Hồi ký Một ngày giông tố
eventful_day 24.02.2008 19:39:47 (permalink)
 Giới thiệu

Một ngày giông tố và Những kẻ khổ nhục là hai phần của một tập hồi ký thời chiến, được viết bởi tác giả Tâm Phong, một chứng nhân và cũng là một nạn nhân của chế độ, thời kỳ Cải cách ruộng đất, xã hội Cộng sản trong cuộc chiến tranh hai miền Bắc Nam, tù cải tạo và cuối cùng là những năm trước đổi mới.

Cuốn hồi ký đã được đăng tải trên website của Tập hợp thanh niên dân chủ. http://www.thtndc.org

Với hi vọng rằng cuốn hồi ký vẫn có thể tiếp tục được lan truyền và phổ biến rộng rãi, để tác giả và những người đã trải qua hoàn cảnh như tác giả có thêm sự đồng cảm từ những con người của hiện tại, chúng tôi xin phép được đăng cuốn hồi ký này trên thư viện VN Thư quán, với mong muốn cuốn hồi ký được tiếp nhận?

Cảm ơn và mong rằng các bạn sẽ cho chúng tôi biết cảm nghĩ của bạn về tập hồi ký này!

Mời các bạn download toàn bộ tập hồi ký, qua link sau:
Hồi ký Một ngày giông tố


Phần 2: Những kẻ khổ nhục

Bản tóm lược.

http://www.thtndc.org/modules.php?name=News&op=viewst&sid=358

Tác giả sinh ra trong một gia đình phong kiến ăn ở hiền lành. Sau cách mạng, gia đình đã hết sức mình để làm nghĩa vụ với chính quyền. Chẳng những thế, gia đình có ba thân nhân bị thực dân Pháp giết hại trong cuộc chiến. Hồi cải cách ruộng đất, thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ. Tác giả trở thành một đứa trẻ không cha, không mẹ, không nhà cửa, ăn đói mặc rét, cố gắng vừa học vừa làm kiếm sống, mong ước có được một nghề để sinh sống sau này. Cả ước mơ tầm thường phải có cho mọi con người, tác giả cũng bị dập vùi tàn nhẫn: học bị đuổi, xin việc làm không được vì lý lịch gia đình…(1)
PHẦN 1 – MỘT NGÀY GIÔNG TỐ
HỒI MỘT – Quê hương, phản ánh một góc nông thôn Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1945 – 1960.
Đó là những năm kháng chiến chống Pháp, cuộc sống của người dân trong cảnh một cổ mấy tròng, “địch”, quân Pháp và “ta”, chính quyền “cách mạng”. Sự xâm nhập của văn hóa và tư duy “cách mạng”. Thoáng thấy cái gọi là “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” hay “làm sạch cỏ tận gốc” và cuộc sống của một gia đình phong kiến và con cái tầng lớp phong kiến trong xã hội Cộng sản.
Để sau đó, thời kì cải cách ruộng đất, ngọn lửa căm thù của đấu tranh giai cấp đã thiêu đốt mọi tình cảm giữa con người với con người, làng xóm, thầy trò và cả tình thân ruột thịt: cha con, anh em, vợ chồng. Sau khi thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ, với uớc mong được học hành, tác giả vẫn cố gắng đến trường. Đó là những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục. Gian nan vì cuộc sống nghèo khổ, ăn đói, mặc rách trong vòng uy hiếp và chèn ép của chính quyền và bọn vô lại. Tủi nhục vì sự xa cách lạnh lùng của người thân thích, làng xóm, bạn bè. Mặc dù tác giả thông minh, học giỏi nhưng bị vùi dập, xin học nghề không xong bởi “Ngoài nghề làm ruộng, anh không có quyền làm bất cứ nghề gì”. Nhờ người chú nhân tình giấu lý lịch người cha, tác giả được vào trường trung cấp sư phạm, nhưng rồi bị đuổi, bởi “Quy.ết định đuổi em không phải của trường mà do uỷ ban nhân dân tỉnh”. Không sống nổi trên mảnh đất quê hương, tác giả phải lên Hà Nội.
HỒI HAI – Hà Nội, từ miền nông thôn Cộng sản, tác giả bước vào vùng “đất thánh”. Nơi đây, bên cạnh những người thân, tác giả lại chứng kiến sự thay đổi nhân tình của chú, bá và cả chị ruột mình. Từ 1960 – 1965, năm năm nối tiếp là quãng thời gian mưu sinh vất vả, cực nhọc của những con người bị o ép, bị bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ dưới cơ chế quản lý Cộng sản – một bức tranh xã hội xám xịt. Vì vậy, năm 1965, tác giả và hai người bạn cùng nhãn qan, Khoa và Dậu, đã chuẩn bị vượt tuyến vào Nam. Trong lúc đó, do không “khéo” sống, Khoa, con một gia đình tư sản – một gia đình sau cách mạng phân thành hai mảnh, một bên ý thức được bản chất Cộng sản, một bên mê muội vì ý thức hệ Cộng sản – bị bắt tập trung cải tạo. Những trang nhật ký của anh vô tình đã khiến tác giả và Dậu bị bắt theo.
HỒI BA – Nhà tù, là những trang viết phản ánh về cuộc sống trong nhà tù của một chế độ tự xưng là ưu việt.
Sau thời gian giam cứu tại Hoả Lò , tác giả bị kết án bốn năm tù giam và ba năm mất quyền công dân. Nhưng trên thực tế, sau thời gian bốn năm, tác giả bị chuyển sang diện tập trung cải tạo. Mười một năm tù, từ năm 1965 – 1976, tác giả đã bị chuyển qua nhiều phân trại của trại cải tạo An Thịnh trại cải tạo Vĩnh Quang
Tác giả đã ghi lại những trang đời của chính mình và những thân phận tù trong thời gian đó. Những tù nhân Cộng sản bao gồm tù hình sự và tù phản cách mạng (2). Nhà tù Cộng Sản được mô tả với hai hình tượng về sự Tàn Bạo và Bịp Bợm.
Tàn Bạo bởi:
  • Những người tù bị cho ăn đói, mặc rách đến độ trở nên man rợ.
  • Họ bị ép và lừa lao động như trâu ngựa, cấu xé lẫn nhau để lập công, gây nên nỗi đồng cảnh tương tàn. “Mỗi thằng tù vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, phải chịu bốn vòng kìm kẹp: vòng ngoài là cai ngục, vòng thứ hai là trật tự, văn hoá trại, vòng thứ ba là toán trưởng, vòng cuối cùng là cảnh hành hạ lẫn nhau.”
  • Nhiều người vì đói và lao động kiệt sức, chết dần mòn. Nhiều người bị giam trong xà lim mà chết. Nhiều người vì ốm bệnh, vẫn bị ép đi làm, bị đánh đập, không được cấp thuốc mà lìa bỏ cuộc đời.
  • Những con người không chỉ “thân thể ở trong lao”, mà cả tinh thần cũng bị cầm tù. Đói khổ chưa đủ, những người tù phải bình công chấm điểm, cắn xé, tố cáo lẫn nhau mới thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai cấp trong nhà tù.
  • Tù hình sự và tù phản cách mạng bị giam chung, tù hình sự bị tuyên truyền, bị xúi giục đánh đập, hành hung tù phản cách mạng,…
Bịp Bợm bởi:
  • Nơi tiếp đón gia đình các trại viên, “phòng tuyên truyền của địa ngục trần gian”: nơi đã diễn ra bao cảnh chia ly vĩnh viễn của những cặp vợ chồng còn trẻ, con cái không tin cha, vợ chẳng hiểu chồng, anh chị oán trách em… Nơi hàng trăm người bỏ mạng vì ốm đau không có thuốc, không được cứu chữa, vì đói hoặc vì những cực hình khác được giải thích là: “với chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ, chúng tôi đã hết lòng cứu chữa và chăm sóc nhưng do bệnh tật hiểm nghèo không qua khỏi...”
Năm 1975, Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Vì vậy đến năm 1976, các tù phản cách mạng trong trại, trong đó có tác giả được thả ra. Tác giả được cho về ở với người chị gái, nơi mười sáu năm trước, tác giả đã không sống nổi hai ngày.
Từ lồng sắt hẹp ra nơi lồng sắt rộng. Từ cuộc sống nơi nhà tù Cộng sản man rợ và đói khát, tác giả lại nối tiếp những tháng năm cô đơn, vô vọng và tủi nhục trong một xã hội Cộng sản cũng cơ cực, nghèo túng, mất tự do, và nhất là nhiễm bệnh máu xám huỷ diệt tình người. Riêng với tội danh một người tù phản cách mạng, “một tội ghê tởm hơn cả bệnh giang mai, ghẻ lở trong nhãn quan của mọi người?”, càng thêm bội phần cơ nhục. Cuộc sống khổ nhục đó được phản ánh rõ nét trong Phần 2.
Đây là những trang nói về cuộc sống cơ nhục mưu sinh, tìm kiếm hạnh phúc của tác giả nơi lồng sắt khổng lồ. Cũng là một vài phản ánh tiếp theo về xã hội Cộng sản.
Tác giả làm mộc để mưu sinh. Trong hoàn cảnh sống chung đầy tủi nhục với gia đình chị và chịu sự giám sát của chính quyền, tác giả vẫn cố gắng viết hồi ký, để làm tròn trách nhiệm với Khoa, người bạn đã mất trong tù, cũng như cho chính tác giả, “để thực hiện trách nhiệm lương tâm phơi trần những tội ác trời không dung, đất không tha của Cộng Sản trước tòa án lịch sử ngàn đời”.
Giữa cuộc sống cô đơn, tủi nhục, như mọi con người bình thường, tác giả cũng ước mong hạnh phúc gia đình. Cuộc đời tác giả, “xưa kia, khi còn trai trẻ cũng chỉ dám yêu thầm nhớ trộm, tuy nhiên tình yêu và gia đình vẫn là khái niệm mơ hồ, xa cách, lạnh lùng”, giờ đây trước ý thức hệ Cộng Sản, “phải bưng bít, khép kín quá vãng để tìm một người bạn đời thì đau lòng quá” cho một người đã luôn sống chân thật với khối óc và con tim mình. “Để có được một cuộc sống tầm thường, khốn khổ, cũng phải nói phét, bịp bợm, khai tử chữ lương tâm sao?”
Những chi tiết về hành trình tìm người bạn đời phản ánh rõ thêm nhân sinh quan của con người Cộng sản. Cộng sản muốn thay cả vai trò của tạo hóa, ông tơ bà nguyệt… Tính giai cấp xen lẫn cả vào những chuyện yêu đương cá nhân.
Câu chuyện có một kết thúc được xem như có hậu: tác giả mua được nhà riêng, tìm được người bạn đời hợp ý, một Đảng viên quay lưng lại với “đấu tranh giai cấp”, trở về bản chất trung hậu của người nông dân và mong ước hạnh phúc gia đình tầm thường của mọi con người.

Chú thích:
Tóm tắt cho Phần 1 được trình bày theo các mục của phần đó như sau:
HỒI MỘT – Quê hương
I Thời kì kháng chiến chống Pháp
II Thời kì cải cách ruộng đất
III. Những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục

HỒI HAI – Hà Nội
I Những người thân
II Năm năm nối tiếp
HỒI BA – Nhà tù
I Hoả lò
II Trại cải tạo An Thịnh
III Trại cải tạo Vĩnh quang
HỒI BỐN – Ngày về
(1): Theo lời kể của tác giả, phần Hồi ba – Nhà tù
(2): Về tù hình sự và tù phản cách mạng:
- Tù hình sự (hay tù số chẵn), bao gồm: lưu manh, giết người, trộm cắp, gái làm tiền, hiếp dâm, tham ô…, những nạn nhân đồng thời là sản phẩm của sự nghèo túng, ăn đói mặc rét của nền kinh tế Cộng sản và của ý thức hệ Cộng sản.
- Tù phản cách mạng (hay tù số lẻ), bao gồm:
  • Diện tập trung cải tạo, là các đối tượng của chế độ cũ như những người hợp tác với địch, các trí thức lưu dung,…
  • Những người thể hiện tư tưởng không yêu chế độ, đơn giản như viết thư sầu đời, buồn vì hiện trạng xã hội, phát ngôn ca ngợi đế quốc, phản tuyên truyền, nghe đài “địch”, hát hay nghe nhạc Sài Gòn…
  • Tu sĩ, giáo dân.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2008 22:14:07 bởi Ct.Ly >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9