CHỦ MÔN TÁO
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 33 bài trong đề mục
vanti67 09.04.2008 03:11:36 (permalink)
 SÁCH  ĐỌC THAM KHẢO

 
 
.QUYỂN 1

 
Khái luận về dương trạch:
Xét về dương trạch tức là phải xét 3 chủ điểm mới, có thể quyết định được cát hung, ba chủ điểm đó là Môn - Chủ - Táo.
- Môn là cổng chính để ra vào, ở thôn quê đất rộng người thưa thường nhà ở và cổng ngõ riêng biệt.
- Chủ là căn nhà tọa lạc: là nơi mình ăn ở sinh sống hàng ngày.
- Táo là bếp nước, nơi sửa soạn thức ăn, thức uống.
Cả 3 điểm nêu trên đều có mối tương quan mật thiết không thể tách rời. Phương pháp khảo sát phải theo một quá trình nhất định:
Trước hết phải xem cổng lớn (đại môn), kế đến là chủ phòng, sau hết là bếp. Nhà thường có một cổng chính ra vào: một bếp để nấu nướng, việc khảo sát có phần dễ dàng. Những nhà ở có nhiều căn nhiều phòng, tất phải chọn một nơi làm chuẩn. Vậy phải chọn căn hoặc phòng nào cao lớn nhất làm chủ vị.
Theo lý thuyết âm dương và ngũ hành thời Môn và chủ tương sinh là cát, tương khắc là hung. Nói về bếp nước, nơi đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, không thể coi thường. Do đó, bếp cần được tương sinh với Môn, sau là tương sinh với Chủ. Tuy nhiên, nếu chỉ quan sát bếp nước mà bỏ qua Môn và Chủ thời đó lại là điều sai lầm đáng tiếc. Vậy thì Môn - Chủ - Táo phải được tương sinh theo thể liên hoàn và rất kỵ tương khắc. Ngoài ra, rất cần hợp với Mạng nguyên của Trạch chú, nếu hội đủ những điều kiện trên thời nhà thịnh vượng, phúc thọ song toàn.
Vậy muốn nắm vững được bí quyết, cần phải hiểu rõ sinh khắc của ngũ hành, sự phối hợp về âm dương, thuộc lòng bài ca Du Niên. Được vậy là đã nắm được những yếu tố cơ bản của môn Bát trạch, kế đó cần tham khảo thêm những tài liệu sau đây:
Vô cực đồ - Thái cực đồ - Lưỡng nghi đồ - Thứ tự bát quái của Vua Văn Vương – Hà Đồ - Lạc thư.
Bát quái với Ngũ hành:
- Càn là cha – Phương Tây Bắc - thuộc Kim.
- Khôn là mẹ - Phương Tây Nam - thuộc Thổ.
- Cấn là Thiếu nam – Phương Đông Bắc - thuộc Thổ.
- Đoài - Thiếu nữ - Phương Chính Tây - thuộc Kim.
- Khảm – Trung nam – Phương Chính Bắc - thuộc Thủy.
- Ly – Trung nữ - Phương Chính Nam - thuộc Hỏa.
- Chấn - Trưởng Nam – Phương Chính Đông - thuộc Mộc.
- Tốn - Trưởng Nữ - Phương Đông Nam - thuộc Mộc.
Bát quái tương phối:
- Càn phối Khôn                                   
- Cấn phối Đoài
- Khảm phối Ly
- Tốn phối Chấn
Ngũ hành tương sinh về tương khắc:
- Kim sinh Thủy ® Mộc ® Hỏa ® Thổ ® Kim
- Kim khắc Mộc ® Thổ ® Thủy ® Hỏa ® Kim
Tây tứ trạch và Đông tứ trạch:
- Tây tứ trạch        : Càn – Khôn - Cấn – Đoài
- Đông tứ trạch    : Khảm – Ly - Chấn - Tốn
Đông Tây tứ trạch rất kỵ hỗn loạn:
Đông Tây tứ trạch cần phải phân biệt rõ ràng, không được hỗn loạn. Ví dụ: Môn và Táo thuộc Tây tứ trạch mà Chủ lại thuộc Đông tứ trạch. Khi đã có sự hỗn loạn thời đương nhiên có sự tương khắc, nếu không gặp Kim khắc Mộc thời Mộc khắc Thổ, xét về sau, nếu không phạm Lục Sát, Họa hại thời, gặp Ngũ quỷ tuyệt mạng, đó đều là hung triệu. Theo kinh nghiệm của soạn giả, những nhà phú quý lâu dài không bao giờ phạm vào sự hỗn loạn kể trên.
Bài ca Đại Du Niên:
Bài ca này rất quan trọng, cần phải học thuộc lòng thời mới sao dược ô cung, do đó mới xác định được cát hung.
- Càn Lục Thiên Ngũ Họa Tuyệt Diên Sinh.
- Khảm Ngũ Thiên Sinh Diên tuyệt Họa Lục.
- Cấn Lục Tuyệt Họa Sinh Diên Thiên Ngũ
- Chấn Diên Sinh Họa Tuyệt Ngũ Thiên Lục
- Tốn Thiên Ngũ Lục Học sinh Tuyệt Diễn
- Ly lục Ngũ tuyệt Diên Họa sinh Thiên
- Khôn Thiên Diên Tuyệt sinh họa Ngũ lục
- Loài sinh Họa Diên Tuyệt Lục Ngũ Thiền.
Trên đây là tên của các sao, sẽ nói rõ ở phần dưới. Sau đây là cách thức an sao vào tám quẻ. Ví dụ, quẻ càn, thời tìm phương vị của quẻ càn trong Bát quái in chữ càn (hay Phục vị) vào cung đó rồi đi thuận theo thứ tự Lục, Thiên, Ngũ, Họa, Tuyệt, Diên, Sinh.
.
 
 

 
 
- Càn là Phục vị, tức là hai sao Phụ Bật đều thuộc tính cách cát hung tùy thuộc vào Chủ tinh, Chủ hung thời chúng cũng hung. Vì thế, có tên là Phụ Bật.
- Lục là Lục sát tức là sao Văn khúc, thuộc Thủy hung tinh.
- Thiên là thiên y, tức là sao Cự môn, thuộc Thổ, cát tinh.
- Ngũ là ngũ quỷ, là sao Liêm Trinh - Hỏa – Hung tinh.
- Họa là Họa hại, là sao Lộc Tồn - Thổ - Hung tinh.
- Tuyệt là tuyệt mạng, là sao Phá Quân – Kim, Hung tinh.
- Diên là Diên Niên, là sao Vũ Khúc – Kim, Cát tinh.
- Sinh là sinh khí, là sao Tham Lang - Mộc, Cát tinh.
Đặc tính cát hung của Cửu tinh:
- Cặp sao Tham Lang, gia đạo hanh thông, sinh 5 con thông minh, có văn tài, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Cự môn – Dương thổ - gia đạo hanh thông, công danh hiển đạt, giỏi về y bốc.
- Gặp sao Lộc Tồn – Âm thổ - gia đạo suy tàn, con cái bất lợi, ngành út lụn bại, ngành nhì khá.
- Gặp sao Văn Khúc - Giảm hạ Thủy – hay sinh chứng bệnh điên cuồng, người trong nhà ngỗ nghịch, ly tổ phá gia.
- Gặp sao Liêm Trinh - Hỏa – sinh được 2 con làm bại hoại cửa nhà, hung ác, làm quân lính hầu.
- Gặp sao Vũ Khúc – Dương Kim – sinh con hào tuấn phát ngành giữa, hiếu thảo, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Phá Quân – Kim hay gặp chứng bệnh phù thủng vàng da, con cái yểu mạng, con gái bệnh hoạn yểu vong.
- Phụ Bật là Mộc tinh – tùy theo Chủ tinh, cát thời cát, hung thời hung.
Sự tương khắc giữa cung và Sao
- Sao Hỏa mà đóng cung Càn, Càn kim bị khắc, tổn thương ông già, các vị tôn trưởng, phụ mẫu.
- Sao Thổ mà đóng ở cung Khảm, Thủy bị khắc, có tổn thương cho trung nam và con trẻ.
- Sao Mộc đóng ở cung Cấn, Cấn Thổ bị khắc, tổn thương cho thiếu nam.
- Sao Kim đóng ở cung Chấn, Chấn Mộc bị khắc, tổn thương trưởng nam.
- Sao Kim đóng ở cung Tốn, Tốn mộc bị khắc, tổn thương trưởng nữ,
- Sao Thủy đóng ở cung Ly, Ly hỏa bị khắc, tổn thương trung nữ,
- Sao Mộc đóng ở cung Khôn, Khôn Thổ bị khắc, tổn thương lão mẫu, thiếu phụ.
- Sao Hỏa vào cung Đoài, Đoài Kim bị khắc, tổn thương thiếu nữ, ấu phụ.
Ảnh hưởng tốt xấu của cửu tinh với các ngành:
- Sao Tham Lang thời vượng con trưởng. Sao Cự môn vượng con giữa. Sao Vũ Khúc vượng con út. Sao Văn Khúc bại ngành giữa. Sao Lộc Tồn bại ngành út. Sao Phá Quân bại con trưởng.
- Xét về thời kỳ hưng bại thời dựa theo các số: Thủy: 1, Hòa: 2, Mộc: 3, Kim: 4, Thổ: 5, con số này tính theo năm, như ảnh hưởng xuất hiện trong vòng 1, 2, 3… năm.
Ảnh hưởng của các sao đối với số lượng con cái:
Sao Tham Lang vượng được 5 con, Cự môn 3, Vũ khúc 4, Liêm Trinh 2, Phụ Bật chỉ được 1 gái. Văn Khúc 1, Phá Quân tuyệt tự, Lộc Tồn thời tuổi thọ cao nhưng cô đơn.
Ảnh hưởng về âm dương:
Nếu thuần âm thời hay tật bệnh, thuần dương thời tài vượng, nhưng hiếm con cháu. Trong mà khắc ngoài thời trộm giặc không thể xâm nhập. Ngoài khắc trong thời thân thể bị tổn thương, âm mà đến cung dương thời sinh con gái trước, Dương đến cung âm thời sinh con trai (xem phần giải thích ở ngay dưới).
Cát tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Âm dương hay phu phụ chính phối đều là Diên Niên (Vũ Khúc) như Càn phối Khôn, Cấn phối Đoài… Thuần âm thuần dương đều thuộc Thiên Ất (tức Thiên y Cự môn), một âm một dương đều thuộc sinh khí (Tham Lang) như Chấn gặp Tốn, Ly, Đoài.
Cát hung tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Thuần âm thuần dương tương khắc là Ngũ quỷ (như Càn Kim khắc Chấn Mộc, Đoài Kim khắc Tốn Mộc) Dương khắc Âm, Âm khắc Dương, hoặc thuần dương tương sinh, thuần âm tương sinh, nếu không là tuyệt mạng tức là Lục sát.
Trên đây là cách xem Đông Tây tương hỗn.
Ảnh hưởng của Ngũ quỷ - Liêm trinh với các cung:
Sao Liêm Trinh đóng tại các cung Càn, Đoài tổn thương cho con trẻ đến 5 mạng, trong nhà không được yên lành. Đóng tại cung Khảm con thứ gặp tai ương, con trưởng và con nít yểu tử, trong nhà bệnh tật triền miên. Đóng tại cung Tốn, hay bị trộm giặc cướp bóc, tiền tài hao tán, con cái bị hỏa ách. Đóng tại cung Hỏa, những năm đầu thời ngành thứ khá giả, trưởng nam nắm giữ quyền hành, sau đó tán tài, tai họa đến. Đóng tại các cung Cấn Khôn, tổn hại lục súc, cung Khốn thời tổn thương 5 mạng, cung Cấn tổn thương 3 mạng.
 
Ảnh hưởng vào các năm của Sao:
- Sinh khí ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Diên niên ảnh hưởng tốt cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Thiên Ất ảnh hưởng tốt cho những năm Dần Ngọ Tuất.
- Phụ Bật ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Tuyệt Mạng ảnh hưởng xấu cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Lộc Tồn ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Ngũ Quỹ ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Lục Sát ảnh hưởng xấu cho những năm Thân Tý Thìn
Động trạch nhiên tinh và Ngũ hành
- Động trạch là nhà có nhiều phòng, nhiều ngăn, phải dùng phép ngũ hành tương sinh làm sao cho chủ phòng gặp được cát tinh như sinh khí, Thiên Ất và tránh cát hung tinh như Ngũ quỹ, Tuyệt mạng…
- Động trạch nếu không quá số lượng 5 phòng, 5 căn hoặc 5 viện thời chỉ dùng Ngũ hành của Ngũ tinh như Cự môn sinh Vũ khúc, Vũ khúc sinh Văn khúc, Văn khúc sinh Tham Lang, Tham Lang sinh Liêm Trinh, và Liêm Trinh sinh cho Cự môn… Cát tinh có thể sinh hung tinh và ngược lại.
- Biến trạch thường phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ, vì biến trạch số lượng phòng, căn, viên vượt quá 5, đến 10, vì thế cách phiên tinh của biến trạch khác động trạch. Do đó phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ. Ví dụ, phòng trước tiên là Tham Lang (Mộc), phòng thứ hai là Phụ Bật (Mộc) kế đó mới tới Liêm Trinh (Phòng 3) (Hỏa), phòng thứ tư là Lộc Tồn (Thổ), theo nguyên tắc thời trước dùng Lộc Tồn sau dùng Thiên Ất (Thổ), kế đến là Vũ Khúc (Kim) trước dùng Vũ Khúc, sau dùng Phá Quân (Kim), Phá Quân sinh Văn Khúc (Thủy), Văn Khúc sinh Phụ Bật (Mộc) trước dùng Phụ Bật, sau mới dùng Tham Lang, Cát không sinh hung, hung không sinh Cát. Nếu Biến trạch chỉ có 6 phòng thời phải trùng dụng 1 lần, 7 phòng thời phải trùng dụng 2 hai lần, 8 phòng thời trùng dụng 3 lần (Mộc, Kim hoặc Thổ) còn các phòng thứ 9, thứ 10 thời cứ việc sao này sinh sao khác như thường lệ.
- Hóa trạch là nhà gồm 11 phòng đến 15 phòng, việc khảo sát cũng giống như động trạch. Ba hành Mộc Thổ Kim đều được trùng dụng, riêng hai hành Thủy Hỏa thời đơn dụng. Vì lẽ Ngũ hành của Bát quái đều có hai Mộc, hai Thổ và hai Kim, nhưng chỉ có 1 Thủy, 1 Hỏa.
Sự ứng nghiệm của 4 hung tinh:
Văn Khúc chủ tà dâm, tự ái, Liêm Trinh chủ hỏa ách đau tim. Lộc Tồn chủ cô quả, lòa mắt. Phá Quân chủ về quan tài.
Luận về Ngũ hành và các chứng bệnh:
Muốn biết rõ chứng bệnh gì thời phải xét theo ngũ hành Kim thời là bệnh ho suyễn, lo sợ, khí huyết, máu mủ, gân cốt đau nhức. Mộc thời tứ chi suy nhược, bệnh phong, gan mật, hai bên tay chân đau đớn, co rút, mắt miệng méo lệch. Hỏa thời nhức đầu hỏa vượng, tam tiễn nóng, miệng khô ráo, hay nói sảng, thuộc về dương chủng dương hàn, đau bụng, nhọc độc, ác tật. Thủy thời hay mắc chứng hàn di tinh, bạch đới, đau lưng đau thận, thổ tả. Thổ thời liên quan đến tỳ vị, bụng chướng, phù thủng vàng da, và các chứng bệnh ôn dịch, thời khí.
- Kim Mộc tương khắc thời bị điên cuồng, hung tử
- Thủy Thổ tương khắc thời trong hay bất hòa.
- Mộc Thổ tương khắc thời tổn thương tỳ vị.
- Thủy Hỏa tương khắc thời bị lao trùng.
Phép xem Tĩnh trạch:
Khi xem tĩnh trạch thời đặt La Bàn ở giữa sân, và căng giấy chữ thập theo hướng Nam Bắc, Đông Tây, sau đó định rõ hướng của 24 sơn xem Chủ đóng ở cung nào, thuộc chữ nào, Môn thuộc cung nào, chữ nào và bếp thuộc cung nào (Nhìn vào La bàn để biết rõ cung và chữ) sau đó phối hợp Đông Tây tứ trạch mà đoán cát hung.
Phép xem Đông trạch, Biến trạch và Hóa trạch:
Khi xem các trạch trên, trước hết đặt La bàn ở trong đại môn và ngoài nhà, dùng thân tự tuyên để xem Đại môn thuộc cung nào, chữ nào, thuộc Đông hay Tây Tứ trạch. Kế đến xem xét các phòng hoặc các căn nhà, lấy căn nào cao nhất làm chuẩn đặt La Bàn tại giữa và căng thập tự tuyến và xem nhà này thuộc cung nào và chữ nào. Sau hết, đến giữa bếp lại hạ La bàn, căng thập tự tuyên như trên. Như vậy là có thể xác định được phương hướng của Môn - Chủ - Táo, kết hợp cả 3 cần được tương sinh, kỵ tương khắc, Đông Tây không được hỗn loạn.
Việc khảo sát công sở ở tỉnh, phủ, huyện… hoặc đền thờ miếu vũ, hàng quán làm ăn, cũng đều dựa vào sự khảo sát trên như Tĩnh trạch, Động trạch… nhưng hơi khác đôi chút với nhà cửa dân gian, Phủ thự, nha sở phải lấy Lộc làm chủ.
Ví dụ: Nha thự thuộc Tốn sơn, càn hướng, mở chính môn, thời ở trong chính viện đặt La Bàn, phân chia tấm quẻ 24 sơn xem Môn, Chủ, Táo thuộc cung nào, chữ nào theo bài ca Đại Du Niên tính thuận để xét về sinh khắc chế hóa mà định cát hung.
Thái cực pháp về Môn - Chủ - Táo
Tuy có sự phân chia làm 24 sơn nhưng cũng nằm trong phạm vi Bát quái, mỗi quẻ bao gồm 3 sơn, Ví dụ 3 chữ Càn Tuất Hợi đều thuộc quả Càn, Nhâm Tý Quý đều thuộc quẻ Khảm. Vì thế khi xem xét, bất luận là 1 hay 2, 3, 4, 5 đều 10 viện, cũng bất luận là phòng chính, phòng phụ, cũng bất luận là viện trước viện sau, trái hay phải, chỉ cần lấy phòng viện nào cao lớn nhất làm chuẩn, chiều cao thời căn cứ vào cái nóc. Tại nơi được chọn lựa ngay giữa nhà hạ La bàn xem thuộc chữ nào và cung nào của Bát quái. Môn là cổng ra đường đi, chữ không cần phân biệt lớn, nhỏ, muốn biết cát hung phải xem cổng này. Xét về bếp thời xét hướng của nhà bếp, tức là cửa ra vào bếp, chứ không phải là cửa bếp lò, cả 3 nơi này đều đặt La bàn để xác định phương hướng, rồi tổng hợp cả 3 để khảo sát theo ngũ hành sinh khắc mà định cát hung.
Cách phân biệt Tĩnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hóa trạch:
Dương trạch gồm có 4 loại là Động Tĩnh Biến Hóa:
- Nếu nhà đó chỉ có đơn thuần 1 viên, 1 phòng thời gọi là Tĩnh trạch. Việc khảo sát chỉ cần xét nơi cửa an các sao theo Du Niên.
- Nếu nhà đó gồm có 2, 3, 4 đến 5 viện thời gọi là Động trạch, đúng phép xảo phiên Bát quái. Tại sao Động trạch lại chỉ giới hạn có 5 phòng, vì chỉ có 5 hành Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Từ 6 phòng đến 10 phòng, gọi là Biến trạch. Điều này có thể lý giải là: Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục Thành Chi… Từ Nhất, Lục, Nhị, Thất, Tam Bát, Tử Cửu và Ngũ Thập, số 10 là số cuối cùng và là thành số. Quá số 10 lại trở về số 1, vì thế gọi là Biến trạch. Cách khảo sát phải cùng song Kim, song Mộc, song Thổ, đó lập hướng pháp Xảo phiên Bát quái nói trên. Sau hết là nhà có từ 11 phòng trở lên đến 15 thời được gọi là Hóa trạch, Thổ thuộc số 5, muôn vật đều do Thổ mà ra.
Phép giải hung của bếp:
Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Ất hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm.
Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để ý nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.
Cách phân biệt rõ các táo
Khi thấy trong nhà có những hiện tượng như ốm đau, trẻ con khó nuôi, tuổi già cô độc không con cái bệnh hoạn lâu không khỏi, hôn nhân trắc trở, cần đặt lại bếp vào phượng Thiên y (Thiên Ất hay Cự môn) và chiếu theo mạng nguyên của Trạch chủ mà an giường nằm, bếp nước sẽ được đại cát.
Học hành mãi mà thi cử không đậu, hoặc trong nhà gặp cảnh cùng khốn, thời nên đặt bếp vào phương sinh khí, cổng lớn theo phương sinh khí, ngoài sinh trong tức là Môn sinh chủ sẽ có hiệu quả rất mau. Nếu cầu tài, trong vòng 100 ngày sẽ hiệu nghiệm.
Con trai con gái trong nhà thường bị yểu mạng đó là hung triệu, gặp trường hợp này nên đặt bếp vào phương Diên Niên sẽ được tặng tuổi thọ. Đặt cổng lớn theo phương Diên Niên và Chủ an theo Thiên y phương rất tốt.
Các phương sinh khí, Thiên y và Diên Niên kể trên cần được hợp với Mạng Nguyên của Trạch chủ. Nếu không được sự tương hợp thời an giường và táo khẩu (miệng lò lửa) hợp với phương hướng của Trạch chủ cũng rất tốt, tuy vậy không bằng trường hợp trên. Tóm lại, muốn được toàn mỹ cần được 5 điều: Môn, Chủ, Táo, giường nằm và táo khẩu đều hợp với bản mệnh của Trạch chủ.
Hiệu quả tốt của 3 cát tinh:
- Gặp được cát phương Tham Lang (tức sinh khí) thời sinh được 5 con, công danh hiển đạt, mau giàu có, tăng nhân khẩu, may mắn dồn dập đến, trong 30 ngày có hiệu quả.
- Gặp được cát phương Thiên Ất (tức Cự môn) thời vợ chồng hòa thuận, sinh được 3 con hiền, làm ăn giàu có, ít bệnh tật, nhân khẩu, gia súc đều tăng tiến hưng vượng, nó hiệu quả trong vòng 50 ngày.
- Gặp được cát phương Vũ khúc (tức Diên Niên) sinh được 4 con hiền, giàu vào hàng trung phú nhưng thượng thọ, vượng tài, vợ chồng hòa thuận, hôn nhân tốt đẹp, ruộng vườn mở mang, nhân khẩu và lục súc đều thịnh, thường có tin mừng.
- Gặp được Phục vị (tức hai sao Phụ Bật) thời được Tiểu Phú trung thọ, nhiều gái ít trai (Sao này có tính cách phụ họa).
Hiệu quả xấu của 4 hung tinh:
- Tuyệt mạng (Phá Quân) thuộc Kim đóng tại cung Ly ví như con thú cùng đường quay đầu lại cắn, đóng tại cung Tốn, giống như kẻ bạo tàn đắc chí, tàn hại kẻ trung lương, đóng tại 2 cung Cấn Khôn, ví như chứa lương để nuôi giặc, dưỡng hồ di họa, đóng tại cung Khảm như dồn cọp xuống hổ, gầm thét vang trời, đóng tại hai cung Càn Đoài giống như lang sói, sẽ có lúc cắn lại.
- Ngũ quỷ (Liêm Trinh) đóng tại hai cung Chấn Tốn là mộc sinh hỏa, cháy chóc khắp nơi, đóng tại hai cung Càn Đoài như lửa mặt trời, tan vàng nát đá, đóng tại hai cung Cấn Khôn, như lửa rực của Hỏa Diệm sơn ngọc đá đều tan, đóng tại cung Khảm giống những vị thuộc bào chế (Dã cát và ô dâu), đóng tại cung lạ như tưới dầu vào lửa, mọi vật tiêu tan.
- Họa hại (Lộc Tồn) đóng tại 2 cung Chấn Tốn như bọn nô tỳ gian ác, dù sau này bị chế phục, sau này sẽ phản chủ, đóng tại 2 cung Cấn Đoài như quân cướp bóc tạm thời đều hàng, nhưng sau sẽ phản phúc. Đóng tại cung Ly như nhận giặc làm con nuôi, sau sẽ bị chúng cướp đoạt gia tài, đóng tại cung Khảm như kẻ gian rình mò trong đêm tối tự tung tự tác, đóng tại hai cung Cấn Khôn như kết liên gian đang, sẽ bị họa diệt tộc.
- Lục sát (Văn khúc) đóng tại hai cung Càn Đoài giống như kẻ phỉnh nịnh, gian ác, đào tường khoét vách. Đóng tại cung Cấn giống như đôi vợ chồng xấu xa bệnh hoạn. Đóng tại 2 cung Chấn Tốn giống như cô trinh nữ mà thất tiết, tấm thân ô uế, đóng tại cung Khảm giống như phường trên bậc trong đầu. Đóng tại cung Ly giống như ở cùng với mụ vợ ghen tuông, suốt ngày la hét.
Luận về sự khác biệt giữa sơn cốc và thành thị:
Xét về dương trạch phải phân biệt rõ là nơi đó thuộc thôn quê có núi non sông nước hay thành thị đất chật người đông. Nếu ở nơi sơn cốc, thời lấy núi non làm chủ và nhà phải theo pháp long, chân khí hùng tráng, núi non nước bọc như vậy tất được đại phát. Còn ở thành thị phải theo trạch pháp, nghĩa lại cổng mở theo các phương chủ và táo đều cần hướng hợp, được như vậy sẽ hiệu nghiệm nhãn tiên chí trong vòng 3 năm được cát lợi.
Phương vị của Cửu tinh sinh vượng:
- Tham Lang cư bắc chủ vinh xương (Tham Lang ở Khảm tốt)
- Cự môn đáo Hỏa tử tôn cưỡng (Cự Môn ở cung Ly tốt)
- Vũ khúc tới nghi lâm Thổ vị (Vũ Khúc ở Cấn Khôn tốt).
- Các cứ bản vị diệc sinh tưởng (mỗi sao đóng ở phương vị, thuộc hành của mình cũng rất tốt, như Vũ Khúc tại Càn).
- Duy hữu Lục Sát Văn khúc Thủy (chỉ có sao Văn Khúc thủy).
- Trung ương thụ chế bất vi ương (đóng tại cung Thổ như Khôn Cấn không gây tai họa).
Ảnh hưởng Cát hung của Cửu tinh:
- Phục vị và Thiên Ất không gây tai họa.
- Diên Niên và Sinh khí đều là điều lành.
- Ngũ quỷ là Liêm Trinh nếu gặp phải thời tổn thương nhân khẩu và nhiều tai họa.
- Lục sát là Văn khúc thuộc Nhâm Quý Thủy, gây tổn thương gia súc và nhiều nổi kinh hoàng.
- Tuyệt mạng gây tổn thương nhân khẩu.
- Họa hại cũng gây những sự chẳng lành.
- Tham Lang tức sinh khí có lợi cho quan lộc.
- Vũ Khúc tức Diên Niên, tuổi thọ cao.
- Phụ Bật tức Phục vệ, mọi sự đều tốt.
- Cự Môn tức Thiên Ất, có lợi cho tài lộc.
- Liêm Trinh tức Ngũ quỷ, hay bệnh tật.
- Phá Quân tức Tuyệt mạng, nhiều tai ương.
- Lộc Tồn tức Họa hại, tổn thương nhân khẩu.
- Văn Khúc tức Lục Sát, nữ nhân bị tổn thương.
- Sao Tham Lang thuộc Mộc đóng tại các cung Khảm Ly Chấn Tốn là đắc vị, phát phúc bền lâu. Đóng tại các cung Càn Đoài là nội khắc, tại các cung Khốn Cấn là Ngoại chiến.
- Sao Diên Niên thuộc Kim, đóng tại 2 cung Càn Đoài là đắc vị, tại cung Khôn Cấn là được sinh khí, tại cung Ly là Nội khắc, tại 2 cung Chấn  Tốn là Ngoại khiến.
Ở sơn cốc thời phương hướng là riêng mình, còn ở thành thị là của chung của nhiều người.
Miếu tinh phương vị:
Miếu tinh tức là Thiên tinh. Vậy Thiên tinh là gì? Trên thì ứng với tinh tú trên trời dưới ứng với họa phúc trong cõi nhân gian, Miếu tinh gặp phương tinh thời hung, ở phương cát thời cát, Cát phương là gì? Tức là Tam cát, Lục tú. Các phương Hợi, Chấn Canh là Tam cát, Các phương Càn Bính Tốn Tân Đoài Đinh là Lục Tú. Tam cát là phương tài lộc, Lục tú là phương Văn học thi cử, Khi Miếu vũ dành chừa đặt đúng phương Tam cát hay Lục tú thời phần an vật thịnh. Tại đế thánh thời lấy đại dương làm chuẩn. Ngoài ra, như các miếu vũ tên tuổi Đông Nhạc, Văn Xương, Tam Quan, Nhị Lang đều cát, không hung. Đặc biệt ở những ngã tư đường không nên xây cất đền miếu. Nếu phạm vào Mậu Kỷ Sát, tất bất lợi.
Phương vị của tháp bút:
Nói chung những nơi đô thành tỉnh thị, phủ huyện mà trong vùng ít người đậu đạt, thi cử khó khăn chật vật, thời nên chọn 4 phương vị Giáp, Tốn, Bính, Đinh trên đó xây những ngọn tháp gọi là văn bút phong, cần cao hơn các sơn khác. Như vậy vùng đó sẽ phát khoa bảng. Ngoài ra có thể cất tháp ở trên ngọn núi, hoặc ở núi đất phẳng thời xây tháp thật cao, văn học sẽ phát.
Bát phương miếu tinh:
Nhất hạch hữu thiện tinh, điên cuồng to dâm loạn sinh - Nhị hắc hữu Thiên tinh, phú quý vượng nhân đinh, Tam bích hữu Thiên tinh, phát khoa tại trạch trung. Tứ lục hữu thiên tinh, gia phú quý tử sinh. Lục bạch hữu thiên tinh, phú hào khoa giáp đăng. Thất xích hữu Thiện tinh, trạch trung vô lỗ công, tuy nhiên phát khoa giáp, dản khủng vô nhân đinh. Bát bạch hữu Thiên tinh, hào tuấn xuất kỳ anh, phú quý thùy kham địch, hộ hộ tung thống bình, Cửu tửu tử hữu Thiên tinh, hoạc mục hựu tuyệt ông, tây phương nhược vô bộ, đồng biến khuyết nhân đinh. Nhất bạch dâm dục tiểu cát tường, nhị hắc vô tây hể đông xương, tam bích đăng khoa phục thọ trường, tứ lục kim bảng hề phú cườn, lục bạch Thiên tứ phú quý hương, chất xích tú lệ hể cô sương, bát bạch phúc lộc thọ phân phương, cửu tử nhãn tật hể tử vong, cánh hưữ ngũ hoàng mầu kỳ phương, Thiên tinh như lâm hề tai ương, thử trung âm dương nguyên diệu tàng, tham bát thấu hề danh hề dương.
Tam nguyên Mệnh Quyết
Chủ yếu của bài quyết này nói về mối tương quan giữa mạng nguyên của Trạch chủ và Bát quái phương vị, tức là Đông tứ trạch và Tây tứ trạch, Mạng nguyên thời căn cứ vào năm sinh như sinh năm Giáp Tý, Ất Sửu. Đặc biệt, xem về dương trạch, không phải chỉ đích thuần xét người đó thuộc tuổi nào mà còn phải biết tuổi đó thuộc Thượng Nguyên, Trung Nguyên hay Hạ Nguyên. Mỗi nguyên được ấn định là 60 năm.
Ví dụ: Thượng Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1864 đến 1923 tức là năm Quý Hợi.
- Trung Nguyên Giáp Tý gồm người sinh từ năm 1924 đến 1983 tức là năm Quý Hợi.
- Hạ Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1984 đến 2043 tức là năm Quý Hợi.
Trong nguyên bản có ghi là năm Giáp Tý thuộc năm Khang Hy thứ 23, là thời xa xưa, do đó dịch giả căn cứ vào dương lịch để độc giả tiện tham khảo. Nhưng cũng phải lưu ý, Tết dương lịch thường đến trước Tết âm lịch khoảng hơn một tháng, nên mặc dù sinh vào tháng 1/1924 nhưng vẫn thuộc tuổi Quý Hợi của Thượng Nguyên.
Bài Tam nguyên Mệnh Quyết là một bài thơ gồm 28 chữ, nguyên văn như sau:
- Thượng Nguyên Giáp Tý Nhất cung Khảm.
- Trung Nguyên khởi Tốn, Hạ đoài gian.
- Thượng Ngũ, Trung Nhị, Hạ Bát Nữ.
- Nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên.
Bài quyết này được coi như một công thức để tính Mạng nguyên của trạch chủ đối với phương vị của Bát quái, có thể giảng diễn như sau:
Các tuổi thuộc Thượng Nguyên Giáp Tý thời khởi từ cung Khảm thuộc số 1. Các tuổi thuộc Trung Nguyên Giáp Tý khởi từ cung Tốn tức số 4, các tuổi Hạ nguyên Giáp Tý khởi sự cung Đoài tức số 7, cách tính đi lần lượt Tý Sửu Dần Mão, tuổi gặp cung nào tức là mạng Nguyên nằm tại cung đó. Đặc biệt những con số biểu tượng trên khác hẳn với các số của tiền thiên bát quái, sau đây là biểu đồ trên bàn tay.
 
 


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/208F791BB9324FF88790C801F6D62F67.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.04.2008 03:37:13 bởi vanti67 >
Attached Image(s)
#1
    vanti67 09.04.2008 03:14:30 (permalink)
    (1) số 5 tuy có cung nhưng không thuộc quẻ nào.
    Việc tính mạng nguyên thời căn cứ theo các số đã chỉ định ở trên để khởi cung, Nam thời đi nghịch, Nữ đi thuận. Sau đây là các ví dụ:
    Nam:   - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi từ cung Khảm (tức cung Dần) chữ Tý năm ngay tại cung Khảm, vậy Mạng nguyên số này hợp với cung Khảm tức là thuộc Đông tứ trạch.
                - Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, tính nghịch (bỏ hai cung Sửu Tý) tính nghịch chuyển sang cung Hợi thuộc quẻ Ly, số 9, vậy tuổi Ất Sửu nằm tại cung Ly cũng thuộc Đông Tứ trạch.
    Trên đây đểu thuộc nam mạng, Thượng nguyên.
    Nữ:      - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi ở số 5 (có cung nhưng không có quẻ), (sẽ giải thích sau).
                - Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, khởi số 5 đi thuận tiếng sang số 6 tức cung Càn, vậy mạng nguyên này nằm ở cung Càn thuộc Tây Tứ trạch.
    Trên đây đều thuộc Nữ mạng - Thượng nguyên - Kế đến sẽ xét các tuổi nam nữ thuộc Trung Nguyên:
    Nam:   - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1924, khởi tự cung Tốn tức số 4 (tại cung Tỵ), chữ Tý nằm ngay tại cung đó, vậy tuổi này hợp với cung Tốn thuộc Đông tứ trạch.
                - Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Tốn đi nghịch về cung Thìn thuộc cung Chấn số 3. Mạng này hợp với cung Chấn.
    Nữ:      - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1924, khởi tự cung Khôn, tức số 2 chữ Tý đóng tại cung này, vậy mạng nguyên hợp với cung Khôn thuộc Tây tứ trạch.
                - Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Khôn đi thuận, đến cung Thìn thuộc quẻ Chấn số 3.
    Trên đây là nữ mạng, thuộc Trung Nguyên. Kế đến là các tuổi Hạ Nguyên nam và nữ.
    Nam:   - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Đoài, số 7, chữ Tý nằm ngay tại đây, vậy mạng này hợp với cung Đoài thuộc Tây tứ trạch.
              - Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1985, khởi tự cung Đoài đi nghịch về số 6 tức cung Dần.
    Nữ:     - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Cấn tức số 8, chữ Tý nằm ngay tại cung Cấn, vậy mạng này hợp với cung Càn thuộc Đông Tứ trạch.
    Đây là biến cố Cửu cung, Bát quái, tất cả có 9 cung nhưng chỉ có 8 quẻ, do đó khuyết một quẻ là số 5, vậy khi tính thuận nghịch mà đến đường số 5, thời đàn ông lấy số 2, đàn bà lấy số 8 để thay thế. Đó là áp dụng câu thơ: Nam Ngũ Ký Nhị, Nữ ký Bát.
    Tam nguyên mệnh quyết đã được trình bày như trên để tìm mạng nguyên của trạch chủ hợp với phương hướng. Nhưng cách này hơi chậm vì gặp những tuổi Nhâm Tuất hay Quý Hợi thời phải đi hết 5 vòng là 60 tuổi mới tới, dễ bị lầm lẫn và mất thì giờ. Vậy có một biện pháp (phép tính nhanh) để tính cho mau và đỡ sai lầm. Căn bản của phép này dựa vào Lục giáp: xin lấy Trung nguyên Giáp Tý làm ví dụ, vì Trung Nguyên thường gặp hơn là Thượng nguyên và Hạ nguyên so với thế hệ của ta hiện nay.
    - Con nhà Giáp Tý khởi tại Tốn đi nghịch đến tuổi Quý Dậu – tính chữ Tý tại cung Tốn - đến năm sinh.
    - Con nhà Giáp Tuất khởi tại cung Chấn đến tuổi Quý Mùi – tính chữ Tuất tại cung Chấn đến năm sinh.
    … vẫn theo nguyên tắc nam nghịch nữ thuận như bài quyết đã nói rõ.
    Ví dụ tuổi Quý Mùi thuộc con nhà Giáp Tuất, lấy chữ Tuất để vào cung Chấn (Thìn) chữ Hợi để vào cung Khôn (Mão) và sẽ đến chữ Mùi tức là mạng đến cung Chấn số 3 (khi đếm đến cung Dần thời nhớ bỏ qua 2 cung Sửu, Tý, tiến ngay sang cung Hợi. Cách tính tương đối phức tạp. Dịch giả sẽ làm một bản lập thành bổ túc ở phần cuối cùng).
    Phương pháp khảo sát về Nha thự:
    Nha thự và công đường là nơi công sớ để giải quyết mọi việc cho dân, thi hành chính lệnh và pháp lệnh, do đó cần có phương hướng thích hợp, sáng sủa không sai phạm vào các lỗi lầm như Đông Tây, hỗn loạn, Môn chủ tượng khác… thời việc thi hành pháp lệnh mới được dễ dàng, dân chúng thuận tòng.
    Xét về Nha Thự, công sớ thời phải lấy đại đường làm chủ, nơi này cần nhất là được cao ráo sáng sủa, khoáng đạt. Về phương vị, cần gặp các cát tinh như Tham Lang, Diên Niên, Thiên Ất. Được vậy thời vị chỉ huy sẽ giải quyết mọi việc sáng suốt, phân xử công minh. Thứ đến là phải xét đến đại môn tức là cổng ra vào nơi công đường, cần nhất phương vị phải tương sinh với đại đường. Được vậy, dân chúng trong vùng hiền hòa, đôn hậu, sống lượng thiện, biết tôn trọng pháp luật và những viên chức đại diện cho chính quyền. Xét về Nha thự, tất phải xét đến bếp trước, vì nơi đây được coi là Lộc vị. Nếu bếp được hướng tốt, thời công danh mau tiến. Bếp gặp hung sát thời hay sinh mọi chuyện rắc rối phiền phức. Tóm lại, muốn được công danh thuận lợi phải được cả 3 trọng điểm Môn - Chủ - Táo ở phương vị tốt và tương sinh hoặc tỵ hòa mới coi là đại cát.
    Sau đây là những đặc điểm cần chú ý khi khảo sát:
    - Nếu viện được coi là Tĩnh trạch thời cứ việc áp dụng bài ca Du niên mà tìm phương vị tốt xấu. Nếu là Đông trạch gồm 2, 3, 4 đến 5 phòng, nên áp dụng theo Đông trạch, dùng đơn kim đơn mộc, xảo phiên bát quái. Nếu thuộc về Biến trạch, có từ 6 đến 10 phòng phải dùng song kim song mộc hoặc song thổ vẫn ứng dụng xảo phiền Bát quái, Hóa trạch có từ 11 đến 15 phòng cũng áp dụng theo cách đó.
    - Đại đường hay công đường cần phải xây cất trên nền cao, ngay thẳng, rộng lớn, sáng sủa. Như vậy, người chỉ huy sẽ sáng suốt, làm việc theo lương tâm, xử đoán công minh. Rất kỵ ở hai bên hông mở cửa thông ra ngoài, cách này gọi là “Tứ thú trương khẩu”, trong vùng thường xảy ra án mạng, nhiều chuyện vu cáo lôi thôi. Ngoài ra, hai phía trước và sau không nên xây cất thêm phòng nhỏ, cách này gọi là “Nhị quỷ đài kiện”, người chỉ huy hay bị chuyện dèm pha màng lụy, kẻ phục địch thời phản trắc.
    - Ở các nơi đại môn, Nghi môn (qua đại môn tới nghi môn kể từ ngoài đi vào) và nơi hoãn cách (nghỉ ngơi) rất kỵ dựng bia đá, vì hay gặp khẩu thiệt thị phi, kiện tụng, kháng tỗ… Vì dựng bia đá hai bên khi nhìn giống như hai răng nanh của hổ.
    Trái lại, trước công đường, dựng bia ở hai bên, đối lập với nhau thời đó lại là điều tốt, ví như tay trái, tay phải đều cầm, hốt ngà, biểu tượng sự trung nghĩa và cầm quyền lớn. Nếu đặt bia ở 2 bên đầu cổng vào ở 2 phía đông tây cũng rất tốt, thường có những bậc danh nho, cao sĩ trị dân, trên dưới hòa mục. Ở nơi Nghi môn, nếu dựng bia, thời sinh ra những kẻ sĩ điên ác.
    - Phía trước đại đường nên rộng rãi vuông vắn thuộc hình thổ hay kim, thời dân gian no ấm, kẻ sĩ thuần lương. Nếu có những đống đá gạch hoặc cây cối um tùm che khuất, ngăn trở, thời hay sinh những kẻ xúi dục, kiện tụng, mọi việc không tốt. Nếu trước công đường mà có khoảng đất vừa hẹp vừa dài giống như đầu rắn cổ vịt, thời nhân dân cũng khổ. Ngoài cửa Nghi môn cũng cần được rộng rãi, vuông vắn, không nên nhỏ hẹp như đầu rắn, cổ vịt.
    - Có 3 nơi biểu tượng uy quyền là Đại đường, Nghi môn và Đại môn, nơi đây xuất pháp chính lệnh, cần nhất phải oai nghiêm, sáng sủa, đẹp đẽ, vuông vắn. Nếu một trong 3 trọng điểm trên bị lệch lạch, phá khuyết thời làm quan phải phá tài, làm dân thời cùng khổ.
    - Trước đại môn cũng cần được rộng rãi, khoáng đạt, thời vị quan tướng mới được công danh thuận lợi, và những kẻ phục dịch thuộc cấp mới hết lòng làm việc. Nếu thấp nhỏ, méo lệch, phá khuyết thời nha dịch cùng khổ hay làm bậy, dân chúng nghèo đói hoang tàn.
    - Trước công đường cho đến đầu cổng, ở phương Đoài, không nên đặt Hỏa lò, đá mài và các vật dụng có hình thức dữ dằn. Phòng ốc không nên để vỡ nát, nghiêng lệch hoặc có đường đi trực xạ. Ngoài ra cũng rất kỵ những nhà cửa của dân gian xây cất quá cao án ngữ ngay đại môn.
    - Trước đại môn, hai bên có thư phòng của Nha lại làm việc cũng cần ngay ngắn, cửa lớn cửa nhỏ đều phải chỉnh tề. Về kiểu mẫu tổng quát, trước công đường cần khá rộng, như vậy sẽ có những bực trung thần nghĩa sĩ, dân chúng hiền lương, cuộc sống phú túc.
    - Tại Nghi môn cũng cần trước hẹp sau rộng giống thế hình, tường cao ráo. Nha dịch giỏi, có khả năng.
    - Sau đại đường là Nhị đường, tam đường, Nội viên… đều cần trước hẹp sau rộng mới đúng cách. Hai bên là thư viện phòng khách cũng cần trước hẹp sau rộng đều chủ phát phúc lâu dài. Nếu đặt bếp trà (nơi pha trà) ở các phương vị gặp Tham Lang Diên Niên hay Thiên Ất cũng ít tốt, sinh con hiền cháu thảo. Nếu an tại các phương, Ngũ quỷ thời kẻ tôi tớ hầu hạ sinh ra gian trá, trộm cắp, bỏ trốn.
    - Phòng khách cần sáng sủa, ngay thẳng, cửa mở theo chính diện tốt. Nếu mở cửa thông hai bên hoặc ở góc gọi là “Tứ thú trương khẩu”, thời hay gặp những vụ án tìm không ranh manh mối, dân chúng kháng cáo, khẩu thiệt thị phi.
    - Nhị đường, tam đường cũng phải ngay ngắn, sáng sủa, bếp phải đặt ở phường sinh khí, Diên Niên hoặc Thiên Ất mới có lộc, vợ nội trợ đảm đang. Nếu trong viện có gạch ngói chồng chất bừa bải thời trong nhà hay có người đau mắt, chết trẻ gỗ thời hay sinh khẩu thiệt.
    - Tại Nha thự, đại môn và Nghi môn, nếu có tường hai bên phải ngang với cổng, không nên quá thấp. Nếu quá thấp gọi là “Lậu kiên” quan dân nha địch đều cùng khổ, nếu méo lệch, thời hay bất hòa với cấp trên, nha dịch tác tệ, hay xảy án mạng.
    - Chuồng ngựa ở trong Nha thự (văn thự hay võ thự) cũng phải an ở các phương Sinh khí, Diên Niên, Thiên Ất thời ngựa mới khỏe mạnh, mập mạp, đó là cách “Dịch mã thôi quan”, thăng chức mau chóng. Nếu đặt ở phương ngũ quỷ thời ngựa ốm yểu chết chóc, hoặc thất lạc. Công văn cũng hay thất thoát.
    - Địa thế của Nhạ Sớ cũng cần ngay thẳng rộng rãi, trước hẹp sau rộng. Đó là cách “khẩu khẩu nha thự” vào nhiều mà ra ít, quan dân đều phú túc.
    - Nha thự được xây cất Tý Sơn Ngọ hướng, Nhân Sơn Bính hướng, Quý Sơn Đinh hướng, thời không nên đặt bếp ở phía đông bắc (Cấn Thổ) như vậy người giúp việc thường hay trộm cắp hay đào tẩu, tỳ thiếp hay làm chuyện dâm bôn, Quan hay sợ vợ, dân thời ưa kiện cáo, những chuyện này xảy ra là do lỗi lầm cách khai môn và an táo. Nha thự nằm phương khảm, cửa mở phương ly, đặt bếp tại cung cấn, thời thiếp bất phục thế, phụ nữ gây chuyện ồn ào. Nếu Nha thự ở phương Khảm, bếp đặt ở phương Tốn, đối nội, vợ hiền đức, tỳ thiếp đúng đắn. Đối ngoại, Nha dịch trung thành, thượng cấp vui vẻ.
    - Bếp nước trong Nha thự cần đặt tại các phương sinh khí, Thiên Ất, tương sinh hoặc tỵ hòa với đại môn, đại đường. Bếp nên cất thành 3 gian hoặc 5 gian tốt. Nếu mở cửa sau gọi là “thoát mang táo” tán tài và hay gặp hung án.
    - Nếu an bếp vào các phương Ngũ quỷ thời xảy ra đến 4, 5 án mạng, mất lòng thượng cấp, hay xảy kiện tụng, giáng cấp, tang tóc.
    - Trong Nha thự, ngoài đại đường, thường có nhị đường, tam đường, tứ đường. Rất kỵ cất thêm những căn phòng nhỏ ở phía sau Đường. Nếu cất ngay ở giữa gọi là “Phi phát phòng”, đàn bà hay gặp cảnh góa bụa. Chi trưởng bị đoản thọ. Nên cất ở hai bên gọi là “Yên vĩ phòng” hay sinh ra sự dâm loạn tán tài. Nếu một bên có, một bên không, gọi là “Đơn triên phòng”, làm quan mà cũng khổ, mọi sự bất lợi, kẻ tiểu nhân trộm cắp, hại ngầm. Còn có tên là “ám toán phòng” rất kỵ. Nếu trước và sau đều có phòng lớn, giữa có phòng nhỏ tức là phơi phòng, vô hại.
    - Nha thự dù thuộc văn hay võ đều nên trước thấp sau cao, trước hẹp sau rộng. Phía trong qua cổng ngoài hợp với hình này thời nha dịch khá giả. Trước đại đường hợp hình này thời nhân viên thư lại khá giả và ra làm quan. Nhị đường, tam đường hợp hình này, thời vị quan trưởng mau thăng chức.
    - Về việc ứng nghiệm của Nha thự so với Nhà dân có điểm khác biệt. Nha thự ứng nghiệm mau, Nhà dân ứng nghiệm chậm hơn. Nhà dân thời phải 1, 2 năm còn Nha thì chỉ trong vòng 5, 3 tháng, Nhà dân phải 8, 10 năm thời Nha thự chỉ 2, 3 năm. Quan thự mà phạm Ngũ quý thời hung tai đến liền, thường có hiện tượng ma quái, có thể bị tai họa đến 4, 5 lần. Khi trong Nha thự có ma quỷ quấy phá, đều do Môn, Chủ, Táo phạm vào phường Ngũ quỷ.
    - Cách giải trừ ma quỷ là nơi phạm vào Ngũ quỷ thời phải chuyển đi nơi khác, những vật dụng như tro bụi, gạch đá…  phải đem đổ xuống sông hoặc ngã tư đường, dùng vàng lượng tống tiền, còn các đồ thiết khí thời nên để vào chỗ trống khoảng 100 ngày cho hung khí tiêu tan, sẽ lại dùng được.
    - Nơi phóng uế như cầu tiêu, nhà xí… nên đặt vào phương Ngũ quỷ, mọi việc thuận lợi, kế đến là đặt ở phương Lục sát cũng tốt, ngoài ra có thể an ở các phương Họa hại, Tuyệt mạng – Nhà xí mà an ở cát phương thời hay đau ốm.
    - Trước đại đường rất kỵ xây cất thêm một phòng nhỏ hoặc có cổng nhỏ. Nếu ngay nơi giọt nước của mái đại đường cháy xuống tiêu phòng hoặc tiêu môn thời công danh bất lợi và tuyệt tự, hại vợ khắc con, hay gặp chuyện lo buồn. Trên nguyên tắc đại đường phải có địa vị độc tôn, ngay ngắn sáng sủa, không nghiêng lệch. Tóm lại, đại đường là nơi quan yếu nhất.
    - Những hướng khai môn và phóng thủy của Nha thự cũng cần lưu ý: Nếu Nha thự thuộc 4 chính hướng Tý Ngọ Mão Dậu, thời nên phóng thủy từ bên phải nhằm suy phương là Ất, Tân, Đinh, Quý. Nếu thuộc 4 hướng Càn, Khôn, Cấn, Tốn là tứ duy, thời nên phóng thủy ở phía trái nhằm các phương Ất, Tân, Đinh, Quý là cách ta khổ tiêu thủy (mượn kho để tiêu nước) như vậy sẽ không xung phá ngôi Dưỡng. Nên đặt La Bàn ở giữa Đại môn và Nghi môn mà định hướng để phong thủy.
    - Nha thự rất kỵ phạm Ngũ quỷ. Có 4 cách phạm Ngũ quỷ: 1. Xiên cung Ngũ quỷ là trùng cung Liêm Trinh vừa cao vừa lớn; 2. Môn và Táo phạm vào Ngũ quỷ; 3. Chủ và Táo phạm vào Ngũ quỷ; 4. Môn và Chủ phạm vào Ngũ quỷ. Tất cả 4 cách này đều hung, khi tại nhiệm hay gặp sự hung tai bất tráo hoặc án mạng. Tuy vậy, cũng có khi không gặp tai họa lớn nhưng hay gặp chuyện rắc rối, dân chúng kháng hoặc cha con vợ chồng gặp chuyện lủng củng, sự chiết giảm, hung tai này là do 2 nguyên nhân: có Lục Sát (thủy) chế hóa Ngũ quỷ, (Hỏa) hoặc vị trưởng quan đó đang gặp vận tốt chế áp được Ngũ quỷ. Trường hợp này được gọi là “áp sát thự” nhưng qua một thời gian lâu cũng gặp tai họa.
    - Nhà giam phạm nhân cũng phải lưu tâm về phương vị: Nên cất nhà giam bên trong đại môn tại cung Bạch Hổ (Dậu). Tọa tại đây, hướng về Đông. Việc phân bố kiến trúc các phòng giam thời 3 phương Nam Đông Bắc nên cao lớn, riêng phương Tây cần thấp nhỏ như vậy phạm nhân sẽ thuận tòng. Bếp của nhà giam nên đặt tại 4 phương Khảm Ly Chấn Tốn, không nên đặt tại 3 phương Càn, Khôn, Đoài. Nếu phòng giam ở phía tây cao lớn, đặt bếp ở phía này, tức là xung với cửa nhà giam. Mão Dậu với Đại môn là Hỏa Kim tương khắc, phạm vào Ngũ quỷ, tội nhân làm loạn, hoặc vượt ngục đào tẩu, vi phạm kỷ luật, chống đối quan quân. Nhà xí của lao xa nên đặt ở phương Tây là tốt nhất. Việc xử án thuận lợi, phạm nhân phục tùng.
    - Ở dưới đại môn, không nên dùng đá xanh giải đường, cách này gọi là “Thanh Long áp canh” dễ bị thuyên chuyển.
    - Những tảng đá lớn hoặc đá mài nên đặt ở các phương hưu tù, rất kỵ để ở dưới sàn gỗ, dưới bục ngồi… cách này gọi là “bạch hổ trương khẩu”, hay gặp khẩu thiệt, nên để ở trong phòng ốc gọi là “Hổ nhập Long” cũng chủ về đàn bà miệng tiếng. Nên đặt ở nơi kín đáo trong phòng là tốt hơn cả.
    Sau đây là một kiểu mẫu về Nha thự, gồm có 5 lớp Khảm thự, Ly môn, Chấn táO
     
     


    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/A769A001A6CF4A56ADCBE40257D905FA.jpg[/image]
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.04.2008 03:29:47 bởi vanti67 >
    Attached Image(s)
    #2
      vanti67 09.04.2008 03:17:53 (permalink)
       
      Thự này lớp ngoài là cổng ngoài (đại môn) thuộc Diên Niên Kim, lớp thứ hai là Nghị môn gặp Lục Sát Thủy. Lớp thứ ba tức Đại đường (tức chủ vị) thuộc Tham Lang Mộc, riêng Đại đường này cần cao lớn mới tốt. Lớp thứ tự gặp Liêm Trinh Hóa cần phải thấp. Lớp thứ 5 gặp Thiên Ất Thổ cũng cần cao hơn lớp thứ 4. Bếp đặt ở các cung Chấn hoặc Tốn đều tốt, được gọi là Sinh khí táo, vì Khá, thủy sinh, Chấn táo Mộc. Chấn mộc sinh ly môn Hóa. Mộc Hóa tương sinh mộc hỏa thông minh, âm dương chính phối. Diên Kiên đến cung Khảm, Kim Thủy tương sinh, Đại đường cao vút, Mộc Hỏa tương sinh, cung sinh sao, sao sinh cung, Thủy Hỏa ký tế. Đó là kiểu mẫu tốt, nhất về Nha thự. Nếu chiếu theo biểu đồ này mẩu xây cất, tất gặp được Tham Lang sinh khí, chỉ trong vòng 3 năm sẽ ứng nghiệm, đặc biệt vào những năm Thân, Tý, Thìn, Hợi, Mão, Mùi được thăng thiên. Nếu chậm thời ứng nghiệm trong vòng 6 đến 8 năm, chắc chắn có sự thăng tiến công danh. Về ứng kỳ: Nhất và Lục thuộc Thủy, Tam vả Bát thuộc Mộc, cho nên đoán là trong vòng 3 năm hoặc 8 năm sẽ ứng điềm đại cát.
      1. Lớp ngoài là đại môn.
      2. Lớp nhì là Nghi môn.
      3. Lớp 3 là Đại đường gặp sinh khí Tham Lang Mộc tinh cần được sao lớp làm chủ vị. Tại Nha thự chỉ riêng có Đại đường cao lớn, thăng quan lời tài.
      4. Lớp thứ 4, Nhị đường thuộc Ngũ quỷ Liêm Trinh Hóa, cần thấp nhỏ.
      5. Lớp thứ 5, Tam đường, thuộc Thiên Ất Cự Môn Thổ, cần cao lớn.
      A. Bếp đặt ở phương Chấn, cát Lợi.
       
      Kiểu mẫu 2. Nha thự 7 lớp: Chủ Chủ Ly Môn
       


      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/18793B5257C142D4867F2E369A4B8B53.jpg[/image]
      Attached Image(s)
      #3
        vanti67 09.04.2008 03:21:12 (permalink)
        Tý Sơn Ngọ Hướng, Nhân Sơn Bính hướng Quý Sơn Đình hướng, cả 3 hướng này đều là Ly môn Khám chủ. Đừng xảo phiên Bát quái song kim song Mộc. Lớp ngoài nhất là Kim, lớp nhì là Kim, lớp 3 là Thủy, lớp 4 là mộc, lớp 5 là mộc, lớp 6 là Hỏa, lớp 7 là Thổ, lớp 8 là Thổ. Lớp thứ 5 là Tham Lang Mộc cần cao lớn. Bếp đặt ở phương Chấn, Tốn, Khảm Thủy, sinh Chấn Mộc, Chấn Mộc sinh Ly Hỏa, có tên là Thủy Hỏa tương sinh, Mộc Hỏa thông minh, là điềm đạt cát, thăng quan tiến chức.
        1. Lớp ngoài nhất, cổng ngoài, Điền Niên Kim.
        2. Lớp thứ nhì, cổng trong, Tuyệt mạng Kim.
        3. Lớp thứ ba, Đại đường, Văn khúc, Thủy.
        4. Lớp thứ tư, Nhị đường, Phụ Bật, Mộc.
        5. Lớp thứ năm, tam đường, Tham Lang Mộc, cần cao lớn, Chủ.
        6. Lớp thứ sáu, tứ đường, Liêm Trinh Hóa, cần thấp.
        7. Lớp thứ bảy, Ngũ đường, Cự môn Thế, cần cao.
         
        Kiểu mẫu 3. Nha thự gồm 8 lớp: Khảm Chủ, Ly Môn
        Nha thự này ở lớp thứ 5 gặp Tham Lang Sinh khí, cần cao lớn hơn các lớp khác, như vậy tất thăng quan tiến lợi tài. Lớp thứ 8 gặp Thiên Ất, Cự Môn cũng cần cao lớn, lợi cho việc thăng tiến. Bếp nên đặt ở các phương Tốn, Ly, Giáp, Mão và các phương Nhâm, Tý, Quý đều tốt. Nhưng Chấn, Tốn, Mộc được coi là thượng cát, Khảm là thứ cát. Như vậy, chắc chắn có sự thăng thiên. Nếu gặp sự thăng thiên bất lợi có thể là vì các nguyên do sau đây: Bếp lại mở thêm cổng sau, hoặc bếp không đặt đúng 1 trong 3 phương vị sinh khí, Thiên Ất, Diên Niên. Xin giải thích ngay, Lộc tức là Bếp nước, ăn cơm tức là hưởng lộc, vậy do bếp nước không đúng, phương vị nên mang lại những hậu quả bất lợi.
        1. Lớp thứ nhất là cửa ngoài thuộc Diên – Niên – Kim.
        2. Lớp thứ hai là Nghi môn, thuộc Tuyệt, Mạng, Kim.
        3. Lớp thứ ba là Đại đường thuộc Văn Khúc Thủy.
        4. Lớp thứ 4 là Nhị đường thuộc Hữu Bật - Mộc.
        5. Lớp thứ 5 là Tam đường thuộc Tham Lang - Mộc.
        6. Lớp thứ 6 là Tứ đường thuộc Ngũ quỷ - Hỏa.
        7. Lớp thứ 7 là Ngũ đường thuộc Họa hại - Thổ.
        8. Lớp thứ 8 là Lục đường thuộc Thiên Ất - Thổ.
         


        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/31AF8E5150624CA79C6933E39E97C17D.jpg[/image]
        Attached Image(s)
        #4
          vanti67 09.04.2008 03:34:56 (permalink)
           
          Phép đặt bếp của 3 Nha thự kể trên.
          Nếu đặt bếp ở bên đông thành một căn riêng biệt, thời ngay giữa vị trí của bếp đặt la bàn để khảo sát phương vị 8 quẻ, nên đặt ở 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn, duy đặt ở hai cung Chấn Tốn tức là Lộc phù địa: Khảm Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa. Như vậy là Môn - Chủ - Táo được tương sinh. Như vậy 3 Nha thự nói trên đều được cát lợi thường gặp được dịp may thăng quan tiến chức trong vòng 3 đến 5 năm. Ba năm là thuộc số của Mộc, 5 năm là số của Thổ, chậm lắm là 8 hoặc 10 năm. Các số 3 và 8 thuộc Mộc, 5 và 10 thuộc Thổ. Ba biểu đồ Nha thự trên đây có tính cách điển hình. Các Nha thự khác cũng nên phòng theo đó mà làm. Đặc biệt phải lưu tâm đến phương vị của bếp, vì bếp là Lộc sở, Bếp hợp phương vị thì thăng quan lợi tài. Nếu có sự bất lợi như dân chúng kháng tố… thời phải xét lại hoặc Chủ Môn phạm Ngũ quỷ, hoặc như Khảm thự Ly môn, Chủ phạm vào Ngũ quỷ tại cung Càn, Môn phạm Ngũ quỷ tại cung Đoài. Nếu an bếp tại 2 nơi này là hoàn toàn bất lợi.
           
          Kiểu mẫu thứ 4: Ba Sơn Bính Ngọ Đinh thuộc 3 hướng Nhâm Tý Quý, nha thự 5 lớp. Thổ tinh cao lớn làm chủ.
          Nha thự này là Khảm môn, Ly chủ, Táo thuộc Chấn Tốn, gồm 5 lớp, Thiên Ất Cự Môn Thổ làm chủ đến Ly cung, Hỏa sinh Thổ tức cung sinh sao, thăng quan lợi tài đại cát:
           


          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/07FAF0AF3BEA4ADDA6460ABE1B8C91EA.jpg[/image]
          Attached Image(s)
          #5
            vanti67 11.04.2008 10:06:57 (permalink)
            17

            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/92F557EDD5FC443C8800FF2A4A10BAD7.jpg[/image]
            Attached Image(s)
            #6
              vanti67 11.04.2008 10:11:10 (permalink)
              Nói chuyện về Nha thự đều phải trước hẹp sau rộng, giống như hình chiếc quan tài. Chủ việc tiền tài hoạnh phát, rất ứng nghiệm. Theo kinh nghiệm của tôi, những nhà đại tài chú hoặc những nhà tấn phát, nhà cửa thường hợp với hình này, muốn khá giả, nên sửa sang cho hợp cách.
              Luận về cách đo lường thước tấc và cát hung
              Việc đo lường xác định ranh giới phải lấy giọt nước trên mái chảy xuống làm chuẩn (thôn quê thường gọi là giọt gianh). Từ đại đường đến Nghi môn, dùng thước đo, cứ số lẻ là tốt (1, 3, 5… thước), số chẳn không tốt. Sau đại đường đến nhị đường, tam đường cũng cứ so theo cách đó. Số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm, vậy dương cát, âm hung. Việc ứng dụng con số theo Lạc thư, số 1 là Thủy, số 3 thuộc Lộc, số 5 thuộc Thổ. Nói chung, dùng bộ, thước, hay trượng đều nên dùng số lẻ. Và danh từ cũng có những sự phân biệt như sau:
              - Từ cửa ngoài đến Nghi môn gọi là Nhân cục.
              - Từ Nghi môn đến đại đường gọi là Hung đường (xin nhớ Hung là Ngực, chứ không phải là hung dữ).
              Hai nơi đây đều cần vuông vắn, rộng rãi,rất kỵ quá dài và quá hẹp được coi là Xà thân áp cảnh sát, chủ sự tán tài, cùng khổ.
              Sau đây là những bài thơ nói về hung cục và cát cục:
              Trường hiệp hung cục ca (Dài và hẹp là hung cục)
              - Cục như áp cảnh tịnh xà thân (hình mình rắn cổ vịt).
              - Nhược thị công nha tối khả xâm (Nha thự rất kỵ).
              - Quan chính mõi quai hư khố nổ (công sự rắc rối, kho tàng rỗng).
              - Cảnh trang dân vật thụ tai truân (dân chúng khổ sở).
              Phương khoát cát cục (vuông rộng)
              - Công nha cát cục cánh phương (Nha thự được vuông rộng).
              - Vũ trụ hồng hoang tổng quát mung (hình trước hẹp như miệng túi).
              - Chính tích hận đẳng cao trạc tốc (chính tích giỏi, thăng tiến).
              - Vạn dân ca vũ tụng Ngu đường (muôn dân vui mừng).
               


              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/5799884958C449ABBD4582D2CBA93AE4.jpg[/image]
              Attached Image(s)
              #7
                vanti67 11.04.2008 11:30:58 (permalink)
                Hình A: Chấn chủ, Đoài môn, Tốn Táo, 5 lớp, cách Áp sát Nha thự.
                Nha thự này tuy bị Môn, Chủ tương khắc, theo phiên kim xáo phiên bát quái. Lớp ngoài là Tuyệt mạng Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, lớp thứ ba gặp sinh khhí Tham Lang Mộc tinh, cao lớn, lấy làm chủ vị, Tham Lang đóng tại chính đông là Mộc tinh đắc vị, phối hợp với Tốn Táo, được cách “nhị mộc thành lâm” và trở thành hóa cát, chủ  về sơ vận thăng quan, lợi tài. Tuy nhiên, nếu ở lâu, sẽ mắc các chứng bệnh đau mình, co rút chân tay, khó nuôi con, trai gái yểu mạng. Vậy nên gấp tu bổ một tòa nhà cao ở hai phương Đoài, Càn, chuyển bếp sang cung Khôn như vậy, đại cát.
                1. Lớp ngoài cùng là Phá Quân Kim.
                2. Lớp thứ nhì là Văn Khúc Thủy.
                3. Lớp thứ 3 là Sinh khí Mộc, cao lớn.
                4. Lớp 4 là Ngũ quỷ, Hỏa, thấp.
                5. Lớp 5, Cự Môn, Thổ.
                 
                Hình B: Đoài Chủ, Chấn Môn, Khôn Táo, 5 lớp, ám sát Nha thự.
                Nếu luận về Môn, Chủ, Táo thời thự này không tốt. Nếu luận về tứ chính phiên Kim, thời lớp thứ 5 là Cự môn thổ đến cung Đoài được cung và sao tương sinh, như vậy là cát tinh, đắc vị, hung sát phải thoái phục, lại được chủ táo tương sinh, chủ về sơ vận, thăng quan tiến chức. Nhưng để lâu thời Môn, Chủ, Táo khắc chế lẫn nhau nên trong nhà vợ chồng con cái hay bất hòa, hay sinh chứng đau bụng, ăn không tiêu… Như vậy phải mở cửa theo hướng Càn mới được yên lành. Nói chung, Nha thự phạm vào Áp sát thời tiền cát hậu hung nên cẩn thận.
                Luận về cát hung các Văn, Vũ miễu
                Lý thuyết âm dương đã được phân chia, nếu âm dương không hòa hợp là hung triệu. Nha thự cần hợp quy cách thời văn miếu cũng phải xây cất trên cát địa, tức là Tam cát, Lục tú (đã nói ở trên). Khi xét phương vị, nên đặt La Kinh trước Đại đường. Đến miếu nên đặt ở trên 3 chữ Cấn, Giáp, Tốn. Bên phải cần cao ráo, giống như ngọn bút, cây thương. Bên trái cần trống trải, thoáng đãng, liếc mắt là thấy rõ văn cát khuê lâu ở trên thành. Như vậy sẽ phát về khoa giáp. Tại các phương Tốn, Bính, Đinh có tháp Bút thời phát khoa bảng đại thần. Nói về vũ miếu thời nên đặt trên 3 phương Hợi, Canh, Đinh là đắc địa. Nếu ở các phương Bính, Đinh thời phải tọa Nam hướng Bắc. Như vậy được âm dương chính phối, thuộc quẻ Thủy Hỏa ký tế, phát về võ tướng trung thần.
                Khi xây cất văn, võ miếu tối kỵ ở sát ngã tư đường, gần sát Nha thự. Khi lập miếu Thổ địa rất kỵ ở gần Ngã tư, gọi là cách “Mậu Kỷ sát thổ áp trung ương”, khiến dân chúng nghèo khổ, trong vùng hay sinh người lùn, cụt chân tay, mù lòa, bệnh ung thư, câm điếc. Trai gái dâm đảng, thông gian trong nhà. Nếu đặt ở cung Khảm, càng bất lợi. Khảm thuộc Thủy, tương khắc với Thổ, chú về sự yểu vong, góa bụa, chột mắt, tai họa liên miên…
                Luận về phương vị cát hung của Cửu tinh:
                Sau gặp nơi đắc địa, phú quý và đa đinh, nếu gặp Long chân, khí tráng, thời chỉ trong 3 năm là đại phát. Còn phúc lớn hay nhỏ là tùy theo Long mạch lớn nhỏ.
                - Sinh khí Mộc đóng tại Chấn, Tốn, Khảm, Ly Xà đắc vị, phú quý sinh 5 con, tốt những năm Hợi, Mão, Mùi, ngành trưởng đại lợi.
                - Thiện y, Thổ đóng tại các cung Khôn, Cấn, Đoài là đắc vị, phúc lộc sinh 3 con hiếu thảo, ứng với những năm Dậu, Kỷ, Thìn,Tuất, Sửu, Mùi, ngành giữa lợi.
                - Diên Niên, Kim, tại các cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài là đắc vị, tốt, chủ binh quyền sinh 4 con, phát vào năm Canh, Tân, Tỵ, Dậu, Sửu ngành út lợi.
                - Ngũ quỷ, Hỏa đại hung, chủ về ma quỷ, kiện tụng, khẩu thiệt hỏa, đạo, sinh 2 con, tai họa vào những năm Bính, Đinh, Dần, Ngọ, Tuất, trưởng phòng bất lợi.
                - Họa hại, Thổ, chủ câm điếc, mù lòa, cùng khổ, góa bụa, tiếu phòng bất lợi.
                - Văn khúc, Thủy, dâm đãng, tự ải, sinh 1 con.
                - Tuyệt mạng, Kim, hay gặp ác tật, yếu chiết, cô quả, phá sản.
                Bốn loại hung tinh này nếu Môn Chủ Táo phạm vào rất nguy hiểm, dù Long chân khí tráng cũng không phát.
                Tổng luận về Dương trạch
                - Tại Kinh độ thời lấy Hoàng điện nội thành làm chủ.
                - Tỉnh thành thời lấy 3 ty, Nha thự làm chủ.
                - Châu huyện lấy công đường làm chủ.
                - Nho học lấy văn miếu làm chủ.
                - Chùa chiền, am viện lấy chính điện làm chủ.
                - Kẻ thân sĩ, dân chúng lấy căn nào cao nhất làm chủ.
                - Một nhà có nhiều hộ ở chung, lấy bếp làm chủ.
                 
                #8
                  vanti67 11.04.2008 11:34:39 (permalink)
                  QUYỂN II
                   
                  Quyển này nói về Tây tứ trạch gồm 32 môn, 32 chủ, 32 táo. Một Chủ, một môn phối hợp với 8 táo. Về Tây tứ trạch, Môn, Chủ, Táo gặp Diên Niên là Thượng cát, Thổ Kim tương sinh, phu phụ chính phối, Môn, Chủ, Táo thuộc Thiên Ất là trung cát, dù được tương sinh, ty hòa, nhưng gặp thuần âm thuần dương, nên chỉ được trung cát. Môn, chủ, táo thuộc sinh khí là thứ cát. Nói chung, nếu thuộc Tây tứ trạch thời chỉ có cát mà không có hung, nếu được phối hợp với Tây tứ cung và hợp với Mạng nguyên của trạch chủ thời gia đình thịnh vượng, vợ chồng con cái hòa thuận, tuổi thọ cao. Nếu đã qua một thời gian lâu mà không ứng nghiệm, thời có thể đã ứng nghiệm về quá khứ 3, 4 chục năm về trước.
                  I. CÀN
                  1). Bàn môn đàn chú: càn càn thuần dương thương phụ nữ, cách này đều thuộc thuần dương Phục vị, sơ vận phát phúc, nhưng thuần dương, bất hóa, dương thịnh âm suy, nếu để lâu phụ nữ yểu vong, cô quả, tuyệt tự.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo, kim bị tiết khí, lúc đầu được tương sinh tốt, lâu thời tán tài, cờ bạc, dâm đãng, tổn thương thê tử, ho suyễn.
                  Cấn là Thiên Ất Táo Thổ, tương sinh với Kim, lúc đầu phú quý song toàn, sinh 3 con, lâu năm thời tổn thương phụ nữ, ít con, phải cưới thiếp, vì phạm thuần dương.
                  Chấn táo phạm Ngũ quỷ, bất lợi con trưởng, hay bị kiện cáo, hại người hại của, hung tứ, trộm cắp.
                  Tốn táo thuộc Lộc tồn Thổ tinh, tương khắc với Môn, tương sinh với Cung, lúc đầu tiểu cát, sau thời phụ nữ đoản thọ, đau lưng, đùi, bụng
                  Ly Táo là Hỏa Kim tương khắc, âm thịnh dương suy, nhiều gái ít trai của con không vượng, lâu dần hay có quả phụ. Đau mắt, nhức đầu, ác tật, đàn bà lăng loàn không con.
                  Khôn Táo là Diên Niên, Thổ Kim tương sinh, phu phụ chính phối, sinh 4 con, phúc lộc thọ hoàn toàn.
                  Đoài Táo tức sinh khí, tỵ hòa với Môn và Chủ, lúc đầu phát tài phát định, lâu ngày phải trùng phú thê thiếp, đàn bà góa bụa, thuộc hạng thứ cát.
                  Càn táo cùng tụ hòa với Môn chủ, tam dương đồng cư, sơ vận phát phúc, lâu thời hình thê khắc tử.
                  2). Càn Môn Khảm chủ: Thiên Môn lạc thủy xuất dâm cuồng:
                  Cách này có tên là Lục Sát, Hung, sơ vận dù có phát tài sau sẽ hình thê khắc tử, góa bụa không con, bại sản.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo thuộc Thủy, Kim bị tiết khí, Chủ về tán tài tuyệt tự.
                  Cấn táo tương sinh với Môn là Thiên y, sinh được 3 con nhưng lại tương khắc với chủ, phạm vào Ngũ quỷ khó nuôi con, trai giữa đoản thọ, tuyệt tự, hay mắc các bệnh đau bụng, khí trướng, sưng lá lách.
                  Chấn táo đối với Chú là Thiên Y, đối với Môn là Ngũ quỷ, lại thuộc dương, sơ vận khá, nhưng sau đại hung.
                  Tốn táo đối với Môn là Họa hại, với chủ là sinh khí, sơ vận Đinh tài đều phát, sau hay mang bệnh đau nhức gân xương, phụ nữ đoản thọ.
                  Ly táo là Hỏa kim tương khắc, nam nữ đoản thọ, nữa kiết nữa hung.
                  Khôn táo, Đinh tài đều vượng, nhưng Khảm chủ bị khắc, tổn thương trung nam, góa bụa, ngành thứ tuyệt tự.
                  Đoài Táo, đông con, đàn bà yểu mạng, lâu ngày sinh ra góa bụa, dâm đãng.
                  Càn Táo tỵ hòa với Môn, đối với chủ là Lục sát, đoán theo cách Thiên Môn lạc thủy nói trên.
                   
                  3). Càn Môn Cấn chú: Thiên lâm sơn thượng gia phú quý:
                  Cách này gọi là Thiên Ất trạch, là phúc thần sinh 3 con nhiều ruộng đất, trong nhà trọng tín ngưỡng, sơ niên giàu có, đông con nhiều của, trai gái hiền lương, nhưng thuần dương bất hóa, lâu năm sẽ khắc vợ hại con, cô quả.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo, thổ khắc thủy, kim bị tiết khí, hay đau bụng, lá lách, hư lao, trẻ con khó nuôi, nam nữ yểu vong, trùng hôn, ma quỷ quấy phá.
                  Cấn táo tương sinh với Môn, tỵ hòa với Chủ, điền sản hưng vượng, nhưng tổn thương con gái, hiếm con vì thuần dương.
                  Chấn táo phạm Ngũ quỷ tương khắc với Môn và Chủ, tuyệt tự, mắc bệnh phù thủng vàng da, bệnh tỳ, đại hung.
                  Tốn táo, Kim, Mộc, Thổ cả 3 tương khắc, đau gân cốt, khắc vợ hại con, bệnh về sinh sản, bệnh phong.
                  Ly táo đàn bà hung dữ, chồng sợ vợ, tuyệt tự, bệnh mắt.
                  Khốn táo là Diên Niên sinh khí, đại cát.
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với chủ, đại cát.
                  Càn táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ, sơ niên phát phúc, sau thương thê khắc tử, tuyệt tự, góa bụa, vì là cách thuần dương.
                  4). Càn môn chấn chủ: Quỷ nhập Lôi môn thương trưởng tử:
                  Cách này gọi là Ngũ quỷ trạch, ngoài khắc trong tai họa mau chóng, kiện tụng khẩu thiệt, hỏa tai, đạo tặc, thường ứng vào số 4, 5, ma quỷ quấy phá, nam nữ yểu chiết, đau bụng, điền sản hao tán, lục súc tổn thương, cha con bất hòa, ngành trưởng tuyệt tự sau đến các ngành khác, đại hung.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo, sơ niên tốt, lâu thời hao người tốn của.
                  Cấn táo phát tài không phát định, con nít hay đau ốm.
                  Chấn táo là tam dương đồng cự, phạm vào Ngũ quỷ đại hung
                  Tốn táo phụ nữ đoản thọ, đau nhức gân cốt, truỵ thai, chết về thai sản.
                  Ly táo Hỏa kim tương khắc, đàn ông yểu thọ.
                  Khôn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, nữa kiết nữa hung.
                  Đoài táo tỵ hỏa với Môn, tương khắc với Chủ.
                  Càn táo là tam dương đồng cư, hai Kim khắc Mộc tất là tuyệt diệt, đại hung.
                  5). Càn môn Tốn chủ: Càn tốn sản vong tâm thoái thống:
                  Cách này gọi là Họa Hại Trạch, sơ niên may mắn được phát tài nhưng sau đàn bà chết sớm, hay bị trộm giặc, kiện tụng.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo không khắc với môn và chủ, sơ niên phát tài Đinh, về lâu không được vượng.
                  Cấn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, tuyệt tự, không tốt.
                  Chấn táo có tên là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Tốn táo thời phụ nữ đoản thọ.
                  Ly táo phụ nữ chuyên quyền, đàn ông đoản thọ.
                  Khôn táo lão mẫu bị yểu vong.
                  Đoài thọ nam nữ đều đoản thọ.
                  Càn táo tỵ hòa với Môn tương khắc với Chủ, thương thê khắc tử.
                  6). Càn Môn Ly Chủ: Càn Ly của cư sinh nhân tật:
                  Cách này gọi là Tuyệt mạng Trạch, ông già bị lao tật, đoản thọ, hoa mắt nhức đầu, xung độc, tán tài, trộm giặc, góa bụa, tuyệt tự.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo tán tài, khắc thê, dâm đãng.
                  Cấn táo, con cháu hiền lương, phụ nữ hung dữ.
                  Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
                  Tốn là Họa hại táo, vợ lớn bị khắc, trụy thai, chết yểu vì thai sản.
                  Ly táo tương khắc với Môn, hung.
                  Chấn táo tương sinh với Môn, nữa cát nữa hung.
                  Đoài táo tụ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, hung.
                  Càn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với chủ, không tốt.
                  7). Càn môn Khôn chủ: Thiên môn đáo địa chủ vinh hoa:
                  Cách này gọi là Diên Niên trạch, Thổ kim tương sinh, phu phụ chính phối, sao và cung tương sinh, được 4 con, cả nhà hòa mỹ, con thảo cháu hiền, phú quý, sống lâu, Vì Diên Niên đắc vị nên gặp phúc hỷ.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo bị khó khăn, trung nam đoản mạng, đau bụng không tốt.
                  Cấn táo tương sinh với Môn, nam nữ hiền lương, đại cát.
                  Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, đại hung.
                  Tốn táo tương khắc với Môn (Kim khắc Mộc) và tương khắc với chủ (Mộc khắc Thổ), những bậc lão mẫu, trương phụ bị tổn thọ.
                  Ly táo Hỏa, Kim tương khắc, hung.
                  Khôn táo đại cát.
                  Đoài táo đối với Mộc là sinh khí, với Chủ là Thiên Ất, đại cát.
                  Càn táo tương sinh với Môn và Chủ, đại cát.
                  8). Càn Môn Đoài chủ: Thiên trạch tài vương đa dâm loạn:
                  Cách này gọi là sinh khí trạch. Lão ông và thiếu nữ tương phối, sơ niên phát phú phát quý, có con và sống lâu. Lâu ngày sẽ trùng thú thê thiếp, đàn bà góa coi nhà, thứ cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo, thủy tiết kim khí, tuy sinh mà không sinh, tán tài, tuyệt tự, khắc thê, dâm đãng.
                  Cấn là Thiên Ất táo, đại cát.
                  Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
                  Tốn táo là họa hại, phụ nữ sản vong, đau nhức xương cốt.
                  Ly táo là Hỏa kim tương khắc, trai gái đoản thọ, tán tài, đại hung.
                  Khôn táo đại hung
                  Đoài táo tỵ hòa với môn, đại cát.
                  Càn táo dương nhiều âm ít, phụ nữ yểu vong, ở góa, dâm đãng thứ cát.
                  II. KHÔN:
                  1). Khôn môn Khôn chủ: Trùng địa có quá chướng gia viên:
                  Cách này gọi là Phục vị trạch 2 chủ cùng chung một thửa ruộng làm giàu, ruộng vườn nhiều, sơ niên tiến phát, lâu thời hại con trai, tuyệt tự, phụ nữ làm chủ nhà cửa, bổ khuyết cung càn hay hoặc cung cấn thời tốt.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Đoài táo với Môn chủ là Thiên Ất, cửa nhà an khang, hiền lành, phát phú quý, lâu thời góa bụa, tuyệt tự, thường phải nuôi con rễ, con nuôi.
                  Càn táo là Diên Niên táo đại cát.
                  Khảm táo tất bị bại tuyệt, đau bụng, hư hao, tích khối.
                  Cấn táo là sinh khí tốt.
                  Chấn táo, Mộc thổ tương khắc, hung.
                  Tốn táo khắc chủ khắc Môn, nam nữ yểu thọ, đại hung.
                  Ly táo là Lục sát, không tốt.
                  Khôn táo là tam thổ tỵ hòa, phát tài nhưng hiếm con, góa bụa, nuôi con nuôi.
                  2). Khôn môn Đoài chủ: Địa trạch tiến tài tuyệt hậu tự:
                  Cách này gọi là Thiên y trạch, đàn bà con gái lương thiện, sơ niên phát phúc, hiền vì âm thịnh dương suy, để lâu thời đàn ông yểu mạng, con trẻ khó nuôi, đàn bà góa cai quản nhà cửa, nuôi con nuôi, quý mến con rể, trong nhà cửa không được trong sạch.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn và Chủ và tương sinh, đại cát. Nhưng chủ về tuyệt âm, không có con trai.
                  Càn táo là Diên Niên, nhân tài đều vượng, sống lâu vinh hiển.
                  Khảm táo với Môn Thổ tương khắc, hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ, đại cát.
                  Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, đại hung.
                  Tốn ???
                  3). Khôn môn Càn chủ: Địa khởi Thiên môn phú quý xương:
                  Cách này gọi là Diên Niên trạch, sao và cung tương sinh, Ngoại thổ sinh Nội kim, trai gái cao sang, vợ chồng hài hòa, con cháu đông đúc và hiếu thảo, đại cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Đoài Táo là sinh khí Thiên Ất, mệnh danh là “Tam cát Táo”, đại cát.
                  Càn táo tương sinh với Môn, tỵ hòa với Chủ, đại cát.
                  Khảm táo tương khắc với Môn Chủ cung.
                  Cấn táo là Thiên Ất, sinh khí táo tận thiện tận mỹ.
                  Chấn táo tương khắc với Môn chủ, đại hung.
                  Tốn táo phạm vào Môn thượng Ngũ quỷ, đại hung.
                  Ly táo, họa khắc Cấn Kim, hung
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ, là “Tam cát táo”, đại cát.
                  4). Khôn môn Khảm chủ: Khôn khảm trung nam, mệnh bất tổn:
                  Cách này gọi là Tuyệt mạng trạch, Thủy bị Thổ khắc đau bụng, tích khối, phù thủng vàng da, trung nam đoản thọ, góa bụa, điền sản phá bại, trộm giặc, điên cuồng, kiện tụng, nghành nhì bị tuyệt tự trước, rồi đến các ngành khác.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo tương khắc với Môn, Hung.
                  Cấn táo khắc chủ, nhân đinh không vượng, hung.
                  Khảm táo tương khắc với Môn, hung.
                  Cấn táo, khắc chủ, nhân định không vượng, hung.
                  Chấn táo, mộc thổ tương khắc, hung.
                  Tốn táo với Môn phạm Ngũ quỷ, hung.
                  Ly táo với Chủ, Chính phối, với cửa sinh mà không sinh, nữa cát nữa hung.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn tương khắc với Chủ, xấu.
                  Đoài táo, nam nữ đoản thọ.
                  Càn táo sơ niên hơi tốt, lâu thời dâm đãng, bại tuyệt.
                  5). Khôn môn càn chủ: Địa môn thổ trong điền sản túc:
                  Cách này gọi là Sinh khí trạch hai thổ tỵ hòa, chung ruộng làm giàu, lục súc nhiều, con cái sống lâu và đông đúc, hiếu thảo, lâu năm thời hay gặp tai họa, thứ cát.
                  Môn chú phối bát táo:
                  Khảm táo tương khắc với Môn chủ, đại hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn và Chủ, tốt.
                  Chấn táo, Mộc thổ tương khắc, hay bị chứng vàng da phù thủng, tỳ vị yếu, nam nữ yểu thọ, tuyệt tự không tốt.
                  Tốn táo phạm vào Ngũ quỷ, lão mẫu đa tai, bị bệnh hoàng thủng, da vàng phù thủng, chết vì thai sản, bệnh hoạn, trộm giặc, âm thịnh dương suy, phụ nữ nắm quyền.
                  Ly táo phạm vào đông tây hỗn loạn, bất tương sinh, Hỏa nóng thời Thổ khô, phụ nữ điêu ác, kinh nguyệt không đều, trẻ con khó nuôi.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn chủ đại cát.
                  Đoài táo tương sinh với Môn và Chủ, chính phối đại lợi.
                  Càn táo là Diên Niên, nhị thổ sinh nhất kim, thọ như Bành Tổ, đại cát.
                  6). Khôn môn Chấn chủ: Nhân lâm long vị mẫu sản vong:
                  Cách này gọi là Họa hại trạch, Mộc Thổ tương khắc, Mẹ con bất hòa, trước hại của sau hại người, bị bệnh hoàng thủng tỳ vị. Có của không con, có con không của, cả hai không được lưỡng toàn.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo là tuyệt mạng, trong bụng tích khối, trung nam yểu vong.
                  Chấn táo tỵ hòa với Chủ tương khắc với Môn, không tốt.
                  Tốn táo với Mộc phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Ly táo, nữa cát nữa hung.
                  Khôn táo tỵ hòa với Chủ, tương khắc với Môn, không tốt.
                  Đoài táo, Kim mộc tương khắc, nam nữ đoản thọ.
                  Càn táo với Môn thời tốt với chủ xấu, nữa tốt nữa xấu.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, nam nữ bất lợi, khó nuôi con.
                  7). Khôn môn Tốn chủ: Nhân lý địa hộ, lão mẫu tử:
                  Cách này là Ngũ quỷ trạch, mộc thể tương khắc, lão mẫu yểu vong, phụ nữ bất lợi, thuần âm, ham nhân đoán mạng, bị chứng hoàng thủng, yếu tỳ vị, quan tai  khẩu thiệt, dâm loạn, cờ bạc, bại sản vong gia, lúc đầu sinh hai con, sau tuyệt tự, phải nuôi con nuôi.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo tương khắc với Môn, tương sinh với Chủ, nữa cát nữa hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, hay bị cảnh góa bụa, tuyệt tự, phụ nữ cầm quyền.
                  Chấn táo, mộc thổ tương khắc, phụ nữ bất lợi.
                  Tốn táo phạm Ngũ quỷ, hai Mộc khắc một thổ, nam nữ yểu thọ, đại hung.
                  Ly táo được gọi là Giai thần táo, tham sinh vong khắc, nữa cát nữa hung.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với chủ, hung.
                  Đoài táo là tam âm, Kim mộc tương khắc, nam nữ yểu vong.
                  Càn táo là Diên Niên, tương khắc với Chủ, phụ nữ đoản thọ.
                  8). Khôn môn Ly chủ: Nhân môn kiến họa đa quả mãn:
                  Cách này gọi là Lục sát tiết khí trạch, sinh mà không sinh, phụ nữ cầm quyền, nam nhân đoản thọ, trong nhà rối loạn, lâu thời tuyệt tự.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo tương khắc với Môn, không tốt.
                  Cấn tạo phát tài, phụ nữ điêu ác.
                  Chấn táo khắc Môn sinh chủ, nữa cát nữa hung.
                  Tốn táo phạm Ngũ quỷ, không tốt.
                  Ly táo, sơ niên phát tài, về sau ít người.
                  Khốn Táo tự hòa với Môn, nữa cát nữa hung.
                  Đoài Táo với Ly là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Càn táo tương khắc với Chủ, đàn ông đoản thọ và ở giá.
                  III. CẤN
                  1). Cấn môn cấn chủ: Trùng trùng điệp điệp thê tử thương
                  Cách này gọi là Phục vị trạch, hai thổ gặp nhau, nhiều ruộng đất, sơ niên phát tài thuận lợi, lâu thời khắc vợ hại con, người ít, vì thuần dương bất hóa.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo phạm Ngũ quỷ, mọi việc bất lợi, đại hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn và Chủ, có của mà hiểm người.
                  Chấn táo, Mộc thổ tương khắc, thuần dương, khắc vợ, tuyệt tự.
                  Tốn táo, ở góa, tuyệt tử, phụ nữ coi nhà, trẻ con bị hoàng thủng tỳ vị suy nhược.
                  Ly táo, sơ niên phát phúc, về sau đàn bà hung dữ, gây rối trong nhà.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn chủ, tốt.
                  Đoài táo là chính phối Diên Niên, thổ kim tương sinh, đại cát.
                  Càn táo là Thiên Ất, cha con hiền hòa, nhưng thuần dương thời khắc vợ, tiểu nhi bất lợi, sơ niên tuy phát, phú quý, nhưng về sau tuyệt tự, không tốt.
                  2). Cấn môn chấn chủ: Sơn Lôi tương kiến, tiểu nhi tử:
                  Cách này gọi là Lục Sát nhập trạch môn, cả 3 cung và sao tương khắc, nội ngoại giao chiến, giả gạo không yên, tán tài, tuyệt tự, bị bệnh hoàng thủng, tỳ vị, sơ niên cùng khổ, có con, nhưng sau khắc vợ, bại tuyệt.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo tương khắc với môn, tán tài bất lợi.
                  Tốn táo Mộc khắc Thổ, góa bụa, tuyệt tự, bị phong tật, hoàng thủng, yếu tỳ vị.
                  Ly táo, đối với Môn là tiết khí đối với Chủ được sinh khí, cát hung lẫn lộn.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, không tốt.
                  Đoài táo phát tài, khắc con trai, đàn bà góa cai quan nhà.
                  Càn táo với chủ phạm Ngũ quỷ, hung.
                  Khảm táo với Môn phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, không tốt.
                  3). Cấn môn Tốn chủ: Sơn lâm địa bộ quá mãn tuyệt.
                  Cách này gọi là Tuyệt mạng Trạch, thổ bị Mộc khắc, khó nuôi con trẻ, bệnh tỳ vị, hoàng thủng, phong tật, mẹ góa, con nuôi, nô bộc trốn tránh.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo thổ mộc tương khắc, khó nuôi con trẻ, tuyệt tự.
                  Tốn táo, mẹ góa con côi, phải nuôi con nuôi.
                  Ly táo phụ nữ chuyên quyền, kinh nguyệt không đều, về sau hay bị bệnh băng huyết.
                  Khôn táo tương khắc với Môn, chủ bất lợi cho con trai, đàn bà..
                  Đoài táo, kim khắc mộc, phụ nữ yểu vong
                  Càn táo, Mộc bị Kim thương, sản vong truỵ thai, gân cốt, đau nhức.
                  Khảm táo, với Môn là Ngũ quỷ, hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, không tốt.
                  4). Cấn môn ly chủ: Quý lâm địa hộ phụ nữ cương.
                  Cách này là Họa hại trạch, Hỏa mạnh, Thổ khó, âm thịnh dương suy, đàn ông nhu nhược, vợ dữ làm loạn, gia đạo bất hòa, hoặc vợ lẽ đố kỵ, lâu năm tuyệt tự, kinh nguyệt bất đều, băng huyết.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Cần táo tỵ hòa với Môn, sơ niên phát tài, khá tốt.
                  Chấn táo, thổ mộc tương khắc, tuyệt tự không tốt.
                  Tốn táo, mộc khắc cấn thổ, ở góa tuyệt tự.
                  Ly táo, vợ đoạt quyền chồng và cai quản gia đình.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn phát tài.
                  Đoài táo, tương khắc với chủ, tuyệt tự, bất lợi, đàn bà chết vì bạo bệnh.
                  Càn táo, ly hỏa khắc càn kim, ông già đoản thọ.
                  Khảm táo phạm Ngũ quỷ đại hung.
                  5). Cấn môn khôn chủ: Sơn địa điền sản đa tiến ích
                  Cách này gọi là sinh khí trạch, hai thổ ở chung, chung ruộng làm giàu, gia đạo hanh thông, công danh hiển đạt, con thảo cháu hiền, vợ chồng trường thọ, phú quý vinh xương. Lâu năm thời cung và sao tương khắc, sinh nở khó khăn, bệnh tỳ vị, nhưng nếu vượng Đinh thời vô hại, trạch này thứ cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo khắc môn khắc chủ, nam nữ yểu vong, nuôi con khó khăn, kiện tụng khẩu thiệt, gia đạo bất hòa, vì táo khắc ngoài khắc trong.
                  Tốn táo, mộc thổ tương khắc, tuyệt tự không tốt.
                  Ly táo tuy sinh môn, sinh chủ, nhưng bị tiết khí, đàn bà hung dữ, không tốt.
                  Khôn táo tỵ hòa với Môn, Chủ tốt.
                  Cấn táo, tỵ hòa với Môn chủ tốt.
                  Đoài táo tương sinh với Môn, Chủ, đại lợi.
                  Càn táo là Thiên Ất, đại cát.
                  Khảm táo đại hung.
                  6). Cấn môn Đoài chủ: Sơn trạch, nhân vượng ra phú quý
                  Cách này là Diên Niên đắc vị, kim tinh đăng điện. Thổ Kim tương sinh, phu phụ chính phối, niên thiếu đăng khoa, ngoài sinh trọng, phát hoạnh tài, gia súc hưng vượng, ruộng đất nhiều, vợ chồng hài hòa, con thảo cháu hiền, đàn bà đảm đang tuổi thọ cao. Sinh được 4 con, ngành út rất thịnh vượng, cung và sao tỵ hòa, đối với Tây tứ trạch là tốt hạng nhất. Cam La ngày xưa, 12 tuổi làm Tể tướng, sinh trưởng ở nhà như vậy, nếu nhà có 4, 5 lớp thuộc động trạch, cần lớp 4 và 5 cao lớn, phối với Càn táo, đại cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ hung.
                  Tốn táo, phụ nữ đoản thọ, tuyệt tự, không tốt.
                  Ly táo tương khắc với Chủ, phụ nữ hung dữ.
                  Khôn táo sinh 3 đến 5 con trọn hưởng phúc lộc thọ, mọi việc đều tốt.
                  Đoài táo thổ kim tương sinh, vợ hiền nội trợ, sinh con gái thông minh, vì Đoài Kim đắc vị.
                  Càn táo là Thiên Ất sinh khí được gọi là Tam cát táo, tương sinh với Môn, tỵ hòa với Chủ, phát phú quý, tuổi thọ cao, đại cát.
                  Khảm táo, đối với Môn là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, đại cát.
                  7). Cấn môn càn chủ: Sơn khởi Thiên trung tứ quý hiền.
                  Cách này gọi là Thiên Ất trạch. Ngoại thổ sinh nội Kim, toàn gia lương thiện, sinh 3 con, phát phú quý, đàn ông sống lâu, tuy nhiên lâu ngày thời thuần dương bất hóa, khắc vợ hại con, cô quả, nuôi con nuôi, thứ cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo, Kim khắc Mộc, phạm Ngũ quỷ, Lục sát, đại hung.
                  Tốn táo, Mộc Thổ Kim cả 3 đều khắc nam nữ yểu thọ, không tốt.
                  Ly táo, Hỏa khắc Càn Kim, góa bụa, tán tài, tuyệt tự đau mắt, ung nhọt.
                  Khôn táo tỵ hòa với môn, tương sinh với chủ, đại lợi.
                  Đoài táo được Thổ Kim tương sinh, tốt.
                  Càn táo tỵ hòa với Chủ, tương sinh với Môn, nhưng thuần dương vô âm, tam dương đồng cụ khắc thê, hiếm con. Khảm táo, với Môn phạm Ngũ quỷ, tiểu nhi yểu mạng.
                  Cấn táo tương sinh với Môn và Chủ, thứ cát.
                  8). Cấn Môn khảm táo: Quý ngộ uông dương lạc thủy thương
                  Cách này là Ngũ quỷ trạch, đầu hà hoặc tự ải, quan tụng khẩu thiệt, trộm giặc hỏa tai, vong gia bại sản, cha con anh em bất hòa, khắc vợ hại con, ngỗ nghịch bất hiếu, trong bụng tích khối đau đớn.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Chấn táo tương khắc với Môn, bất lợi.
                  Tốn táo hay mắc bệnh hoàng thủng, góa bụa không tốt
                  Ly táo, ác phụ làm loạn nhà.
                  Khôn táo thời trung nam đoản thọ.
                  Đoài táo bình yên vô sự.
                  Càn táo khắc vợ hại con, tán tài, cờ bạc, dâm đãng.
                  Khảm táo tương khắc với Môn, họa từ trên trời giáng xuống, ngoài khắc trong, đại hung.
                  Cấn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, hung.
                  IV. ĐOÀI
                  1). Đoài môn Đoài chủ: Trạch trong thiếu phụ chướng binh quyền:
                  Cách này gọi là Phục vị trạch. Hai kim tỵ hòa, sơ niên phát tài, về sau thuần âm, đàn ông đoản thọ, hiếm người, mẹ góa con côi thứ cát.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo là sinh khí, tốt.
                  Khảm táo bị tiết khí, tán tài, khắc vợ.
                  Cấn táo, phu phụ chính phối, thổ kim tương sinh, đại cát.
                  Tốn táo, âm khắc âm, phụ nữ làm loạn, yểu vong, tuyệt tự.
                  Ly táo Hỏa khắc Đoài Kim, ma quái vào nhà, đại hung.
                  Khôn táo thuần âm, 3 gái ở chung, âm thịnh dương suy, nam nữ đoản thọ, tuyệt tự không tốt.
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn, có của không con.
                  2). Đoài môn càn chủ: Trạch thiên quả mẫu chương tài nguyên
                  Cách này gọi là sinh khí trạch, hai kim tỵ hòa, ruộng đất nhiều, người hưng vượng, phụ nữ đoản thọ, trùng thú, thê thiếp sau này hay góa bụa.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo là tỵ hòa tốt.
                  Khảm táo bị tiết khí tán tài, nam nữ yểu vong.
                  Càn táo tương sinh với Môn và Chủ, đại lợi.
                  Chấn táo phạm vào ngũ quỷ, kim khắc mộc, yểu vong, góa bụa, hung.
                  Tốn táo, Kim mộc hình chiếu, phụ nữ đoản thọ, bất lợi cho vợ lớn, con trai lớn.
                  Ly táo khắc môn, khắc chủ, đại hung
                  Khôn táo đối với Môn, Chủ là Thiên Ất, Diên Niên, đại lợi.
                  Đoài táo, kỵ hòa với Môn, Chủ, tốt.
                  3). Đoài Môn khảm chủ: Bạch Hổ đẩu giang lục súc thương
                  Cách này gọi là Họa hại tiết khí trạch, sản nghiệp tiêu tan, thiếu phụ chết trẻ, cờ bạc, dâm đãng, ở lâu thời bại hoại tuyệt tự.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo tán tài, hại người, không tốt.
                  Khảm táo phụ nữ đoản thọ.
                  Cấn táo, tiểu nhi yểu vong, tuyệt tự, bất lợi.
                  Chấn táo tương khắc với Môn bất lợi.
                  Tốn táo, Mộc bị kim khắc, phụ nữ bất lợi.
                  Ly táo với Môn phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo tương khắc với Chủ, trung nam yểu thọ, góa bụa, hiếm con.
                  Đoài táo, phụ nữ đoản mạng, bất lợi.
                  4). Đoàn môn Cấn chủ: Trạch sơn tăng phúc, tiểu phòng vinh:
                  Cách này gọi là Diên Niên trạch, được cung và sao tương sinh, trai tài gái sắc, trung hiếu hiền lương, gia đạo hòa thuận, phú quý vinh xương, thóc gạo đầy nhà, phát khoa bảng, ngành út rất phát đạt, trai gái đều thọ, trong vòng 4 hoặc 9 năm phát phúc, những năm Tỵ, Dậu, Sửu phát đạt, trong tứ trạch, trạch này tốt nhất.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo, sinh khí Thiên Ất đại cát.
                  Khảm táo tiết khí của Môn, lại phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo là Thiên Ất, sinh khí, đại cát.
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ tốt.
                  Cấn táo thổ Kim tương sinh với tỵ hòa tốt.
                  Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, hung.
                  Ly táo, với Môn, phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  5). Đoài môn chấn chủ: Hổ nhập long oa lao trùng khuông:
                  Cách này gọi là Tuyệt mạng trạch, mộc vị kim khắc, góa bụa tuyệt tự, trưởng nam trưởng nữ yểu vong, lòng dạ đau đớn, nhức đùi nhức vế, hại chồng khắc con, gia đạo bất hòa, điền sản tiêu tan.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo tỵ hòa với Môn, với chủ phạm vào Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khảm táo chủ thường nam tổn tử, khắc vợ, hung.
                  Cấn táo, Mộc thổ kim tương khắc lẫn nhau, bất lợi.
                  Chấn táo tương khắc với Đoài, hung.
                  Tốn táo, Kim khắc mộc, đàn bà yểu vong, hung.
                  Ly táo với Môn, phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, bất lợi.
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với chủ, hung.
                  6). Đoài môn tốn chủ: Hổ phùng hạn địa diệc âm dương
                  Cách này được gọi là Lục sát trạch, Mộc bị Kim khắc, như nữ đồng cư, âm thịnh dương suy, khắc chồng hại con, nhân tài bại tuyệt, hay sinh bệnh đau nhức.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo Mộc kim tương khắc, phụ nữ đoản thọ, hung.
                  Khảm táo tiết khí của Môn, bất lợi.
                  Cấn táo tương khắc với Chủ, tiểu nhi bất lợi, góa bụa, hiếm con.
                  Chấn táo tương khắc với Môn, nam nữ yểu vong, không tốt.
                  Tốn táo là Tam âm đồng cư, tương khắc bất hòa, không vượng Đinh, sơ niên hoặc có phát tài, phải lấy 3 đời vợ mà không con, hung.
                  Ly táo phạm Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo, với Môn phạm Ngũ quỷ, hung.
                  Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, bất lợi.
                  7). Đoài Môn Ly chủ: Hổ nhập viêm chung thiếu nữ vong
                  Cách này gọi là Ngũ quỷ Trạch, âm hỏa khắc âm kim, phụ nữ làm loạn, vợ đoạt quyền chồng, nam nhân đoản thọ, phụ nữ yểu vong, hiếm người, hung tứ, bạn sản tuyệt tự, bệnh ho suyễn, phế lao, nhiều tật bệnh tai ương ma quỷ quấy phá, đại hung.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Khảm táo tiết khí của Đoài kim, nam nữ yểu thọ, không tốt.
                  Cấn táo được bình yên, nữa cát nữa hung.
                  Chấn táo kim khắc Mộc, không tốt.
                  Tốn táo, Kim Mộc hình thương, bất lợi.
                  Ly táo, với Môn là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo, nữa cát nữa hung.
                  Đoài táo, với Chủ là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Càn táo, hỏa kim tương khắc, nam nữ đoản thọ, hung.
                  8). Đoài Môn khôn chủ: Trạch địa tài long, di tích cự.
                  Cách này gọi là Thiên Ất trạch, Thiên Ất là phúc thần gia đạo hưng long, trong nhà gồm những người hiền lương, trong tín ngưỡng, ưa niệm kinh, âm vượng dương suy, gai nhiều, trai ít, mẹ và con gái hiền lành, yêu gái và rễ, có khi tuyệt tự phải nuôi con nuôi, tiền cát hậu hung.
                  Môn chủ phối bát táo:
                  Càn táo là sinh khí, Diên Niên đại cát.
                  Khảm táo, nam nữ đoản thọ, hung.
                  Cấn táo tương sinh với Môn, tụ hòa với Chủ, mọi sự thuận lợi.
                  Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, hung.
                  Tốn táo, cả 3 Kim, Mộc, Thổ khắc lẫn nhau, đại hung.
                  Ly táo, với Môn là Ngũ quỷ, đại hung.
                  Khôn táo tuy tốt nhưng vì thuần âm, có của mà không còn, về sau tuyệt tự.
                  Đoài táo, tỵ hòa với Môn, nhưng thuần âm, thương phu khắc tử.
                  Phần trên đây thuộc về Tây tứ trạch gồm 32 môn, đều theo Môn mà khởi Du niên, cần xem Chủ phòng cát hay hung. Môn, Chủ, Táo cả ba cần được tương sinh mới gọi là toàn cát, nếu cả ba tương khắc là đại hung, và xem hung cát của táo ra sao, Càn, Khôn, Cấn, Đoài là Tây tứ trạch, nếu Môn, Chủ, Táo đều thuộc Tây tứ trạch, như vậy được gọi là “Tam cát trạch, phát phúc lâu dài”.
                  Phép xem Đông trạch, Môn khác với hướng Nhà
                  Đông trạch đặt môn tại bốn góc Càn khôn Cấn Đoài gọi là tứ hung, thời dùng xảo phiêu bát quái. Từ Chủ phòng qua tọa sơn khởi Du Niên, đến hướng nào và gặp sao nào tức là sao đó. Từ cửa mà tiến các sao theo ngũ hành tương sinh.
                  Trường hợp Môn đặt thiên sang một bên, thời phải từ vị, trí của Môn mà khởi Du Niên, tính thuần cho đến chính hướng của Chủ, rồi từ đó tiếp tục phiên tinh, bất luận có phòng hay không, cứ gặp tường hay vách kê là một sao. Ví dụ: Đông trạch, Đoài chủ, Cấn môn. Như vậy, bắt đầu từ cung Cấn khởi Du niên, đến cung Chấn là chính hướng gặp Lục sát, vậy lớp ngoài cùng coi như gặp Lục sát là thủy tinh, lớp thứ nhì, thủy sinh Mộc, tức sinh khí cứ lần lượt theo phép tương sinh mà an sơ. Đó là cách phiên tinh khi cửa đặt thiên sang một bên.
                  Cách khởi Du Niên của Tây tứ trạch càn khôn cấn đoài
                   


                  [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/13966BB562C341E585CB8F3008C8FFAA.jpg[/image]
                  Attached Image(s)
                  #9
                    vanti67 11.04.2008 11:49:47 (permalink)
                    31


                    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/2A0288C42D0045D4B3B14E1314CDF35B.jpg[/image]
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2008 11:51:17 bởi vanti67 >
                    Attached Image(s)
                    #10
                      vanti67 11.04.2008 11:53:16 (permalink)
                      31.

                      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/37495E94BDBC4F10B2050FE0F88D0AE4.jpg[/image]
                      Attached Image(s)
                      #11
                        vanti67 11.04.2008 11:55:58 (permalink)
                        32

                        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/E82234A9437E41A5BC6C3B543EE1A97D.jpg[/image]
                        Attached Image(s)
                        #12
                          vanti67 11.04.2008 12:00:46 (permalink)
                          32.

                          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/C56C155592B443D29DD91E9A77D0FA3E.jpg[/image]
                          Attached Image(s)
                          #13
                            vanti67 11.04.2008 12:02:59 (permalink)
                            33

                            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/933959CB7BD24E9FB797DE9366AE1722.jpg[/image]
                            Attached Image(s)
                            #14
                              vanti67 11.04.2008 12:16:41 (permalink)
                              34
                               
                              Kiểu mẫu số 1: Dậu sơn, Mão hướng, Cấn môn, Đoài chú, Càn táo là Diên Niên trạch
                              Trạch này cung và sao tương sinh, ngoài sinh trong phát phúc rất may, gọi là “kim tinh đăng diện”, sinh được 4 con, trước phát ngành út, sau phát các ngành khác, đàn bà đảm đang, phối với càn táo, công danh hiển đạt, con cháu đầy nhà, phúc thọ song toàn, những năm Tỵ Dậu Sửu đại cát, đây thuộc loại Tây tứ trạch tĩnh trạch tốt hạng nhất vậy.
                              Kiểu mẫu số 2: Mão sơn, Dậu hướng, càn môn, khôn chủ, cấn táo, Thiên Ất trạch
                              1. Đại môn
                              2. Tây chủ cao lớn
                              3. Đông bếp.
                              Trạch này nhà tọa ở phương đông, môn mở cửa hướng tây, phòng ở phía Tây cao lớn, còn 3 nơi khác là đông, nam, bắc thấp nhỏ. Lấy Tây phòng làm khôn chủ, càn môn, cấn táo, tam cát trạch, đại lợi.
                              Kiểu mẫu số 3: Mão sơn, Dậu hướng, Càn môn, Cấn chủ, Khôn táo, Thiên Ất trạch
                              Nhà này, đường đi theo hướng Nam Bắc, tọa đông hướng tây, phía đông, địa thế cao, phía bắc, phòng cao lớn, là Càn môn, Cấn chủ, Khôn táo, tam cát trạch, đặt la bàn ở giữa viện phân bố bát quái.
                              Trên đây đã trình bày 6 biểu đồ, đều thuộc về Tây tứ trạch Diên Niên, sinh khí Thiên Ất, tam cát trạch. Nếu lại hợp với mạng cung của Trạch chủ thời càng tăng thêm sự tốt đẹp. Nếu không hợp cũng vô hại, vì tam cát trạch thuộc Đông tứ mạng hoặc Tây tứ mạng, người trạch chủ vẫn được cát lợi, chẳng qua hợp thời phát lớn, không hợp thì phát nhỏ.
                              Luận về trích lê phòng
                              Trước thềm đại phòng, nơi nước chảy xuống, nếu cất thêm một phòng nhỏ hoặc cửa nhỏ, gọi là Trích lộ phòng, có câu lý đoán như sau: Đại phòng trích tiểu phòng, nhi tôn khốc đoạn trường. Chủ về việc tiểu nhi yểu mạng, bệnh hoạn khó nuôi, nếu phòng này lại phạm vào Ngũ quỷ, ắt tổn thương đện tiểu nhi, hiếm người, nhà kiểu này rất kỵ.
                              Sau đây là một kiểu mẫu tốt về biến trạch, nhà gồm 7 lớp, Cấn chủ, Khôn môn, Càn táo, lớp thứ 6 cao lớn, đây là nhà thuộc biến trạch, có 7 lớp, phải dùng xảo phiên bát quái, song mộc song thổ.
                              Trạch này Cấn chủ, Khôn môn, Càn táo, lớp thứ 6 gặp Diên niên, đến cung Cấn, cung và sao tương sinh, Diên Niên đắc vị, trạch chủ đại phát, phú quý, đông người, nam nữ sống lâu, các nhà thuộc biến trạch nên phỏng theo mà xây cất.
                              1. Lớp này là đại môn, sinh khí Mộc tinh.
                              2. Lớp thứ hai gặp Tả phụ, Mộc tinh.
                              3. Lớp thứ ba gặp Liêm trinh hỏa
                              4. Lớp 4, họa hại, Thổ tinh.
                              5. Lớp 5, Thiên Ất thổ tinh.
                              6. Lớp 6, Diên Niên, Kim tinh, cần cao hơn các lớp khác.
                              7. Lớp 7, Văn khúc, Thủy tinh môn thấp.
                              (Nhà kiểu A)
                               


                              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/38461807803D466DB98E2E3F963A503C.jpg[/image]
                              Attached Image(s)
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 33 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9