HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp (2)
Chị Nguyễn thị Hà da trắng, khuôn mặt trái xoan, mày lá liễu, sống mũi thẳng, hàm răng trắng muốt với những nụ cười hoa ghen, nguyệt thẹn, mái tóc mây dài óng mượt, đường cong nét lượn uyển chuyển. Cái đẹp của một thôn nữ được tô điểm mốt thời trang đô thị, với tuổi hai mươi bảy vẻ kiều diễm của chị chưa phai mờ hình ảnh của độ tuổi trăng tròn: một tuyệt thế giai nhân. Theo cách nhìn của Khoa có thêm phần lãng mạn: chị là hiện thân của thần Vénus. Giọng nói của chị âu yếm, ngọt ngào, quả thật chị là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá, mang lại nguồn vui cho mọi người và nguồn cảm hứng cho những tâm hồn nghệ sĩ. Tuy nhiên cặp mắt lá răm của chị lắng đọng nỗi buồn thăm thẳm như dấu ấn của thời quá vãng đau thương và tủi nhục.
Mùa xuân năm 1962, tôi và Khoa đến nhà chị ở phố Triệu việt Vương, một gian nhà nhỏ, đồ dùng giản dị, gọn gàng. Thằng con trai của chị chẳng có nét nào giống mẹ. Nó xấu xí, khuôn mặt dài méo mó, cặp mắt có vẻ bất nhân. Thấy chúng tôi đến, chị bảo con đi chơi. Chị biết hoàn cảnh gia đình tôi có những điểm tương đồng như gia đình chị. Còn Khoa, chị cũng mến về đạo đức và quan niệm xã hội. Do vậy, chị Hà không ngần ngại ôn lại những trang sử bi thảm của gia đình và bản thân cho chúng tôi nghe. Trước hết chị nói:
– Họ và tên thật của chị là Phạm bích Hằng.
Sau đó chị kể lại tình yêu thơ mộng của chị ở quê hương. Kế tiếp, chị kể những tai hoạ và những diễn biến đã đưa chị đến Hà nội.
Với gương mặt buồn, giọng đều đều như đọc truyện, chị thầm thì:
– Anh Nam có dáng người và vẻ mặt hào hoa dễ mến, dễ thương. Cuộc tình duyên của chị và anh Nam sắp đến ngày thành vợ, thành chồng thì những sự kiện đau thương liên tiếp đến. Mẹ chị đột ngột qua đời, nỗi thương tiếc còn trĩu nặng, trên nấm mộ mẹ vừa xanh ngọn cỏ thì đội cải cách về làng. Đội trưởng Trần Bình xưa là người cùng xóm. Hắn cao to, khuôn mặt lưỡi cày, da mặt rỗ, lông mày sâu róm, môi dày và thâm, cặp mắt trắng dã. Nhiều cụ già nói, tướng hắn rất tàn bạo. Lúc còn nhỏ, Bình học dốt lại lười nên bỏ sớm. Năm hắn mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, anh em chẳng có ai. Bình chẳng chịu làm gì, bán dần tài sản để ăn. Hắn thường tụ tập, ăn chơi lêu lổng với mấy đứa mất dạy ở làng để trêu ghẹo con gái, hỗn láo với người nhiều tuổi, gây gổ đánh nhau luôn. Sau cách mạng, hắn bán hết nhà đất rồi đi bộ đội. Trong kháng chiến bặt tin hắn. Thời gian hoà bình lập lại, hắn về quê gần một tháng. May cho hắn, trước mấy ngày, có một gia đình công giáo đang đêm xuống thuyền trốn ra Hải phòng rồi đi Nam, chính quyền xã cho Bình ở nhà của gia đình đó. Cũng trong thời gian này, nhiều lần hắn đón đường, tán tỉnh chị bằng những lời lẽ thô bỉ. Chị vẫn từ tốn trả lời:
– Cảm ơn chú, cháu đã có nơi, có chốn.
Lần cuối cùng vào buổi tối, chị vừa ra ngõ thì gặp hắn. Bình sấn lấy tay quàng vai chị và buông ra những lời suồng sã:
– Chào cô em, cô em làm cao quá. Đã trót hẹn với ai hãy dẹp ngay. Bây giờ về ở với anh, được là vợ của một quân nhân cách mạng có vinh dự không?
Bực quá, chị hất mạnh tay hắn ra và nói:
– Đồ mất dạy!
Bình hầm hầm tức giận, trợn mắt trắng dã và đe doạ:
– Được, được, có ngày mày sẽ biết!
Trần Bình là đội trưởng cải cách làm chị băn khoăn, lo sợ. Mặt khác, nghe người ta nói ở các vùng chiến khu cũ đã làm rồi, diễn ra nhiều sự kinh hoàng lắm. Cả bộ đội, cán bộ có nhiều người cũng bị lôi ra đấu tố, bắn bỏ nhưng thân phụ chị và anh Lân cứ bình chân như vại, người nói:
– Gia đình ta ba đời chuyên nghề dạy học. Ngoài mảnh vườn trồng cây ăn quả, không có thóc hoặc tiền cho vay nặng lãi. Lại không có người cộng tác với đối phương. Như thế còn lo gì cải cách?
Chị cãi lại:
– Con nghe đồn các nơi khác khủng khiếp lắm, nào là cải cách ruộng đất, một cuộc cách mạng long trời, lở đất, trận Điện biên Phủ đồng bằng. Nào là nhất đội, nhì trời, giết oan còn hơn bỏ sót. Con chỉ sợ, sự thật là con nai, trước họng súng và lưỡi lê, họ bảo là con ngựa mình cũng phải cúi đầu mà nghe.
Nghe chị nói, anh Lân phản đối:
– Ngày nay, những năm giữa thế kỷ thứ hai mươi, họ không thể theo vết đường mòn của chế độ nhà Tần cách đây hàng nghìn năm lịch sử. Em sợ Trần Bình giống như Triệu Cao à?
Sau đó hai tuần, tấn bi kịch mở màn. Khi bóng chiều đã ngả dài, đoàn thiếu nhi hàng trăm đứa, trống ếch khua vang, đến trước cổng nhà chúng đứng lại, hô ầm ĩ nhiều khẩu hiệu.
– Hoan nghênh chính sách...
– Kiên quyết đánh đổ bọn địa chủ...
– Kiên quyết đánh đổ cha con tên Phạm Lãm địa chủ, đại gian, đại ác và phản động!
Từ hôm đó, không ai được đi đâu nữa, bị giam lỏng trong nhà. Cả gia đình thất kinh, hoảng sợ, chỉ biết trông chờ vào số phận, tin vào điều ở hiền gặp lành.
Ba ngày sau, Trần Bình dẫn hàng chục du kích, cốt cán đến nhà. Hắn đọc lệnh bắt giam thân phụ chị và anh Lân. Bọn du kích trói hai người bằng dây dù, chị thấy rùng mình, nhưng Trần Bình quát:
– Các đồng chí trói kẻ thù của giai cấp thế à? Phải cho chúng biết thế nào là sức mạnh của bà con nông dân.
Thật trớ trêu, mấy tên tay sai của Trần Bình, khi xưa là học trò của anh Lân. Chúng dùng hết sức gò hai tay của từng người về sau lưng gần sát vào nhau, ngực ưỡn về phía trước. Nhìn cảnh tượng ấy chị Loan (vợ anh Lân) vừa khóc vừa van xin hắn, cháu Hải cũng khóc thất thanh. Nhưng hắn ra lệnh cho bốn du kích giải hai người đi ngay. Số còn lại cùng thằng Bình lục soát khắp nhà. Tài sản nhà chị nào có gì giá trị đâu, ngoài vài ba tạ thóc mới mua dự trữ dịp mùa và một ít tiền, còn lại toàn là sách. Hàng nghìn cuốn sách bằng tiếng Pháp, chữ nho và tiếng Việt. Hầu hết là sách văn học, lịch sử Đông, Tây kim cổ do hai bố con bao năm dành dụm từng đồng, tìm kiếm khắp nơi mua. Gia đình này quý sách như hơi thở, thường bảo nhau:
– Nghèo mà có sách hay để đọc vẫn tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Chúng lôi ở hai tủ to ra và nhặt các nơi trong nhà thấy nhiều sách quá, chúng xin ý kiến thằng Bình:
– Thứ này nông dân không cần thì thu làm gì?
Thằng Bình cầm vài quyển mở ra xem như nhìn vào bức vách, hắn nói:
– Toàn là sách của thực dân, phong kiến, hai bố con tên Lãm đọc để phun nọc độc hại nông dân. Bình ra lệnh:
– Mang ra sân đốt hết và cộng thêm cho chúng tội tuyên truyền tư tưởng phản động.
Thế là từ trong nhà chúng ném sách ra sân thành đống, Bình tự tay châm lửa đốt. Còn quyển lịch sử cận đại ở đầu giường, tên cốt cán nhặt đưa cho Bình. Hắn mở ra xem, vừa đánh vần vừa đọc một đầu đề: Cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa kỳ. Hắn ngây người ra trong giây lát, bỗng hắn reo lên:
– Đúng rồi, Hoa kỳ tức là Mỹ.
Hắn bĩu môi cười khoái trá:
– Tên đế quốc đầu sỏ, chuyên xâm lược nước người mà phải giành độc lập à?
Đoạn hắn mở tiếp sang trang khác. Bình lẩm nhẩm đọc: Cuộc cách mạng tư sản Pháp. Hắn lại cười sặc sụa:
– Sách phản động thế là cùng, thực dân Pháp mà làm cách mạng?
Chúng vơ vét hết gạo thóc và vài thứ nữa đưa vào buồng khoá lại và niêm phong. Chị Loan xin mãi, Bình mới cho khoảng mười cân gạo. Cũng còn may, ngoài vườn có hai luống khoai lang, khuất sau những cây ăn quả, Bình và bọn cốt cán không biết. Hai chị em bảo nhau, gạo để dành cho cháu Hải ăn dần, còn hai chị em bới khoai củ, hái lá luộc ăn trừ bữa.
Gần một tháng trôi qua trong lo buồn, đói khổ, cháu Hải đang bị sốt nặng thì Bình bắt hai chị em ra sân đình tập trung nghe đấu tố địa chủ thường. Nghe Bình quát, Hải khóc thét lên. Lập tức Bình vu khống, hắn quát tiếp:
– Mày xui con gây rối, chống phá phải không?
Hắn ra lệnh cho du kích giằng Hải từ tay chị Loan, quẳng vào buồng niêm phong tài sản khoá lại. Chị Loan khóc van xin:
– Các ông tha cho cháu, nó đang ốm nặng. Các ông giết con cũng được, xin các ông đừng giam nó, cháu chết mất. Con van lạy các ông!
Cháu Hải trong buồng khóc không thành tiếng. Mặc những lời van xin thảm thiết của chị Loan, du kích cứ kéo hai chị em ra sân đình, không tha cho Hải.
Đến nửa đêm, chúng mới cho hai chị em về. Chị Loan chạy đến cửa buồng gọi to, gọi đến bốn năm lần, cháu Hải mới oà lên khóc và trả lời:
– Mẹ ơi, con đói!
Chị Loan bàn với chị:
– Đêm nay chắc chúng không mở cửa tha cho Hải, ngày mai cháu nguy mất. Tôi định cậy ngạch chui vào bế cháu ra đi trốn.
– Ở nông thôn chỗ nào cũng cải cách, chị trốn đi đâu cho thoát?
Chị ngần ngại nói:
– Trốn đi đâu thì sau sẽ liệu, bây giờ phải cứu cháu ra ngoài đã. – Nói xong chị Loan hành động.
Chị ấy dùng con dao rựa sắp cậy ngạch thì bọn du kích đi tuần bắt được. Chúng quát tháo om xòm:
– Chúng mày định cậy ngạch chui vào cướp lại của phải không?
– Chúng con không dám – Chị Loan nói – chỉ xin các ông tha cho cháu Hải thôi.
Theo lệnh của thằng Bình, chúng bắt hai chị em giam vào chuồng trâu nhà hàng xóm. Bên trong hơi phân bốc lên nồng nặc, muỗi nhiều như ong, tay vơ được. Người nhốt chung với vật làm con vật cũng khổ thêm. Cửa ra vào mọi ngày bỏ ngỏ, nay che kín bằng phên nứa buộc chặt lại. Trời mùa hè nóng nực, không khí bên trong như bị đốt lên nhưng mệt quá, hai chị em thiếp đi lúc nào không biết. Gần sáng hai chị em tỉnh dậy, khát nước quá, cổ se lại. Ngay bên cạnh lại có thùng nước còn một ít, có lẽ trời nóng quá nên nhà chủ để nước cho trâu uống thêm ban đêm. Hai chị em bê cả thùng uống hết.
Sáng rõ, tên du kích mở cửa, chị Loan lại van xin tha cho cháu Hải. Hắn trả lời:
– Phải chờ lệnh của ông Bình.
Đứa trẻ con nhà chủ mười hai tuổi vào dắt trâu ra đi chăn, nó đứng bên cạnh nhìn vào chị, nói khẽ:
– Ở trong bó rơm buổi tối nay ấy nhé!
Hai chị em không hỏi lại nhau nhưng đều hiểu ý.
Ban ngày trâu được tự do ngoài đồng ăn cỏ, còn người vẫn bị giam tại chuồng của nó. Hai chị em cứ thần người ra, chẳng ai nói với ai câu nào.
Đến tối khi trâu vào chuồng, thằng nhỏ ôm bó rơm và xách một thùng nước vào. Sau khi tên du kích che chắn cửa, chị bới bó rơm ra, có một nắm cơm lẫn muối vừng ở giữa. Hai chị em bỏ ra ăn, chị Loan chỉ nuốt được vài miếng rồi thôi. Trước hành động nhân ái và dũng cảm ấy, chị ngẫm nghĩ, họ muốn biến xã hội này thành dã thú nhưng vẫn có những trái tim lành mạnh mang dòng máu của giống nòi.
Đến sáng hôm sau, Bình mới tha hai chị. Chị Loan nói với chị:
– Cháu Hải chắc nguy rồi, nếu cháu có mệnh hệ nào, chị nhờ em lo liệu, chị không chắc sống được nữa.
Bình mở cửa buồng tha cho cháu Hải. Chị Loan ngoài cửa nhìn vào thấy con đã chết, chị ngã xuống và ngất liền. Chị bước vào bế cháu ra, thân thể cháu còn hơi ấm, chân tay cứng lại, mồm đầy gạo. Khốn khổ mới mọc vài cái răng sữa thì nhai gạo làm sao?
Đau thương quá, chị không thể nào khóc được, chị lấy vỏ chăn cũ gói cháu lại, ngoài bó thêm cái chiếu lặng lẽ đưa cháu ra đồng chôn cất bên bà nội cháu.
Mãi đến chiều, chị Loan mới tỉnh. Chị ấy đã phát điên, có lúc khóc rống lên và gọi con:
– Hải ơi, con đi đâu về với mẹ!
Có lúc cười gằn từng tiếng, nói nhảm nhí một mình:
– Ha ha ha! Mày hoá ma rồi, Hải ơi, mẹ cũng sắp theo con.
Hai ngày sau, khi bóng chiều đã xế, tiếng trống ếch từ xa vọng lại xen lẫn tiếng hò reo. Người qua đường nói chuyện với nhau, họ nói to như thông báo cho hai chị em biết:
– Chiều nay, toà án nhân dân đặc biệt xử tên Phạm văn Lân.
Khi mặt trời sắp lặn, Bình đến, hắn tuyên bố:
– Tên Lân có tội nợ máu với nông dân và tội phản động chống phá cách mạng, nay y phải đền tội. Chúng mày phải ký vào biên bản trả tiền mua quan tài cho y...
Bình đang nói dở thì chị Loan ngã gục xuống nền nhà, tim chị ấy đã ngừng đập, cũng là thời điểm vang lên mấy loạt đạn từ pháp trường cách nhà khoảng một cây số.
Thấy chị Loan tắt thở, Bình bỏ đi. Trước cảnh tượng đó, chị toan đập đầu vào tường chết cho xong nhưng sực nhớ thân phụ vẫn còn, chết trước sao đành. Bọn khát máu cũng sẽ giết người, thôi hãy chờ đợi để chị ra đi cuối cùng vậy.
Nếu chưa chết thì bây giờ phải làm gì? Chị Loan nằm kia mà mọi người sợ liên quan đều xa lánh, chị lấy cái màn trải rộng đặt chị Loan vào quấn lại, bên ngoài cũng phủ thêm cái chiếu. Hơn một tháng ăn khoai, mấy ngày nay lại bỏ ăn, thể xác bị hành hạ, tinh thần bị đau thương đến tột đỉnh nên thi thể chị Loan nhẹ như cây gỗ mục. Một mình chị vác chị Loan ra đồng chôn cất bên cháu Hải.
Thêm mấy ngày trôi qua, tâm trí chị đang trong cơn hoảng loạn thì Bình lại đến. Hắn ra lệnh theo hắn về nhà. Hắn ngồi trên ghế trước bàn làm việc. Còn chị hắn bắt ngồi xuống đất. Cặp mắt trắng dã của hắn đảo đi, đảo lại nham hiểm và man rợ:
– Muốn đội khoan hồng, mày phải phục tùng một điều kiện. ngừng vài giây, hắn chậm rãi:
– Trước đội, toà án nhân dân đặc biệt và ông bà nông dân, mày phải tố tên Lãm thời gian dạy học trên thị xã quan hệ với phòng nhì của địch để bắt cán bộ cách mạng. Và... và đã cưỡng hiếp mày nhiều lần...
Không tự chủ được, chị oà lên khóc và nói;
– Bố ơi, bố hãy tha lỗi cho con, con đang phải nghe những lời ghê tởm. Trời đất hỡi, có bao giờ lại loạn luân như thế này không? Ông Bình, ông hãy giết tôi ngay, ông đừng buông ra những lời thô bỉ nữa. Đồ khốn kiếp! Quân khát máu! Loài dã thú!...
Như con thú bị phường săn dồn đến đường cùng, chị phát điên lên chửi cho hắn một hồi.
Thật khó hiểu, vẻ mặt Bình vẫn thản nhiên, mơ màng nhìn ra ngoài cửa, hình như đang say sưa với một ý nghĩ nham hiểm và độc địa? Sau nhiều giây im lặng – sự im lặng rùng rợn như trong địa ngục, hắn liếc nhìn chị, nở nụ cười ghê rợn:
– Cô em chửi đã chán chưa? Nếu cô em muốn gặp bố lần cuối cùng thì đội chiếu cố.
Chị thoáng nghĩ, lời hắn nói cũng là ước mong của chị, được gặp lại người lần cuối trước khi người về cõi. Cứ liều xin hắn hoạ may... Chị đổi giọng:
– Nếu ông cho phép dù phải chết, tôi cũng xin chịu.
– Làm gì đến nỗi thế, mà chỉ... – Hắn đi khép và cài cửa lại, rồi đến bên cạnh chị, hắn nói nhỏ:
– Nếu ngày ấy, cô em biết nghe lời thì nay đâu đến nỗi... Bây giờ cô em ngoan ngoãn phục tùng nhé! Có chống lại cũng chỉ thiệt thân thôi.
Dứt lời, bằng sức mạnh của tên cuồng loạn, hắn kéo chị lên giường. Chị cựa quậy tuyệt vọng để chống trả nhưng đã sa vào hang quỷ, có kêu cũng không ai dám cứu, có phản ứng lại cũng chẳng thoát khỏi nanh vuốt của nó. Khi ấy chị mới biết rằng, vì sao chị chửi hắn như vậy mà hắn vẫn làm thinh, có lẽ thú tính đang ngự trị hắn? Hắn đang mê man tìm cách thoả mãn cơn thèm khát về dâm dục.
Sau khi thoả chí mây mưa, con người tàn bạo của Trần Bình lại xuất hiện, hắn trừng mắt quát đuổi chị về.
Gần hai tháng trôi qua, chị đã quên anh ấy, có lẽ nỗi đau thương tràn ngập trong tâm trí nên không còn chỗ đứng của tình yêu. Chỉ sau khi bị thằng Bình làm nhục, chị mới sực nhớ đến anh và thầm nhủ:
– Anh Nam ơi, anh có thấu cho lòng em không? Anh có biết cái thiêng liếng nhất của người con gái trong trắng, thuỷ chung – người đã yêu anh, nay đã bị con quỷ kia cướp mất rồi? Liên tưởng đến hai câu thơ của cụ Nguyễn Du:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Chị thầm nhủ tiếp:
– Buổi em gặp anh ở Hà nội đầu tháng mười năm qua, nếu biết thế này thì... Anh hãy tha thứ cho em – kẻ phản bội anh. Trước cảnh đau thương của gia đình và nỗi nhục ê chề của mình, em không dám và không thể gặp anh lần nữa.
Em sắp sửa từ bỏ cái thế giới ghê tởm này.
Chị cứ lẩn quẩn trong câu hỏi:
– Hiện nay chúng giam giữ thân phụ chị ở đâu, bao giờ chúng mới đem ra đấu tố và hành hình?
Một buổi chiều, chị ra vườn để lẻn sang hàng xóm, một gia đình tốt bụng. Hai vợ chồng bác hàng xóm đưa chị vào nhà, khép cửa lại cẩn thận, bác trai ghé vào tai chị nói nhỏ:
– Nghe đâu họ đưa ông nhà về xã mấy ngày nay, giam ở đâu không rõ, chỉ vài ngày nữa là họ đưa ra xét xử.
Chị thì thầm hỏi:
– Họ buộc bố cháu và anh Lân những tội gì?
– Cả vùng này, ai chẳng biết gia đình ta ăn ở nhân đức, khai hoá cho nhiều người thoát khỏi tối tăm, ngu dốt nhưng họ muốn bịa ra bao nhiêu tội mà chẳng được – Bác hàng xóm rơm rớm lệ, nói tiếp:
– Hôm nọ, đấu anh Lân, họ buộc tội thời gian dạy học tuyên truyền quốc dân đảng, cùng với bố xúi giục người vào tổ chức này. Năm ất dậu, anh Lân và ông nhà dựa vào cường hào ức hiếp gia đình ông An phải bỏ nhà ra đi, chết đường, chết chợ. Ngoài ra, thời gian dạy học ở thị xã, ông nhà còn mắc tội làm chỉ điểm cho giặc bắt và giết hại cán bộ cách mạng.
– Họ có chứng cớ gì không? – Chị hỏi.
Bác hàng xóm mỉm cười chua chát:
– Cháu ơi, cháu ngây thơ như thỏ non trước bầy sói. Mỗi buổi đấu tố địa chủ, phản động là một màn kịch được biểu diễn theo kịch bản của đội. Những diễn viên“chính diện”là những cốt cán – những nghệ sĩ ưu tú về vu oan giá hoạ, những người tham quả thực và những kẻ có lòng dạ bất nhân. Sau khi học thuộc kịch bản, họ tập dượt nhiều lần trước khi trình diễn, gọi là bồi dưỡng khổ chủ. Còn những diễn viên“phản diện”đứng trước vành móng ngựa không được nói gì, ngoài việc cúi đầu nhận tội. Màn kịch có bao nhiêu diễn viên“chính diện”là có bấy nhiêu nhân chứng.
– Bác ơi, xã hội sao điên đảo thế, bằng những màn kịch để chém giết người vô tội? – Chị bưng mặt khóc thầm.
– Thế đấy! – Bác hàng xóm lấy khăn lau nước mắt. Trong khi đó, con gái bác đi đâu về, chị ấy ôm lấy chị, nước mắt rưng rưng:
– Chị ơi, em vừa được tin, trưa nay bác nhà tự sát rồi. Một là, sau khi đưa về xã vài ngày, có ai đó nói cho bác những tai hoạ ở nhà; Hai là, bác cũng biết bọn khát máu không tha bác nên nhân dịp tên du kích sơ hở để khẩu súng có cắm lưỡi lê gấn đó rồi ra ngoài, bác kéo cả cái cùm bằng gỗ bò lại lấy súng và tháo lưỡi lê đâm vào cổ.
Vĩnh biệt gia đình bác hàng xóm giàu lòng nhân ái, trở về nhà, chị nằm vật xuống giường, chẳng khóc, chẳng nghĩ gì. Vì mọi sự kiện đã kết thúc, hay nói cách khác, chị chuẩn bị ra đi để tấn bi kịch gia đình chị hạ màn. Ngay sau đó, thằng Bình đến. Thấy chị nằm, hắn quát.
– Mày đứng dậy nghe lời tuyên bố của đội. Tên Lãm đã tự sát để trốn tránh sự trừng phạt của toà án nhân dân đặc biệt. Từ giờ phút này, đội tịch thu tài sản của gia đình mày để chia cho ông bà nông dân. Trước khi ra khỏi nhà, mày phải...
Hắn nói chưa dứt lời, chị vùng dậy chạy ra ngoài ngõ, theo con đường nhỏ, chị chạy lên đê sông Hồng. Cuối mùa hè, nước lũ về to ngập hết bãi. Tìm đến chỗ nước sâu, nước chảy xiết, chị nhìn quanh đó chẳng có ai. Trước mắt, một chiếc thuyền chài đứng im lìm, hình như người đi đâu vắng. Khoảng không gian bao la, tĩnh mịch của buổi hoàng hôn thảm đạm, chị đứng, hai tay chắp lại, quay về phía tây bắc thì thầm:
– Anh Nam ơi, bây giờ em đi tìm bố mẹ và những thân nhân ở thế giới bên kia. Một lần nữa, xin anh hãy tha thứ cho em. Vĩnh biệt anh!
Dứt lời, chị đâm đầu xuống nước, sau ít phút sặc sụa, ngạt thở, chị không biết gì nữa. Tưởng như một giấc ngủ say, thời gian bao lâu chị không còn cảm giác. Đột ngột chị mở mắt ra, thấy mình trong khoang thuyền có mui. Bên cạnh chị, có một ngọn đèn dầu và hai người ngồi, một đàn ông, một đàn bà tuổi ngoài bốn chục. Liếc nhìn ra bên ngoài trời tối, xa xa có nhiều vì sao lấp lánh, chị bật kêu lên:
– Đây có phải cõi âm không?
Người đàn bà vội ôm lấy chị, cũng kêu:
– Nó tỉnh lại rồi, tỉnh lại rồi.
Bà ôn tồn nói tiếp:
– Cháu ơi, đây là cõi thế, không phải cõi âm đâu. Tại sao cháu liều mình như vậy?
Chị bật khóc nức nở và tỏ lời oán trách;
– Các người đã ngăn cản tôi, không cho tôi đi tìm bố mẹ. Cả nhà tôi, bọn khát máu đã giết hết rồi.
Hai vợ chồng bác thuyền chài hết lời khuyên can chị:
– Cháu ơi, đau thương quá không chịu đựng nổi phải tìm đến cái chết để giải thoát là sự hèn kém, không ai khen mà ngược lại, người ta còn chê cười mãi mãi. Cháu hãy còn trẻ phải cố gắng vượt qua mọi nỗi đau thương, tủi nhục để mà sống. Nếu không có hạnh phúc thì hãy sống để suy ngẫm sự đời. Nỗi đau thương của cháu nằm trong tai hoạ chung của dân tộc. Ngay kẻ thủ phạm gây nên cảnh bi thảm này về sau chính con cháu chúng cũng gánh hậu quả – Đảo lộn luân thường đạo lý, một xã hội chất chứa thú tính và tội ác.
Nghe những lời khuyên giải ấy, lòng chị dịu dần. Sờ lên tóc thấy còn ướt nhưng quần áo lại khô, chị mới biết, bác thuyền chài gái đã thay quần áo cho chị. Bác nâng chị ngồi dậy và kể lại:
– Thoáng nhìn cháu đi trên đê, thân hình tiều tuỵ, tóc buông xuống rối tung, quần áo xộc xệch, bác linh cảm thấy điều gì không hay sắp đến. Bác nhìn theo đến khi cháu nhảy xuống sông, khi ấy bác trai đang ngủ, bác vội gọi dậy cứu cháu.
– Cháu thường nghe nói, thuyền chài kiêng cứu người dưới nước, tại sao hai bác dám làm?
– Đúng, đó là điều kiêng kỵ nhưng bác đoán tai hoạ đến với cháu cũng giống như tai hoạ xảy ra trong gia đình bác vừa rồi. Người cùng cảnh ngộ phải yêu thương, cứu vớt lẫn nhau cháu ạ.
Nghe chị kể lại tai biến của gia đình mình, hai người đều khóc. Với một giọng nói đầy uất ức, bác gái cũng tường thuật lại nỗi đau thương vừa qua với gia đình người anh ruột:
– Nhà bác ở bên kia sông. Trước cách mạng, ông thân sinh ra bác đi buôn bè được mấy chuyến lãi to, đã xây một ngôi nhà ngói gỗ lim và mua hai mẫu ruộng. Khi lấy chồng, ông chia cho bác một mẫu nhưng bác nhường lại cho anh.
Vợ chồng người anh bác hiếm hoi, chỉ sinh được một“tiểu thư". Năm 1949, nàng mới mười sáu tuổi, ngày ngày mê say đàn đúm với trai và nhảy xon đố mỳ. Bố mẹ hết lời can ngăn nhưng nàng không nghe. Nàng còn báo cáo với chính quyền địa phương: bố mẹ lạc hậu, cấm nàng tham gia sinh hoạt đoàn thể. Nàng bị chửa hoang và theo một tên du đãng. Khi đội cải cách về làng, hai vợ chồng nàng trở thành cốt cán. Và gia đình người anh bác bị quy lên địa chủ. Nàng vạch mặt thằng bố hiếp nàng nhiều lần và thủ đoạn bóc lột nông dân. Bố mẹ cho con cả hai mẫu ruộng, con bán đi ăn, còn tố bố cho ruộng để trốn tránh cái tội bóc lột người lao động. Sau khi bị trưng thu tài sản, người anh bác uất ức quá đã thắt cổ tử tự.
Hai vợ chồng bác thuyền chài yêu cầu chị:
– Các bác không có con, thấy cháu hiếu nghĩa, thuỷ chung nên thương yêu và mong muốn cháu là con nuôi.
– Cháu cảm ơn hai bác – Chị tiếp lời – đã cứu mạng cháu, lại dành cho cháu những tình cảm yêu thương như con đẻ. Cháu không dám từ chối lòng nhân hậu ấy, ngược lại cũng là ước mong của cháu nhưng cho phép cháu được xưng hô như cũ. Bởi vì mỗi lần nhắc đến hai từ bố mẹ là lòng cháu lại quặn đau.
Từ đó, chị có bố mẹ nuôi, hàng ngày kéo lưới với gia đình và làm những việc nội trợ. Còn bán cá, thuỷ sản và mua sắm mọi thứ mẹ nuôi đảm nhiệm.
Thuyền rời xa làng chị, xuôi về biển. Đôi khi chị cứ lẩn quẩn nghĩ rằng, giống như Thuý Kiều, chị phản bội anh Nam và hiến dâng thân mình cho thằng Bình khi hắn ở chiến khu về, có thể tránh được thảm hoạ cho gia đình hay không?
Hai tháng trên sông nước, nỗi đau được pha trộn với tình thương yêu êm đềm của bố mẹ nuôi, tâm hồn chị dịu dần, dường như tai hoạ đã lùi về dĩ vãng nhưng không, nỗi nhục với thằng Bình lại dẫn đến một tai biến mới. Dòng máu khốn kiếp của con quỷ ấy đã xuất hiện bên trong. Khi ấy chị lại nghĩ chỉ có cái chết mới xoá được vết nhơ cũng như mọi nỗi đau. Bố mẹ nuôi biết chuyện lại hết lời khuyên can chị. Mẹ nói thêm:
– Con không nghe lời bố mẹ, liều mình bỏ bố mẹ là phạm tội bất hiếu. Còn đứa trẻ chưa ra đời, mặc dù là sản phẩm của một nỗi nhục nhưng nó là đứa con vô tội. Vì lòng nhân ái, con không nên giết nó. Bố mẹ sẽ hết lòng chăm sóc nó.
Nghe lời khuyên giải, chị đành nhắm mắt để dòng đời trôi nổi.
Tháng 5 – 1956, cái sản phẩm được kết tinh bởi hai dòng máu tàn bạo và nạn nhân cất tiếng khóc chào đời. Chị càng đau lòng vì nó giống hệt con quỷ ấy – cha của nó. Mẹ nuôi chăm sóc, nâng niu thằng bé và cho cháu bú là việc chị phải làm.
Cuộc sống lênh đênh trên thuyền, xa cách quê hương thân thương và trìu mến cũng như xa cách cái mảnh đất đang chìm đắm trong máu và nước mắt đã hơn mười tám tháng. Một buổi sáng, bầu trời mây đen bao phủ. Những hạt mưa như bụi bay theo từng cơn gió xuân lạnh lẽo. Chị ngồi trên mui thuyền tưởng niệm những người thân đã khuất, tưởng niệm tình yêu thơ mộng và tan nát, trái tim chị đau như dao cắt, cặp mắt đẫm lệ khóc nỗi đời oan nghiệt. Một con đò sang ngang đến gần, thằng Bình trên con đò ấy đang chằm chằm nhìn chị từ bao giờ? Bị tấn công bất ngờ, chị đứng dậy vào trong khoang thuyền, thưởng cho hắn những lời đích đáng:
– Đồ khốn kiếp! Quân khát máu! Giống mặt người dạ thú! Loài quỷ dữ!
Cũng may, thời gian đó đã qua giai đoạn sửa sai nên hắn chẳng làm gì được chị. Hắn như điếc quay mặt đi hướng khác và giục lái đò tăng tốc độ. Nghe mẹ nuôi nói, người ta bàn tán xôn xao đến sửa sai trong cải cách. Chị ngẫm nghĩ, tại sao họ lại sửa sai? Hàng vạn người vô tội chết oan, hàng chục vạn gia đình tan nát trong cảnh phụ tử, phu phụ, huynh đệ tương tàn. Phải chăng điều đó là mục tiêu của họ? Cái chính là họ đã chém giết lẫn nhau, diễn ra cảnh đồng chí tương tàn. Hàng nghìn người vì ước mơ độc lập, tự do đã vào sinh ra tử, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, không ngờ họ lại trở thành những nạn nhân trong cải cách. Vả lại họ đã sửa sai được những gì? Người chết oan không thể sửa cho sống lại đã đành, còn người mất của thì sao không được đền bù xứng đáng, chưa kể đến bồi hoàn danh dự? Họ minh oan cho người chết bằng ba tấc lưỡi, họ trả nhà cho người bị quy kết nhầm nhưng của cải bị vơ vét sạch và nhà cửa bị tan tác, tiêu điều gấp một trăm lần giặc phá. Quả thật, họ vì công lý mà sửa sai, tại sao những tên khát máu như Trần Bình không phải đền tội? Là một điều ngịch lý khi thấy rằng, một kẻ giết người cướp của phải nhận án tử hình, còn những kẻ gây nên máu chảy thành sông, cả dân tộc hoảng loạn trong đau thương: con mất cha, vợ mất chồng, anh em ly biệt, nếp sống đạo đức và văn phong của xã hội bị chà đạp thô bạo, đập phá tan tành, tại sao những kẻ đó vẫn ung dung ngồi trên lầu son, gác tía, tuôn ra những lời giả nhân, giả nghĩa“sai thì sửa”?
Thực ra Trần Bình chỉ là một tên lính trong đoàn quân khát máu hàng vạn người được huấn luyện thành thạo cách vu oan giá hoạ, cách đảo lộn luân thường đạo lý: ông con, bà con tố điêu cho thằng bố, con mẹ; Bà vợ bịa đặt cho thằng chồng... Việc sửa sai của họ chẳng khác chi Tào tháo giết tên lính hầu rồi lại thương khóc tên lính xấu số đó?
Những tên khát máu như Trần Bình vẫn là tấm gương sáng tuyệt vời của chế độ, chắc chắn chúng sẽ leo nhanh trên các bậc thang địa vị. Tuy nhiên trong sửa sai để lừa bịp dư luận, họ tạm thời giấu những tấm gương ấy trong tủ kín.
Nghĩ như thế, chị cho rằng, cuộc sống trên sông nước không còn ổn định nữa, liệu mà cao chạy, xa bay đến một phương trời khác. Trước khi từ biệt quê hương chị muốn về đắp mộ cho bố mẹ và những người thân nhưng việc đó chưa chắc đã làm được mà nỗi nhục của chị sẽ lan tràn khắp vùng quê.
Bố mẹ nuôi có người họ hàng xa ở Hà nội, gia đình này giàu lòng nhân ái. Mấy ngày, ông bà lận đận về quê xin cho chị giấy thông hành có họ tên Nguyễn thị Hà, quê quán thuộc tỉnh Hưng yên. Và một giấy khai sinh cho cháu có họ tên Phạm sinh Giang (đẻ ra ở trên sông). Bố nuôi viết một bức thư ngắn đưa cho chị, với nội dung sau:
Ngày 10 – 4 – 1957. Kính gửi bác Hiệp. Đã lâu ngày không gặp bác, lẽ ra tôi phải lên thăm bác nhưng vì hoàn cảnh neo đơn mong bác cảm thông. Nay tôi viết vài dòng kính thăm bác, các cháu và toàn gia.
Người trao cho bác lá thư này là đứa con nuôi đáng thương của tôi trong một hoàn cảnh rất éo le, oan nghiệt.
Dám mong bác hết lòng giúp đỡ cháu để có một cuộc sống ổn định. Chúc cả nhà mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn, xin đội ơn trời biển của bác...
Không thể nấn ná lâu, ngày chia ly đã đến. Về phương Đông, vừng dương mới mọc, dòng sông Hồng lăn tăn ánh bạc, tiếng cuốc kêu khắc khoải từ những luỹ tre hai bên bờ vang lại. Phương trời Tây bắc mù mịt mây đen, lòng chị buồn da diết, nước mắt thầm lăn trên gò má. Bố mẹ nuôi ngồi đó, hai người đều ủ rũ, mặt cúi xuống, cũng không ngăn nổi hai dòng châu.
– Kính thưa bố mẹ! – chị nói, lần đầu chị xưng hô như thế – Từ nay con và cháu phải xa bố mẹ, lòng con bùi ngùi thương nhớ. Biết đâu nơi đất khách quê người con cũng không thoát khỏi cảnh đắng cay, tủi nhục không thể đền đáp công ơn như Thái sơn của bố mẹ. Con xin lạy bố mẹ, hãy tha thứ cho con – một đứa con bất hiếu.
Mẹ nuôi oà lên khóc và nói:
– Con ơi, con đừng nói thế. Bố mẹ trước sau chỉ mong cho đời con bớt khổ. Bố mẹ đã và sẽ làm những gì có thể để mang lại cho con nguồn an ủi, nếu không phải là niềm vui. Bởi cái xã hội tàn bạo, điên đảo này đã cướp đi tất cả trong đó có bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và niềm hạnh phúc của con. Bố mẹ chỉ thương con, không bao giờ trách con đâu Bích Hằng ạ.
Chị bế cháu sang chiếc thuyền buôn đi ngược dòng về Hà nội. Bố mẹ nuôi và chị nhìn nhau cho đến khi hình ảnh mờ hẳn trong ánh sáng hè, chị mới nhìn về phía trước. Phương trời Hà nội mây đen che kín hình như báo trước cho chị một tương lai mù mịt.
Gia đình bác Hiệp yêu quý chị như con cháu trong nhà. Một năm đầu, chị làm những việc nội trợ. Cô gái em bác Hiệp dẫn chị đi khắp nơi trong thành phố để chị học tập cách kinh doanh, buôn bán. Sau đó bác Hiệp cho chị gian nhà này và ba trăm đồng vốn để buôn hàng xén (tính theo tiền sau ngày đổi 1958).
Ngồi trên vỉa hè đường phố chị chỉ sợ gặp anh Nam. Nếu không may giáp mặt người xưa thì ăn nói với nhau thế nào đây? Một hôm chị gánh hàng đến đường Nam bộ, anh đi xe đạp qua và nhìn chị. Khi ấy, tim chị như ngừng đập. May quá, chị đã thay đổi nhiều nên anh không biết chị là ai nữa. Tuy nhiên, sự kiện đó làm chị đau buồn đến hàng tuần chưa nguôi. Có người hỏi, nếu anh Nam nhận ra chị sẽ ra sao? Câu trả lời thật giản đơn, khi tình yêu đã bị xã hội giày xéo lên thô bạo, dù còn tình thương và lòng độ lượng cũng không thể đem lại một cuộc sống bình thường cho đôi lứa. Buổi tái ngộ chỉ thêm phần đau khổ và tủi nhục. Chị rất thương anh ấy và cầu mong anh quên chị để đi đến một tình yêu mới. Nhưng nếu anh ấy thuộc về một người phụ nữ khác thì còn cái gì là ràng buộc chị trên cõi đời này? Mỗi lần nghĩ đến anh là một lần chị đau khổ xen lẫn niềm tự hào và hạnh phúc. Kỳ quặc chưa, tại sao chị lại mang ý nghĩ tội lỗi ấy? Có lẽ đó là điều ích kỷ nằm trong sự huyền bí của tình yêu không ai lý giải nổi. Con người có thể chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo nhưng không ai muốn nhường tình yêu và sự vinh quang.
Cuối năm 1960, một buổi sáng chị bán hàng ở ngã ba phố Phan bội châu – Trần hưng đạo. Đến mười giờ, có một bác vận bộ đồ lao động đến mua chỉ khâu. Nhác trông thấy quen quen, chị liền hỏi:
– Bác ở quê lên chơi chăng?
– Không phải ở quê, tôi ở nông trường Hà bắc.
– Có phải quê bác ở Hưng nhân, Thái bình không?
– Phải rồi, sao chị biết?
– Cháu thấy bác quen quen nên hỏi thế.
– Nếu ở cùng quê, chị có biết thày Lãm không, trước kia nhà tôi ở bên cạnh nhà thày?
Nghe bác già nói, chị rùng mình như bị điện giật.
– Cháu có biết nhưng xa quê lâu rồi.
– Tôi muốn về quê thăm và cảm ơn thày Lãm, nếu không có thày, cả nhà tôi bị chết đói năm ất dậu. Chả là đang lúc nguy khốn, ba bốn ngày không có gì ăn thì thày Lãm đem sang cho hơn một yến gạo. Nhờ vậy, gia đình tôi mới có ăn để bồng bế nhau đi tha phương cầu thực...
Bác nói đến đây làm chị sực nhớ ra, hồi cải cách, chính vì gia đình này mất tích mà thằng Bình cùng bọn cốt cán đã vu cho thân phụ chị cùng anh Lân dựa vào cường hào địa phương ức hiếp gia đình nông dân Trần văn An phải bỏ nhà ra đi chết đường, chết chợ. Một tội nợ máu của hai người.
– Thưa bác, cháu nghe tin gia đình thày Lãm không còn ai nữa, bị xoá sổ trong cải cách ruộng đất rồi.
Bác già sửng sốt:
– Chị nói thực chứ? Mắc tội gì mà đem tru di cả nhà?
– Cháu không rõ lắm, hình như sự vắng mặt của gia đình bác là tội nợ máu của hai bố con thày Lãm.
– Trời ơi! Bọn sát nhân! Đảo lộn rồi, đảo lộn rồi. Người cứu sống người lại thành tội giết người. Tôi cũng mắc lừa bọn sát nhân, chị ạ. Bác già bắt đầu kể.
– Hai vợ chồng tôi cùng hai em đang đói mềm, nằm chờ chết thì thày Lãm cho gạo. Chúng tôi nấu ăn một bữa no nê rồi dắt nhau đi, gạo còn lại mang theo để ăn đường. Cả gia đình lang thang sang Nam định, vào Thanh hoá, Nghệ an.
Dần dà sang Lào và cuối cùng là đất Thái. Tại một vùng quê, chúng tôi làm thuê sinh sống. So với nước người thì khổ nhục nhưng với cảnh khốn cùng ở nông thôn nước nhà thì nơi đó dễ chịu. Mỗi buổi lao động, có rượu uống, có bát ăn, bát để. Sau ngày hoà bình, nghe đài tiếng nói Việt nam: nào là đất nước đã độc lập, tự do, không còn áp bức bóc lột, nào là nông thôn đang đổi mới, cơ khí hoá trong nông nghiệp và điện khí hoá... Họ còn cử cán bộ sang dỗ ngon, dỗ ngọt. Cùng thời gian đó, có một vị linh mục từ miền Nam đến nói với chúng tôi – những giáo dân: Về bắc hay nam là tuỳ bà con. Tôi được biết ngày nay ở miền bắc mọi thứ nhà nước đều quản lý, mua bán phải xếp hàng, ăn uống có tiêu chuẩn cho từng người, nông thôn vào làm hợp tác theo công điểm... Nghe vị linh mục nói, tôi muốn ở lại nhưng hai đứa con tôi đã lớn, chúng phản đối: Bố đừng nghe giọng lưỡi của bọn phản động. Cách mạng mang lại ruộng đất, cơm áo cho người nghèo, gia đình ta lại chết đói hụt năm ất dậu. Do vậy, đảng và chính phủ sẽ quan tâm và chiếu cố đến mình. Chúng tôi về nước mới cách đây mấy tháng. Tôi xin về quê cũ nhưng họ trả lời, Thái bình đất hẹp người đông, gần đây theo chính sách của đảng, đang nô nức đi xây dựng quê hương mới ở miền rừng núi. Họ đưa gia đình tôi lên Bắc giang và làm việc ở một nông trường. Tiền lương là thước đo về mức sống, làm chúng tôi ôm nhau khóc vì hối hận. Chị tính bên Thái, mỗi công làm thuê của người lao động được mười lăm. Bọt mua được hai mươi cốc cà phê trứng. Còn ở nông trường, mỗi công được một đồng ba hào năm xu chưa mua được hai cốc. Nếu như cái máy mà làm việc, không ốm đau gì, ngoài tiêu chuẩn dăm lạng thịt một tháng cũng chỉ đủ cơm rau. Tôi đã nhiều tuổi, mệt mỏi, ốm đau luôn, số tiền dành dụm được ở bên Thái mang về đã ăn tiêu gần hết. Bây giờ sống bằng phương kế gì đây?
– Còn may cho bác – chị tiếp lời – nếu không đi, bác sẽ thành cốt cán, vu oan giá hoạ cho thày Lãm, đổi ân thành oán.
– Chị cho rằng, mọi người nghèo đều bất lương hay sao? Không phải thế, tôi là một giáo dân không làm điều ác mới mong nhận được phước lành của chúa, mới không bị trừng phạt nơi địa ngục khi qua đời.
Nghe bác An nói, chị thoáng nghĩ, một người còn lòng tin ở thế giới bên kia thì chắc chắn lòng tin đó ngăn chặn được nhiều hành vi tội ác. Sự nguy hiểm của chủ nghĩa vô thần là dạy con người: chết là hết. Họ tôn thờ và khuyến khích theo chủ nghĩa khoái lạc của Epicure. Hơn nữa, xã hội này, chém giết, đầy đoạ con người cũng trở thành khoái lạc.
– Một gia đình mấy đời dạy học – Bác An tiếp – chỉ mang lại điều hay, điều tốt cho mọi người mà còn bị hại, đốt sách, giết người hiền rồi đất nước này sẽ đi về đâu?
Đồng hồ ga điểm mười một tiếng, bác An vội vã chào chị để kịp chuyến tàu về Hà bắc. Chị cũng quẩy gánh về nhà nghỉ.
Thời gian này, cả thành phố bàn tán nhiều về chính sách cải tạo tư sản, công tư hợp doanh và cải tạo tiểu thương. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt, những gia đình tư sản, ngoài cửa đốt pháo ăn mừng, trong nhà vợ chồng con cái ôm nhau khóc vì phải hiến dâng tài sản cho nhà nước. Những người buôn bán nhỏ phải tự tìm kiếm công việc khác để sinh sống. Họ muốn biến thành phố buôn bán, ăn chơi thành một khu lao động, mỗi người biến thành một cái máy làm theo điều khiển. Thực tế họ làm được những gì, thời gian sẽ biết nhưng hiện tại biết bao gia đình cùng quẫn hết kế sinh nhai. Chị cũng là người trong cuộc, công an và khối phố nhiều lần đến nhà vận động và doạ nếu không chấp hành sẽ áp dụng biện pháp chính quyền.
Thế là thời kỳ hoàng kim ngắn ngủi của chị đã trôi qua. Vào làm trong tổ hợp tác này, chị tưởng mình đơn độc, nhưng chị đã nhầm, đại đa số là những người chịu cảnh chèn ép, đoạ đầy của xã hội.