Chào các bạn!
ND sưu tầm được một tư liệu mà ND cho là rất đáng quý và đáng trân trọng về một làn điệu - hơi thở của dân tộc Việt chúng ta - độc đáo, đặc sắc mà chúng ta đã biết, đó là hát Xẩm. Sau đây, mời các bạn cùng đọc với ND nghen!
*****************
XẨM VIỆT - NHẬN DIỆN MỘT CHÂN DUNG VĂN HOÁ CỘI NGUỒN
Hát Xẩm là một trong những thể loại hát rong của người Việt thủa xưa và là thể loại đặc trưng của những người hỏng mắt, phổ biến ở đồng bằng và trung du
Bắc Bộ. Nằm trong loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo, ra đời đã hơn 700 năm, ngoài giá trị nghệ thuật, hát Xẩm còn mang tính nhân văn, thẩm mỹ và giáo dục về đạo đức, lối sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Hát Xẩm không chỉ là món ăn tinh thần của những người lao động chốn thôn quê, mà cả những bậc vương tôn công tử nơi hoàng cung và các tầng lớp quan lại giàu có chốn đô thành yêu thích và ngưỡng mộ. Trong nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam, có lẽ chỉ duy nhất hát Xẩm được gọi với tư cách là một nghề.
Cảnh hát Xẩm do tại một chợ quê vùng nông thôn Bắc Bộ. Truyền thuyết về nguồn gốc Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, hai mắt mù loà nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơ bụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, vua vời ông vào hát và nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống. Hát xẩm đã ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông.
Nhạc cụ Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị và sênh. Nhóm hát Xẩm đông người có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Để thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo. Đây là loại đàn được phát triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng trầm. Sênh dùng đệm nhịp cho hát Xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặc sênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại để tạo âm thanh xúc xắc). Ngoài ra, đàn đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát Xẩm.
Phân loại Xẩm có hai làn điệu chính là Xẩm Chợ và Xẩm Cô đào. "Hát Xẩm Chợ, điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng bằng lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách; còn hát Xẩm Cô đào thì điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng. Hát Xẩm Cô đào đệm đàn đáy và sênh phách, không dùng đàn bầu và nhị."
Về làn điệu, xẩm có trên 400 bài, hầu hết là truyền miệng (không rõ tên tác giả), nhưng có 7 bài đặc trưng của xẩm đó là
Xẩm chợ, giản dị, ngắn gọn,
Chênh bong vui vẻ, phấn chấn
, Riềm huê, thường lồng vào hát những nội dung trao tình, hẹn hò, nhớ thương da diết
, Ba bực nhịp bằng thì duyên dáng, tha thiết
, Phồn huê là điệu hát kể ràu nghe thương cảm về những nỗi cực nhục khổ đau của người phụ nữ trong xã hội
, Hát ai với tính chất than thở, oán trách pha chút hài hước,
Xẩm thập ân nói lên những nỗi khổ cực của cha mẹ nuôi dạy con cái từ lúc sinh thành và nhắc nhở con cháu về đạo hiếu. Bên cạnh đó, các nghệ nhân hát xẩm còn vận dụng những điệu hát Ví, Trống quân Sa mạc, Bồng mạc, hành vân, lưu thủy, phú lục .v.v.
Văng vẳng trên cánh đồng bao la với trà lúa thời con gái xanh tươi màu cốm điệu hát ví:
Hỡi anh đi đường cái quan Dừng chân đứng lại em than đôi lời Đó là giọng kim của cô Mơ cô Mận, cô Đào nào đó. Hoặc giọng cò lả, ru em trong quê trưa đêm vắng, tiếng dây đàn "thùng thì thùng" một điệu hát trống quân với câu hát thậm vô lý nhưng mọi người vẫn hào hứng chấp nhận:
Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân... để rồi:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay... Theo tài liệu của ông Trần Việt Ngữ - nhà nghiên cứu dân gian lão thành công bố năm 1964 thì hát xẩm có 8 làn điệu chính: Xẩm chợ; Xẩm xoan (Chênh bong); Huê tình (riềm huê); Xẩm nhà trò (ba bậc); Nữ oán (Phồn huê); Hò bốn mùa; Hát ai; Thập ân.
Trên thực tế, cách gọi tên các loại xẩm không phải theo làn điệu mà theo một số tiêu thức khác:
ü Tên bài Xẩm nổi tiếng: Xẩm thập ân (theo tên bài xẩm ca ngợi công đức của cha mẹ), xẩm anh Khoá (theo tên bài thơ được hát theo điệu xẩm
Tiễn chân anh Khoá xuống tàu của Á Nam Trần Tuấn Khải)...
ü Theo mục đích, nội dung bài Xẩm: Xẩm dân vận (được chính quyền khuyến khích sáng tác để tuyên truyền, vận động quần chúng)...
ü Theo môi trường biểu diễn: ngoài Xẩm chợ và Xẩm cô đầu (hay còn gọi là Xẩm nhả tơ, Xẩm ba bậc, Xẩm nhà trò, Xẩm huê tình) sau này còn có một dòng Xẩm của Hà Nội gọi là Xẩm tàu điện thường được hát trên tàu điện.
Ca từ Nghệ nhân cuối cùng của thế kỷ XX, bà Hà Thị Cầu, 90 tuổi, quê ở Ninh Bình,
đang say sưa với khúc hát “Theo Đảng trọn đời”
Ca từ của Xẩm là thơ lục bát, lục bát biến thể có thêm các tiếng láy, tiếng đệm cho phù hợp với làn điệu. Nội dung của các bài Xẩm có thể mang tính tự sự như than thân trách phận; nêu gương các anh hùng, liệt sỹ hay châm biếm những thói hư, tật xấu... hoặc trữ tình. Những bài thơ thường được diễn ca trong hát Xẩm: thơ Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính... Ngoài ra, Xẩm còn sử dụng nhiều làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ khác như trống quân, cò lả, hát ví, ru em, quan họ, chèo,...hoặc ngâm thơ. Các làn điệu dân ca khác khi được dùng trong hát Xẩm đã được "xẩm hoá" theo phong cách đặc trưng của Xẩm.
Những bài hát Xẩm được coi là "kinh điển" của nghệ thuật hát Xẩm như: Anh Khoá, Cho thiếp theo cùng, Lơ lửng con cá vàng, Mục hạ vô nhân, Lỡ bước sang ngang..., hoặc Theo Đảng trọn đời do "thần xẩm" Hà Thị Cầu đặt lời,…
Sức hấp dẫn của hát Xẩm là ở những làn điệu hát với nhịp trống phách tươi vui cuốn hút khéo hoà cùng tiếng bầu, tiếng nhị nỉ non réo rắt và ở cả nội dung hết sức phong phú của lời ca. Người hát Xẩm tự sự về thân phận của mình, họ kể về nỗi khổ của những người nghèo khó, những cảnh đời ngang trái. Hát xẩm còn bộc lộ tinh thần lạc quan yêu đời của lớp người bình dân mù lòa, vượt qua cảnh ngộ khó khăn và vươn lên kiếm sống bằng lao động nghệ thuật của chính mình
Tiến trình lịch sử Thế kỉ XIII được đánh dấu cho sự ra đời của nghề hát Xẩm. Từ khi ra đời cho đến giữa thế kỷ XX, hát Xẩm được nhiều người khiếm thị sử dụng làm nghề kiếm sống nơi bến đò, chợ búa hay lang thang trên những nẻo đường... Thời chiến tranh loạn lạc, mùa màng thất bát, những người hát Xẩm không đủ sống họ buộc phải đi các nơi để hát mưu sinh. Một bộ phận trong số đó đã lên chốn thị thành như Hà Nội để hành nghề kiếm sống. Do vậy, một lối hát mới được hình thành dựa trên lối hát ở chốn thôn quê nhưng nhanh hơn, bóng bẩy hơn để phù hợp với không gian vốn sôi động và phục vụ một lớp người có trình độ học vấn khác. Xẩm Hà Nội ra đời từ đó.
Ngược xuôi 36 phố phường, bên cạnh tiếng reng reng quen thuộc của những chuyến tàu điện, những người hát Xẩm đã khéo léo lồng ghép những lời thơ được phổ biến thời bấy giờ để làm phong phú thêm những câu hát của mình. Đặc biệt là những bài thơ đậm chất dân gian của thi sĩ Nguyễn Bình như “Lỡ bước sang ngang”, “Giăng sáng vườn chè”, “Em đi tỉnh về”... được các nghệ nhân hát Xẩm xoan, nên các bài thơ này càng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Xẩm không những chỉ đứng ở nơi bến tàu, bãi chợ... mà còn đi vào nhiều loại hình diễn xướng dân gian khác như hát ru, dàn nhạc hiếu hoặc xuất hiện cả trong loại hình hát ca trù (xẩm Nhà Tơ). Cùng với tiếng chuông tàu điện leng keng chốn Hà thành, những câu hát xẩm trở nên gắn bó thân thiết.
Trong quá trình phổ biến lối hát Xẩm, có những người mù hoặc nghèo khổ nhưng rất có năng khiếu về âm nhạc đã vận dụng hát Xẩm làm phương tiện kiếm sống: cây đàn nhị, bộ gõ phách và tiếng hát chất chứa những nỗi niềm tâm sự đủ để lay động sự trắc ẩn của người đời... Và như thế, vô hình trung hát Xẩm trở thành "đặc sản" của những người ăn xin. Lượng người hát Xẩm đông nhất là thời kỳ Pháp thuộc và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hát Xẩm đã vượt ra khỏi lũy tre làng theo bước các nghệ nhân dân gian đi kháng chiến, cổ động tuyên truyền các phong trào tiễu trừ giặc đói, giặc dốt, động viên các tầng lớp nhân dân lên đường tòng quân. Vào cuối năm 1954 đầu 1955, để chống lại việc người dân miền Bắc di cư vào miền Nam sau Hiệp định Genève, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tập trung nhiều nhóm hát Xẩm (gồm nhiều nghệ nhân Xẩm của các vùng Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nội...), cử người viết bài và đến các vùng duyên hải phía Bắc biểu diễn nhằm vận động nhân dân không di cư. Sau đó, khi Hội Người mù được thành lập, những người hát Xẩm được dạy nghề về thủ công và chuyển sang sống bằng nghề mới này nên Xẩm dần vắng bóng.
Những nghệ sĩ tài ba như cụ Trùm Nguyên (Nguyễn Văn Nguyên ở phố Khâm Thiên), cụ Nguyễn Văn Tuất nhà ở Hàng Bột; hay người dân trên Bắc Giang bị mê hoặc bởi tài nghệ của cụ Thân Đức Chinh miệng hát tay gảy đàn bầu, chân dậm phách; còn dân Ninh Bình - Nam Định thì mê mẩn cụ Hà Thị Cầu da diết tiếng đàn nhị, nỉ non điệu thập ân...
Mặc dù khi ấy, Xẩm vẫn chưa được nhìn nhận như một loại hình nghệ thuật, nhưng đây là thời điểm được coi là thời kỳ “hoàng kim” nhất của nghề hát Xẩm. Từ những làn điệu huê tình, ba bậc, hồn huê... của xẩm Hà Nội đã "loang" ra để có những điệu Xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên...
Từ những năm nửa sau thế kỷ XX, do hoàn cảnh chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, loại hình nghệ thuật này đi dần vào quên lãng, mai một. Nghệ nhân hát Xẩm sau Cách mạng Tháng Tám tham gia các đoàn nghệ thuật chèo nên nghề hát Xẩm mai một rồi chìm vào quên lãng.
Nỗ lực gìn giữ “Nghệ thuật của cội nguồn dân gian” NSƯT Văn Ty Những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tâm huyết đã khôi phục lại nghề hát Xẩm, nhưng không thành công. Đến năm 2005, Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của nghề hát Xẩm đối với đời sống văn hoá của người dân Việt và ý thức gìn giữ nền văn hoá dân gian, đã tập trung nghiên cứu, khôi phục và đưa được loại hình nghệ thuật này trở lại với công chúng. Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Tây, Bắc Giang, Hưng Yên... đều có chiếu Xẩm. Mỗi thể loại địa phương nào cũng có, làn điệu như nhau nhưng phong cách thể hiện khác, môi trường diễn xướng khác. Hiện Trung tâm đã sưu tầm được 150 bài cổ, thu băng đĩa được 30-40 bài.
Lấy Xẩm là mũi nhọn trong hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy, sau đó, hướng đến các loại hình âm nhạc dân tộc khác, trong những năm qua, Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam đã có nhiều hoạt động tích cực để đưa âm nhạc truyền thống trở lại đời sống hiện đại. Trong đó đáng ghi nhận nhất là việc Trung tâm đã sưu tầm, nghiên cứu và dựng lại thành công những điệu Xẩm đặc trưng phổ biến tại Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX, đưa nghề hát Xẩm trở
thành âm nhạc đường phố Hà Nội vào năm 2005.
Nhạc sĩ Thao Giang – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam cho biết: "
Dòng Xẩm Hà Nội được chúng tôi khai thác triệt để. Hát Xẩm hiện trở thành loại hình âm nhạc đường phố Hà Nội. Trung tâm đã mở Sân khấu âm nhạc dân gian Hà thành 36 phố phường ở đầu phố Hàng Đào và trước cửa chợ Đồng Xuân, chợ Đêm.” Sau nhiều thập niên giọng xẩm rất đặc trưng của người Hà Nội bị quên lãng, giờ đây, bắt đầu từ hai đêm thứ bảy, chủ nhật của đầu tháng 4-2006, người dân Hà Nội và du khách trong, ngoài nước đến thủ đô khi dạo chơi tuyến phố đi bộ, chợ đêm Đồng Xuân - Hàng Đào đã lại được thưởng thức những làn điệu Xẩm vốn chỉ còn tồn tại trong ký ức của các bậc cao niên ở Hà thành, và trong vốn liếng âm nhạc dân gian của lão nghệ nhân “hát xẩm bẩm sinh” Hà Thị Cầu ở Ninh Bình.
Sau hơn một năm hoạt động, sân khấu Xẩm đã thực sự làm sống lại một nét văn hoá riêng của Hà Nội, bạn bè đến từ muôn phương nghe hát Xẩm như được đằm mình trong không gian Hà Nội xưa. Giữa chốn Hà thành hoa lệ, nhóm nghệ sĩ trai quần áo nâu, gái áo nâu yếm thắm, váy “bu gà” chân đất đã có sức hấp dẫn kì diệu. Sân khấu trải thảm đỏ, cao chừng nửa mét đã đáp ứng được yêu cầu vừa đủ tạo sự ngăn cách cần thiết trong hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp vừa không quá tách rời người nghe như sự phóng khoáng dân dã của loại hình âm nhạc dân gian này.
Hoạt động của phố đi bộ Hàng Đào - Đồng Xuân đi vào nề nếp đã là một thành công đáng kể nhằm làm sống lại một không gian phố cổ và nay với hoạt động thường kì, hấp dẫn của nhóm hát xẩm đã củng cố niềm tin của người làm nghề cũng như các cấp lãnh đạo trong cố gắng phục hồi lại sinh hoạt văn hóa phi vật thể, phần hồn không thể thiếu của bất kì di chỉ cổ nào.
Ngoài ra, trong những nỗ lực đưa nghề hát Xẩm đến được với cộng đồng, ngày 29/3 (tức 22/2 âm lịch) Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam, phối hợp cùng BQL Văn Miếu Quốc tử giám và BQL Đình Hào Nam đã tổ chức phục dựng thành công lễ giỗ tổ nghề hát xẩm truyền thống... Đây là lần Giỗ Tổ nghề đầu tiên sau 50 năm gián đoạn do điều kiện chiến tranh.
Cũng trong khuôn khổ của buổi lễ này, TTPTNTÂN khai sinh giải thưởng âm nhạc Trần Quốc Đĩnh, giải thưởng mang tên ông tổ nghề xẩm. Dự kiến giải thưởng này sẽ được trao lần đầu tiên vào tháng 8 năm nay. Nhạc sỹ Thao Giang (Phó Giám đốc Trung tâm cho biết): “Hiện tại, công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản âm nhạc dân tộc gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, kết quả của những người làm công tác này rất ít được người dân biết đến. Cho ra mắt giải thưởng, chúng tôi hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc khích lệ những người hết mình vì âm nhạc truyền thống và công chúng biết đến những đóng góp của họ”.
Trong ngày Giỗ Tổ nghề này, Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam trao bằng khen ghi nhận những đóng góp tích cực trong việc sưu tầm, phục hồi và phát huy nghệ thuật hát xẩm cho nhiều nhà nghiên cứu, nhạc sỹ và nghệ nhân. Với những đóng góp tích cực trong việc sưu tầm, phục hồi và phát huy nghệ thuật âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam, 14 nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà nghiên cứu đã được nhận bằng khen.
Phục dựng thành công ngày giỗ tổ nghề hát Xẩm và tổ chức định kỳ những buổi hát Xẩm ngoài trời, nhằm tưởng nhớ đến công ơn của ông tổ nghề Trần Quốc Đĩnh và lưu giữ giá trị văn hoá dân gian của dân tộc, không chỉ là ước vọng của các thế hệ nghệ nhân mà còn là mong muốn của những người yêu thích Xẩm Việt.
Sưu tầm từ: http://www.cinet.vn/upLoadFile/HTML/11_38_59_3052008/xamviet.html
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.07.2008 00:35:50 bởi ngocdiep87 >