HÃY TRAO ĐỔI VỚI MÌNH VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐI CÁC BẠN!
Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 5 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 76 bài trong đề mục
venus4t.vns_hnu 04.09.2008 00:32:19 (permalink)

Trích đoạn: ss1037ia

Tôi có chút suy tư.Rằng nói về nguồn gốc dâ Việt ta mà đề cập đến hai miền Trung và Nam thì hơi gượng gạo.  Lí do:
Miền Trung chỉ có trong bảng đồ nước Việt sau khi ta xóa số đất nước Chiêm Thành và miền Nam được sát nhập sau khi ta chiếm của người Miên.  Nếu tôi có lộng ngôn xin các bạn miển tội dùm.  Nhưng lịch sử là ván đề giáo dục hậu thế.  Chúng ta nên ngay thẵng.
Thành thật cám ơn.


Cám ơn ss 1037ia nhé!
        Thực ra thắc mắc của ss đáng ra ND phải trả lời ngay nhưng vì...rùi ND sẽ trả lời sau khi post cho đầy đủ vấn đề này đã nghen ss!  Chắc chắn rằng những giải đáp của ND sẽ phần nào giúp ss cũng như các anh chị và các bạn iu sử dân tộc giải quyết được vấn đề ss đưa ra! Cám ơn ss nhìu nhìu nhé!


#61
    song hiệp khách 08.09.2008 08:35:08 (permalink)
    topic rất hay, cảm ơn cô chủ đã dầy công tổng hợp! chúc cô luôn tiến bộ trên đường học vấn, nếu rảnh thời gian, cô cố gắng nghiên cứu thêm các tư liệu của các học giả nước ngoài( nguyên bản) để tư liệu thêm phong phú nha cô!
    #62
      venus4t.vns_hnu 11.09.2008 23:33:21 (permalink)
      (Tiếp)


              Từ những thành tựu đạt được do biết đến nghề nông gắn liền với những chiếc cuốc đá, cư dân Hoà Bình - Bắc Sơn tiếp tục mày mò, tích luỹ và cải tiến công cụ lao động phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó mà trên phạm vi lãnh thổ nước ta đã có nhiều bộ lạc sinh sống với những hoạt động kinh tế phong phú, đa dạng. Khắp các địa phương trên lãnh thổ đất nước chúng ta, các nhà khoa học khảo cổ đã phát hiện ra các di chỉ chứng minh điều này, như: Cò Lằm (Sơn La), Ba Xã, Mai Pha (Lạng Sơn), Cái Bèo (Cát Bà - Hải Phòng), Bái Tử Long (Quảng Ninh), Gò Trũng (Hậu Lộc – Thanh Hoá), Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hoá), Trại Ối (Quỳnh Lưu - Nghệ An), Rú Ta (Diễn Châu - Nghệ An), Bãi Phôi Phối (Nghi Xuân – Hà Tĩnh), Cồn Lôi Mốt (Thạch Hà – Hà Tĩnh), Bàu Tró, Đồng Lê (Quảng Bình), đảo Bích Đầm (Khánh Hoà), Trà Dôn (Gia Lai), Buôn Triết, Đraixi (Đắc Lắc), Cầu Sắt (Đồng Nai) …


              Và vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II TCN - tức cách ngày nay khoảng trên 4000 năm – cư dân nguyên thuỷ bước vào một giai đoạn phát triển cao hơn trước đó là nền văn hoá Phùng Nguyên. Nền văn hoá Phùng Nguyên được đặt theo tên di chỉ khảo cổ học đầu tiên phát hiện ra một nền văn hoá hậu kỳ đồ đá mới và sơ kỳ đồ đồng ở Việt Nam.  



              Vào giai đoạn này, cư dân Việt cổ đã tiến xuống chiếm lĩnh vùng miền núi, trung du và trải theo lưu vực các con sông lớn. Họ chính là người phát hiện ra đồng và kỹ thuật chế tạo công cụ bằng đồng đầu tiên ở nước ta. Có thể nói, ở thời kỳ này, người Phùng Nguyên đã đạt đến độ cao nhất về kỹ thuật chế tác đá. Bên cạnh đó, kỹ thuật làm đồ gốm rất phát triển: được làm bằng bàn xoay, độ nung cao, kiểu dáng đẹp hơn trước rất nhiều với những hoa văn đặc trưng hình chữ “S”, gạch chéo, gạch hai đường. Đặc biệt, họ đã phát hiện ra nguyên liệu đồng và sử dụng nó vào chế tạo công cụ.


              Tuy nhiên cũng cần phải nói, cư dân Phùng Nguyên mới chỉ bước đầu mày mò tìm hiểu nên công cụ lao động được chế tác từ kim loại này không đáng kể. Các hiện vật khảo cổ phát hiện được ở hàng loạt các di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên (Phú Thọ), Hoa Lộc (Thanh Hoá), Đền Đồi (Nghệ An), Bến Đò, Phước Tân (Đồng Nai) … đã chứng minh điều đó. Tổng số công cụ bằng đồng mới chỉ chiếm chưa đầy 5% trong tổng số hiện vật được phát hiện. Song xét cho cùng thì đây là một bước tiến lớn của cư dân Việt cổ vì từ đó họ biết đến kỹ thuật luyện kim và một chất liệu khác ngoài đá phục vụ trong chế tác công cụ lao động hiệu quả hơn. Và, đây là điều khẳng định cư dân Phùng Nguyên sản xuất, chế tạo đồ đồng ngay trên đất nước ta chứ không phải từ nơi khác.


              Trên cơ sở của sự tiến bộ công cụ lao động, cư dân Phùng Nguyên hoạt động kinh tế rất đa dạng, đặc biệt nghề nông đã trở thành kinh tế chủ đạo. Tại hầu hết các di chỉ khảo cổ đề cập đến ở trên, các nhà khoa học đều tìm thấy nhiều dấu tích của nghề nông như lúa, phấn hoa lúa, hạt gạo cháy…hàng loạt các đồ nung các con giống và xương các động vật. Điều này chứng tỏ, người Việt cổ còn biết đến chăn nuôi gia súc và gia cầm và phát triển nghề chế tạo đồ gốm phục vụ cuộc sống.


              Cùng đồng thời với văn hoá Phùng Nguyên – Hoá Lộc còn có các nền văn hoá khác như văn hoá Đền Đồi (Nghệ An), văn hoá Phước Hội (thuộc lưu vực sông Đồng Nai)… Từ các di tích khảo cổ thuộc các nền văn hoá này, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhiều tầng văn hoá rộng hàng chục mét vuông cùng nhiều hiện vật. Điều này khẳng định chắc chắn rằng cư dân Phùng Nguyên đã sống định cư lâu lài ở những nơi cư trú.


              Sự xuất hiện nghề nông của người Việt cổ thời văn hoá Hoà Bình, đến thời Phùng Nguyên được tổ tiên chúng ta phát triển nhân rộng đã thúc đẩy quá trình chuyển biến trong đời sống xã hội một cách mau chóng hơn trước rất nhiều cả về đời sống vật chất và tinh thần làm và thay đổi cuộc sống của họ.


              Nhìn một cách tổng thể, trên các mặt của đời sống xã hội, chúng ta có thể thấy rằng: cư dân Phùng Nguyên – Hoá Lộc có nền văn hoá phát triển, sống định cư lâu dài, địa bàn cư trú được mở rộng trên một phạm vi rộng lớn từ lưu vực sông Hồng – Mã - Cả đến tận lưu vực sông Đồng Nai.


              Mặc dù vậy, do công cụ đồ đá vẫn còn chiếm ưu thế nên các bộ lạc Phùng Nguyên chưa vượt ra khỏi phạm trù xã hội công xã thị tộc để hình thành nhà nước. Song sự phát hiện ra đồng và kỹ thuật luyện đồng đã đánh dấu một bước chuyển mạnh mẽ của công xã thị tộc chuyển sang giai đoạn sau phát triển hơn: hình thành nhà nước. Chủ nhân văn hoá Phùng Nguyên chính là chủ nhân văn hoá sơ đồng và là cội nguồn của văn hoá sông Hồng sau đó. Và, cư dân Phùng Nguyên – Hoá Lộc đang ở trạng thái từ công xã thị tộc mẫu hệ vận động và chuyển sang giai đoạn phát triển mới là công xã thị tộc Phụ quyền, mở đầu cho thời kỳ văn hoá đồng thau ở Việt Nam.


      (còn tiếp)

      #63
        Đình Thế 14.12.2008 11:26:19 (permalink)
        Anh ĐT không biết làm sao phải trả lời em nên đành vào đây vậy, biết đâu em trở lại nơi này sẽ gặp được anh.
        Chúc Venus luôn học tốt, đừng buồn nhiều, hãy coi đó là chuỵện nhỏ. Chuyện nhỏ khg vượt qua làm sao làm chuyện lớn. mail của anh QGIOI@yahoo.com hẹn gặp em nhé!
        Thân mến!                 anh ĐT
        #64
          Minh Xuân 20.04.2009 22:47:36 (permalink)

          Trích đoạn: ss1037ia

          Tôi có chút suy tư.
          Rằng nói về nguồn gốc dâ Việt ta mà đề cập đến hai miền Trung và Nam thì hơi gượng gạo.  Lí do:
          Miền Trung chỉ có trong bảng đồ nước Việt sau khi ta xóa số đất nước Chiêm Thành và miền Nam được sát nhập sau khi ta chiếm của người Miên.  Nếu tôi có lộng ngôn xin các bạn miển tội dùm.  Nhưng lịch sử là ván đề giáo dục hậu thế.  Chúng ta nên ngay thẵng.
          Thành thật cám ơn.


          Chào Ngọc Diệp,
          Chủ đề hay thế này mà lâu không thấy có bài nào. Để Minh Xuân viết vài câu cho rôm rả.
           
          Đúng là có nhiều ý kiến cho rằng miền Trung (Nam Trung Bộ thì đúng hơn) và miền Nam không phải gốc Việt. Nghĩ như vậy phải xem thêm cả vùng Tây Bắc, vốn trước là vương quốc Bồn Man, đến đời Lý mới sát nhập vào Đại Việt. Tuy nhiên việc chiếm hay sát nhập những mảnh đất này là những việc về sau. Để xem những vùng này có dính dáng gì đến tộc Việt cần xem từ gốc, tức là thời trước khi có sử sách.
          Theo sự tích họ Hồng Bàng các vua Hùng khi lập nước đặt tên nước là Văn Lang. "Nước Văn lang bắc giáp hồ Động đình, Đông giáp Nam hải, tây giáp Ba thục và nam giáp nước Hồ tôn. Dòng giống Việt được hình thành từ đấy". Nếu vậy cương vực của nước Văn Lang khi đó có thể phía Bắc đến tận sông Dương Tử, phía Nam giáp Cămpuchia (Hồ tôn chỉ Biển Hồ). Tức là miền Trung và Nam Bộ hiện nay cũng nằm trong lãnh thổ của Văn Lang.
          Xét về mặt dân tộc học người Việt (Kinh) là người Nam Á, người Chăm thuộc chủng Nam Đảo, còn người Miên lại là chủng Nam Á. Vậy người Chăm từ đâu tới? Tại sao lại có một nhóm người Nam Đảo xen vào giữa 2 nhóm người Nam Á? Liệu người Chăm có phải có nguồn gốc di cư từ nơi khác đến hay không?
          Theo cuốn "Địa đàng ở phương Đông" (Stephen Oppenheimer) thì có khả năng người Chăm là một phần của dân Nam Đảo di cư từ Indonexia hay Philipin vào miền Trung Việt Nam trong thời kỳ của cơn đại hồng thủy cách đây 3000 năm. Như vậy người Chăm đâu phải là dân gốc bản xứ, và lịch sử Nam Trung Bộ phải có từ trước đó nữa.
          Văn hóa Chăm và Việt ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn. Ví dụ như ở nhiều ngôi đình cổ (như đình Thái Lạc) ở Bắc Bộ có họa tiết điêu khắc tiên cưỡi hạc hay vũ nữ Ápsara, vốn là đặc trưng của văn hóa Chăm. Vào thời đó không ít lần Chăm đánh chiếm được kinh đô Đại Việt và ngược lại, nên hiển nhiên giao lưu văn hóa và dân tộc rất sâu rộng. Người Việt bây giờ mang lẫn lộn cả dòng máu Nam Á và Nam Đảo, không tách biệt được. Không ít khi gặp trong cùng một gia đình anh tóc đen, thẳng (đặc điểm Nam Á) còn em lại tóc màu, xoăn (đặc điểm Nam Đảo).
          Sau cơn đại hồng thủy cuối cùng (3000-5000 năm trước) mực nước biển ở Đông Nam Á lúc bấy giờ cao hơn hiện nay khoảng 5m. Tức là cả đồng bằng Bắc bộ và Nam Bộ là một khu vực đầm lầy ngập nước. Vậy người Miên khai phá Nam Bộ cũng không thể từ trước được. Mãi đến đời chúa Nguyễn, Nam Bộ vẫn là mảnh đất hoang vu, phải di dân đến khai phá:
          Từ thủa mang gươm đi mở cõi
          Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long.
          Phần Tây Nguyên của miền Trung thì cũng rất gần với tộc Việt cả về chủng tộc (người Nam Á) lẫn tập quán. Văn hóa cồng chiêng có nguồn gốc từ trống đồng mà ra. Cây cột đâm trâu của Tây Nguyên cũng giống như cây nêu ngày Tết của người Việt, vốn là vật để đo bóng nắng, xem thời gian,...
          Về Tây Bắc (vương quốc Bồn Man) xưa là nơi dân chủ yếu là người Thái. Nhiều khả năng người Thái ở Tây Bắc là di cư từ Lưỡng Quảng tới khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Tây Hán diệt. Lịch sử cả Thái Lan và Lào đều ghi nhận nguồn gốc dân hai nước này là người Thái di cư đến từ địa phận Nam Trung Hoa. Nước Bồn Man xưa rõ ràng nằm trên đường di cư này và có thể là nơi trú chân đầu tiên của người Thái khi di cư.
          Nước Nam Việt của Triệu Đà có phải tộc Việt hay không chắc không ai thắc mắc. Nhà Triệu được xếp vào chính sử của Việt Nam từ lâu. Cương thổ của Nam Việt Triệu Đà cũng chỉ là một phần của nước Văn Lang xưa mà "phía Bắc tới Động Đình Hồ".
          Nơi khảo cổ người vượn cổ nhất của người Việt (và của cả vùng Đông Nam Á) là núi Đọ - Thanh Hóa. Tại sao người Việt lại chỉ phát triển lãnh thổ về phía Bắc mà không phát triển về phía Nam? Đúng hơn thì đây là 2 nhánh của cùng một một nguồn gốc. Tốc độ khai phá về phương Nam tính từ núi Đọ chắc cũng không chậm hơn tốc độ khai phá về phương Bắc. Nếu lấy núi Đọ làm tâm, lãnh thổ phía Bắc nếu phát triển đến tận sông Dương Tử thì lãnh thổ phía Nam của tộc người đó chắc chắn không ít hơn là tới Nam Bộ, tức là đúng với lãnh thổ của nước Văn Lang như nêu trên.
          Tóm lại, suy nghĩ kỹ về nguồn gốc xa xưa miền Trung, Tây Bắc và Nam Bộ Việt Nam hoàn toàn có khả năng chung một nguồn gốc dân tộc. Qua thời gian những nơi này bị tách ra thành các nước khác nhau. Vì thế việc sát nhập hay chiếm lĩnh vào thời kỳ có sử sách chỉ là việc làm về sau. Có thể coi những vùng này vẫn nằm trong một quốc gia thống nhất, cùng chung một lịch sử.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2009 02:22:00 bởi Minh Xuân >
          #65
            venus4t.vns_hnu 13.05.2009 17:37:14 (permalink)
            Kính gửi anh Minh Xuân và các anh chị, các bạn.

            ND không định tiếp tục topic này vì e ngại rằng nếu ND đưa ra quan điểm hay cách luận giải thêm nào đó về Lịch sử Việt Nam, đặc biệt thời đại cổ đại - thời đại kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng thì lại vi phạm đến nội quy của diễn đàn của VNTQ. Nhưng có bài viết của anh, ND xin mạo muội đưa ra thêm một vài quan niệm của ND khi nghiên cứu tìm hiểu lịch sử - văn hoá cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như sau:

            Thứ nhất, khi nghiên cứu về lịch sử của bất kỳ một dân tộc - quốc gia nào về thời cổ đại thì trước hết phải nghiên cứu trên khía cạnh địa - văn hoá - lịch sử chứ không nên nghiên cứu trên khía cạnh địa - chính trị - lịch sử.
            Tại sao ND lại suy nghĩ vậy?
            Vì đơn giản là, quá trình tiến hoá của loài người kéo dài hàng triệu năm.
            Từ giống vượn nhân hình Hominid đến Homo Habilis rồi phát triển thành Homo Erectus và cuối cùng là Homo Sapiens - tức người hiện đại ngày nay.
            và trải qua các cách thức tổ chức khác nhau.
            Từ bầy người nguyên thuỷ đến các hình thức tổ chức cao hơn là: thị tộc, bộ lạc. Hay theo cách nói của nhà dân tộc học nổi tiếng thế giới Moocgan, thì nhân loại trải qua các thời: Mông muội, Dã Man và Văn minh.
            Lúc này vấn đề dân tộc nhà nước chưa hình thành. Dân tộc và nhà nước chỉ hình thành khi con người ta nhận thức mình thuộc về một khối cộng đồng cùng ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán, đặc trưng lối sống, ... và cùng nhau xây dựng một nhà nước: Nhà nước cổ đại của các quốc gia thời cổ đại.
            Song trên thực tiễn có những cộng đồng người hình thành quốc gia lại muộn hơn rất nhiều so với các cộng đồng người khác nhưng quá trình hình thành dân tộc lại rất sớm. Đấy là dân tộc văn hoá chứ không phải dân tộc quốc gia.
            Và ngược lại, có những nhóm cộng đồng dân tộc vì lí do nào đó mà tách khỏi dân tộc mình để "thực dân" tìm nguồn sống mới và cùng các cộng đồng khác tạo nên một dân tộc - quốc gia mới.
            Những vấn đề này, ND không nói tới.

            Thứ hai, mỗi một dân tộc đều có địa bàn sinh sống ở những địa vực nhất định. Địa vực này không mấy khi trùng lắp với lãnh thổ quốc gia, kể cả từ thời phong kiến cho đến nay. Chính vì vậy mà, một dân tộc nhưng có thể có mặt ở nhiều quốc gia do quá trình phát triển với những biến động của lịch sử.

            Vì lẽ đó, khi nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc theo quan điểm "dân tộc quốc gia"  của đa số các nhà nghiên cứu hiện nay sẽ không tránh khỏi những thiếu xót nhất định.

            Thứ 3, theo ND, khi nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc hay lịch sử dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc thì nên nhìn nhận trên khía cạnh các dân tộc bao giờ trở thành một bộ phận trong một quốc gia, phản ứng, vị trí vai trò của các dân tộc trong một quốc gia trong lịch sử.

            Vấn đề tìm hiểu về nguồn cỗi của mỗi dân tộc hiện nay là cần phải được tổng hợp từ kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Riêng việc tìm hiểu dân tộc chúng ta, theo ND chỉ có thể giải quyết khi kết hợp thành tựu của các ngành: Khảo cổ học, văn hoá học, nhân chủng học, địa lý - địa chất học, Cổ sinh vật học, Sử học...

            Tuy nhiên kết quả nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc chúng ta cũng như các dân tộc khác trên thế giới đạt kết quả đúng đắn đến bao nhiêu cũng chỉ là tương đối chứ không thể chính xác tuyệt đối. Vì lẽ đó, ở mỗi một thời kỳ, thời đại mà việc tiếp cận đến các vấn đề của lịch sử khác nhau với những kết của, quan điểm khác nhau. Xét ở góc cạnh nào đó thì những thành tựu sử học đó đều đúng nhưng là đúng ở thời đại, thời kỳ hoặc giai đoạn đó. Càng về sau, chúng ta càng tiến gần đến sự thực lịch sử khách quan hơn vì có nhiều nguồn sử liệu mới, quan điểm mới tiến bộ hơn.
            _________________
            Vài điều nói lên suy nghĩ nhất thời của ND khi vào đọc bài của anh Minh Xuân nên chưa thể nói hết được suy nghĩ của ND về vấn đề này. Mong anh cùng các anh chị và các bạn thông cảm. Dù sao thì đây cũng chỉ là quan niệm riêng của ND mà thôi.

            ND rất cảm ơn anh Minh Xuân. Em đã đọc những bài tham khảo ở đường link anh send cho em và em rất vui mừng vì mình đọc được nhiều tư liệu quý cũng như các quan điểm, cách tiếp cận đến các vấn đề của văn hoá học và sử học như vậy. Em thật sự cám ơn anh nhé!

            Để khi nào thuận tiện (tức là thời cơ đến ấy), em sẽ send cho anh mấy bài mà em đã nghiên cứu. Theo sự gợi ý của anh, em sẽ thử nhìn nhận vấn đề theo cách đó xem sao.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2009 17:51:15 bởi venus4t.vns_hnu >
            #66
              Thanh Vân 15.05.2009 04:52:40 (permalink)

              Chào venus4t.vns_hnu

              Venus cho Thanh Vân góp thêm bài viết của nguồn gốc Việt nam, nhưng Thanh Vân đi sưu tầm về chứ không viết hay như Venus đâu nhé


              Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam





              " Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam, các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài đã từng đưa ra khá nhiều giả thuyết khác nhau. Có người cho rằng người Việt Nam gốc bản địa (H.Maspero, O.Jansé, Lê văn Siêu,...). Có người lại thấy rằng người Việt Nam gốc từ Trung Hoa (cổ sử Trung Hoa, L. Arousseau, Ðào Duy Anh...). Ðào Duy Anh viết " Người Lạc Việt từ đường biển và người Thái từ Quảng Tây và Vân Nam di cư đến Bắc Việt và vì có văn hóa cao hơn nên đồng hóa dần thổ dân Anhđônêdiêng". Có thuyết khẳng định người Việt vốn gốc từ vùng Tây Tạng (G. Coedès, H Kahlke, Bình Nguyên Lộc,...). Có người gắn vấn đề nguồn gốc người Việt với cư dân quần đảo Thái Bình Dương (L. Finot.). Gần đây, căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về sự hình thành và phân bố các chủng người trên trái đất, có thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời: a/ trong phạm vi của trung tâm loài người phía Ðông và b/ trong khu vực hình thành của đại chủng phương Nam. Trên nền những sự kiện trên, quá trình hình thành các Dân tộc Việt Nam có thể hình dung theo 3 giai đoạn:

              #67
                Thanh Vân 15.05.2009 04:53:59 (permalink)
                Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc chủng Mongoloid từ vùng Tây Tạng thiên di về phía Ðông Nam, tới vùng nay là Ðông Dương thì dừng lại. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng Úc), dẫn đến kết quả là sự hình thành chủng Indonésien (còn gọi là cổ Mã Lai), với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên toàn bộ địa bàn Ðông Nam Á cổ đại. Ðó là một vùng rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử, phía Tây tới bang Assam của Ấn Ðộ, phía Ðông tới quần đảo Philippin và phía Nam tới các hải đảo Inđônêsia (Nguyễn Ðình Khoa - Các Dân tộc ở miền Bắc Việt Nam - 1976).

                Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng gần 5.000 năm về trước), tại khu vực mà nay là Nam Trung Hoa và Bắc Ðông Dương (từ phía Nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà), trên cơ sở chuyển biến từ loại hình Indonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía Bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam-Á (Austroasiatique). Với chủng Nam-Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.

                Thời kỳ sau đó, chủng Nam Á được chia tách thành một loạt các chủng tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy "một trăm" (Bách) chỉ là một cách nói biểu trưng, nhưng đó thực sự là một cộng đồng cư dân hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt như Ðiền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Ðông Việt, Nam Việt, Lạc Việt (về mặt địa lý thì Ðiền Việt ở Vân Nam, Nam Việt ở Quảng Ðông, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam (theo Nguyễn Ðình Khoa) ), sinh sống khắp khu vực phía Nam sông Dương Tử cho đến tận Bắc Trung Bộ ngày nay, họp thành những khối cư dân lớn (mà ban đầu mỗi khối có một tiếng nói riêng) như Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các Dân tộc cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ), trong đó người Việt đã tách ra từ khối Việt-Mường chung vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (thế kỷ VII-VIII) (Nguyễn văn Tài - Góp thêm tài liệu cho việc đoán định thời điểm chia tách hai ngôn ngữ Việt và Mường- Tạp chí Dân tộc học số 3 -1978). Trong khi đó, ở phía Nam, dọc theo dải Trường Sơn, vẫn là địa bàn cư trú của người Indonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với cư dân các hải đảo. Ðó là tổ tiên của người Chàm, Raglai, Êđê, Giarai, Churu, v.v... Ngôn ngữ của khối người mà Chàm có thể xem là đại diện này (gọi là Nam Ðảo, Austronésien) cũng duy trì được nhiều nét tương đồng với ngôn ngữ của cư dân các hải đảo. Kết hợp các cứ liệu nhân chủng học (Nguyễn Ðình Khoa -1976; Viện DTH 1983) với các cứ liệu ngôn ngữ học (Ví dụ: Phạm Ðức Dương 1983; Hà văn Tấn 1993) có thể sơ bộ hình dung bức tranh về nguồn gốc các Dân tộc Ðông Nam Á. Như vậy người Việt và tuyệt đại các bộ phận các Dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonésien, chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất - một tính thống nhất trong sự đa dạng của con người và văn hóa Việt Nam và rộng hơn là toàn vùng Ðông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại luôn có tính thống nhất bộ phận: của người Việt và Mường, của người Việt-Mường và các Dân tộc cùng gốc Nam Á-Bách Việt...

                Về ý nghĩa của tộc danh Việt, lâu nay một số người thường dựa trên dạng Hán tự hiện đại giải thích rằng Việt nghĩa là chạy, vượt. Thực ra, chữ Việt trong Hán tự đã trải qua nhiều cách viết rất khác nhau - đây là một tên gọi có từ lâu đời (họ Việt thường, chủng Bách Việt được nhắc đến trong sử Bắc từ rất sớm). Theo Bình Nguyên Lộc: Việt vốn là tên gọi một loại công cụ kiêm vũ khí rất đặc thù của người (tiền) Việt cổ: cái rìu. Khảo cổ học đã tìm được ở khắp nơi trong địa bàn cư trú của người tiền Việt cổ rất nhiều loại rìu với các chất liệu khác nhau (đá, đồng, sắt)... Ðến đời Khổng Tử chữ Việt vẫn còn giữ được ký hiệu tượng hình cho cái rìu, ngoài ra còn được bổ sung thêm một nét đặc trưng quan trọng nữa là bộ mễ để chỉ dân trồng lúa (Kim Ðịnh-1970). Ngay cả chữ Việt hiện thời vẫn còn giữ được dấu vết của "cái rìu"... ( dẫn theo PGS.TS. Trần Ngọc Thêm - Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam- Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh - 1996 - từ trang 60 đến trang 66).
                #68
                  Thanh Vân 15.05.2009 04:54:50 (permalink)
                  2. Thời đại Hùng Vương

                  Việt Nam có lịch sử trên 4.000 năm, khởi
                  đầu là thời đại của các vua Hùng với nước Văn Lang hùng mạnh - thời đại sinh tụ và hình thành của Dân tộc Việt Nam. "Người thời đại Hùng Vương đã chế ra rất nhiều dụng cụ bằng đồng cần thiết cho đời sống của con người. Trong các dụng cụ này, chúng ta thấy có ấm đồng, bình đồng, âu đồng, chậu đồng, thố đồng, thạp đồng và trống Ðồng nổi tiếng" (Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê văn Lan, Nguyễn Ðồng Chi, Hoàng Hưng -Thời đại Hùng Vương - NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội -1973, dòng 14, trang 95), đồng thời "Vào thời đại đó đã xuất hiện trên đất nước ta một nền văn hóa khá cao, nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Nền văn hóa và văn minh đó đã góp phần xứng đáng vào nền văn minh cổ đại của loài người" (Thời đại Hùng Vương, dòng 14, trang 252) Thời Hùng Vương còn để lại tới ngày nay nhiều nhạc cụ là vật thật, và nhiều hình ảnh nhạc cụ khắc họa trên những di vật khác của thời ấy, bằng nhiều phương pháp ta có thể khôi phục những nét cơ bản của âm nhạc thời sơ sử ấy.
                  #69
                    Thanh Vân 15.05.2009 04:55:50 (permalink)
                    Làng Ðông Sơn (Thanh Hóa) từ 3.500 đến 2.000 năm trước đây có các hiện vật như Thố đồng, Bình đồng, Bát đồng, Trống đúc bằng đồng, Trống Ðồng là một thứ nhạc khí tiêu biểu và điển hình về nhiều mặt của thời Hùng Vương, đặc trưng của nó là một nhạc cụ gõ, khai thác tiếng vang của kim loại, có những bộ phận chứa đựng, cộng hưởng và truyền âm độc đáo với qui mô lớn, mà sự cấu tạo của những chiếc Trống Ðồng cổ nhất gồm 3 phần rõ rệt là sự phản ảnh tiêu biểu: mặt và tang trống phình ra thành một vòm chứa đựng âm thanh, cộng hưởng và truyền qua thân trống hình trụ thon lại và cuối cùng oà ra ngoài từ thân trống cho thấy rằng chức năng chính là tạo nên những âm thanh hùng vĩ. Nó chứng tỏ rằng vào thời đại các vua Hùng, tổ tiên Việt Nam đã có Trống với tư cách là một nhạc cụ.


                     Thực ra ở nhiều dân tộc trên thế giới, Trống là một trong những nhạc cụ nguyên thủy nhất, Trống Ðồng không chỉ có ở Việt Nam mà cả ở Trung Quốc, Mã Lai, Miến Ðiện. Theo lịch sử đất Việt từ sông Trường Giang trở xuống, Trống Ðồng thường xuất hiện ở các dân tộc làm nông nghiệp và được người xưa coi như hiện thân, như một mô phỏng của Thần Sấm, vị thần điều khiển mưa: mà mưa thì rất quan trọng với cây trồng. Với quan niệm như vậy, nên người xưa không xem cái Trống đơn thuần là một nhạc cụ, mà sự hiện diện của cái Trống như sự hiện diện của Thần Sấm. Tiếng Trống ngân lên như tiếng thần gầm gọi mưa về cho con người, từ những ý niệm đó biến cái Trống thành một nhạc cụ thiêng liêng, trong các xóm làng Việt Nam, người ta đánh trống khi có việc làng, việc tế tự, v..v... Trong tổng số 53 Trống Ðồng Ðông Sơn, với niên đại khoảng 2.500 - 3000 năm ứng với thời 1.000 năm trước Công nguyên, Trống Ðồng là một thứ Kim tự tháp, mặt trống vẽ hình tượng trưng mang ý nghĩa khoa học: điểm ở giữa của Trống đồng bao giờ cũng tượng trưng cho mặt trời, có loại 8 tia, 10 tia, 12 tia, 14 tia...


                    có quan hệ âm dương, mỗi trống có hoa văn, số vòng lẻ, mỗi vòng đều có kiểu khác nhau, có điều liên quan đến âm nhạc, được khắc trên mặt và tang Trống, có Trống khắc người nổi lên, có Trống khắc con cóc, về mặt âm nhạc có các hình khắc Khèn. Trống da cũng là nhạc cụ thời Hùng Vương, hình ảnh của nó được khắc họa trên Trống Ðồng, giống như Trống Bản và Trống Khẩu hiện đại. Trong sách sử Lê Thánh Tông: có hát Lý Liên, nền văn hoá Ðông Sơn có hát đối đáp giao duyên, trên Trống Ðồng có khắc hình hai người nam nữ, đối mặt nhau, chân bắt chéo. Căn cứ vào các hoa văn của Trống Ðồng Ngọc Lũ I, cho biết chính xác tổ tiên ta đã có nhạc cụ Trống Ðồng, Trống bịt da và Khèn. Về mặt âm nhạc, Trống Ðồng được các Dân tộc Việt Nam sử dụng với vai trò là một nhạc cụ trong suốt chiều dài lịch sử, điều này được ghi lại trong tất cả các cuốn sử sách Việt Nam và cả sách sử Trung Quốc. Trong khoa nghiên cứu lịch sử âm nhạc, Trống Ðồng còn là nhạc cụ có tính liên tục lịch sử được chế tạo tại chỗ, được sử dụng trong âm nhạc dân tộc từ thời lập quốc đến nay, Trống Ðồng là một biểu hiện của truyền thống văn hóa Việt Nam. (Tô Ngọc Thanh, Hồng Thao - Tìm hiểu âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam- Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội - 1986) .
                    #70
                      Thanh Vân 15.05.2009 04:56:48 (permalink)
                      Vào thế kỷ thứ VII, Lục Tuân, người đời Ðường, tác giả sách " Lĩnh biểu Lục dị" đã ghi chép" Người Giao Chỉ lấy quả bầu khô, cắm 13 cái ống có lưỡi gà vào mà thổi, tiếng nghe trong trẻo, hợp với luật lã, cái ấy gọi là cái Sinh", về mặt ngôn ngữ học, Khèn vốn là từ dùng để chỉ nhạc cụ Hơi, khi chơi phải dùng miệng mà thổi, người Hán phiên âm từ Khèn - kèn theo tiếng nói của họ là Sheng. Các nhà Nho Việt Nam lại phiên âm từ Sheng theo kiểu Hán-Việt, nên trong văn bản xưa dịch là cái Sinh. Sheng dịch thành Sinh, nhưng gốc chính là Khèn - Kèn. Khèn là một nhạc cụ chắc chắn có ở thời Hùng Vương, hình ảnh của Khèn chẳng những được khắc hoạ trên các Trống Ðồng, mà còn thấy trên các khối tượng tròn, tìm được ở nhiều nơi khác nhau (Hà Tây, Nam Hà, Hải Phòng, Thanh Hoá).


                      Có nhiều kiểu khèn khác nhau, qua sự phản ảnh của nghệ thuật tạo hình: có chiếc thuộc loại bầu dài, có chiếc thuộc loại bầu ngắn. Cũng qua phản ảnh của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương, có thể thấy nhiều trường hợp sử dụng khèn khác nhau như đệm cho múa, vừa thổi khèn vừa múa. Cồng Chiêng thời Hùng Vương cũng để lại hình ảnh trên Trống Ðồng, cũng trên hoa văn Trống Ðồng Ngọc Lũ I còn ghi khắc các hình sau: " Một mái nhà cong, có cọc chắn để dựng liếp. Trên các liếp có những hình tròn có chấm giữa, giữa hai liếp là cửa ra vào. Một người đứng ở cửa giơ hai tay sang hai bên liếp. Nhiều học giả cho rằng đây là cảnh đánh Chiêng. Trong một phần khác cũng ở vành hoa văn này, có người múa, tay nắm một vật mà các nhà nghiên cứu gọi là cái Chuông. Chuông nhạc là những nhạc khí tìm được nhiều trong các di chỉ và mộ táng thời Hùng Vương. Những chiếc nhỏ có quả lắc ở trong, thường thấy đi với nhau thành một chùm, từ hai đến 5 chiếc, kích thước khác nhau, độ trầm bổng khác nhau, xâu hoặc mắc vào các vòng đồng hoặc tấm đồng. Ðây là thứ nhạc cụ sử dụng theo hướng rung lắc để tạo âm thanh. Chẳng những nhạc cụ này đã có hiện vật, mà hình ảnh trung thành của nó cũng còn thấy thể hiện trên trống Ðồng, trong bộ quần áo ngày hội, người xưa vừa múa vừa gõ loại chuông này.

                      Như vậy với hoa văn Trống Ðồng Ngọc Lũ I, ta có thể hình dung khuôn mặt âm nhạc thời kỳ ấy như sau: có các nhạc cụ: Trống Ðồng, Chiêng Cồng, Chuông đồng, Trống mặt da, Khèn, các loại sáo gắn lưỡi gà một ống, hai ống, ngoài âm nhạc một bè đã có âm nhạc nhiều bè. Ngày nay chúng ta không có cách nào để biết xưa kia tổ tiên ta đã ca hát ra sao ? Ðôi nam nữ được khắc trên Trống Ðồng đã biểu hiện lối hát đối đáp giao duyên, căn cứ vào những qui luật phổ biến của âm nhạc, ta có thể ước đoán khá tin cậy: thông thường trước khi biết chế tạo các nhạc cụ, con người đã tiến hành âm nhạc bằng chính cái nhạc cụ có sẵn mà thiên nhiên phú cho họ là giọng hát. Ðồng thời với giọng hát, người cổ xưa còn có thể lấy que, gỗ đập vào một vật khác để tạo ra những nhịp điệu mà họ ưa thích, nhưng để có những nhạc cụ được chế tạo rất công phu như Trống Ðồng, hoặc có các nhạc cụ khác có quan hệ với nhau thành dàn như Chiêng, Cồng thì phải đợi đến khi nào con người có một ý thức và trình độ tư duy âm nhạc cao mới có thể có được. Người ta chưa từng thấy một dân tộc nào chỉ có nhạc cụ mà không có hát và ngược lại cũng có những dân tộc chỉ có hát mà lại không có nhạc cụ.
                      #71
                        Thanh Vân 15.05.2009 04:57:59 (permalink)
                        Theo Lê Tắc trong An Nam Chí Lược (viết khoảng thế kỷ XIII-XIV gồm 19 quyển do Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam-Viện Ðại học Huế ấn hành năm1961). Ở quyển đệ nhất: (trang 47, cột 1 từ dòng 9 đến dòng 16) có nhắc đến 12 nhạc khí: Trống cơm, Tiểu bạt, Tất tiêu, Tiểu quản, Ðại cốc, Sáo, Tiêu, Ðàn Cầm, Ðàn Tranh, Ðàn Tỳ Bà, Ðàn Thất huyền, Ðàn Song huyền, nguyên văn như sau: " Nhạc hữu phạn sĩ cổ, bổn Chiêm-Thành, thể viên trường, nghiên khí phạn niêm cổ diện trung, phách chi thanh lượng, hiệp Tất-lật, tiểu quản, tiểu bạt, đại cổ, danh vi đại nhạc... Cầm -Tranh, Tỳ bà, thất huyền, song huyền, sinh địch, tiêu quản, danh tiểu nhạc,... ".
                        Dịch: Về nhạc có cái Trống cơm, gốc Chiêm Thành, hình tròn, dài, có phết cơm giữa mặt trống, cùng với cái Phách, hợp với Tất lật...đại cổ gọi là Ðại nhạc...Tranh, Tỳ, Thất huyền... Sinh quản gọi là Tiểu nhạc.







                        #72
                          Thanh Vân 15.05.2009 04:59:16 (permalink)
                          Chùa Phật Tích (cách thủ đô Hà Nội 20km) có pho tượng đầu người mình chim bằng đá của thời Lý (1010-1225) đang vỗ Trống Phong Yêu, trên những phiến đá vuông mà xưa kia người ta dùng để làm bệ kê các cột chùa to lớn, 4 mặt cạnh của các phiến đá ấy có chạm nổi dàn nhạc gồm 10 người gồm: 2 người thổi kềnh, 1 người gõ Phách, 1 người kéo Nhị, một người thổi Sáo ngang, 1 người gảy đàn Tranh, 1 người đàn Tỳ Bà, 1 người thổi Tiêu, 1 người đánh Ðàn Nguyệt (hay Ðàn Tam), 1 người đánh Trống, như vậy từ 1.000 năm nay đã có một dàn nhạc gồm Bộ Gõ: Phách, Trống; Bộ Hơi: Sáo ngang, Tiêu, Kềnh; Bộ Dây gảy: Tranh, Tỳ, Nguyệt hay Tam và bộ Dây kéo: Nhị. Theo các tác giả Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều Phú trong sách Lĩnh Nam Chích Quái (viết khoảng thế kỷ XIV-XV) dưới dạng sưu tập truyện cổ và truyền thuyết dân gian có kể vào thời kỳ Hùng Vương (2.500 - 3.000 năm trước đây) ở đất Phong Châu, thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay đã có sinh hoạt ca hát, gõ Trống, khua Vĩnh Phú Vĩnh Phú , và xa hơn nữa dưới thời Lạc Long Quân, về phía Bắc người ta đã dùng Trống da thú làm lệnh. Sách Việt Sử Thông Giám Cương Mục Triều Nguyễn (thế kỷ XIX) có nhắc đến một số nhạc khí cổ là Trống, Chuông, Khánh, được sử dụng vào một hai trăm năm trước và sau Công nguyên.


                          Từ những điều trên, ta có thể kết luận rằng: " Cách đây 4.000 năm, trên dãi đất Việt Nam, cùng với nền văn minh đồ đồng Ðông Sơn, đã xuất hiện và hình thành một nền âm nhạc phát triển. Nền âm nhạc đó là một hệ nhạc cụ phong phú thuộc các họ nhạc cụ Hơi (Khèn, Sáo) họ Tự thân vang (Trống Ðồng, Chiêng- Cồng, Chuông và có thể đàn Ðá nữa) họ nhạc cụ Màng rung (Trống bịt da). Nền âm nhạc đó đã có bài bản, bè đơn, bè kép, nhiều bè và chắc chắn có một hệ các bài ca với trình độ phát triển tương ứng" và thực tế đây chính là nền tảng đầu tiên của âm nhạc Dân tộc Việt Nam. Từ buổi bình minh hình thành lịch sử, nhiều nhạc khí truyền thống đã có mặt như những nhân chứng cụ thể, góp phần khẳng định một nền văn hóa lâu đời của một Dân tộc có một lịch sử lâu đời.

                          Nguồn: honque.org/vothanhtung/Tchinh/ENgugoc.htm
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2009 05:00:51 bởi Thanh Vân >
                          #73
                            venus4t.vns_hnu 16.05.2009 12:33:51 (permalink)

                            Hihihi Cám ơn Thanh Vân đã hùn vốn góp thêm cho topic của mình nhé!

                            #74
                              Minh Xuân 17.05.2009 16:10:04 (permalink)

                              Trích đoạn: Thanh Vân

                              Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc chủng Mongoloid từ vùng Tây Tạng thiên di về phía Ðông Nam, tới vùng nay là Ðông Dương thì dừng lại. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng Úc), dẫn đến kết quả là sự hình thành chủng Indonésien (còn gọi là cổ Mã Lai), với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên toàn bộ địa bàn Ðông Nam Á cổ đại. Ðó là một vùng rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử, phía Tây tới bang Assam của Ấn Ðộ, phía Ðông tới quần đảo Philippin và phía Nam tới các hải đảo Inđônêsia (Nguyễn Ðình Khoa - Các Dân tộc ở miền Bắc Việt Nam - 1976).

                              Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng gần 5.000 năm về trước), tại khu vực mà nay là Nam Trung Hoa và Bắc Ðông Dương (từ phía Nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà), trên cơ sở chuyển biến từ loại hình Indonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía Bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam-Á (Austroasiatique). Với chủng Nam-Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.


                              Minh Xuân xin lạm bàn một chút về tài liệu mà Thanh vân đưa ra ở trên.
                              Đầu tiên là về 3 giai đoạn hình thành người Việt. Theo như tài liệu nàythì khoảng 10 000 năm trước có một đoàn người từ Tây Tạng thiên di về xuống Đông Dương, hợp huyết với người bản địa tạo thành người Nam Đảo (Indonesien). Sau đó người Nam Đảo ở phía Bắc lại hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc để tạo ra người Nam Á.
                              Ở đây có nhiều điều không hợp lý. Theo thuyết này người Nam Đảo đã cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á, Bắc tới tận sông Dương Tử. Thế mà sau đó khu vực từ Nam sông Dương Tử đến sông Hồng Hà lại bị hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc để thành người Nam Á. Hợp lý ra thì khu vực giao thoa giữa người phương Nam và phương Bắc phải ở phía Bắc sông Dương Tử và Nam Hoàng Hà mới đúng. Khu vực Nam Dương Tử đã là của người phương Nam từ trước đó. Để hòa huyết được thì phải có những cuộc chiến qui mô lớn giữa hai bên. Người phương Nam đã làm chủ một vùng rộng lớn như vậy, chẳng nhẽ lại dễ dàng để người phương Bắc đánh chiếm? Người phương Bắc đánh xuống được thì tại sao người phương Nam không thể đánh lên phương Bắc được.
                              Luận điểm trên rõ ràng là gán ghép, với ý nghĩa người Nam Á có nguồn gốc người phương Bắc. Xem xét kỹ các yếu tố khảo cổ và lịch sử thì ở niên đại 3.000-5.000 năm trước công nguyên không hề có sự giao thoa nào của người Nam Dương Tử với người ở Hoàng Hà cả. Làm gì có chuyện nước Trung Quốc vào thời bình minh lịch sử đã có lãnh thổ trải từ Hoàng Hà tới Hồng Hà để mà hòa huyết Bắc Nam ở vùng Nam sông Dương Tử. Giống như một đứa trẻ mới sinh đã to như một anh khổng lồ vậy! Thật vô lý.
                              Người Nam Á và Nam Đảo đúng ra hình thành cùng một lúc và đã phân bố khắp Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Điểm tiếp xúc giữa Nam Á và Nam Đảo chính là ở Việt Nam, nơi ngọn núi Đọ ở Thanh Hóa (cùng niên đại đồ đá giữa, là địa đỉểm khảo cổ người cổ đại cổ nhất Đông Nam Á). Nguồn gốc các dân tộc Đông Nam Á bắt nguồn ở vùng này. Người Nam Á và Nam Đảo là hai nhánh của cùng một nguồn gốc. Điều này cũng giải thích vì sao Việt Nam có cả người Nam Á và người Nam Đảo
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2009 16:34:25 bởi Minh Xuân >
                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 5 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 76 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 7 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9