Lệ Chi Hận sử

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 13 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 385 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
Lệ Chi Hận sử - 01.04.2008 00:07:32
1
Vài nhận xét về Thi Phẩm - trường thiên Lệ Chi hận sử của
Nguyễn Gia Linh

Thẩm Thệ Hà


“Lệ Chi Viên” đã đi vào Văn Học Việt Nam bằng con đường huyền thoại và dã sử để diễn tả nỗi oan trái của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ thành những trang ký ức não nùng của thời Lê đầy bi thương thảm khốc.
Mãi đến nay, qua thi phẩm trường thiên “Lệ Chi hận sử”, Nguyễn Gia Linh mới phá tan những làn sương mù dày đặc bao phủ cả bao nhiêu triều đại nhà Lê, trung thành với sự thật lịch sử , soi sáng những tấm gương trung can, tiết liệt, phản ảnh sự thối tha mục nát của chế độ phong kiến Việt Nam từ cung đình đến xã hội.
Thi sĩ Nguyễn Gia Linh, tên thật là Nguyễn Hữu Tính, vốn là Tiến sĩ Khoa học, hiện là giám đốc khảo cứu khoa học tại Trung Tâm Paul Pascal ở Bordeaux, Pháp quốc. Một tiến sĩ khoa học mà lại tha thiết yêu thơ, say mê làm thơ với nhiều sáng kiến tân kỳ, độc đáo. Tất nhiên nhàkhoa học thi sĩ nhìn sự kiện lịch sử đã qua vừa với cặp mắt khoa học vừa với cặp mắt nhà thơ, lý trí và tình cảm hòa quyện với nhau một cách chân thật, chân tình và nhạy bén, sắc sảo và thâm thúy. Do đó những sự kiện lịch sử lệch lạc bị phá vở, trả lại lịch sử những sự kiện trung thực, dù quá ảm đạm thê lương. Những huyền thoại huyền hoặc nhầm phụ họa với thế lực phong kiến tàn ác hảm hại trung thần, lủng đoạn triều ca, nắm hết uy quyền để mặc sức làm mưa làm gió.

Tác giả Lệ Chi hận sử đã làm nổi bật nhiều điểm đặc biệt:

Về nội dung, tác giả cực lực đả phá chế độ phong kiến mục nát thời Lê từ thời Lê Lợi đăng quang lên ngôi lấy danh hiệu là Lê Thái Tổ (1428) đến triều Lê Thánh Tông cải tiến đất nước về mọi mặt và đã tẩy oan trả lại danh dự cho gia tộc Nguyễn Trãi (1465).

Tác giả đã gián tiếp phủ nhận quan niệm: “Công thành, danh toại, thân thoái, thiên chi đạo” của Tiên đạo mà từ xưa nhiều học giả đã gán cho Nguyễn Trãi khi về ẩn dật ở Côn Sơn. Thật ra, mặc dầu bối cảnh lịch sử có giống nhau, chế độ phong kiến thời lập quốc của Lê Thái Tổ, nhưng Nguyễn Trãi không hề noi gương Trương Lương Công thành, thân thoái , rủ áo từ quan, lên núi tu tiên, thảnh thơi tự toại. Trái lại, Nguyễn Trãi nhiệt tâm yêu nước, mặc dù chịu nhiều gian khổ, bị bạc đải hà khắc, bị vu oan giá họa, vẫn tận trung với nước, đem hết tài ba ra phụng sự đất nước đến hơi thở cuối cùng, đến nỗi phải mang cái án oan bị tru di tam tộc.

Thi sĩ đã ca ngợi Nguyễn Trãi qua mấy vần thơ vô cùng hàm súc:


Mấy ai đáng mặt công thần
Phò vua, dựng nước, dạy dân, giúp đời
Côn Sơn non nước tuyệt vời
Hương danh Nguyễn Trãi ngàn đời còn lưu


Mặt khác, tác giả bài bác huyền thoại Rắn thần báo oán mà bọn tham quyền lủng đoạn triều ca thêu dệt để lấy cớ vu oan cho Nguyễn Thị Lộ là rắn thần tái sanh để trả thù Nguyễn Trãi đã vô tình sát hại gia đình rắn của mình. Dưới nhãn quan của nhà khoa học, làm gì có chuyện huyền hoặc, nhảm nhí, dị đoan ấy. Và tác giả đã trung thực chứng minh Nguyễn Thị Lộ là một nhân tài lỗi lạc, đã sát cánh cùng chồng chiến đấu chống xâm lăng khi giặc Minh xâm lấn, chiến đấu chống áp bức, bất công của bọn lộng quyền, bọn gian thần sủng nịnh. Tác giả đã hùng hồn biện minh cho hành động trung trinh tiết liệt của Nguyễn Thị Lộ, đem hết tài ba và tâm huyết ra phụng sự Tổ quốc, cứu chồng thoát khỏi vòng lao lý, cứu Ngọc Dao ra khỏi hang hùm ổ rắn để sau nầy đưa Thái Tử Tư Thành về lên ngôi Hoàng Đế , lấy danh hiệu Lê Thánh Tông, một vì vua anh minh, giải oan cho Nguyễn Trãi, một vì vua lập lại kỹ cương mới cho Lê triều, một nhà vua được Văn học sử Việt Nam ghi danh là Tao Đàn Nguyên soái của Tao đàn Nhị Thập Bát tú.

Tác giả ca ngợi anh thư Nguyễn Thị Lộ qua nhiều vần thơ thống thiết nhưng hào hùng, lâm ly nhưng đầy chính khí:

Bên vầng dương sáng, bóng giai nhân
Tranh đấu, xông pha lướt bụi trần
Kháng chiến bao năm ghi tích sử
Lễ Nghi một thuở giúp minh quân
Đông Triều manh chiếu, hương loang nhẹ
Trại Vải ly cung, tiếng lạnh dần
Khí tiết, sắc tài ai dám sánh
Sao làm hoen ố kiếp hồng nhan?

(Khóc Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ)


Còn một đặc điểm về nghệ thuật tưởng cũng cần phản ảnh: đó là nghệ thuật sử dụng thể loại ngâm khúc để sáng tác truyện thơ trường thiên gồm 2652 câu thơ. Thể Ngâm khúc là loại thơ trường thiên song thất lục bát được Ôn Như Hầu sử dụng để sáng tác Cung oán ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm sử dụng để sáng tác Chinh Phụ ngâm. Thể thơ nầy có âm điệu ai oán não nùng, đúng chức năng diễn tả tâm sự bi thương của các cung nữ trong hậu cung hoặc các chinh phụ nhớ nhung mòn mỏi mong đợi chồng về. Các thi nhân ngày xưa thường dùng thể thơ trường thiên lục bát để sáng tác truyện thơ dài như Nguyễn Du viết truyện Thúy Kiều, Nguyễn Đình Chiểu viết truyện Lục Vân Tiên. Thể thơ nầy có chức năng kể chuyện chứa đựng nhiều tình tiết éo le gây cấn, hùng tráng hoặc bi thương, dễ lôi cuốn và gây xúc động người đọc.

Xưa nay, chưa nhà thơ nào dùng thể ngâm khúc để kể truyện thơ, thi sĩ Nguyễn Gia Linh là người đầu tiên phá lệ, dùng thể thơ nầy để sáng tác Lệ Chi hận sử. Thi sĩ muốn chọn cho mình một con đường nghệ thuật riêng, thể hiện bản sắc độc đáo riêng, văn phong sinh động, gợi cảm đầy ấn tượng.

Trên đây chỉ mới là những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Với tinh thần cảm thụ văn học sâu sắc, chắc chắn các bạn yêu thơ khi thưởng thức bản trường ca: “Lệ Chi Hận sử” sẽ khám phá ra nhiều điều kỳ thú mới lạ, và tấm gương Nguyễn Trãi-Nguyễn Thị Lộ ngàn đời sẽ xứng đáng là hào kiệt anh thư rạng ngời thanh sử.

Ngày 12-08-2001

Thẩm Thệ Hà
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.04.2008 01:32:14 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 01.04.2008 00:12:50
0
Lời nói đầu

Câu chuyện nằm trong bối cảnh lịch sử Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 trong khi nền văn học nghệ thuật Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẻ do sự xây cất Nhà Văn Miếu với những Bia Tiến sĩ (con rùa mang bia) hiện còn tồn tại ở Hà Nội và kỹ thuật in ấn do Thám Hoa Lương Nhữ Học, mang về sau khi học hỏi ở Tàu. Chuyện bắt đầu từ năm 1428 sau khi Bình Định Vương Lê Lợi thành công trong việc đuổi giặc Minh ra khỏi nước và lên ngôi lấy danh hiệu là Lê Thái Tổ rồi kết thúc với bài chế Tẩy oan cho Nguyễn Trãi của vua Lê Thánh Tông năm 1465. Thời gian 37 năm với bao biến đổi, ngoài sự ăn mừng chiến thắng của toàn dân, việc làm đầu tiên của Lê Lợi là cũng cố uy quyền bằng cách chuyên dùng bè lũ tay sai tham quyền cố vị, nghi ngờ những người tài ba có công với đất nước rồi lần lượt loại trừ những người ấy dù họ có nắm giữ binh quyền hay không, như Trần Nguyên Hãn, một vị tướng tài ba mặc dầu đã từ chức hồi hưu (như Phạm Lãi, Trương Lương) mà vẫn không thoát khỏi bản án tử hình, đành phải tự vùi mình theo dòng nước lũ, như Phạm Văn Xão một võ tướng hiên ngang trung trực bị xử trảm vì là người duy nhứt còn lại nắm giữ binh quyền, như Nguyễn Trãi, một người có công lớn hàng đầu trong việc đuổi giặc dựng nước, trước bị ở tù vì những lời khuyên can thẳng thắng, làm mất lòng bọn sủng nịnh rồi sau đó được thả ra vì không có chứng cớ gì để buộc tội. Cái ý định loại trừ Nguyễn Trãi đã phôi thai từ đãy, chỉ chờ khi có dịp mà thôi. Trong khoảng thời gian nầy và trước kia nữa, có một người đàn bà, hữu tài hữu sắc, đã từng tham gia với chồng trong thời gian kháng chiến ở vùng rừng núi Chí Linh, đã từng tham dự vào những luận bàn vê hành sự khi Nguyễn Long, con người vợ thứ hai của Lê Lợi, sau nầy là vua Lê Thái Tông, vừa mới được 2 tuổi. Người đàn bà đó chính là Nguyễn Thị Lộ, vợ của Nguyễn Trãi (ở đây tôi không có phân biệt vợ chánh, vợ thứ và thê thiếp). Trong thời gian đầu của triều Lê, với lương bổng ít ỏi vì liêm khiết nên khi Nguyễn Trãi bị ở tù, gia đình túng thiếu, Thị Lộ định đi buôn bán chiếu để xoay sở và lo cho chồng, nhưng vì uy tín của chồng, nàng đành sống gói ghém và cố năn nỉ những người bạn thân trong triều của Nguyễn Trãi để minh oan cho chồng.

Sau khi đã loại hai tướng tài Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xão, khi có giặc, chính vua Lê Thái Tổ phải tự cầm quân đi diệt giặc, mặc dầu bị suy nhược vì tuổi già và sự hưởng thụ. Trước khi chết, Lê Thái Tổ hối hận về những việc làm của mình, đã phong cho Thị Lộ làm chức Lễ Nghi học sĩ, dạy cung nữ và chỉ bảo Thái Tử Nguyên Long (9 tuổi) đồng thời đuổi hết bọn nịnh thần Lê Quốc Khí, Trình Bá Hoành, Đinh Bang Bảng và căn dặn Nguyên Long nên dùng những người tài, trung trực như Nguyễn Trãi. Khi vua Thái Tổ băng hà (năm 1433), truyền ngôi lại cho Thái Tử Nguyên Long, đã mất mẹ khi vừa mới 2 tuổi, đến khi được 10 tuổi lại mất cha. Ông lên ngôi lấy danh hiệu là Lê Thái Tông, còn nhỏ ham chơi (lẽ đương nhiên), háo sắc (vì những người đương thời có quyền thế ai cũng vậy, như Nguyễn Trãi có 4, 5 vợ và chưa kể bao nhiêu thê thiếp) nhưng chưa có một hành động nào rõ ràng trái với luân thường đạo lý thời đó. Trong những năm đầu, dưới quyền nhiếp chính của Lê Sát, vua có hai người vợ là Lê Ngọc Dao (con Lê Sát) và Lê Nhật Lệ (con Lê Ngân). Lê Sát càng ngày càng lộng quyền nên khi nhà vua hiểu rõ sự việc, muốn nắm quyền đã lần lượt loại trừ Lê Sát và Lê Ngân (đã thay thế Lê Sát nắm quyền nhiếp chính). Sớm phế bỏ Ngọc Dao, Nhật Lệ, nhà vua lập năm bà phi mới : Dương Thị Bi, mẹ của Thái Tử Nghi Dân (sanh năm 1439) được phong làm Hoàng tử năm 1440 rồi bị truất phế ngôi Hoàng Tử cuối năm 1441, Lê Thị Mai, mẹ của Khắc Xương, nhu mì, không tham dự vào sự tranh chấp quyền hành, Nguyễn Thị Anh, mẹ của Bang Cơ (sanh năm 1441), được phong Hoàng tử sau khi chào đời được vài tháng, Ngô Thị Xuân và Ngô Thị Bính tự Ngọc Dao (đang mang thai) là hai chị em.. Sự tranh giành ảnh hưởng trong hoàng cung đã đến hồi gay cấn mà người chủ chốt là Nguyễn Thị Anh, một người đàn bà đẹp sắc sảo nhưng sâu hiểm, tàn ác.. Sau khi loại Dương Thị Bí và dành được ngôi Hoàng Tử cho con mình, bà chỉa mủi dùi sang Ngô Ngọc Dao. Đến đây ta mới thấy vai trò quan trọng của Nguyễn Thị Lộ. Trong cung, ngoài sự răn dạy cung nữ và chỉ bảo nhà vua, Thị Lộ còn kết thân với Ngô Ngọc Dao vì hai họ Ngô, Nguyễn đã quen biết từ lâu. Chính Ngô Từ, cha của Ngọc Dao đã giới thiệu Nguyễn Trãi cho Lê Lợi trong thời gian khởi nghĩa và đã giới thiệu Nguyễn Thị Lộ giữ chức Lễ Nghi học sĩ cho vua Lê Thái Tổ. Vì biết Ngọc Dao đang mang thai, vừa được lòng vua, vừa được lòng những công thần hoàng tộc như Đinh Liệt, Nguyễn Xí và thân cận với Thị Lộ và Nguyễn Trãi, bà Nguyễn Thị Anh sau khi tố cáo bà Ngọc Dao đầu độc con mình với nhà vua không được, đành dùng mưu kế để chia cách Nguyễn Trãi với Thị Lộ, Thị Anh cho người phao truyền ở ngoại thành và nhứt là ở Côn Sơn nơi Nguyễn Trãi đang về hưu (vì bất đồng ý kiến với hoạn quan nịnh thần Lương Đăng về vụ Lễ Nhạc) rằng nhà vua đang dan díu với Thị Lộ, nhưng cố tránh không cho tin nầy truyền đến tai nhà vua. Những lá thư trao đổi giữa Nguyễn Trãi (đang ghen vì những tin truyền nhảm) và Thị Lộ trong thời gian nầy cho thấy bà Lễ Nghi học sĩ vẫn tròn đạo nghĩa. Biết rằng Ngọc Dao không thể sống yên ổn ở trong cung, Nguyễn Thị Lộ và Đinh Liệt bí mật đưa Ngọc Dao đang có mang ra trốn ở chùa Huy Vân và theo một số sách bà Ngọc Dao sanh thái tử Tư Thành (năm 1442) ở nơi nầy. Một câu hỏi được đặt ra : nếu bà Lễ Nghi không đưa bà Ngọc Dao chạy trốn thì sau nầy chắc gì có triều đại huy hoàng của vua Lê Thánh Tông ? Điều đó cũng cho mình thấy là những việc làm tốt cũng như công đức của Nguyễn Trãi và Thị Lộ rồi cũng được người đời nhớ ơn, minh oan và tôn sùng. Lịch sử dầu vài trăm năm sau cũng cho ta thấy đâu là sự thật.

Tôi không dám kể hết câu chuyện, nhưng chắc chắn quí vị đã từng nghe nói tới hoặc đã từng đọc qua theo một quan niệm nào đó, chỉ mong quí vị nhín chút ít thì giờ để cùng trở về với dĩ vãng và để sống lại những kỷ niệm xa xưa. Mong đón nhận những lời chỉ trích xây dựng của quí vị và xin thành thật cám ơn trước

Bordeaux ngày 27 tháng 5 năm 2001

Tác giả Nguyễn Gia Linh
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.04.2008 01:42:09 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
Lệ Chi Hận sử - 01.04.2008 00:19:27
1
Cảm đề của tác giả trước khi vào truyện

Mấy ai đáng mặt công thần
Phò vua, dựng nước, dạy dân, giúp đời,
Côn Sơn non nước tuyệt vời
Hương danh Nguyễn Trãi ngàn đời còn lưu.


Nguyễn Gia Linh

R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.04.2008 04:05:55 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 01.04.2008 00:26:40
0


Tế Văn Hầu NGUYỄN TRÃI





Sau buổi Đăng Quang




Sau mười năm, nằm gai nếm mật (1)
Cùng những khi xất bất rừng xanh
Ngày nay không khí trong lành
Ấm no trở lại dân tình yên vui
*
Trước ngọn đuốc rạng ngời dân tộc
Toàn dân quân cùng dốc một lòng
Hậu Trần đành phải cáo chung
Nhường cho Lê Lợi vẫy vùng dọc ngang
*
Bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút
Bình Định Vương phủ phục khấn xin
Gió yên, sóng lặng, mưa lành
Đăng quang lèo chiếc thuyền mành qua sông
*
Lê Thái Tổ xét công luận thưởng (2)
Những hoàng thân cùng hưởng hồng ân
Những ai vì nước xả thân
Hiểm nguy chẳng ngại, phong trần chẳng than
*
Trong hoàng tộc, thưởng ban trước nhứt
Nhà họ Lê, thường trực buổi đầu
Họ Đinh tình nghĩa thâm sâu
(20) Bên cha, bên mẹ, công hầu khó quên
*
Những chí sĩ, vang rền tên tuổi
Những anh hùng, lướt bụi xông pha
Xả thân vì nước vì nhà
Rừng tên chẳng ngại, phong ba chẳng sờn
*
Kể từ lúc Đông Quan tuyên thệ
Đến khi ngồi bệ vệ trên ngai
Mười năm nếm mật nằm gai
Vẫn còn nhớ rõ những ngày phong ba
*
Người mưu sĩ, chói lòa tên tuổi
Hiệu Ức Trai, chẳng hổ danh người (3)
Tấm gương trung liệt sáng ngời
Để cho hậu thế đời đời soi chung
*
Khi chống giặc vẫy vùng lừng lẫy
Nào những khi hịch dấy lòng dân
Những khi hiển ý thiên thần
Chính vì Vương đã hiện thân ra đời
*
Khi hết giặc dùng lời răn dạy
Đem nghĩa nhân lèo lái con thuyền
Tạo ra trong ấm ngoài êm
(40) Dân vui cày cấy, trò siêng học hành
*
Nhưng lũ nịnh không đành ngồi ngó
Chúng dùng lời xiên xỏ dèm pha
Bảo rằng dụng ý gần xa
Kết bè kéo cánh tăng gia uy quyền
*
Giờ sống giữa rừng tiền biển bạc
Cùng tự tung tự tác một thời
Nịnh thần nào dễ buông lơi
Kiếm tìm mọi cách hại người trung can
*
Chúng rất sợ mất ngang quyền lực
Mất cuộc đời sáng rực đèn hoa
Hương thơm, môi thắm, tay ngà
Cung đàn, chén rượu, mấy tòa mê cung
*
Khi Nguyễn Trãi tấu cùng Thánh thượng
Ra chiếu thư trách tướng lộng quyền
Trách quan vơ vét bạc tiền
Khiến dân oán trách than phiền gần xa
*
Lời thẳng thắn không va cũng chạm
Những con người nhũng lạm tham ô
Những tay đục nước béo cò
(60) Những tên thân tín bên bờ quyền uy
*
Chúng lặng lẽ nghĩ suy tìm kế
Loại những người không thể chung đường
Những ai cản ngõ rào mương
Không cho chúng mãi nhiễu nhương dân lành

Lê Quốc Khí, tinh ranh thủ thỉ
Cháu của vua rủ rỉ thì thầm
Bảo Trần Nguyên Hãn, manh tâm (4)
Giả xin hưu trí, đến tầm Thái Nguyên
*
Hãn đã muốn bàn riêng cùng Thiệu (5)
Để cùng nhau loạn nhiểu biên phòng
Ngoài ra Hãn đã riêng lòng
Về hưu để luyện binh ròng mà thôi
*
Chú còn nhớ những lời so sánh
Bảo chú rằng tâm tánh giống vua
Việt Vương Câu Tiễn đâu vừa (6)
Gió giông thì ở, nắng đùa thì xa
*
Câu chia rẻ nghe qua mấy lượt
Mới lúc đầu, nghĩ trước suy sau
Nghe hoài cũng thấy nao nao
(80) Niềm tin giảm bớt, tình xao nhãng dần
*
Vua nghi kỵ mấy lần hỏi Dĩnh (7)
Ông ôn tồn, thủng thỉnh tâu rằng
Hãn khen kiên nhẫn Thánh hoàng
Vì chưng diện mạo hoàn toàn khác nhau
*
Hãn là kẻ anh hào nghĩa khí
Tánh thẳng ngay, ý chí hơn người
Đã theo bệ hạ suốt đời
Dám đâu bội phản để người cười chê
*
Lời trình tấu không hê hả dạ
Vua cho rằng họ đã thân nhau
Họ lo giăng trước đón sau
Cùng lo che chở mưa rào gió giông
*
Lê Quốc Khí, một lòng thâm hiểm
Vẫn cố lo tìm kiếm mưu sâu
Cho rằng Nguyễn Trãi chung cầu
Chí Linh Sơn Phú có câu hai lòng
*
Phú nhắc đến Việt Vương Câu Tiễn (8)
Khi nói về đường tiến Lam Sơn
Ức Trai, Nguyên Hãn bà con
(100) Cùng nhau hòa tấu khúc đờn câu ca
*
Vua chẳng nghĩ tình xa nghĩa rộng
Chỉ tin người ý động manh tâm
Vội ra sắc lệnh giam cầm
Bắt người có tội ( ?), truy tầm chủ mưu
*
Khí tức tốc đem thư tróc nả
Đến Đông Quan bắt gã phản thần ( ?)
Buồn thay tình nghĩa thế nhân
Phò vua không trọn, giúp dân không thành
*
Vốn đã biết công danh phù phiếm
Cố tránh xa triều hiểm đình nguy
Trở về Sơn động an di
Sớm lo trang trại, chiều đi thăm vườn
*
Tối ngẫm nghĩ mấy chương thi phú
Của Băng Hồ nét chữ còn in (9)
Nội thương trong buổi đăng trình
Chỉ đường tiến thối, giữ tình mai sau
*
Nay sống cảnh nghẹn ngào đau khổ
Đã đến thời giông tố phủ vây
Tưởng rằng xa lánh đường mây
(120) Về già hưởng được những ngày an vui
*
Giờ đã hết đường lui nẻo tới
Đã hết thời chúa đợi tôi lo
Cũng là võ tướng công to
Ta không thể chết trong lò hôi tanh
*
Này Lê Nỗ cùng anh uống cạn (10)
Chung rượu nồng tình bạn năm xưa
Cảm ơn em đã trình thưa
Riêng anh đã quyết sớm đưa đời mình
*
Giờ đã hết chữ tình chữ nghĩa
Kỷ niệm xưa thắm thía dường bao
Bọc đùm trong cảnh gian lao
Đến khi gác tía lầu cao quên người
*
Không để bọn đười ươi khi dễ
Bọn chó săn chỉ nể quyền uy
Ta đành chọn bước ta di
Cao xanh có hiểu những gì trái ngang
*
Trời giông bão, căm gan tức giận
Như cảm thông oán hận Hãn nầy
Ta đành cất bước chia tay
(140) Gieo vào lòng nước chia hai thế đời

Nguyễn Gia Linh


(xin xem tiếp chương Ngục Trung khám lạnh)

(1) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu ngày mùng 2 tháng giêng năm Mậu Tuất 1418
(2) Bình Định Vương Lê Lợi lên làm vua năm Mậu Thân 1428 lấy danh hiệu là Lê Thái Tổ
(3) Ứ c Trai là biệt hiệu của Nguyễn Trãi
(4) Trần Nguyên Hãn là anh em cô cậu với Nguyễn Trãi, gọi Trần Nguyên Đán là ông nội mà Nguyễn Trãi gọi là ông ngoại
(5) Bế khắc Thiệu đã từng theo Lê Lợi, có mặt ở hội thề Đông Quan, sau làm loạn ở Thái Nguyên
(6) Câu Tiễn, vua nước Việt dùng Tây Thi để làm say đắm Ngô Phù Sai, rất kiên nhẫn, nhịn nhục chờ thời. Sau khi thành công đã loại những người có công như Văn Chủng
(7) Lê Thiếu Dĩnh, một quan văn đạo mạo, trung trực giỏi về kinh tế
(8) Trong Vằng vặc sao khuê của Hoàng công Khanh, Nguyễn Trãi đã viết trong Chí Linh Sơn phú :...lúc ấy, khác nào Câu Tiền bức khống vua Ngô ở Cô Tô đài thuở trước..
(9) Băng Hồ là biệt hiệu của Trần Nguyên Đán
(10) Lê Nỗ, nguyên là Đại Tổng quản dưới quyền của Nguyên Hãn trong thời chiến, phải theo Lê Quốc Khí đến bắt chủ cũ của mình nên đã khuyên Nguyên Hãn đi trốn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.04.2008 01:51:03 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
Lệ Chi Hận sử - 02.04.2008 20:55:21
0
Ngọc trung khám lạnh

Một tiếng sét ! long trời lở đất
Một hung tin, tím mật bầm gan
Hãn ơi ! Nơi chốn suối vàng
Em đi, anh ở đôi hàng lệ đau
*
Anh tức tối nghẹn ngào câm nín
Không biết mình đang tỉnh hay say
Nói lên lời thật thẳng ngay
Hay đành ôm chặt đắng cay trong lòng
*
Vua không phải mình không dám nói
Vua giết người vô tội có công
Mình không dám tỏ nỗi lòng
Nói chi chỉ trích, rước vòng tai ương
*
Tình bằng hữu như vương như vấn
Nghĩa vua tôi muốn nấn muốn lui
Ngày xưa chia đắng xẻ bùi
Ngày nay chỉ nghĩ đến mùi đỉnh chung
*
Giữa mưa gió bão bùng trong trí
Bổng bên ngoài Quốc Khí hét vang
Chúng bây đi trước dẫn đàng
(160) Để ta vào bắt tôi loàn phản vong ! ! !
*
Trãi ngơ ngẩn như trong cơn mộng
Trí óc còn xúc động mênh mông
Đất trời như một khoảng không
Không tình, không lý, không vòng nghĩa ân
*
Trãi nén giận, nghiêm trang khẽ hỏi
Lê Phó sư, tôi tội tình chi ?(11)
Đến giờ chưa biết tội mi
Thông đồng với giặc biên thùy nhiễu nhương
*
Mi cùng Hãn chung đường với Thiệu
Hưởng hoàng ân chẳng chịu ngồi yên
Lại gây rối rắm lụy phiền
Cho dân cho nước triền miên khổ sầu!
*
Không chịu nổi những câu ngụy biện
Trãi yêu cầu diện kiến Thánh hoàng
Khí rằng : Tội trạng rõ ràng
Này đây chiếu chỉ kêu than nỗi gì
*
Trước bạo lực còn chi để nói
Trước độc tài, ai giỏi biện phân ?
Chỉ thương chút phận tôi thần
(180) Hết lòng vì nước, vì dân, vì nhà
*
Nguyễn Thị Lộ xót xa trong dạ
Thương chồng yêu tuổi đã năm mươi (12)
Xông pha mấy chục năm trời
Giờ chưa thấy được cuộc đời an vui
*
Giữa đau xót, ngậm ngùi số phận
Và bôn ba lo lắng cho chồng
Không gì cản trở được lòng
Kiếm người giúp đở bên trong bên ngoài
*
Bao bè bạn đêm ngày thăm hỏi
Cố wắng tìm nguồn cội nguyên do
Xem ai là chủ chuyến đò
Chở chuyên kẻ nịnh mà so tôi hiền
*
Nay đã rõ căn nguyên cội rễ
Họp cùng nhau tìm kế phân bày
Bạn bè còn lại mấy ai
Quyết nhờ Đinh Liệt, tỏ bày biện minh (13)
*
Phía bên ngoài sự tình đã sáng
Lộ hết lòng cáng đáng bên trong
Làm sao gặp được mặt chồng
(200) Co ro, cá chậu chim lồng tối tăm
*
Nàng tìm đến Huy Chân công chúa (14)
Một giai nhân hương lửa nhà Trần
Tự mình nguyện đáp 诃?ng ân
Chỉ mong cùng được góp phần đắp xây
*
Không thể ngược đường dây lịch sử
Nước non giờ đổi chủ thay ngôi
Nhà Trần đã mất cơ trời
Thì đem tài sức giúp đời nhà Lê
*
Trước ổn định lời thề thống nhứt
Rằng vua Trần chấm dứt tranh quyền
Từ nay một bến một thuyền
Ai người chèo chống đến miền vinh quang ?
*
Vốn mến chuộng tài ngang Phạm Lãi (15)
Trí mưu thần đâu hãi Trương Lương (16)
Nghe lời Thị Lộ phân tường
Huy Chân tìm đến khám đường thăm ông
*
Giữa cay đắng chất chồng tâm não
Bốn bức tường mờ ảo hôi tanh
Nghĩ sao cho hết lòng mình
(220) Nói sao cho hết ý tình đục trong
*
Không mảnh gìấy, bút cùn chẳng có
Biết làm sao bày tỏ nỗi lòng
Làm sao đến tận đền rồng
Để vua phân biệt màu hồng màu đen
*
Bao câu hỏi rối ren trong trí
Bao niềm tin vốn dĩ lung lay
Trọn lòng trung nghĩa không phai
Hay mau tìm chốn non Đoài lánh thân
*
Trong lối sống số phần đã chọn
Một con đường trước đón sau đưa
Nước non lo mấy cho vừa
Mà sao tâm trí vẫn chưa yên lòng
*
Đang lo lắng giữa trông giữa đợi
Bỗng chợt nghe tiếng gọi thanh tao
Dư hương, âm hưởng ngọt ngào
Phát ra từ... một kiếp nào về đây
*
Nguyễn Thừa chỉ, hỏi Ngài thức ngủ ?
Tôi đến thăm, nhắn nhủ vài câu
Biết trong khám lạnh u sầu
(240) Nhớ thương làm bạc mái đầu trung cang
*
Tôi đã hiểu rõ ràng chi tiết
Nhờ vợ ông khúc chiết tỏ bày
Này đây mấy vật cầm tay
Sâm dùng giữ sức, giấy mài mực thoi
*
Trong khám lạnh theo ngòi nét bút
Sớ khiếu oan un đúc nỗi lòng
Bên ngoài xin xét đục trong
Thánh hoàng mở lượng khoan hồng thứ tha
*
Ngài cứ thảo, đôi ba ngày nữa
Tôi trở vào, đứng tựa hiên tây
Nhận xong sớ khiếu oan nầy
Sẽ trình Thánh thượng xét dầy công lao
*
Trước nghĩa cữ, nghẹn ngào xúc động
Cúi xin người chuyển vọng bài thơ
Chứa chan tâm sự mong chờ
Của người đã đến bến bờ nghĩ suy
*
Năm mươi tuổi, đường đi một lối (17)
Sao cuộc đời chìm nổi lắm phen
Danh hư trắng, họa thực đen
(260) Thương yêu vì nước, ghét ghen vì tài
*
Do số kiếp không ai tránh khỏi
Bởi lòng trời chưa nới tơ vương
Cố đem tâm sự trung lương
Ghi vào trang giấy phân tường đục trong

Nguyễn Gia Linh


(11) Lê Quốc Khí là cháu kêu Lê Lợi bằng chú, giữ chức Phó sứ Mật vụ viện, là kẻ chủ mưu để hãm hại Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi và Phạm Văn Xão sau nầy
(12) Lê Lợi vừa lên ngôi vua được một năm, đến năm Kỷ Dậu (1429) đã ra lệnh giết Trần Nguyên Hãn và bắt nhốt Nguyễn Trãi. Lúc ấy Nguyễn Trãi vừa được 50 tuổi (âm lịch)
(13) Đinh Liệt, cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, là một quan võ có tài lại cũng giỏi về văn (thường làm thơ bằng cách nói lái), rất mến phục tài trí và sự trung thành của Nguyễn Trãi
(14) Huy Chân công chúa là con của vua Trần cuối cùng, đã tự nguyện xin làm phi của vua Lê Lợi, khi nghĩa quân vừa tiến đến Nghệ An
(15) Phạm Lãi, mưu thần của vua Câu Tiễn, đã giúp vua phục hồi nước Việt. Sau khi thành công đã từ quan, xin về quê an hưởng tuổi già
(16) Trương Lương, quân sư của Lưu Bang, đã giúp ông nầy đánh bại Hạng Võ để lập nhà Hán, cũng từ quan về hưu sau khi thành công.
(17) Theo Vằng Vặc Sao Khuê của Hoàng công Khanh, Nguyễn Trãi đã gởi bài Than Oán như sau :

Chìm nổi cuộc đời năm chục năm
Non quê suối đá phụ tình thâm
Đáng cười họa thực mà danh hảo
Quá xót trung côi lắm kẻ căm
Tại mệnh làm sao mà tránh khỏi
Do trời chưa nở bỏ tư văn
Trong lao oan nhục ghi lưng giấy
Chín bệ nhờ ai đệ tố trần

 
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.04.2008 04:15:14 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 03.04.2008 21:35:19
0
Chương 3
 
An Nam Quốc Vương


Lê Thái tổ trào trung triệu tập
Để tìm người đối đáp Minh Triều
Từ khi nuốt hận trăm điều
Vẫn mong quấy rối, gây nhiều khổ đau
*
Nhứt Trương Phụ, lòng đao dạ kiếm
Một thuở nào ngự chiếm Thăng Long
Tưởng mình ngồi giữa cung rồng
Đêm vơ ngày vét vẫn không chịu dừng
*
Rồi đến lúc đường cùn phải chạy
Như chuột chùn, ếch nhái muỗi giun
Một trang dũng tướng anh hùng
Thân tàn danh liệt, ngậm gừng nuốt cay !
*
Không xấu hổ, còn bày mưu hiểm
Mong trở qua xâm chiếm Nam triều
Thấy dân đau khổ đã nhiều
(280) Nhà Minh đành phải theo chiều gián can
*
Không xâm lấn nhưng làm khó dễ
Bảo phải tìm hậu duệ nhà Trần
Hay đòi cống phẩm thêm phần
Trước đe sau dọa, mấy lần tạm phong
*
Nay sứ giả Trương Thông chuyển đạt (18)
Cùng Lý Kỳ, Vĩnh Dật đang chờ
Nhà vua giao thảo bức thư
Bang giao, lễ vật, cuộc cờ xác minh
*
Quan văn vỏ, thật tình phân giải
Nào ai hơn Nguyễn Trãi tài ba
Đã đem lý thánh lời hoa
Viết bao văn biểu sáng lòa đường mây
*
Xin Thánh Thượng đức dầy ân xá
Thừa Chỉ người tận dạ đáp đền
Quyết đem tài trí thấp hèn
Để cho Minh chúa không chèn nước ta
*
Vua nghe phải, truyền tha Nguyễn Trãi
Bỏ tước hầu, giữ lại thừa văn
Những quan một dạ trung thần
(300) Tung hô vạn tuế muôn phần hân hoan
*
Cứu Nguyễn Trãi khỏi gian nhà ngục
Các bạn bè tiếp tục chăm lo
Sợ khi mưa gió qua đò
Người ngay còn ngại sóng to giữa dòng
*
Vì công việc cần ông khẩn cấp
Vua sai người đến gặp ông liền
Bảo vua diện kiến tôi hiền
Cùng lo việc nước đến miền an vui
*
Bao ngày tháng ngậm ngùi trong dạ
Ánh dương quang chưa thỏa niềm tin
Gió mưa còn phải giữ gìn
Dám đâu phiền đến nghĩa tình chúa tôi
*
Vua tiếp rước, đón mời sâm rượu
Cùng nhâm nhi kể đủ nguồn cơn
Bảo rằng giặc loạn biên cương
Để ông phải chịu oan ương thế nầy
*
Đây ly rượu cùng say trước đã
Sau sẽ bàn sứ giả triều Minh
Đọc xong văn kiện sự tình
(320) Ông đem kiên nhẩn đối kình nóng nôn
*
Đã từ lâu, một đòn trách cứ
Vua nhà Minh vô lý tột cùng
Còn ta một dạ thủy chung
Một niềm thành khẩn, một lòng suy tôn
*
Ta theo thế, lời ôn lý luyện
Người dẫn đầu biết chuyện nói thưa
Biết câu đón nắng rào mưa
Khiêm nhường, kín đáo, đẩy đưa lòng người
*
Trần Thuấn Du một thời vang tiếng (19)
Đáng theo đoàn phúc kiến nhà Minh
Chính người gây được cảm tình
Của người đối diện, để mình yên thân
*
Du còn phải đem phần cống phẩm
Chia làm ba, hai tặng nhà vua
Một phần chia đủ cho vừa
Nửa Hoàng Thái hậu, nửa đưa Tử hoàng
*
Không phải thế chính nhân quân tử
Nhưng nên dùng để giữ nước nhà
Dầu sao nói giúp cho ta
(340) Hai người uy thế, cũng là phần hơn
*
Vua thích thú trước đòn yếm trá
Bảo thừa văn, vội vã thảo thư
Cho người kêu gọi Thuấn Du
Dặn dò kỹ lưỡng, đúng thư thi hành
*
Như kế hoạch, tánh danh đã rõ
Vua nhà Minh đành tỏ khoan hồng
Lý Kỳ cùng với Hữu Thông
Mang theo thánh chỉ sắc phong Nam Triều (20)
*
Vua Lê Lợi ra chiều sung sướng
Ngôi Quốc vương tận hưởng phương Nam
Từ đây khí chướng sơn lam
Hết canh phương bắc, mấy đàng thong dong

Nguyễn Gia Linh


(18) Ba sứ giả Minh Triều gồm Lễ Bộ thị lang Lý Kỳ, Từ Vĩnh Dật và Trương Thông
(19) Phái đoàn sứ giả đi cống sứ nhà Minh gồm Trần Thuấn Du, Bùi Cầm Hỗ, Nguyễn Khả Chi. Trần Thuấn Du đậu khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu, ông là một trong 4 ông thông kinh bác sử thời đầu nhà Lê. Đó là Lý, Trần, Thân, Đỗ. Hai ông Lý Tử Tấn, Trần Thuấn Du ở nửa đầu thế kỷ thứ 15 và hai ông Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận ở cuối thế kỷ nầy (theo Bùi Văn Nguyên trong Truyện Nguyễn Trãi và Hoàng Công Khanh trong Vằng vặc sao khuya)
(20) Năm Tân Hợi (1431) vua nhà Minh chính thức sắc phong cho Lê Lợi làm An Nam Quốc vương

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2008 04:47:50 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 04.04.2008 17:00:48
0
Chương 4
 
Côn Sơn Quy ẩn

Được kết quả như mong như đợi
Tài ngoại giao sánh với mưu thần
Góp công đền đáp hoàng ân
Dám đâu nghĩ đến chút phần lợi danh
*
Danh không có, lợi đành quên lãng
Sống chuỗi ngày thanh đạm muối dưa
Nhiều đêm nhìn ánh trăng khuya
(360) Hắt hiu gió thổi, đầm đìa sương rơi
*
Nghe ray rứt, bồi hồi trong dạ
Thương chồng yêu, chí cả chưa yên
Đêm đêm gói trọn ưu phiền
Quyết đem tâm sự nỗi niềm gởi trao
*
Chồng sách cũ, lệ trào khóe mắt
Giúp ích gì lúc ngặt lúc nghèo
Thương dân mưa ít nắng nhiều
Ruộng vườn hạn hán lắm điều trái ngang
*
Dân đã khổ, mình càng thêm khổ
Bao lần qua, mấy độ buồn thương
Muốn đem tâm sự chán chường
Gởi vào manh chiếu bên đường bán rong (21)
*
Sợ uy thế của chồng suy giảm
Nên đành cam cáng đáng việc nhà
Để chồng rảnh trí lo xa
Trước lo cho nước cho nhà được yên
*
Cây muốn lặng, gió quyền không lặng
Chuyện đau buồn Nguyên Hãn chưa nguôi
Lại thêm sóng gió tơi bời
(380) Phạm Văn Xão tướng, hết đời quy thiên
*
Lời dèm xiểm, thay thuyền đổi bến
Lòng Quân Vương chẳng mến thương người
Lại thêm bụng dạ hẹp hòi
Ép người trung liệt suốt đời lao lung (22)
*
Trần Nguyên Hãn mệnh chung vì Bản (23)
Phạm văn Xão tội phản vì Lê (24)
Tạo ra thảm trạng ê chề
Những ai đã quyết theo về Quân vương
*
Cùng chung chịu đau thương thống khổ
Cùng xông pha lửa đỏ tên bay
Đến khi sung sướng trên ngai
Lại quên đi hết những ngày gian nan
*
Quên những kẻ thi gan cùng giặc
Lại học đòi sớm bắt chiều tha
Vì không chứng cớ để tra
Nên đành phải thả Ông ra khỏi tù
*
Sớm chán nản công hầu khanh tướng
Về Côn Sơn vui hưởng tuổi già
Giữa vùng đất rộng bao la
(400) Nhớ nàng bán chiếu đúng là duyên thiên
*
Thấy người đẹp ông liền khẽ hỏi (25)

Nàng ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân xanh nay được bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con ?

Thị Lộ nghe xong vội trả lời (26)

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon (27)
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh nay độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con ?

Cành lan ở giữa núi đồi
Nhụy thơm hương thắm ai người chuốt trau
*
Viên ngọc quý không đào mà được
Cành lan xinh tha thướt dạng hình
Những đêm gió mát trăng thanh
Đem thơ mà kết mộng lành thiên thu
*
Khoảng thời gian, mây mù giăng lối
Ông về quê sớm tối phụng thờ
Bóng hình ông ngoại ngày thơ
Là cha dạy dỗ, mẹ mơ nuông chiều
*
Mẹ mất sớm, cha nhiều lận đận
Về Côn Sơn yên phận ngoại già
Sáng chiều sớm tối lân la
Thương thiên nhiên cảnh, yêu hoa lá rừng
*
Mến đèn sách ông từng trang đọc
Kinh, Tứ Thư quyết học với hành
Khi sương sớm, lúc tàn canh
(420) Quyết đem tài đức tạo danh với đời
*
Nay trở lại vùng trời thương mến
Trước bàn thờ đốt nến hương đưa
Kính hồn ngoại với mẹ cha
Giúp con qua khỏi chuyến phà khổ đau
*
Nghĩ tức tối, làm sao diệt nịnh
Bản, Khí, Hoành.. quyền bính trong tay
Chỉ lo ton hót tối ngày
Cố tìm cách hại những tay trung thần
*
May mắn thay, người thân nghĩa khí
Vẫn còn nhiều cùng chí đấu tranh
Nguyên, Tuân, Tử Tấn, Quang Minh...(28)
Quốc Hưng, Cảnh Thọ, Văn Linh mấy người
*
Họ nhứt quyết không dời tôn chỉ
Họ hợp nhau cùng ý Ức Trai
Viếng thăm những lúc nạn tai
Quyết đem sức học văn tài giúp vua

Nguyễn Gia Linh




(21) Thị Lộ thấy gia đình túng kém, muốn buôn bán chiếu để nuôi gia đình như ngày xưa, trước khi gặp Nguyễn Trãi
(22) Nguyễn Trãi bị bắt cầm tù do thân thích với Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xão nhưng vì không chứng cớ nên được thả. Trần Nguyên Hãn là anh em cô cậu với Nguyễn Trãi, gọi Trần Nguyên Đán là ông nội mà Nguyễn Trãi gọi là ông ngoại.
(23) Trước khi xin về hưu, Trần Nguyên Hãn có than thở với những người thân cận là Lê Thái Tổ có tâm địa như Việt Vương Câu Tiễn nên bị gièm pha và bị bức tử bởi lủ nịnh gồm Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Bá Hoành...Ông nhảy xuống sông tự sát còn Phạm văn Xão bị khép tội phản thần và bị xử chém
(24) Lê Quốc Khí một nịnh thần có quyền thế vì là cháu gọi vua Lê Lợi bằng chú
(25) Theo Bùi Văn Nguyên trong : Truyện Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi hỏi :
Quê ở đâu ta bán chiếu gon
Trời đà về tối chửa về con ( ?)
(26) Thị Lộ trả lời : Quê ở Đông Triều bán chiếu gon
Chồng thời chửa có, hỏi gì con ?
(27) Theo Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
(28) Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn,Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Quang Minh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Cảnh Thọ, Lê Văn Linh, Trần Thuấn Du... là những vị trung thần

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2008 19:29:54 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 05.04.2008 16:01:54
0
Chương 5
 
Khơi dòng lịch sữ

Bao biến cố vua chưa thức tỉnh
Vì phong ba sóng định hoàng cung
Theo cha thỏa chí vẫy vùng
(440) Mười năm kháng giặc vượt rừng đạn tên

Khi đất nước hết cơn binh lửa
Được vua cha phong chúa phong hầu
Nhưng ngôi Hoàng Tử tối
cao
Không phong con trưởng lại giao con khờ (27)

Hữu Tướng Quốc Tư Tề nắm giữ
Lại được phong chức vụ Quốc
vương
Nhưng ngồi ngay giữa triều đường
Chính Lê Thái Tổ nắm cương trị vì

Không nắm vững đường đi nước bước
Muốn giữ tròn sau trước một lời
Nên phong Hoàng Tử nhiệm thời
Nguyên Long Thái tử nối đời vua sau

Càng không nắm khi trao trọng trách
Cho Tư Tề đặc cách duyệt quân
Để đi dẹp giặc loạn thần
Lại đưa Lê Sát góp phần hành quân

Nhưng Lê Sát ông thân bố vợ
Của Nguyên Long, chẳng sợ Tư Tề
Cố tìm mọi cách trì trề
(460) Hành quân chẳng được, đi về cũng không

Vì hết tướng tài hùng trí dủng
(Văn Xảo cùng Nguyên Hãn mệnh chung)
Nên vua đành phải giương cung
Điều quân khiển tướng lên rừng diệt nô

Không còn thấy vầng ô rực rỡ
Tóc bạc màu vẫn khổ xông pha
Chạnh lòng nhớ chuổi ngày qua
Nhớ trang anh tuấn tài ba tuyệt vời

Trần Nguyên Hãn suốt đời trung liệt
Phạm Văn Xão khí tiết hơn người
Vì ta bụng dạ hẹp hòi
Hồn thiêng đã thác chưa nguôi suối vàng

Thêm Nguyễn Trãi bẽ bàng đau khổ
Tạm lui về trú ở Côn Sơn
Để ta hối tiếc tủi hờn
Nhạc vui chưa dứt khúc đờn lạc dây

Quyết trừng trị bọn bầy tôi nịnh
Đuổi hết về an định rừng sâu (28)
Nguyên Long con nhớ việc đầu
(480) Tận dùng Nguyễn Trãi, thỉnh cầu người trung

Làm được thế anh hùng thiên hạ
Kéo về đây hết dạ phụng thờ
Trăm hoa đua nở dưới cờ
Ấm no trở lại bến bờ nước Nam

Cha nhắm mắt cũng cam tấc dạ
Chốn cữu tuyền ngựa đã lên yên
Chúc con mưa thuận gió hiền
Để đem đất nước đến miền vinh quang

Nguyễn Gia Linh



(27) Con trai trưởng của Lê Lợi là Tư Tề, đã từng theo cha đánh giặc. Mẹ cùng em đã bị giặc Minh giết còn Nguyên Long là con của bà vợ kế và Lê Lợi vì lời hứa khi bà nầy bị cúng thần cá ở Nghệ An
(28) Trước khi chết vua Lê Lợi đuổi hết bọn nịnh thần Lê Quốc Khí, Đinh Ban Bản, Trịnh bá Hoành về làm dân giã, ra lệnh không được dùng dầu chúng có tài

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.04.2008 18:55:28 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 05.04.2008 19:37:28
0
Chương 6
 
Gió loạn triều đình


Trong sương gió, mây tràn mọi nẻo
Tiếng chuông buồn lạnh lẽo ngân xa
Đương kim Hoàng đế băng hà
Mười năm kháng giặc như là chiêm bao

Trong triều nội lao xao chuẩn bị
Lễ phát tang cùng lễ đăng quang
Thái Tông chễm chệ ngai vàng
Tóc còn để chỏm, hai hàng hoạn nhân

Vua còn nhỏ chơi thân với hoạn
Chưa hiểu đời biến loạn bên trong
Bao nhiêu thảm trạng xoay vòng
(500) Là bao tranh chấp bởi lòng gian tham

Lời cha dặn, cần tham khảo ý
Những nhân tài chí sĩ lừng danh
Triệu hồi Nguyễn Trãi về kinh
Còn giao trọng trách tuyển sinh
anh tài

Nhưng Nhiếp chính vào tay
Lê Sát
Cùng nịnh thần lấn át quyền vua
Vì chưng ham thích chơi đùa
Nên không hiểu được để ngừa trước sau

Nào những lúc Ngọc Dao kề cận (29)
Để mong vua đoái phận thương hồng
Rồi khi Nhật Lệ tuyển cung (30)
Sát, Ngân tranh chấp não nùng nước non

Vua lúc ấy hãy còn nhỏ tuổi
Còn ham vui chưa đợi trăng thề
Ngọc Dao, Nhật Lệ gần kề
Cũng chưa thấu nghĩa vẹn bề trúc
mai

Việc triều chánh không hay không biết
Để mặc tình Ngân, Sát đấu tranh
Càng lo củng cố lợi danh
(520) Thêm vây thêm cánh để dành quyền to

Nhóm Nguyễn Trãi phải lo nhiều mặt
Nào sửa sang lễ nhạc triều đình
Tập phong dâng biểu nhà Minh
Soạn biên sử sách, luật hình, lễ nghi

Vua vẫn muốn duy trì văn hóa
Từ thâm cung, sơn dã thị thành
Lễ Nghi học sĩ tài danh
Phong bà Thị Lộ, thông minh hơn người

Nguyên ái nữ cụ đồ nho học
Cũng đã từng ngang dọc Lam Sơn
Gian lao nguy hiểm chẳng sờn
Theo chồng kháng chiến, sắt son bao đời

Người xứng đáng, trau dồi cung nữ
Dạy văn chương, thi tứ, cầm ca
Đoan trang đức hạnh đạo nhà
Tướng đi nét mặt rất là thùy nghi (31)

Muốn bảo vệ những gì quí báo
Những tinh hoa, gia bảo giống nòi
Nhưng Lương ý kiến hẹp hòi (32)
(540) Được lòng ấu chúa, học đòi nhà Minh

Hồn lễ nhạc kết tình đất nước
Như muôn cây nẩy tược đâm mầm
Hoa xinh ngát tỏa hương trầm
Đồi xanh, núi biếc, tình thâm dạt dào

Ai đem sánh cành đào nhánh mận
Đem hồn thiêng cao tận trời xanh
Dòng sông nước suối trong lành
Mà rây nước đục, để dành bùn nhơ

Nguyễn Trãi muốn trọn thờ chân chúa
Lủ nịnh thần vây bủa xung quanh
Lương Đăng, Thúc Huệ tài ganh (33)
Tìm trong sàm tấu để dành phần hơn

Nào Lê Sát gây hờn chuốc hận
Hại Nhân Chủ một đấng công thần (34)
Nhưng trong thiên số định phần
Tiền căn hậu kiếp không gần thì xa

Đường đã chọn cùng ma với quỷ
Thì thế nào cũng lụy cũng tan
Sát kia đã vạch ngày tàn (35)
(560) Thì Ngân cũng đến pháp tràng mệnh chung (36)

Thế mới biết anh hùng thiên hạ
Những con người lòng dạ thẳng ngay
Đường đời dù gặp đắng cay
Như cành trúc yếu, gió hoài chẳng cong

Nguyễn Gia Linh



(29) Lê thị Ngọc Dao con Lê Sát sớm bị phế bỏ, chưa có con
(30) Lê thị Nhật Lệ con của Lê Ngân cũng sớm bị phế bỏ, chưa có con
(31) thùy mị, uy nghi
(32) Lương Đăng, một nịnh thần được vua giao cùng Nguyễn Trãi sửa sang Lễ Nhạc nước nhà
(33) Nguyễn Thúc Huệ
(34) Lê Nhân Chủ
(35, 36) Lê Sát và Lê Ngân

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 07:03:22 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 06.04.2008 16:15:45
0
Chương 7
 
Sóng gió Hoàng cung


Bắt đầu hiểu điều trong lẽ đục
Nhưng bên vua, vẫn chực vẫn chờ
Năm bà chiều chuộng tôn thờ
Không quên gièm xiểm để chờ hại nhau

Sớm phế bỏ Ngọc Dao, Nhật Lệ
Đã qua thời kềm chế Sát, Ngân
Cố nghe lời lẽ phân trần
Những người chính trực trung thần đã lâu

Nguyễn Trãi đã trình tâu nên tránh
Rượu với trà bên cạnh giai nhân
Những ai liêm chính nên gần
Những câu đẹp dạ dành phần xét suy

Thương nhà vua xuân thì vừa chớm
Mẹ cùng cha đã sớm lìa đời
Trong tay quyền lực cao vời
(580) Mà thâm tình chẳng mấy người không tham

Trong cung cấm tường loan trướng phủ
Mấy bà phi tìm giữ uy quyền
Dựa trên vây cánh bạc tiền
Hoặc lời ngon ngọt than phiền lẩn nhau

Dương Thị Bí tính cao tình ngạo
Gương mặt hoa sắc sảo mặn mà
Tấm thân tương đối đẫy đà
Sớm sanh con trưởng tên là Nghi Dân

Sau vài tháng được phong Hoàng tử
Nên quý phi như mở tấc lòng
Tưởng rằng dưới đất trên không
Chỉ còn có mỗi bông hồng họ
Dương

Trong cung cấm ngăn tường bít ngỏ
Nhưng tiếng tai vẫn trổ ra ngoài
Lại thêm quan hoạn thày lay
Quý phi tranh chấp tháng ngày gay go

Nguyễn Thị Anh mắt to môi thắm
Chân mày cong làm đắm lòng vua
Lời ăn tiếng nói đẩy đưa
(600) Nhưng lòng nham hiểm hơn thua không nhường

Cuộc tranh chấp khó lường sau trước
Thân liểu gầy nẩy tược đâm ngang (37)
Thị Anh mưu kế sẵn sàng
Quyết dành cho được ngôi Hoàng tử
cao

Vườn Thượng Uyển, hoa đào,
hoa lý
Đóa hải đường thùy mị xinh tươi
Thủy tiên, Hàm tiếu vui cười
Muôn hoa ngàn vẻ cánh đài khác nhau

Lê Thị Mai ngọt ngào lời nói
Tính dịu hiền lại giỏi công dung
Mặc ai gây gió bão bùng
Chỉ mong núp bóng đại tùng yên thân

Nhờ cam phận tránh lằn sấm chớp
Tránh cho con khỏi lớp sóng ngầm
Khắc Xương trong cảnh âm thầm (38)
Lớn khôn theo ánh trăng rằm mẹ yêu

Ngô Ngọc Xuân diễm kiều mỹ lệ
Tính nhu mì hiểu thế hiểu thời
Ngô Từ, thân phụ suốt đời (39)
(620) Theo phò Bình Định, không rời nhà


Từng tiến cử theo về Lê Lợi
Bậc anh hùng tài giỏi hơn người
Ức Trai đã thấy cơ trời
Không màng sương gió, không lơi tấc lòng

Thêm tiến cử vào trong thành nội
Để lo điều học hỏi cung nhi
Anh thư Thị Lộ ai bì
Đức tài nắm giữ Lễ Nghi đương triều

Ngô Ngọc Dao mỹ miều không kém
Theo chị vào tô điểm cung phi
Thái Tông thấy được dung nghi
Phải lòng giữ lại chờ khi trăng rằm

Trước chỉ được cho làm cung nữ
Nết dịu dàng, cách cữ Tiệp

Trái soan, gương mặt hiền từ
Đem tin tưởng đến, đem thơ thới vào

Xuân vừa chớm, hoa đào đơm nụ
Khóe môi cười quyến rủ niềm yêu
Nhà vua quý mến nâng niu
(640) Sợ sương khuya lạnh, sợ chiều tả tơi

Nguyễn Thị Anh ghen lời ghét ngỏ
Vừa hạ sanh thái tử Bang Cơ
Rắp ranh xây bến xây bờ
Truất ngôi Hoàng tử, phế cờ Nghi Dân

Lợi dụng thế kiêu căng ngạo mạn
Của Bí phi trong ván cờ vua
Nếu không mưa gió thuận mùa
Làm sao có thể được vừa lòng dân

Lại thêm nỗi miệng lằn lưỡi mối
Khiến Thế Tông kết tội Bí phi
Phải rời ngay khỏi kinh kỳ
Trở về dân dã, đoạn lìa Nghi Dân

Vua lại lập một Tân Hoàng tử
Phế Nghi Dân phong xứ Lạng Sơn (40)
Bao nhiêu cay đắng tủi hờn
Trút lên đầu trẻ chưa tròn hai năm

Con đã được phong làm Hoàng tử
Trong cấm cung nắm giữ uy quyền
Từ đây trên bến dưới thuyền
(660) Mua lòng quan nịnh, quyết dìm tôi trung

Thị Anh sợ tấm lòng Nguyễn Trãi
Hiên ngang theo nẻo phải đường ngay
Mặc dầu biết trước nạn tai
Không chùn chân bước, không nài hiểm nguy

Trong cung nội, Lễ Nghi học sĩ
Thấm nhuần sâu đạo lý thánh hiền
Cùng chồng giữ vẹn lời nguyền
Phò vua giúp nước, giữ yên cõi bờ

Dạy cung nữ đường tơ kẽ tóc
Đạo con người trước học sau hành
Công dung ngôn hạnh chỉ rành
Đường đi nước bước ngọn ngành thiệt hơn

Lời trình tấu như sơn như phết
Vua nghe theo lẽ thiệt điều hay
Thị Anh ngậm đắng nuốt cay
Quyết tìm mọi cách chia hai mái đầu

Ngoài triều chánh hợp nhau với Liệt (41)
Trong nội cung thân thiết Tạ Thanh (42)
Bảo toàn trật tự an ninh
(680) Cho vây cho cánh cho mình phồn vinh

Cùng kết mối thâm tình với Huệ (43)
Chuyên lo về văn tự hậu cung
Đôi khi dính với triều trung
Nên không tránh khỏi những xung đột ngầm

Cùng Lương Đăng âm thầm tranh chấp
Với Ức Trai về tập nhạc công
Một bên truyền thống tổ tông
Một bên theo hướng xuôi dòng nhà Minh

Nhóm Nguyễn Trãi tấu trình Thánh Thượng
Nên noi theo đường hướng vua cha
Bảo toàn truyền thống nước nhà
Cho dân hăng hái chan hòa niềm tin

Hơn thế nữa tiến trình thấy rỏ
Cố Thượng hoàng đã tỏ đục trong
Chỉ dùng Lương đống nội cung
Không cho tham dự triều trung bao giờ

Lời tâm huyết chơ vơ bến lạ
Không buồn nghe để dạ đâu đâu
Nhà vua đã chọn nhịp cầu
(700) Chọn người cởi ngựa theo hầu từ xưa (44)

Nguyễn Gia Linh



(37) có thai, theo Hồ Xuân Hương : Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang
(38) Khắc Xương là con của bà phi Lê thị Mai
(39) Ngô Từ là cha của Ngô Ngọc Xuân và Ngô thị Bính tự Ngọc Dao, đã tiến cữ Nguyễn Trãi cho Lê Lợi và Nguyễn thị Lộ làm Lễ Nghi học sĩ dưới triều Lê Thái Tông, có họ với Ngô Quyền
(40) Nghi Dân bị truất ngôi Hoàng Tử và được phong làm Lạng Sơn vương
(41) Nhiếp chính Lê Liệt thay thế Lê Sát, Lê Ngân đã bị giết
(42)Tạ Thanh lo về an ninh nội cung, lảnh đạo nhóm hoạn quan gồm Nguyễn Thúc Huệ lo về văn tự, Lương Đăng lo về Lễ nhạc
(43) Nguyễn Thúc Huệ
(44) Chọn hoạn quan chơi cởi ngựa cùng vua hồi nhỏ

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 07:06:03 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 07.04.2008 22:52:31
0
Chương 8
 
Rời khỏi kinh thành


Nguyễn Trãi thấy lòng chua xót quá
Nghĩ tuổi già, thôn dã yên thân
Chỉ mong đi cuối đường trần
Trọn lòng cùng chúa, cùng dân, cùng nhà

Sớm lo lắng cung ngà lục viện
Thương Ngọc Dao quyền biến chưa thông
Hồn như viên ngọc trắng trong
Chưa vương màu đỏ, chưa lồng màu đen

Một đêm trăng bên đèn chợp mắt
Thấy tiên đồng khuông mặt xinh tươi
Mắt đen má thắm môi cười
Vâng lời Thượng Đế dạo chơi cõi trần

Xuống trái đất làm thân quyền quý
Bước vào đời cung hỉ Khánh Phương (45)
Giật mình tỉnh giấc hoàn
lương
Ngọc Dao mừng rở đốt hương khẩn cầu

Trước Thượng Đế dập đầu khấn lạy
Phù hộ con, trẻ dại thơ ngây
Đưa con qua khỏi nạn tai
(720) Vượt bao nghịch cảnh, giúp Ngài thành công (46)

Quá sung sướng mở lòng bày giải
Cùng cung nhân kể lại mộng lành
Nghĩ rằng gió mát trăng thanh
Sẽ đem no ấm yên lành khắp nơi

Nàng nào biết tai khơi nạn mở
Tiếng đồn vang thấu ở cung đình
Thị Anh nghe nói giật mình
Sợ Hoàng Tử đổ, sợ tình mình nguy

Sanh quý tử Dao phi sẽ chiếm
Trọn lòng vua cùng tiếm uy quyền
Thế là muôn sự đảo điên
Phải tìm mọi cách cho thuyền không lay

Gọi khẩn cấp chân tay nhóm hoạn
Xước, Huệ, Đăng, Đình Thắng họp bàn (47)
Bày mưu tính kế rõ ràng
Ngọc Dao hãm hại Tử Hoàng ốm đau

Trước Đức vua nàng gào nàng khóc
Bảo Ngọc Dao tàn độc hơn người
Con tôi sắp chết đến nơi
(740) Cầu xin Thượng Đế cứu người nguy nan

Con tôi sống không màng ngôi báu
Không như người tàn bạo vô
lương
Thánh hoàng xin nhủ lòng thương
Trả thù con trẻ, tan xương voi dày (48)

Được như thế lòng này mới thỏa
Để ngăn ngừa lòng dạ hiểm sâu
Những người bụng chứa gươm đao
Sợ không dám trổ tài cao hại người

Ngồi ngẫm nghĩ, nực cười nhân thế
Biết làm sao cội rễ nguồn cơn
Những người gây oán gây hờn
Lại là những kẻ kéo đờn kêu ca

Vua suy nghĩ chưa ra quyết định
Nguyễn Trãi đà suy tính thiệt hơn
Tãu trình xin chúa ghi ơn
Cứu tra suy xét nguồn cơn rõ ràng

Vua ra lệnh truyền ban thầy thuốc
Rán tận tình phục dược Bang Cơ
Nhân sâm cộng với thủ ô
(760) Uống vô sẽ hết dật dờ mê man

Nguyễn Trãi muốn luận bàn cùng vợ
Không thể nào để ở chung nhau
Phải đành ngừa trước tránh sau
Phải đem người yếu bôn đào xa xôi

Nguyễn thị Lộ cho người dẩn dắt
Đưa Ngọc Dao nẻo tắt đường ngang
Tránh xa cho khỏi Trường An
Đến chùa quy ẩn, hạt tràng lần xoay (49)

Thế Sạn đạo chờ ngày khởi phát (50)
Tránh cho nàng tan tác đời hoa
Lại còn vương thể ngọc ngà
Trui rèn thể chất chan hòa thương yêu

Tóc đã bạc lại nhiều nghiệp dĩ
Nguyễn Trãi mong về nghỉ Côn sơn
Từ nay ân nghĩa đã tròn
Mong vua cứu xét để còn suy tư

Vua khôn lớn biết hư biết thực
Biết Ức Trai đáng bậc tài ba
Mong người vui hưởng tuổi già
(780) Cho xây chùa Phật để mà tỉnh tu

Nhưng dặn kỷ khi vua cần triệu
Phải tức thời lên kiệu về cung
Mau mau hội kiến cữu trùng
Để cùng bàn việc chỉnh trung nước nhà

Nghe lời phán chan hòa cởi mở
Hoa sen lòng vội nở trong tim
Côn Sơn tùng cúc vẫn tìm
Về xây Tư Phúc, trọn niềm chờ mong (51)

Khi từ biệt Thái Tông căn dặn
Hẹn sang năm lo chuẩn kỳ thi
Là mùa Tiến sĩ chính quy
Nhân tài sẽ chọn đường đi lối về

Các bạn hữu tỉ tê đưa tiễn (52)
Cùng vợ hiền đến bến Phả Lai
Để rồi tay lại cầm tay
Bạn hiền, vợ mến chia hai nẻo đường

Ông tức cảnh ngâm vang một khúc (53)
Để tỏ lòng rạo rực chờ mong
Từ đây trở lại dòng sông
(800) Khơi đầy kỷ niệm, thỏa lòng cố nhân

Nguyễn Gia Linh


(45) Cung Khánh Phương là cung của Tiệp Dư Ngọc Dao
(46) mong sao con mình thành công trên bước đường dựng nước
(47) Nguyễn Thị Anh cùng nhóm hoạn quan tìm cách du cáo Ngọc Dao hảm hại Tử Hoàng
(48) Thị Anh xin vua xử tội voi dày Ngọc Dao
(49) Ngọc Dao trốn ở chùa Huy Vân
(50) Sạn Đạo, chỗ Lưu Ban dưỡng quân chờ thời
(51) Chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi về tu bổ để nhà vua đến nghỉ ngơi
(52) Các bạn Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, Trần thuấn Du... cùng Nguyễn Thị Lộ đã tiễn đưa ông đến ngã ba sông Thiên Đức
(53) Bài ngâm của Nguyễn Trãi trước khi chia tay cùng bạn bè và Nguyễn Thị Lộ theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên

Ngại ở nhân gian lưới trần
Thời nằm thôn dã miễn yên thân
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử
Viên hạc đà quen bạn dật dân

Hái cúc, ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn
Đàn cầm suối, trong tay dõi
Còn một non xanh là cố nhân

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 18:40:21 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 11.04.2008 16:42:20
0
Chương 9
 
Bí mật thâm cung
 


Nhắc lại mùa thu năm Tân Dậu
Khi sĩ phu theo dấu kinh thành
Quyết đem sức học tài danh
Cùng nhau dự thí để dành tiếng tâm
*
Cũng là lúc thanh âm vang dội
Nơi hoàng cung chói rọi đèn hoa
Lại nghe tiếng khóc oa oa
Bang Cơ Hoàng tử bước ra chào đời
*
Người sung sướng không lời tả được
Trong thâm cung nắm tước quyền
cao
Thị Anh giữa chốn ngàn sao
Dự trù, mưu tính ngôi cao quyết dành
*
Theo thông lệ, Tạ Thanh tính đọc
Đếm từ ngày mưa mốc vua ban
Đến nay vừa sáu trăng tàn
Mỉm cười như biết rõ ràng từ đâu
*
Một cơ hội muôn màu muôn sắc
Bí mật nầy giữ chặt về sau
Biết đâu đúng trận mưa rào
(820) Quyền uy, gấm vóc ai vào đây tranh
*
Trong tâm trí hiện rành nẻo tiến
Đặt niềm tin trọn vẹn nơi người
Thoa vành môi thắm nụ cười
Một làn sương mỏng để đời không nghi
*
Rồi lẳng lặng tìm Phi diện kiến
Mừng Nương Nương vinh hiển hơn người
Bang Cơ mở mắt chào đời
Đem hào quang chiếu sáng ngời thâm cung
*
Hồi tưởng lại cuối xuân đêm ấy
Nhạc tưng bừng lộng lẩy xiêm y
Khoan thai điệu vũ Liên trì
Cánh hoa búp nở như ghì lấy thân

Đàn bướm lượn mưa vần mây vũ
Ly rượu nồng quyến rủ hồn say
Lại thêm môi thắm mày ngài
Đẩy đưa vào chốn mộng đài du xuân
*
Vua đắm đuối, non Tần mấy đỉnh
Chiếc thuyền rồng vào vịnh mê cung
Quyết theo sóng nhạc tưng bừng
(840) Trồi lên hụp xuống vẫy vùng dọc ngang
*
Nghe nhắc khéo mùa xuân mưa mốc
Thoáng giật mình cơn lốc nhẹ qua
Nhủ thầm ta phải lo xa
Thị Anh đâu dám dần dà lãng quên
*
Vội vã lấy bạc tiền nhung lụa
Cùng không quên lời hứa ngày sau
Hôm nay đùm bọc lẩn nhau
Ngày mai quyền quý sang giàu xẻ chia
*
Chuyện sổ sách sớm khuya tu chỉnh
Để trong ngoài trước tỉnh sau yên
Mới mong giữ vững mối giềng
Trăng xưa nở nụ cười duyên với đời
*
Quay trở lại khung trời thơ mộng
Đóa hải đường cánh mỏng còn khoe
Sắc tươi nhựa sống tràn trề
Hương theo gió thoảng làm mê muội lòng
*
Bao công tử tình phong tánh nguyệt
Loại bướm ong mải miết đùa hoa
Bay vờn sớm tối lân la
(860) Những mong đem cái hào hoa dụ người
*
Trai phóng đảng giữa thời giao cảm
Lê Nguyên Sơn hơi hám hoàng gia
Tận dùng uy thế
ông cha
Để câu danh lợi để lòa giai nhân
*
Lạ gì thói trai tân gái tiến
Chạy theo vòng vận chuyển thời gian
Sợ khi nhan sắc phai tàn
Men nồng chưa hưởng, cung đàn chưa nghe

Một buổi sáng mùa hè rực rỡ
Đóa hải đường hớn hở khoe hương
Trên đài đọng mấy giọt sương
Kim cương lấp lánh, đò thương bến tình
*
Trong ngày hội cúng đình huyên náo
Gái trai làng quần áo xôn xao
Phất phơ cánh bướm muôn màu
Nhởn nhơ tìm kiếm động đào trong mơ
*
Lê Nguyên Sơn tình cờ gặp gỡ
Nguyễn thị Anh mặt nở môi cười
Long lanh đôi mắt sáng ngời
(880) Má vừa thắm đỏ mộng đời muốn trao
*
Nàng đang đợi bóng giao cầu chuyển
Một con người quyền biến hào hoa
Trong tay uy thế con nhà
Phong lưu đúng mực, tài ba đúng tầm
*
Như hò hẹn từ trăm năm trước
Cùng ngẩng lên bốn mắt nhìn nhau
Thẹn thùng lẩn trốn trăng sao
Nhưng nguồn rung cảm xuyên vào tủy xương
*
Tiếng trống điểm đèn hương đảnh lễ
Kéo hồn về thực tế hôm nay
Bao mâm cổ cúng sẳn bày
Đàn nhi lễ sĩ sắp ngay thẳng hàng
*
Lễ tạ ơn đình thần linh hiển
Thánh địa nầy không suyển không suy
Cứu dân khỏi bước lâm nguy
Đưa dân đến chốn biên thùy phồn vinh
*
Sau buổi lễ thâm tình gắn bó
Rồi hẹn hò trăng tỏ vườn khuya
Sóng tình rào rạt song thưa
(900) Hòa cùng men rượu đẩy đưa bến bờ
*
Thuyền ân ái dật dờ bến lạ
Thói trăng hoa biết ngả phương nao
Tình theo sóng gió rạt rào
Đẩy đưa vào chốn mộng đào ước mơ

Chợt thức tỉnh, đến giờ đưa tiễn
Nguyễn Thị Anh trúng tuyển vào cung
Từ đây gặp hội vẫy vùng
Sau lưng bỏ lại gió rừng vi vu
*
Thuyền giữa bến âm u vắng vẻ
Bước lên xe pháo nổ cờ bay
Đi vào cung điện mơ say
Thấy như ánh sáng dệt ngày vinh quang

Nguyễn Gia Linh

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 18:48:07 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 12.04.2008 21:49:04
0
Chương 10
 
Âm mưu thâm độc

Trời vừa hé ánh quang mờ chiếu
Soi dịu dàng ngọn liểu cành
dương
Lập lòe muôn hạt kim cương
Điểm tô phong cảnh ngàn sương gợi hồn

Giữa yên tỉnh sóng cồn nổi dậy
Cung nhân buồn không thấy Ngọc Dao
Tưởng như biển động ba đào
(920) Lắc lư thuyền nhỏ tạt vào đảo hoang

Chưa thức tỉnh, hoạn quan bẩm cáo
Cánh chim non đã tháo sổ lồng
Từ nay vượt khỏi trời đông
Tìm đâu cho thấy cánh hồng bay xa

Thị Anh tức, hét la cay đắng
Ra lệnh tìm cho đặng Ngọc Dao
Một thân đơn độc tại đào
Nghĩ ra chắc có kẻ nào nhúng tay

Còn ai nữa Ức Trai ghê gớm
Một con người can đảm có thừa
Được lòng tin cậy đức vua
Lại thêm Thị Lộ chẳng vừa gì đâu

Trong với ngoài vừa khâu vừa khít
Họ cùng nhau chằng chịt giăng ta
Cũng may Nguyễn Trãi cáo già
Buồn lòng quay trở lại nhà Côn Sơn

Ta phải tính thiệt hơn cặn kẻ
Phải làm sao chia rẻ hai người
Phải cho Nguyễn Trãi hận đời
(940) Rằng người yêu trẻ không rời đức vua

Vua đã thích đã ưa Thị Lộ
Đã dẫn nàng đến chổ mê cung
Từng đêm ngụp lặn vẫy vùng
Đã quên hết chuyện tôi trung vợ hiền

Tiếng đồn tránh không truyền đến chúa
Cố làm sao vây bủa Ức Trai
Để làm nhủng chí
anh tài
Để gây xa cách chia hai nẻo đường

Nơi quê ngoại Côn Sơn lặng lẽ
Sống êm đềm trước vẻ thiên nhiên
Ngâm thơ thưởng nguyệt bên hiên
Viết văn đọc sách gởi niềm riêng tư

Một buổi sáng mùa thu lạnh lẽo
Nghe tiếng đồn từ nẻo kinh thành
Người thân tín của Tạ Thanh
Đã đem tin đến truyền nhanh khắp vùng

Nguyễn Trãi trước nhìn chung thời thế
Xét suy nhiều cội rể nguồn tin
Nếu theo quan điểm của mình
(960) Theo lòng trung hậu tính tình người yêu

Thì chuyện ấy đặt điều nói dối
Không thể nào phạm lỗi gia cang
Ác thay những tiếng đồn vang
Lay niềm tin tưởng, khơi ngàn khổ đau

Cảm thấy tiếc mái đầu tóc bạc
Tuổi thanh xuân đã lạc mất rồi
Niềm yêu, sức lực một thời
Chỉ còn giữ lại những lời tiễn đưa

Nhiều lúc muốn đội mưa lướt gió
Trở về kinh cho rõ ngọn ngành
Hỏi người tóc vẫn còn xanh
Có còn nhớ mảnh chiếu lành Triều Đông (54)

Nhưng không dám vì không được lệnh
Của đức vua triệu thỉnh về cung
Đành mang tâm sự lạnh lùng
Tỏ cùng sương sớm, bày cùng trăng khuya

Không chịu nỗi tình chia hai nẻo
Viết vài hàng nhắc khéo người yêu
Những khi nắng sớm mưa chiều
(980) Đôi vần thi họa chiếm nhiều tâm tư

Thuyền khuất bóng sương mù Đông Hãi (55)
Cánh chim trời sau giãi Nam Sơn
Cách chia vì bởi sóng cồn
Nhưng tình khắng khít keo sơn suốt đời

Dầu hiểu vậy một lời cũng hỏi
Sáng trưa chiều có đợi có trông
Có còn trở lại dòng sông
Để cùng ngắm ánh nắng hồng hoàng hôn

Lời thề nguyện Nam Sơn tồn tại
Câu hẹn hò Đông Hãi còn ghi
Lòng anh bất dịch bất di
Chắc nàng cũng chẳng có gì đổi thay ?

Nhận được thư vừa cay vừa thỏa
Cay vì chồng chẳng rỏ đục trong
Chưa chi bỏ lục thêm hồng
Đắng cay rồi lại tỏ lòng nghi nan

Vui vì biết tình chàng chẳng đổi
Vẫn yêu thương giận dỗi vì ghen
Xa nhau vì bởi ngọn đèn
(1000) Chớ đâu do bởi chuyện đen trắng lòng

Vội lấy bút viết dòng tâm sự
Để trả lời từng chữ từng câu
Những điều ý hợp tâm đầu
Những trang liệt nữ ghi sâu suốt đời

Vầng trăng khuyết, tình tôi không khuyết (56)
Sông dù vơi, ý thiếp không vơi
Hỏi ai đi suốt cuộc đời
Sao không thấu hiểu tình người chung chăn ?

Thế mới biết băn khoăn suy nghĩ
Là những khi định trí chưa xong
Cớ sao lòng chẳng hỏi lòng
Tình yêu chưa hẳn như dòng thời gian

Chàng đã đáp tình chan chứa mộng
Như bến yêu trải rộng sông dài
Lạ gì những chuyện ngoài tai
Vợ chàng chỉ nghĩ đến ngày đoàn viên

Nguyễn Gia Linh




(54) Đông Triều
(55) Trong bức thư của Nguyễn Trãi gởi cho Thị Lộ viết bằng Hán văn, trong quyển Tích Kháng đường phổ ký của chi họ Nguyễn Nhữ Soạn, anh em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi, do Vân Trình dịch, có những câu như sau :

Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn còn đó
Lời nguyền ghi Đông Hãi, bao la Đông Hãi còn đây
Lòng ta đã không sờn
Chí nàng chắc không đổi



Trời cao đất thấp, bốn mùa thành,
Đáng trách ai kia đạo chẳng minh
Mặt kính tuy trong bụi đã nhiểm
Lòng nhân vừa nhóm, dục còn ganh
Đời Chu bắt chước lòng trung hậu
Thuở Hán nên theo nghĩa trọn tình
May gặp trời, người cung giúp rập
Kìa xem xã tắc lại xuân sinh

(56) Bức thư trả lời của Nguyễn Thị Lộ cho Nguyễn Trãi viết bằng Hán văn, cũng do Vân Trình dịch, gồm những câu chánh sau đây :

Mói tình muộn màng nào quên,, núi tuy khuyết mà lòng thiếp không khuyết
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy....



Lòng son khẩn khoản việc mau thành
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh !
Ngày nắng lo chi mây chút gợn
Cây cao há phụ sắn bìm tranh
Anh hùng gắng sức anh hùng chí
Phận gái đào tơ, phận gái tình
Phúc đượm duyên trời cầm sắt hợp
Nguyện sinh con cháu thánh hiền sinh...

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.04.2008 21:48:11 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 13.04.2008 21:31:00
0
Chương 11
 
Thiền môn ẩn náu


Ngôi chùa thấp, khuôn viên nho nhỏ
Sống quạnh hiu, sớm mỏ chiều kinh
Sư cô, sư tiểu chí tình
(1020) Một đem kinh Phật, luyện mình răn nhau

Hai cùng phải tưới rau trồng trọt
Bao nhiêu ngày mặn ngọt muối dưa
Dọn cây, phát cỏ, sơn chùa
Tạo nơi thờ Phật, nương nhờ thập phương

Một buởi sớm mùa đông Tân Dậu
Vầng Thái Dương còn dấu chưa lên
Xa xa mờ thấy ngọn đèn
Bóng người thấp thoáng đến bên hiên chùa

Vào tận cổng trình thưa sư nữ
Người đàn bà, mệnh phụ nghiêm
trang
Bảo cùng hai cháu lỡ đàng
Xin nhờ cửa Phật náu nương đôi ngày

Rồi nhỏ nhẹ trình hai cháu gái
Một hiền từ sắc thái đoan
trang
Nghe trong tiếng nói dịu dàng
Vươn niềm hy vọng chức chan thâm tình

Nét mệt mỏi hiện rành trên mặt
Đi khó khăn, phảng phất mang thai
Thoáng buồn nhưng chẳng nhạt phai
(1040) Ít lời nhưng lại làm ai ấm lòng

Người kế đến mặt trông từa tựa
Khuôn viên đầy, hương lửa đã qua
Đúng là chị biết lo xa
Theo em để giúp việc nhà êm xuôi

Người đứng tuổi thốt lời căn dặn
Bạch Sư thầy, may mắn nhờ ơn
Xin Thầy cứu giúp qua cơn
Giữ gìn tuyệt đối không đờn không dây

Khi qua khỏi những ngày cơ ngặt
Trở về đây để dắt cháu đi
Gởi Thầy nén bạc khắc ghi
Công kia biết lấy được gì đền ơn

Nơi cửa Phật không còn nghĩ tới
Phúc đức nào dám đợi dám trông
Nhà chùa chỉ biết tấm lòng
Cầu mong thí chủ khỏi vòng tai ương

Con xin phép cúng dường Đức Phật
Mua đèn nhang sáng thắp chiều chong
Đêm đêm nung đúc cõi lòng
(1060) Giữ tròn đức hạnh bên trong bên ngoài

Người thiếu phụ, ngoài ai ...Thị Lộ
Hai cháu ngoan chứng tỏ Ngọc Dao
Ngọc Xuân theo bước bôn đào
Cùng em gắng chịu mưa rào gió giông

Thương phận liễu mùa đông gió lạnh
Chốn thiền môn trốn tránh ba đào
Thỉnh cầu sư nữ chí
cao
Nhũ lòng cho phép cánh đào về đây

Nàng theo nếp, vui vầy kinh kệ
Áo nâu sòng sớm thệ chiều tu
Ngọc Dao trong lớp sương mù
Đã quên kiếp sống nhàn du kinh thành

Quên tất cả, chỉ dành tâm tưởng
Một cõi lòng chẳng vướng đam mê
Ân sâu đức nặng, câu thề
Lo tròn đạo cả, vẹn bề nghĩa nhân

Cùng nung đúc tinh thần chịu đựng
Trong gian nan giữ vững niềm tin
Đối nhau bằng một chữ tình
(1080) Đừng bao giờ nghĩ đến mình mà thôi

Nàng còn muốn kim tôi lửa luyện
Từ bào thai đang chuyển vào đời
Đứa con yêu dấu tuyệt vời
Sẽ noi gương tốt của người đời xưa

Nàng kiên nhẩn, sáng trưa chiều tối
Trước tụng kinh, tìm lối đào sinh
Lời ăn tiếng nói giữ gìn
Sống trong khuôn khổ biết nhìn nhận xa

Biết kính trọng người già kẻ yếu
Biết mĩm cười hiền dịu khoan dung
Biết thương những kẻ khốn cùng
Biết lo lắng đến người chung một thuyền

Trăng đã khuyết đã lên mấy lượt
Gió theo trăng cùng nước đợi chờ
Rồng thiêng xuất bến xa bờ
Chịu đày xuống thế, dương cờ phát huy

Nguyễn Gia Linh

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.04.2008 21:52:47 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 14.04.2008 17:52:04
0
Chương 12
 
Hội Đình Nhâm Tuất

Nay nhắc lại mùa thi Tân Dậu (57)
Ngày thi Hương để dấu muôn đời
Sĩ phu huyện phủ khắp nơi
(1100) Tranh tài gắng sức góp thời tạo danh

Bảy năm qua, học hành chờ đợi (58)
Mùa thu nầy phấn khởi tranh đua
Chỉ mong mưa gió thuận mùa
Căng buồm, lướt sóng, thuyền đưa đến bờ

Đường rộng mở đón chờ sĩ tử
Chịu thiệt thòi, phụ nữ giả trai
Mong sao tỏ được chí tài
Để so hiểu biết, để xoay cuộc cờ

Ai biết được trước thơ cùng phú
Gái hay trai dùng chữ hơn người
Cớ sao phải chịu thiệt thòi ?
Tại sao cố giữ suốt đời độc tôn ?

Trước khí thế quốc hồn quốc túy
Bốn trăm người tích lủy tài danh
Cử nhân giấc mộng đạt thành (59)
Đường mây còn đợi còn dành năm sau

Cành mai thắm đón chào xuân đến
Bao vợ hiền trìu mến tiễn đưa
Chỏng lều che nắng che mưa
(1120) Trên đường tấp nập theo mùa Hội thi

Xuân Nhâm Tuất đến kỳ khoa cử
Thật tưng bừng sĩ tử khắp nơi
Ngày vui của một kiếp người
Mong sao để tiếng muôn đời tài danh

Đổ về nẻo kinh thành hội tụ
Xe dập dìu tài tử giai nhân
Hoa khoe hương sắc vô ngần
Sĩ phu trau chuốt mấy vần thơ hay

Một bãi đất rộng dài ngàn thước
Lều chõng giăng kẻ trước người sau
Trường thi trong lối ngăn rào
Thí sinh cô đọng ý trào văn tuôn

Ngồi chòm hỏm, nằm luôn dưới đất
Cố khơi ra ý bật lời bay
Trăm năm mấy dịp thử tài
Mấy phen chờ đợi một ngày vinh quang

Kỳ thứ nhứt luận bàn kinh nghĩa
Trong Tứ thư rút tỉa điều hay (60)
Trên ba trăm chữ trọn bài
(1140) Kết tròn đạo lý, góp đầy nghĩa nhân

Vừa kết thúc được phần thứ nhứt
Ban chấm thi tổ chức kỳ hai
Chiếu, chế, biểu, đủ ba bài
Văn chương lưu loát thử tài kỳ ba

Ai xuất sắc tài hoa nổi bật
Sẽ hiện ra ở nấc thang nầy
Một bài thi phú hăng say
Cỗ kim, cận đại tùy tài xét suy

Thơ Đường luật có quy có tắc
Phải gọn gàn xếp đặt căn nguyên
Văn lưu như nước đưa thuyền
Như mây theo gió đến miền thiên thai

Nhìn Tiên nữ gót hài uyển chuyển
Trông sáo diều bay lượn trên không
Tâm tư hòa khúc tơ đồng
Dư âm trầm bổng xuôi dòng thời gian

Nguyễn Gia Linh


(57) Năm Tân Dậu (1441) thi Hương
(58) Kỳ thi Hương lần trước được tổ chức năm 1434
(59) Đổ cao trong kỳ thi Hương, được bằng Cử nhân, còn thấp hơn đậu Tú Tài
(60) Tứ Thư gồm Đại học, Trung Dung, Luận ngữ và Mạnh Tử

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.11.2008 03:53:14 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 16.04.2008 00:11:27
0
Chương 13
 
Trạng, Bảng, Thám năm Nhâm Tuất

Nay trở lại non ngàn bến đổ
Dùng văn chương thổ lộ nguồn cơn
Ngậm ngùi sóng nước Côn Sơn
(1160) Ức Trai nào tỏ nỗi buồn thiên thu

Một buổi sáng âm u gió lạnh
Được lệnh vua hồi chánh tham gia
Vào ban Hội khảo kỳ ba
Mà người Chánh khảo chính là Văn Linh (61)

Lòng phấn khởi trước tình tôi chúa
Nghĩ vua hiền đã rỏ đục trong
Thấu cho những kẻ một lòng
Đem tài, đem sức gánh gồng nước non

Vội viết biểu tạ ơn Thánh thượng
Đã đem lòng rộng lượng xét suy
Biết dùng tài trí ai bì
Đúng nơi đúng chổ, đáng ghi công đầu

Bẩm Thánh thượng, ơn sâu thầm nhớ (62)
Nghĩ cho mình trí nhỏ tài sơ
Tay run, đôi mắt đã lờ
Tóc râu đã bạc, được nhờ ơn trên

Lòng còn muốn đem niềm hoài bão
Trí vẫn mơ khoác áo tạ đời
Dầu cho vật đổi sao dời
(1180) Quyết không phai lạt nghĩa Trời ơn Vua...

Mù sương sớm vui đùa trong nắng
Tiễn người rời sớm vắng hồi kinh
Trong tâm còn một chữ tình
Rồi đây sẽ gặp người mình thương yêu

Đường tuy vắng cây nhiều cảnh đẹp
Cánh lan thơm khép nép chào xuân
Lòng vui rộn rã tưng bừng
Mong mau tay bắt mặt mừng người yêu

Nguyễn Thị Lộ mỹ miều đón rước
Sớm hàn huyên chuyện trước chuyện sau
Bao nhiêu tình nghĩa rạt rào
Thương yêu như sóng ba đào cuộn dâng

Đời cách trở bao lần muốn gặp
Dạ hoài nghi còn lấp niềm đau
Hôm nay hiểu phận má đào
Thương người tiết liệt, khóa rào chờ ai

Để khen thưởng cành mai khoe sắc
Vẫn giữ lòng, khóa chặt rào sâu
Cùng nhau đưa đến giang đầu
(1200) Đỉnh cao tình ái, qua cầu yêu đương

Đêm trăng sáng mây nhường lối mộng
Cạn chén quỳnh lắng đọng tâm tư
Hỏi chồng rành rẻ ngôn từ
Tại sao Đình Hội loại trừ nữ nhi ?

Thiếp vẫn biết phú, thi sắc sảo
Định rõ ràng tâm não thí sinh
Tứ thư, chiếu, biểu... trung bình
Chăm lo học tập tiến trình vượt qua

Muốn học hỏi tài ba Tiến sĩ
Những phú, thi tuyệt mỹ cao vời
Nhờ chàng sử dụng đôi lời
Mượn dùm cho thiếp suốt đời không quên

Nguyễn Trãi biết vợ hiền tài giỏi
Sẽ chờ thời thuận lợi phân qua
Đêm nay thưởng nguyệt ngắm hoa
Tận dùng thời khắc chan hòa thương yêu...

Ban Giám khảo đặt nhiều tin tưởng
Với đề tài ảnh hưởng quốc gia
Xuân Đài Hội phú kỳ ba
(1220) Mộng Tuân muốn chỉ nước nhà yên vui

Sĩ tử được chọn thời cận đại
Hay dựa vào sách dạy cổ xưa
Miển sao lý dẩn có thừa
Văn chương như sóng nước đùa thuyền xa

Theo Chu Lễ có ba đài tượng
Chốn Linh Đài, Hoàng Thượng vái van
Cầu Trời khẩn Phật chiêu an
Nước non trù phú, dân gian thanh bình

Thời Đài dựng để dành chư chúa (63)
Đến lễ đài cầu gió cầu mưa
Cầu cho dân chúng được mùa
Hăng say xây đắp, tranh đua học hành

Phố Đài để dân lành thưởng ngoạn
Xem mây trời tản mạn bay xa
Ngẩn ngơ theo mấy cành hoa
Hân hoan theo tiếng oanh ca ngọt ngào

Với Nguyễn Trực mưa rào vướng víu (64)
Núi non còn phải chịu chào thua
Vững bền, cao mấy cũng thừa
(1240) Nếu không xây dựng cho vừa lòng dân

Xuân Đài chắc, non Tần kém thế
Xuân Đài cao, ngạo nghể dương oai
Xuân Đài bền vững thới lai
Do dân xây đấp mỗi ngày một hơn

Dân sung sướng, đài sơn đài phết
Dân yên lành, đài kết đài giăng
Nếu dân đau khổ nhọc nhằn
Đài nghiêng theo gió, đài hoằng theo giông

Phú Nguyễn Trực chiếm lòng giám khảo
Chấm đổ đầu Hội cảo kỳ ba
Nhưng người được điểm thuận hòa
Nguyễn Như Đỗ mới chính là Hội nguyên

Vì Như Đỗ gom thuyền ba hội
Ưu với bình vang dội mấy phen
Bỏ công sắm sửa sách đèn
Trau dồi kinh sử, luyện rèn phú thi

Hội chấm dứt, đáng ghi đáng thưởng
Ban chấm thi, đọc quyển chung lòng
Cùng nhau cầm chén rượu nồng
(1260) Để đem sức sống khơi dòng hăng say

Tháng giêng hết, mùng hai tổ chức
Điện Hội Anh sáng rực đèn hoa
Trầm hương nghi ngút chan hòa
Điện tiền mở rộng, chính tòa vinh quang

Ban giám khảo, hân hoan tề tựu
Đã sẵn sàng sĩ tử đứng chờ
Các quan Lễ bộ đợi giờ
Hồi chuông thứ nhứt, xếp cờ vào dinh

Khác thi Hội, thi Đình trong điện
Ban chấm thi, cùng tiến vào chầu
Hai bên Lễ Bộ đứng hầu
Y quang, phẩm phục, sắc màu đẹp tươi

Chuông kế tiếp, đón mời vua tới
Mũ xung thiêng, ngọc đới bên hông
Hoàng bào nệm ngọc thêu rồng
Ngai vàng chểm chệ, hương đồng nghiêm
trang

Cùng phủ phục, các quan bái vọng
Lớp sĩ phu, xúc động tiến vào
Hân hoan như được đón chào
(1280) Đường mây rộng mở, cẩm bào thêu hoa

Viên chấp sự xướng qua tên họ
Trao thí sinh mực lọ bút nghiên
Dâng vua Văn sách thánh hiền
Xét xong thủ tục vua truyền đề thi

Các sĩ tử cúi quỳ bái nhận
Lui trở về địa phận của mình
Mỗi người bàn ghế xinh xinh
Không còn lều chỏng, đất xình giữa sân

Lễ kết thúc, Vua, thần trở gót
Các thí sinh moi óc tìm văn
Êm đềm Tìên nữ cung Hằng
Oai phong tiếng sóng Bạch Đằng vang danh

Đến chiều tối mới thành được quyển
Ban giám thi chấm tuyển người tài
Ba mươi ba, trúng văn bài (65)
Chia làm ba hạng, đủ đầy sắc sâu

Nhóm thứ nhứt, đứng đầu Nguyễn Trực
Đậu Trạng Nguyên chính thức năm nầy
Hội nguyên Như Đỗ thứ hai
(1300) Trở thành Bảng Nhãn, trí tài hiền
lương

Người thứ ba là Lương Nhữ Hộc
Đậu Thám Hoa, chính tộc con nhà
Quyết đem sức học tài ba
Dạy dân in sách đúng là cha ông (66)

Đem tài trí đẹp lòng tiên tổ
Quả rỏ ràng chẳng hổ danh người
Tiến sĩ cặp đệ nhứt đời (67)
Sắc trong tô đậm, hương ngoài lan xa

Tòa Văn Miếu, gấm hoa thêu đệt
Thần rùa linh, đã kết linh bài
Từ năm mười bốn bốn hai
Ai người tiến sĩ danh tài đề tên

Nơi lịch sữ, đấp nền văn hiến
Tạo niềm tin, đường tiến mai sau
Vì dân vì nước tự hào
Quyết không để giọt lệ trào can qua

Nguyễn Gia Linh


(61) Lê văn Linh, Đề điệu (Chánh chủ khảo), Triệu Thái làm Phó chủ khảo, Nguyễn Trãi, Trưởng ban Đọc quyển, gồm các bạn mới và cũ như Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Dư...
(62)Sau đây dài dòng trích dẫn tờ biểu của Nguyễn Trãi dâng vua Lê Thái Tông (theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên) :
Thần trộm nghĩ niên tân sáu chục
Chốn triều đình chức tước ban thêm
Chín trùng lồng lộng ơn trên
Nghĩ mình thêm thẹn nỗi niềm vinh quang...

(63) vua chúa các nước chư hầu
(64) Nguyễn Trực, con cư sĩ Nguyễn Thì Trung, đã mở đầu tả đài bằng những câu : theo Bùi văn Nguyên
Vón đài nầy :
Không nền không móng
Không dựng không xây
Chẳng cần đến trăm nghìn công lao nện đắp
Chẳng phí đến muôn vàn của cải tiền tài
Chỉ cần lễ nghĩa tạo hướng đi cho mưu lược
Chỉ cần đạo đức làm cơ sở để tài bồi
Vì muôn dân cùng kéo đến
Ắt trăm họ được đón mời
Không đắp cao mà cao vút đến tận mây biếc
Không bồi lớn mà lớn, lan đến tận biển khơi
(65) Trong 33 người Tiến sĩ gồm 3 người Cặp đệ, 7 Tiến sĩ bảng chánh mà người đứng đầu là Trần Văn Huy và 23 người Tiến sĩ bảng phụ mà người đứng đầu là Ngô Sĩ Liên, chuyên về lịch sử
(66) Theo Việt Nam Danh nhân Từ điển của Nguyễn Huyền Anh, Lương Nhữ Hộc là ông tổ ở VN về in sách. Ông đã hai lần đi sứ ở Tàu và học lén được nghề in ở đấy
(67) Tiến Sĩ Cặp đệ gồm ba người : Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa


Cảnh công bố kết quả

Văn Miếu & Bia Tiến Sĩ
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.11.2008 03:58:36 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 16.04.2008 21:33:56
0
Chương 14
 
Luận về Tứ Hung thời đại

Ngoài áo mũ lời ca tiếng hát
Thật tưng bừng lễ phát cân đai
Thủ khoa, Cập đệ trí tài
(1320) Từ đây hôm sớm miệt mài giúp vua
*
Lễ chấm dứt, lòng chưa muốn dứt
Ban chấm thi tổ chức rượu trà
Cùng nhau nâng chén ngâm nga
Bảo người Thường Tín thua nhà Ứng Thiên (67)
*
Mộng Tuân hỏi đề chuyên Văn sách
Có phải người phụ trách, Ức Trai ?
Vừa hay vừa quá thâm cay
Phải người trí rộng ý dài mới thông
*
Nguyễn Trãi bảo do lòng Thánh thượng
Chỉ rõ ràng ảnh hưởng người xưa
Gợi thêm vài chữ giúp vua
Miễn sao cân nhắc cho vừa bề trên
*
Bài Nguyễn Trực nói lên khác biệt
Giữa Tứ Hung, hào kiệt đương thời
Ngoài ra phân tích tuyệt vời
Lòng gian Hãn, Xão tách rời Sát, Ngân
*
Hãn, Xão chỉ có phần gian ý
Sớm về hưu, đã nghĩ đến mình
Không lo đề cử hiền minh
(1340) Hết lòng giúp nước, tận tình giúp vua
*
Khi khởi nghĩa, tranh đua gắng sức
Trong hiểm nguy tận lực hy sinh
Đến khi đất nước thái bình
Không lo kiến thiết, riêng mình cầu an
*
Còn Sát, Ngân, lòng gian ý ác
Chức Tư Đồ lấn át quyền vua
Thích làm bạn với a dua
Ghét ghen tài đức, thương ưa nịnh thần
*
Lê Xuân Chủ, mệnh thân tan tác
Chiếc lá vàng rải rác đường đi
Để người xiểm nịnh gian phi
Giẫm lên thân xác, tiếc gì công lao
*
Chúng chỉ thích ngọt ngào đường mật
Chúng chỉ mê giọng hát lời ca
Những người liêm khiết tài ba
Không chung đường nghĩ, không hòa đường suy
*
Đều phải chọn bên đi bên ở
Không chung đường ngăn trở dèm pha
Hết đời một giấc Nam kha
(1360) Đầu thân hai ngả, danh tà còn lưu
*
Càng ngẫm nghĩ lời hư lẽ thực
Bài học xưa quyền lực còn đây
Xét người, ngẫm lại hôm nay
Ai người cậy thế, yểm tài tôi trung
*
Ai dám định Tứ Hung hiện đại ?
Ai xét người tranh cãi lợi danh ?
Biết ai đem hết tài mình
Giúp dân giúp nước, công danh chẳng màng ?
*
Càng tham luận thấy càng sôi nổi
Sợ đêm tàn, tiếng dội tiếng vang
Ức Trai đành phải bàn ngang
Ta cùng nâng chén đón vầng trăng lên
*
Ánh trăng sáng gi"a nền trời thẳm
Xuyên cây cành lấm tấm kim cương
Ngàn sao trong sáng lạ thường
Như cùng đánh dấu Đình trường năm nay
*
Nguyễn Trãi muốn cùng say với bạn
Giữa đêm khuya trăng sáng vui vầy
Ngày mai rồi sẽ chia tay
(1380) Biết còn thấy lại những ngày vui tươi ?
*
Quý những lúc lòng cười mắt thốt
Giữa những người cùng một tâm hồn
Cùng đi chung một khoảng đường
Cùng chia sẻ nỗi đoạn trường khổ đau


Nguyễn Gia Linh


(67) Thường Tín là quê hương của Nguyễn Như Đỗ cũng là quê hương của Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn. Ứng Thiên là quê hương của Nguyễn Trực
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.11.2008 04:02:48 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 17.04.2008 16:25:49
0
Chương 15
 
Trở lại Côn Sơn

Nay trở lại rượu bầu thơ túi
Vùng Côn Sơn nhiều núi nhiều non
Về đây rèn luyện sắt son
Đấp xây giấc mộng, vuông tròn nghĩa nhân
*
Cùng Thị Lộ bao lần mong đ®i
Lặng ngắm nhìn dòng suối trong xanh
Hương hoa đồng nội yên lành
Hồn thơ phảng phất, mái tranh nhịp nhàng
*
Cầu Thấu Ngọc, mơ màng huyền ảo
Tháp Huyền Quang, lối đạo soi đường
Thần tiên trong cảnh khói sương
Đất trời mở rộng, tình thương dạt dào
*
Thanh Hư động xanh xao
hoa lá
Bàn cờ tiên bậc đá mấy trăm
Đường ven tiếng suối rì rầm (68)
(1400) Thạch bàn uốn khúc quanh năm mơ huyền
*
Khu đất rộng, ba hiên vách lá (69)
Nền Ức Trai sỏi đá chen hoa
Trong nhà đưa mắt nhìn xa
Bốn phương gió thổi, mấy tòa thanh tao
*
Suối róc rách, ngọt ngào âm hưởng
Thông vi vu, ngất ngưởng trời
cao
Gò tre, bụi trúc lao xao
Nước non xanh biếc, tiêu dao tháng ngày
*
Khó phối hợp, hăng say hoạt động
Cùng yên vui trong mộng nhàn du
Ức Trai sang sửa bổ tu
Bạch Vân am động, sương mù vây quanh
*
Cùng xây cất nhà tranh mái lá
Để làm nơi dạy dỗ trẻ thơ
Hoặc say mê với cuộc cờ
Chung trà chén rượu, bài thơ ân tình
*
Vui đắm đuối ba sinh hương lửa
Bỏ những khi, trước cửa thẩn thờ
Nỗi buồn phảng phất vu vơ
(1420) Nỗi ghen nh"ng kẻ nghi ngờ người yêu
*
Sóng đã lặng, hương kiều bên cạnh
Cành hoa thơm trong ánh bình minh
Giọt sương lóng lánh lung linh
Sắc màu hòa nhịp, sóng tình chứa chan
*
Song song bước giữa ngàn hoa mộng
Lặng lặng nhìn trước cổng am vân
Thiên thai trong cõi hồng trần
Ai người hưởng được mấy lần phù sinh ?
*
Đêm huyền ảo, thơ bình kinh cứu
Cùng để lòng ấp ủ lời hay
Văn chương như áng sương bay
Nhẹ nhàng mờ ảo vượt ngoài dậm xa
*
Giọng thánh thót cung ngà lả lướt
Xuôi thời gian và vượt không gian
Thoát xa ra khỏi non ngàn
Đến vùng biển rộng ngập tràn thương yêu
*
Lòng hăng say bước đều theo nhịp
Trống hành quân đuổi kịp sóng cồn
Đoàn quân chân bước dập dồn
(1440) Hào hùng tiếng hịch, lướt đồn đạp chông
*
Rơi nước mắt khi lòng tan tác
Theo lời ca giọng hát nỉ non
Tiếng ngân xé nát tâm hồn
Tiễn người bất hạnh về nguồn trầm luân
*
Tiết tháng bảy mây vần mưa vũ
Trong hồ sen hoa rủ cánh tàn
Hoa buồn sắc thảm mênh mang
Đến mùa báo hiếu Vu Lan đợi chờ
*
Tình cha mẹ tôn thờ trọn kiếp
Nghĩa đức dày nối tiếp cha ông
Xử sao cho trọn tấm lòng
Cho thương yêu vẫn chờ mong tháng ngày
*
Cha dạy dỗ lời ngay lẽ phải
Chỉ rỏ đường ngang trái phong ba
Biết đâu là lẽ chánh tà
Học người trung nghĩa, tránh xa tôi loàn
*
Mẹ chăm sóc miếng cơm manh áo
Mẹ lắng lo giông bão gió sương
Ôm con ấp ủ tình thương
(1460) Nắng mưa cũng chịu, đoạn trường cũng cam
*
Rằm tháng bảy thành tâm khẩn nguyện
Cầu Phật Trời gió chuyển mây đưa
Hộ phò Tiên cảnh muối dưa
Mẹ Cha hồn lạc, sớm trưa vui vầy
*
Cùng phổ độ rày đây mai đó
Những cô hồn tránh gió đụt mưa
Giải trừ oan nghiệp xa xưa
Tụng kinh gỏ mỏ, muối dưa tu hành
*
Chùa rộng mở sẳn dành công đức
Cho những người tránh tục tìm siêu
Luyện hồn thanh thoát tiêu diêu
Xây tâm tĩnh lạc, tránh điều trầm luân
*
Sau cuộc lễ tin mừng đưa đến
Rằng Quân vương tham diển miền đông
Trước lo quân lính một lòng
Tận tình xây đấp non sông vững bền
*
Sau sẽ viếng thăm miền thôn dã
Cùng cựu thần chí cả Côn Sơn
Niềm vui cao tận núi non
(1480) Mấy ai hưởng được công ơn biển trời
*
Một nghĩa cử sáng đời chân chúa
Trước lo dân sau dựa lòng người
Kính tôn những kẻ đức tài
Phát uy đạo cả trong ngoài noi gương
*
Tin kế tiếp cung vương mở rộng
Tiếng hài nhi sống động Huy Vân (70)
Ngọc Dao giấc mộng linh thần
Hạ sanh Hoàng Tử theo vầng hào quang
*
Nguyễn Trãi trước lo toan tiếp rước
Sau cho người kịp bước đến chùa
Chu toàn săn sóc con vua
Dẩn đi lánh nạn để ngừa trầm luân

Nguyễn Gia Linh


(68) Đường lên bàn cờ tiên gồm 600 bậc đá
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng Đàn cầm bên tai (Nguyễn Trãi)
(69) Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn đồng khoa đã mô tả nhà Nguyễn Trãi như sau :
Nhà trí Tam quan lạnh lẽo như dòng nước
Bốn vách trống trải xác xơ chỉ có sách là giàu
(70) Chùa Huy Vân, ngoại ô kinh thành

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.11.2008 04:06:56 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 20.04.2008 14:22:05
0
Chương 16
 
An Bang lánh nạn


Chim ca hót mừng xuân sáng sủa
Cùng vui đùa nhảy múa trên cây
Tô màu ngủ sắc vần mây
Ánh dương đánh dấu một ngày vinh quang

Vốn là chuyện thế gian thường sự
Nỗi hân hoan Thái tử chào đời (71)
Niềm vui chưa thốt ra lời
(1500) Đã lo nghĩ đến chuyện dời đi xa

Không thể để tiếng la tiếng khóc
Của trẻ thơ qua nóc nhà chùa
Mặc dầu Thái tử con vua
Trên đường lánh nạn phải chừa đường sinh

Càng thấm thía thâm tình dân dã
Trong đói nghèo hết dạ trung
lương
Đưa
con cùng mẹ lên đường
Ngày đi đêm nghỉ gió sương chẳng sờn

Thế mới biết trong cơn hoạn nạn
Mới hiểu ai là bạn cố tri
Đường đời cùng bước chân đi
Mới tường được nẻo, mới ghi được lòng

Cùng gian khổ qua sông qua núi
Băng rừng sâu vượt suối trèo non
Mấy ngày ròng rà sắt son
Đến nơi thì đã mỏi mòn thịt da

Thương thân trẻ vừa xa lòng mẹ
Nếm đủ mùi nặng nhẹ khổ đau
Đêm đêm tùng ngắm trăng sao
(1520) Ngày ngày phải tắm mưa rào đổi thay

Nghe chim hót, gió lay cành lá
Cùng qua đèo ghềnh đá cheo leo
Tâm tình những kẻ đói nghèo
Mà lòng không giống cánh bèo trôi sông

Bông hồng nở giữa vùng hiểm trở
Đem vui tươi đức độ ôn hòa
Biến vùng rừng biển bao la
Thành nơi ấm cúng chan hòa tin yêu

An Bang cảnh nắng chiều rực rỡ
Hay hừng đông sóng vỗ bờ xa
Sương khuya núp ánh trăng tà
Hỏi người cõi tục đâu là thần tiên

Ngọc Dao sống trên thuyền đánh cá
Thả thuyền trôi cảnh lạ trời hoang
Ngư ông thân tín dịu dàng
Ức Trai gởi gấm giúp nàng nuôi con

Dầu cực khổ lòng son yên trí
Đường quanh co hùng vĩ núi rừng
Dễ tìm đất lánh tạm dung
(1540) Tránh xa loài thú khuyển ưng kinh kỳ

Nguyễn Gia Linh

(71) Thái Tử Tự Thành ra đời ngày 20 tháng 7 d.l. năm Nhâm Tuất (1442)
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2008 05:36:58 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 23.04.2008 13:55:47
0
Chương 17
 
Thao diễn miền Đông


Vua chưa biết Dao phi sinh nở
Cũng chưa hay Thái tử ra đời
Con vua sống giữa biển trời
Còn vua chễm chệ trên ngôi sang cùng
*
Lòng đã đặt lợi chung trước cả
Lo cho dân mọi ngả yên thân
Đã quên phi ái cung tần
Bao lời nhắn nhủ của lần chia ly
*
Sớm thấy rõ đường đi nước bước
Biết lo cho dân trước nhà sau
Luôn luôn nghĩ đến công lao
Của người dựng nước xiết bao nhọc nhằn
*
Nên thỉnh thoảng cải trang sửa dạng
Đến hang cùng ngỏ cạn tham quan
Hiểu rành cuộc sống dân gian
Kiếm người tài đức giúp an cõi bờ
*
Thái Tông rõ cuộc cờ đã điểm
Thi Hội Đình thỏa nguyện lòng vua
Những người văn học có thừa
(1560) Hết lòng vì nước tranh đua tài bồi
*
Vua lại nghĩ đến hồi khốn khổ
Cả quân tình trốn ở Chí Linh
Nguyện đem tất cả nhiệt tình
Đền ơn người đã quên mình giúp vua
*
Muốn quân sĩ say sưa chiến đấu
Muốn toàn dân theo dấu
anh hùng
H
ết lòng trọn dạ hiếu trung
Thân vua phải lấy thủy chung làm đầu
*
Ngài trở lại bến đầu trận tuyến
Nơi lùng danh, tham diễn hành quân
Chí Linh hội họp công thần
Trống dồn nhịp bước, lòng hân hoan chào
*
Dân sung sướng tô màu xa giá
Sáng tin sương rộn rã lên đường
Cùng nhau biểu trổ cờ giương
Nhớ ngày khởi điểm biên cương vững bền
*
Đoàn quân bước vang rền tiếng nhạc
Trống liên hồi ào ạt tiến quân
Hân hoan dân chúng reo mừng
(1580) Niềm vui bay vút tận cùng trời cao
*
Trước khí thế văn thao võ luyện
Thấy đoàn quân chí nguyện một lòng
Vui tươi thể hiện mặt rồng
Nghĩ rằng cá nước non sông hài hòa
*
Vua hớn hở, tay khoa miệng múa
Quyết thưởng ban gấm lụa vàng thau
Đoàn quân hùng dũng tự hào
Trước an quốc thể, sau đào hố sâu
*
Để chống giữ hoa mầu đất nước
Để kiện toàn chiến lược hành quân
Những người vì nước vì dân
Xã thân nhưng chẳng một lần thở than
*
Thế mới rõ giang san gấm vóc
Do những người ngang dọc chu toàn
Đừng quên những lúc tai nàn
Đừng quên khúc nhạc muôn ngàn lời ca

Nguyễn Gia Linh
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2008 05:42:57 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 24.04.2008 16:28:10
0
Chương 18
 
Ngự giá Côn Sơn


Lòng rộng mở muôn hoa ngàn lá
Cùng phô bày nét lạ đường nghiêng
Tin vui loan đến lâm tuyền
(1600) Ức Trai, Thị Lộ xuống thuyền rước vua
*
Vinh dự ấy người ưa kẻ muốn
Một lão thần được chuộng được yêu
Tránh sao cho khỏi búa rìu
Những người ganh tỵ, kiếm điều dèm pha
*
Thị Anh phi, nghĩ xa lo sớm
Vì con thơ quyết tóm uy quyền
Sợ người tạo thế ngửa nghiêng
Dành ngôi Hoàng tử, cướp thuyền Quân vương
*
Sau Đình Hội, hiền lương sơn thủy
Ngọc Dao phi nở nhụy khai hoa
Khôi ngô đúng thiệt con nhà
Sợ rằng Nguyễn Trãi nói xa nói gần
*
Chúng tìm cách rẻ phân tôi chúa
Cử Tạ Thanh, xe ngựa theo hầu
Trống kèn đón trước tiễn sau
Canh chừng theo dỏi lời chào tiếng thưa
*
Thêm
Lương Dật chanh chua sâu hiểm (72)
Tung truyền thêm rắn điểm oan cừu
Tạo ra sương khói mịt mù
(1620) Chung quanh hai kẻ ngàn thu một lòng
*
Lòng Nguyễn Trãi trắng trong như ngọc
Nghĩa vua tôi, kẻ tóc đường tơ
Luôn luôn trọn chữ phụng thờ
Đường ngay nét thẳng như tờ giấy nguyên
*
Vua vẫn kính tôi hiền tài giỏi
Đạo làm vua biết đợi biết chờ
Biết ai vun quén cõi bờ
Biết người cương quyết vươn cờ nước Nam
*
Vốn mến chuộng non lam núi biếc
Vùng địa linh hào kiệt muôn đời
Tham quan phong cảnh tuyệt vời
Bạch vân am động, núi đồi thênh thang
*
Ngắm về phía An Bang hùng vĩ
Nơi uy linh, lăng vị nhà Trần
Vọng sang Kiếp Bạc mây tầng
Có đền Hung Đạo muôn phần trang nghiêm
*
Chung trà nóng, thâu đêm bàn bạc
Nghĩa vua tôi, tỏa ngát niềm thông
Nhà vua cởi mở tất lòng
(1640) Yêu cầu Nguyễn Trãi ra công tài bồi
*
Trước cố gắng phục hồi no ấm
Cho dân gian đầm thấm yên vui
Vườn xuân nụ liếc hoa cười
Líu lo chim hót, sáng ngời vầng dương
*
Sau sửa đổi con đường thi cử
Khuyến khích người kinh sử trau dồi
Những ai tài trí vun bồi
Tận tình tiến cử, trọn đời giúp vua
*
Ngoài gắng sức tranh đua kiến thiết
Nét phong quang, nhạc tiết tô thêm
Lễ nghi đạo đức chung thềm
Vui tưoi cùng kết, êm đềm cùng xây
*
Niềm thông cảm gió mây non nước
Giữa vua tôi đâm tược nẩy mầm
Hân hoan vua khẻ liên ngâm
Một bài ca tụng, tình thâm tôi hiền
*
Sau buổi duyệt chiến thuyền đông chí (73)
Ghé Côn Sơn hậu hỉ tôi thần
Quân sư tài đức đương trần
(1660) Thua chi những kể oai thần xa xưa
*
Nhớ Lam Sơn gió mưa ngày trước
Phượng trổ tài giúp nước phò vua
Ngày nay tạo đất tạo mùa
Đan thanh nét vẽ, nô đùa liễu mai
*
Lòng Nguyễn Trãi, hoa khai cánh nở
Nguyện chép thơ vào vở bảo tàng
Giấy trong mực thắm ngay hàng
Tạ ơn thánh chúa, lưu ngàn năm sau
*
Nguồn xúc động tuôn trào lai láng
Họa khớp bài nguyên vận vua ban
Những mong đền đáp ơn vàng
Còn thương cỏ nội hoa ngàn đến thăm
*
Nguyên ước vọng trong tâm trong chí (74)
Được thánh hoàng xét nghĩ tôi thần
Dẫu thân đi hết đường trần
Cũng không dám nghĩ một lần nắng mưa
*
Chưa mong mỏi say sưa non nước
Chỉ ước mơ sau trước phò vua
Dám đâu trăng cợt non đùa
(1680) Ngẩn ngơ long phượng, thẹn thùa liễu mai
*
Mê bàn bạc sao mai lố dạng
Sáng hôm sau sửa soạn lên đường
Vua tôi hai ngã, hai phương
Bình Than bến đợi quân vương xuôi thuyền
*
Sau giây phút hàn huyên cùng vợ
Chức Lễ Nghi Thị Lộ hồi cung
Xa rời người bạn tình chung
Nước non dong ruổi chập chùng Bắc Đông

Nguyễn Gia Linh


(72) Lương Dật là em của Lương Đăng từng tranh với Nguyễn Trãi lo về Lễ nhạc
(73) Theo Bùi Văn Nguyên, trong Truyện Nguyễn Trãi, bài thơ của vua Lê Thái Tông tặng Nguyễn Trãi, nhan đề Cuộc Tao ngộ, viết bằng chữ hán do Vân Trình dịch như sau :

Thuyền trận duyệt xong buổi thoái hồi
Côn Sơn xe ngựa ruổi qua chơi
Thăm nền Lục Dã nhìn mây rỗi
Nhớ thuở Lam Sơn trổ phượng tài
Trong động riêng trời quên tuổi giáp
Bên non hiếm đất dựng lâu đài
Đan thanh nét vẽ nhờ ai tá
Tô điểm sông hồ cảnh liễu mai ?



(74) Theo Bùi Văn Nguyên, trong Truyện Nguyễn Trãi, bài thơ của Nguyễn Trãi, viết bằng chữ hán do Vân Trình dịch như sau :
Mộng tưởng trời cao những mấy hồi
Cả mừng xe ngọc kíp lên chơi
Đội ơn thánh đế thương tôi cũ
Muốn giúp triều cương thẹn bất tài
May được nhàn thân bên suối động
Dám đâu riêng đất dựng lâu đài
Nước non hội ngộ chào long giá
Mưa móc đầm đìa nhuận liễu
mai
Nơi Nguy
ễn Trãi được phong Hành kiểm
Cùng chăm lo huấn luyện ba quân
Sá chi gian khổ nhọc nhằn
Miễn sao nung đúc tinh thần hy sinh

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2008 05:46:42 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 26.04.2008 17:35:01
0
Chương 19
 
Thảm án Lệ chi cung

Thuyền tách bến trong tình lưu luyến
Buổi tiễn đưa xao xuyến tâm can
Lá thu vừa trổ sắc vàng
Tả tơi rơi rắc, đường sang nẻo về
*
Sông uốn khúc bên lề liễu rủ
Nước lững lờ sương phủ đầu non
Quanh co mấy nẻo đường mòn
(1700) Phong quang mờ ảo như còn luyến thương
*
Buồn ly cách vấn vương tâm não
Đông cùng Tây mấy dạo chia xa
Người thương muôn dậm quan hà
Thân gầy tóc bạc, bóng tà đa đoan
*
Hàng liễu rủ nhịp nhàng sóng nước
Vỡ tan khi thuyền lướt trôi qua
Bóng người yêu dấu dần xa
Nhưng lời nhắn nhủ chan hòa nhịp tim
*
Thuyền vẫn lướt êm đềm trên sóng
Xuôi thời gian, khuấy động không gian
Dập dìu tiếng nhạc trong khoan
Hòa theo giọng hát điệu đàn nỉ non
*
Cung réo rắt ru hồn quân tử
Vũ điệu mừng tiên nữ khoan thai
Vạt tiên phe phẩy gót hài
Đưa hồn người đến non đài mê cung
*
Thuyền rẻ lối qua sông Thiên Đức (75)
Bóng hoàng hôn sáng rực trên sông
Muôn sao lấp lánh theo dòng
(1720) Như đưa người đến non bồng cảnh tiên
*
Chiều mùng bốn đến miền trại vải (76)
Lệ Chi cung tồn tại lâu đời
Dựng xây giữa khoảng núi đồi
Để cho vua chúa từ thời Trần hưng (77)
*
Đường kinh lý tạm dừng chân nghỉ
Yên thân vàng, tâm trí thảnh thơi
Cây xanh phong cảnh tuyệt vời
Gió đưa đẩy lá nghe lời thông reo
*
Thuyền cập bến thả neo buông chống
Vua hân hoan ngồi ngắm trời xanh
Nước non một dải yên lành
Nhân dân trù phú đậm tình thương yêu
*
Nâng chén ngọc, một chiều êm ả
Vua ngâm nga khúc lạ điều hay
Bỗng đâu trận gió cuồng quay
Hắt hơi mấy lượt, lăn ngay xuống sàn
*
Đám cung nữ kinh hoàng
la hét
Đoàn
vệ quân tức tốc ẵm vua
Đặt Ngài ngay ngắn giường thưa
(1740) Lương y đến trể vì chưa cập bờ
*
Nên Thị Lộ đứng chờ bên cạnh
Đấp chăn êm trong cảnh lo âu
Vành môi khóe mắt u sầu
Đắn đo không biết phải cầu nơi ai
*
Nhóm Tạ Thanh mặt mày chẳng thấy
Lương D
ật vừa biệt phái về cung
Khải tâu Hoàng Hậu cửu trùng
Long xa bí mật đến vùng Chi cung
*
Ngự y đến tay chưn bủn rủn
Thánh hoàng đà mềm nhủn tứ chi
Nhắm nghiền như thể đang đi
Giữa vùng yên tỉnh không gì lắng lo
*
Cố tìm kiếm nguyên do chứng bịnh
Cùng thuốc thang định tỉnh Thánh hoàng
Thánh y cũng phải chịu hàng
Mệnh phần đã hết, Ngọc hoàng chờ tin
*
Trời hừng sáng sóng tình cố giữ
Trống với kèn vẫn đủ tiếng vang
Thánh hoàng xa giá hồi loan
(1760) Trở về cung nội chu toàn viễn kinh
*
Chiều mùng sáu ghập ghềnh xa giá
Qua cổng thành đèn đã nhóm lên
Một hồi chuông trống vang rền
Báo tin Thánh Thượng về miền Tây phương
*
Nhóm triều chánh thăng đường khẩn cấp
Do Hậu hoàng triệu tập trào trung
Nắm quyền Nhiếp chánh Cửu trùng
Bang Cơ Thái tử hai xuân đương nồng
*
Lên kế nghiệp Nhân Tông hoàng đế
Chuyện triều trung đành để Mẹ lo
Được thêm người cậu chung đò (78)
Tấn phong Cữu phụ theo phò một bên 79)
*
Việc trước nhứt ghi tên làm lễ
Phát tang xong điện tế vong linh
Khói hương quyện cả cung đình
Hồn vua phảng phất thấu tình tôi trung ?
*
Nguyễn Thị Lộ cùm gông tại chổ
Bị cáo gian thuốc đổ hại vua
Trời xanh chuyển nắng thành mưa
(1780) Ép người trung liệt còn thua tôi loàn
*
Chúng tra khảo hồng nhan chẳng tiếc
Trớ trêu thay, Đinh Li
ệt cầm đầu (80)
Hỏi rằng lòng dạ hiểm sâu
Hợp cùng Nguyễn Trãi mưu cầu lợi danh
*
Hỏi cặn kẻ : Bà canh bên cạnh
Khi Thánh hoàng bất tỉnh mê mang
Chính bà cầm chén thuốc thang
Chính tay đổ thuốc Thánh hoàng hồn thăng ?
*
Này Thị Lộ phải chăng Nguyễn Trãi
Đã xúi bà ám hại Quân vương ?
Thưa Ngài xét xử cho tường
Ức Trai đã được lòng thương Thánh hoàng
*
Chính Thánh thượng quá giang thăm viếng
Cùng luận bàn chọn tuyển nhân tài
Lòng nào đem đến nạn tai
Ý nào phản nghịch, voi dày ngựa phân (81)
*
Thần thiếp nghĩ nhân dân hạnh phúc
Cả thảy đều đem sức tài bồi
Nghĩa vua hiền, trọn phận tôi
(1800) Lòng nào lại dám lấy vôi tôi màu

Nguyễn Gia Linh



(75) Sông Thiên Đức là sông Đuống
(76) Ngày mùng 4 tháng 9 d.l. năm Nhâm Tuất (1442)
(77) Lệ Chi cung được xây từ đời nhà Trần để cho vua chúa dừng chân khi đi kinh lý
(78) Người anh của Hoàng Hậu Nguyễn Thị
Anh là Nguyễn Phù Lộ
(79) Cậu vua
(80) Đinh Liệt giữ chức Đại đô đốc, được Hoàng Thái Hậu đề cử cùng Nguyễn Thiên Tích làm hình quan để xét xử và tra tấn. Đinh Li
ệt và Nguyễn Thiên Tích những trung thần vừa là bạn của Nguyễn Trãi, muốn cứu Nguyễn Trãi, nhưng trước thế lực của Hoàng thái hậu, không làm gì hơn được.
(81) Tứ mã phân thây

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2008 05:48:31 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 28.04.2008 21:15:21
0
Chương 20
 
Chuyện rắn báo oán


Hoàng Thái hậu gọi chầu khẩn cấp
Những tay chân cùng tập cùng đoàn
Anh em Lương Dật, Lương Đăng
T
ạ Thanh, Thúc Huệ nói năng chung lời
*
Thêm nhiều kẻ xu thời theo thế
Quyết tận dùng quỷ kế hại người
Ức Trai, Thị Lộ suốt đời
Cái gai đâm mắt bọn người dèm pha
*
Chuyện thứ nhứt bắt tra bắt khảo
Bắt nhận nhìn tội cáo giết vua
Dầu cho biết rỏ lý do
Cũng là nguyên cớ hay ho nhứt đời
*
Để trừ khử những người ngăn trở
Để dọn đường nắm giữ uy quyền
Từ đây trên một con thuyền
Mủi rồng mui phượng xuôi miền vinh quang
*
Chuyện kế tiếp truyền loan tin huyển
Rắn trả thù tại huyện côn Sơn
''Ức Trai về giữa núi non
(1820) Khai quang phát rẩy, cất trường lập am
*
Đêm hoang vắng thảo lam đơn bạc
Bên đèn chong gió mát trăng thanh
Đọc xong mấy quyển Tứ kinh
Mỏi mòn ngủ thiếp giật mình chiêm bao
*
Thấy rắn mẹ xanh xao run rẩy
Cố van đừng cỏ vẩy cây cưa
Gia đình sum họp sớm trưa
Các con nhỏ dại 'nắng mưa' chưa tường
*
Nơi thôn vắng tình thương trọn vẹn
Cạnh bờ ao vun quén hang cùn
Gia đình một mảnh tình chung
'Mái nhà' nho nhỏ sống cùng với nhau
*
Giờ chưa biết nơi nào ẩn trú
Các con thơ rừng rú khó qua
Xin Ngài mở lượng hải hà
Để cho con trẻ sống qua tháng ngày
*
Chợt thức giấc sao mai vừa ló
Tiếng van xin còn rỏ đâu đây
Bàng hoàng giữa giấc mơ say
(1840) Ánh trăng mờ tỏ, áng mây ngập ngừng
*
Lòng chưa biết nên dừng hay tiến
Một bên là mộng huyễn đêm khuya
Biết đâu hư thực phân chia
Làm sao nở để đoạn lìa tình thâ
*
Trong thực tế, hàng trăm em nhỏ
Đang đợi chờ trường sở khai
trương
H
ẹn nhau cắp sách đến trường
Trước lo thân thế, sau vươn màu cờ
*
Nặng với nhẹ không chờ không đợi
Trước tiền đồ chói rọi mai sau
Ai đâu ngăn giọt mưa rào

Để cho hoa cỏ úa xào sắc hương ?
*
Lòng đã chọn con đường tiến bước
Chỉ còn lo chuyện trước chuyện sau
Quên rồi cả giấc chiêm bao
Đến khi nhớ lại cỏ ao san bằng
*
Lòng chợt thấy băng khoăng tự nghĩ
Đi một vòng xem kỷ trước sau
Đến vùng bụi cỏ bờ ao
(1860) Giật mình chợt thấy máu đào thắm sâu
*
Thân rắn nhỏ đứt đầu lìa cổ
Đang còn nằm tại chổ phơi sương
Động lòng trước cảnh tang thương
Nhớ lời rắn mẹ sầu vương muôn ngàn
*
Trong tâm trí ngân vang tiếng nói
Tiếng khẩn cầu đau nhói tâm cang
'Xin Ngài mở lượng hà khoan
Xót thương con trẻ bên đàng đắng cay'
*
Tiếng thỉnh cầu càng ray càng rứt
Tiếng van xin làm đứt ruột gan
Gió khuya, trăng lạnh đêm tàn
Bên đèn đọc sách ngổn ngang trăm đường
*
Bổng tâm trí như sương như khói
Bay lững lờ trong cõi hư vô
Lặng nghe tiếng độp mơ hồ
Giật mình chợt tỉnh thấy tờ máu loang
*
Vội ngẩng mặt lên trần nhìn thử
Thấy tia nhìn giận dữ câm gan
Rắn dài quấn trọn xà ngang
(1880) Cái đuôi đã đứt máu loang thân mình
*
Vội cúi xuống lén nhìn lên sách
Máu đã lần thấm rách trang đầu
Dở từng trang kế xem sao
Thấy ba tờ chẳn máu đào còn vươn
*
Lòng thấp thỏm như vương như vấn
Không hiểu rồi số phận ra sao
Điềm trên hung cát thể nào
Có liên quan với chiêm bao đau buồn
*
Rồi ngẩng mặt tìm luôn mấy lượt
Rắn mẹ sầu đã vượt hiên sau
Mây khuya che mất ngàn sao
Tiếng mưa thánh thót rót vào tâm tư
*
Nghe trĩu nặng âm u mấy ngả
Xót cảnh đời tơi tả gió mưa
Làm sao mặt mát lòng ưa
Xử sao cho vẹn cho vừa lòng nhau''.....
*
Một câu chuyện xáo xào mấy lượt
Tung tin ra dồn trước nén sau
Bảo rằng số kiếp trời cao
(1900) Ác lai ác báo trốn nào được đâu
*
Càng đanh ác thâm sâu hiểm độc
Máu ba trang tam tộc tru di
Rắn thần báo oán mấy khi
Mình làm mình chịu lấy gì kêu oan
*
Thế mới biết giàu sang chung đỉnh
Làm hoen mờ trí tỉnh hồn ngay
Những người đưa đến nạn tai
Sẽ cùng đón nhận một ngày thê lương...

Nguyễn Gia Linh
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2008 05:50:47 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 02.05.2008 14:20:37
0
Chương 21
 
Nỗi oan khó giải


Đang kinh lý nơi vùng Đông Bắc
Được tin vua trọn giấc ngàn thu
Sãm gầm gió chuyển âm u
Mắt lòa tia chớp, tai ù tiếng vang
*
Hồn chới với giữa ngàn sao rụng
Nét đau thương lên đụng trời xanh
Tiếc thương người đã tạo thành
Nước non tươi tốt, dân lành yên vui
*
Còn nhớ kỷ tiếng cười tiếng pháo
Của mùa Xuân Hội khảo vừa qua
Nhân tài chen giữa lá hoa
(1920) Quyết đem sức mỏng tài ba giúp đời
*
Lòng muốn hỏi mệnh Trời sao nở
Không để Người chống đở phong ba ?
Đưa dân, đưa nước, đưa nhà
Đến nơi an lạc thái hòa phồn vinh
*
Đạt cao điểm tiến trình minh mẩn
Đã đến thời biết nhận nhìn xa
Tiếc thay dòng suối chan hòa
Ai đem đá lấp cho hoa chóng tàn
*
Rồi sửa soạn hành trang trở lại
Kinh thành xưa vọng bái quân
vương
Trong
đời dồn hết tình thương
Cùng ai bày tỏ khỏi vương vấn lòng
*
Người lảo bộc theo ông từ nhỏ
Vội khuyên can chờ rỏ ngọn ngành
Từ lâu nơi chốn kinh thành
Mưu sâu ké hiểm sẳn dành chờ ông
*
Sớm biết rỏ tấm lòng Thái hậu
Chỉ thích nghe hòa tấu điệu đàn
Do mình đặt nốt xê xang
(1940) Do tay mình khải khúc ngang, bổng, trầm
*
Ai làm tắt làm câm tiếng hát
Quên vần thơ lục bát gọi về
Thì nên sống ở sơn khê
Kinh thành là chổ khó bề dọc ngang
*
Nhưng Nguyễn Trãi sẳn sàng chấp nhận
Thà để người trái phận với ta
Ân vua ta vẫn chan hòa
Về kinh để tỏ lòng ta với Người
*
Hành lý sẳn thuyền xuôi bến cũ
Trở về kinh, lòng ủ rũ buồn
Nhưng đôi dòng lệ chưa tuôn
Thì ông đã được giải luôn vào tù
*
Trong khám lạnh tai ù chân mỏi
Nhìn vợ hiền sóng soải trên sân
Ruột đau như thể bị dần
Tâm can đoài đoạn muôn lần đớn đau
*
Rồi ngẫm nghĩ trước sau như một
Đến giờ đây không thốt nên lời
Bên ngoài các bạn không lơi
(1960) Cố tim mọi cách để dời núi non
*
Như Nguyễn Xí trung cang nghĩa dỏng
Quyết sẳn sàng bạo động dấy quân
Nhưng ngài Đinh Li
ệt cản ngăn
Sợ rằng sẽ hại đến thân tôi hiền
*
Nếu mãi sợ, đảo điên vẫn đến
Không quyết tâm đốt nến soi đường
Thì bao oan ức vấn
vương
Ph
ạm Văn, Nguyên Hãn, pháp trường kêu oan (82)
*
Buổi xét xử, hai hàng văn võ
Trong sân triều, lo sợ không an
Nhân Tông chễm chệ ngai vàng
Ngồi yên nhờ có hai nàng cung nhi (83)
*
Sau màn mỏng, uy nghi Thái hậu
Nhiếp chính quyền chờ tấu chờ thưa
Tia nhìn qua bức màn thưa
Tìm xem ai dám trốn vua không chầu
*
Còn ai nữa, công hầu chẳng quản
Chỉ khóc than tình bạn lâu đời
Nỗi lòng không thể nào vơi
(1980) Mắt cay miệng đắng, một lời không ra
*
Củng không thể 'ra tòa' chứng giám
Để xem người nhủng lạm quyền uy
Nên đành cáo bệnh hồi quy
Vì không muốn thấy những gì ứa gan
*
Lòng Nguyễn Xí, chứa chan tình cảm
Oán hận mình không dám ra tay
Cùu người trung hậu thẳng ngay
Để giờ than khóc đêm ngày không quên
*
Buổi xét xử, không kèn không trống
Đúng vở tuồng, nhân chứng, vật tang
Lương y, cung nữ rỏ ràng
Người manh tâm giết Thánh hoàng là ai ?
*
Là Thị Lộ chính tay đổ thuốc
Do Ức Trai, mưu chước đoạt quyền
Nhẩn tâm giết chết vua hiền
Tội danh khó tránh nhản tiền tru di
*
Tạ Thanh bảo chồng ti vợ tiện
Bà đã khai hết chuyện nguồn cơn
Tại sao chuốc oán gây hờn
(2000) Giết vua tàn nhẩn mà còn kêu ca
*
Nay ông phải khai ra sự thật
Nghe xong rồi bổn chức xét sau
Nếu ông muốn tránh đòn đau
Thì ông quyết định mau mau khai rành
*
Đời lắm chuyện, Tạ Thanh lắm lưởi
Vừa chứng nhân, vừa hỏi cung người
Bao nhiêu nhân chứng một lời
Chính tay Thị Lộ, thuốc mời đức vua
*
Chứng cớ rỏ, thuốc vừa mới đổ
Thì nhà vua vừa trở trăn liền
Chắc rằng không phải thuốc tiên
Cùng người đổ thuốc không hiền gì đâu
*
Tuồng vu cáo từ đầu chí cuối
Chính Tạ Thanh vừa xúi vừa hâm
Đúng là cơ hội ngàn năm
Công danh quyền quý trong tầm tay thôi
*
Nhóm cung nữ biết đời ngắn ngủi
Thân phận mình kiến muổi ra chi
Mặc ai xử dụng quyền uy
(2020) Dám đâu hó hé xầm xì nhỏ to
*
Trước uy hiếp chỉ lo thân thế
Nào đắn đo suy nghĩ vạ tai
Hại người trung liệt thẳng ngay
Vô tình giết chết nhân tài nước non
*
Đinh Li
ệt thấu nỗi oan Nguyễn Trãi
Nên đã về Trại vải điều tra
Cố công tìm mãi chẳng ra
Nguyên nhân chứng cớ để mà biện phân
*
Vốn sớm biết tiền thân Thái hậu
Cùng cội nguồn dòng máu Bang Cơ (84)
Muốn đưa Nguyễn Trãi sang bờ
Hỏi bao yếu tố mập mờ trình ra
*
Trãi chán nản câu tra lời khảo
Không cảm thông ý hảo lòng lo
Một người bạn giữa dằn co
Bên trung bên nghĩa biết so nẻo nào
*
Vì trước mắt ngăn rào lấp ngỏ
Không làm sao bày tỏ nguồn cơn
Đành cam ôm oán nuốt hờn
(2040) Biện minh gì nữa khi đờn đùt giây
*
Thương vợ yếu thân gầy tan tác
Vẫn bền lòng dầu thác không than
Nhìn ai lệ đỗ hai hàng
Cùng nhau ta chịu hàm oan suốt đời
*
Người củng cố long ngôi tuyệt đỉnh
Cùng nắm quyền nhiếp chính trong tay
Diệt người ý thẳng lời ngay
Để không còn thấy cái gai quanh tròng
*
Lệnh phán quyết cuối cùng xuất hiện
Từ sau màn lay chuyển không gian
Tạ Thanh trình bức 'cẩm nan'
Thẩm hình Mật viện, ngổn ngang nỗi lòng
*
Nguyễn Thiện Tích, khòm lưng đứng dậy (85)
Nhiệm vụ mình chỉ bấy nhiêu thôi
Không can không tỏ một lời
Không đem tiếng nói của người cầm cân
*
Lời nghèn nghẹn, mấy lần không thốt
Giọng run run như đốt ruột gan
Tội danh đã quá rỏ ràng
(2060) Tru di tam tộc, làm gương cho đời
*
Lời phán quyết Đất Trời nổi sóng
Trận phong ba chuyện động tâm hồn
Bao dòng nước mắt rơi tuôn
Bao nhiêu uất hận khơi nguồn trào dâng
*
Vẫn giữ vững tinh thần khẳng khái
Thị Lộ cùng Nguyễn Trãi nhìn nhau
Cố ngăn giọt lệ tuôn trào
Cố đem chánh đạo đi vào thiên thu
*
Bổng tiếng quát bay vù vô điện
Nguyễn Cạy vừa xuất hiện trước đền (86)
Đương kim Đại tổng vang rền
Quỳ tâu xin được ghi tên chung dòng
*
Nhưng Thái hậu vẫn không lay chuyển
Bảo đuổi ra khỏi điện tức thời
Cạy đành xử lý cuộc đời
Đập đầu vô cột tỏ lời nhớ ơn
*
Thi thể Cạy nằm yên trong điện
Tả Kim Quân vội tiến lên trình (87)
Thái hậu, Bệ hạ, anh minh
(2080) Xét suy bản án Thẩm hình đưa ra
*
Hạ thần nghĩ điều tra chưa rỏ
Những vật tang không tỏ được gì
Theo thần không phải Lễ Nghi
Vì chưng thuốc độc không di áo quần
*
Nhưng quần áo Tiên Vương không thấy
Không thể nào kết lấy tội người
Cầu mong Thái Hău sáng soi
Giảm khinh hình phạt, giữ lời công tâm
*
Nghe tâu rổi, hầm hầm nổi giận
Bản án kia đã phán quyết rồi
Nếu ông còn có nhiều lời
Chức quyền tước hết, xa rời thành đô
*
Đặng Hiếu Lộc không chờ không đợi
Nộp áo quan cùng với cân đai
Một lần sau cuối bái dài
Thụt lùi, quay gót ra ngoài triều trung
*
Quan văn võ run run hổ thẹn
Nhìn bóng người khuất dạng qua thềm
Củng cùng chân yếu tay mềm
(2100) Mà người đáng mặt bạn hiền tôi ngay
*
Bổng cung nữ từ ngoài đâm sổ
Chạy vô triều to nhỏ Tạ Thanh
Ngự Y treo cổ từ trần
Vì không chịu nổi nhục nhằn khai ngoa
*
Bao biến cố xảy ra cùng lúc
Nhưng Mẫu hoàng một mực không lui
Án kia dã xử xong rồi
Ta đây ra lệnh giải hồi lao cung

Nguyễn Gia Linh


(82) Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn đã chết oan dưới triều của Lê Thái Tổ
(83) Khi lên ngôi vua,
Lê Nhân Tông
mới vừa được 3 tuổi âm lịch
(84) Theo Hoàng Công Khanh trong Vằng vặc sao khuê,
Đinh Li
ệt chỉ dám tiết ra những căm uất bằng những câu thơ nói lái như sau :
Nhung Tân sáu tháng đã ra hoa
Nòi giống ai đây quý lắm a ?
Dựa thế Tóng Thai làm thuốc thánh
Bình xưa rượu mới Thanh Y Khoa
Nhung Tân là Nhân Tông, Tóng Thai là Thái Tông và Thanh Y là Thị Anh
(85) Nguyễn Thiện Tích, Chánh sứ Thẩm hình nội Măt viện, là bạn thân của Nguyễn Trãi chỉ có bổn phận lo tuyên án mà thôi
(86) Nguyễn Cạy là Đại Tổng quàn bộ công, trước đây là học trò của Nguyễn Trãi, chớ không có họ với ông, xin được cùng chết với Người
(87) Đặng Hiếu Lộc, làm quan đến chức Tả Kim Ngô Đại tướng quân, đã trả áo mủ về quê làm thầy thuốc

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.12.2008 04:52:45 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 07.05.2008 15:02:04
0
Chương 22
 
Ngày tàn bạo chúa

Cùng xuôi bến theo thuyền trở lại
Sau những năm sợ hãi kinh hoàng
Trốn chui giữa xóm cùng làng
Thành Đô giờ cũng huy hoàng như xưa
*
Nhờ Thái Hău sợ mưa sợ gió
Nên được về sống ở triều ca
Nghi Dân trong chốn phồn hoa
Nhớ năm tháng cũ, tưởng là chiêm bao
*
Lòng hận tủi không sao quên được
Đem niềm vui che mắt thế gian
Ngày rong ruổi ngựa đi săn
Đêm mê giọng hát, cung đàn nỉ non
*
Say đắm đuối, môi son mắt phượng
Bàn tay thon chiều chuộng đẩy đưa
Non cao, cao mấy cho vừa
Suối sâu, sâu thẩm như chưa tỉnh hồn
*
Hoàng Thái Hậu không còn theo dõi
Nên rảnh rang đi tối về khuya
Kiếm người mua nắng bán mưa
(2380) Tận tình giúp đở sớm trưa không màng
*
Đem danh lợi cao sang quyến dụ
Cùng vạch rành lối mở đường che
Biết đâu chốn ở nơi về
Bão giông chẳng ngại, chớp loè chẳng lo
*
Rồi một tối mưa to gió cuốn
Nghi Dân cùng đồng bọn leo thành
Theo vùng bóng tối vây quanh
Đến nơi tẩm điện riêng dành Nhân tôn
*
Đang mê mang thả hồn vào mộng
Bổng chợt nghe tiếng động đâu đây
Giật mình chưa tỉnh giấc say
Ánh gươm thoáng đã đưa ngoài trời mơ (97)
*
Một đời vua ! cuộc cờ đã chuyển
Sóng hoàng cung lại quyện liên hồi
Thị Anh chưa kịp tỉnh hồi
Cũng vừa đến lúc nếm mùi lao lung
*
Hồi trống lệnh trào trung triệu tập
Văn vò quan khẩn cấp vào chầu
Bàng hoàng, ngơ ngác nhìn nhau
(2400) Ngôi vua đã đổi, vàng thau khó lường
*
Nghi Dân quyết trấn an thiên hạ
Vội thưởng khen những gã hết lòng
Những người chung sức góp công
Những ai tôn thất chung dòng hoàng gia
*
Khắc Xương được phong là hội chủ
Của Cung vương nắm giữ bên ngoài
Tư Thành, biệt đãi hơn ai
Huy Gia vương được đêm ngày lân
la
*
Vì thông cảm ngày qua đau khổ
Sống trốn chui ngách ngỏ hang cùn
Lang thang gió biển hương rừng
Kết đời phiêu bạt theo từng mây trôi
*
Nhưng tội lỗi muôn đời không giảm
Của Thị Anh khi nắm quân quyền
Gió giông bão tố triền miên
Hồn oan vất vưởng trọn miền Đông Quan
*
Gây sóng hận lảnh phần bão lộng
Gieo oan cừu gặt giống thảm thương
Cung son đâu mãi xuôi đường
(2420) Giết người rồi cũng pháp trường phơi thây
*
Nghi Dân quyết đổi thay quy chế
Đưa Đồn, Ban khống chế cựu thần (98)
Những người phản đối bất tuân
Quyết đem giết hại bất cần cản ngăn (99)
*
Các trung thần đến thăm Đinh Liệt
Sau những năm chôn chặt đáy lòng
Niềm đau cất dấu tận cùng
Bên trong khám lạnh, giữa vùng trời đen
*
Nay nhìn thấy bạn hiền xưa cũ
Sống giữa triều hội đủ thối tha
Quyết đem tâm huyết gọi là
Cùng nhau cất lại mái nhà ấm êm (100)
*
Vì không thể chong đèn mưu tính
Giữa thành đô vách thính tường xuyên
Mọi người đành phải ủy quyền
Dành cho Nguyễn Xí ''kéo thuyền ra khơi''
*
Kể từ lúc hận đời bạc bẻo
Khóc thương người lá héo cành khô (101)
Hơi sương che mí mắt mờ
(2440) Thoảng trông tìm đến sống nhờ Nhị Khê (102)
*
Cùng cương quyết ăn thề kết nghĩa
Không thẹn cùng tiên đế thánh nhân
Ai người tùng bọn thí quân
Làm sao đáng mặcông thần nhà Lê ?
*
Mưu kế sẵn, chọn giờ khởi điểm
Khi bước vào nội điện chầu vua
Mỗi người giữ thế tranh đua
Kiếm người khống chế, ngăn ngừa phản gian
*
Trong nháy mắt, Phan Ban đồng bọn
Tất cả đều bị tóm bị đâm
Tướng tài kèm chặt cấm quân
Cửa thành đóng kín, đi lùng gian nhân
*
Giữa biến động Nghi Dân chạy trốn
Cho người tìm khắp chốn hoàng cung
Còn đâu một chúa lẫy lừng
Bên hòn non bộ, tránh từng dấu chân!!
*
Khi tìm thấy Nghi Dân chống cự
Đinh Liệt đành khuyên nhủ tạm giam
Ông vua dầu có tàn tham
(2460) Giết vua mang tiếng tôi hàm phản vong
*
Ngày hôm sau giáng phong hầu tước
Giải lụa mềm tự giết đời vua (103)
Thương thay trong chốn mưa đùa
Quy quyền danh vọng đánh lừa thế nhân

Nguyễn Gia Linh


(97) Vua Lê Nhân Tông bị giết đêm mồng 3 tháng 10 năm Kỷ Mẽo (1459)

(98) Phạm Đồn, Phan Ban, Lê Đắc Ninh những tay chân đắc lực của Nghi Dân, nhứt là Lê Đắc Ninh nguyên là Đô chỉ huy đội cấm binh bảo vệ hoàng cung của vua Lê Nhân Tôn

(99) Những cựu thần chống sự độc đoán của Nghi Dân như Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ... đều bị giết

(100) Theo Hoàng Công Khanh trong Vằng Vặc Sao khuê, Đinh Liệt đã đọc bài thơ sau đây cho các trung thần nghe :
Ra ngục mây đen kín trời đất
Ánh chiều mờ nhạt khuất non bên
Đãm trung ai đó trăm vò võ
Dám kéo vừng dương dưới đáy lên ?

(101) Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc

(102) Đặng Hiếu Lộc sau khi trả áo mão về Nhị Khê làm thầy thuốc, thường chửa bệnh đau mắt cho Nguyễn Xí

(103) Nghi Dân chết vào tháng 6 năm 1460 sau 8 tháng trị vì.

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.12.2008 04:56:23 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Lệ Chi Hận sử - 12.05.2008 20:17:25
0
Chương 23
 
Vằng vặc Sao khuê


Các công thần họp bàn chánh sự
Quyết chọn người nắm giữ triều ca
Nếu theo thứ bực trong nhà
Khắc Xương xứng đáng lên tòa long ngai
*
Nên được cử đến ngay Cung viện
Thỉnh Khắc Xương chấp chưởng quân quyền
Lê Lăng vừa thỉnh vừa khuyên
Cung Vương nhứt quyết xuôi thuyền trên sông
*
Vì tự biết tấm lòng phong nhã
Sống cuộc đời thư thả nho sinh
Không tài điều khiển cung đình
Thà làm dân sống thỏa tình ngao du
*
Quý quá thay ! Nhân từ hiếu tử
Không đổi dời quyết giữ lòng son
Mấy ai vẹn chữ sống còn ?
(2480) Coi thường danh lợi, xem lờn quyền uy ?

*
Trước con người biết suy biết luận
Các công thần cẩn thận đề
cao
Trong cơn giông tố rạt rào
Ngược theo làn gió cũng đào mồ chôn
*
Người hội đủ tâm hồn đất nước
Cả văn tài dũng lược điều binh
Còn ai nhân đức chí tình?
Thuộc dòng quý tộc, Tư Thành Huy Gia!
*
Được đề cữ đến nhà vương tử
Đinh Liệt mời nắm giữ nước non
Trước đem chí cả lòng son
Sau đem tài đức đúc hồn Thăng Long
*
Kể từ đãy Thánh Tông tức vị (104)
Quyết chăm lo cương kỷ nhà

Tận dùng tài đức đôi bề
Đấp xây gìn giữ những lề lối xưa
*
Một tấc đất không thua không nhượng (105)
Một cõi lòng nhiều thưởng ít chê
Lấy câu tận sức làm lề
(2500) Học hành, công việc mọi bề lo toan
*
Ngày với tháng trăng tròn lại khuyết
Gió đùa trăng biền biệt đưa xa
Bốn năm thầm lặng trôi qua
Mắt buồn theo bóng chiều tà lãng quên
*
Một màu xám trên nền xanh thẳm
Nhớ đến người lệ đẩm hoen mi
Ngày nay ngôi cả trị vì
Nhớ ai đã bị tu di thảm lòng
*
Hoàng Thái hậu mòn trông mỏi đợi
Đứa con yêu nghĩ tới người xưa
Quang Thục còn thấy thẹn thùa (106)
Tình oan chưa giải, lòng chưa hết buồn
*
Nhìn thấy Mẹ lệ tuôn lả chả
Thánh Tông quỳ xin tỏ nguồn cơn
-Tại sao giọt lệ tủi hờn
Phải chăng con trẻ không tròn đạo con ?
*
-Con có nhớ mẹ còn sống sót
Và con ngồi chót vót trên
cao
Nhớ ngày hẩm hút cháo rau
(2520) Nhờ ai con, mẹ tại đào yên thân ?
*
-Con vẫn nhớ công thần Nguyễn Trãi
Bị hàm oan tội phải tru di !
-Thế con làm được nh"ng gì ?
Ngày qua tháng lại có chi vui lòng ?
*
-Bẩm thưa mẹ, con không quên lãng
Đã từ lâu, ngày tháng chí tâm
Người về quê nội viếng thăm
Trước tìm con cháu, sau tầm văn thư
*
Nhưng rất tiếc văn từ thiêu hủy
Vì sợ rằng liên lụy vào thân
Đến nay góp được mấy phần
Chỉ mong tìm lại hai Vầng Mây xanh
*
Luật Thư trước tạo thành nề nếp
Nay không còn dấu vết người xưa
Bình Ngô Đại Cáo mới vừa
Tìm thu mấy quyển vẫn chưa hài lòng
*
Trong các sách chổ không chổ có
Nhiều câu thơ nghĩa đỏ nghĩa đen
Tiếc thay bảng khắc đầu tiên
(2540) Do Lê Thái tổ đặt nền quốc gia
*
Theo thảm án nay đà thiêu hủy
Không thể tìm nguyên ủy nguồn cơn
Chỉ mong văn kiện vẫn còn
Trong tay bè bạn, cháu con ruột rà
*
Con còn muốn ngay Tòa Văn Miếu
Trước bàn thờ truy điệu Quốc dân
" Mãy ai đáng mặt công thần "
"Phò vua, dựng nước, dạy dân, cứu đời"
*
Đôi câu liểng, sáng ngời công đức
Lời hịch truyền thúc giục hăng say
Nước non nào quản chông gai
Quyết đem chiến thắng dệt ngày vinh quang
*
-Mẹ nào biết, con ngoan của mẹ
Đã âm thầm lặng lẽ nghĩ suy
Hạo ơi ! đáng bậc tu mi (107)
Từ đây mẹ chẳng còn gì để lo
*
-Con đã soạn xong tờ chiếu nhỏ
Dâng giấy vàng, triệu đỏ mẹ xem
Sao khuê sáng rực trước rèm
(2560) Hương danh Vũ Mục quyết đem sánh tài (108)
*
Trong buổi hội với hai công tước
Đinh , Nguyễn bàn việc nước việc non (109)
Đến hồi luật pháp vuông tròn
Tiếc thay Thư Luật không còn nghiệm suy
*
Vừa lúc, đô chỉ huy bẩm tấu (110)
Một ông già chống gậy xin tâu
Nói rằng mắt kém tay đau
Muốn cùng Thánh thượng cạn bầu tâm tư
*
Người còn bảo văn từ quan trọng
Chỉ tỏ cùng Thánh thượng mà thôi
-Nhà ngươi có hỏi khúc nôi
Tánh danh quê quán, hiện thời ở đâu ?
*
-Bẩm Thánh thượng, người tâu họ Nguyễn
Làng Nội Duệ thuộc huyện Tiên Du
Thần xem gương mặt hiền từ
Nho phong, khả kính hình như gặp rồi
*
Nghe nói thế, đang ngồi bật dậy
Quan Chánh sứ ! người đãy phải chăng ?
Thần xin ra tiếp người thân
(2580) Họ Đinh vừa tấu vừa lần khỏi cung
*
Nguyễn Thiện Tích khòm lưng làm lễ
Vua đở người xin hãy bình thân
- Việc chi người cứ phân trần
Tuổi già sức yếu còn lần lên kinh
*
Trẩm sung sướng thấu tình tôi chúa
Ông tuổi già xin tựa hiên tây
Sai người đến bẩm nơi đây
Việc chi mà phải tự đày tấm thân ?
*
Tâu bệ hạ, biết thần sức yếu
Mắt đã lờ, còn hiểu bao nhiêu
Nào đâu dám tỏ đôi điều
Cùng người không giữ được nhiều âu lo
*
Theo lệnh chỉ đã dò mấy quyển
Thần nghĩ rằng khó kiếm Luật Thư
-Chánh Sứ còn giữ văn từ ?
Thánh hoàng mừng rở, thật hư thế nào ?
*
Thưa Thánh thượng, làm sao có đư®c
Luật Thư đà bị đốt từ lâu
Nhưng khi làm Thẩm hình hầu
(2600) Những khi xử án, đêm thâu sưu tầm
*
Qua mấy lượt, trong tâm nhớ rõ
Có thể tâu bày tỏ thật hư
Cho người ghi chép để lưu
Sau đem sửa đổi thành thư Luật hình (111)
*
Vua sung sướng trần tình mọi lẽ
Tiên Vương đà san sẻ niềm tin
Khen người đúng bậc
anh minh
Nước non sẽ được yên lành, nhờ ngươi
*
Nguyễn Trãi được mĩm cười chín suối
Thanh danh cùng tên tuổi đề
cao
Rồi đây sáng tựa ngàn sao
Sử xanh công đức đưa vào thiên thu
*
Một buổi sáng mùa thu nắng ấm
Vua đón mừng họ Phạm nên danh
Lãy tên Anh Vũ học hành (112)
Ngày nay đỗ đạt, công thành vẻ vang
*
Vua cho đổi họ sang thành Nguyễn
Rồi bổ làm tri huyện Phú Xuyên (113)
Mong sao xứng đáng tôi hiền
(2620) Cố công học tập theo truyền thống xưa
*
Sao cho xứng kế thừa họ Nguyễn
Đem danh thơm lay chuyển đất trơi
Sao Khuê vằng vặc muôn đời
Dầu trong bão tố còn ngời tuổi tên
*
Thưa bệ hạ, thần quên chưa tỏ
Có một người tên họ Thị Xoan (114)
Trao thần một bức cẩm nang
Chính tay dì Lộ gọn gàng chép ghi
*
Bình Ngô Đại cáo ! khi thừa thiếu
Đã có nhiều không hiểu đúng sai
-Nếu là chính thực do tay
Lễ Nghi học sĩ, Lan Đài trổ
hoa
*
Vua vội vã kính bà Quang Thục
Mời người xem nét bút khoan thai
Thướt tha phượng múa rồng bay
Dịu dàng như ánh ban mai lững lờ
*
- Dòng chữ đó còn ngờ chi nữa
Bức thư nây còn tựa song thưa (114)
Nhớ thương gợi mấy cho vừa
(2640) Ảnh hình năm tháng vẫn chưa phai mờ
*
Lệ thấm ướt theo tờ thư cũ
Tám ngàn ngày chưa đủ hy sinh (115)
Người còn gởi gấm chút tình
Để tìm cho được công trình ngươi xưa
*
Với Nguyễn Trãi, con thừa ân nghĩa
Với Lễ Nghi, thấm thía dường bao
Mẹ cùng chung phận má đào
Không đành lòng để rơi vào lãng quên
*
Đây dòng chữ nói lên cảm nghĩ
Về con người có thủy có chung
Sương khuya dù có lạnh lùng
(2652) Ánh hồng sẽ rực theo từng mây tan



Nguyễn Gia Linh

HẾT



(103) Nghi Dân chết vào tháng 6 năm 1460 sau 8 tháng trị vì
(104) Vua Lê Thánh Tông lên ngôi năm 1460 và trị vì đư®c 37 năm (1497)
(105) Thời vua Lê Thánh Tông thời đại thịnh hành dưới triều Lê về văn cũng như về võ
(106) Hoàng Thái Hậu
(107) Hạo là tên ngoài của Tư Thành (Lê Thánh Tông)
(108) Khi giải oan cho Nguyễn Trãi vua Lê Thánh Tôn đã viết :

Ức Trai lòng sáng ánh sao khuê
Vũ Mục bụng bày muôn giáp sĩ

(109) Đinh Liệt và Nguyễn Xí điều có tước công
(110) Luật Thư được chép lại, sửa đổi, sau nầy Lê Thánh Tông ban ra luật Hòng Đức
(111) Phạm Anh Vũ, con bà Phạm Thị Mận, người vợ thứ ba của Nguyễn Trãi, bà có mang khi Nguyễn Trãi bị giết và khi sanh Anh Vũ ra đổi tên là Phạm Anh Vũ để dễ bề trốn tránh
(112) Phú Xuyên là quê của bà Phạm thị Mẫn
(113) Thị Xoan là con của Già Bát, người lão bộc trung tín của Nguyễn Trãi, cũng là vợ của Đặng Hiếu Lộc
(114) Bà Quang Thục còn giữ những bức thư trao đổi cùng Lễ Nghi học sĩ
(115) Từ khi chết năm 1442 đến khi được giải oan năm 1465

Khóc Lễ Nghi Học Sĩ

(Nguyễn Thị Lộ)


Bên vầng dương sáng, bóng giai nhân
Tranh đấu xông pha lướt bụi trần
Kháng chiến bao năm nêu tích sử
Lễ Nghi một thuở giúp minh quân
Đông Triều manh chiếu hương thơm nhẹ
Trại vải ly cung tiếng lạnh dần
Khí tiết sắc tài ai dám sánh ?
Sao làm hoen ố kiếp hồng nhan !

Nguyễn Gia Linh

Tài liệu tham khảo




1) Truyện Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên, Hà Nội (1980)
2) Nguyễn Trãi và bản hùng ca đại cáo của Bùi Văn Nguyên, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội (1999)
3) Vằng vặc sao khuê của Hoàng công Khanh, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (1998)
4) Việt Nam danh nhân tự điển của Nguyễn Huyền Anh, nhà xuất bản Zieleks, Texas (1981)
5) Việt Nam Văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, nhà xuất bản Sống Mới, in lần thứ 10 (1968)
6) Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim, nhà xuất bản Đại Nam, in lần thứ 1 bởi Trung Tâm học liệu Sài gòn (1971)
7) Các Triều đại Việt Nam của Quỳng Cư Đỗ Đức Hưng, nhà xuất bản Ban Thanh Niên (1995)
8) Di tích lịch sử-Danh thắng Côn Sơn, Ban quản lý Di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc (1996
)

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.12.2008 05:00:06 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
Mấy vần Song Thất - 18.05.2008 00:27:19
0
Người bạn quê nhà

Trà đình tửu điếm để mà chi
Vinh nhục hèn sang có khác gì
Thánh thiện tâm linh rèn luyện lấy
Địa đàng rộng mở thẳng mà đi.

***
Gởi bạn hiền năm nào cát bụi
Người đã từng theo đuỗi đường say
Bạn bè từ trước đến nay
Năm năm, tháng tháng, ngày ngày chẳng tin

Nào những buổi đăng trình xa cách
Đã mấy lần lấy vạch làm gương
Đi cho đúng một con đường
Vào sinh ra tử có lường trước đâu

Đường muôn nẻo ta hầu chẳng biết
Đuốc nhân sinh lấy Việt làm quê
Huệ thơm chỉ dẫn đường về
Ở trong hương sắc chẳng mê đắm long

Quê ai ở vẫn mong vẫn đợi
Nhà mẹ cha có cội có nguồn
Thân tình giữ l ấy chữ thương
Yêu nhau là biết quê hương giống nòi


Nguyễn Gia Linh
Bordeaux, ngày 17-07-1995

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2009 17:28:14 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Mấy vần Song Thất - 19.05.2008 15:00:54
0
Mấy vần Song Thất


Cánh chim

Viết theo tâm tình của chị Trung (Trích trong Tập thơ Đàn Xưa)

Mưa rỉ rả một chiều gió buốt
Tiếng nhạc buồn não nuột thê lương
Cánh chim đơn lẻ sầu vương
Tình trong một phút ngàn sương phủ mờ
*
Cành trúc ngã bên bờ gió rít
Chiếc lá vàng tíu tít bay xa
Tưởng theo năm tháng gọi là
Nào hay mấy nẻo đường xa một mình
*
Thân đã thế thì tình cũng thế
Suốt cuộc đời dâu bể vương mang
Thà đi giữa chốn non ngàn
Còn hơn lặng lẽ trên đàng đắng cay
*
Tôi đã quyết dầu may hay rủi
Vì con thơ lầm lũi ra đi
Đã qua mấy thuở xuân thì
Còn mơ chi nữa đường đi chung lòng
*
Giờ đã hết, không mong không đợi
Lo cho con học giỏi nên người
Sống sao cho xứng với đời
Thì thân nầy cũng mỉm cười ra đi.


Nguyễn Gia Linh
Bordeaux, ngày 16-02-2000

 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2009 17:29:59 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Mấy vần Song Thất - 21.05.2008 15:55:42
0
Tưởng niệm
 
Viết theo tâm tình của chị Ph. L.
Thân tặng chị Phương Lan (Trích trong Tập Thơ Đàn xưa)
 
 
Một phương trời cánh chim mòn mỏi
Tiễn anh đi về cõi thiên thu
Từ đây trong đám sương mù
Hai vai trĩu nặng, tâm tư chất chồng
*
Gió thấm lạnh khi lòng cô lẻ
Đêm thê lương gối tẻ mền đơn
Cố ngăn giọt lệ tủi hờn
Cố quên khúc nhạc điệu đờn bi ai
*
Cố tiến bước không nài gian khổ
Quyết tận lòng dạy dỗ con thơ
Đưa con đến tận bến bờ
Yêu thương xây đấp, ước mơ vun bồi
*
Ngày hôm nay em hồi tưởng lại
Nhớ những ngày tê tái đã qua
Thấy con yên phận yên nhà
Chắc hồn anh đã... bay xa dậm dài
 
 
Nguyễn Gia Linh
Bordeaux, ngày 21-02-2000
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2009 17:31:35 bởi Viet duong nhan >

Nguyen Gia Linh
  • Số bài : 3895
  • Điểm: -16
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.03.2008
RE: Mấy vần Song Thất - 23.05.2008 17:11:29
0
Mấy vần Song Thất


Hình bóng cũ      
 
                       
                                   Cảm tác theo bài : Hình bóng cũ
                                   của Trúc Phương diễn đạt bởi Nữ Ca sĩ Thanh Thúy
 
                                   Nếu biết tình mình không trọn vẹn
                                   Tiễn người về sắp sẳn thương đau
                                   Ngày mai còn có gặp nhau
                                   Nhớ đừng ngoảnh mặt cúi đầu làm ngơ
 
Em vẫn nhớ đường xưa lối cũ
Cánh hoa đào trổ nụ đơm hương
Mây chiều như áng tơ vương
Trói lòng hai trẻ trên đường tin yêu
*
Em nào nghĩ mợt chiều giá buốt
Khi Mẹ hiền trói buộc tình em
Bảo rằng khuê nữ sau rèm
Pháo hồng sẽ nổ bên thềm đưa dâu
*
‘Chồng con, đã từ lâu Mẹ chọn
Là con người trước đón sau thưa
Gia đình nề nếp có thừa
Môn đăng hộ đối sẽ vừa lòng nhau’
*
Nghe Mẹ nói lệ trào quanh mắt
Nghĩ về anh lòng thắt ruợt đau
Ngoài trời oanh yến xôn xao
Mà nghe mưa gió rơi vào tâm tư
*
Em cố lặng từ từ năn nỉ
Nhưng Mẹ già chẳng nghĩ cho em
Trăng khuya khuất bóng sau rèm
Đường tơ không trọn nỡi niềm riêng mang
*
Anh uất hận, em càng đau khổ
Thôi kiếp nầy đành lở nợ duyên
Nhìn anh cất bước ngã nghiêng
Em nghe sóng gió về miền trầm luân
*
Còn gì nữa than thân trách phận
Hình ảnh anh giữ tận đáy lòng
‘Những ngày nắng ấm trời trong
Cùng anh ngắm mấy nụ hồng khoe hương’
*
Em cố giữ tình thương năm ấy
Chỉ mong anh tìm thấy niềm tin
Giọt sương trên lá rung rinh
Theo làn gió nhẹ sóng tình vở tan
*
Em vẫn muốn dầu ngàn biến đổi
Dầu cuộc đời thấm gội thương đau
Miển mình còn thấy được nhau
Hương yêu ngày ấy không sao phai mờ
 
 
Nguyễn Gia Linh
Bordeaux, ngày 13-01-2000
 
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2009 17:33:08 bởi Viet duong nhan >

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 13 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 385 bài trong đề mục