HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN!
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 6 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 76 bài trong đề mục
venus4t.vns_hnu 15.05.2008 01:06:30 (permalink)
        Vài lời dẫn nhập:

        Vào thế kỷ XVIII, đất nước ta rơi vào tình trạng hỗn chiến giữa các thế lực phong kiến nhằm tranh quyền cai trị đất nước. Cuộc hỗn chiến đó đã đẩy cuộc sống của toàn dân Đại Việt vào cảnh khốn cùng. Trước tình hình đó, nhân dân các nơi đã đứng lên khởi nghĩa mong thoát khỏi áp bức. Vì lẽ đó, trong tiến trình lịch sử Việt Nam, các nhà sử học đã đặt tên thế kỷ XVII - XVIII là thế kỷ khởi nghĩa nông dân.

        Nổi lên trên hết trong các cuộc khởi nghĩa đó là phong trào nông dân Tây Sơn do anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Lữ - Nguyễn Huệ lãnh đạo. Trong phong trào này, người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ với sự mưu trí và dũng cảm đã nổi lên thành linh hồn của phong trào. Ông là người đã có công tái thống nhất và mở rộng lãnh thổ của quốc gia từ ải Nam Quan (Lạng Sơn ngày nay) đến vùng đất mũi Cà Mau, giành lại nền độc lập cho dân tộc.

        Dưới đây là một trong nhiều tư liệu nói về thân thế, sự nghiệp của người anh hùng đó. Mình mong các bạn đọc và cho mình thêm tài liệu nếu bạn sưu tầm được nhé.


Người hiến sắc cờ cho vua Quang Trung


Nửa sau thế kỷ XVIII, khi cửa Thử cạn dần, việc buôn bán ở Nước Mặn chuyển xuống Gò Bồi và Quy Nhơn. Bấy giờ, ở làng Vĩnh Khánh xưa (tức hai làng Cẩm Thượng và Chánh Thành sau này), đã hình thành một trung tâm thương mại mới. Nơi đây, có một nhà buôn giàu lòng nghĩa hiệp, hiệu là Huyền Khê. Ông có ghe thuyền buôn bán đường biển, đường sông, thường xuyên dong thuyền ra Bắc vào Nam buôn bán.

Biết rõ kẻ sĩ và dân tình thời bấy giờ oán hận Trương Phúc Loan tham bỉ, vơ vét của cải nhân dân, nên khi Nguyễn Nhạc mời ra giúp sức chuẩn bị dấy binh cứu dân giúp đời, ông liền hiến toàn bộ tài sản và cùng gia nhân ra ứng nghĩa. Biết ông là người giỏi quản lý, nên Nguyễn Nhạc giao cho ông làm đệ tam trại chủ, chuyên lo việc quân lương. Từ đấy, nhà phú thương trở thành vị tướng hậu cần, phục vụ quân đội Tây Sơn. Ngoài lo việc hậu cần cho nghĩa quân, ông còn hiến kế giúp vua phát triển sản xuất, đẩy mạnh khai hoang, mở mang ngành nghề, buôn bán, vừa tạo cuộc sống yên bình cho dân, vừa gầy dựng tiềm lực kinh tế cho nghĩa quân. Suốt 8 năm chinh chiến ở Đàng Trong, công lao lo quân lương, quân nhu cho hàng vạn binh sĩ của Huyền Khê không nhỏ.

Biết tài ông, Nguyễn Huệ tin dùng, đưa ông theo khi tiến quân đánh chiếm Phú Xuân rồi ra Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, cần có đế hiệu, kỳ hiệu riêng, nên họp quần thần để hỏi ý kiến mọi người. Trong lúc các bề tôi mỗi người một ý, vua còn cân nhắc, thì Huyền Khê đứng dậy nói:

- Thưa Vương Thượng, ngài lên ngôi Hoàng Đế dẫn quân đánh đuổi giặc Mãn Thanh là việc thuận ý trời, hợp lòng người. Nhưng ngài và Thái Đức Hoàng Đế là anh em, cùng một cội, cùng dấy nghĩa trừ tàn khử bạo, kỳ hiệu của Trung ương Hoàng Đế sắc đào thì kỳ hiệu của ta cũng nên dùng sắc đào và cần thêm hình nét ở giữa để làm sáng tỏ đại nghĩa của triều ta.

Bắc Bình Vương cả cười:

- Ý tiên sinh thật hợp với ý ta. Sắc đào thể hiện chí nguyện hy sinh xương máu cứu nước, cứu dân của ba quân. Trước, ta đã đem quân ra Bắc Hà phù Lê diệt Trịnh, nay ta lại đem quân ra quét sạch lũ hung đồ, nghĩa lớn sáng ngời như vầng nhật nguyệt. Vì vậy, đế hiệu ta là Quang Trung, kỳ hiệu phải là sắc đào có mặt trời vàng nằm giữa. Thế mới sáng tỏ chí nguyện của ta và muôn dân.

Vương vừa dứt lời thì quần thần đã tung hô: Hoàng Đế vạn tuế!

Thế là rạng ngày 25 tháng 11 năm 1778, lá cờ triều đại Quang Trung tung bay trên kỳ đài núi Bân trong lễ tế trời lên ngôi của Quang Trung. Nhìn lá cờ đào bay, mưu sĩ Huyền Khê vững niềm tin vào trận đại thắng nay mai và mừng thầm ý mình hợp ý nhà vua.

Sưu tầm theo: http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/vndncn/details.asp?topic=32&subtopic=227&leader_topic=527&id=BT250714753
 


#16
    venus4t.vns_hnu 16.05.2008 23:02:04 (permalink)
            Vài lời đề dẫn thêm: tiếp theo tư liệu vừa post lên về người anh hùng dân tộc áo vải cờ đào Quang Trung Nguyễn Huệ, Mình tiếp tục post thêm tài liệu này để các bạn cùng đọc và suy ngẫm. Đây là tư liệu được trích dẫn từ trang web Quên hương. Mình mong các bạn giúp mình cho thêm tư liệu về nhân vật lịch sử này nhé!


    Quang Trung và nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo

     
    Không ngạo nghễ như Caesar - một vị hoàng đế La Mã cổ đại - nhưng Quang Trung hoàng đế có một niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước kẻ thù. Đó là những chiến thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ.

    Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.

    Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi.

    Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm lược.

    Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.

    Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ

    Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh của Nguyễn Huệ là sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân: táo bạo, thần tốc và vô cùng tự tin.

    Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785), thay vì chọn khúc sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như đoạn từ Cái Bè đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút - một khúc sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh.

    Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết định ra đòn phủ đầu.

    Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).

    Biến thần tốc thành sức mạnh

    Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó nếu cuộc tấn công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ.

    4 năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút, đội quân của Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt 29 vạn quân Thanh năm 1789.

    Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì chỉ nguyên cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng đã là một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự.

    Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết, quân của ông bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ, hoảng sợ hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng mồng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do đích thân Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) thì một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội).

    Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến thắng khác: chiến thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục, chiến thắng Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh chóng và dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời gian để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau.

    Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm trong binh pháp của ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy cảm" với thời cơ, ông còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa thế mạnh của mình.

    Nắm chắc thời cơ

    Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới danh nghĩa giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh quân Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi cho quân Tây Sơn.

    Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào nhà", Nguyễn Huệ nhanh chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau đó, ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh. Tất cả những chuyện lên ngôi hoàng đế, triệu tập binh sĩ, rồi xuất binh chỉ diễn ra trong vòng... 1 ngày.

    Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng đế Quang Trung đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và tiêu diệt địch.

    Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ An để lấy thêm quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ và cách đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất ưng ý. Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân ta mạnh hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thù thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn một chút thì khó lòng được nó".

    Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm lược. Đó là lúc đội quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân dân.

    Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân Tây Sơn thì đã rút mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa), lại thêm được nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng khinh đối thủ.

    Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời cơ tốt nhất để tận diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc việc hành quân nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch, khiến địch ngày càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là vấn đề thời gian.

    Anh hùng nước Nam

    Lúc tuyển thêm binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã đưa lời dụ tướng sĩ:

    "Đánh cho để dài tóc

    Đánh cho để đen răng

    Đánh cho nó chính luân bất phản

    Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

    Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ".

    Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận ra rằng nước Nam là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào Thăng Long đúng với khí thế ấy.

    Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả sự thất bại của quân Thanh: "Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết ..., thây ngổn ngang đầy đồng, máy chảy thành suối. Quân Thanh đại bại".

    Những mũi tấn công sắc sảo của quân Tây Sơn luôn giáng cho quân địch những đòn chí mạng. Bởi thế, chỉ một trận Rạch Gầm - Xoài Mút mà quân Xiêm sau này "sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Còn nhà Thanh cũng tắt luôn âm mưu xâm lược nước Nam từ trận đại bại đó.


    Theo Quê Hương
     
    #17
      venus4t.vns_hnu 18.05.2008 00:06:45 (permalink)
      NHỮNG VỊ TƯỚNG DƯỚI TRƯỚNG QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ

            ND87 đề dẫn thêm:
           
             Trong lịch sử mỗi quốc gia dân tộc hay lịch sử thế giới, mỗi thời đại, mỗi thời kỳ hoặc giai đoạn lịch sử đều nổi lên những cá nhân lịch sử - họ chính là hiện thân của chính giai đoạn, thời kỳ, thời đại hoặc của một quốc gia dân tộc đó.
             
             Mác - Ăngghen đã từng nói "
      Tự nhiên mà hoàn toàn ngẫu nhiên mà một vĩ nhân nào đó xuất hiện ở một thời đại nhất định nào đó. Nhưng nếu như chúng ta phế bỏ người đó đi thì lại xuất hiện sự đòi hỏi phải có người khác thay thế và người thay thế này sẽ xuất hiện - thích hợp ít hay nhiều, nhưng cuối cùng cũng xuất hiện"
      . Việc tìm hiểu về các cá nhân lịch sử cùng với những hoạt động, những đóng góp của họ đối với lịch sử là vô cùng cần thiết, kể cả những diễn tiến tình cảm, tư tưởng của họ.
            
             Tuy nhiên, chúng ta cũng không đề cao quá, sùng bái quá những gì mà bản thân các vĩ nhân lịch sử không có. Nếu không có nhân dân thì không có vĩ nhân. Đó là lẽ hiển nhiên của lịch sử. Nhưng nếu không có vĩ nhân lịch sử thì không có những thăng trầm và phát triển của lịch sử. Đó cũng là lẽ hiển nhiên. Như vậy, khi nói về một cá nhân lịch sử thì, chúng ta cần nhìn nhận cá nhân lịch sử đó trong bối cảnh cụ thể và những mỗi quan hệ chằng chéo của xã hội đương thời tác động đến cá nhân lịch sử đó. Đồng thời, chúng ta cũng cần đặt cá nhân đó trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân và với dân tộc... Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể khôi phục, nhìn nhận và đánh giá đúng về các cá nhân lịch sử đó.

             Trong lịch sử Việt Nam ở giai đoạn từ thế kỷ XVII - XVIII, khởi nghĩa nông dân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ là một điển hình về phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam. Tuy nhiên, để làm onannên những những thắng lợi, ngoài Nguyễn Huệ thì chúng ta còn cần kể đến các vị tướng lãnh tham gia chỉ đạo cuộc chiến với những cống hiến to lớn của họ.

             Vì lẽ đó, việc tìm hiểu, sưu tầm các thông tin về các vị tướng tham gia phong trào nông dân Tây Sơn là vấn đề cần thiết.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2008 00:15:42 bởi ngocdiep87 >
      #18
        venus4t.vns_hnu 18.05.2008 00:13:25 (permalink)
         PHẠM VĂN LÂN - HUYỀN THOẠI VỀ MỘT VỊ TƯỚNG TRONG PHONG TRÀO TÂY SƠN (1)

        Huyền thoại về một vị tướng (2)



            Trong hàng tướng soái Tây Sơn, Phan Văn Lân không những tinh thông võ nghệ, mà còn có biệt tài về khí công. Lân lại là người trí dũng, khiêm nhường, kín đáo, đánh trận giỏi, thưởng phạt công minh, được vua khao thưởng tiền bạc thường đem khao quân cùng hưởng chung. Đức và tài trong đạo làm tướng của Lân quả thật trọn vẹn.
            Buổi đầu tụ nghĩa, Lân đi giữa bãi tập binh như một nho sinh yếu đuối. Tính Lân lại rụt rè, ít nói, nên không được ai để mắt đến. Nhưng với con mắt tinh đời, Nguyễn Huệ lại thấy ở con người này có điều gì mà mình chưa hiểu hết. Một lần, Huệ cùng Lân xuống núi chiêu hiền, gặp toán cướp chặn đường đòi mãi lộ. Lân múa gươm bảo vệ Huệ, rồi đột nhiên như bị đánh bật ra xa. Đợi khi toán cướp vây quanh, định xông vào bắt Huệ đang ở thế thủ, Lân bất ngờ quay lại, phi thân vào giữa đám côn đồ, đánh cho chúng chạy tán loạn. Từ đó, Nguyễn Huệ biết rõ bản lĩnh và tài năng của Lân.
            Lân cho người thân tín biết mình đã dày công luyện tập môn võ mà Phạm Ngũ Lão đã truyền lại qua một nhà sư Thiên Thai Tự. Về sau, lại thờ thầy giáo Hiến làm thầy. Một lần, có nhà sư ở Thiếu Lâm Tự sang, giúp Tây Sơn Vương huấn luyện quân sĩ. Sư nghe tiếng Lân mới ngỏ lời thử sức. Tướng sĩ nóng lòng chờ xem một cuộc tỉ thí long trời lở đất, nào ngờ chỉ thấy Lân xách ghế lên giữa lầu, rồi rủ tay áo ngồi xuống mời nhà sư ra tay. Sư vận hết công lực chạy quanh vung tay đấm đá vào tấm thân mảnh dẻ của Lân. Một lúc sau, thấy nhà sư thấm mệt, công lực chẳng còn, Lân mới nghiêng mình đưa tay gạt cú đá của nhà sư. Cái gạt nhẹ nhàng của Lân làm cho thân hình nhà sư bay đi như một viên đạn, may chỉ bị trọng thương. Lần khác, Lân bị các tướng giữ lại trong Tử Cấm Thành xin trổ tài võ nghệ. Bất đắc dĩ, Lân bảo họ chồng ba hòn đá, rồi nghiêng bàn tay chém xẻ đôi cả ba cùng một lúc.
            Biết Lân dũng mãnh, có tài đánh chớp nhoáng, Tây Sơn Tam Kiệt thường cử ông cầm quân tiên phong trong các trận ác liệt. Lân cùng Nguyễn Lữ vào đánh chiếm thành Gia Định lần đầu tiên như trở bàn tay. Trong đại phá quân Thanh, là tướng tiên phong, Lân nhanh chóng diệt gọn đồn lũy tiền tiêu của địch, cấp tốc đuổi bắt bọn thám báo quân Thanh không sót một tên. Trong trận Ngọc Hồi, Lân chỉ huy tiền quân cảm tử, khiêng ván chống đạn xông lên áp sát lũy giặc, mở lối cho đại quân ào ạt xông vào.
            Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, không ai biết số phận của vị kiệt tướng này ra sao nữa. Người thì kể, khi nghe tin Nguyễn Quang Toản bị bắt, Lân tự đâm cổ chết trong bản doanh. Người khác bảo: ông bí mật về đất Tây Sơn, ẩn mình trên núi cao, thỉnh thoảng có về thăm Thiên Thai Tự.
        (1): Tiêu đề do ngocdiep87 đặt cho rõ hơn.
        (2): Sưu tấm từ: http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/vndncn/details.asp?topic=32&subtopic=227&leader_topic=527&id=BT2950757446
        #19
          venus4t.vns_hnu 30.05.2008 10:09:41 (permalink)
          Chào các bạn!
          Như mình đã nói, việc nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá - lịch sử dân tộc Việt là một vấn đề hay nhưng quá rộng lớn. Ai dám khẳng định mình biết hết về lịch sử và văn hoá dân tộc mình! Đó là điều không thể và không đủ khả năng!!! (Hic! Nói vậy không biết mọi người nghĩ thế nào nhỉ!?). Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không tìm hiểu và nghiên cứu, học tập nó. Vì một lẽ đơn giản, chúng ta là người Việt. Vấn đề chúng ta hiểu về lịch sử dân tộc dù là ít hay nhiều cũng góp phần làm cho chúng ta “Việt” hơn trong một thế giới đang dần xoá nhoà đi những ranh giới tự nhiên.
          Văn hoá và lịch sử dân tộc Việt sẽ giúp chúng ta biết mình là ai, mình thuộc về nơi nào, quê hương chúng ta ở đâu trên bản đồ thế giới ngày nay. Mình nghĩ như vậy đó! Bạn có ý kiến gì không? Bạn phản hồi cho mình biết suy nghĩ của bạn về lịch sử - văn hoá dân tộc chúng ta được không? Bạn có dám chia sẻ cho mình và mọi người biết điều bạn nghĩ không???
          Đơn giản vì kiến thức của chúng ta thì hữu hạn mà tri thức nhân loại thì vô hạn. Những điều suy nghĩ của tôi và bạn chưa chắc đã đúng. Vậy tại sao chúng ta không cùng trao đổi, học tập lẫn nhau. Cha ông chúng ta từng nói “Học thầy không tày học bạn” cơ mà!
          (Mình đang thất vọng lắm đó bạn ơi! Chẳng ai trong diễn đàn quan tâm đến mấy topic mà mình đưa ra cả. Chẳng lẽ…. chẳng lẽ … buồn vậy sao???)
          Tiếp vậy………….Mình lại tự tìm tài liệu và “cô đơn” post vậy!
          #20
            venus4t.vns_hnu 30.05.2008 10:14:03 (permalink)
            VỀ NGÀY MẤT CỦA NGÔ THÌ NHẬM.
            LÊ THÀNH LÂN.
             
            Ngô Thì Nhậm, tự là Hi Doãn, hiệu là Đạt Hiên, sinh ngày 11 tháng 09 năm Bính Dần (tức ngày 25 tháng 10 năm 1746) tại làng Tả Thanh Oai (tên nôm là làng Tó) thuộc huyện Thanh Trì, Hà Tây.
            Ông là một nhà tri thức lỗi lạc, một nhà văn hoá lớn, với Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, ông còn là một nhà tư tưởng; ông là nhà thơ, một cây bút tiêu biểu của văn học Tây Sơn; với việc chủ xướng nước cờ Tam Điệp, ông còn là một nhà chiến lược quân sự giỏi; với việc ông được Quang Trung giao “dùng ngòi bút thay giáo binh” để đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng Đống Đa, ông thực sự là một nhà ngoại giao tài ba.
            Người phương Tây thường chú ý đến ngày sinh và làm lễ kỷ niệm vào dịp đó. Người phương Đông ta lại khác, coi trọng ngày kỵ, làm giỗ để tưởng nhớ đến người xưa. Vậy mà từ lâu ta chưa có cái nhìn thống nhất về ngày mất của Ngô Thì Nhậm.
            Trên tạp chí Tổ quốc số 304, Lê Thước cho rằng Ngô Thì Nhậm mất vào ngày 16 tháng 02 năm Quý Hợi và đổi ra lịch dương là ngày 07 tháng 03 năm 1803.
            Trên tạp chí Văn học số 05 – 1973, Tảo Trang lại đổi ngày 16 tháng 02 thành 09 tháng 03 năm 1803.
            Mai Quốc Liên trong Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm cho rằng ngày 16 tháng 02 này chính là ngày Canh Thìn và Ngô Thì Nhậm mất ngay tại Văn Miếu, đồng thời còn viết thêm “có thuyết nói về nhà được ít lâu thì mất”.
            Trên tờ Người Hà Nội số 141, chúng tôi đã có lần thử lý giải vấn đề này, tuy không sai nhưng chưa được thuyết phục lắm vì phải dựa vào cuốn lịch chép tay tên là Lịch đại niên ký bách chúng kinh. Lần này, chúng tôi muốn bàn lại một cách chuẩn xác hơn.
            Trước tiên, chúng tôi xin dẫn ra đây những tư liệu gốc.
            Đại Nam thực lục tập III, trang 108 viết:
            “Tháng hai ….
            Ngày Canh Thìn …
            Đóng gông giải bọn thượng thư Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan đến Bắc thành. Trước là bọn Nhậm thú tội, vua không nỡ giết, đặc biệt hạ lệnh cho giải về kinh. Đặng Trần Thường dâng biểu nói: “Bọn Nhậm thân làm tôi nhà Lê mà cam tâm theo giặc, bày lời nói dối để lừa nhà Thanh, hãm đồng loại vào chỗ bất nghĩa, xét tội ác chẻ hết tre cũng khó biên hết, thực là kẻ có tội nhất trong danh giáo. Nếu kẻ này mà không giết thì răn bảo người sau sao được?”. Vua bèn hạ lệnh đưa ra Bắc thành để nghị tội. Thành thần bàn cho là tội bọn Nhậm đáng phải giết, nhưng đã có chiếu nói rõ nguỵ quan ra thú thì đều miễn tội. Vậy xin tha bọn Nhậm tội chết, chỉ đánh để làm nhục. Vua y cho. Hạ lệnh kể tội ở học đường phủ Phụng Thiên (tức là Quốc Tử Giám nhà Lê cũ) mà đánh đau. Nhậm bị đánh chết”.
            Ngô Gia thế phả cho biết Ngô Thì Nhậm bị mất vào giờ Hợi (từ 21 đến 23 giờ) ngày 16 tháng Hai.
            Hậu duệ của ông ở Tó cho biết, theo người xưa truyền lại thì sau trận đòn thù, ông được đón về nhà thì mất.
            Ở đây có chỗ ghi ngày theo can chi, có chỗ ghi theo âm lịch. Muốn lý giải đúng phải dùng phương pháp niên đại học khảo sát kỹ về lịch, đặc biệt là lịch Việt Nam.
            Trong cuốn Lịch hai thế kỷ (1802 – 2010) và các lịch vĩnh cửu, NXB Thuận Hoá, 1995, chúng tôi đã nêu ra kết quả nghiên cứu về lịch nhà Nguyễn, đặc biệt là năm 1993, phát hiện cuốn Khâm định vạn niên thủ mà chúng tôi xác định là được khắc in vào một trong hai năm Kỷ Dậu (1849) hoặc Canh Tuất (1850), có 360 năm lịch Việt Nam, từ năm Giáp Thìn (1544) đến năm Quý Mão (1903).
            Trong ảnh 1, chúng tôi giới thiệu lịch của 11 năm đầu nhà Nguyễn (Việt Nam), từ năm Nhâm Tuất (1802) đến năm Nhâm Thìn (1812) dẫn từ cuốn lịch cổ nói trên.
            Để cómột ấn tượng rõ ràng, chúng tôi giới thiệu lịch nhà Thanh (Trung Quốc) từ năm Quý Hợi (1803) đến năm Ất Sửu (1805), ở ảnh 02, dẫn từ cuốn Nhị Thập sử sóc nhuận biểu của Trần Viễn.
            Theo kết quả khảo cứu của chúng tôi, trong 11 năm đầu (1802 – 1812), nhà Nguyễn soạn lịch theo phép Đại Thống (dùng phép xấp xỉ bậc ba); trong khi đó nhà Thanh soạn lịch theo phép Thời Hiến (dùng lượng giác), nên lịch hai nước khác hẳn nhau. Cụ thể có bốn lần khác nhau lớn, tức là khác nhau về tháng nhuận:
            - Năm Quý Hợi (1803) Việt Nam nhuận tháng Giêng, Trung Quốc nhuận tháng Hai.
            - Năm Ất Sửu (1805) Việt Nam nhuận tháng Tám, Trung Quốc nhuận tháng Sáu.
            - Năm Mậu Thìn (1808) Việt Nam nhuận tháng Sáu, Trung Quốc nhuận tháng Tám.
            - Năm Tân Mùi (1811) Việt Nam nhuận tháng Hai, Trung Quốc nhuận tháng Ba.
            Ta hãy khảo sát năm Quý Hợi: ở ảnh một, lịch Việt Nam là cột thứ hai tính từ bên phải; ở ảnh hai, lịch Trung Quốc là cột một kể từ bên phải.
            Lịch Trung Quốc nhuận tháng Hai, mồng một tháng Hai là ngày Đinh Dậu (đứng thứ 34 trong 60 hoa giáp), tức là ngày 22 tháng Hai năm 1803, mồng một tháng Hai nhuận là ngày Bính Dần (đứng thứ ba), tức là ngày 23 tháng Ba năm 1803. Ngày Canh Thìn (đứng thứ 17) không có trong tháng Hai mà có trong tháng Hai nhuận của lịch Trung Quốc. Bởi thế trước khi tìm ra lịch Việt Nam, các nhà khảo cứu rất lúng túng, về nguyên tắc là không thể đổi được.
            Lịch Việt Nam nhuận tháng Giêng. Ngày mồng một tháng Hai là ngày Bính Dần (đứng thứ ba), là ngày 23 tháng Ba năm 1803. Ngày Canh Thìn (đứng thư 17) là ngày 15 âm, tức là ngày mồng sáu tháng Tư năm 1803.
            Bây giờ ta thấy các tư liệu đều đúng và khớp với nhau:
            Đại Nam thực lục cho biết Ngô Thì Nhậm bị đánh đòn vào ngày Canh Thìn, tức là ngày 15 tháng Hai và là ngày mồng sáu tháng Tư năm 1803. Ta có thể hiểu các sử gia đã lấy sự kiện ông bị đánh làm tiêu chí để ghi và vì thế lấy ngày Canh Thìn. Nguyên nhân của sự kiện đó là do trước đây ông đã làm thượng thư cho nhà Tây Sơn. Hậu quả của trận đòn này là sau đó ông bị chết.
            - Theo các hậu duệ của ông, sau trận đòn gia đình đã đón ông về nhà, rồi ông mất tại nhà riêng ở Tó.
            - Theo Ngô Gia thế phả, ông bị mất vào giờ Hợi ngày hôm sau, tức là ngày 16 tháng Hai, tức là vào khoảng từ 21 đến 23 giờ ngày mồng bảy tháng Tư năm 1803.
            Cũng cần nói thêm rằng, đúng như Đại Nam thực lục đã dùng lịch trong cuốn Khâm Định vạn niên thư này qua một bằng chứng nữa là ở trang 104, tập III có ghi tháng Giêng năm này nhuận.
             
            ND87 trích đăng từ: Hội khoa học lịch sử Việt Nam: LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC. Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Trẻ xuất bản, năm 1999, trang 363 – 366.
             
             
            #21
              venus4t.vns_hnu 07.06.2008 15:50:41 (permalink)
              HUYỀN THOẠI VỀ LOA THÀNH







              Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta.



              Loa Thành hay Cổ Loa Thành, còn có tên khác là Tư Long Thành, người Trung Quốc thường gọi là Côn Lôn Thành, chính là kinh thành của nước ta thời An Dương Vương. Di tích Loa Thành nay vẫn còn ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta. Việc đắp thành khó khăn này đã được tiến hành như thế nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỷ, quyển 1, từ tờ 6a đến tờ 7b) chép rằng:

              “Thành này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở khiến nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi công đắp lại'' .

              ...''Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi cười mà nói rằng:

              - Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?

              Vua liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói :

              - Cứ đợi Giang Sứ đến.

              Xong, cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông, từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang Sứ, bàn được chuyện tương lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:

              - Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ, ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hoá thành. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm  tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ tự nhiên xây được bền vững.

              Nhà vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán nói:

              - Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc hoạ. Nhà vua cười nói:

              - Sống chết đều có số mệnh cả, ma quỷ mà làm gì nổi?

              Nói rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin vua đuổi theo chúng. Tới núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để đem đi chôn. Thấy nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:

              - Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.

              Vua xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn. Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về. Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:

              - Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống giữ?

              Rùa vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:

              - Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì không lo gì.

              Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.

              Lời bàn: Nước bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu, đã thế, trình độ kỹ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà nhà vua dám dốc sức xây thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại, ở một góc độ nào đó, cũng có thể coi là biểu tượng của những thách thức chất chồng đó thôi.

              Việc nhà vua nghênh đón Giang Sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang Sứ không chút quản ngại, cùng vua lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết lòng phò tá chí lớn của nhà vua!

              Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỷ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng; “Việc làm của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh, thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi thần giáng mà suy” (Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỷ, quyển 1, tờ 10-b).

              Như An Dương Vương, thần minh giáng lần đầu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc gia Âu Lạc hùng mạnh; thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.


              Sưu tầm từ
              http://vitinfo.com.vn/Muctin/Honviet/Dauanthoigian/38855/default.aspx
              #22
                venus4t.vns_hnu 08.06.2008 23:37:17 (permalink)
                ND dẫn thêm: Như đã nhiều lần mình nói về vai trò người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc: những người phụ nữ Việt Nam đâu chỉ đảm việc nhà mà còn đặc biệt cống hiến sức mình cho tổ quốc, không chỉ ra chiến trường mà còn hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác - những lĩnh vực mà tưởng chừng chỉ là đặc quyền của nam giới - như lĩnh vực chính trị, điều hành đất nước không thua kém gì nam giới! Không những vậy, có người vì sự cống hiến đó mà toàn dân phong gọi là Phật Bà như trường hợp Nguyên phi Ỷ Lan thời Lý là một ví dụ điển hình. Bà thay chồng cai trị đất nước được toàn dân khâm phục: mùa màng bội thu, nhân dân gọi Bà là Phật Bà sống! Chồng bà - vua Lý Thánh Tông - đi đánh giặc Chiêm Thành nghe tin về Bà  tự thấy xấu hổ mà dốc sức cầm quân đánh giặc....
                Dưới đây là một tư liệu về Đức Phật Bà Nguyên phi Ỷ Lan. Mời các bạn cùng đọc và suy ngẫm.

                Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan


                Hoàng Thái hậu Ỷ Lan tương truyền có tên là Lê Thị Khiết, còn có tên là Lê Thị Yến. Bà sinh năm Giáp Thân, Thiên Cảm Thánh Võ thứ nhất (1044) tháng 3 ngày 7. Nguyên quán trại trang Thổ Lỗi, nay thuộc xã Như Quỳnh, huyện Văn Lâm. Con gái ông Lê Công Thiết và bà Vũ Thị Tình, làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Năm bà 12 tuổi thị mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế. Năm bà 16 tuổi cha cũng qua đời, nhờ bà mẹ kế nuôi dạy.

                Bấy giờ đương thời Lý Thánh Tông(1023-1072) đã cao tuổi mà chưa có con trai. Vua và hoàng hậu đi cầu tự nhiều nơi nhưng không thành. Đình thần bèn mở hội cầu duyên ở Thổ Lỗi, chỉ dụ cho các làng trong vùng mở hội thông sức cho nhà dân có con gái đẹp phải ăn vận chỉnh tề đi dự hội.

                Vua ngự giá đến trang Thổ Lỗi. Khi xa giá tới cổng ở đầu làng,nghe có tiếng hát rất quyến rũ của một người con gái trong nương dâu, Vua cho hạ kiệu đi bộ, thì người con gái dừng tay, từ trong ruộng dâu đi ra nép vào một gốc dâu nhìn về phía xa giá. Vua truền lệnh gạn hỏi. Người con gái đối đáp thông minh. Đó chính là Khiết Nương. Vua truyền lệnh tuyển người con gái ấy vào cung, rước về Lan cung thuộc đất làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương của kinh thành Thăng Long. Từ đó Khiết Nương có tên là Ỷ Lan

                Trong cung bà được học hành, khi sinh người con trai thứ nhất là Càn Đức, được phong là Thần phi. Sinh người con trai thứ hai là Minh Nhân Vương,bà được phong là Nguyên Phi. Đến khi vua Lý Thánh Tông mất, Càn Đức lên nối ngôi lấy hiệu là Nhân Tông, bà được phong là Hoàng Thái Hậu

                Ỷ Lan đã hai lần làm nhiếp chính:

                Lần thứ nhất vào năm 1069. Tương truyền năm ấy, Lý Thánh Tông mang quân đi đánh giặc phương Nam nhưng không thắng, bèn đem quân về. Đến Mạt Liên(Tiên Lữ bây giờ) Lý Thánh Tông nghe tin báo rằng Nguyên Phi Ỷ Lan đã giúp vào chính sự, trong nước yên ổn, lòng dân vui vẻ, được nhân dân quý trọng, tôn vinh.

                Lý Thánh Tông nói” Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông thì chẳng được việc gì”. Vua liền quay lại Nam chiến và đã chiến thắng. Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước của vua Lý Thánh Tông, có vai trò không nhỏ của Nguyên Phi Ỷ Lan.

                Lần thứ hai khi vua Lý Thánh Tông mất(1072), Lý Nhân Tông(Càn Đức) mới 7 tuổi lên ngôi vua, bà được tôn làm Hoàng Thái Phi, rồi Hoàng Thái hậu. Là một phụ nữ tài trí, đức độ, lại được Lý Thường Kiệt ủng hộ nên Hoàng Thái Hậu đã có những đóng góp tích cực vào cơ nghiệp nhà Lý.

                Trong tám đời vua triều Lý, Lý Nhân Tông là người có chiến công hiển hách nhất. Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt , quân dân Dậi Việt đã đánh tan quân xâm lược Tống năm 1076, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Nhân Tông trị vì, đối với bên ngoài thì nước lớn kiêng nể, nước nhỏ mến phục, trong nước thái bình, nhân dân no ấm.

                Về nội trị, bà ban hành nhiều chính sách tiến bộ như chuộc nô tỳ, tha cung nữ, giảm tô thuế, cấm giết trâu bò. Là người hâm mộ đạo Phật, có công xây dựng hàng trăm ngôi chùa, am hiểu phật học, không kém các thiền sư nổi tiếng đương thời. Bà có viết một bài kệ:

                Sắc thị không, không tức sắc

                Không thị sắc, sắc tức không

                Sắc không quân bất quản

                Phương đắc khế chân không.

                Nghĩa là:

                Sắc là không, không tức sắc

                Không là sắc, sắc tức không

                Sắc không đều chẳng quản

                Mới được hợp chân tông.

                Với bài kệ này, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan được các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác gia văn học thời Lý- Trần

                Bà mất ngày 25 tháng 7 năm 1117. Tại quê hương và nhiều nơi đã xây dựng chùa tháp, đền thờ bà. Cùng với những ngôi đền lớn thờ bà ở huyện Gia Lâm(Hà Nội), hiện ở Hưng Yên có hai ngôi: Đền Ghênh xã Như Quỳnh và chùa Hương Lãng xã Minh Hải đều thuộc Văn Lâm.
                Sưu tầm từ:
                http://www.dangcongsan.vn/tiengviet/chuyende/hungyen/details.asp?topic=195&subtopic=397&leader_topic=907&id=BT1610869788
                #23
                  venus4t.vns_hnu 14.06.2008 00:53:18 (permalink)
                  PHÁT HIỆN NẾP ÁO TIỂU THỪA TRÊN TƯỢNG VUA TRẦN NHÂN TÔNG


                  700 năm sau ngày mất của đức Trần Nhân Tông, tìm về Yên tử để chiêm bái thêm một lần pho tượng của ngài hiện đặt trong tháp tổ Huệ Quang. Tương truyền pho tượng đó cho chính vua Trần Anh Tông cho tạc ngay sau một năm ngài mất. Pho tượng được tạc bằng đá xanh Ninh Bình, chia ra làm 2 phần, một phần ngai có bốn mặt hổ phù đặt rời phần bệ và tượng.
                  Bệ và tượng được tạc trên cùng một khối đá, hoa văn bệ tượng đơn giản viền ngoài là hoa cúc đời Trần, lớp trong là hai con rồng chầu hoa sen. Chỉ cần đọc những lớp mã ý nghĩa ở phần bệ tượng thôi cũng là cả một điều thú vị.
                  Phần ngai bốn chân hổ phù bắt buộc phải rời khỏi phần bệ vì Trần Nhân Tông là vị vua xuất gia đi tu; ở phần bệ gắn liền với tượng có trang trí hoa văn hoa cúc vốn là biểu tượng văn hóa của triều đại nhà Trần; rồng chầu hoa sen (không phải là rồng chầu mặt nguyệt, hay hỏa châu) cho thấy vào đầu triều đại nhà Trần đến đời vua Anh Tông, Phật giáo chính là quốc giáo của Đại Việt, hình tượng con rồng biểu tượng cho quyền lực của nhà vua chầu một đóa hoa sen được cách điệu là biểu tượng của Phật giáo. Sách Thánh đăng ngữ lục còn chép lại: Mùa đông năm Giáp thìn (1304), vua Anh Tông dâng biểu xin thụ Bồ tát giới tại gia.
                  Nhưng mã văn hóa không chỉ nằm lại ở phần bệ tượng mà dồn cả vào pho tượng vua Trần Nhân Tông. Pho tượng cao khoảng 50cm, vua Nhân Tông trong tư thế của một vị thiền sư ngồi kiết già, hay tay đặt lên đầu gối, tay phải bắt ấn, tay trái đặt buông gần đầu gối, vua ngồi thiền mở mắt, ánh mắt được các nghệ nhân dân gian điểm nhã trông hiền từ, pho tượng đẹp giản dị toát lên một vẻ thoát tục.
                  Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng được nhìn tận mắt pho tượng đức Nhân Tông ở trong tháp tổ về chất liệu và kỹ thuật điêu khắc về pho tượng trong tháp Huệ Quang cho biết: “Chỉ riêng cánh tay của pho tượng, với kỹ thuật chế tác đá trên chất liệu như thế và thời bây giờ phải thợ lành nghề phải làm hết ba tháng”. Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng đã về thử làm một phiên bản như vậy trong sự hỗ trợ rất nhiều của máy móc hiện đại trong vòng một tháng hoàn thành được tác phẩm chỉ đạt được độ chính xác 70% so với mẫu trong tháp.
                  Trước đó một nhóm họa sĩ của Vụ Mĩ Thuật cũng tiến hành dựng phiên bản bằng thạch cao trong dự án dựng tượng vua Trần Nhân Tông trên đỉnh An Kỳ Sinh sau thời gian tương đương như thế đã nặn một phiên bản khác nhưng không một nét nào mang hình ảnh của Trần Nhân Tông.
                  Tượng vua Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang quả là công trình tuyệt mĩ về mặt mĩ thuật, nhưng đặc biệt hơn cả là pho tượng đó tồn tại trong đó những bí ẩn  mà mãi cho đến ngày nay chúng ta mới đặt câu hỏi và bắt đầu trên con đường khám phá: Đó chính là nếp áo tiểu thừa mà những người thợ chế tác cùng thời khoác cho bức tượng.
                  Như chúng ta đã biết rõ ràng thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại Thừa vậy nếp áo Tiểu Thừa của đệ nhất tổ một dòng thiền Đại thừa mang ý nghĩa gì?
                  Tìm lại một chút lịch sử các pho tượng cổ vua Nhân Tông, ngoài pho tượng đặt trong tháp Huệ Quang ra còn có một số pho tượng khác vua cũng mặc áo tiểu thừa: hệ thống ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ ở Côn Sơn; ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ trong chùa Đồng cũ được xây dựng đầu thế kỷ 20… còn lại đa phần các pho tượng khác vua vẫn mặc áo Đại Thừa.
                  Giở lại một số sách sử chép về cuộc đời bắt đầu khi vua xuất gia tu hành đến đắc đạo thành Phật ta thấy có một số sự kiện sư sau:
                  Sách Thánh Đăng Ngữ Lục chép: “ Năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ 7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà”
                  Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Tháng 8 (năm kỷ hợi) Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”
                  Sách Thánh Đăng ngữ lục chép lại: Khi mất vua Nhân tông được tôn hiệu Đại thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Huệ Điều Ngự Tổ Phật.
                  Như vậy có một điều khẳng định là vua Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật
                  Sau khi vua vào Yên Tử tu tập, vẫn theo sách Đại Việt Việt Sử Ký Toàn Thư thì tháng 3 năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng Nhân Tông đi sang Chiêm Thành, và chính chuyến đi này ngài đã làm một nước cờ chính trị vô cùng khôn khéo là dàn xếp cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân nhà Trần để đổi lấy hai châu Ô, Lý mà không mất một mũi tên hòn đạn. Cuốn sử trên cũng ghi chép khá rõ ràng diễn biến cuộc hôn nhân này:
                  Rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), sau chuyến đi Chiêm về, Thượng hoàng mở Pháp hội vô lượng bố thí tiền bạc cho dân nghèo tại chùa Phổ Minh; tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng tiếp một vị sư tu theo lối Du Già ở Chiêm Thành sang nước ta; Tháng 2 năm Ất Tị(1305) nước Chiêm sai Chế Bồ Đài mang phẩm vật bàn chuyện hôn sự; tháng 6 năm Bính Ngọ(1306) tổ chức đám cưới cho công chúa Huyền Trân và vua Chiêm là Chế Mân; tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân mất cũng chính ngài là người sai Trần Khắc Chung đem quân lừa đưa được công chúa về tránh cảnh con gái mình phải thiêu cùng vua Chiêm.
                  Như vậy có thể nói chỉ có thời gian từ tháng 8 năm 1299 đến tháng 3 năm 1301 trong sử không thấy chép gì những chuyện của vua Nhân Tông trong thời gian ở Yên Tử, chứng tỏ trong thời gian này ngài ở Yên Tử và tu tập rốt ráo trong thời gian gần 2 năm. Tuy vậy sau 2 năm tu hành ngộ đạo, tính từ khi ngày xuống núi có buổi thuyết pháp đầu tiên giảng về Khóa Hư Lục tại chùa Vĩnh Nghiêm thì những việc đối ngoại quan trọng của đất nước trong đó có chuyện lấy hai châu Ô, Lý chính là do một mình vua Nhân Tông chỉ đạo.
                  Sau một thời gian xuất thế để tu đạo, cả một quãng thời gian dài sau thời điểm chứng đắc ngộ đạo Trần Nhân Tông đóng vai trò là một thiền sư nhập thế. Suốt từ năm 1301 cho đến cuối đời thái độ xuất thế và nhập thế của vua Trần Nhân Tông luôn có sự biến đổi. Lúc ngài trong hành trạng của một vị khất sĩ ngay trong kinh thành của nước Chiêm; có lúc ngài như một thiền sư Lâm Tế trong buổi giảng về thiền tại chùa Sùng Nghiêm vào năm 1304 theo lời tả trong sách Thánh Đăng Ngữ Lục; có lúc ngài nhập thế như một nhà Nho khi tính nước cờ chính trị vô cùng sáng suốt để đổi lấy hai châu Ô, Lý... Chính  thái đội hành tàng xuất xử của ngài làm cho nhiều người tìm hiểu về cuộc đời của ngày như lạc vào trong một mê cung và có lẽ chính từ đây câu chuyện về Thiền Phái Trúc Lâm mới được bắt đầu giở sang một trang mới.
                  Cuối tháng 12 vừa rồi, có dịp đi lại trên con đường rất nhiều khả năng đó chính là con đường cổ xích tùng mà vua Trần Nhân Tông đã đi vào Yên Tử  để tu khổ hạnh. Cuối con đường chúng tôi vô cùng ngạc nhiên về một rừng tùng cổ thụ mở ra trước mắt, những thân cây lớn độ hai người ôm mọc thành rừng với số lượng khá nhiều, bên cạnh là một rừng trúc, những thân trúc to bằng cổ tay mọc thẳng đứng rắn rỏi, mỗi cơn gió len được vào nơi đây đều làm những lá trúc reo lên trên những tay trúc mảnh dẻ, rồi bất chợt một vài chiếc là vèo rụng như nhắc nhở du khách về kiếp phù sinh của đời người.
                  Một vị thiền sư chỉ cho tôi mé bên kia của rừng Tùng, rừng Trúc này là một rừng Mai vàng. Rừng mai  mọc ở bên đằng thác vàng chạy dọc từ chùa Hoa Yên xuống vị trí ga cáp treo bây giờ, vào những tháng xuân, du khách hành hương rợp ngợp trước một rừng mai vàng trên triền núi Yên Tử, đoạn từ am Thiền Định sang Thác Vàng vốn ít khách qua lại đến ngày tết trong không khí lành lạnh của những ngày đông đang còn vương vấn, ngắm hơi núi phả ra những dải sương và cánh mai vàng rơi lác đác trên con đường đá thật không có gì khoái hoạt bằng.
                  Bất giác tưởng tượng đến cảnh đó, nghĩ đến ngày cuối năm mà nhớ tới câu thơ của Huyền Quang Lý Đạo Tái: Tuế vãn trung sơn vô lịch nhật/Cúc khai hoa xứ tức trùng dương (Năm gần hết, giữa rừng không có lịch/ Thấy hoa cúc nở, biết là tiết trùng dương đến rồi); đọc hết câu mới giật mình khám phá ra một điều vô cùng thú vị: Hóa ra ở Yên Tử ngay từ sớm đã song hành tồn tại “tứ quý”: Tùng – Cúc – Trúc – Mai là những vẻ đẹp tượng trưng cho đức hạnh của người quân tử theo mĩ học Nho giáo.
                  Một thánh địa của Phật giáo lại chất chứa trong đó những vẻ đẹp biểu tượng cho đức hạnh của người quân tử theo quan niệm Nho giáo thì quả là đặc biệt. Nếu lạm nghĩ thêm một tí nữa thì trước đó rất lâu tượng đá An Kỳ Sinh đã đứng sừng sững gần hai mươi thế kỷ. Và chỉ nghĩ thêm được chừng đó thôi mọi thứ đã gần thông suốt trên quãng đường đi khám phả chỉ một dải núi men sườn dãy Yên Tử đã tồn tại ba vẻ đẹp của ba thứ tôn giáo hòa chung trong nhịp đập mà trái tim chính là Thiền Phái Trúc Lâm.
                  Nhớ lại một câu nói nữa cũng của thiền sư Phù Vân với vua Thái Tông cũng được chép lại trong cuốn sách Thiền tông chỉ nam tự: Sơn bản vô Phật/Duy tồn hồ tâm/Tâm tịch nhi tri/Thị danh chân Phật; Để đến sau này trong yếu chỉ của mình mà chính là của Thiền phái Trúc Lâm với bài phú Cư Trần Lạc Đạo đức Điều ngự giác hoàng đã tiếp nhận một lần nữa lời nói của thiền sư Phù Vân trong câu: Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. Câu của vua Thái Tông chép lại có nghĩa là: Trên núi vốn không có Phật/ Phật chính nằm trong tâm/ Tâm lặng mà biết được/Đấy chính là Phật thật sự.
                  Sưu tầm từ:

                  http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=977&Itemid=67

                   
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.06.2008 00:59:36 bởi ngocdiep87 >
                  #24
                    venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:34:02 (permalink)
                    CHÙM BÀI VỀ CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT

                    VÕ VĂN KIỆT - NHÀ LÃNH ĐẠO KIỆT XUẤT THỜI KỲ ĐỔI MỚI




                    Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt và sinh viên trường ĐH Quốc gia Hà Nội
                    Xin trân trọng giới thiệu bài viết về nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã được đăng tải nhân dịp sinh nhật 85 tuổi (23/11/1922 – 23/11/2007) của nhà lãnh đạo kiệt xuất này.



                    Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời
                    Với tuổi đời 85 và 70 năm tham gia cách mạng (1938 – 2007), ông đã cống hiến gần như toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc và đổi mới đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với một giai đoạn lịch sử oai hùng và đầy thử thách của dân tộc qua những hoạt động phong phú và nổi bật mang dấu ấn đặc sắc, dấu ấn Võ Văn Kiệt. Dấu ấn về tư tưởng và quyết tâm đổi mới đất nước, đưa đất nước vượt qua tình trạng khó khăn, trì trệ, từng bước phát triển và hội nhập. Dấu ấn về bầu nhiệt huyết không hề vơi cạn theo thời gian và tuổi tác của con người.
                    Võ Văn Kiệt thuộc thế hệ lãnh đạo hàng đầu đi tiên phong trên con đường đổi mới đất nước. Ông quan niệm rõ ràng và nhất quán về đổi mới: “Đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ hay từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà là nhận thức lại một cách đúng đắn hơn về một chủ nghĩa xã hội nhân bản, hoàn thiện, với lý tưởng phục vụ con người, vì con người”.
                    Ông là nhà lãnh đạo có sự đóng góp xuất sắc bởi tầm nhìn sâu rộng và trí tuệ sắc sảo. Những phẩm chất tiêu biểu đó, một phần do bẩm sinh, do tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài ở những nơi đầu sóng ngọn gió của cách mạng, và đặc biệt do phong cách gần gũi bình dị, khả năng tập hợp và khai thác có hiệu quả những tri thức tiên tiến của một tập thể chuyên gia giỏi về nhiều mặt; chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật v.v….
                    Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường (Ba Bường), và Võ Văn Kiệt thời kỳ chiến tranh giải phóng miền Nam Việt Nam. Ảnh tư liệu
                    Nhờ thế, ông cùng với lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa ra được những quyết sách đúng đắn, những giải pháp hiệu quả cho sự phát triển của đất nước. Nhiều chủ trương của Chính phủ mang dấu ấn của cá nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, nhưng không phải được mọi người đồng tình ngay từ đầu.
                    Để biến đường lối, chủ trương thành hiện thực, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng thể hiện một phong cách lãnh đạo sâu sát, cụ thể và đặc biệt lòng dũng cảm đến mức quyết liệt. Và trên hết là bầu nhiệt huyết đối với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân không hề vơi cạn.
                    Ông thể hiện phong cách, tinh thần đó không chỉ khi ở cương vị nhà lãnh đạo cao nhất của một thành phố (Bí thư Thành uỷ TP. HCM), của Chính phủ, mà cả khi ông không còn giữ trọng trách nào trong Đảng và Nhà nước.
                    Trong 10 năm nay (1997 – 2007), trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, lại thấy Công dân Võ Văn Kiệt lên tiếng. Có khi là một bài viết, có lúc là bài trả lời phỏng vấn, và đặc biệt có cả những bức thư ngỏ công khai gửi lên các cấp lãnh đạo đất nước.
                    Trong thời gian gần đây, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước dồn dập hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến “đóng góp với đại hội X”, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về “thành phố dọc sông Hồng”, việc “xây nhà Quốc hội” v.v....Những ý kiến của ông được trình bày thẳng thắn và chứa tâm huyết lớn với nước với dân. Dù được chấp nhận hay không, các ý kiến của ông đều rất quý, rất đáng trân trọng, phù hợp lòng dân và được người dân mong chờ, đón nhận.
                    Tư tưởng “đổi mới”, hành động “đổi mới”, công lao trong sự nghiệp “đổi mới” cùng với bầu nhiệt huyết với đất nước và nhân dân của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước xuất sắc, một hình ảnh tiêu biểu của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
                    Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt thực sự được nhân dân cả nước yêu quý với tên gọi thân thiết Sáu Dân và được bạn bè trên thế giới nể trọng. Đó là món quà quý giá nhất cuộc đời dành tặng ông.



                    GS Trần Thanh MinhSưu tầm từ:
                    http://vitinfo.com.vn/muctin/CTXH/45214/default.aspx

                    #25
                      venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:37:11 (permalink)
                      VÕ VĂN KIỆT VÀ CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
                      õ



                      Khi còn đương nhiệm, thủ tướng Võ Văn Kiệt là người rất quan tâm đến giáo dục
                      VIT - Trong con mắt và trái tim của chúng tôi, Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo xuất sắc, một Thủ tướng tiêu biểu cho tầm nhìn, trí tuệ và phong cách lãnh đạo mới.



                      Viết về một nhà lãnh đạo đã từng đảm nhiệm những trọng trách lớn của Đảng và Nhà nước như đồng chí Võ Văn Kiệt là một việc rất khó, bởi tính da dạng và phức tạp của những công việc mà đồng chí đảm nhiệm, từ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng đến đối ngoại... ở đây, chúng tôi chỉ muốn nêu lên một khía cạnh nhỏ trong công tác lãnh đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt mà chúng tôi được trực tiếp chứng kiến - công tác giáo dục đại học - thể hiện tầm nhìn, trí tuệ và bản lĩnh của một nhà lãnh đạo.
                      Việc nhìn lại và đánh giá những cống hiến của đồng chí Võ Văn Kiệt ở thời điểm này chắc chắn là dễ khách quan, trung thực hơn, vì đồng chí không còn giữ bất cứ cương vị gì trong bộ máy của Nhà nước và Đảng. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi vẫn gọi đồng chí là Thủ tướng, vì trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình thì những năm ở cương vị Thủ tướng Chính phủ đồng chí đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người dân Việt Nam và bè bạn quốc tế.
                      Trong con mắt và trái tim của chúng tôi, Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo xuất sắc, một Thủ tướng tiêu biểu cho tầm nhìn, trí tuệ và phong cách lãnh đạo mới. Trí tuệ của Thủ tướng, một phần do bẩm sinh, nhưng quan trọng hơn là Thủ tướng đã biết tập hợp, khai thác trí tuệ của các chuyên gia, của tập thể, biết phân biệt đúng sai, phải trái trong muôn vàn ý kiến khác nhau đó để cuối cùng trở thành chủ trương đúng đắn của mình. Có chủ trương rồi, Thủ tướng đã thể hiện lòng dũng cảm, bản lĩnh cao cường để thực hiện cho bằng được cái chủ trương đó, đặc biệt là khi nó được đưa ra trong bối cảnh còn có những ý kiến trái ngược nhau. Và cuối cùng, tất cả những nỗ lực của Thủ tướng đã được thể hiện bằng hiệu quả của việc làm, đưa lại lợi ích cho dân, cho nước.

                      Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng các Phó thủ tướng: Phan Văn Khải, Nguyễn Khánh, Trần Đức Lương họp bàn về quy hoạch chung chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây trong đó có khu đô thị Đại học Quốc gia Hà Nội (ảnh chụp năm 1995)
                       
                      Một trong những thành tựu đáng kể của giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây là sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Đại học Quốc gia Hà Nội - một đại học có quyền chủ động cao trong đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy.
                      Việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học có thể so sánh như một thứ “Khoán 10” trong giáo dục đại học. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng, phù hợp với quy luật phát triển đại học trên thế giới, đặc biệt là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão - “một ngày bằng hai mươi năm”.
                      Khi trao đổi với các nhà khoa học giáo dục nước ngoài, đặc biệt là các nước có nền giáo dục tiên tiến như Nga, Mỹ, Nhật, Pháp, Anh..., về ý tưởng, mô hình tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi đều nhận được sự tán đồng và sự hợp tác nhiệt tình vì chỉ với mô hình đại học có quyền tự chủ cao như Đại học Quốc gia Hà Nội, trường đại học mới có thể phát triển nhanh, đạt chất lượng cao, mới theo kịp trình độ đại học của các nước phát triển.
                      Dưới đây, qua việc trình bày ý kiến về giáo dục đại học và Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi muốn phản ánh những suy nghĩ và tầm nhìn chiến lược của đồng chí Võ Văn Kiệt về các vấn đề này.
                      Những năm trước đây, các trường đại học của nước ta mặc dầu đã có nhiều đóng góp lớn lao cho sự nghiệp cách mạng giành độc lập tự do và thống nhất đất nước, cho công cuộc xây dựng nền kinh tế và phát triển xã hội, song do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên việc quản lý các trường đại học quá chặt chẽ, kém hiệu quả, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của cơ sở đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu nhân lực có trình độ đại học thay đổi, đòi hỏi sự trang bị kiến thức rộng, dễ dịch chuyển nghề, thông thạo ngoại ngữ, tin học... Do vậy, việc tổ chức, quản lý đào tạo theo kiểu cũ không còn thích hợp nữa.
                      Mỗi trường đại học là một trung tâm trí tuệ. Nếu khơi dậy được tiềm năng này thì trường đại học sẽ phát triển mạnh. Mỗi trường đại học có đặc thù riêng. Các trường đại học phải năng động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, đặc biệt là trong điều kiện hạn hẹp của các nguồn nhân lực và tài chính của Nhà nước. Các trường đại học phải đua tranh nhau phát triển, nâng cao uy tín của trường mình trong xã hội bằng chất lượng đào tạo. Do vậy, việc phát huy cao độ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học là biện pháp hàng đầu để phát triển nhà trường, nâng cao chất lượng đào tạo. Đây chính là “Khoán 10” trong giáo dục đại học. Vai trò quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo là rất lớn và quan trọng. Song Bộ không nên làm thay chức năng của các trường đại học. Chỉ có như vậy, nền giáo dục đại học của nước ta mới phát triển nhanh, có chất lượng cao.
                      Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi phải có phương thức quản lý, đảm bảo tính năng động, sáng tạo của những tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ trong hành lang pháp luật. Điều này được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực kinh tế. Những khái niệm về các tổ chức sản xuất, kinh doanh “trực thuộc bộ”, “bộ chủ quan” đã tỏ ra lỗi thời, cản trở sản xuất phát triển. Thay vì sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch do Bộ giao trước kia, xí nghiệp phải tự tìm hiểu nhu cầu của thị trường, phải tự tổ chức sản xuất với chất lượng do người tiêu dùng yêu cầu, tiêu thụ được sản phẩm và phải tự đảm bảo doanh thu để giải quyết đời sống cho cán bộ, công nhân viên của xí nghiệp và phát triển sản xuất. Chính vì vậy, mà Chính phủ dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ra biện pháp quan trọng: “Chấm dứt sự can thiệp trực tiếp của bộ quản lý ngành và các bộ chức năng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên”. Tình hình này cũng đúng trong lĩnh vực giáo dục.
                      Ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải là một bộ phận tiên tiến nhất của xã hội, phải nhạy cảm nhất và đi đầu trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tiếc rằng, cho đến nay chúng ta vẫn đang trong trạng thái trì trệ, những vấn đề lớn về quản lý đại học về cơ bản vẫn theo cách cũ, từ thời bao cấp. Các trường đại học vẫn còn chịu bó tay trước nhiều việc cần làm và có khả năng làm. Giáo dục nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
                      Chủ trương tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới trường dại học và cao đẳng, xây dựng các Đại học Quốc gia, đã được đặt ra từ lâu (Quyết định 73/HĐBT) và được làm nhiều lần, ở nhiều cấp, nhưng trong một thời gian dài không triển khai được. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Đại học Quốc gia với những ý tưởng mới về một nền giáo dục đại học. Sự ra đời của hai Đại học Quốc gia là mốc đổi mới sâu sắc trong cơ cấu hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện loại trường đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
                      Việc xây dựng ĐHQG nhằm mục tiêu để Việt Nam ta nhanh chóng có những trung tâm đại học mạnh, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các đại học Quốc gia được xây dựng sẽ có tác dụng thúc đẩy đối với toàn bộ hệ thống đại học của nước ta.
                      Về cơ cấu, Đại học Quốc gia là một trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Ưu điểm nổi bật nhất của đại học đa ngành, đa lĩnh vực là sự hỗ trợ mạnh mẽ giữa các lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo khác nhau, cùng nhau sử dụng chung đội ngũ cán bộ, sử dụng chung các trang thiết bị, phương tiện giảng dạy và do vậy nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác đào tạo đại học cũng như nghiên cứu khoa học. Xây dựng các đại học đa ngành, đa lĩnh vực là cách làm phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Cần có một cơ chế tự chủ để một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực phát huy được năng lực sáng tạo của mình trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
                      Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt trong một buổi làm việc với trường Đại học Quốc gia Hà Nội
                      Xét về mặt tổ chức, ĐHQG là cấp trên trực tiếp của các trường thành viên. Không nên biến ĐHQG thành một cấp hành chính trung gian giữa các trường thành viên và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Muốn vậy, phải xoá bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với ĐHQG, bởi vì nếu ĐHQG có bộ chủ quản thì đương nhiên nó trở thành cấp trung gian cồng kềnh giữa Bộ và các trường thành viên khác.
                      Các nhiệm vụ cơ bản được đặt ra đối với ĐHQG Hà Nội rất lớn: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở trình độ đại học và trên đại học. Đặc biệt chú trọng đào tạo nhân tài trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ mũi nhọn và giáo dục. Tiến hành nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ mũi nhọn, thẩm định về mặt khoa học và công nghệ các dự án, công trình lớn cấp quốc gia, góp phần đưa những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất và đời sống, gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
                      Ngày 10/12/1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký Nghị định thành lập ĐHQGHN. Tiếp theo đó là thời gian hoàn thiện ý tưởng và mô hình ĐHQG, thể hiện trong văn bản quy chế đầu tiên của ĐHQGHN được ban hành vào ngày 5/9/1994. Quy chế này đã phản ánh khá đầy đủ những ý tưởng chiến lược của Thủ tướng về giáo dục đại học.
                      Tư tưởng đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đại học như đã nói ở trên đã gặp không ít khó khăn khi thực hiện ở trong ngành cũng như ở bên ngoài, do nhận thức, do thói quen và cả do lợi ích cục bộ nữa. Mặc dù vậy, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đưa ra những ý kiến quyết định vào các thời điểm khó khăn nhất đối với ĐHQGHN. Đồng chí trước sau như một vẫn kiên quyết chỉ đạo việc xây dựng ĐHQGHN theo tinh thần đổi mới đã đề ra và đã đạt được thành công to lớn.
                      Nhờ được quyền tự chủ cao và được tạo điều kiện thuận lợi, ĐHQGHN đã phát triển vượt bậc, nâng cao chất lượng mọi mặt công tác, đã mở ra những ngành đào tạo mới, mở hệ đào tạo cử nhân tài năng, tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển công tác nghiên cứu khoa học, tăng nhanh cơ sở vật chất và trang thiết bị. Học sinh của ĐHQGHN đã đạt được nhiều giải cao trong các kỳ thi Toán, Lý, Tin, Vật lý, Hoá quốc tế, đem lại niềm vinh quang và tự hào cho Tổ quốc. So với năm đầu mới thành lập, ngày nay kinh phí cho hoạt động khoa học đã tăng gấp 20 lần, số diện tích lớp học, nơi làm việc, ký túc xá xây mới bằng tổng diện tích đã xây được trong 50 năm trước đó...
                      Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất của ĐHQG cho đàng hoàng, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc. Đích thân Thủ tướng đã đi tìm địa điểm để xây dựng ĐHQGHN. Cán bộ và sinh viên của ĐHQGHN rất xúc động khi được biết rằng vào một ngày chủ nhật Thủ tướng đã đi thị sát các địa điểm có thể xây dựng ĐHQGHN. Đến một nơi, do không được thông báo trước nên cổng thường trực không mở. Thế là Thủ tướng và cả đoàn tuỳ tùng đã phải leo qua hàng rào để vào tận nơi quan sát khu đất và ngày nay khu đất ấy đã được xây dựng thành trung tâm điều hành khang trang của ĐHQGHN, nơi đã đón tiếp nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, nhiều nguyên thủ các quốc gia. Sau nhiều ngày suy tính về tương lai của một đại học lớn, Thủ tướng đã quyết định dành cho ĐHQGHN một khu đất đẹp, rộng trên 1000ha tại Hòa Lạc. Khi đó có những cán bộ thắc mắc sao lại đi xa vậy? Song bây giờ mọi người đều nhận ra sự sáng suốt của việc lựa chọn địa điểm này: ĐHQG phải có môi trường sinh hoạt rộng thoáng, phải đáp ứng cho nhu cầu phát triển của cả trăm năm sau, xứng đáng là một đại học lớn trong khu vực và trên thế giới. Ngày nay, nhờ việc mở ra con đường cao tốc Láng - Hòa Lạc (cũng do Thủ tướng chủ trương) mà cả phía Tây của Hà Nội đang phát triển mạnh và thời gian đi từ Hà Nội đến Hoà Lạc chỉ còn 30 phút, nghĩa là còn nhanh hơn đi trong nội thành vào những giờ cao điểm. Việc hình thành quyết định này một phần là do Thủ tướng đã quan sát kỹ các trường đại học lớn ở các nước mà Thủ tướng đã đi thăm. Tôi còn nhớ, Thủ tướng đã có ấn tượng rất mạnh sau khi đi thăm một khu đại học lớn ở Mianma với thời gian xây dựng chỉ có 3 năm. Sau đó, Thủ tướng đã chỉ thị cho chúng tôi sang nghiên cứu kinh nghiệm của nơi này.
                      Nói đến con đường Láng - Hoà Lạc để phát triển miền Tây Hà Nội, thiết tưởng cũng nên nhắc đến con đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài (cũng được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt). Nhớ lại thủa nào, việc đi về giữa sân bay Nội Bài và Hà Nội là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Thời gian đi từ Nội Bài đến Hà Nội có khi phải mất đến 2 giờ. Có lần, khi chia tay với chúng tôi rời nước bạn để về Hà Nội, người ta chúc chúng tôi không bị tắc đường trên cầu Long Biên. Ngày nay, ai có việc phải đi máy bay thì hoàn toàn có thể yên tâm, chỉ cần 30 phút từ Hà Nội đến sân bay Nội Bài theo con đường cao tốc Thăng Long.
                      Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người rất cương quyết khi chỉ đạo thực hiện, xong cũng là người lãnh đạo biết lắng nghe, gần gũi cán bộ dưới quyền mình.
                      Đồng chí đã nhiều lần gặp gỡ cán bộ khoa học, giúp tháo gỡ những khó khăn mà họ đang gặp, động viên họ hoàn thành nhiệm vụ. Về tác phong này của các đồng chí lãnh đạo, tôi thích nhắc đến câu chuyện do chính Viện sĩ Trần Đại Nghĩa kể lại: Mỗi lần gọi điện xin gặp Bác Hồ, anh Nghĩa đều phải chuẩn bị sẵn ô tô và người lái xe, bởi vì nếu không bận việc thường Bác Hồ cho anh Nghĩa đến gặp Bác ngay tức khắc.
                      Chỉ ít ngày sau khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt bổ nhiệm tôi giữ chức vụ Giám đốc của ĐHQGHN, Thủ tướng đã tiếp tôi tại Văn phòng Chính phủ, vào lúc 17 giờ của một ngày làm việc, ngày 30/5/1994, đúng như đã hẹn, mặc dù đồng chí đang chủ trì cuộc họp của Thường vụ Chính phủ. Sau này, tôi đã có nhiều lần được làm việc với đồng chí Thủ tướng và lần nào đồng chí cũng rất đúng hẹn. Điều này gây cho chúng tôi ấn tượng tốt rằng mình được tôn trọng. Được tiếp xúc với đồng chí, chúng tôi cảm thấy mình sáng hơn về nhận thức, cao hơn về quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ và học hỏi được nhiều hơn về công tác lãnh đạo.
                      Suốt gần 10 năm qua, được làm việc dưới sự chỉ đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt, khi thì ở cương vị Thủ tướng Chính phủ, khi thì ở cương vị Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và cả khi đồng chí không còn giữ chức vụ gì nữa, trong tôi vẫn một lòng ngưỡng mộ nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước ta - đồng chí Võ Văn Kiệt. ở con người đồng chí luôn luôn có những ý tưởng lớn, táo bạo nhưng có cơ sở khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau và dám chịu trách nhiệm, kiên quyết tổ chức thực hiện bằng được những ý tưởng đó với động cơ trong sáng vì dân, vì nước. Những nhà lãnh đạo hội tụ được cả hai phẩm chất trên đây đều đã từng làm nên những câu chuyện thần lỳ ở nhiều nước, nhiều thời đại. Một đất nước muốn phát triển nhanh phải luôn luôn có những chương trình lớn, đúng đắn và người lãnh đạo phải có bản lĩnh, khả năng tổ chức thực hiện bằng được những chương trình đó. Ngược lại thì đất nước chỉ có từ từ tiến mà thôi và theo tốc độ vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay, sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu, mãi mãi thua kém người. Tô tin chắc rằng, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn luôn cảm thấy bức xúc trước những khả năng tiềm tàng to lớn của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam và tình trạng còn tụt hậu của Việt Nam ta so với thế giới.
                      Để kết thúc bài viết này, tôi muốn nêu lên một cảm nhận tốt đẹp khác về đồng chí Võ Văn Kiệt. ấy là vào dịp dự Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi được đọc trong bản khai lý lịch của đồng chí dòng chữ: Trình độ văn hoá: Tiểu học. Tôi thừa hiểu rằng đây chỉ là điểm xuất phát của đồng chí cách đây 60 năm mà thôi. Cuộc đời của đồng chí là cuộc đời tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo. Các công trình nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển giáo dục của đồng chí trong thời gian qua nhiều người có bằng cấp, học vị cao vẫn chưa vươn tới được. Riêng cái sự khiêm tốn của đồng chí về học vấn đã là một bài học lớn cho anh em khoa học chúng tôi, những người được học hành có hệ thống, có bài bản, đạt được nhiều bằng cấp, học vị cao, nhưng chưa đóng góp được bao nhiêu cho đất nước.



                      GS.VS Nguyễn Văn Đạo, nguyên giám đốc ĐHQGHNSưu tầm từ: http://vitinfo.com.vn/muctin/PSKS/45240/default.aspx

                      #26
                        venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:39:12 (permalink)
                        NGUYÊN THỦ TƯỚNG BỨC XÚC VỀ NHÀ, ĐẤT CÔNG


                        Nguyên Thủ tướng bức xúc về nhà, đất công


                        Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt
                        Ngày 27-10-2006, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gửi thư cho Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng, lãng phí đề cập vấn đề lãng phí nhà, đất công của các văn phòng bộ, ngành phía Nam tại TP.HCM. Vitinfo xin đăng lại toàn bộ bức thư này.



                        Trong chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí được công bố công khai có việc tập trung thanh tra bốn lĩnh vực trọng tâm là đầu tư XDCB, quản lý và sử dụng đất đai, quản lý và thu chi ngân sách và quản lý tài sản công... Về các vấn đề khác, tôi đã có nhiều ý kiến phát biểu, nay chỉ xin tập trung có ý kiến về việc quản lý tài sản công.

                        Như các đồng chí biết và tôi cũng đã nhiều lần có ý kiến về việc lãng phí trong việc quản lý, sử dụng tài sản công, nhất là bất động sản như trụ sở cơ quan, nhà, đất của các bộ ở phía Nam (gọi là cơ sở 2). Xuất phát từ nguồn gốc sau 30-4-1975, giao cho các bộ, ngành có trách nhiệm tiếp quản bộ, ngành tương ứng của chế độ ngụy để lại, sau đó chuyển thành cơ sở 2 phía Nam của các bộ, ngành. Việc này đã kéo dài từ thời bao cấp và sau đó vẫn còn tồn tại.

                        Thường trực Chính phủ, tuy chậm, nhưng cũng đã thấy sự bất hợp lý và lãng phí trong sử dụng khối tài sản này nên đã bàn và thống nhất trong Chính phủ chủ trương giải thể các đại diện phía Nam (cơ sở 2), thu gọn, tập trung lại một nơi. Xây dựng một cao ốc tại số 5 Lê Duẩn, để khi các bộ vào làm việc phía Nam có chỗ nghỉ và làm việc. Số nhà, đất còn lại chuyển hết thành tài sản công (công sản), giao cho bộ có chức năng quản lý, sử dụng có hiệu quả nhất cho nhu cầu ngân sách hoặc cho quĩ dự trữ quốc gia.

                        Thực hiện chủ trương này, năm 1995, 1996 Thủ tướng Chính phủ đã giao cho một nhóm liên bộ điều tra, kê khai lại toàn bộ nhà, đất của các cơ quan này. Kết quả là một con số khổng lồ: diện tích chính 6.317.161m2, trong đó 311 biệt thự, 1.244 nhà phố, 178 cao ốc (số liệu năm 1995)... và hầu hết các trụ sở đều ở vị trí đắc địa. Nhiều bộ đã sát nhập từ 2, 3 đến 5 bộ (như Bộ NN&PTNT). Chủ trương này đã xúc tiến thực hiện và chuẩn bị đến 1998 (xây cao ốc số 5 Lê Duẩn đã xong phần khung nhà, phòng ốc về cơ bản). Sau đó đã có sự thay đổi, giữ nguyên cơ sở 2 của các bộ, cao ốc số 5 Lê Duẩn đã giao lại cho Tổng công ty Dầu khí làm trụ sở. Dự kiến hai năm sau hoàn thành, đến nay đã tám năm vẫn chưa thấy đưa vào sử dụng được - thêm một lãng phí nữa (tôi xin nói vào một dịp khác).

                        Những kết quả điều tra này có thể tìm ngay được từ các bộ và bảng tổng hợp cũng có sẵn ở Văn phòng Chính phủ nên không mất nhiều thời gian tìm kiếm. Thực hiện chương trình hành động Chính phủ đã đề ra, đề nghị Ban chỉ đạo T.Ư về phòng chống tham nhũng, lãng phí yêu cầu các bộ, ngành báo cáo ngay những số liệu được cập nhật trong 10 năm trở lại đây cũng như thực trạng hiện nay ra sao. Chúng ta sẽ thấy sự lãng phí tới mức nào và Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cần có biện pháp thích đáng gì phù hợp để chấm dứt sự lãng phí kéo dài này, tăng thêm nguồn cho ngân quĩ quốc gia. Được vậy, dù có chậm, cũng là tấm gương cho bên dưới, cho cả nước.      
                        Sưu tầm từ:
                        http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/9842/default.aspx

                        #27
                          venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:42:12 (permalink)
                          NGUYÊN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT:
                           PHẢI KHEN THƯỞNG, CHỨ SAO LẠI BẮT NẠT DÂN!







                          Đàn hổ nuôi ở Bình Dương
                          Việc nuôi hổ của người dân ở Bình Dương và việc kiến nghị tịch thu toàn bộ số hổ này đã gây ra nhiều tranh cãi và ý kiến trái ngược nhau. Xin tổng hợp một số ý kiến chính: của Bộ và Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), của người dân nuôi hổ và của nguyên Thủ tướng Võ văn Kiệt đã đăng trên báo Thanh niên.



                          Bộ NN&PTNT: Đề nghị tịch thu đàn hổ để "giao lại cho tổ chức, cá nhân đang nuôi"

                          Hôm qua, Bộ NN&PTNT đã tổ chức Hội nghị liên ngành với đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện KSNDTC, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, UBND tỉnh Bình Dương để "bàn biện pháp xử lý hổ nuôi nhốt tại tỉnh Bình Dương". Theo thông cáo báo chí của Cục Kiểm lâm thì:

                          "...các đại biểu tham dự đã thống nhất ý kiến đề xuất với Thủ tướng Chính phủ xem xét giải quyết như sau:

                          1. Khẳng định việc mua và nuôi nhốt hổ của các tổ chức, cá nhân tại tỉnh Bình Dương là vi phạm các quy định về quản lý động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm của pháp luật Việt Nam và không phù hợp với Công ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

                          2. Nhằm đảm bảo việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác bảo tồn và phát triển theo đúng các quy định của pháp luật, cần tịch thu toàn bộ số hổ không có nguồn gốc hợp pháp để giao cho các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nuôi, chăm sóc vì mục đích bảo tồn. Trước mắt, giao cho các tổ chức, cá nhân hiện đang nuôi giữ số hổ này tiếp tục chăm sóc. Cục Kiểm lâm chỉ đạo việc tổ chức cho các chủ hộ này đăng ký trại nuôi theo quy định của pháp luật, gắn chíp điện tử và lập hồ sơ quản lý toàn bộ số hổ đã tịch thu.

                          3. Nếu các tổ chức, cá nhân không thực hiện các điều kiện theo quy định của pháp luật, thì giao cho tổ chức khác có chức năng nuôi bảo tồn, phát triển phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, quan hệ quốc tế theo quy định hiện hành của Nhà nước".

                          Người dân nuôi hổ: Tôi không vi phạm pháp luật. Nếu bị qui kết, sẽ đi tìm công lý đến cùng

                          Tại buổi gặp mặt Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát, ông Ngô Duy Tân, người đang nuôi một đàn hổ đã đọc một bức thư kiến nghị. Nội dung có những ý chính như sau:

                          "...Vào ngày 19.3.2007, ông Hà Công Tuấn, Cục trưởng Cục Kiểm lâm đã có phát biểu trên Đài THVN với nội dung buộc tội tôi vi phạm pháp luật: "Ông Tân đã nuôi hổ sinh sản và sinh sản nhiều lần. Đấy là yếu tố tình tiết giảm nhẹ. Không thể nói đấy là thay cho việc không vi phạm pháp luật"... Tuyên bố trên đã có tác động rất lớn tới gia đình tôi và gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn về kinh tế cho doanh nghiệp mà tôi đang làm chủ cũng như cho thương hiệu của công ty chúng tôi: con cái đi học bị bạn bè trêu chọc là ba nuôi hổ vi phạm pháp luật; các doanh nghiệp trong và ngoài nước tạm thời ngừng sự hợp tác vì họ nghe thấy trên phương tiện truyền thông đại chúng là tôi vi phạm pháp luật. Tôi kiến nghị Bộ trưởng hãy yêu cầu ông Hà Công Tuấn: Nếu thấy tôi thật sự vi phạm thì truy tố tôi ra tòa. Nếu không xin hãy rút lại lời cáo buộc và có lời xin lỗi chính thức đến tôi trên các phương tiện truyền thông đại chúng... Nếu thư kiến nghị này không nhận được hồi âm, tôi sẽ khởi kiện vụ việc này ra tòa với lý do ông Hà Công Tuấn đã vu khống và xúc phạm danh dự công dân".

                          Bộ trưởng NN&PTNT: Tịch thu để làm rõ nguồn gốc

                          Trong khi đó, tối qua, Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát đã đến thăm vườn nuôi hổ của ông Ngô Duy Tân ở Bình Dương để "kiểm tra tình hình thực tế". Được ông Ngô Duy Tân hướng dẫn tham quan một vòng trại hổ, nhìn đàn hổ mạnh khỏe luôn chạy theo bước chân người, ông Cao Đức Phát luôn miệng khen: "Hổ tốt quá!". Thậm chí Bộ trưởng còn vào tận chuồng hổ để bế tận tay con hổ con đang bú sữa mẹ. Sau khi Bộ trưởng quay lại trong nhà, ông có vẻ ngạc nhiên khi biết ông Tân vẫn thả 2 con hổ - một con một tháng tuổi và con còn lại hai tháng tuổi - đi lại tự do và vui đùa với tất cả mọi người như hai chú chó con nghịch ngợm. Ông Phát đã bế con hổ hai tháng tuổi trên tay với vẻ rạng rỡ đầy thiện cảm. Dành nhiều thời gian tham quan và lắng nghe ông Tân trình bày nguyện vọng, nhưng ông lại dành rất ít thời gian để trả lời câu hỏi của các phóng viên.

                          - Thưa Bộ trưởng, tại sao lại có quyết định tịch thu đàn hổ ở đây?

                          - Chúng tôi dự định tịch thu để làm rõ nguồn gốc.

                          - Ông Ngô Duy Tân đã cứu sống 5 con hổ sắp chết, tận tâm nuôi dưỡng và không hề tính chuyện kinh doanh mua bán, tại sao Bộ vẫn quyết định quy kết ông Ngô Duy Tân là vi phạm pháp luật?

                          - Chúng tôi không nói toàn bộ quá trình từ lúc ông Tân cứu hổ đến lúc cho sinh sản là vi phạm pháp luật, nhưng trong toàn bộ câu chuyện này có một vài tình tiết có dấu hiệu vi phạm quy định pháp luật trong nước và quốc tế nên anh em có báo cáo Bộ NN&PTNT. Việc xác định ông Tân có vi phạm pháp luật hay không, phải do nhiều cơ quan chức năng điều tra và kết luận chứ không phải chỉ riêng Bộ NN&PTNT.

                          - Trong cuộc họp ngày 22.3, Bộ vẫn kiến nghị tịch thu hổ và đã đưa ra giải pháp trước mắt vẫn giao cho các hộ đang nuôi hổ được tiếp tục nuôi. Vậy còn về lâu dài thì như thế nào? Có phải giao thì vẫn giao, nhưng Bộ muốn tịch thu lúc nào thì tịch thu?

                          - Điều đó không có nghĩa như vậy.

                          - Vậy nó có nghĩa như thế nào?

                          - Sẽ có một văn bản pháp lý quy định rõ ràng hơn về việc này. Về lâu dài thì các con hổ đời F1 sẽ được nuôi dưỡng cẩn thận cho đến khi cơ quan chức năng xác định những con hổ này chết tự nhiên. Các cá thể từ đời F2 trở đi sẽ thuộc về sở hữu của người nuôi, hoàn toàn có thể sử dụng, mua bán trong nước và quốc tế, giống như trường hợp gấu và cá sấu. Cũng sẽ có giải pháp hợp tình hợp lý thôi. Việc xác định thế hệ F1, F2 sẽ có các biện pháp khoa học cụ thể.

                          -Hiện nay, nếu một người dân bình thường muốn nuôi hổ thì sao?
                          - Hoàn toàn có thể, nếu nuôi hổ từ thế hệ F2 trở đi.

                          Mặc dù vẫn còn rất nhiều câu hỏi bức xúc dành cho Bộ trưởng về tình trạng sắp tới vẫn chưa có gì rõ ràng của đàn hổ, vẫn còn "chờ đợi và phụ thuộc vào một số quy định mới", thì Bộ trưởng đã cáo từ.

                          Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Phải khen thưởng, chứ sao lại bắt nạt dân!
                          Rất bức xúc trước thông tin Bộ NN&PTNT đề nghị tịch thu đàn hổ nuôi của dân ở Bình Dương, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói :

                          - Tịch thu đàn hổ nuôi của dân là hết sức vô lý. Động vật hoang dã, đặc biệt là động vật quý hiếm, một mặt phải hết sức nghiêm khắc đối với việc săn bắt và tiêu dùng, nhưng mặt khác phải khuyến khích rộng rãi nhân dân nuôi dưỡng chúng. Muốn chúng tồn tại và phát triển, phải khuyến khích người dân nuôi chúng, chăm sóc chúng. Cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước phải hướng dẫn, giúp đỡ dân, để làm sao chúng sinh sôi nảy nở vừa để bảo đảm an toàn cho người xung quanh. Đối với những việc sai trái, như việc nuôi gấu vì lợi ích thiển cận, mà bắt ép gấu để lấy mật quá nhiều, quá sức chịu đựng của nó, làm cho nó kiệt sức đi, việc này không thể chấp nhận được. Còn người ta nuôi với tất cả tình cảm, trách nhiệm để bảo tồn và phát triển động vật quý hiếm thì phải khuyến khích, phải giúp đỡ người ta. Sợ nhất là người ta không nuôi, sao lại đòi tịch thu khi người ta nuôi tốt!

                          - Ông có ý kiến gì về đàn hổ của ông Ngô Duy Tân và một số gia đình ở Bình Dương?

                          - Trường hợp này tôi có theo dõi. Từ 5 con hổ bệnh tật, người ta mua về, cứu chữa, chăm sóc, rồi phát triển thành cả bầy hổ. Người ta phải tốn kém, trách nhiệm lắm mới làm được, Nhà nước đâu có làm nổi chuyện này. Từ trước tới nay chưa bao giờ có ai làm tốt như thế, chưa bao giờ có chuồng trại an toàn như thế, chăm sóc tốt như thế, sinh sôi nảy nở nhiều như thế. Và người ta có bẩm báo đàng hoàng với chính quyền địa phương, được chính quyền địa phương khuyến khích. Rất tiếc vừa rồi chính quyền địa phương đã không lên tiếng bảo vệ. Người ta nuôi có hợp pháp không? Hợp pháp chứ! Nuôi công khai minh bạch. Tôi theo dõi báo chí nên biết việc này và chính tôi đã đến thăm. Tôi thấy hết sức thích thú. Các hãng tin nước ngoài cũng đến thăm, họ cũng cho đó là điều chưa từng có.

                          - Thưa ông, mặc dù Nghị định số 32 (ra ngày 30.3.2006) của Chính phủ khẳng định "Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư quản lý, bảo vệ và phát triển thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm", nghĩa là việc nuôi hổ của ông Tân và các gia đình ở Bình Dương là không vi phạm pháp luật. Nhưng Bộ NN&PTNT vẫn đề nghị tịch thu. Và mới đây nhất, ngày 21.3, Cục Kiểm lâm vẫn cho rằng các gia đình ở Bình Dương đã "gây, nuôi hổ không có nguồn gốc hợp pháp" và khẳng định "sẽ xử lý nghiêm"?

                          - Họ vi phạm cái gì mà xử lý? Họ mua những con hổ ốm yếu, họ đã báo với anh. Cơ quan quản lý nói không rõ nguồn gốc, có nhà khoa học nào đó cũng nói không rõ nguồn gốc, đó là nói theo sách vở. Truy ra nguồn gốc là việc của anh, không phải là việc của dân, người dân chỉ biết bồng lên những con hổ ốm yếu để cứu chữa nó. Họ đã báo với chính quyền địa phương, chính quyền địa phương cũng là nhà nước chứ ! Họ đã nuôi tốt như vậy, trước hết phải khen thưởng họ chứ sao lại có chuyện bắt nạt người ta? Chính quyền của dân sao kỳ lạ vậy ! Công lao người ta như thế, người ta làm điều ích nước lợi dân như thế, cơ quan Nhà nước phải có đạo lý với dân, lẽ ra phải phát hiện đây là nhân tố mới, đáng trân trọng, đáng biểu dương khuyến khích, sao lại cho người ta là phi pháp?

                          - Nhưng người ta vẫn viện dẫn luật pháp...

                          - Tôi rất hoan nghênh báo chí đã phản ứng mạnh mẽ chuyện này. Nếu không có báo chí chắc đàn hổ này đã bị tịch thu rồi, còn bắt tội người ta nữa. Hãy nhìn những con hổ trong vườn thú của ta, con nào cũng ốm nheo ốm nhách. Hôm nay tôi đọc báo thấy con hổ tịch thu đem về Sóc Sơn nuôi, bữa nay cũng không ra gì cả, lông rụng tả tơi, không còn là hổ nữa. Hãy đối chiếu những con hổ đó với những con hổ dân nuôi để thấy cái công của dân. Người ta đã trình thưa đàng hoàng, đã tôn trọng luật pháp. Nhưng giả sử người ta không xin phép,  giả sử người ta làm không đúng đi chăng nữa thì khi họ làm tốt như vậy cơ quan Nhà nước cũng phải khen, rồi nhắc nhở, hướng dẫn, giúp đỡ người ta làm cho đúng. Trong trường hợp luật pháp chưa quy định đầy đủ hoặc không rõ ràng thì phải bổ sung cho đầy đủ, vì việc này dân làm trong thực tế là bảo tồn và phát triển được đàn hổ và bảo đảm an toàn. Theo tôi, đây là trường hợp điển hình, cần nghiên cứu, tổng kết và nhân rộng, nếu luật pháp thiếu thì bổ sung. Quản lý Nhà nước mà viện vào những điều chưa hợp lý của luật pháp để truy bức dân là không có đạo lý. Tôi xin lưu ý, trường hợp này hoàn toàn khác về bản chất với những trường hợp vi phạm đất đai, xâm phạm lợi ích công rồi cho hợp pháp hóa. Trường hợp này là người dân làm lợi cho đất nước. Người ta nuôi hổ rất hay, hay không thể tưởng tượng nổi.

                          - Mấy ngày qua báo chí lên tiếng rất nhiều, nhưng các cơ quan có trách nhiệm vẫn giữ nguyên ý định tịch thu và họ đã đưa ra các phương án giải quyết... Họ vẫn tịch thu thì làm thế nào, thưa ông?

                          - Tôi chờ xem mấy ổng sẽ làm gì. Các phương án mà Cục Kiểm lâm đưa ra không có phương án nào dân chấp nhận cả. Chính phủ nên ngăn chặn việc tịch thu đàn hổ và tuyên dương những người dân nuôi hổ. Tôi muốn viết thư cho cả Quốc hội nữa. Rõ ràng những người dân này đã cứu những con hổ và đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc, công sức để phát triển được cả đàn hổ. Luật pháp nếu chưa đủ thì phải bổ sung, rồi hướng dẫn, giúp đỡ dân. Tôi nghĩ rằng luật pháp cũng phải tạo điều kiện để nhân ra, để những con hổ nuôi thành công được chia sẻ cho những người khác cùng nuôi, với những quy định an toàn nghiêm ngặt. Người nuôi hổ đã đầu tư rất tốn kém để bảo tồn và phát triển đàn hổ, luật pháp còn cần tạo điều kiện cho họ thu hồi vốn đã bỏ ra nữa. Cái gì dân làm được phải cho dân làm, phải khuyến khích, cổ vũ dân làm và phải tôn vinh những người làm tốt.





                          Sưu tầm từ:
                          http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/17061/default.aspx



                          #28
                            venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:53:56 (permalink)
                            QUỐC TANG TIỄN ĐƯA NGUYÊN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT





                            Một người con của đất Việt.
                            VIT- Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt do tuổi cao, bệnh nặng đã từ trần hồi 7g40 ngày 11-6-2008, thọ 86 tuổi. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ ông với nghi thức Quốc tang trong hai ngày: 14 và 15-6-2008.








                            Lễ viếng, lễ truy điệu và lễ an táng đồng chí Võ Văn Kiệt
                            Tang lễ đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang.
                            Linh cữu đồng chí Võ Văn Kiệt quàn tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM.
                            Lễ viếng đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM, bắt đầu từ 8 giờ, ngày 14-6-2008 đến 8 giờ 30 phút, ngày 15-6-2008.
                            Lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất, TP.HCM, bắt đầu từ 9 giờ, ngày 15-6-2008.
                            Lễ an táng đồng chí Võ Văn Kiệt được tổ chức cùng ngày tại Nghĩa trang TP.HCM.
                            Cùng thời gian tổ chức lễ viếng và lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại TP.HCM sẽ tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, số 11 Lê Hồng Phong, Ba Đình, Hà Nội và tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.


                            BAN LỄ TANG


                            Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam sẽ tường thuật trực tiếp lễ truy điệu và lễ an tang đồng chí Võ Văn Kiệt tại TP.HCM.
                            Trong hai ngày Quốc tang (ngày 14 và ngày 15-6-2008), các công sở các nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng các hoạt động vui chơi giải trí.


                            Tiểu sử tóm tắt nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt

                            Sinh năm 1922 tại Cửu Long (nay là xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long), tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi (1938), vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tên khai sinh là Phan Văn Hòa) thuộc thế hệ những người thanh niên khởi nghĩa giành chính quyền trong tay người Pháp từ 1940. Ông đã là bí thư chi bộ, huyện ủy viên và tham gia khởi nghĩa Nam kỳ ở Vũng Liêm.
                            Thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động trên địa bàn Nam bộ với bí danh Sáu Dân: Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam bộ từ 1945; Tỉnh ủy viên, Ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy Rạch Giá, phó bí thư rồi bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu. Từ 1955, ông là Xứ ủy viên, phó bí thư Liên tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư khu ủy T4 (Sài Gòn - Gia Định), Bí thư khu ủy khu 9, Ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam.
                            Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, trong Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, ông được phân công phụ trách tiếp quản thành phố.
                            Sau 30-4-1975, ông giữ chức Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP.HCM rồi làm Bí thư Thành ủy TP.HCM.
                            Ông nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa XHCN VN tháng 8-1991, lúc con đường đổi mới đã mở ra hơn 5 năm. Ông được bầu làm Thủ tướng nước Cộng hòa XHCN VN tại kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa IX (1992-1997).
                            Từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001, ông nhận nhiệm vụ Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
                            Ông đã được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tặng Huân chương Sao Vàng và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

                            Sưu tầm từ:
                            http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/45283/default.aspx
                            #29
                              venus4t.vns_hnu 14.06.2008 20:56:17 (permalink)
                              LỆ NGOÀI TRỜI, LỆ TRONG NGƯỜI THỔN THỨC!







                              8g30 sáng hôm nay (14/6), lễ viếng cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới chính thức bắt đầu. Nhưng buổi chiều 13/6, hàng trăm người dân đã đổ đến Dinh Thống Nhất, nơi đặt linh cữu của ông để bày tỏ lòng thương tiếc.



                              Hơn 14h chiều 13/6, dòng người đổ về trước cổng hội trường Thống Nhất ngày một đông. Những đoàn người lặng lẽ nối đuôi nhau tiến về nơi đặt linh cữu của cố Thủ Tướng. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi mắt của người thân, đồng đội của “chú Sáu Dân” (tên thân mật của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt).

                              Dời linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ bệnh viện Thống Nhất về hội trường Thống Nhất. Ảnh: Tấn Thuấn.

                              Mắt rơm rớm lệ, giọng run run, bà Phan Thị Trinh (thuộc nhóm Phụ nữ Cứu quốc thời kháng chiến chống Pháp) đọc cho chồng - ông Phạm Quang (ba mẹ ruột của Chủ tịch HĐND TP.HCM Phạm Phương Thảo) viết vào sổ tang những dòng thơ đầy hoài niệm: “Tây Nam Bộ mất thêm người anh lớn/Suốt hai ngày mưa tầm tã tuôn rơi/Lệ ngoài trời lệ trong người thổn thức/Chị em tôi thương tiếc anh Sáu ơi!...”.   
                              Gia đình Chủ tịch HĐND TP.HCM viết vào sổ tang những dòng hoài niệm đầy thổn thức. Ảnh: Tấn Thuấn. 

                              Ngoài cổng Dinh Thống Nhất, hòa lẫn vào những dòng người đang chờ đến lượt vào viếng chú Sáu Dân, ông Nguyễn Xuân Lập (nguyên chuyên viên UBND TP.HCM, Chủ tịch Liên đoàn quần vợt TP.HCM, Phó Chủ tịch Liên đoàn quần vợt VN) thổn thức kể lại kỷ niệm: “Chúng tôi biết ông Sáu Dân và có mối quan hệ rất thân tình. Chúng tôi rất bàng hoàng xúc động khi nghe tin ông mất. Trước đây tôi làm bên ủy ban, thời kỳ đó, ông Sáu là chủ tịch, rồi bí thư”. 
                              Ông Lập kể: “Thời ấy, tôi là Chủ tịch Liên đoàn quần vợt. Ông Sáu là người rất hỗ trợ ủng hộ chúng tôi trong quá trình hoạt động. Khi thành lập ban chấp hành, giai đoạn đầu, ông Sáu thường đến tham dự và chỉ đạo Liên đoàn quần vợt tụi tôi”- ông Lập nói. 
                              Những kỷ niệm đời thường với Chú Sáu Dân
                              Ngượng ngùng trong bộ com lê, cà vạt thẳng nếp, ông Nguyễn Văn Thiện (78 tuổi, xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) cho biết: “Chị của tôi là sui gia với ông Kiệt, nên việc đi lại giữa hai gia đình rất thân tình”. Bằng chất giọng mộc mạc của người nông dân Nam Bộ, ông Thiện hồ hởi: “Nhân dân ca tụng ổng ở chỗ ổng dám đổi mới. Ổng bình dân lắm. Ví như ổng gặp đám công nhân vỗ vai, bắt tay rất tự nhiên”.
                              Linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
                              Ông Thiện nói tiếp: “Chú Sáu Dân là người biết thương dân. Ông có nói chuyện là đề cập đến đời sống của đồng bào, của dân chứ không nói đến chuyện cá nhân. Về quê coi, ông đâu làm nhà cửa gì quá thể đâu. Đơn giản như nhà thường vậy, nhiều khi còn thua nhà dân. Không như người ta làm chuyện "se xua", lớn lao cho người khác xem, ông không có. Ông không cần vụ đó, ông lo cho dân thôi”.  
                              Có mặt trong dòng người đưa tiễn, NSND Trà Giang bày tỏ cảm nghĩ: “Tôi rất đột ngột, không nghĩ bác ra đi sớm như thế. Khi tôi về thăm quê hương Quảng Ngãi, người dân ở đây rất biết ơn bác khi bác quyết định cho xây dựng Khu công nghiệp Dung Quất. Người dân biết ơn bác vì nhờ bác mà họ có công ăn việc làm”. 
                              Đạo diễn Lê Văn Duy, Giám đốc hãng phim Dương Lệ Chi cho biết: Chú Sáu Dân rất yêu thương anh em văn nghệ sĩ. “Tuổi của ông đáng bậc cha chú nhưng ông nói cứ gọi ông là anh. Giới văn nghệ sĩ chúng tôi rất thường đến nhà anh Sáu chơi. Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đến nhà anh Sáu chơi hàng tháng và nói chuyện vui vẻ như anh em trong nhà. Anh Sáu là mạnh thường quân đối với anh em nghệ sĩ. Anh động viên văn nghệ sĩ viết, gợi ý cho anh em nghệ sĩ sáng tác”. 

                              Linh cữu cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt tại hội trường Thống Nhất. Ảnh: Tấn Thuấn. 
                              Đạo diễn Lê Văn Duy cho biết thêm, bài hát “Em còn nhớ hay em đã quên” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là do ông Sáu Dân gợi ý. Mục đích bài viết là kêu gọi trí thức ở lại thành phố. “Hiếm thấy người lãnh đạo nào gần gũi, thân tình như ông Võ Văn Kiệt”. 
                              Những kỷ niệm đối với Chú Sáu Dân rất đời thường, mộc mạc. Người dân không chỉ nhớ đến ông như một trong những lãnh đạo có tư duy đổi mới mà còn như một người lãnh đạo hết mực vì nước vì dân. 

                              Sưu tầm từ:
                              http://vitinfo.com.vn/Muctin/CTXH/45377/default.aspx
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 6 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 76 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9