh đạo hội tụ được cả hai phẩm chất trên đây đều đã từng làm nên những câu chuyện thần lỳ ở nhiều nước, nhiều thời đại. Một đất nước muốn phát triển nhanh phải luôn luôn có những chương trình lớn, đúng đắn và người lãnh đạo phải có bản lĩnh, khả năng tổ chức thực hiện bằng được những chương trình đó. Ngược lại thì đất nước chỉ có từ từ tiến mà thôi và theo tốc độ vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay, sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu, mãi mãi thua kém người. Tô tin chắc rằng, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn luôn cảm thấy bức xúc trước những khả năng tiềm tàng to lớn của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam và tình trạng còn tụt hậu của Việt Nam ta so với thế giới.
Để kết thúc bài viết này, tôi muốn nêu lên một cảm nhận tốt đẹp khác về đồng chí Võ Văn Kiệt. ấy là vào dịp dự Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi được đọc trong bản khai lý lịch của đồng chí dòng chữ: Trình độ văn hoá: Tiểu học. Tôi thừa hiểu rằng đây chỉ là điểm xuất phát của đồng chí cách đây 60 năm mà thôi. Cuộc đời của đồng chí là cuộc đời tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo. Các công trình nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển giáo dục của đồng chí trong thời gian qua nhiều người có bằng cấp, học vị cao vẫn chưa vươn tới được. Riêng cái sự khiêm tốn của đồng chí về học vấn đã là một bài học lớn cho anh em khoa học chúng tôi, những người được học hành có hệ thống, có bài bản, đạt được nhiều bằng cấp, học vị cao, nhưng chưa đóng góp được bao nhiêu cho đất nước.



GS.VS Nguyễn Văn Đạo, nguyên giám đốc ĐHQGHNSưu tầm từ: http://vitinfo.com.vn/muctin/PSKS/45240/default.aspx

7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:39:12
NGUYÊN THỦ TƯỚNG BỨC XÚC VỀ NHÀ, ĐẤT CÔNG


Nguyên Thủ tướng bức xúc về nhà, đất công


Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ngày 27-10-2006, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gửi thư cho Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng, lãng phí đề cập vấn đề lãng phí nhà, đất công của các văn phòng bộ, ngành phía Nam tại TP.HCM. Vitinfo xin đăng lại toàn bộ bức thư này.



Trong chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí được công bố công khai có việc tập trung thanh tra bốn lĩnh vực trọng tâm là đầu tư XDCB, quản lý và sử dụng đất đai, quản lý và thu chi ngân sách và quản lý tài sản công... Về các vấn đề khác, tôi đã có nhiều ý kiến phát biểu, nay chỉ xin tập trung có ý kiến về việc quản lý tài sản công.

Như các đồng chí biết và tôi cũng đã nhiều lần có ý kiến về việc lãng phí trong việc quản lý, sử dụng tài sản công, nhất là bất động sản như trụ sở cơ quan, nhà, đất của các bộ ở phía Nam (gọi là cơ sở 2). Xuất phát từ nguồn gốc sau 30-4-1975, giao cho các bộ, ngành có trách nhiệm tiếp quản bộ, ngành tương ứng của chế độ ngụy để lại, sau đó chuyển thành cơ sở 2 phía Nam của các bộ, ngành. Việc này đã kéo dài từ thời bao cấp và sau đó vẫn còn tồn tại.

Thường trực Chính phủ, tuy chậm, nhưng cũng đã thấy sự bất hợp lý và lãng phí trong sử dụng khối tài sản này nên đã bàn và thống nhất trong Chính phủ chủ trương giải thể các đại diện phía Nam (cơ sở 2), thu gọn, tập trung lại một nơi. Xây dựng một cao ốc tại số 5 Lê Duẩn, để khi các bộ vào làm việc phía Nam có chỗ nghỉ và làm việc. Số nhà, đất còn lại chuyển hết thành tài sản công (công sản), giao cho bộ có chức năng quản lý, sử dụng có hiệu quả nhất cho nhu cầu ngân sách hoặc cho quĩ dự trữ quốc gia.

Thực hiện chủ trương này, năm 1995, 1996 Thủ tướng Chính phủ đã giao cho một nhóm liên bộ điều tra, kê khai lại toàn bộ nhà, đất của các cơ quan này. Kết quả là một con số khổng lồ: diện tích chính 6.317.161m2, trong đó 311 biệt thự, 1.244 nhà phố, 178 cao ốc (số liệu năm 1995)... và hầu hết các trụ sở đều ở vị trí đắc địa. Nhiều bộ đã sát nhập từ 2, 3 đến 5 bộ (như Bộ NN&PTNT). Chủ trương này đã xúc tiến thực hiện và chuẩn bị đến 1998 (xây cao ốc số 5 Lê Duẩn đã xong phần khung nhà, phòng ốc về cơ bản). Sau đó đã có sự thay đổi, giữ nguyên cơ sở 2 của các bộ, cao ốc số 5 Lê Duẩn đã giao lại cho Tổng công ty Dầu khí làm trụ sở. Dự kiến hai năm sau hoàn thành, đến nay đã tám năm vẫn chưa thấy đưa vào sử dụng được - thêm một lãng phí nữa (tôi xin nói vào một dịp khác).

Những kết quả điều tra này có thể tìm ngay được từ các bộ và bảng tổng hợp cũng có sẵn ở Văn phòng Chính phủ nên không mất nhiều thời gian tìm kiếm. Thực hiện chương trình hành động Chính phủ đã đề ra, đề nghị Ban chỉ đạo T.Ư về phòng chống tham nhũng, lãng phí yêu cầu các bộ, ngành báo cáo ngay những số liệu được cập nhật trong 10 năm trở lại đây cũng như thực trạng hiện nay ra sao. Chúng ta sẽ thấy sự lãng phí tới mức nào và Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cần có biện pháp thích đáng gì phù hợp để chấm dứt sự lãng phí kéo dài này, tăng thêm nguồn cho ngân quĩ quốc gia. Được vậy, dù có chậm, cũng là tấm gương cho bên dưới, cho cả nước.      
Sưu tầm từ:
http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/9842/default.aspx

7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:42:12
NGUYÊN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT:
 PHẢI KHEN THƯỞNG, CHỨ SAO LẠI BẮT NẠT DÂN!







Đàn hổ nuôi ở Bình Dương
Việc nuôi hổ của người dân ở Bình Dương và việc kiến nghị tịch thu toàn bộ số hổ này đã gây ra nhiều tranh cãi và ý kiến trái ngược nhau. Xin tổng hợp một số ý kiến chính: của Bộ và Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), của người dân nuôi hổ và của nguyên Thủ tướng Võ văn Kiệt đã đăng trên báo Thanh niên.



Bộ NN&PTNT: Đề nghị tịch thu đàn hổ để "giao lại cho tổ chức, cá nhân đang nuôi"

Hôm qua, Bộ NN&PTNT đã tổ chức Hội nghị liên ngành với đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện KSNDTC, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, UBND tỉnh Bình Dương để "bàn biện pháp xử lý hổ nuôi nhốt tại tỉnh Bình Dương". Theo thông cáo báo chí của Cục Kiểm lâm thì:

"...các đại biểu tham dự đã thống nhất ý kiến đề xuất với Thủ tướng Chính phủ xem xét giải quyết như sau:

1. Khẳng định việc mua và nuôi nhốt hổ của các tổ chức, cá nhân tại tỉnh Bình Dương là vi phạm các quy định về quản lý động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm của pháp luật Việt Nam và không phù hợp với Công ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

2. Nhằm đảm bảo việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác bảo tồn và phát triển theo đúng các quy định của pháp luật, cần tịch thu toàn bộ số hổ không có nguồn gốc hợp pháp để giao cho các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nuôi, chăm sóc vì mục đích bảo tồn. Trước mắt, giao cho các tổ chức, cá nhân hiện đang nuôi giữ số hổ này tiếp tục chăm sóc. Cục Kiểm lâm chỉ đạo việc tổ chức cho các chủ hộ này đăng ký trại nuôi theo quy định của pháp luật, gắn chíp điện tử và lập hồ sơ quản lý toàn bộ số hổ đã tịch thu.

3. Nếu các tổ chức, cá nhân không thực hiện các điều kiện theo quy định của pháp luật, thì giao cho tổ chức khác có chức năng nuôi bảo tồn, phát triển phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, quan hệ quốc tế theo quy định hiện hành của Nhà nước".

Người dân nuôi hổ: Tôi không vi phạm pháp luật. Nếu bị qui kết, sẽ đi tìm công lý đến cùng

Tại buổi gặp mặt Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát, ông Ngô Duy Tân, người đang nuôi một đàn hổ đã đọc một bức thư kiến nghị. Nội dung có những ý chính như sau:

"...Vào ngày 19.3.2007, ông Hà Công Tuấn, Cục trưởng Cục Kiểm lâm đã có phát biểu trên Đài THVN với nội dung buộc tội tôi vi phạm pháp luật: "Ông Tân đã nuôi hổ sinh sản và sinh sản nhiều lần. Đấy là yếu tố tình tiết giảm nhẹ. Không thể nói đấy là thay cho việc không vi phạm pháp luật"... Tuyên bố trên đã có tác động rất lớn tới gia đình tôi và gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn về kinh tế cho doanh nghiệp mà tôi đang làm chủ cũng như cho thương hiệu của công ty chúng tôi: con cái đi học bị bạn bè trêu chọc là ba nuôi hổ vi phạm pháp luật; các doanh nghiệp trong và ngoài nước tạm thời ngừng sự hợp tác vì họ nghe thấy trên phương tiện truyền thông đại chúng là tôi vi phạm pháp luật. Tôi kiến nghị Bộ trưởng hãy yêu cầu ông Hà Công Tuấn: Nếu thấy tôi thật sự vi phạm thì truy tố tôi ra tòa. Nếu không xin hãy rút lại lời cáo buộc và có lời xin lỗi chính thức đến tôi trên các phương tiện truyền thông đại chúng... Nếu thư kiến nghị này không nhận được hồi âm, tôi sẽ khởi kiện vụ việc này ra tòa với lý do ông Hà Công Tuấn đã vu khống và xúc phạm danh dự công dân".

Bộ trưởng NN&PTNT: Tịch thu để làm rõ nguồn gốc

Trong khi đó, tối qua, Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát đã đến thăm vườn nuôi hổ của ông Ngô Duy Tân ở Bình Dương để "kiểm tra tình hình thực tế". Được ông Ngô Duy Tân hướng dẫn tham quan một vòng trại hổ, nhìn đàn hổ mạnh khỏe luôn chạy theo bước chân người, ông Cao Đức Phát luôn miệng khen: "Hổ tốt quá!". Thậm chí Bộ trưởng còn vào tận chuồng hổ để bế tận tay con hổ con đang bú sữa mẹ. Sau khi Bộ trưởng quay lại trong nhà, ông có vẻ ngạc nhiên khi biết ông Tân vẫn thả 2 con hổ - một con một tháng tuổi và con còn lại hai tháng tuổi - đi lại tự do và vui đùa với tất cả mọi người như hai chú chó con nghịch ngợm. Ông Phát đã bế con hổ hai tháng tuổi trên tay với vẻ rạng rỡ đầy thiện cảm. Dành nhiều thời gian tham quan và lắng nghe ông Tân trình bày nguyện vọng, nhưng ông lại dành rất ít thời gian để trả lời câu hỏi của các phóng viên.

- Thưa Bộ trưởng, tại sao lại có quyết định tịch thu đàn hổ ở đây?

- Chúng tôi dự định tịch thu để làm rõ nguồn gốc.

- Ông Ngô Duy Tân đã cứu sống 5 con hổ sắp chết, tận tâm nuôi dưỡng và không hề tính chuyện kinh doanh mua bán, tại sao Bộ vẫn quyết định quy kết ông Ngô Duy Tân là vi phạm pháp luật?

- Chúng tôi không nói toàn bộ quá trình từ lúc ông Tân cứu hổ đến lúc cho sinh sản là vi phạm pháp luật, nhưng trong toàn bộ câu chuyện này có một vài tình tiết có dấu hiệu vi phạm quy định pháp luật trong nước và quốc tế nên anh em có báo cáo Bộ NN&PTNT. Việc xác định ông Tân có vi phạm pháp luật hay không, phải do nhiều cơ quan chức năng điều tra và kết luận chứ không phải chỉ riêng Bộ NN&PTNT.

- Trong cuộc họp ngày 22.3, Bộ vẫn kiến nghị tịch thu hổ và đã đưa ra giải pháp trước mắt vẫn giao cho các hộ đang nuôi hổ được tiếp tục nuôi. Vậy còn về lâu dài thì như thế nào? Có phải giao thì vẫn giao, nhưng Bộ muốn tịch thu lúc nào thì tịch thu?

- Điều đó không có nghĩa như vậy.

- Vậy nó có nghĩa như thế nào?

- Sẽ có một văn bản pháp lý quy định rõ ràng hơn về việc này. Về lâu dài thì các con hổ đời F1 sẽ được nuôi dưỡng cẩn thận cho đến khi cơ quan chức năng xác định những con hổ này chết tự nhiên. Các cá thể từ đời F2 trở đi sẽ thuộc về sở hữu của người nuôi, hoàn toàn có thể sử dụng, mua bán trong nước và quốc tế, giống như trường hợp gấu và cá sấu. Cũng sẽ có giải pháp hợp tình hợp lý thôi. Việc xác định thế hệ F1, F2 sẽ có các biện pháp khoa học cụ thể.

-Hiện nay, nếu một người dân bình thường muốn nuôi hổ thì sao?
- Hoàn toàn có thể, nếu nuôi hổ từ thế hệ F2 trở đi.

Mặc dù vẫn còn rất nhiều câu hỏi bức xúc dành cho Bộ trưởng về tình trạng sắp tới vẫn chưa có gì rõ ràng của đàn hổ, vẫn còn "chờ đợi và phụ thuộc vào một số quy định mới", thì Bộ trưởng đã cáo từ.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Phải khen thưởng, chứ sao lại bắt nạt dân!
Rất bức xúc trước thông tin Bộ NN&PTNT đề nghị tịch thu đàn hổ nuôi của dân ở Bình Dương, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói :

- Tịch thu đàn hổ nuôi của dân là hết sức vô lý. Động vật hoang dã, đặc biệt là động vật quý hiếm, một mặt phải hết sức nghiêm khắc đối với việc săn bắt và tiêu dùng, nhưng mặt khác phải khuyến khích rộng rãi nhân dân nuôi dưỡng chúng. Muốn chúng tồn tại và phát triển, phải khuyến khích người dân nuôi chúng, chăm sóc chúng. Cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước phải hướng dẫn, giúp đỡ dân, để làm sao chúng sinh sôi nảy nở vừa để bảo đảm an toàn cho người xung quanh. Đối với những việc sai trái, như việc nuôi gấu vì lợi ích thiển cận, mà bắt ép gấu để lấy mật quá nhiều, quá sức chịu đựng của nó, làm cho nó kiệt sức đi, việc này không thể chấp nhận được. Còn người ta nuôi với tất cả tình cảm, trách nhiệm để bảo tồn và phát triển động vật quý hiếm thì phải khuyến khích, phải giúp đỡ người ta. Sợ nhất là người ta không nuôi, sao lại đòi tịch thu khi người ta nuôi tốt!

- Ông có ý kiến gì về đàn hổ của ông Ngô Duy Tân và một số gia đình ở Bình Dương?

- Trường hợp này tôi có theo dõi. Từ 5 con hổ bệnh tật, người ta mua về, cứu chữa, chăm sóc, rồi phát triển thành cả bầy hổ. Người ta phải tốn kém, trách nhiệm lắm mới làm được, Nhà nước đâu có làm nổi chuyện này. Từ trước tới nay chưa bao giờ có ai làm tốt như thế, chưa bao giờ có chuồng trại an toàn như thế, chăm sóc tốt như thế, sinh sôi nảy nở nhiều như thế. Và người ta có bẩm báo đàng hoàng với chính quyền địa phương, được chính quyền địa phương khuyến khích. Rất tiếc vừa rồi chính quyền địa phương đã không lên tiếng bảo vệ. Người ta nuôi có hợp pháp không? Hợp pháp chứ! Nuôi công khai minh bạch. Tôi theo dõi báo chí nên biết việc này và chính tôi đã đến thăm. Tôi thấy hết sức thích thú. Các hãng tin nước ngoài cũng đến thăm, họ cũng cho đó là điều chưa từng có.

- Thưa ông, mặc dù Nghị định số 32 (ra ngày 30.3.2006) của Chính phủ khẳng định "Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư quản lý, bảo vệ và phát triển thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm", nghĩa là việc nuôi hổ của ông Tân và các gia đình ở Bình Dương là không vi phạm pháp luật. Nhưng Bộ NN&PTNT vẫn đề nghị tịch thu. Và mới đây nhất, ngày 21.3, Cục Kiểm lâm vẫn cho rằng các gia đình ở Bình Dương đã "gây, nuôi hổ không có nguồn gốc hợp pháp" và khẳng định "sẽ xử lý nghiêm"?

- Họ vi phạm cái gì mà xử lý? Họ mua những con hổ ốm yếu, họ đã báo với anh. Cơ quan quản lý nói không rõ nguồn gốc, có nhà khoa học nào đó cũng nói không rõ nguồn gốc, đó là nói theo sách vở. Truy ra nguồn gốc là việc của anh, không phải là việc của dân, người dân chỉ biết bồng lên những con hổ ốm yếu để cứu chữa nó. Họ đã báo với chính quyền địa phương, chính quyền địa phương cũng là nhà nước chứ ! Họ đã nuôi tốt như vậy, trước hết phải khen thưởng họ chứ sao lại có chuyện bắt nạt người ta? Chính quyền của dân sao kỳ lạ vậy ! Công lao người ta như thế, người ta làm điều ích nước lợi dân như thế, cơ quan Nhà nước phải có đạo lý với dân, lẽ ra phải phát hiện đây là nhân tố mới, đáng trân trọng, đáng biểu dương khuyến khích, sao lại cho người ta là phi pháp?

- Nhưng người ta vẫn viện dẫn luật pháp...

- Tôi rất hoan nghênh báo chí đã phản ứng mạnh mẽ chuyện này. Nếu không có báo chí chắc đàn hổ này đã bị tịch thu rồi, còn bắt tội người ta nữa. Hãy nhìn những con hổ trong vườn thú của ta, con nào cũng ốm nheo ốm nhách. Hôm nay tôi đọc báo thấy con hổ tịch thu đem về Sóc Sơn nuôi, bữa nay cũng không ra gì cả, lông rụng tả tơi, không còn là hổ nữa. Hãy đối chiếu những con hổ đó với những con hổ dân nuôi để thấy cái công của dân. Người ta đã trình thưa đàng hoàng, đã tôn trọng luật pháp. Nhưng giả sử người ta không xin phép,  giả sử người ta làm không đúng đi chăng nữa thì khi họ làm tốt như vậy cơ quan Nhà nước cũng phải khen, rồi nhắc nhở, hướng dẫn, giúp đỡ người ta làm cho đúng. Trong trường hợp luật pháp chưa quy định đầy đủ hoặc không rõ ràng thì phải bổ sung cho đầy đủ, vì việc này dân làm trong thực tế là bảo tồn và phát triển được đàn hổ và bảo đảm an toàn. Theo tôi, đây là trường hợp điển hình, cần nghiên cứu, tổng kết và nhân rộng, nếu luật pháp thiếu thì bổ sung. Quản lý Nhà nước mà viện vào những điều chưa hợp lý của luật pháp để truy bức dân là không có đạo lý. Tôi xin lưu ý, trường hợp này hoàn toàn khác về bản chất với những trường hợp vi phạm đất đai, xâm phạm lợi ích công rồi cho hợp pháp hóa. Trường hợp này là người dân làm lợi cho đất nước. Người ta nuôi hổ rất hay, hay không thể tưởng tượng nổi.

- Mấy ngày qua báo chí lên tiếng rất nhiều, nhưng các cơ quan có trách nhiệm vẫn giữ nguyên ý định tịch thu và họ đã đưa ra các phương án giải quyết... Họ vẫn tịch thu thì làm thế nào, thưa ông?

- Tôi chờ xem mấy ổng sẽ làm gì. Các phương án mà Cục Kiểm lâm đưa ra không có phương án nào dân chấp nhận cả. Chính phủ nên ngăn chặn việc tịch thu đàn hổ và tuyên dương những người dân nuôi hổ. Tôi muốn viết thư cho cả Quốc hội nữa. Rõ ràng những người dân này đã cứu những con hổ và đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc, công sức để phát triển được cả đàn hổ. Luật pháp nếu chưa đủ thì phải bổ sung, rồi hướng dẫn, giúp đỡ dân. Tôi nghĩ rằng luật pháp cũng phải tạo điều kiện để nhân ra, để những con hổ nuôi thành công được chia sẻ cho những người khác cùng nuôi, với những quy định an toàn nghiêm ngặt. Người nuôi hổ đã đầu tư rất tốn kém để bảo tồn và phát triển đàn hổ, luật pháp còn cần tạo điều kiện cho họ thu hồi vốn đã bỏ ra nữa. Cái gì dân làm được phải cho dân làm, phải khuyến khích, cổ vũ dân làm và phải tôn vinh những người làm tốt.





Sưu tầm từ:
http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/17061/default.aspx



7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:53:56
QUỐC TANG TIỄN ĐƯA NGUYÊN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT





Một người con của đất Việt.
VIT- Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt do tuổi cao, bệnh nặng đã từ trần hồi 7g40 ngày 11-6-2008, thọ 86 tuổi. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ ông với nghi thức Quốc tang trong hai ngày: 14 và 15-6-2008.








Lễ viếng, lễ truy điệu và lễ an táng đồng chí Võ Văn Kiệt
Tang lễ đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang.
Linh cữu đồng chí Võ Văn Kiệt quàn tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM.
Lễ viếng đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM, bắt đầu từ 8 giờ, ngày 14-6-2008 đến 8 giờ 30 phút, ngày 15-6-2008.
Lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM, bắt đầu từ 9 giờ, ngày 15-6-2008.
Lễ an táng đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức cùng ngày tại Nghĩa trang TP.HCM.
Cùng thời gian tổ chức lễ viếng và lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại TP.HCM sẽ tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, số 11 Lê Hồng Phong, Ba Đình, Hà Nội và tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.


BAN LỄ TANG


Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam sẽ tường thuật trực tiếp lễ truy điệu và lễ an tang đồng chí Võ Văn Kiệt tại TP.HCM.
Trong hai ngày Quốc tang (ngày 14 và ngày 15-6-2008), các công sở các nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng các hoạt động vui chơi giải trí.


Tiểu sử tóm tắt nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt

Sinh năm 1922 tại Cửu Long (nay là xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long), tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi (1938), vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tên khai sinh là Phan Văn Hòa) thuộc thế hệ những người thanh niên khởi nghĩa giành chính quyền trong tay người Pháp từ 1940. Ông đã là bí thư chi bộ, huyện ủy viên và tham gia khởi nghĩa Nam kỳ ở Vũng Liêm.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động trên địa bàn Nam bộ với bí danh Sáu Dân: Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam bộ từ 1945; Tỉnh ủy viên, Ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy Rạch Giá, phó bí thư rồi bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu. Từ 1955, ông là Xứ ủy viên, phó bí thư Liên tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư khu ủy T4 (Sài Gòn - Gia Định), Bí thư khu ủy khu 9, Ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam.
Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, trong Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, ông được phân công phụ trách tiếp quản thành phố.
Sau 30-4-1975, ông giữ chức Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP.HCM rồi làm Bí thư Thành ủy TP.HCM.
Ông nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa XHCN VN tháng 8-1991, lúc con đường đổi mới đã mở ra hơn 5 năm. Ông được bầu làm Thủ tướng nước Cộng hòa XHCN VN tại kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa IX (1992-1997).
Từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001, ông nhận nhiệm vụ Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ông đã được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tặng Huân chương Sao Vàng và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

Sưu tầm từ:
http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/45283/default.aspx
7
8
blog

venus4t.vns_hnu
  • Số bài : 2914
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 16.02.2008
  • Nơi: Việt Nam yêu thương
RE: HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN! - 14.06.2008 20:56:17
LỆ NGOÀI TRỜI, LỆ TRONG NGƯỜI THỔN THỨC!







8g30 sáng hôm nay (14/6), lễ viếng cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới chính thức bắt đầu. Nhưng buổi chiều 13/6, hàng trăm người dân đã đổ đến Dinh Thống Nhất, nơi đặt linh cữu của ông để bày tỏ lòng thương tiếc.



Hơn 14h chiều 13/6, dòng người đổ về trước cổng hội trường Thống Nhất ngày một đông. Những đoàn người lặng lẽ nối đuôi nhau tiến về nơi đặt linh cữu của cố Thủ Tướng. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi mắt của người thân, đồng đội của “chú Sáu Dân” (tên thân mật của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt).

Dời linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ bệnh viện Thống Nhất về hội trường Thống Nhất. Ảnh: Tấn Thuấn.

Mắt rơm rớm lệ, giọng run run, bà Phan Thị Trinh (thuộc nhóm Phụ nữ Cứu quốc thời kháng chiến chống Pháp) đọc cho chồng - ông Phạm Quang (ba mẹ ruột của Chủ tịch HĐND TP.HCM Phạm Phương Thảo) viết vào sổ tang những dòng thơ đầy hoài niệm: “Tây Nam Bộ mất thêm người anh lớn/Suốt hai ngày mưa tầm tã tuôn rơi/Lệ ngoài trời lệ trong người thổn thức/Chị em tôi thương tiếc anh Sáu ơi!...”.   
Gia đình Chủ tịch HĐND TP.HCM viết vào sổ tang những dòng hoài niệm đầy thổn thức. Ảnh: Tấn Thuấn. 

Ngoài cổng Dinh Thống Nhất, hòa lẫn vào những dòng người đang chờ đến lượt vào viếng chú Sáu Dân, ông Nguyễn Xuân Lập (nguyên chuyên viên UBND TP.HCM, Chủ tịch Liên đoàn quần vợt TP.HCM, Phó Chủ tịch Liên đoàn quần vợt VN) thổn thức kể lại kỷ niệm: “Chúng tôi biết ông Sáu Dân và có mối quan hệ rất thân tình. Chúng tôi rất bàng hoàng xúc động khi nghe tin ông mất. Trước đây tôi làm bên ủy ban, thời kỳ đó, ông Sáu là chủ tịch, rồi bí thư”. 
Ông Lập kể: “Thời ấy, tôi là Chủ tịch Liên đoàn quần vợt. Ông Sáu là người rất hỗ trợ ủng hộ chúng tôi trong quá trình hoạt động. Khi thành lập ban chấp hành, giai đoạn đầu, ông Sáu thường đến tham dự và chỉ đạo Liên đoàn quần vợt tụi tôi”- ông Lập nói. 
Những kỷ niệm đời thường với Chú Sáu Dân
Ngượng ngùng trong bộ com lê, cà vạt thẳng nếp, ông Nguyễn Văn Thiện (78 tuổi, xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) cho biết: “Chị của tôi là sui gia với ông Kiệt, nên việc đi lại giữa hai gia đình rất thân tình”. Bằng chất giọng mộc mạc của người nông dân Nam Bộ, ông Thiện hồ hởi: “Nhân dân ca tụng ổng ở chỗ ổng dám đổi mới. Ổng bình dân lắm. Ví như ổng gặp đám công nhân vỗ vai, bắt tay rất tự nhiên”.
Linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ông Thiện nói tiếp: “Chú Sáu Dân là người biết thương dân. Ông có nói chuyện là đề cập đến đời sống của đồng bào, của dân chứ không nói đến chuyện cá nhân. Về quê coi, ông đâu làm nhà cửa gì quá thể đâu. Đơn giản như nhà thường vậy, nhiều khi còn thua nhà dân. Không như người ta làm chuyện "se xua", lớn lao cho người khác xem, ông không có. Ông không cần vụ đó, ông lo cho dân thôi”.  
Có mặt trong dòng người đưa tiễn, NSND Trà Giang bày tỏ cảm nghĩ: “Tôi rất đột ngột, không nghĩ bác ra đi sớm như thế. Khi tôi về thăm quê hương Quảng Ngãi, người dân ở đây rất biết ơn bác khi bác quyết định cho xây dựng Khu công nghiệp Dung Quất. Người dân biết ơn bác vì nhờ bác mà họ có công ăn việc làm”. 
Đạo diễn Lê Văn Duy, Giám đốc hãng phim Dương Lệ Chi cho biết: Chú Sáu Dân rất yêu thương anh em văn nghệ sĩ. “Tuổi của ông đáng bậc cha chú nhưng ông nói cứ gọi ông là anh. Giới văn nghệ sĩ chúng tôi rất thường đến nhà anh Sáu chơi. Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đến nhà anh Sáu chơi hàng tháng và nói chuyện vui vẻ như anh em trong nhà. Anh Sáu là mạnh thường quân đối với anh em nghệ sĩ. Anh động viên văn nghệ sĩ viết, gợi ý cho anh em nghệ sĩ sáng tác”. 

Linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt tại hội trường Thống Nhất. Ảnh: Tấn Thuấn. 
Đạo diễn Lê Văn Duy cho biết thêm, bài hát “Em còn nhớ hay em đã quên” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là do ông Sáu Dân gợi ý. Mục đích bài viết là kêu gọi trí thức ở lại thành phố. “Hiếm thấy người lãnh đạo nào gần gũi, thân tình như ông Võ Văn Kiệt”. 
Những kỷ niệm đối với Chú Sáu Dân rất đời thường, mộc mạc. Người dân không chỉ nhớ đến ông như một trong những lãnh đạo có tư duy đổi mới mà còn như một người lãnh đạo hết mực vì nước vì dân. 

Sưu tầm từ:
http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/45377/default.aspx
7
8
blog

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 76 bài trong đề mục