HỒI HAI – Hà nội II Năm năm nối tiếp (5) Gần năm năm sống trong chùa, nghe tiếng chuông ngân, hưởng mùi hương hoa ngào ngạt, tâm hồn tôi nhẹ nhàng, dễ chịu, Nơi cửa thiền tịch mịch đã xua đi vợi mùi ngột ngạt của cái gọi là đấu tranh giai cấp. Vì lẽ đó chế độ Cộng sản không muốn để một tôn giáo nào tồn tại ngoài tín ngưỡng vô thần. Nếu chủ nghĩa CS chiến thắng trên phạm vi toàn thế giới, chắc chắn nhà thờ, chùa chiền bị san bằng, thay vào đó là những tượng đài hai “đức chúa”Marx và Lénine. Nhân loại sẽ phải thờ hai “đức chúa”này. và mỗi nước thờ một ông “thánh sống”, chẳng hạn Việt nam thờ “thánh”Hồ chí Minh, Trung quốc thờ “thánh”Mao trạch Đông, Cuba...Fidel Castror, Triều tiên... Kim nhật Thành.
Trong chùa có một cô gái là Lê minh Nguyệt. Em ở với bà bác ngoại. Dáng em thanh nhã, hơi gầy, khuôn mặt trái xoan. Và đặc biệt là cặp mắt em mơ màng, xanh thẳm như lai người da trắng. Thời gian đầu tôi đến, bà Nguyệt nhờ tôi dạy học thêm cho em. Bà bắt Nguyệt phải gọi tôi là cậu và xưng là cháu. Ba năm làm gia sư cho Nguyệt không công, tự nguyện, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản, được làm một việc có ích cho đời. Năm học lớp mười, Nguyệt khước từ vai trò gia sư của tôi, có lẽ do nữ tính phát triển, ngượng với bạn bè vì cách xưng hô với tôi. Vả lại, Nguyệt biết tôi, không cha mẹ, không gia đình, không nhà cửa, một thằng cha căng chú kiết đang sống nhờ anh Cương. Em coi tôi như người xa lạ, ném vào cõi lòng tôi một khối sầu trĩu nặng, mặc dù lý trí khuyên tôi: “Mi là kẻ khốn cùng. Mi hãy quên đi, hãy đào sâu chôn chặt cái ái tình dưới nấm mồ vĩnh cửu để đời mi bớt đắng cay.”
Ái tình là cánh đồng hoa,
Đố ai tới đó không sa lệ sầu?
Tôi đâu dám yêu em, hình như em đã cướp mất hồn tôi, hình như em tàn phá niềm vui của tôi còn sót lại. Tôi tự hỏi, cuộc đời còn gì nữa nhỉ, còn một chuỗi ngày dài chán chường vô vọng? Nhớ đến truyện Tarax boulba của Gogol, tôi nảy ra một ước mơ không tưởng. Nếu chàng Donjuan san sẻ tài năng và được thần Cupidon phù hộ để Nguyệt thuộc về tôi, tôi sẽ thét lên: Em là quê hương, là tổ quốc và cả thế giới này! Chỉ cần em nói: yêu anh, tôi dám từ bỏ cuộc đời nếu em ra lệnh. Và như con hổ đói cũng sẵn sàng cắn xé em thành nhiều mảnh. Cực chưa, không biết từ khi nào, như một thằng ăn trộm, tôi đã vụng yêu em? Vì em mà nhiều phen tôi hoá ngơ, hoá ngẩn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy cách xa em như xa cách chị Hằng.
Đầu năm 1965, tại gốc cây ngọc lan, Nguyệt đến nói với tôi:
– Nếu gọi là cậu, có thể xưng là cháu, nhưng cũng có thể xưng là... tạo ra một khoảng cách xa lắc, xa lơ. Từ nay gọi là anh và xưng là em, như thế anh có thuận lòng không?
– Hay lắm, sao Nguyệt không nói với anh từ sớm?
– Biết đâu anh thích bậc bề trên?
– Anh còn trẻ, muốn người ta coi tâm hồn anh như hoa đang nở, đâu muốn em nhìn anh cằn cỗi như một ông già.
Nguyệt đọc truyện rất hay, gợi cảm. Có lần đang đọc Othello của Shakespeare, thấy tôi đi qua, em hỏi:
– Anh có quan niệm gì về ghen nhỉ?
– Yêu là đẹp, có yêu mới có ghen. Yêu và ghen đồng biến, yêu tiến đến vô cùng thì ghen cũng tiến đến cùng vô. Nếu yêu em như yêu cuộc sống thì ghen em có thể dập tắt đời em.
– Anh dùng toán học để chứng minh, ghen cũng đẹp phải không?
– Hình như thế!
Em ngơ ngác nhìn tôi vẻ lạ lùng, cặp mắt em toả ánh hào quang như hai ngọn đèn xanh. Rồi nhìn vào trang sách, em nói nhỏ như nói một mình:
– Một lý thuyết vừa mới mẻ, vừa kỳ cục. Nguyệt hỏi thêm:
– Nàng Nataxia sao không yêu hoàng thân mà theo lão thương gia?
– Mích kin từ thương chuyển thành yêu, còn Rô bô đin yêu nàng say đắm, yêu chân thật.
– Ngoài ra, lão thương gia có mười vạn rúp để mua nàng. Buồn cho ai đó cũng yêu say đắm nhưng chẳng có...
Em đã biết... và bắt đầu giễu cợt tôi.
Lần khác, em đọc truyện Ruồi trâu, đến bức thư của Arthur gửi jema, em đọc to và hỏi:
– Anh Tâm ơi, anh bị trừng phạt của con gái như Arthur chưa?
– Anh chẳng dám yêu ai thì không thể...
– Tình yêu có ngôn ngữ riêng như tín hiệu của làn sóng điện, anh giấu em sao được. Hiện thời, anh vẫn đang yêu.
– Yêu ai?
– Em không rõ lắm, anh cứ hỏi trái tim mình sẽ được trả lời.
Năm năm khuyết, trái tình cao
Mặt thường giáp mặt, lòng ngao ngán lòng.
Tiếng hát của Nguyệt ngọt ngào, âu yếm như muốn đưa những tâm hồn đa cảm đến khoảng trời yêu thương nhớ tiếc. Tuy tiếng hát ở ở thể tự nhiên không qua đào tạo nhưng theo cảm hứng của tâm hồn, phản ánh trung thành nhịp đập của trái tim. Bởi vì tiếng hát của em không mặc cảm với cuộc đời, không có chỗ đứng trong xã hội, không bị uy lực của đồng tiền chi phối. Khác với tiếng hát của một nữ ca sỹ, buổi chiều toà xử ly dị chồng, buổi tối trình bày bài tình ca.
Giống như một miền hoang dã mà cảnh quanchưa có sự can thiệp của con người, biết đâu miền hoang dã ấy có cảnh thiên nhiên lại tuyệt diệu hơn nhiều nơi “hoa chăm, cỏ xén”...?
Đã bao lần, tôi đứng tựa gốc lan nghe Nguyệt hát, em mơ màng nhìn qua hàng cây rợp bóng. Có bài như làn gió thu mát rượi thổi tâm hồn tôi đến miền xa xăm huyền ảo, hưởng những giây phút êm đềm, thư thái. Có bài như dông tố gầm gừ, gào thét như xô đẩy tôi về với quá khứ đau thương, tan vỡ. Có bài não nùng, ai oán như khóc, như than, như dìm tôi chìm đắm trong biển cả đầy nước mắt và tủi nhục. Khi ấy, tôi lặng lẽ khóc thầm.
Một lần em ngừng hát, hỏi tôi, giọng em đầy quyền uy và khiêu khích, ánh mắt em lạnh lùng xa cách như ánh sao đêm:
– Anh Tâm ơi, ai thương nhớ ai cho lòng ai tê tái?
– Anh nhớ thương ai mà lòng anh rạo rực!
– Hãy nhớ thương đi, nhớ thương mãi, nhớ thương hoài, nhớ thương cứ xuôi dòng chảy về đại dương tình cảm. Để trái tim ai đó quặn đau vì nhớ thương không có dòng chảy ngược.
Tàn nhẫn quá nhưng Nguyệt đã trả lời sự thực. Em không thể yêu tôi, mặc dù em biết tôi yêu thầm nhớ trộm.
Nếu có chăng, Nguyệt yêu theo cách một tâm hồn lãng mạn, yêu chỉ để mà yêu, yêu để tìm nguồn cảm hứng – một cuộc tình đùa cợt đầy nguy hiểm.
Một buổi chiều vầng dương gần đi ngủ, em hát bài Santa Lucia. Như một giấc mơ kỳ diệu, tâm hồn tôi bay bổng đến vùng Địa trung hải xa xăm, trong vắt, tìm kiếm đấu trường Colisé thời trung cổ, bỗng tôi giật mình như linh tính báo. Tôi chạy ra dốc hàngThan, thấy Khoa đang đứng tựa gốc cây cũng đang nghe Nguyệt hát. Khoa lơ đãng nhìn tôi, hình như anh chẳng biết tôi là ai cả. Có lẽ tâm hồn anh cũng đang du lịch đến một phương trời nào đó?
Nửa giờ sau, Khoa vào chùa, đọc cho tôi nghe bài thơ anh vừa sáng tác. Tối hôm đó, đứng ngoài song cửa, tôi hỏi Nguyệt:
– Em có thích thơ không?
– Em thích thơ của Vũ hoàng Chương.
– Bài nào?
– Nhiều bài lắm, chẳng hạn bài thơ nào đó có hai câu cuối:
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời quên.
Anh Tâm muốn ai đó đưa anh về cuối trời của tác giả không?
– Chẳng bao giờ...
– Thế thì đau khổ đấy! Hai câu đầu của một bài thơ khác:
Anh biết em từ độ
Tuổi em mới mười hai.
Anh có thấy đúng với anh không?
– Muộn hơn một năm.
– Ra thế, anh biết ai đó từ năm mười ba tuổi. Và có lẽ yêu từ độ tóc em còn xoã vai. Thật đau lòng, trái tim ai đó vẫn lạnh lùng, trơ như đá trước những tín hiệu dồn dập của làn sóng tình dào dạt. Nếu có chăng, ai đó chỉ nghĩ đến anh trong đạo thày trò.
– Người ta cũng tự hiểu mình rồi, em không cần nói nữa.Anh đọc cho Nguyệt nghe bài thơ mới sáng tác của bạn anh nhé?
– Anh Khoa phải không?
– Sao em biết?
– Đến nhà lúc hoàng hôn chỉ có anh Khoa. Tâm hồn anh Khoa, em lạ gì.
– Em tìm hiểu từ đâu thế?
– Việc gì phải tìm hiểu đâu xa? Bao lần hai anh tâm sự tại gốc lan, em ngồi trong song cửa nghe như đài đọc truyện đêm khuya.
– Em mắc tội gian lận rồi, sao nghe trộm?
– Truyện kể bên tai không nghe sao được? Các anh mới mắc tội dại khờ, không cảnh giác. Em biết anh Khoa vừa làm thơ hay, vừa biết hoạ.
– Bây giờ em nghe bài thơ của anh Khoa nhé?
– Anh đọc đi – Nguyệt nói như ra lệnh.
Tiếng hát giữa hoàng hôn
Mây chiều đã ngậm màu son,
Vừng ô còn ở đầu non chưa về,
Chân trời xa khuất sương che,
Cánh chim buồn bã bay về xa xăm.
Lời em văng vẳng đưa ngang
Như xưa một khúc Tầm Dương vọng về.
Khi cao réo rắt tái tê,
Khi trầm nho nhỏ như về chiêm bao.
Nghe như suối vắng rừng sâu,
Nghe như thánh thót gợi sầu giọt Thu.
Hồn mơ về thuở xa xưa,
Tình anh đã chết bao mùa thu rơi.
Em đừng hát nữa em ơi,
Ngày xanh tan nát, tơi bời đã lâu,
Nửa đời đã chín thương đau,
Hát làm chi nữa, trái sầu rụng rơi.
Quỳnh tương đã trót nhắp rồi,
Ngàn năm vọng tiếng chia phôi nghẹn lời.
Ngừng đi đừng hát em ơi,
Để cho hồn lạc trên trời phiêu diêu.
Nghe tôi đọc xong, Nguyệt nói:
– Anh Khoa mới hai mươi hai tuổi, sao anh vội vã chiết khăn tang tình yêu sớm thế? Bao mùa lá rụng, anh đào huyệt chôn cất mối tình đầu để rồi anh mong ước cả thế giới này im lìm, hoang vắng, không còn vang lên khúc hát, lời ca.
Một ý nghĩ thật là cô đơn, ích kỷ.
Sau đó, Nguyệt nhìn tôi, cặp mắt em long lanh ngời ánh sáng màu xanh, em nói:
– Còn anh, em nói nhiều rồi, chắc anh đã hiểu. Hôm nay, em nói rõ hơn. Em yêu tâm hồn anh, nhưng không thể cùng anh xây tổ ấm, vì “phận mỏng cánh chuồn phải núp bóng tùng quân”. Câu nói đó, anh hiểu rõ hơn em. Em biết, anh đã yêu em – một tình yêu thầm lặng, đơn phương. Có lẽ chẳng bao giờ anh quên mối tình thơ mộng và tàn nhẫn ấy, chẳng phải do em – một đứa con gái bình thường không thể cùng anh vượt qua chông gai, bão tố – mà do xã hội. Khái niệm một túp lều tranh hai trái tim vàng đã lùi về dĩ vãng. Em cũng biết, đời là cuộc bể dâu nhưng thường thì người ta chỉ ghi nhận và lựa chọn cái giá trị của hôm nay, có mấy ai nghĩ đến ngày mai?
Em mong muốn, anh cứ coi em như bông hoa trong vườn ngự uyển, anh chỉ được chiêm ngưỡng mà không có quyền được hái. Rồi đây, dù có cách núi, cách sông bao giờ em cũng luyến nhớ anh – một tâm hồn tuyệt diệu.
Cuộc tình đùa cợt, lơ lửng ấy kéo dài thêm mấy tháng đến khi tôi từ giã nơi cửa Phật. Ký ức tôi ghi lại trong trang sử tình ngắn ngủi, phũ phàng thêm một người con gái họ Lê để trái tim tôi còn rung cảm mãi với nỗi buồn man mác.
* *
*
Tháng sáu năm 1965, Hưng nằm ở một quân y viện; Anh bị thương, bom Mỹ cắt mất cánh tay phải trong một cuộc chiến đấu bảo vệ cầu Hàm rồng hồi tháng ba. Lúc đó cánh tay bị cụt đến khuỷu đã được giảm đau, anh đang nằm suy nghĩ về tương lai của cuộc đời mình và gia đình thì nhận được thư của mẹ.
Hà nội ngày 3 – 6 – 1965.
Hưng con! Mẹ nhờ người viết thư cho con vì mắt mẹ đã loà. Tối hôm ấy, sau khi con đi khỏi nhà nửa giờ, bố con bị bắt đi tập trung cải tạo. Yếu quá, bố con không đi được, hai công an phải dìu bố con xuống cầu thang và đưa lên ô tô.
Hiện nay bố con ở Yên bái, mới đây gửi thư về, viết là vẫn ốm đang nằm trạm xã của trại giam.
Mẹ muốn đi thăm bố nhưng đi sao được? Năm ngoái, em Nga đi đâu hơn một tháng rồi lại về. Nó thương bố mẹ lắm, chỉ khóc hoài và oán trách con mê muội, tệ bạc. Gần đây Nga lại bỏ đi đâu, có lẽ em con đã hư hỏng. Mẹ khóc hết nước mắt vì thương bố con. Thế là mắt mẹ mờ dần và hiện nay không nhìn thấy nữa.
Nghe người ta nói, ở trại cải tạo đói khổ lắm, phải được sự giúp đỡ của gia đình nhưng mẹ không làm được gì, hầu bản thân cũng không xong, nói chi đến việc kiếm tiến để sinh sống và hỗ trợ bố con? Mẹ xin con hãy thương bố, có vì cái gì chăng nữa cũng không nên cắt đứt tình phụ tử và tình mẫu tử. Chúc con mạnh khoẻ, bình an.
Người mẹ cô đơn đang chờ con.
Hưng đọc xong thư, mồ hôi toát ra ướt hết áo. Anh rùng mình hoảng sợ. Như sét đánh ngang tai làm anh bừng tỉnh.
Anh tự hỏi “vì sao ta bỏ bố mẹ vào sống tập thể? Trước khi nhập ngũ, tại sao ta không ở lại nhà một đêm với gia đình trong lúc bố ta đang ốm nặng?”Rồi anh tự trả lời “Ta là thằng ngu, thằng mê muội và bội bạc như Nga oán trách”. Anh từ bỏ bố mẹ, gia đình để phấn đấu vì mục đích gì và chiến đấu cho ai? Tổ quốc và dân tộc, hai phạm trù đó hiện tại đối với anh còn xa xôi quá nhưng thời gian sẽ cho anh biết, tổ quốc đang ở thời kỳ tối tăm nhất trong lịch sử và dân tộc đang trong cảnh lầm than, cơ cực như thân trâu ngựa. Phấn đấu và chiến đấu vì gia đình anh chăng? Một ngàn lần không phải, gia đình anh đang tan tác, mẹ bị mù, em hư hỏng, bố đi tù. Nhưng bố anh bị tù vì tội gì nhỉ? Người cả đời dạy học, chưa làm một điều gì thất đức, lúc nào cũng chỉ cầu mong một cuộc sống an phận thủ thường. Phải chăng thân phụ anh đã mắc tội không giống những người mà đảng áp đặt về ý thức hệ. Phấn đấu và chiến đấu vì bản thân anh chăng? Cũng không phải, anh trở thành người tàn phế, được đảng bố thí cho đồng tiền trợ cấp mạt hạng để mà tồn tại.
À phải rồi, anh đã phấn đấu vì mục tiêu của đảng và chiến đấu để bảo vệ ngai vàng của đảng vì anh đã tin tưởng tuyệt đối vào đảng. Những ngôn ngữ giáo điều, lừa bịp, anh đã được học tập ở nhà trường, nhà máy và trong quân đội: Nào là đảng Cộng sản, đội quân tiên phong của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; Đảng kết tinh sức mạnh của chủ nghĩa Marx – Lénine; Nào là đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc, thực dân, phong kiến, tư bản, chống áp bức bóc lột, bất công và nghèo nàn, lạc hậu... Ngoài những mỹ từ quen thuộc ấy, thực chất đảng là gì anh không hiểu? Chỉ vì cái niềm tin tuyệt đối vào đảng – một lòng tin mê muội đã dẫn anh đến giai đoạn bỏ rơi bố mẹ, anh đã chôn vùi tình phụ tử và tình mẫu tử – một chân lý vĩnh hằng của loài người. Rốt cuộc, anh trở thành đứa con bất hiếu, phản bội lại chính mình. Nhìn xa hơn nữa, anh đã phản bội lại cả tổ quốc và dân tộc. Anh là nạn nhân đáng thương của sự lừa bịp.
Sáng sớm ngày hôm sau, Hưng trốn khỏi quân y, trở về Hà nội. Bước chân vào nhà, Hưng thấy ớn lạnh vì cảnh vật tiêu điều hoang vắng. Bác Hiền ngồi trên giường, thấy động, hỏi:
– Ai đấy?
– Con đây mẹ ạ! Hưng đã về với mẹ.
– Con lại đây – Bác Hiền gọi con rồi oà lên khóc. Hưng ngoan ngoãn đến ngồi bên mẹ. Mẹ sờ đầu, tóc con rồi đến hai cánh tay. Như bị điện giật, bác Hiền kêu lên:
– Sao thế này con?
– Tay phải con bị mất rồi mẹ ạ.
Bác Hiền vật vã, khóc than thảm thiết. Hưng ôm lấy mẹ, khóc như một đứa trẻ.
Mùa hè năm ấy, người ta đồn rằng, ở trước vườn hoa hàng Đậu, cứ chiều thứ bảy có một thương binh mất một cánh tay dẫn một bà mẹ mù tuổi chưa già nhưng dáng người gầy yếu, tiều tuỵ, theo đường Quan thánh đến đường Cổ ngư và ngồi bên gốc cây cổ thụ cạnh hồ Tây, gần chùa Trấn quốc. Họ im lặng, chẳng ai nói với ai một lời nào. Đến khi còi phát thanh báo chín giờ họ lại dẫn nhau về. Những kẻ cuồng tín khi thấy hình ảnh trên đã nói, chiến đấu dưới lá cờ vinh quang của đảng, anh đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc.
Những thanh niên nhạy cảm, thức thời mỉa mai, cánh tay phải anh đã hiến dâng để bảo vệ ngai vàng của đảng, còn cánh tay trái để xây dựng cuộc đời. Có lẽ trái tim anh cũng thế:
Phần tươi đỏ anh dành riêng cho đảng phần nhiều,
Phần thương mẹ mù và phần để em yêu.
Những nhà tư tưởng nhìn mẹ con anh với ánh mắt ái ngại, gợi sầu: họ là những nạn nhân của thời đại.
Những bước chân của bà mẹ mù mỗi ngày một ngắn và chậm lại. Đến một buổi tối thứ bảy, ngồi bên hồ Tây, họ không im lặng nữa. Bà mẹ hỏi:
– Hôm nay trời đẹp lắm phải không con?
– Đẹp tuyệt vời mẹ ạ, trăng sao vằng vặc, từng áng mây trắng nhởn nhơ bay qua hồ vào thành phố.
Mẹ cũng linh cảm thấy trời hôm nay đẹp lắm. Bởi vì mẹ đang nhớ lại cảnh trời của hai mươi bốn năm về trước tại nơi đây. Mùa hè năm ấy, mẹ đi bán hoa thường rẽ vào chỗ này nghỉ mát. Bố con, sau giờ dạy học cũng thường dạo chơi ở chốn này. Hôm nay là ngày kỷ niệm lần đầu bố mẹ gặp nhau. Những năm tháng yêu nhau cũng nơi này là điểm hẹn. Bố con thích chơi thuyền, cứ đến chiều thứ bảy trên chiếc perissoire II, bố đưa mẹ ra giữa hồ. Khi ấy bầu không gian yên tĩnh, chỉ còn tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền. Có lần mê say với cảnh trời mây trăng nước, bố con cất cao tiếng hát bài one day, có lẽ tiếng hát bay xa và lan toả khắp mặt hồ.
Khi con còn nhỏ, về mùa hè, bố mẹ thường đưa các con dạo chơi trên đường này và ăn món bánh tôm. Kỷ niệm trên đường Cổ ngư và hồ Tây biết bao êm đềm, đẹp đẽ!
Những năm tháng chiến tranh, bố con hay nghe đài phát thanh cách mạng, bởi vì khi đó bố con có nhiều cảm tình với cách mạng. Có lần bố con nói với mẹ, trong lúc quốc gia hữu sự không đóng góp gì cho đất nước thì thật là uổng phí.
Bố con muốn vào chiến khu, mẹ chẳng hiểu gì chính trị, không muốn xa chồng, một mình nuôi dạy các con dại nên cản lại. Ngày tiếp quản thủ đô, bố mẹ diện những bộ quần áo đẹp nhất, dẫn cả hai con đi chào đón đảng, bác và chính phủ, con còn nhớ chứ?
– Vâng – Hưng trả lời – có thể ngày đó cũng góp phần biến con thành đồ mê muội.
– Sau ngày đó, bố con đi nghe ông Phạm văn Đồng nói chuyện, cảm động đến nỗi khi kể lại với mẹ còn sụt sùi nước mắt. Cuộc đời tưởng như hoa đang nở với bao hy vọng và ước mơ tuyệt đẹp. Đến nay con thấy gia đình ta trở thành một tấn bi hài kịch chưa? Từ năm 1960 bão táp của xã hội dội xuống gia đình, bố mẹ mất việc, kinh tế lâm vào cảnh cùng quẫn. Bố mẹ bắt đầu tỉnh thì con bắt đầu mê – bệnh mê muội đáng thương của cả dân tộc. Tại sao lại có cảm tình, say mê làm việc, thậm chí chiến đấu, hy sinh cho một thể chế – chính nó là thủ phạm gây nên mọi nỗi đau thương, tan nát cho mình.
Ngừng một lát, bà mẹ tiếp:
– Hiện nay mẹ đã mù, ngoài cái dở cũng có cái hay, con ạ. Mẹ không nhìn thấy những hiện tượng xấu xa của xã hội cũng như không phải nhìn thấy đứa con thương tật của mình. Trong trí nhớ của mẹ chỉ ghi lại hình ảnh đứa con khôi ngô, hoạt bát xưa kia.
Mẹ thấy trong người yếu lắm, hình như tử thần đang rình rập mẹ ở đâu đây. Mẹ xin con lần cuối, hãy thương yêu những người cùng máu mủ.
Nghe mẹ nói, Hưng ôm lấy mẹ khóc hoài. Bởi vì anh đã và đang sám hối.
Sau ngày đó, chiều thứ bảy đã vắng bóng mẹ con người mù trên đường Cổ ngư. Một hôm tôi thấy Hưng ngồi trên ghế đá ở công viên hàng Đậu, đầu anh chít khăn tang.
* *
*
Tháng 3 –1965, anh Hoàng xin cho tôi vào làm hợp đồng tại xí nghiệp Điện thông. Đây là một cử chỉ đặc biệt của một người keo kiệt của Appagon. Chưa phải là công nhân chính thức nên chưa cần điều tra lý lịch nơi nguyên quán, do vậy phòng tổ chức của xí nghiệp đã nhận tôi.
Thời gian này, Khoa thường dẫn một người bạn cùng quê, tên là Dậu đến chỗ tôi ở và rủ nhau đi uống cà phê hoặc trà tại cửa hàng Thuỷ tạ, Nhân hay Phúc châu... Dậu hoạt bát, mạnh khoẻ, nước da bánh mật dạn dầy với nắng mưa.
Anh mới mười chín tuổi, học dở lớp mười, không còn bố mẹ. Dậu là công nhân đường sắt tại công vụ Bắc giang, cuộc đời tự lập trải qua nhiều khó khăn, thiếu thốn. Từ đó anh đã thấy một phần sự bất công, vô lý của xã hội.
Dậu nói:
– Công nhân làm vất vả, tiền lương tồi tệ, chia ra ăn từng bữa. Trong khi đó, bọn có chức, có quyền cương vị càng cao càng nhiều bổng lộc, sung sướng trên mồ hôi, nước mắt của người lao động.
Một lần tôi đi cùng với tổ trưởng sản xuất đến thăm ông giám đốc bị ốm đang nằm viện. Hôm ấy các ông trưởng phòng tài vụ, tổ chức cũng đến, hai ông này mang nhiều quà lắm: giò, đường, sữa, duốc... tất cả đến vài ba chục ký. Hai ông nói:
– Công đoàn và các phòng ban khác sẽ đến thăm thủ trưởng sau, hôm nay chúng tôi đến thăm và có chút quà biếu đồng chí bồi dưỡng.
Ông giám đốc bảo:
– Tôi lấy một ít thôi, còn lại các đồng chí mang về.
– Kính thưa thủ trưởng, đồng chí phải cố gắng ăn để chóng phục hồi sức khoẻ còn phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Gói quà trị giá bằng ba tháng lương của người lao động. Còn công nhân có ốm đau đến chết, ngoài mấy người cùng tổ, chẳng có đứa nào dòm ngó tới. Nghe hai chữ phục vụ vừa êm ái, vừa ghê tởm.
Đúng là công nhân làm chủ nhà máy, nông dân làm chủ ruộng đồng. Họ bị vắt kiệt sức để làm ra sản phẩm nhưng họ không được quyền làm chủ sản phẩm. Nhà nước cho ăn thế nào phải chịu thế ấy; nếu ai kêu ca, phản đối nhẹ thì mất việc làm, nặng thì vào nhà đá.
Nói chung công nhân, nông dân và trí thức được tự do làm việc theo điều khiển, tự do đói nghèo, tự do tin tưởng tuyệt đối vào đảng, nói và hành động theo ý đảng. Thực sự họ biến thành bầy nô lệ của chế độ CS – kiểu nô lệ hiện đại – không được mưu cầu hạnh phúc và bị bóp nghẹt các quyền tự do tối thiểu.
Dậu hỏi:
– Anh có ý nghĩ gì về quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng của Marx?
– Trước hết phải khẳng định đó không phải một quy luật nhưng chủ nghĩa ấy đang lũng đoạn cả hành tinh nên chúng ta đề cập đến một đôi điều. Theo ông Marx, chủ nghĩa CS là giai đoạn phát triển cuối cùng của lịch sử xã hội loài người – một thế giới đại đồng, không có vũ khí, không có chiến tranh, không có áp bức, bóc lột, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Một học thuyết tuyệt đẹp nhưng ngay trong mơ đã thấy hoàn toàn không tưởng. Vì thứ lý thuyết ma quỷ này hiện tại làm khoảng một phần ba nhân loại đau thương, cơ cực. Nhất trí với ông David Ricardo, tôi cho rằng chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu, tuy nhiên luôn có sự đổi mới để phù hợp với nền văn minh của nhân loại. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giữa cái ác và cái thiện.
Nhìn lại, từ xưa đến nay, cái thiện đã dần dần chiến thắng cái ác, tuy vậy vẫn có sự chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, ngày nay do khoa học và kỹ thuật phát triển, nhiều nước phương tây đang thênh thang trên con đường tiến tới đỉnh cao của hạnh phúc thì dân tộc ta và các nước trong phe CS, cái ác đang loại trừ cái thiện.
Nhân vô thập toàn, ngọc còn có vết, làm gì có cái thế giới đại đồng như trong học thuyết ma quỷ ấy – thứ học thuyết không tưởng về mục đích, biện pháp thực hiện lại vô cùng tàn bạo gây nên thảm hoạ cho nhân loại trong thế kỷ này. Vì thế, học thuyết Marx chỉ thực hiện được ở các nước lạc hậu, dân trí thấp.
– Còn độc lập? – Dậu hỏi.
– Phạm trù độc lập chỉ có ý nghĩa thuần tuý ở các quốc gia phong kiến thời xưa, do phương thức sản xuất còn lạc hậu nên quan hệ của con người chỉ dừng lại tại quê hương hoặc tổ quốc mình. Ngày nay, do sự bùng nổ của khoa học, kỹ thuật nên quan hệ của con người dẫn tới phạm vi toàn thế giới. Chủ quyền của mỗi nước liên quan đến nền kinh tế, trình độ khoa học, kỹ thuật. Các nước chậm phát triển lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Từ lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị. Nền kinh tế của một quốc gia còn lạc hậu đến độ chưa làm ra nổi cái kim khâu thì quốc gia đó độc lập thế nào? Súng cao xạ, máy bay mig, tên lửa của ai, súng AK, mũ cối và các khí tài quân sự khác của nước nào? Thế thì Việt nam có chủ quyền không hay do sự sai bảo của nước ngoài?
Tôi cho rằng, các nước chậm tiến lệ thuộc vào bên ngoài là điều tất yếu theo xu thế của thời đại.
Muốn đất nước phát triển kinh tế, người dân có ăn, có mặc, có tự do thì những người cai quản quốc gia phải sáng suốt đi theo hệ thống chính trị nào? Nếu chủ nghĩa CS chiến thắng trên toàn thế giới thì nền văn hoá dân tộc bao gồm phong tục, tập quán, tín ngưỡng... đều bị thủ tiêu. Và thay vào đó cái gọi là nền văn hoá CS. Cuộc chiến tranh hiện nay với chiêu bài độc lập, tự do nhưng thực chất là cuộc chiến nhằm cộng sản hoá miền Nam.Chúng ta khẳng định chủ nghĩa CS là thảm hoạ cho nhân loại và dân tộc thì vai trò của Hoa kỳ ở miền Nam với mục đích ngăn chặn làm sóng đỏ là chính nghĩa, phù hợp với lương tri và đạo lý.
Dậu hỏi:
– Đang lúc chiến tranh ác liệt, chúng ta không tránh khỏi cảnh làm bia đỡ đạn. Tôi có ý định trốn khỏi nơi này.
– Còn anh? – Dậu hỏi tôi.
– Trước hết phải quan niệm rằng, nếu chiến đấu để bảo vệ tự do, bảo vệ chân lý là nghĩa vụ của mọi người, không thể nói là cảnh làm bia đỡ đạn. Hiện nay chúng ta đang sống dưới một chế độ đầy bất công, tội ác. Không muốn trở thành một tên lính chiến đấu để bảo vệ chế độ ấy, chúng ta phải ra đi. Tôi biết rằng, nhiều người có ý nghĩ ấy nhưng khi thực hiện trăm người chỉ thành công một, số còn lại phải ngồi tù hoặc làm mồi cho thú dữ trong rừng, cuộc hành trình chỉ có hoà hoặc thắng. Bỏ mạng hoặc vào tù là hoà, thoát là thắng. Bạn định trốn đi đâu?
– Ra đi không phải vì giá áo, túi cơm, tôi muốn cùng góp sức với nhân dân miền Nam chống Cộng.
– Ý nghĩ của bạn thật tuyệt vời. Nếu quân đội Việt nam Cộng hoà và nhân dân miền Nam đều có ý nghĩ như bạn thì mặt trận giải phóng không còn đất dung thân.
Điều đáng buồn là người miền Nam đa số “ăn cơm quốc gia, thờ ma CS”. Họ chẳng hiểu gì về kẻ thù của họ, lẫn lộn trắng đen. Số đông vẫn coi chế độ CS ở miền Bắc là một ước mơ. Vì lẽ đó, CS mới thực hiện được chiến tranh nhân dân. Về mặt tâm lý chiến, Sài Gòn như một con cừu non dại thì Hà nội như con cáo già nham hiểm trong cuộc chiến cài răng lược. Tôi không tán thành quan điểm về vũ khí luận. Một đoàn quân được trang bị hiện đại nhưng không hiểu bản chất xảo quyệt của kẻ thù, không có ý thức chiến đấu thì làm sao phát huy được sức mạnh của vũ khí để giành chiến thắng?
Quyết định thắng bại của cuộc chiến ở miền Nam giống như cái kiềng có ba chân là ba yếu tố: quân sự, dân sự và kinh tế. Chính phủ Việt Nam cộng hoà chỉ có hai chân, còn chân thứ ba – dân sự nếu không nói là bị gẫy thì cũng vô cùng yếu. Thực chất phía mà chúng ta định cộng tác là như thế, các bạn có quyết tâm không?
– Còn mày? – Khoa hỏi.
– Cộng sản đã cướp đi của tôi tất cả, trong đó có quyền được làm người, tôi ra đi là đúng và cần thiết.
– Chế độ CS làm gì có nhân quyền, phải chăng con người biến thành cái máy thiếu dầu mỡ, han rỉ, hư hỏng trước thời gian – Khoa nói – chúng ta cùng quyết tâm chuẩn bị lên đường.
– Ra đi chúng ta bị buộc tội là phản quốc? – Dậu hỏi.
– Một thể chế tốt đẹp có dân chủ và nhân quyền, mọi người được mưu cầu hạnh phúc – Tôi giải thích – thể chế đó đồng nhất với phạm trù tổ quốc. Ở đây tổ quốc có đồng nhất với CS đâu? Họ muốn bán rẻ tổ quốc Việt nam cho cái gọi là phong trào CS quốc tế. Cũng như cuộc chiến hiện nay không phải là cuộc chiến tranh ái quốc. Là tay sai trung thành, trước mắt họ muốn CS hoá miền Nam và Đông dương, sau đó thực hiện vết dầu loang để CS hoá cả vùng Đông Nam á. Cần phải nói thêm rằng, không có kẻ nào dám công kích chân lý mà chỉ đội lốt chân lý để thực hiện âm mưu đen tối của mình. Họ đội lốt chân lý độc lập, tự do để lừa bịp, để phát động cuộc chiến tranh này. Như vậy, chúng ta ra đi không phải là phản quốc. Tuy nhiên, phải bỏ quê hương và tổ quốc là nỗi đau xót của mọi người.
– Đường đi – Khoa nói – Trước kia nhiều người trốn từ Nghệ an qua cửa Rào sang đất Lào. Từ đó về miền Nam. Hiện nay, vùng cánh đồng Chum – Xiêng khoảng chiến sự đang diễn ra ác liệt, chúng ta không thể qua đường ấy. Còn một đường nữa từ Điện biên sang Lào đến Luăngbrabăng, quãng đường hành trình dài hơn, hiểm trở nhưng có thể ít nguy hiểm. Bây giờ phải tìm chi tiết miền Bắc Lào.
– Dậu đề nghị – Tâm cứ tiếp tục đi làm để kiếm thêm tiền, còn chúng tôi tiến hành ngay việc mua sắm các phương tiện đi đường.
* *
*
Ngày 21 – 7, buổi chiều Khoa đến nói với tôi:
Mọi phương tiện đã chuẩn bị xong, ngày mai Dậu mang ra đây, Khoa đưa cho tôi mấy trang nhật ký của năm ấy và nói:
– Tao cho mày xem để tao còn mang về quê cất giấu nốt, còn lại tao đã giấu hết rồi.
Năm 1965
Ngày mùng một tết. Sau giao thừa, từ chỗ Tâm ở, tôi lang thang cả đêm trên đường phố, vùng quanh hồ Gươm ra phố bà Triệu, Trần hưng Đạo, ga hàng Cỏ. Rồi theo đường Nam bộ – Nguyễn thái Học, tôi về nhà.
Lúc ấy trời sắp sáng, tôi làm bài thơ xuân 1965.
Lá rơi hiu hắt tơ lòng,
Sầu Thu chưa dứt mà đông đã tàn.
Chao ôi, xuân đã lại sang!
Lắng nghe pháo nổ mà tan nát lòng.
Đêm dài mênh mang,
Biển sầu vô tận,
Bơ vơ lạc lõng ánh sao mờ,
Bước đi thẫn thờ,
Dưới trời sương khuya.
Trong đêm khuya tiếng thời gian âm thầm nức nở,
Quá khứ xưa tàn nhẫn chết trong tôi.
Duyên kia tàn héo, bèo dạt, hoa trôi,
Đầu xanh lận đận, số kiếp bi thương.
Hận sầu vương khoé mắt,
Lệ tràn trên đôi môi.
Năm tháng lũ lượt về đây
Như đoàn người hành khất,
Đặt vào tim nỗi buồn thương da diết
Của đời người trĩu nặng nỗi ưu tư,
Để hôm nay hôn nàng xuân hoen ố.
...
Ta đi mãi, đi hoài trên đường đầy xác pháo hoa rơi
Như nẻo đường ấy đời ta tan nát tơi bời,
Giữa dông tố đất trời nghiêng ngửa.
Trái đất ơi, khi ta bước vào ngưỡng cửa
Của cuộc đời đã khóc tiếng bi ai.
Khơi mạch sầu con tim còn hơi sức
Đẩy con thuyền cay đắng đến ngày mai.
Ta đi mãi, đi hoài,
Ta đi hoài, đi mãi.
Để cõi lòng buồn thêm trống trải,
Để thần sầu siết chặt trái tim đau,
Để đời ta từ nay khô héo mãi,
Để thời gian gặm hết những ước mơ.
Cuộc đời, ý thơ
Biển sầu vô tận,
Đêm dài mênh mang.
Ngày mùng bốn tết, tôi và Tâm đến chơi nhà anh Thất, anh đọc bài Đợi chờ:
Bão táp đang sa xuống đầu người thất bại
Biết nói gì đây nếu phải lìa nhau.
Ta yêu nhau đâu để nói trăm câu,
Một hành động, một câu thôi cũng đủ.
Một tâm hồn tìm nguồn ấp ủ,
Cố mong sao giữ xứng làm người.
Vầng trăng sáng, mảnh gương trong,
Em ơi, lòng không gợn sóng.
Mà mây mù bao phủ vẫn không đi.
Núi Lam Sơn, ngọn Hồng Lĩnh cỏ xanh rì,
Tố như nhớ nàng Kiều mà thao thức.
Dòng Dịch thuỷ còn chờ người tiễn bước,
Bến Ô giang, Hạng Vũ khóc Ngu Cơ.
Hà nội ơi sống mãi đợi trông chờ,
Mà dài thế, ôi thời gian lâu quá!
Đời tàn rơi như sao rụng giữa canh thâu.
Một cây đàn, một ngọn bút tiêu sầu
Ấp ủ mãi phương đông chưa rạng sáng.
Anh yêu em trong cơn anh hoạn nạn,
An ủi nhau giữa lòng nát tan hoang.
Có gì đâu nếu chỉ biết bình an ,
Thì cuộc sống hoàn toàn vô vị...
Bài Cố nhân, anh Thất làm dở, đến buổi tối tôi làm tiếp.
Cố nhân ơi, hề, cố nhân ơi!
Trót một ngày xanh để lỡ rồi.
Chiều xuân nắng cuốn hoa tơi tả,
Nhẹ nhàng một cánh én buông rơi.
Đêm nay ta đốt đèn tâm sự,
Ta gửi hồn ta tận cuối trời.
Người đi giờ ở phương nào nhỉ?
Có hết chua cay chuyện khóc cười?
Đêm nay ta nhớ về muôn thuở,
Đốt trái tim đau khóc nỗi đời.
Ngày xưa xa lắm, ngày xưa ấy,
Man mác mùa xuân khắp bốn trời,
Núi biếc sông xanh dòng bát ngát
Rừng hoa, biển cỏ núi chung đôi,
Còn cả linh hồn loài thảo mộc,
Chim muông cùng với gió trăng chơi.
Xuân qua, xuân đến đà bao độ
Kẻ bắc, người Nam vốn nghẹn lời.
Nghìn trùng xa cách bao thương nhớ,
Mà lệ năm canh vẫn chảy hoài.
Ta nghe tiếng thắm ngàn xưa vọng,
Để quạnh hồn thu giữa cuộc đời.
Người đi có nhuốm màu sương gió
Kẻ ở nhọc nhằn năm tháng trôi.
Thế sự du du nào đã rõ,
Bao giờ gặp lại cố nhân ơi?
Ngày 2 – 4. Buổi chiều, tôi đến dốc hàng Than. Trước mặt tôi là phía sông Hồng, những cánh cò vội vã bay trong màn sương tím, bỗng cất lên tiếng hát ngọt ngào, âu yếm làm sao! Tiếng hát thân quen của Nguyệt nhẹ nhàng nâng cánh hồn tôi đến khoảng trời chia ly, tan vỡ và nước mắt. Cảm hứng theo tiếng hát, tôi làm bài thơ Tiếng hát giữa hoàng hôn. Tâm không nói, tôi cũng biết nó thầm yêu Nguyệt. Bởi vì tiếng hát của em có thể làm trái tim của cả đoàn quân cùng nhịp đập. Tôi thương thằng Tâm quá, nó có tài, có đức mà bị cái xã hội đểu cáng này cướp đi tất cả và đẩy nó ra ngoài lề cuộc sống. Đến nỗi yêu, nó cũng chỉ dám thầm vụng trong trái tim mình.
Ngày 12 – 4. Buổi tối, tôi và Tâm đang ngồi uống cà phê ở Nhân, một thanh niên khoảng hai mươi nhăm tuổi, mặc áo sơ mi trắng hở ngực, tay cầm tờ báo nhân dân đến bàn chúng tôi. Gã gọi một cốc cà phê phin đá rồi hỏi:
– Hai anh có xem báo không?
– Cảm ơn anh, chúng tôi sắp về rồi – Tâm trả lời.
– Xem để biết họ nói gì thôi chứ đánh thế nào được Mỹ. Hắn ghé sát tai tôi nói nhỏ. Tôi chợt hiểu ý thì Tâm lấy chân di vào chân tôi ra hiệu rồi Tâm nói:
– Chúng tôi xin anh đừng phát ngôn lung tung nữa, không ai nghe đâu.
– Tiến bộ đấy – Hắn vỗ vào vai Tâm nói.
Bàn bên có một bác già ngoài bốn mươi tuổi vừa đến. Bác mặc bộ quần áo bảo hộ lao động, có lẽ là công nhân. Thấy thế, gã ngồi ở bàn chúng tôi, cầm cốc cà phê sang ngồi bàn bác này. Hắn nói:
– Bác giai cấp tiền phong có đọc báo đảng không?
– Đèn điện tối quá, tôi không đọc được.
– Toàn là bịa ấy bác ạ – Hắn nói nhỏ.
– Chứ còn gì nữa. Bảo kiểm soát bốn phần năm đất đai mà chẳng có lấy một thị xã nào.
– Anh phản tuyên truyền à? – Hắn quát to.
Bác già sợ quá run lên, chưa kịp nói gì thì gã đã móc túi ngực giơ thẻ đỏ và quát:
– Anh đi về đồn. Nói rồi gã kéo bác công nhân đi. Số phận bác ra sao chưa rõ, nhưng không thoát tội phản tuyên truyền.
Ngày 2 – 5. Tôi ra cửa hàng mua gạo. Một bà mua phải bao gạo hẩm, nhiều trấu, thóc quá, bà xin nhân viên cửa hàng đổi bao khác. Bà xin ba bốn lần thì cô nhân viên lạnh lùng trả lời:
– Đổi thế nào được, không may thì chịu.
– Chị trù tôi đấy phải không? Lần nào cũng mua phải gạo tồi tệ cả – Bà già nổi cáu.
Thấy bà già to tiếng, tên công an từ xa chạy lại quát:
– Bà này gây rối trị an à? Dám bảo nhân viên nhà nước trù dân, bà nói xấu chế độ chăng?
– Tôi xin lỗi anh – Nói xong bà già ngoan ngoãn mang gạo về.
Đến tôi mua, cũng bị một bao gạo hẩm có nhiều trấu thóc, có lẽ do khác giới tính, dễ có cảm tình nên cô nhân viên hỏi:
– Anh có đổi bao khác không?
– Cảm ơn chị, nếu nhà tôi không ăn thì gia đình khác cũng phải mua.
– Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa đấy – Cô nhân viên nói, nhìn tôi, cười tủm tỉm vẻ mỉa mai.
– Chị nhầm rồi, xã hội chủ nghĩa không phải thế đâu. Nói xong tôi mang gạo về và ngẫm nghĩ: cửa hàng Tông đản dành cho lũ “đầy tớ của dân”đâu có loại gạo tồi tệ này.
Ngày 23 – 5. Buổi tối, tôi và Tâm ngồi chơi bên bờ hồ Hoàn Kiếm gần cầu Thê húc, có hai thanh niên đến ngồi trên ghế đá sát chỗ chúng tôi. Họ nói chuyện với nhau, nói rất nhỏ:
– Mày cố gắng phấn đấu sáu tháng đầu năm chứ?
– Khó lắm, còn hơn một tháng nữa mà tao mới thực hiện được hai. Nếu gặp may cũng chẳng biết đâu? Mày chắc đạt lao động tiên tiến rồi?
– Chỉ thực hiện một vụ nữa là đạt chỉ tiêu, nếu không gặp thì chưa chắc. Trội nhất trong đơn vị mình là thằng Tiến, nó hơn bọn mình trong nghệ thuật nhử mồi.
– Trò đó cậu còn được chứ tớ thì vô duyên quá, cứ như tiếng mèo kêu, chuột nghe thấy bỏ chạy cả...
Lúc đó trên vỉa hè xuất hiện một bác già gần sáu mươi tuổi, vừa đi lảo đảo, vừa chửi đổng:
– Đ...mẹ nó hà hiếp dân! Đ...mẹ nó!
Hai thanh niên bảo nhau:
– Gặp dịp may rồi.
– Tớ nhường cho cậu đấy!
– Hai đứa cùng làm thành tích chia đôi. Kịp thời hành động mày.
Nói xong, cả hai chạy đến đón đường bác già quát:
– Anh bảo ai hà hiếp dân?
– Tôi không dám chửi ai ở đây mà bảo cái thằng chủ nhiệm hợp tác xã hà hiếp vợ con tôi ở quê cơ.
– Đi về đồn!
Ra lệnh xong, mỗi đứa cầm một tay bác già lôi đi.
– Không nghe bọn chúng nói, có thánh mới biết, bắt giam, bỏ tù con người cũng có chỉ tiêu thực hiện – Tâm nói.
– Thế đấy, nếu đứa nào cũng đạt danh hiệu lao động tiên tiến hoặc chiến sĩ thi đua thì nhà tù phải nhiều hơn trường học – Tôi nói.
Ngày 6 – 6. Tối hôm nay, sau khi uống cà phê ở Nhân, ngồi bên bờ hồ Gươm, tôi, Tâm và Dậu cùng nhất trí ra đi.
Ngày 28 – 6. Em gái tôi đi học về, đưa cho tôi một bức thư của thằng Long, bạn học cũ ở phố Chu văn An. Tôi mở ra xem, có vài dòng: “Chiều nay, lúc hai giờ gặp mày ở núi Nùng, bách thảo. Rất cần, mày đừng lỡ hẹn. Xem xong nhớ đốt ngay”
Chiều đến, y hẹn tôi gặp thằng Long. Nó nói:
– Mày nguy hiểm lắm, hãy nghe tao tường thuật lại sự việc đã.
– Mày nói đi.
– Cách đây nửa tháng, có một người tuổi gần bốn chục, mặc dân thường đến gặp tao. Dẫn tao ra vườn hoa Cột cờ, hắn hỏi:
– Anh là bạn của tên Khoa có phải không?
– Vâng, nói cho đúng là bạn học cũ, bác hỏi gì nó?
– Tôi là cán bộ sở công an đến giao cho anh một nhiệm vụ. Hiện nay tên Khoa có tư tưởng xấu với chế độ. Anh đến nhà nó chơi, sở cho phép anh được nói bất mãn với đảng hoặc ca ngợi Mỹ. Tên Khoa phản ứng ra sao, anh sẽ làm bản báo với chúng tôi. Ngày giờ đến nhà tên Khoa do anh lựa chọn nhưng phải báo cho đồn địa phương anh ở trước. Sở nghiêm cấm anh tiết lộ chuyện này, nếu anh làm sai phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tối hôm kia hắn lại đến hỏi: đã tiến hành chưa? Tao trả lời: cháu chưa biết tên Khoa thường ở nhà lúc nào nên chưa đến. Hắn còn nói là nếu tao thực hiện tốt việc này sẽ được sở thu dụng.
– Mày nên nhớ là “khi rừng hết thú quý thì chó săn và cung tên cũng bỏ đi”.
– Mày nói đúng, tao cũng hiểu được dã tâm của họ. Quả thật, nửa tháng nay, tao đang suy nghĩ cách cứu giúp mày, bởi vì đột ngột tao đến nhà mày là mắc mưu họ như chơi. Tao định trình diễn màn kịch tối hôm nay, vậy báo cho mày biết trước để đóng cho thành đạt, nếu không thì nguy hiểm.
Buổi tối thằng Long đến. Tôi hỏi to:
– Long! Lâu nay mày đi đâu mà biến mất thế?
– Tao vẫn ở nhà ăn bám.
– Mày chưa xin được việc làm à?
– Bố tao là công chức lưu dung, xin sao được việc.
– Chỗ bạn bè nói thật, mày không nên nói năng như thế, chẳng lợi lộc gì cho mày mà còn có hại cho bạn bè!
– Đó là sự thật, mày cấm được tao à?
– Mày để tao yên, tao không muốn nghe cái sự thật ấy.
– Sao hồi này mày thay đổi lạ lùng thế?
– Tao vẫn như xưa, chẳng quan tâm đến việc gì.
– Mày hay đọc báo và nghe đài không? Tao thấy toàn nói sai sự thật.
– Thôi, thôi tao xin mày. Bạn bè gặp nhau là quý nhưng cứ tuôn ra luận điệu như mày, có khi phải đi tù cả lũ. Từ nay mày đừng đến nhà tao nữa.
Long giả vờ hầm hầm nổi giận:
– Tao cần đ... gì mày.
Nói xong, Long bỏ về. Tôi đoán, mụ tổ trưởng lúc ấy phải áp sát tai vào tường để nghe trộm.
Ngày 2 – 7. Tôi đến khu công an xin giấy thông hành đi Điện biên. Hình như họ nghi ngờ gì đó nên xem xét, đắn đo lâu lắm.
Ngày 10 – 7. Tôi mang hộ tịch đến khu công an để làm thủ tục di chuyển về quê.
Ngày 11 – 7. Tôi đến văn phòng hợp tác xã xin rút cổ phần. Vì có giấy di chuyển khỏi thành phố nên ban chủ nhiệm giải quyết ngay. Số tiền này để sắm một số phương tiện đi đường.
Ngày 15 – 7. Công an hộ tịch đến nhà hỏi:
– Tại sao anh Khoa cắt hộ tịch rồi mà vẫn ở đây?
Có lẽ họ đang theo dõi tôi.
Ngày 18 – 7. Buổi sáng, tôi vào thư viện quốc gia mượn tập bản đồ miền Bắc lào bằng tiếng Pháp để vẽ. Ngồi gần tôi, một người chẳng làm gì cả chỉ xem tôi vẽ. Thấy không an toàn tôi bỏ về...
Xem xong đoạn cuối trang nhật ký, tôi sửng sốt nói với Khoa:
– Nguy hiểm! Nếu chúng ta không nhanh thì mày bị bắt nay mai.
– Chờ ngày mai Dậu ra, tất cả phải mang về quê đã, ngày lên đường sẽ bàn sau.
Rủ tôi ra ngồi chơi bên Hồ Hoàn Kiếm, Khoa nói:
– Chúng ta đến thăm hồ lần cuối.
Khoa mơ màng nhìn hàng liễu rủ bên hồ, bỗng anh ngâm nho nhỏ mấy vần thơ của Lưu Lan Phương:
Ai về thương liễu hồ Gươm úa.,
Năm cửa ô hờn dưới nắng trưa,
Ba sáu phố phường nằm ủ rũ,
Nghe người Hà nội khóc trong mưa.
Ngẫu hứng, Khoa lại ngâm mấy vần thơ vịnh Kiều:
Buồn trông liễu rủ ven bờ,
Sớm in bóng nước chiều mưa lệ đầm.
Buồn trông phố cũ âm thầm,
Đâu còn những bóng trăng rằm thướt tha.
Buồn trông rùa Tháp xa xa,
Bâng khuâng lưu luyến tháp là từ nay.
Buồn trông Thê húc mê say,
Xa em luống những bao ngày nhớ thương.
Nhìn những lá vàng rập rờn theo sóng hồ nhè nhẹ. Khoa ngâm bài Phương xa của Vũ hoàng Chương:
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông hay dạt tới phương Đoài.
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,
Lòng cô đơn cay đắng cũng dần vơi.
...
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi bơ vơ,
Đời phiêu dạt không mong hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Không phải chúng ta đầu thai lầm thế kỷ – Tôi nói – Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên văn minh, tràn đầy ánh sáng thì trên tổ quốc mình không phải chỉ một đôi người u uất nỗi bơ vơ mà cả dân tộc hàng chục triệu người đang lầm than cơ cực trong đêm trường đầy bóng tối của chế độ CS – một dân tộc đang tồn tại mà chẳng được tồn sinh.
* *
*
Gần tối hôm sau, Dậu hớt hải đến báo với tôi:
– Khoa bị bắt rồi. Dậu kể lại:
– Tôi chưa kịp nói gì thì xe công an cũng vừa ập tới. Tôi vội vã xuống cầu thang và lẻn vào phòng vệ sinh. Khi họ lên gác, tôi lẩn ra đường. Sau khi bắt Khoa và khám xét nhà xong, tôi lại đến. Gia đình Khoa cho biết, lệnh bắt Khoa là tập trung cải tạo. Mọi giấy tờ, kể cả hành lý tôi vừa mang đến đều bị thu.
– Gói hành lý có những gì? – Tôi hỏi:
– Địa bàn, đèn pin, lương khô, thuốc chữa bệnh, áo bạt, giầy đi rừng... Nếu Khoa kiên cường, dũng cảm và khai khéo léo thì chúng ta thoát nạn.
– Không thoát được, trang nhật ký năm nay, Khoa có viết việc chúng ta chuẩn bị ra đi. Xem xong trang cuối thấy nguy hiểm tôi bảo Khoa đề phòng nhưng không kịp. Đau lòng hơn là nhật ký của Khoa sẽ kéo theo một số người khác vào tù.
– Khoa bị bắt về tội khác, sống không khôn khéo chứ không phải việc chúng ta đã bị lộ.
– Đúng thế nhưng từ việc họ thu nhật ký của Khoa sẽ dẫn đến tai hoạ.
– Chào tạm biệt, có thể chúng ta vào Hoả lò cả. – Dậu chào tôi và ra ga lên tàu về Bắc giang.
Tôi không ngờ sự việc diễn ra xấu thế. Chưa đi được bước nào mà phải chịu cảnh tù đầy. Khoa có tâm hồn nghệ sĩ nhưng ứng xử với bên ngoài chưa nhạy cảm, nếu anh đến với tôi trước một tuần, có thể tai biến được phòng ngừa.
Anh sẽ khai trốn đi đâu? Tất nhiên Khoa không đến nỗi khờ khạo khai thật trốn vào Nam hoạt động chống Cộng. Còn Dậu tuy hoạt bát thông minh nhưng chưa từng trải, khó mà đối phó nổi với thủ đoạn của bọn chấp pháp Hoả lò. Tôi tự hỏi:“Bây giờ ta trốn đi đâu trong cái lồng sắt khổng lồ này? Những chiến sĩ tự do với cái gọi là “gián điệp biệt kích”được trang bị đầy đủ phương tiện hiện đại cũng không mấy ai thoát khỏi vòng nguy hiểm, huống chi ta khi ý định đã bị tiết lộ với kẻ thù. Thôi cũng đành chờ ngày vào lồng sắt hẹp”.
Tôi đi lang thang đây đó để thăm lại những nơi tôi thường lui tới, có nhiều kỷ niệm êm đềm. Đến thư viện quốc gia và thư viện Hà nội hai nơi đó tôi coi như những trường tự học. Đến cửa hàng Thuỷ tạ, mấy cô nhân viên trẻ ngơ ngác nhìn tôi, một cô hỏi:
– Nhân tình của anh đi đâu vắng?
– Tôi cắt đứt rồi.
Chả là tôi và Khoa thường đến cửa hàng, tìm bàn giải khát vắng để ngồi, rủ rỉ tâm sự nên các cô gái ở đây bảo chúng tôi như một cặp uyên ương.
Theo đường Yên phụ, tôi đến nhà thuyền hồ Tây, nơi chúng tôi cũng thường có mặt. Mặt hồ hôm ấy gợn sóng long lanh dưới ánh trăng vàng, lũ ve trên hàng cây bên hồ thi nhau rên rỉ như khóc than nhớ thương người sắp ra đi. Đến một gốc cây cổ thụ gần chùa Trấn quốc, tôi dừng lại để hoài niệm. Tại gốc cây này, năm xưa là điểm hẹn của một mối tình thơ mộng: Thày giáo trường Bưởi và cô gái bán hoa Ngọc hà. Cây đã chứng kiến nhiều năm hạnh phúc của họ, cây cũng nghe sự đau thương, ly biệt của hai người. Cuộc đời bác Vũ thị Hiền và Lê Ngọc Văn như một dòng sông đầu nguồn trong sau đục, còn cuộc đời tôi như một dòng nước đục ngầu không một ngày hạnh phúc. Tôi ước mơ một lần và một lần thôi, được ngồi bên em trên chiếc Périssoire II giữa hồ Tây rập rờn sóng vỗ, cùng ngắm các vì sao và vầng trăng trên nền trời cao lồng lộng. Và một ngày được sống trong thế giới tự do. Ôi, cái ước mơ nhỏ xíu ấy trong đời tôi bao giờ trở thành hiện thực. Ôi, Hà thành ngàn năm văn hiến đang bị giam cầm trong cái lồng sắt khổng lồ, tôi sắp phải từ giã nơi văn hiến ấy để nối tiếp chuỗi ngày cơ cực, nhục nhã hơn – cuộc sống một thằng tù. Nghĩ đến chị Bích Hằng – một phụ nữ có nhan sắc khuynh thành và phẩm hạnh; chị đã, đang trở thành mục tiêu cho bầy quỷ đói – những quái thai của thời đại hành hung và đầy đoạ, tôi thầm kêu lên: chị Bích Hằng ơi, em với chị cùng chung số phận, sinh ra đời để chịu mọi nỗi đau thương, cơ cực và tủi nhục.
Một buổi chiều, tôi đứng tựa gốc lan, mông lung suy tưởng, lơ đãng nhìn đàn chim xanh nhỏ xíu đang tung tăng nhảy nhót trên cành, tai văng vẳng nghe tiếng đàn violon trình bày bản Serenade de Shubert từ xa vọng lại. Người chơi đàn là một cô gái yêu văn nghệ, nhiều lần tôi gặp Vân ở thư viện quốc gia và nhiều lần nói chuyện với Vân về văn chương lãng mạn. Cả hai đều ý hợp – tín hiệu cho một tương lai hai trái tim cùng nhịp đập. Nhưng khi biết em là con ông cán bộ cấp cao sống trong nhà cao cửa rộng ở phố Yên phụ, tôi đã tránh mặt Vân để trốn chạy một mối tình dang dở mất nhiều nước mắt vì nghịch cảnh. Kể cũng lạ, thân phụ là ông quan cách mạng mà Vân bài xích văn học nghệ thuật của chế độ. Em nói, đó là thứ văn nghệ quái gở phục vụ chính trị, không có linh hồn.
Bỗng tiếng hát bên song cửa vang lên buồn da diết: “..ai nức nở thương đời, châu buông mau, dương thế bao la sầu...”.
Tiếng hát như mũi kim nhọn nhói vào trái tim tôi, không tự chủ được mình, tôi gục mặt vào gốc lan, lệ rơi lã chã.
Nguyệt ngừng hát, em an ủi tôi:
– Xin lỗi, có thể anh khóc vì tiếng hát của em. Gần đây, em biết anh buồn lắm, đáng lẽ có anh, em nên hát những bài...
Tôi muốn nói với em đôi điều trước lúc chia tay nhưng không biết nói gì mà cũng chẳng còn nghị lực. Không hiểu vì sao, trái tim tôi quá mềm yếu trước những ân tình hoặc những lời ngọt ngào, êm ấm của tình thương?
Đêm hôm đó, chuông đồng hồ điểm một tiếng, hai tiếng rồi ba tiếng, tôi vẫn nằm trằn trọc. Tôi nghĩ về quê hương với bao kỷ niệm yêu thương và tàn ác: Nhớ cánh đồng màu xanh mênh mông, bát ngát mỏi cánh chim bay, những làn sóng màu xanh vẫy chào từng cơn gió mát từ biển Đông đưa đến và chào đón ánh bình minh; nhớ tiếng sáo diều ngân nga vi vút lan toả khắp trời xanh như một bản trường ca êm ái; Nhớ hình ảnh kính yêu của mẹ – người mẹ dịu hiền trước đàn con nhỏ và cái chết thảm thương của người. Khắc sâu và còn khắc sâu mãi sự kiện bầy quỷ đỏ hành hình bố tôi hồi cải cách, khắc sâu đến bầm gan tím ruột mối hận thù. Ôi mảnh đất quê hương đã nhuộm máu của bao người lương thiện vì thứ lý thuyết ngoại lai đấu tranh giai cấp mất hết tính người. Nhớ những tháng năm cắp sách đến trường trên những chặng đường làng gồ ghề khúc khuỷu như những dấu ấn của quãng đời học sinh đầy gian truân, cơ nhục. Nhớ những chuỗi ngày u buồn, vô vọng ở Hà thành với hình ảnh người chị hững hờ, lạnh nhạt, đối với các em chị đã bỏ rơi mất tình thương. Nhớ những thân nhân nội ngoại gần xa với cái gọi là giai cấp tính, người ta coi tôi như người xa lạ hoặc khinh rẻ vì nỗi nghèo hèn. Chao ôi, cuộc đời cơ cực, tủi nhục triền miên và tương lai vẫn triền miên và triền miên như thế.
Nhìn ra khung cửa có cây lan, trước mắt tôi một khung trời nham nhở với những vì sao lấp lánh như những con mắt của thượng đế đang lơ đãng nhìn tôi. Thượng đế đã thờ ơ với số phận bất hạnh của một kiếp người. Tôi đau lòng khi thấy khắp bốn bề năm châu còn nhiều người mỉm cười với bầy quỷ đỏ vì chúng hiện hình như những đức Phật từ bi. Xót xa như dao cắt khi trên đất nước này, có hàng triệu người là nạn nhân vì sự mê muội và hèn hạ, họ vẫn trung thành cam chịu một cuộc sống đoạ đầy,vẫn coi bầy quỷ đỏ là thiêng liêng và tuyệt đối. Tôi mong ngày thiên hạ hội đồng, mong có thời nhân loại cùng nhau làm một cuộc thập tự chinh mới để quét sạch lũ vô thần tác yêu, tác quái, để trả lại bầu trời trong xanh và chuông nhà thờ ngân vang bay cao vút và để dân tộc phục hồi nền văn hiến cuả tổ tiên...
Mắt tôi mờ dần để tâm hồn bay đi tìm những ảo giác diệu kỳ. Nguyệt ngồi bên tôi trên chiếc thuyền buồm giữa dòng sông rộng lớn. Em nhìn tôi, mắt em ngời sáng màu hy vọng, em hớn hở một nụ cười như hoa xuân tươi thắm:
– Anh thân yêu ơi! Anh hãy vui lên. Nơi đây là ước mơ của cuộc đời anh. Nơi đây không phải chiếc lồng sắt khổng lồ đang giam cầm quê hương anh và tổ quốc mình. Nơi đây là trái tim của thế giới tự do, là quê hương của Washington vĩ đại.
Tôi sung sướng đặt lên môi em, một nụ hôn nóng bỏng – nụ hôn đầu của cuộc đời. Hơi thở em phả vào mặt tôi, hơi ấm lan truyền đến một trái tim giá lạnh. Hơi thở của tình yêu huyền diệu biết bao làm trái tim tôi rung lên như một khúc nhạc rộn ràng. Cặp mắt xanh mơ màng nhìn lên bầu trời tự do, em nói tiếp:
– Nơi đây không phải cái ước mơ nhỏ xíu “một lần và chỉ một lần ngồi bên em trên chiếc Périssoire II...”. Nơi đây là dòng Mississippi, em và anh đang ngồi trên chiếc thuyền buồm no gió để chiêm ngưỡng khoảng trời và miền đất như mùa xuân của nhân loại. Chúng ta sẽ hành trình khắp nơi trong thế giới tự do. Em và anh ngồi bên nhau trên con tàu vượt Đại tây dương đến thăm xứ sở sương mù, nơi có thành phố Luân đôn mờ ảo và những tiểu thư điệu bộ nhất thế gian. Chúng ta sẽ đên thăm nơi có lâu đài Tem pơn tô thuở trước, nơi đã diễn ra cuộc huyết chiến để bảo vệ nàng Rebecca kiều diễm của chàng hiệp sĩ Ivanhoe và Bois Guilbert dòng tu thánh chiến. Vượt qua biển Manche, chúng ta cùng sánh bước trên đường phố Paris hoa lệ. Chúng ta sẽ dạo chơi trong vườn Luxembourg để ôn lại mối tình thầm lặng của chàng Marius và nàng Cosette. Chúng ta sẽ tắm mát bên bờ Địa trung hải trong xanh và đến thành Venise để chiêm ngưỡng những cô gái lẳng lơ hàng đầu thế giới. Rồi từ đó, em và anh bay đến đất Phù tang, chúng ta sẽ hái hoa anh đào để chào đón vầng dương thức dậy trên ngọn núi fuji...
– Dậy, dậy mau!
Tôi bừng tỉnh thấy công an Hoả lò, hộ tịch và bảo vệ dân phố đã có mặt.
– Anh biết chúng tôi đến đây làm gì không? – Phó phòng chấp pháp Nguyễn hữu Viên hỏi.
– Tôi không biết.
– Anh đứng nghiêm nghe lệnh.
– Sở công an Hà nội ra lệnh bắt tên Nguyễn Tâm đang tích cực chuẩn bị trốn theo địch. Anh nghe rõ chưa?
– Tôi rất ngạc nhiên.
– Còn giả vờ ngạc nhiên à? – Viên ra lệnh tên cảnh sát đeo súng ngắn khoá tay tôi và khám nhà.
Chúng thu những sách của nhà xuất bản sự thật. Tôi thoáng nghĩ, tại sao chúng lại thu những sách này? Và tự trả lời, đây là những sách lý thuyết nói về bản chất của chế độ CS. Vì khô khan, trục trặc nên rất ít người đọc, thậm chí nhiều trí thức không quan tâm đến. Khác với báo chí, đài, văn học nghệ thuật là sách lược, công cụ tuyên truyền bịp bợm. Chẳng hạn, trong báo chí thường đăng: bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược và gây chiến, hay đế quốc là cơ sở vật chất gây ra chiến tranh. Nhưng trong lý thuyết lại viết, còn đế quốc, tư bản là còn giai cấp đối kháng. Để tiêu diệt giai cấp đối kháng, chúng ta dùng bạo lực cách mạng hay chiến tranh cách mạng. Từ đó, tôi có quan điểm ngược lại là chủ nghĩa CS chỉ tồn tại và phát triển trong chiến tranh. Bởi vì tàn bạo và bịp bợm là thứ vũ khí có hiệu quả cao trong cuộc chiến. Nhưng trong hoà bình, thứ vũ khí này trở thành con dao hai lưỡi kìm hãm sức sản xuất đưa đến nền kinh tế chỉ huy của CS trì trệ. Đọc sách chủ nghĩa Marx – Lénine có suy luận là tìm thấy một phần bản chất tàn bạo, nham hiểm của CS, nên những người như tôi đọc loại sách này là kẻ thù của chúng.
Trong lúc bắt tôi và khám nhà, anh Cương tuy là người ngoài cuộc, trông anh thảm hại làm sao! Mặt anh tái mét, thân hình dúm dó ngồi ở góc giường. Ở thời đại này, người có lòng nhân ái khi muốn làm điều thiện phải có thêm lòng dũng cảm. Gần mười một năm tù, tôi không một lần nhận được của anh thư hay lời thăm hỏi.
Mọi người có mặt trong chùa đứng xa nhìn lại, riêng Nguyệt đứng gần hơn, khoé mắt em rưng rưng lệ. Tôi chào từ biệt, em khẽ gật đầu rồi lấy khăn mùi xoa lau nước mắt.
Trước khi lên xe tù, tôi nhìn lại ngôi chùa lần cuối, cây lan đứng im, hoa không toả hương thơm. Hình như cây cũng buồn vì từ nay không được nghe tôi tâm sự. Đàn chim xanh ríu rít hót trên cành hằng ngày hôm nay cũng không thấy đến, làm tôi nhớ lại câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Và có lẽ em Lê minh Nguyệt từ nay cũng không hát nữa, bởi vì em không còn thính giả.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Nhà tù