TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN)

Tác giả Bài
vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 21.04.2008 09:28:13
TĂNG SAN BỐC DỊCH
 
LỜI TỰA
Dã Hạc nói: Đạo bốc dịch là tâm pháp của bốn đại Thánh nhân : Phục Hy,Văn Vương, Chu Công và Khổng tử. Tinh thông có thể xét trời lường đất, biết rõ lý có thể tìm cát tránh hung. Phàm học bói cũng có người thâm sâu, cũng có người nông cạn. Chỉ cần biết trạng quái, động hào, lục xung biến lục xung, cùng xem trong chương Dụng thần để biết xem người nào, xem chuyện gì dùng hào nào làm Dụng thần, lại xem thế nào là Tuần không, Nguyệt phá cùng suy vượng của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, sinh khắc xung hình tức quyết đoán được họa phúc.
Giả như xem công danh được vượng quan trì thế, hoặc Nhật Nguyệt, động hào làm quan tinh sinh hợp thế hào, cầu danh như vậy là tốt. Nếu gặp tử tôn trì thế hoặc tử tôn động trong quẻ, không kể xem vào trường học hoặc lên chức, đều giống như mò trăng đáy nước.
Xem cầu tài được tài tinh trì thế, hoặc Nhật Nguyệt động hào làm tử tôn sinh hợp thế hào, quan quỷ trì thế, tài động sinh thế, hoặc phụ mẫu trì thế, tài động khắc thế thì cầu tài dễ mà nhiều. Nếu huynh đệ trì thế cùng hào huynh động trong quẻ, hoặc thế lâm Tuần không, Nguyệt phá thì chẳng khác gì trèo cây bắt cá.
Như xem chuyện đoán nhậm trong năm, tháng nên quan tinh trì thế, tài động sinh thế thì cát khánh. Nếu gặp quan quỷ xung khắc thế hào hoặc thế không, thế phá, thế động hóa hồi đầu khắc cùng tử tôn trì thế đều là điềm hung.
Sỹ dân xem chuyện trong năm mừng nhất là được tài hào cùng tử tôn trì thế, chắc được một năm hanh thông. Nếu gặp quan quỷ trì thế được Nhật Nguyệt động hào làm tài tinh sinh hợp thế hào, chủ cát lợi. Nếu không có tài động sinh hợp thế hào mà quan quỷ trì thế thì tất có tai phi. Nếu thế phá, thế không cùng quan quỷ động khắc thế thì hung tai. Huynh động khắc thế khẩu thiệt phi tài.
Ở trên là quan cùng sĩ dân xem chuyện trong năm, gặp tháng hợp thế thì cát, tháng xung thế là hung. Lại không nên tài động hóa phụ, phụ động hóa tài, quỷ hóa phụ mẫu thì sẽ có tai họa cho bậc tôn trưởng thượng. Huynh đệ biến quỷ, quỷ biến huynh phòng nguy cho anh em. Tài hóa quỷ, quỷ hóa tài, tài hóa huynh, huynh hóa tài thì thương khắc thê thiếp tài bộc. Tử hóa quỷ, quỷ hóa tử, tử hóa phụ, phụ hóa tử, thì con nít trong nhà có tai hoạ.Thanh long Thiên hỷ trì thế, sinh thế thì có tin mừng. Hổ quỷ phát động chủ hiếu phục. Đằng xà, Chu tước lâm huynh, quỷ động khắc thế nên phòng khẩu thiệt. Huyền vũ lâm huynh, quỷ động khắc thế phòng đạo tặc cùng người âm.
Như xem đi trốn, cùng kiện tụng phòng giặc cướp, người thù hại, cùng sang sông, vượt bể, vào nơi đất hiểm, một mình ở lữ điếm, ở vùng đất cô quạnh, vào trú ở chùa miếu, đi mua bán, mua vật trộm cắp hoặc thấy lửa cháy ở hàng xóm, hoặc nghe ôn dịch lan tràn, hoặc phòng hổ sói, phòng trộm cướp hoặc đi đêm sáng về, đi nơi quan ải, vào nơi thị phi tâm lo hoạn loạn, hoặc xía vào việc đâu đâu, lo tai phi, phòng bệnh xâm nhiễm, hoặc uống lầm thuốc độc, hoặc bị trọng tội chờ ân xá, hoặc bị hiểm bệnh mà phòng nguy, hoặc hỏi bệnh này uống thuốc kia được không, hoặc hỏi người nọ bọn kia có hại ta không. Phàm hỏi những chuyện lo âu, nếu được tử tôn trì thế hoặc tử động trong quẻ hoặc thế động biến tử hoặc thế động hóa hồi đầu sinh, hoặc quan quỷ động sinh thì thân mình có cưỡi hổ cũng chắc như núi Thái sơn.
Duy chỉ kỵ quan quỷ trì thế ưu nghi khó giải. Quỷ khắc thế tai hoạ tất xâm, thế động hóa quỷ cùng hóa hồi đầu khắc hoạ đến thân mình tránh không kịp. Duy chỉ thế không thì không lo, thế hào mà bị thì bất lợi. Xem bệnh, nếu tự xem được thế vượng hoặc động thế hào sinh hợp thế hào hoặc tử tôn trì thế, hoặc trong quẻ tử tôn động thì không biết cận bệnh hay cửu bệnh cầu Thần hoặc uống thuốc đều an khang. Cận bệnh mà thế gặp không hoặc thế động hóa không hoặc gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, không cần uống thuốc cũng lành.
Cửu bệnh mà quan quỷ trì thế hưu tù, hoặc gặp Nhật Nguyệt, động hào khắc thế, tử gặp Tuần không Nguyệt phá, thế động hóa không hóa phá hoặc quẻ gặp lục xung, quẻ biến lục xung hoặc động hóa quỷ, hoặc hóa hồi đầu khắc nên cứu trợ gấp chậm sẽ biến thành nan y.
Xem bệnh cho cha mẹ dùng hào phụ mẫu làm Dụng thần, nếu được hào phụ mẫu vượng tướng hoặc Nhật Nguyệt, động hào sinh phụ mẫu, hoặc phụ động hóa vượng chẳng cần biết cận bệnh hoặc cửu bệnh chẳng cần uống thuốc cũng yên ổn. Cận bệnh mà phụ trì Tuần không, phụ động hóa không hoặc gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung không uống mà lành. Cửu bệnh nếu phụ bị Tuần không Nguyệt phá hoặc phụ động hóa không khắc thì chết, gấp gấp cầu thầy chớ lìa nhà.
Xem bệnh cho anh em nếu được hào huynh vượng tướng hoặc lâm Nhật Nguyệt hoặc Nhật Nguyệt động hào tương sinh hoặc huynh động hóa vượng hóa sinh, không kể cửu bệnh hay cận bệnh đều lành. Cận bệnh mà hào huynh lâm Tuần không, phụ động hóa không cùng huynh động hóa không, quẻ gặp lục xung, quẻ hóa lục xung uống thuốc tất lành. Cửu bệnh mà hào huynh gặp Tuần không Nguyệt phá cùng động hóa không, hóa phá, quẻ gặp lục xung biến lục xung, huynh động hóa quỷ, quỷ hóa huynh hoặc huynh hào hưu tù, bị Nhật Nguyệt động hào xung khắc gấp gấp uống thuốc cầu Thần giúp, tất khó chữa.
Xem bệnh cho tử tôn, nếu hào tử tôn vượng tướng hoặc lâm Nhật Nguyệt hoặc Nhật Nguyệt động hào sinh hợp, hoặc tử động hóa hồi đầu sinh, hóa vượng không kể cận bệnh hay cửu bệnh uống thuốc, cầu Thần tất lành, cận bệnh mà tử tôn gặp tuần không động hóa không hoặc quẻ gặp lục xung biến lục xung không uống thuốc cũng lành. Cửu bệnh mà tử tôn gặp không, Nguyệt phá cùng động hóa xung khắc thì tối kỵ, uống thuốc chậm khó lành.
Xem bệnh cho thê thiếp lấy tài hào làm Dụng thần, tài hào vượng tướng hoặc lâm Nhật Nguyệt hoặc được động hào sinh phò hoặc tài hóa tử, tài hóa đế vượng không cần biết cửu hay cận bệnh trị tất lành. Cận bệnh mà tài gặp không, động hóa không, quẻ lục xung, quẻ biến lục xung cần gì uống thuốc bệnh cũng lành. Cửu bệnh mà tài gặp không, Nguyệt phá cùng động hóa không, hóa phá, gặp quẻ lục xung biến lục xung hoặc tài động hóa quỷ, quỷ hóa tài, huynh động hóa tài, tài động hóa huynh thì dù có thánh y cũng bó tay.
Phàm xem cho Lục thân cùng bậc quan trên, thầy dạy, cho tỳ bộc bệnh của chủ nhân thì xem trong Dụng thần để chọn Dụng thần. Xem cho bạn bè, người ngoài thì dùng ứng hào làm Dụng thần Dã Hạc nói : Khách có người hỏi ta : Cứ như ông nói thì việc chiêm bốc quá dễ, như xem được quan vượng trì thế thì thành danh, tử tôn trì thế thì thất vọng, xem cận bệnh mà gặp xung, gặp không chẳng uống thuốc cũng lành, cửu bệnh gặp không dù linh dược cũng chẳng cứu được, như thế thì quá hiển nhiên chẳng thấy khó. Nếu xem tật bệnh không gặp lục xung, Dụng thần gặp Tuần không, vượng chẳng vượng, suy chẳng suy, hung chẳng hung, cát chẳng cát. Lại xem như công danh, quan và tử chẳng trì thế, lục hào loạn động tài phụ đều động hưng thì làm sao mà quyết được.
Ta đáp : Ta từ lúc bói, mỗi ngày bốc vài quẻ, vị tất đã hiển nhiên dễ thấy, quái hung thì trong có chứa cát, cát thì chứa hung, có quẻ phải hiểu rõ lý áo bí, mong cầu tâm được ngộ, muốn biếát để tránh hung, tất nhiên không loạn chiêm, tâm chẳng tạp niệm, mỗi khi gặp một việc tức khắc bói, Thần chẳng khinh nên xem danh mà danh thành tức được quan tinh trì thế, không thành tức tử tôn động. Nếu quẻ tất chẳng thấy được đích xác nên thành tâm tái chiêm, nếu gặp không rõ ràng thì tái chiêm nữa. Nếu gấp coi hai ba việc tất chẳng linh.
 








 
 
 
 
 
 

Bát quái đồ : Càn là cha, Chấn là trưởng nam, Khảm là trung nam, Cấn là thiếu nam đều Thuộc dương Khôn là mẹ, Tốn là trưởng nữ, Ly là trung nữ, Đoài là thiếu nữ đều Thuộc âm.
* Bát quái gia đồ :
(Trình bày tám quẻ bằng vạch âm dương)
* Chiêm quái pháp : (phép xem bói)
(dùng ba đồng tiền, mặt sấp và ngữa định vạch âm dương)
Tên 64 quẻ chia tám quẻ mỗi cung ghi rõ thế ứng, phục Thần. Dã Hạc nói : Xưa ta có bạn lúc còn bé, ta đem bản 64 quẻ này giao cho, bạn bảo : Không biết Ngũ hành làm sao đoán quẻ. Ta đáp : Trước học quẻ sau dỡ đồ hình tìm ra quẻ, bài thế ứng Ngũ hành, Lục Thân, không dùng quái thư chẳng rõ Ngũ hành cũng có thể đoán được đại sự. Chẳng kể trong quẻ có động hay không, tức chỉ nhìn thế hào trong bản 64 quẻ này. Xem phòng lo âu nếu Tử tôn trì thế thì khỏi lo, quan quỷ trì thế thì lo khó giải nên phòng. Xem công danh được quan trì thế thì thành danh, tử tôn trì thế phải chờ thời. Xem cầu tài được thế tài trì thế tất được, phụ mẫu trì thế khó cầu. Xem tật bệnh gặp quẻ lục xung cận bệnh không cần uống thuốc cũng lành, cửu bệnh thuốc linh cũng khó trị. Lại hỏi : Sao gọi là tử tôn trì thế ? Ta đáp : Tử tôn trì thế là thế và tử tôn cùng ở một hào, nếu có quan quỷ và thế ở cùng một hào là quan quỷ trì thế, ngoài ra huynh đệ, phụ mẫu và thê tài cũng tương tự như vậy.
Muốn biết Lục xung quái là gì ? Thì đó là các quẻ : 1. Càn vi thiên, 2. Khảm vi Thuỷ, 3. Chấn vi lôi, 4. Tốn vi phong, 5. Khôn vi địa, 6. Đoài vi trạch, 7. Ly vi hỏa,  8. Cấn vi sơn. Đó là tám quẻ đầu của tám cung, lại thêm Thiên Lôi Vô Vọng, Lôi Thiên Đại Tráng tất cả 10 quẻ ngoài ra thì chẳng phải.
Lại hỏi : Cầu quan nếu được quan quỷ trì thế, cầu tất thành. Cầu tài  được thế tài trì thế tài tất thành được. Nếu quan hào và thế hào lâm Tuần không, Nguyệt phá, lại trong quẻ tử tôn phát động khắc quan, huynh đệ phát động khắc tài. Tuy quan tài trì thế cũng chẳng ích gì ?
Ta đáp : Đã biết lý Ngũ hành Thần đã biết trước, sẽ được quẻ chẳng hung trung tàng cát thì cát trung tàng hung đó là Thần thánh dẫn vào kỳ ảo tự nhiên. Cần xem Tuần không, Nguyệt phá, suy khắc xung hình. Nay bạn ta chẳng biết rõ lý Ngũ hành Thần đã biết rõ, khi cầu danh khấn với Thần rằng : Công danh nếu thành cho tôi Quan quỷ trì thế, nếu vô vọng cho Tử tôn trì thế. Nếu xem phòng sự lo lắng thì khấn trước mắt nếu có hoạn nạn xin cho quẻ quan quỷ trì thế, nếu tránh được hoạ cho tử tôn trì thế thì quẻ cầu được hiển nhiên dễ thấy. Nếu có điều dấu kín thì Thần khinh người, sao gọi là Thần. Huống gì ta viết một phần giản dị để riêng dạy người không biết rõ lý Ngũ hành có thể bày quẻ tức theo sách mà lập để quyết việc đại sự.
Nếu biết rõ lý Ngũ hành, không thể lấy đó làm phép, thì phải xem quyển sau của sách này. Thế nào là không, là bất không, phá mà bất phá, mộ mà không mộ, tuyệt mà không tuyệt, sao gọi là thật phản ngâm và giả phản ngâm ? Sao là tấn mà không tấn, thối mà bất thối. Sao gọi hồi đầu khắc, hồi đầu sinh. Lúc nào xem Dụng thần khi nào không, sao là xem chuyện này ứng chuyện khác. Sao mà xem việc xa ứng việc gần, sao mà đúng phép mà quẻ chẳng nghiệm. Sao là Nguyên thần  có lực mà không sinh Dụng thần , sao mà Kỵ thần  vô lực mà hại Dụng thần. Nơi nào là kỳ diệu của các sách, nơi nào là khéo nghiệm tức xem mọi phép mới quyết đoán như Thần.
Hỏi rằng : Như xem phòng tai nạn nếu được tử tôn trì thế thì chẳng lo, quan quỷ trì thế thì gặp kinh khủng, nếu trong quẻ chẳng hiện vậy thì làm sao mà quyết. Ta đáp : Một quẻ không thấy, lại xem thêm một quẻ, nếu lại xem như bệnh tật thì ra sao ? Một người bị bệnh thì người nào trong nhà cũng có thể thay thế mà xem. Nếu là cận bệnh chỉ một quẻ lục xung hoặc biến lục xung hoặc Dụng thần Tuần không, động hóa không tất lành. Cửu bệnh gặp như vậy thì khó trị. Lại như phòng tai nạn lo lắng nếu được quẻ có tử tôn trì thế thì có sấm sấm sét bên cạnh cũng yên ổn chẳng khó gì.
Khách nói : Xem chỉ một không dám hai ba lần, sao dám xem liên tiếp ngày này qua ngày khác. Ta đáp : Nhân một lời của ông mà hiểu phép bốc quẻ, há không nghe “Tam nhân chiêm thính, nhị nhân chi ngôn nhất sự ký khả” xem ba nơi có hại gì.
Với một việc lại xem liên tiếp, ngày mai lại coi. Lại có quẻ liền mấy ngày cũng không thể tái chiêm, tức như xem công danh có Tử tôn trì thế, trong lòng ta không vui, tất muốn được quan quỷ trì thế, vì thế mà bói hai ba lần nhưng ta cũng thấy coi hai ba lần Thần không ứng. Như nhân có thiếu niên riêng về công danh xem quá 7 lần mà 6 lần có Tử tôn trì thế đó là Thần cũng không nãn : Như hỏi nhiều hỏi mãi lại chán ta sao ! Nhiều tức như cầu tài quẻ đã hiện rõ có tài, tâm ta đã biết, ta lại hỏi Thần không cho biết, lại có việc ta chưa biết mà bảo cho rõ như ngày nọ xem cầu tài, vượng tài trì thế thì ta biết rõ ngày tháng được tài. Hôm nay tái chiêm một quẻ có hiện ra ngày đó được tài không ? Nếu trong quẻ lại có Thân Kim huynh động mà không được thì đoán thế nào, kíp đến ngày Thìn được tiền, mà ngày Thân vì việc khác phá tài. Như ngày Thìn được tiền Thần đã cho ta biết. Cho nên biết coi hai ba lần Thần cũng chẳng trách vì việc hỏi quá nhiều.
Ta viết sách truyền lại bí pháp cho kẻ hậu hiền chẳng có phép nào khác phép này là gặp quẻ không thấy đích xác, tâm không rõ xem nhiều lần chẳng ngại, nếu trong quẻ hiện rõ không nên xem lại. Đến chuyện xem bệnh, trong cả nhà có thể xem thay. Đã có quẻ hiện rõ, gặp việc xem lại thì tâm loạn, không thể chất chứa nhiều việc ở tâm, tâm loạn tất chẳng có ý thành, dạy người thâm học bói thì chia ra mà xem, cùng những kỳ ảo trong sách đấy là kinh nghiệm hơn 40 năm, hết sức trung thực, không lìa lý lẽ của bậc tiên hiền truyền cho lúc ban đầu, thông suốt đầu đuôi nên truyền lại về sau, mong đoạt thiên công, biến đổi trời đất đo lường quỷ Thần chẳng khó vậy. Giác tử bảo : Phàm gặp việc gấp mà quẻ không rõ ràng, ngày khác có thể bói năm ba quẻ liền.
Chẳng thấy minh bạch lại xem nữa. Xưa người ta câu nệ dám xem lại, ta thấy dịch kinh có nói : “Tam nhân chiêm thích, nhị nhân chi phán, cổ nhân nhất sự quyết khả ư tam xứ”. Nay coi lại có hại gì, ta xưa đạt chút ảo diệu toàn nhờ xem đi xem lại, việc chậm trì trệ lại xem nữa, việc nhanh gấp cũng xem nữa chẳng kể sáng tối hay nữa đêm, chỉ niệm một việc đó không xem chuyện khác. Nếu ta mang nhiều hoài niệm mà chỉ có một việc thành thì quẻ không linh nghiệm. Giả sử như xem công danh hoặc được quan trì thế, hoặc tử tôn trì thế thì đắc nhất đã rõ không cần phải xem lại nữa không thể vì ghét tử tôn trì thế mà cầu lại để xem thì quá phi lý. Nếu xem về tài hoặc vợ thì tài trì thế hoặc huynh trì thế, được như thế thì thôi khỏi phải tái chiêm lại. Nếu một việc cùng chung hoạ phúc với mọi người thì chỉ cần một người xem một quẻ để quyết, như đi tàu Thuyền gặp sóng gió, phòng lửa cháy nhà ai cũng có thể xem, nếu có được quẻ tử tôn trì thế thì tất cả chẳng lo. Lại như xem bệnh, bệnh nhân tự xem nếu được quẻ lục xung hoặc mọi người trong nhà ai cũng có thể thay coi, nếu được quẻ lục xung thì cận bệnh hoặc cửu bệnh hung cát đã quyết rõ.
Xưa bạn ta nói : Người đời phàm gặp nguy nan khó biết tất cầu Thần, xem bói để biết hung cát trong tương lai, trừ bói ra không có cách gì khác. Ta học Chu dịch nhiều năm việc, bói lý cảm ứng như được Thần bảo cho, từ đó đọc sách học bói phép coi rất thông thuộc có thể truyền được từ quan đến dân, người buôn bán ai cũng có thể dùng, nên biết toàn người không biết lý sinh khắc Ngũ hành mà có thể dùng. Nếu hơi biết Ngũ hành, Thần tất ẩn hiện trong quẻ. Thế thì nên trước hết đọc Hỗn thiên Giáp Tý, Lục Thân ca chiêm xuất quái, trong quẻ có Lục Thân cùng Ngũ hành, lại học biến động trong quẻ tất có động hào, động tất biến, biết biến động rồi sau mới xem Dụng thần, Nguyên thần, Kỵ thần, biết vậy tức giống như quẻ Chu dịch ... lại xem chương Tứ thời vượng tướng, chương Ngũ hành xung khắc, chương tương xung tương hợp, Tuần không Nguyệt phá, Sinh Vượng Mộ Tuyệt rồi đọc ở cuốn sau gồm các loại môn chiêm việc gì thì đoán ra sao, lần lần từ cạn đến thâm sâu ảo diệu. Ta mất mấy mươi năm để học, nay thử bày một quẻ để dạy xem Dụng thần cùng lý Ngũ hành sinh khắc vượng tướng. Phàm hỏi việc trước tiên viết năm tháng ngày giờ rồi dở chương Lục Thân an Lục Thân sau mới đến xem quẻ như được quẻ Càn Vi Thiên.
Tuất Thổ, Thân Kim, Ngọ Hỏa, Thìn Thổ, Dần Mộc, Tý Thủy. Phụ, huynh, quan, phụ, tài, tử. Tự xem hung cát lấy thế làm Dụng thần, quẻ này thế làm Tuất Thổ tức lấy Tuất Thổ làm mình nên vượng tướng rất sợ hưu tù, nên gặp Ngọ Hỏa mà kỵ Dần Mộc khắc, lại không nên thế hào lạc không vong, không nên thế lâm Nguyệt phá. Hào thế Tuất Thổ này có bốn nơi sinh khắc xung hợp.
a) Nguyệt kiến có thể xung khắc sinh hiệp :
Quẻ này nếu xem tại tháng Dần Mão sẽ bị Dần Mão Mộc thương khắc, thế hào thụ thương, tự xem hung cát thì hưu tù bất lợi. Nếu xem ở tháng Thìn, Thìn xung Tuất Thổ tức Tuất là bị Nguyệt phá, thế hào gặp Nguyệt phá giống như thân mình bị phá, trăm việc chẳng làm được gì. Nếu xem ở tháng Tỵ Ngọ Hỏa là Quan quỷ có thể sinh Tuất Thổ là Hỏa vượng Thổ tướng, thế hào gặp vượng tướng chủ việc có thể làm. Nếu xem tại tháng Sửu Mùi là hai tháng vượng tướng của Thổ có thể trợ Tuất Thổ cũng là tốt. Nếu xem tại tháng Tuất, thế hào Tuất Thổ là Nguyệt kiến là đang lúc vượng tướng, tự xem hung cát thì chủ là hanh thông, nếu xem tại tháng Thân Dậu Hợi Tý, Tuất Thổ tiết khí thì thế hưu cựu vô lực. Như vậy Nguyệt kiến có thể sinh khắc xung hợp Dụng thần là hào thế Tuất Thổ. Cần phải biết Dụng thần là gì ? Tự xem hung cát thế nào là chủ, không gọi là thế mà gọi là Dụng thần . xem phụ mẫu thì hào phụ mẫu là Dụng thần.
b) Nhật thần có thể xung hợp sinh khắc.
Quẻ này thế hào là Tuất Thổ, nếu ngày Dần Mão xem quẻ thì Dần Mão Mộc có thể khắc Tuất Thổ, thế hào bị khắc là tượng bất lợi. Nếu ngày Thìn xem quẻ, Thìn xung Tuất vị chi là thế ám động, nếu xem vào ngày Tỵ Ngọ, Hỏa của Tỵ Ngọ tức quan quỷ có thể sinh Tuất Thổ, thế hào vượng, chủ sự việc tốt. Nếu xem vào ngày Sửu Mùi, Thổ gặp Thổ được phò giúp, tức là Tuất Thổ được phò trợ, nếu xem ở ngày Tuất tức là thế hào lâm Nhật kiến được lệnh, nếu xem ở ngày Thân Hợi Dậu Tý, Tuất Thổ không khắc không sinh. Như vậy Nhật kiến có thể xung khắc sinh hợp Dụng thần
c) Động hào có thể sinh khắc xung hợp
d) Thế hào động, động tất biến tức có thể hồi đầu sinh khắc. Thế hào động tất biến xuất Tỵ Ngọ Hỏa tức là hồi đầu sinh thế, biến thành Mão Mộc tức hồi đầu khắc thế, biến thành Thìn Thổ tức hồi đầu xung thế, biến thành Mão Mộc tức hồi đầu hợp thế. Đấy là Dụng thần có thể biến thành hào có khả năng sinh khắc xung hợp Dụng thần. Nếu bốn điều trên toàn sinh hợp Dụng thần thì xem việc gì cũng toàn cát và nếu có ba nơi tương sinh một nơi khắc cũng đoán tốt, nếu hai khắc hai sinh nên xem Dụng thần vượng tướng thì đoán tốt, nếu Kỵ thần khắc Dụng thần mà vượng thì đoán hung. Nếu có ba nơi khắc một nơi sinh, nếu hào sinh thế vượng tướng cũng là khắc xứ phùng sinh, trong hung có cứu giải, nếu hưu tù và bốn nơi đều khắc thì đoán đại hung.
Hỏi rằng thế hào là Tuất Thổ không biến thành Dần Mão Tỵ Ngọ thì sao ? Ta nói : Hào khắc sẽ biến hồi đầu sinh khắc, dựa đó làm phép. Hỏi rằng Mão Mộc có thể khắc Tuất Thổ lại có thể hợp với Tuất thì xem khắc hay hợp. Ta đáp : Trong chương Ngũ hành tương hợp chú rất rõ Hỏi rằng quẻ Càn vi thiên trong đó Ngọ là quan tinh, nếu ngày tháng Ngọ xem quẻ sao cũng lấy Tỵ Ngọ Hỏa làm quan tinh ? Ta đáp : Chẳng biết xem quẻ nào, nếu dùng hào Tỵ Ngọ này làm quan tinh nếu gặp ngày tháng Tỵ Ngọ Hỏa xem quẻ thì Tỵ Ngọ Hỏa này làm quan tinh, ngoài ra phỏng thế.
Vượng tướng hưu tù : Tra chương Tứ thời vượng tướng, không phá thì xem chương Tuần không Nguyệt phá, xung hiệp thì xem chương Ngũ hành xung hiệp, sinh khắc thì tra chương Ngũ hành sinh khắc. Nguyên thần thì tra chương Nguyên thần, Dụng thần thì xem chương Dụng thần, Aám động thì xem chương Aám động, hồi đầu sinh khắc thì xem chương động biến sinh khắc. Nhật thần Nguyệt kiến thì xem chương Nguyệt kiến Nhật thần.
Xem cha mẹ thì dùng hào phụ mẫu trong quẻ làm Dụng thần, quẻ này hai hào Thìn Tuất đều là phụ mẫu, nếu hai hào đều động hoặc bất động thì chọn hào vượng tướng làm Dụng thần, phụ mẫu lâm Thìn Tuất tức Thổ là phụ mẫu nên Hỏa tương sinh, sợ Mộc tương khắc, kỵ lâm Nguyệt phá Tuần không, cũng chịu 4 nơi sinh khắc xung hợp nhưng nên sinh nhiều khắc ít là tốt.
Xem nhà cửa, xe Thuyền văn chương đều dùng hào phụ mẫu làm Dụng thần nên xem chương Dụng thần Xem người khác dùng hào ứng làm Dụng thần, quẻ này lấy Thìn Thổ làm Dụng thần được bốn nơi tương sinh là tốt, còn bốn nơi xung khắc là hung. Xem anh em thì dùng hào huynh đệ làm Dụng thần, quẻ này Thần kim là huynh thì dùng hào này cần Thổ tương sinh, sợ Hỏa tương khắc, kỵ lâm Nguyệt phá Tuần không, nếu xem về thê thiếp, tỳ bộc cùng tài vật thì hào huynh này cần khắc nhiều sinh ít là tốt, lại mừng nếu hào huynh gặp không phá khiến không phá tài của, khắc thê thiếp tài bộc của ta. Xem thê thiếp tài bộc, tài vật lấy thê tài làm Dụng thần. Quẻ này Dần Mộc thê tài là Dụng thần kỵ lâm Nguyệt phá Tuần không, nên được Thủy tương sinh, sợ Kim tương khắc, nên được bốn nơi tương sinh nhiều khắc ít là tốt, xem giống như phần trước. Phàm xem bán buôn vàng bạc đều lấy thê tài làm Dụng thần. Quẻ này hào sơ là Tý Thủy làm Dụng thần kỵ lâm Tuần không Nguyệt phá mừng được Kim tương sinh, sợ Thổ tương khắc, xem giống phần trên. Dùng hào tử tôn là Dụng thần để xem các việc khác nên xem chương Dụng thần.
Xem công danh lấy quan quỷ làm Dụng thần. Quẻ này Ngọ Hỏa quan tinh là Dụng thần tối kỵ gặp không phá, sợ Thủy tương khắc nên được Mộc tương sinh, cũng có bốn nơi tương sinh khắc giống như các phần trên. Xem quỷ ma yêu quái, loạn Thần tặc đạo đều dùng quan quỷ làm Dụng thần, nên xem kỹ chương Dụng thần.
Ở trên là luận việc chính, quyển sau xét kỹ hơn, sợ người sơ khó học khó vào cửa nên viết phần chính để dễ nhập môn, biết rõ phần chính sau xem kỹ cuốn sau từ nông cạn đến thâm sâu.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.04.2008 06:28:04 bởi vanti67 >

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 21.04.2008 09:41:57
CHƯƠNG 1

HỖN THIÊN GIÁP TÝ
(Cách an chi vào các quẻ, nội quái ngoại quái)
 


CHƯƠNG 2

LỤC THÂN CA
(An Lục Thân vào các quẻ
 


CHƯƠNG 3

THẾ ỨNG
(An thế ứng vào các quẻ)
 
CHƯƠNG 4
(Động biến các hào dương thành hào âm, âm biến thành dương)
 
CHƯƠNG 5
 
DỤNG THẦN
 
* Hào phụ mẫu : Xem cho cha mẹ dùng hào phụ mẫu trong quẻ làm Dụng thần. Xem cho ông bà nội ngoại, chú bác cô dì bậc trên cha mẹ hoặc ngang hang cha mẹ cùng với thầy cha mẹ vợ hoặc cha mẹ nuôi hoặc nô bộc xem cho hộ cho chủ đều dùng hào phụ mẫu làm Dụng thần. Xem trời đất thành trì tường vách nhà cửa xe tàu áo quần vũ cụ (dụng cụ về mưa) tàu thuyền cùng văn thơ, văn khế đều lấy hào phụ mẫu là Dụng thần. Vật loại quá nhiều do sự thông biến của trời đất.
* Hào quan quỷ : Xem công danh, quan phủ sấm sét, quỷ Thần, vợ xem cho chồng đều dùng hào quan quỷ làm Dụng thần, xem loạn Thần tặc đạo cũng dùng hào quan quỷ làm Dụng thần, vật loại quá nhiều tùy ta xét đoán.
* Hào huynh đệ : Xem cho anh em, chị em, anh em trong họ, anh em cô dì em chồng, cùng anh em kết nghĩa đều dùng hào huynh đệ làm Dụng thần. Huynh đệ là người cùng loại với mình, hễ hào này đắc chí thì tài tất bị đoạt, vì thế xem về tài thì hào này là Kiếp Thần. Xem mưu thì Thần cách trở, xem thê thiếp nô tỳ là Thần khắc Hại hình thương. Xem cho chị trưởng, em chồng thì dùng hào này thì nghiệm, xem cho anh em cô dì dùng hào này mà không nghiêm thì dùng hào ứng.
*Hào thê tài : Xem thê thiếp, tỳ bộc phàm những người mà ta sai khiến đều dùng hào tài làm Dụng thần. Xem tài vật hàng hóa, vàng bạc, kho đụn tiền lương, mọi vật về linh tử về tài đều dùng hào này làm Dụng thần.
* Hào tử tôn : Xem con cháu, rễ, cháu gọi bằng chú bằng cậu, môn đồ trong bọn đồng hang với con ta đều lấy tử tôn làm Dụng thần. Xem trung Thần tướng giỏi, y sỹ, y dược tăng đạo, binh lính cũng dùng hào này làm Dụng thần, xem lục xúc cầm thú cũng dùng hào này làm Dụng thần. Tử tôn là phúc Thần, Thần chế quỷ giải ưu.
Xưa lấy tử tôn làm Thần phúc đức mọi việc gặp đều lấy làm mừng duy chỉ có xem công danh là kỵ.
 
 
CHƯƠNG 6
 
DỤNG THẦN – NGUYÊN THẦN – KỴ THẦN – CỪU THẦN
* Dụng thần tức là các loại Dụng thần nói trên.
+ Hào sinh Dụng thần là Nguyên thần
+ Hào khắc Dụng thần là Kỵ thần
+ Cừu Thần là hào khắc chế Nguyên thần làm cho hào này không sinh được Dụng thần
 
Giả sử như Kim là Dụng thần, sinh Kim là Thổ, Thổ là Nguyên thần khắc Kim là Hỏa đó là Kỵ thần khắc Thổ sinh Hỏa là Mộc thì Mộc là Cừu Thần.
Bất kể xem chuyện gì trước xem hào làm Dụng thần, đã có Dụng thần xem có vượng tướng không, có Nguyên thần động sinh phù không, có Kỵ thần động khắc hại không ?
 


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/31354/FF713C1CC54B49B9BC099DC2C6763E6B.jpg[/image]
Attached Image(s)

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 21.04.2008 09:54:22
 
CHƯƠNG 7
 
SUY VƯỢNG CỦA NGUYÊN THẦN  VÀ KỴ THẦN
 
Nguyên thần tuy sinh Dụng thần nhưng cần phải vượng tướng mới được.
* Nguyên thần có thể sinh được Dụng thần có 5 loại :
1. Nguyên thần vượng tướng hoặc lâm Nhật Nguyệt hoặc có động hào sinh phò
2. Nguyên thần động hóa hồi đầu sinh hoặc hóa Tấn thần
3. Nguyên thần trường sinh đế vượng tại Nhật thần
4. Nguyên thần và Kỵ thần đều động
5. Nguyên thần vượng động lâm không, hóa không. Xem gặp lâm không hóa không thì
vô dụng nhưng phải biết động thì không phải không ứng vào ngày xuất không thực
không thì hữu dụng.
Như vậy có 5 loại có thể sinh được Dụng thần. Đó là Nguyên thần hữu dụng, xem
mọi chuyện thì đại cát.
 
 2
 

Như tháng Dậu ngày Tân Hợi, xem cầu tài được quẻ Đoài biến Khốn. Đoán rằng ngày
Giáp Dần sẽ có tiền, được tiền như ý muốn. Người xem hỏi : Mộc Mão là tài không
mà bị phá lại bị Kim khắc, hào Tỵ Hỏa tuy sinh thế nhưng bị Nhật xung tán lại
hóa không sao tốt được. Ta đáp : Thần cơ ở nơi động, không bảo Tỵ Hỏa bị tán mà
chính hóa không nên trước mắt chưa có tiền, đợi ngày Giáp Dần xuất không mới có.
Dần Mộc là tài, tài sinh quan, quan sinh thế. Quả ngày Dần đắc tài.
* Nguyên thần tuy có hiện nhưng có 6 loại không sinh được Dụng thần
1. Nguyên thần hưu tù bất động hoặc động mà hưu tù bị thương khắc
2. Nguyên thần hưu tù bị Tuần không Nguyệt phá
3. Nguyên thần hưu tù động hóa Thoái thần
4. Nguyên thần nhập mộ
5. Nguyên thần hưu tù động hóa không, hóa phá, hóa tán.
Đấy là Nguyên thần vô lực có cũng như không
 
 
* Kỵ thần động khắc Hại Dụng thần có 5 loại :
1. Kỵ thần vượng tướng hoặc được Nhật Nguyệt, động hào sanh phò hoặc lâm Nhật
Nguyệt
2. Kỵ thần hóa hồi đầu sinh, hóa Tấn thần
3. Kỵ thần vượng lâm Nhật thần, động lâm không hóa không
4. Kỵ thần trường sinh, đế vượng tại Nhật thần
5. Kỵ thần và Cừu Thần cùng động
* Kỵ thần tuy động mà không thể khắc Hại Dụng thần có 7 loại :
1. Kỵ thần hưu tù bất động, động mà hưu tù bị Nhật Nguyệt động hào khắc
2. Kỵ thần tĩnh lâm không phá, nhập mộ
3. Kỵ thần suy động hóa Thoái thần
4. Kỵ thần suy lại tuyệt
5. Kỵ thần động hóa khắc hóa phá hóa tán hóa tuyệt
6. Kỵ thần cùng với Nguyên thần cùng động
7. Kỵ thần nhập mộ
Đó là Kỵ thần vô lực gặp vậy tưởng hung hóa cát.
Ở trên là luận vể Nguyên thần, Kỵ thần,hữu lực và vô lực cũng cần Dụng thần có
khí, nếu Dụng thần không gốc rễ Nguyên thần có lực cũng khó sinh, Kỵ thần vô lực
cũng đủ sức phá
 
 3
 
 
Tháng Tỵ ngày Ất Mùi, tự xem bệnh được quẻ Đại quá biến Hỏa phong Đỉnh. Tự xem
bệnh thì lấy thế hào Hợi Thủy làm Dụng thần bị Kỵ thần động khắc, may nhờ Dậu
Kim Nguyên thần cũng động nên Kỵ thần ngược lại sinh Nguyên thần nên Kim sinh
Hợi Thủy và tiếp tục tương sinh đổi hung thành cát, nhưng Hợi Thủy bị Nguyệt
xung Nhật khắc, đã bị Nguyệt phá mà bị khắc tuy sinh cũng không khởi được như
cây không gốc rễ. Quả chết ở ngày Quý Mão ứng với ngày xung khử Nguyên thần. Vậy
Dụng thần không gốc Nguyên thần có lực cũng không sinh được.
 
 
 
 CHƯƠNG 8
 
NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH
 
Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Phàm
dùng Nguyên thần nên được sinh như Nguyệt kiến, Nhật thần, động hào sinh, động
hóa hồi đầu sinh.
 
 4
 
 
Như tháng Mão ngày Kỷ Mão xem cho anh bị trọng tội có thóat được không được quẻ
Phục biến Chấn. Huynh là Dụng thần, Sửu Thổ động Nhật Nguyệt khắc nên bị tội khó
thoát, may nhờ hào huynh động hóa phụ mẫu hồi đầu sinh nên gấp xin đi, phụ hóa
huynh, Thần cát rõ ràng sau được ân mà khỏi chết.
  
 

CHUƠNG 9
 
NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
 
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Phàm Kỵ
thần, Cừu Thần thì nên bị Nhật khắc, Nguyệt phá, động hào khác, hóa hồi đầu
khắc. Còn Dụng thần bị một khắc mà không được nơi nào sinh phò là điềm hung, xem
việc vui vì quá vui mà sinh buồn, xem việc hung thì nên tránh.
 5
 
Tháng Mão ngày Mậu Thìn, xem cha vì việc quan mà bị trọng tội được quẻ Tụy biến
Đồng nhân. Ngoại quái có Mùi là phụ mẫu bị Nguyệt khắc. Nội quái Hợi Mão Mùi hợp
thành Mộc cục khắc phụ. Nhật hình Nguyệt khắc không có cứu trợ. Quả bị trọng
 
hìnH6
 

Cùng ngày em gái xem cho anh về việc quan cũng cùng án trên được quẻ Bĩ biến
Tụng. Thân Kim Huynh đệ là Dụng thần, bị là Tỵ Hỏa động khắc Thân Kim, trọng tội
tất bị, may nhờ Nhật thần xung động Tuất Thổ tức phụ mẫu ám động sinh nên khắc
xứ phùng sinh nhờ cha mẹ mà được cứu. Sau nhân cha 80 tuổi nên trên ra ân mà
khỏi chết.
  


CHƯƠNG 10
 
KHẮC XỨ PHÙNG SINH
 
Chịu nơi này khắc, được nơi kia sinh là khắc xứ phùng sinh. Đại phàm Dụng thần,
Nguyên thần sinh nhiều, khắc ít là tốt. Kỵ thần khắc ít sinh nhiều là hung, vì
thế Kỵ thần nên bị khắc không nên sinh.
 
 7
 
 
Tháng Thìn ngày Bính Thân xem em bị bệnh đậu mùa nặng được quẻ Ký tế biến Cách.
Nguyệt kiến là Thìn Thổ tuy khắc Hợi Thủy huynh đệ, lại được Nhật thần sinh, lại
được động hào sinh, tức lâm nguy được cứu. Quả vào ngày này, giờ Dậu được thầy
Thuốc giỏi cứu sống, đến ngày Kỷ Hợi thì lành hoàn toàn.
 
  
CHƯƠNG 11
 
ĐỘNG TĨNH SINH KHẮC
 
Sáu hào an tỉnh thì hào vượng tướng có thể sinh hào hưu tù, cũng có thể khắc hào
hưu tù. Vượng tướng giống như người có sức. Như mùa Xuân tháng Dần Mão xem được
quẻ Khôn. Nếu xem về phụ mẫu thì Tỵ Hỏa là phụ, hào  tam là Mão Mộc đang mùa
Xuân vượng tướng có thể sinh được phụ mẫu. Phụ mẫu được Xuân Mộc sinh, phụ vượng
có thể khắc tử tôn, xem tử tôn thì tử tôn suy. Xuân Mộc đang được mùa có thể
khắc Sửu Mùi Thổ huynh đệ thì hào này hưu tù vô khí. Ngoài ra phỏng thế. Quẻ có
động hào thì hào này có thể khắc tỉnh hào nếu hào tỉnh vượng tướng cũng chẳng
khắc được động hào.
Giả như tháng Dần xem quẻ được quẻ Đoài biến Quy muội. Dậu Kim động tuy hưu tù
cũng có thể khắc Mão Mộc vượng tướng. Mộc đang gặp mùa có thể khắc Sửu Mùi Thổ
nhưng nay bị thương khó khắc Thổ, ngoài ra phỏng thế.
 
Tỉnh thì như ngồi như nằm, động như đi như chạy.
 
  
CHƯƠNG 12
 
ĐỘNG BIẾN SINH KHẮC XUNG HỢP
 
Quẻ có hào động, động tất biến, hào biến xuất có thể sinh khắc xung hợp ngay hào
đó mà không thể sinh khắc hào khác, các hào khác và ngay cả hào động đó không
thể sinh khắc biến hào.
 8
 
Như tháng Tý, ngày Mão xem được quẻ Khôn biến Tấn. Dậu Kim động là động hào biến
thành Tỵ Hỏa. Tỵ là biến hào, Tỵ có thể hồi đầu khắc hào động Dậu mà không thể
sinh khắc hào khác. Hào tứ là Sửu Thổ động có thể sinh thế Dậu Kim mà không thể
sinh khắc biến hào là Tỵ mà biến hào cũng không thể sinh khắc hào khác. Nhưng ai
có thể chế biến hào ? Chỉ có Nhật Nguyệt là có thể sinh khắc xung hợp biến hào.
Vì Nhật Nguyệt như trời, có thể sinh khắc động hào, tỉnh hào, phi hào, phục hào
và biến hào và mọi hào khác không thể sinh khắc Nhật Nguyệt.
Hoàng Kim Sách có viết : “ Hào thương nhất đồ thị kỳ danh” Tức như quẻ này Tý
Thủy Nguyệt kiến có thể sinh khắc biến hào, Nhật thần Mão có thể xung thế là
Dậu. Ngoài ra phỏng thế.
 
  
CHƯƠNG 13
 
TỨ THỜI VƯỢNG TƯỚNG
(Vượng tướng của bốn mùa)
 
 Tháng Giêng : Dần là Nguyệt kiến, Dần Mộc vượng, Mão Mộc vượng thứ hai
 Tháng Hai : Mão là Nguyệt kiến, Mão Mộc vượng, Dần Mộc kém vượng hơn Tháng
Giêng và tháng Hai có Mộc vượng Hỏa tướng. Ngoài ra Kim Thủy Thổ hưu tù.
 Tháng Ba : Thìn là Nguyệt kiến, Thìn Thổ vượng, Sửu Mùi Tuất kém vượng hơn.
Kim là tướng vì được Thổ sinh, Mộc tuy không vượng nhưng còn dư khí. Ngoài ra
còn lại hưu tù.
 Tháng Tư : Tỵ là Nguyệt kiến, Tỵ Hỏa vượng, Ngọ Hỏa kem vượng hơn
 Tháng Năm : Ngọ là Nguyệt kiến, Ngọ Hỏa vượng, Tỵ Hỏa kém vượng hơn. Tháng Tư
và tháng Năm, Ngọ Hỏa vượng, Thổ tướng, ngoài ra còn lại hưu tù.
 Tháng Sáu : Mùi là Nguyệt kiến, Mùi Thổ vượng, Thìn Tuât Sửu kém vượng hơn.
Kim tướng vì được Thổ sinh, Hỏa suy nhưng còn dư khí, ngoài ra còn lại là hưu tù
 Tháng Bảy : Thân là Nguyệt kiến, Thân Kim vượng, Dậu Kim kém vượng hơn
 Tháng Tám : Dậu là Nguyệt kiến, Dậu Kim vượng, Thân Kim kém vượng hơn. Tháng
Bảy và tháng Tám Thủy vượng vì được Kim sinh, còn lại là hưu tù.
 Tháng Chín : Tuất là Nguyệt kiến, Tuất Thổ vượng, Sửu Mùi Thìn kém vượng hơn
 Tháng Mười - Tháng Mười một : Thủy vượng, Mộc tướng và luận giống như ở trên
 Tháng Chạp : Nguyệt kiến là Sửu, Sửu Thổ vượng, Thìn Tuất Mùi kém vượng hơn,
Kim tướng vì được Thổ sinh. Thủy suy nhưng còn dư khí. Ngoài ra phỏng thế.
 
  
CHƯƠNG 14
 
NGUYỆT TƯỚNG
 
Nguyệt tướng tức là Nguyệt kiến lại là Nguyệt lệnh nắm quyền coi ba tuần trong
một tháng tức cầm quyền 30 ngày. Nguyệt tướng nắm giữ đề cương của vạn quẻ, xem
xét thiện ác của 6 hào có thể hổ trợ quẻ suy nhược, ngăn chặn sự vượng cường của
6 hào, chế phục sự động biến của hào, phù khởi hào phi phục. Nguyệt tướng là chủ
soái nắm cương lĩnh vạn quẻ, có thể sinh hiệp phò củng hào suy nhược thành vượng
tướng, có thể xung khắc hình phá hào đang vượng để trở thành suy. Quẻ có động
biến hào khắc chế động hào, Nguyệt kiến có thể chế phục biến hào, quẻ có động
hào khắc chế tĩnh hào, Nguyệt kiến có thể chế phục động hào. Dụng thần phục bị
Phi Thần áp chế, Nguyệt kiến có thể xung khắc phi Thần, sinh trợ phục Thần làm
hào này trở thành hữu dụng, hào được Nguyệt hợp là hữu dụng, bị Nguyệt phá là vô
công. Hào được Nguyệt kiến hợp gọi là Nguyệt hợp, bị Nguyệt kiến xung khắc gọi
là Nguyệt phá. Nguyệt kiến không hiện trong quẻ cũng hữu dụng, khi nhập vào quẻ
lại càng mạnh mẽ. Quẻ không có Dụng thần xuất hiện, có thể dùng Nguyệt kiến làm
Dụng thần mà không cần tìm Phục Thần nữa. Nguyệt kiến nếu nhập vào quẻ mà lâm
Nguyệt thần thì phúc càng lớn, nhập vào quẻ mà lâm Kỵ thần thì họa càng thâm
sâu, như vậy không nhập vào quẻ thì tốt hơn. Hào trị Nguyệt kiến gặp không thì
bất không, gặp thương khắc thì vô Hại nên mới phát biểu như trên.Theo kinh
nghiệm của ta thì nội trong tuần hào trị Nguyệt kiến gặp không vẫn không.
 9
 
Tháng Dần ngày Canh Tuất xem cầu tài được quẻ Đại hữu. Đoán rằng : Dần Mộc tài
hào làm Dụng thần khắc thế thì tiền tất có nhưng trước mắt bị không phải đến
ngày Giáp Dần xuất không thì được. Quả đến ngày Giáp Dần thì có tiền. Nếu hào
trì Nguyệt kiến gặp không thì bất không là chẳng đúng, nội trong tuần thì không
ra khỏi tuần thì mới bất không.
* Phùng không diệc không chung phi lạc để chi không – Phùng thương diệc thương
khước hữu dãi thời chi dụng.
Dụng thần gặp không chớ bảo là bất không, phải chịu nhưng nội trong tuần, đợi
ngày xuất không mới là bất không, nếu Kỵ thần xuất không thì gây họa, Nguyên
thần xuất không thì phúc, nếu hưu tù bị không thì mới là không vậy. Hào trị
Nguyệt kiến tất vượng nếu bị hào khác khắc tất bị thương, xem bệnh thì trước mắt
chẳng lành, xem việc trước mắt chẳng thành, đợi ngày xung khởi hào thương khắc
tất khỏi bị thương bệnh sẽ lành, việc sẽ thành. Chớ nên nói gặp thương sẽ bị
thương nhưng chờ thời sẽ hữu dụng.
 
 10
 
 
Như tháng Dậu ngày Bính Thìn : xem yết kiến quý nhân được quẻ Cổ biến Mông. Thế
lâm Nguyệt kiến tất được quan tiếp kiến nhưng bị Ngọ hoả hồi đầu khắc, cho nên
mới đợi ngày Tý xung khai Ngọ Hỏa mới được bái yết. Quả được yết kiến vào ngày
Tý.
 
 
 
* Nhật tuyệt, Nhật xung, Nhật khắc, tụ sát biệt vi hứu sanh phò. Hóa tuyệt, hóa
khắc, hóa mộ hựu pha tha hào tăng chế khắc.
Hào trị Nguyệt kiến hoặc mộ tại Nguyệt kiến bị Nhật thần xung khắc cũng có thể
địch được tượng chẳng cát mà chẳng hung. Nếu được hào khác động phò trợ là cát,
chỉ sợ hào khác đến khắc chế dụng hào tuy làm Nguyệt kiến cũng khó địch nỗi.
 
 11
 
 
Như tháng Dần ngày Bính Thân xem lên chức được quẻ Cấn biến thành Di. Dần Mộc là
quan tinh trì thế lâm Nguyệt kiến là vượng tướng tuy bị ngày Thân khắc nhưng
mừng được Thân Tý Thìn hợp thành Thủy cục sinh quan không chỉ vô Hại mà đén
tháng ba còn được thăng chức. Quả tháng ba thăng chức trấn nhậm tại Vân nam,
được thăng chức vì được Thủy cục sinh, ứng vào tháng ba là Thìn Thổ là tháng
xuất không, ứng tại Vân nam vì thế và quan tinh ở hào lục.
 
 
 12
 
 
Tháng Ngọ ngày Đinh Mùi xem em bị kiện hung hay cát, được quẻ Khốn biến thành
Hằng. Dậu Kim huynh hào là Dụng thần bị tháng Ngọ khắc, ngày Mùi sinh là có thể
địch được, nhưng không nên hòa Ngọ Hỏa động khắc đúng là bị hào gia tăng khắc
chế. Người xem hỏi có họa lớn không ? Ta bảo : Ngọ Hỏa là Nguyệt kiến động ở
trong quẻ lại càng mạnh mẽ, Nguyệt kiến lại là Nguyệt thần là họa không nhỏ, là
tượng đại hung. Lại hỏi : Bị hung lúc nào ? Ta đáp : Dậu Kim huynh hào hóa Thoái
thần, năm nay là năm Thìn, Thái tuế tương hợp chẳng ngại, chỉ sợ năm Thân khó
tránh được. Quả qua năm đó bị hạ ngục, đến năm Thân bị trọng hình.
* Thiên thượng cát dã tòng từ nhi thái - Thiên thượng hung dã, xuất Nguyệt tạo
truân
Khắc ít sinh nhiều là tượng cát, khắc nhiều sinh ít là tượng hung. Tượng tuy
hung nội trong tháng còn chưa đáng ngại, ra khỏi tháng mới chịu tai họa.
* Dụng thần ngộ chi đắc phúc bất khinh - Kỵ thần phùng chi đắc họa bất thiển
Đây là nói Dụng thần lâm Nguyệt kiến mà không bị hào khác thương khắc xem được
như vậy là đại cát. Kỵ thần lâm Nguyệt kiến mà Dụng thần hưu tù không được cứu
xem việc gì cũng hung. Sinh phò Kỵ thần là trợ ác tăng bạo ngược, khắc chế
Nguyên thần là cắt đường triệt lương. Kỵ thần khắc hại Dụng thần nếu Nguyệt kiến
khắc chế Nguyên thần là đoạt mất nguồn sống
* Vật cùng tất biến, khí đầy tất đổ.
Dụng thần suy gặp thời thì phát như Dụng thần lâm Hỏa mà xem mùa Đông thì không
vượng thì tức vật cùng tất biến. Lại như xem quẻ vào tháng Giêng mà Dụng thần
lâm Nguyệt kiến Mộc là đại vượng, nếu như vậy gặp Thần xung khắc không phải là
không phá bại, nên khí mãn tất khuynh.
 
  
 13
 
 
Tháng Dần ngày Đinh Dậu xem mở phố được quẻ Cấn biến Minh Di. Thế lâm Dần Mộc
được thời, trước mắt khai trương sẽ náo nhiệt, chỉ hiềm ngày Dậu khắc thế, thế
hóa hồi đầu khắc, sinh ít khắc nhiều lại là quẻ lục xung nên chẳng bền. Người
xem nói : Tôi với quản lý không đồng tâm nên có ý thay đổi. Ta bảo : Quỷ tại bên
mình nên phòng tật bệnh, quản lý từ đó biến tâm làm mình mang lụy. Quả tháng sáu
mang bệnh, quản lý bỏ trốn báo quan mà chẳng bắt được.
Đó là đúng thời kỳ vượng tướng thì không bị thương khắc qua lúc đó thì bị hại,
ứng vào tháng sáu là thế hào nhập mộ, quản lý biến tâm là ứng lúc Thân Kim vượng
xung thế, tiền bị mất vì tài Thủy lạc không vong.
* Phùng tuyệt bất tuyệt, phùng xung bất tán – Nhật xung Nguyệt khắc kiêm kháng
sinh phò, Nhật khắc Nguyệt sinh vệ tha xung khắc
Nguyệt tướng đang nắm quyền có thể tảo suy tuyệt vượng tướng, có thể cương khởi,
có thể xung tán. Nguyệt khắc Nhật sinh được phò trì cũng vượng, Nguyệt sinh Nhật
khắc bị hào khác xung khắc cũng suy.
 
 14
 
 
Tháng Ngọ ngày Mậu Thìn xem em gái lâm sản hung hay cát được quẻ Tấn. Dậu Kim
huynh hào là Dụng thần bị Nguyệt khắc Nhật sinh chẳng ngại gì, ngày Mão giờ Mão
tất sinh. Quả qua ngày Mão, giờ Mão thì sinh ứng với ngày giờ Mão vì Dậu Kim
tương hợp với ngày Thìn
 
 
Hoàng Kim Sách có viết : Gặp hợp thì đợi xung khai
Nay Nguyệt khắc Nhật sinh không bị thêm khắc chế là được.
 
 
CHƯƠNG 15
 
NHẬT THẦN
 
Nhật thần là chúa tể của 6 hào coi vượng tướng của bốn mùa. Ở chương trước nói
Nguyệt lệnh nắm quyền coi tam tuần khiến ở mùa Xuân thì sinh, mùa Thu thì sát,
Xuân Hạ Thu Đông mỗi mùa mỗi khác. Riêng Nhật thần chẳng thế, bốn mùa đều vượng,
nắm quyền sinh sát, hiệu lực giống như Nguyệt kiến.
 Nhật thần xung hào tỉnh vượng gọi là ám động, xung hào tĩnh suy gọi là Nhật
phá. Hào tĩnh vượng mà được xung là ám động thì càng tăng sức lực, hào tĩnh mà
suy bị Nhật phá thì càng vô dụng.
 Xung không gọi là khởi, xung hiệp gọi là khai
 Nhật thần có thể sinh, phò, củng, hiệp hào suy nhiều như mầm non gặp mưa đúng
lúc, có thể khắc hại hình xung hào nhược giống như sương Thu giết cỏ
 Hào gặp Tuần không được Nhật thần xung gọi là xung không tất thực, hào gặåp
hợp được Nhật thần xung khởi gọi là hợp xứ phùng xung
 Hào nhược thì Nhật thần có thể sinh hợp tử phò để cho vượng, hào vượng có thể
hình xung khắc tuyệt mộ.
 Hào vượng bị động xung càng vượng, hào suy bị động xung thì tán. Sách bảo rằng
: “Hào gặp Nguyệt kiến Nhật xung thì không tán”. Đó là biết hào đang nắm quyền
chẳng sợ Nhật xung. Còn khi luận đến họa phúc thì không kể vượng tướng hay hưu
tù đều luận tán cả.
Ta có kinh nghiệm không ứng ở tán, Thần cơ ở nơi động, động thì nghiệm mà tĩnh
chẳng thấy tán. Hào vượng tướng xung càng cường, hào hưu tù vô khí nếu có tán
thì trong một trăm trường hợp thì chỉ có một hai.
* Phùng Nguyệt phá nhi bất phá – Ngộ xung khắc Dĩ vô thương
Hào lâm Nhật thần bị Nguyệt xung bất phá, bị Nguyệt khắc không bị thương, gặp
động hào khắc cũng không bị hại, hồi đầu khắc cũng không bị thương, chắc vững
như núi Thái sơn.
* Sanh đa khắc thiểu, cẩm thượng thiêm hoa - Sanh thiểu khắc đa, quả bất địch
chúng
Hào lâm Nguyệt kiến trong quẻ có hào động sinh phò như áo gấm thêu hoa. Nếu lâm
Nhật thần mà Nguyệt kiến động hào khắc thì không địch nỗi số đông.
Tức như ngày Mão xem quẻ, hào lâm Mão Mộc gặp phá thì chẳng bị phá, nếu trong
quẻ có hào Thân Dậu Kim động, hoặc Mão hóa Thân Dậu Kim thì ít không địch nỗi số
đông. Phá trở thành phá, thương trở thành thương. Ngoài ra phỏng thế.
  
 15
 
 
Tháng Thân ngày Mậu Ngọ xem bệnh được quẻ Độn biến Cấu. Thế hào Ngọ Hỏa lâm Nhật
thần vốn gốc vượng tướng, nhưng không nên Thân Kim Nguyệt kiến sinh Hợi Thủy hồi
đầu khắc thế, quả chết vào tháng Hợi.
 
 

 16
 
 
Tháng Tỵ ngày Đinh Hợi xem lúc nào vợ trở về được quẻ Quải biến Lý. Hợi Thủy tài
hào là Dụng thần tuy lâm Nhật thần nhưng bị Nguyệt xung lại bị hào huynh Thổ
khắc. Tục ngữ bảo : Hai quyền chẳng địch nỗi bốn chân không những khó hy vọng
ngày về mà phòng bị bất trắc. Quả được tin giữa đường gặp họa.
 
 
Chương này cần tham khảo thêm chương Nguyệt kiến.
Tổng quát : Hào vượng là đế vượng tại ngày, ví như hào cùng Ngũ hành với Nhật
Nguyệt được xem là được phò củng. Mộ tuyệt là hào mộ tuyệt tại Nhật thần.
Lý Ngã Bình nói :  Dịch lấy hào lâm Nhật thần thì không bị tán, là bất không,
động mà Nhật xung là tán nhưng đã lâm Nhật thần làm sao bị Nhật xung. Còn Tuần
không thì chỉ không nội trong tuần, mà phá chỉ có việc nội trong tuần thôi sao ?
Cho nên đọc sách không đủ vậy.
 
CHƯƠNG 16
 
LỤC THÂN
 
 Mọi sách đều cho Thanh long là tốt, Bạch hổ là hung.
* Thiệu Nguyên Thu bảo : “ Thân vượng Long trì đa cát khánh”
Thân vượng có Long thì nhiều tốt và vui mừng
* Thái Kim Thú bảo : “Long động gia hữu hỷ, Hổ động gia hữu táng”
Long động nhà có tin vui, Hổ động nhà có tang
* Bốc phệ Quy có ghi : “Uáy hàm đảo chi Bạch hổ, hỷ phó hỷ chi Thanh long”
Lại xem chương tật bệnh thì Đằng xà chủ chết, Bạch hổ chủ tang. Đó là không dùng
Ngũ hành chỉ dùng Lục Thần để đoán sống chết.
* Chỉ có Kim Thiên Phú nói : “Hổ hưng ngộ cát Thần bất Hại kỳ cát. Long động nhi
phùng hưng diệu nan yếu kỳ hung”
Hổ động nếu gặp cát Thần chẳng hại cát, Long động gặp hung chẳng áp được hung.
Đây là chính lý. Tuy nhiên Lục Thần không ứng nghiệm nhưng là Thần phụ họa. Quẻ
tốt đẹp gặp Thanh long càng tốt, quẻ hung gặp Bạch hổ càng hung. Vã lại Huyền vũ
chủ đạo tặc, Chu tước chủ thị phi luôn luôn nghiệm, chỉ ở phần gia trạch và mồ
mã thì ít nghiệm.
 
16.

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 21.04.2008 10:00:35
 17
 
Ngày Mậu Tý xem sinh sản được quẻ Bác biến Quán. Có Tý Thủy là tử tôn hóa tuyệt
biến quỷ, hẳn sinh ra thì chết dù tử lâm Thanh long chẳng có gì mừng đâu ?
 
  18
 
 
Ngày Giáp Thìn tháng Thân xem bệnh cho em được quẻ Truân biến Chấn. Hào Tý Thủy
huynh đệ là Dụng thần, trong quẻ Kỵ thần, Nguyên thần cùng động, Nguyệt kiến lại
sinh Tý Thủy, đến ngày Mậu Thìn thì lành, đâu có Xà động chủ chết, Hổ động chủ
tang.
 
CHƯƠNG 17
 
LỤC HỢP
 
* Phép hợp gồm có 6 loại :
 1. Hào hợp với Nhật Nguyệt  2. Hào hợp với hào
 3. Hào động hóa hợp  4. Quẻ gặp lục hợp
 5. Quẻ lục xung biến lục hợp  6.Quẻ lục hợp biến lục hợp
1. Hào với Nhật Nguyệt như tháng Sửu xem được quẻ Khảm, thế hào là Tý, Tý hợp
với Nguyệt kiến là vậy.
2. Hào hợp với hào là như xem được quẻ Thiên Địa Bĩ, thế ứng đều động, Mão hợp
với Tuất là vậy, nhưng một hào không động là không hợp
3. Hào động hóa hợp như xem được quẻ Cấu, thế hào Sửu động hóa xuất Tý Thủy tác
hợp.
4. Quẻ gặp lục hợp như xem được quẻ Bĩ nội ngoại quái tư tương hợp, bất động
cũng vậy.
5. Quẻ lục xung biến lục hợp như xem được quẻ Càn là lục xung, nếu 3 hào ở ngoại
quái đều động biến thành quẻ Thái là vậy.
6. Quẻ lục hợp biến lục hợp như xem được quẻ Dự biến thành quẻ Phục.
* Về hào hợp : Nếu tĩnh mà hợp thì gọi là hợp khởi, động mà hợp thì gọi là hợp
bạn, hào hợp với hào gọi là hiệp hào, hào động hóa hợp gọi là hóa phò. Hào tĩnh
hợp với Nhật Nguyệt gọi là hợp khởi có ý hưu tù cũng được vượng tướng. Hào động
hợp với Nhật Nguyệt, động hào khác gọi là hợp nhưng bị ràng buộc có ý không động
được. Hào hợp với hào động là được hào khác tới hợp có ý tương trợ, hóa cát. Hào
động hóa xuất hào hợp tức hóa phò có ý được người giúp đỡ. Phàm được hợp thì xem
mọi sự đều cát. Xem công danh thì thành, lợi thì được, hôn nhân thì thành tựu,
xem Thân mệnh thì được phát tích, xem nhà cửa thì được hưng vượng, xem phong
Thủy thì được tụ khí tàng phong, xem mưu sự thì hợp ý. Nhưng Dụng thần hữu khí
thì mới được, còn thất hãm thì cũng vô ích.
* Bốc thư có ghi : Trông cầu việc gì nếu được tam lục hợp tất được lâu dài có
chung có Thủy, nhưng nên gặp việc tựu không nên gặp việc hung vì việc sẽ khó có
kết thúc.
 
  
 19
 
 
Tháng Thân ngày Bính Tý : xem đi xa được quẻ Minh Di biến Tiểu Quá. Ta đoán thế
động hợp tác với Nhật thần tức có sự ràng buộc cản trở. Người xem hỏi cớ sao ?
Ta đáp trong quẻ Tử động hóa quỷ phòng con gái chẳng an. Người xem nói : chính
vì con gái nhiều bệnh mà nhà trai thôi Thúc thành hôn, nay muốn đi xa nhà để
chuẩn bị nữ trang. Ta hỏi bị bệnh gì ? Đáp : Huyết khô thành lao. Ta nói : Tử
tôn Mão Mộc, tuyệt khí tại tháng Thân lại bị hình, vã lại động biến quỷ sợ gã
không kịp. Sau vì con bị bệnh nặng, người này chưa đi thì con gái chết vào ngày
Thìn, ứng chuyện không đi vì động mà gặp hợp, con gái chết vào ngày Thìn vì Mão
Mộc hóa Thìn Thổ vậy. Đó là hào gặp hợp.
* Ta lại có kinh nghiệm về quẻ lục xung biến lục hợp.
 
 20
 
 
Tháng Mùi ngày Đinh Tỵ xem hồi hôn có thể thành được không được quẻ Ly biến
thành Lữ. Đoán rằng : Quẻ này xưa nay đều đoán tốt vì ta thường kinh nghiêm lục
xung biến lục hợp thì tan mà lại tựu, lìa lại hợp. Hôn nhân này nhất định thành.
Quả năm sau tháng ba lại thành hôn.
 
 
 
Mọi sự hợp đều lấy Dụng thần vượng để nói, chỉ riêng lục xung biến lục hợp không
xem Dụng thần cũng đoán tốt. Xem hôn nhân thì trước lìa sau hợp, xem vợ chồng
thì trước ly cách sau hòa hợp. Xem công danh đầu gian nan sau vinh hiển, xem mưu
sự trước khó sau dễ, xem Thần minh trước loạn sau an, xem phong Thủy được nơi
tốt, xem gia trạch trước phế sau thành.
 
 
Lục hợp biến lục hợp : Quẻ lục hợp vốn dĩ tốt, động mà biến lục hợp thì đầu cuối
tác hợp, xem phong Thủy thì đơi đời trâm anh, xem nhà cửa thì cơ nghiệp ngàn
đời, xem hôn nhân thì trăm năm đầu bạc, xem làm ăn hợp tác thì lợi, xem công
danh thì sĩ lộ danh thông, xem tài bạch thì tiền tụ như núi, xem anh em thì sống
với nhau nghìn đời, nhưng hợp với cát không nên hợp với hung. Xem mà gặp Dụng
thần lâm Nhật Nguyệt thì đã cát lại càng cát. Duy chỉ kiện tụng tù ngục bất lợi,
oan cừu khó giải, lo âu khó dứt. Xem sản nạn nếu Dụng thần chịu khắc là điều
hung.
 
 21
 
 
Tháng Mão ngày Giáp Dần xem phong Thủy được quẻ Khốn biến thành Tiết. Ta bảo xem
mồ mã tất phải có cớ. Quẻ này tự lúc tán về sau việc chẳng hanh thông, việc hôm
nay vì sao muốn xem nói cho rõ rồi mới quyết đoán. Người xem nói : từ lúc xem về
sau công danh thấy gặp khó khăn. Năm nay 50 tuổi lại không con cái vì thế nên
mới xem, sợ có trở ngại về mồ mã. Ta đáp : Long từ phải mà lại, Thủy từ trái mà
chảy đến nguồn, nước chảy trở về tài là cớ đó. Người xem hỏi vì sao mà biết ? 
Ta trả lời : Hợi Thủy tử tôn hóa Thân Kim là nguồn bị ngày Dần xung khiến nước
không trở về, không chảy được, sang năm khởi sự  Sửu đang trì, năm Thân sẽ sinh
con quý tử, rồi được làm quan tại phủ.
* Lục hợp biến lục hợp thì đời đời ngàn năm an ổn.
* TAM HỢP
Thân Tý Thìn  : Hợp thành Thủy cục
Hợi Mão Mùi  : Hợp thành Mộc cục
Tỵ Dậu Sửu  : Hợp thành Kim cục
Dần Ngọ Tuất  : Hợp thành Hỏa cục
* Tam hợp chia làm 4 loại :
1. Trong quẻ có một hào động mà hợp thành cục
2. Hai hào động, một hào bất động (biến) hợp thành cục
3. Nội quái có hào sơ, hào tam động biến thành tam hợp cục
4. Ngoại quái có hào tứ, hào lục động biến thành tam hợp cục
Nhưng tam hợp có hung có cát. Như xem công danh hợp thành Quan cục là quan
vượng, hợp thành Tử cục là thương khắc Dụng thần. Xem Tài bạch mà hợp thành Tài
cục thì có cả kho tiền, hợp thành huynh cục là Thần hao tán. Xem mồ mã nhà cửa
thì nên hợp thành phụ cục, xem hôn nhân thì nên Tài Quan vượng hợp cục. Phàm
chuyện vui thì nên hợp thành cục mới vĩnh viễn chắc chắn. Nếu xem quan tụng ưu
nghi mà hợp thành cục thì suốt đời vướng víu ngăn trở nhưng có tam hợp cục thì
thế nên ở trong cục, còn không thì cục sinh thế hào thì tốt, cục khắc thế là
hung.
 Trong ba hào mà có hai hào động thì không thành cục nên đợi bổ túc sau mới
thành cục để hữu dụng. Một hào minh động và một hào ám động thì cũng được xem là
hai hào động. Trong tam hợp nếu có một hào bị không phá thì đợi ngày điền thực
mà thành, có một hào nhập mộ thì đợi ngày xung khởi mà thành.
Phàm được tam hợp thì xem danh lợi, hôn nhân, gia trạch, phong Thủy nếu Dụng
thần vượng thì chuyện nào cũng tốt, quan trọng là thế hào ở trong cục mới đẹp,
nếu không thì cục sinh thế mới tốt, còn cục khắc thế là hung. Như xem tài bạch
mà cục sinh thế là lợi ta, cục sinh ứng là lợi người. Xem xuất hành, Dụng thần
tại tam hợp cục thì bị hợp mà chẳng đi được. Xem hành nhân mà dụng tại tam hợp
thì chẳng trở về được. Có nội quái ngoại quái hợp thành tam hợp thì chia ra nội
ngoại. Như xem gia trạch nếu ở ngoại trạch thì nên ngoại khắc nội quái, nếu ở
nội trạch thì nên nội sinh ngoại quái. Nếu xem về tình ta với người thì nội quái
là ta ngoại quái là người. Ngoại quái hợp cục sinh nội là tốt, khắc nội là hung.
 
 22
 
 
Tháng Mão ngày Đinh Tỵ : Hai thôn trên dưới tranh ruộng có ngươi đếán xem được
quẻ Ly biến Khôn. Đoán rằng nội quái là thôn của ta. Hợi Mão Mùi hợp thành Mộc
cục, ngoại quái là thôn người có Tỵ Dậu Sửu hợp thành Kim cục đến khắc Mộc cục,
may Kim suy không thể khắc Mộc vượng nên chẳng lâu dài được, huống là lục xung
biến lục xung nên có người ngăn trở chẳng thành kiện tụng. Quả sau có khuyên
thôi kiện.
Có người hỏi theo trường hợp này đất lấy thế ứng sao chẳng dùng. Ta đáp : nếu
không có nội ngoại quái hợp cục thì xem thế ứng, hai thôn trên dưới là nội ngoại
quái hai quẻ, mọi người đồng tâm nên mới hợp thành cục, vì Thần diệu dụng nên
mới linh nghiệm như thế, cho nên không dùng thế ứng, nếu không có quẻ lục xung
thì giải chẳng được.
 
 
 
 
CHƯƠNG 18
 
LỤC XUNG
 
* Phép tương xung có 6 loại :
 1. Nhật Nguyệt xung với hào  2. Quẻ gặp lục xung
 3. Lục hợp biến lục xung  4. Lục xung biến lục xung
 5. Động hào biến xung  6. Hào xung với hào
Xung là tán, phàm xem việc hung nên xung tán, xem việc cát chẳng nên xung, tất
phải kèm theo Dụng thần mà nói. Dụng thần vượng tuy xung chẳng ngại, Dụng thần
thất hảm xung lại càng hung. Dụng thần nếu vượng nhưng lục hợp biến lục xung thì
việc đầu mưu sự tốt tuy thành nhưng sau hung, hữu thủy vô chung.
* Về hào xung có 5 loại :
1. Hào gặp Nguyệt kiến xung gọi là Nguyệt phá
2. Hào gặp Nhật thần xung gọi là ám động
3. Nếu hưu tù bị Nhật thần xung gọi là Nhật phá
4. Động hào hóa hồi đầu xung giống như gặp cừu địch
5. Hào gặp lục xung vị chi bị thương tích
 
 23
 
 
Tháng Tỵ ngày Mậu Tuất xem cầu tài được quẻ Ích. Thìn Thổ là tài hào trì thế bị
Tuần không, gặp ngày Tuất xung không thì có tài ngay ngày hôm nay.
 
  
 24
 
 
Tháng Ngọ ngày Bính Thìn xem ra ngoài buôn bán ra sao được quẻ Hằng biến Dự. Thế
hào Dậu Kim hóa Mão tương xung, may nhờ ngày Thìn hợp là xung trung gặp hợp, lại
được hào Tuất là tài ám động sinh thế. Tuy quẻ phản phúc bất thường nhưng có tài
lộc. Quả nhiên người này đi rồi lại về, nhiều lần bán hàng giữa đường. Trước kia
có nói hào động hóa hồi đầu xung giống như gặp cừu địch đó là nói đến hóa hồi
đầu khắc mới thế. Quẻ này Dậu Kim hóa Mão xung thế mà không khắc thế, lại được
ngày Thìn xung Tuất ám động sinh thế nên tốt.
 
 25
 
 
Tháng Dậu ngày Ất Mùi xem con đi lâu chưa về sống chết ra sao được quẻ Khôn. Trì
thế Tử tôn lâm Nguyệt kiến được ngày Mùi sinh, tuy lục xung nhưng con tốt về.
Quả năm Mão, tháng Tý đắc ý trở về. Đó là ứng tĩnh thì gặp xung.
 
 
 26
 
 
Tháng Sữu ngày Giáp Dần xem mời thầy dạy con được quẻ Bỉ biến Càn. Lấy ứng làm
Dụng thần, thế ứng tương hợp, ứng lâm Tuất phụ được sinh là thầy có tài năng,
chỉ hiềm quẻ lục hợp biến lục xung là điềm chẳng bền. Người xem hỏi vì cớ gì mà
không lâu. Ta đáp : Tý Thủy Tử tôn trị Tuần không, trong quẻ có Mùi Thổ động
phòng con bị tai biến. Quả sau hai tháng con bị bệnh, học với thầy không lâu thì
chết.
Phàm được quẻ lục hợp biến lục xung thì mọi việc trước hợp sau tan, trước hậu
đãi sau thành đạm bạc, trước vinh sau bại, trước hanh thông sau bế tắc, trước
nhanh sau chậm, được mà mất thành mà bại, trước tựu sau tan. Chỉ xem quan phi
đạo tặc thì tan sự lo lắng.
 
 27
 
 
Tháng Thân ngày Ất Mão : Cha và con nhân đều bị bắt hỏi được quẻ Tốn biến Khôn.
Đây là quẻ Tốn Mộc biến Khôn Thổ gọi là hóa khử, hóa khử mà không khắc thì chủ
chẳng Hại, nhưng vì thế hào hóa quỷ, Mão Mộc hóa Dậu Kim , Mộc phá Kim khắc, Tỵ
tử tôn lại hóa Hợi Thủy. Hai hào phụ mẫu và tử tôn đều bị thương vã lại quẻ lục
xung biến lục xung, xung loạn cả nhà đều thọ hình.
 
Phép lấy quẻ lục xung làm tốt khi coi việc quan vì cần xung tán, nhưng phải coi
Dụng thần mới đoán thế. Quẻ này lục xung biến lục xung cũng vì việc quan mà tán
gia.
 
 
c18

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 22.04.2008 13:18:42
 
CHƯƠNG 19
 
TAM HÌNH
 
Dần hình Tỵ – Tỵ hình Thân – Tý hình Mão – Mão hình Ngọ. Sửu Tuất tương hình 
Mùi Thìn tương hình. Lại bảo Thìn Ngọ Dậu Hợi là tư hình
Ta thường nghiệm thử thì tam hình này vì nhân Dụng thần hưu tù lại bị hào khác
khắc rồi kèm theo phạm tam hình mới thấy hung. Còn phạm tam hình mà nghiệm thì
quá ít, trong mấy chục quẻ may ra mới có một.
 

28


Tháng Dần ngày Canh Thân : xem con bị bệnh được quẻ Gia nhân biến thành Ly. Tỵ
hào Tử tôn đang mùa Xuân vượng tướng có thể trị được. Sau chết vào ngày Dần giờ
Dần mới hiểu là gặp Nguyệt kiến tại Dần, Nhật thần là Thân, Tử tôn là Tỵ tạo
thành tam hình. Độc nhất quẻ này không bị hào nào thương khắc. Với Tý Mão Ngọ,
Thìn Tuất Sửu Mùi cũng nghiệm nhưng là điều phụ họa mà thành hung.
 

CHƯƠNG 20
 
LỤC HẠI – ÁM ĐỘNG
 
* Lục Hại hoàn toàn không ứng nghiệm gì cả, cần phải sửa đổi
* Hào tĩnh vượng tướng, Nhật thần xung gọi là ám động
* Hào tĩnh hưu tù bị Nhật thần xung gọi là Nhật phá
* Aám động có cát có kỵ
- Dụng thần hưu tù được Nguyên thần ám động tương sinh, Kỵ thần minh động trong
quẻ có Nguyên thần ám động sinh Dụng thần là tốt.
- Dụng thần hưu tù không được giúp nếu Kỵ thần ám động khắc Hại là kỵ. Khi xem
quẻ thì ám động là phúc đến mà chẳng biết, họa đến chẳng hay. Lại bảo cát hung
thì ứng chậm. Xét vậy thì chẳng đúng vì thật ra chẳng ứng chậm
 

29
 
 
Tháng Dần ngày Kỷ Mùi xem con gái bị bệnh đậu mùa được quẻ Khôn biến Sư. Dậu Kim
Tử tôn ở mùa Xuân thì hưu tù, được Nhật thần sinh, hào Tỵ Hỏa động khắc Kim,
nhưng ngày Mùi xung động Sửu Thổ làm Hỏa động sinh Thổ, Thổ động sinh Kim thành
ra hóa toàn sinh. Người xem bảo : trước mát thật nguy cấp. Ta trả lời : chẳng
Hại gì hôm nay giờ Mùi Thân có cứu. Quả giờ Thân gặp thầy giỏi chữa được. Như
vậy sao bảo là ứng chậm
 
 

 

CHƯƠNG 21
 
TÁN ĐỘNG
 
Nhật thần xung động gọi là xung tán, hào động xung hào khác cũng gọi là xung
tán. Ta có nghiệm vượng tướng bị xung thì không tán, hữu khí bị xung cũng không
tán. Còn hưu tù bị xung tán thì chỉ một hai trong trăm ngàn lần, vì sao vậy ?
Tuy hôm nay bị Thụ chế nhưng qua ngày hôm sau thì không tán.
 

30
 
 
Tháng Sửu ngày Đinh Dậu : Xem cha đi xa đã một năm chẳng có tin tức, được quẻ
Hóan biến Khảm. Mão Mộc là phụ hào động sinh thế thì chắc chắn ở ngoài bình an,
thế lâm không là về gấp, giao mùa Xuân tức sẽ về. Quả tháng hai đắc ý trở về.
Đấy chẳng phải là Mão Mộc bị Nhật thần tán hay sao ?

Lý Ngã Bình nói : Hoàng Kim Sách lấy không làm trọng mà ở xung tán Dịch thì
trọng ở tán. Xem kỷ chiêm nghiệm để khỏi đoán lầm.
 
CHƯƠNG 22
 
BIẾN QUÁI – SINH KHẮC – MỘ TUYỆT
 
Quẻ biến gồm có : Biến sinh, biến khắc, biến mộ, biến tuyệt và biến tỷ hòa. Ta
có kinh nghiệm phàm gặp quẻ hóa khắc bất luận Dụng thần suy vượng đều đoán hung.
Như quẻ Tốn biến Khảm là hóa hồi đầu khắc thì đoán hung.
 
 

 


 31
 
Ngày Tân Tỵ tháng Mão : có người đến hỏi chẳng nói việc gì, xem được quẻ Tốn
biến Càn. Hỏi coi việc gì  thì đáp : thay bậc trưởng bối xem công danh. Ta bảo :
công danh thì nên tự coi, thay thế khó đoán Dụng thần nên không quyết đoán, may
nhờ quẻ này dễ thấy vì Tốn Mộc hóa Càn Kim tức hóa hồi đầu khắc là tuyệt quái
bất tất hỏi công danh, tuổi thọ chẳng bền. Quả tháng Ngọ thì mất chức, tháng bảy
thì chết.
 
 32
 
Như tháng Ngọ ngày Bính Dần : xem bênh được quẻ Ly biến Khảm Thủy tức hóa hồi
đầu khắc, may nhờ tháng Ngọ Hỏa vượng nên chẳng can gì, đến mùa Đông thì nguy.
Quả chết vào tháng chín, ngày Đinh Hợi. Đấy là chẳng cần xem Dụng thần suy
vượng.
 
 
 
 
* Lý Ngã Bình nói : ở chương mộ tuyệt trong Dich mạo có ghi :
  Nhật Nguyệt đang lúc được mùa là chẳng thật, không biết việc hung trong tương
lai Thần đã định sẵn. Nhật Nguyệt đang được mùa thì vượng qua lúc đó thì tiêu
khuyết, tức như quẻ bói này : tháng Ngọ được quẻ Ly biến Khảm thì trước mắt tuy
vượng, Đông đến chẳng tuyệt sao?
* Trong chương phản phục của Dịch mạo có ghi :
Nhật Nguyệt theo đến tất chẳng bị không, phá bỏ đi thì nặng. Lại nói : nữa đến
nữa đi là bán cát bán hung mọi sự ngưng trệ. Nói thế chẳng phải là kinh nghiệm,
về quẻ này căn bản của con người quẻ biến khắc tuyệt như cây có rễ rời khỏi đất,
lá cũ tuy xanh nhưng làm sao giữ được mãi. Đang thời thì vượng quá thời thì suy,
không phá thì có ngày điền thực để ứng nhưng luận bán cát bán hung thì chẳng là
phép tắc để lại cho người sau.
 Sách bói này lấy hồi đầu khắc là hung. Đọc ở chương phản phục trong Dịch mạo
mới thấy rõ là hồi đầu khắc mà đoán phản phục hưu tù.
 
 
 
 
 33
 
 
Tháng Dần ngày Quý Dậu : xem trưởng tử bị bệnh được quẻ Chấn hóa Đoài. Đây là
quẻ Chấn Mộc hóa Đoài Kim hồi đầu khắc thế mà lại luận là : Thổ bị Mộc khắc và
Mộc bị Kim thương. Do lấy Chấn là trưởng nam nên xem cho trưởng tử thì chẳng tốt
mà chẳng biết quẻ biến hồi đầu khắc thì xem cho con gái cũng chẳng được an toàn.
Nay đọc lại ví dụ này để hiểu lầm mà luận sai vậy.
 
 
 
 
 

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 22.04.2008 13:25:38
PHẢN PHỤC
 
Quẻ có biến quái - Hào có biến hào.
* Biến quái thì có nội ngoại quái đều động mà đều biến ngược lại như  Càn biến
thành Khôn
* Biến hào thì gồm :
- Nội ngoại đều động mà biến phản phục như : Thăng biến thành Quán
- Ngoại quái phản phục mà nội quái bất động như : Quán biến thành Khôn
 

- Nội quái phản phục mà ngoại quái bất động
Nội quái phản phục thì trong chẳng an, ngoại quái phản phục thì ngoài chẳng an.
Nội ngoại phản phục thì trong ngoài đều chẳng an. Chủ thành mà bại, bại mà
thành, có mà không, không mà có, được mà mất, mất mà được, đến mà đi, đi mà đến,
tụ mà tán, tán mà tụ, muốn động mà tĩnh, muốn tĩnh mà động.
 Xem công danh nên Dụng thần vượng tướng được thăng chức rồi thăng nữa để đổi
đi nơi khác rồi trở về, Dụng thần thất hảm có giáng chức hoặc thăng chức hoặc
được hoặc mất
 Xem tài vật tụ tán bất thường, mua bán kinh doanh thì thành bại bất định
 Xem mồ mã gia trạch xem đổi thay thì chẳng đổi, hoặc đổi thay nữa
 Xem việc lâu dài thì trước mắt có biến động
 Xem thiên thời thì trời mưa rồi lại tạnh, tạnh lại mưa
 Xem hôn nhân thì tráo trở khó thành
 Xem hành nhân : Nếu ngoại  quái phản phục, Dụng thần vượng tướng tất về nhưng
cũng đi nơi khác
 Người ở xa xem gia trạch mà nội quái phản phục thì gia đình bất an
 Xem tật bệnh thì lành rồi lại đau
 Xem đạo tặc quan phi thì gặp rồi gặp nữa
 Xem chuyện ta với người nếu nội phản phục thì ta loạn người định, ngoại quái
phản phục thì người loạn ta định
Nếu Dụng thần vượng tướng được sinh thì khó phản phục rồi cũng thành, chỉ sợ
Dụng thần hóa hồi đầu xung khắc thì tượng đại hung 
 
 34


Như tháng Mão ngày Nhâm Thân xem theo quan phủ đi trấn nhậm được quẻ Tỷ biến
thành Tĩnh. Đoán rằng thế lâm quan trì Nguyệt kiến vượng theo thì được nhưng nội
quái phản phục nên có sự tráo trở, lại không nên thế tuyệt ở ngày Thân mà lại
hóa hồi đầu khắc nên chuyến đi này không tốt, đừng đi theo là thượng sách. Sau
chổ điền khuyết của quan ở gần dinh giặc nên người này từ chối không đi theo.
Rồi khi quan phủ đã đi, vì một cớ nào khác người này đi theo đến chổ quan. Đến
tháng Tuất giặc phá thành cùng quan bị Hại. Cùng với quan bị Hại là thế với quan
cùng bị Dậu Kim xung khắc, không đi rồi lại đi vì quẻ phản phục.
 
 35
 
 
Tháng Mão ngày Kỷ Hợi xem thăng quan được quẻ Lâm biến Trung phu. Thế lâm Mão
Mộc là Nguyệt kiến quan tinh tràng sinh tại ngày Hợi, thế quan tinh cùng vượng
tức được thăng chức. Quả trong tháng đó nghe báo được tin được thăng chức đi
trấn nhậm ở Sơn Đông, chỉ trong năm sau lại đổi đi trấn nhậm ở Giang Tây ứng vào
tháng Mão vì Mão quan tinh là Nguyệt lệnh nên lại thăng ở Sơn Đông sau đổi Giang
Tây vì quan ở Mão mà ngoại quái phản phục.
Phục ngâm thì có nội ngoại phục ngâm như Vô Vọng biến Đại Tráng, tượng trong và
ngoài đều ưu uất rầu rĩ. Cũng có nội biến phục ngâm tất trong ưu uất, ngoại biến
phục ngâm tức ngoại chẳng an. Xem mọi việc đều không ưng ý.
- Xem danh thì hoạn lộ khốn khó lâu dài
- Xem lợi thì tài hao lợi tán
- Xem mồ mã gia trạch thì muôn đời chẳng được mà giữ chẳng an
- Xem hôn nhân thì lo âu chẳng vui
- Xem khẩu thiệt quan phi thì việc khó kết Thúc
- Xem tâtå bệnh thì lâu lành
- Xem xuất hành thì khó đi
- Xem hành nhân thì người ở ngoài ưu uất
- Xem về việc giữa ta và người thì nội quái là ta, ngoại quái là người, nội phục
ngâm thì tâm chẳng toại, ngoại phục ngâm thì lòng người chẳng an. Nhưng gặp phục
ngâm mà Dụng thần vượng tướng gặp năm tháng xung khởi thì hết, còn hưu tù gặp
năm tháng xung khởi thì ưu uất không thôi, còn phục ngâm mà Dụng thần bị khắc là
họa chẳng nhẹ.
 
 36


Tháng Thân ngày Quý Tỵ : xem cha nhận chức ở ngoài có bình an không được quẻ Cấu
biến Hằng. Tỵ Hỏa Nhật thần sinh phụ mẫu thì trấn nhậm ở ngoài bình an, chỉ hiềm
quẻ phục ngâm là tượng ở ngoài chẳng an, nơi trân nhậm có biến cố gì làm tâm
không đắc mà ưu uất. Người xem nói : trong vùng đó có bọn rợ miêu gây biến,
chẳng hiểu có gì đáng ngại không ? Lại hỏi lúc nào về. Ta đáp : phục ngâm thì
muốn về mà không có thể, nhưng năm Thìn thì trở về. Sau biết bọn rợ miêu gây
loạn làm địa phương không an, nguy hiểm lạ thường. Năm Dần xem quẻ, năm Thìn
thiếu tiền mà về. Năm Ngọ được bổ đến nhận tại Tứ Xuyên. Ưáng vào năm Thìn vì
phụ là Tuất hóa Tuất, Thìn xung khởi. Ứng thiếu tiền vì ngày Tỵ xung khởi Hợi ám
động khắc quan, năm Ngọ được bổ nhiệm làm quan vì Tỵ phò khởi Ngọ nên Hợi khắc
quan không hết được thì đến năm khác đương nhiên vượng vậy.
* Lý Ngã Bình nói : Dịch Lâm Thần có nói : Hào phục ngâm không tốt, quẻ phục
ngâm tối hung, người đoán chẳng cần xem Dụng thần suy vượng đều sợ quẻ phục
ngâm.
Nay Dã Hạc với lý luận với quẻ tĩnh thế gặp xung khắc thì sợ phản phục gây thêm
tai họa. Nếu thế, quan đắc địa tuy phản phục thì quan chức đổi thay liên tiếp.
Phép dạy này giúp người xem học thấu triệt để.
 
 


 CHƯƠNG 24
 
TUẦN KHÔNG
 
Phép xem Tuần không ở mọi sách quá phiền toái, có chân không, giả không, động
không, xung không, điền không, hoán không, vô cố tự không. Tán mà không, mộ
không, tuyệt không, Hại không, an không, phá không. Dã Hạc bảo : Vượng thì bất
không, động là bất không, có Nhật kiến, động hào sinh phò cũng bất không, động
mà hóa không nếu vượng tướng cũng bất không. Nguyệt phá là không, hưu tù bất
động cũng là không, phục mà bị khắc cũng là không. Chân không là không. Chân
không là Thổ ở mùa Xuân, Kim ở mùa Hạ, Mộc ở mùa Thu, Hỏa ở mùa Đông. Ta mới lúc
học, phàm gặp Tuần không thì không biết phép đoán, lấy toàn không thì ứng vào
ngày điền thực, bất không thì đợi ứng vào ngày toàn không. Sau xem nhiều, phàm
gặp Tuần không thì tái chiêm, gặp quẻ tốt thì xung tuần thì tốt, quẻ hung thì là
đúng là hung vậy.
 
 37
 
Tháng Thìn ngày Ất Mão xem cầu tài được quẻ Gia nhân biến Bí. Sửu tài trì thế
gặp Tuần không, tuy được Tỵ Hỏa sinh nhưng mà Tỵ Hỏa hóa hồi đầu khắc không thể
sinh được Sửu Thổ. Nên tài không được sinh phò là chủ khó cầu. Lại vì xem vào
tháng ba nên tài là Sửu Thổ còn hữu khí thì bất không nên chẳng dám quyết đoán
xin tái chiêm lại.
 
 38 
Lại được quẻ Khuê biến Tổn. Quẻ này hợp với quẻ trước nên quyết đoán được. Tài
vô khí bất tất phải lao tâm. Người xem hỏi vì cớ sao ? Quẻ trước tài tuy không
nhưng hữu khí. Quẻ sau Tý Thủy là tài phục tại hào ngũ là Mùi Thổ, phục mà bị
không lại bị khắc thì chắc chắn không có tiền.
 
 39


Tháng Tý ngày Tân Hợi : xem đi xa cầu tài được quẻ Đại Súc. Thế ở Dần Mộc, tháng
Tý ngày Hợi đều là tài Thần sinh thế lại được ứng hào tức nơi địa đầu tương sinh
là quẻ toàn mỹ, chỉ độc có thế lâm không, nếu chấp vào cổ pháp lấy cớ “vô cớ vật
không” là điềm đại hung thì sao đi xa nhà được.
 
 
 40
 Nên phải tái chiêm lại được quẻ Minh Di biến Phong. Quẻ này với quẻ trước tương
đồng lần đi này tất được. Thế hào là Sửu Thổ hóa Ngọ hồi đầu sinh, trước mắt bị
Nguyệt phá đến địa đầu thì qua khỏi tháng thì chẳng bị phá nữa. Dần Mão là khởi
đầu mùa Xuân theo quẻ trước là tháng xuất không của thế gặp Tý Hợi là tiền vào
mãn nguyện. Người xem hỏi đi có thành không  Đáp : qua ngày Giáp Dần thế hào
xuất không trở về sau thì đi  chẳng nghi gì nữa. Quả ngày Ất Mão khởi hành đến
nơi vào giữa tháng Mão được toại ý chở đầy ghe mà về.
Dã Hạc bảo : Phép xem nhiều quẻ khiến đa nghi chẳng dám quyết  nhưng dùng để
quyết đoán quẻ trước , vô cố tư không giống như hang sâu vực thẳm nhưng lại được
vượng tài. Vì thế phải xem nhiều quẻ hợp lại mới thấu triệt Thần cơ của quỷ
Thần, lý lẽ của trời đất. Phàm xem quẻ gặp không, không thể lấy không mà phải
xem coi việc gần hay xa, nếu nội trong tuần thì là không nhưng cũng còn ngày
xung không, giờ thực không. Việc ra ngoài tuần thì sẽ ứng vào ngày xuất tuần.
Nếu xem việc lâu dài thì không phải xuất tuần mà nếu đại tượng không tốt thì
Thái tuế hoặc Nguyệt kiến có thể điền thế. Nhưng không bằng cách xem hai quẻ mới
là diệu pháp.
 
 
 

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 22.04.2008 13:28:20
CHƯƠNG 25
 
PHẦN I : SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT
 
Trong nhóm Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan , Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử,
Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng chỉ có Sinh – Vượng – Mộ – Tuyệt là dùng nghiệm, còn
ngoài ra không nghiệm thi chẳng dùng.
 Kim tràng ở Tỵ, Vượng ở Dậu, Mộ ở Sửu, Tuyệt ở Dần
 Mộc tràng ở Hợi, Vượng ở Mão, Mộ ở Mùi, Tuyệt ở Thân
 Thủy tràng ở Thân, vượng ở Tý, Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ
 Hỏa tràng ở Dần, Vượng ở Ngọ, Mộ ở Tuất, Tuyệt ở Hợi
Giả như hào chủ sự ở Mộc, nếu xem ở ngày Hợi tức được Tràng sinh, xem ở ngày Mão
thì được Vượng, xem ở ngày Mùi thì nhập Mộ, xem ở ngày Thân thì bị tuyệt. Ngoài
ra phỏng thế. Lại như hào chủ sự ở Thủy, mà trong quẻ Hào Thân động thì gặp
Tràng sinh, động hào Thìn thì gặp Mộ, động hào Tỵ thi gặp tuyệt. Ngoài ra phỏng
thế.
Lại như hào chủ sự ở Mộc biến Thủy là hóa Tràng sinh, biến Mão là hóa Vượng,
biến Thân là hóa Tuyệt, biến Mùi là hóa Mộ. Ngoài ra phỏng thế.
Giác Tử bảo :
- Kim tuy Tràng sinh ở Tỵ nên hào Kim cần phải vượng tướng hoặc được Nhật Nguyệt
sinh phò. Nếu gặp ngày Tỵ xem quẻ hoặc trong quẻ có hào Tỵ động hoặc hóa Tỵ là
Trường sinh, còn nếu hưu tù vô khí, gặp nhiều Tỵ Hỏa là liệt Hỏa đốt Kim sẽ luận
khắc chứ không luận sinh. Kim hào tuy Mộ tại Sửu nếu được Mùi Thổ xung động hoặc
trong quẻ có nhiều Thổ sinh Kim thì luận sinh chẳng luận Mộ
- Thổ hào tuy tuyệt tại Tỵ, nếu hưu tù vô khí lại gặp Tỵ hào thì luận tuyệt, nếu
Thổ được Nhật Nguyệt, động hào sinh phò, gặp hào Tỵ thì Tỵ lại sinh Thổ, bây giờ
thì luận sinh mà chẳng luận tuyệt.
- Tỵ Hỏa tuy trường sinh tại Dần, nếu gặp Nhật Nguyệt, động hào hoặc động mà
biến thành hào là Thân Kim thì tam hình, luận hình mà chẳng luận sinh. Vì vậy
hào Thổ tràng sinh tại Thân.
Lại bảo : Thổ sinh ở Thân chẳng có gì làm chứng cớ. Ta lấy thiên thời mà khảo
chứng Thổ làm phụ thì cũng có mưa tại ngày Thân hoặc mưa tại ngày Tý. Thổ lâm tử
tôn thì cũng tạnh vào ngày Thân hay ngày Tý. Cho nên mới biết Thổ tràng sinh ở
Thân, vượng ở Tý là chẳng có gì nghi ngờ.
 
 41
 
Tháng Ngọ ngày Kỷ Mão : xem vợ bị bệnh được quẻ Chấn biến Phong. Thìn Thổ Tài
hào là Dụng thần, cận bệnh gặp lục xung tất lành, nên chắc lành vào ngày Thìn,
nếu không tất ngày Dậu. Sau người này bị hôn mê nhiều ngày đến ngày Tý thì lành.
Ngày Thìn là ngày Tài trị, ngày Dậu là ngày hợp với Thìn tức động mà phùng hợp,
còn ngày Tý là ngày Thổ vượng.
Lý Ngã Bình nói : Luận về sinh, vượng, mộ , tuyệt
Kim sinh tại Tỵ, Mộc sinh tại Hợi, Thủy sinh tại Thân, Hỏa sinh tại Dần. Bốn cái
sinh này là chính lý duy chỉ có Thổ đặc biệt là ký sinh khổn chứng bảo : Thổ
sinh tại Dần – Thai ở  Tý. Các Ngũ hành gia cho rằng : Tuất Thổ sinh ở Dần, Tỵ
Thổ sinh ở Dậu.
Dịch mạo viết về trường sinh của Thổ cũng bất nhất bảo Khôn Thổ trong núi sinh
tại Thân, nếu phân âm dương thì Tuất Thổ sinh ở Dần, Tỵ Thổ sinh ở Dậu mà chẳng
lấy  gì làm chắc. Cứ thử về thiên thời thì Thổ sinh tại Thân từ xưa đến nay bất
di bất dịch.

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 22.04.2008 13:42:19
PHẦN III : TỔNG CHÚ VỀ ỨNG KỲ
 
 Tĩnh thì gặp trị gặp xung : Như hào chủ sự là Tý không động, sau ứng vào ngày
Tý, ngày Ngọ. Ngoài ra phỏng thế.
 Động thì gặp trị gặp hợp : Như hào chủ sự là Tý động thì sau ứng vào ngày Tý,
ngày Sửu.
 Quá vượng thì gặp mộ gặp xung : Như hào chủ sự ở Ngọ, lại xem quẻ vào ngày
tháng Tỵ, Ngọ, Hỏa trong quẻ Tỵ Ngọ quá nhiều thì sau ứng vào ngày Hợi ngày Tý
có khi ứng vào ngày Tuất đó là ngày nhập mộ.
 Suy tuyệt thì gặp sinh vượng : Như hào chủ sự là Kim, xem quẻ vào ngày tháng
Ngọ tức vô khí, hưu tù thì ứng vào ngày tháng Thổ hoặc mùa Thu, đắc thời vượng
lên. Ngoài ra phỏng thế.
 Nhập tam mộ thì cần xung khởi : Ví như hào chủ tượng là Ngọ nhập mộ ở Tuất,
sau ứng vào ngày Thìn, ngoài ra phỏng thế.
 Gặp lục hợp cũng cần kích động : Ví như hào chủ sự hợ với Nhật Nguyệt hoặc
động mà hợp với hào khác, hoặc động hóa hợp, không cần biết hung cát đợi ngày
xung khởi Nhật Nguyệt thì ứng. Như hào chủ sự là Tý hợp với Sửu sau ứng vào ngày
Ngọ Mùi, ngoài ra phỏng thế.
 Bị Nguyệt phá thì mình được điền hợp : Như  xem vào ngày tháng Tý, hào chủ sự
là Ngọ bị Nguyệt phá. Sau ứng vào ngày Mùi tức phá mà gặp hợp, lại cũng ứng vào
Ngọ tất là ngày điền lấp chẳng sợ bị phá nữa.
 Tuần không rất thích được điền xung : Xem chương Tuần không sẽ rõ.
 Đại tượng tốt mà chịu khắc nên đợi khắc Thần bị khắc : Giả như Dụng thần là
Thìn Thổ được Nhật Nguyệt sinh phò là đại tượng tốt, nếu bị Dần Mão khắc hại thì
sau gặp Thân Dậu xung khắc Dần Mão mới tốt. Ngoài ra phỏng thế.
 Đại tượng hung mà chịu khắc thì sau ứng vào lúc khắc không phải lúc sinh : Như
Dụng thần ở Thìn Thổ bị Dần Mão khắc chế mà không được Nhật Nguyệt, động hào
sinh phò là đại tượng hung. Sau gặp Dần Mão thì hung.
 Nguyên thần đến phò trợ cần xem Dụng thần suy hay vượng, Kỵ thần đến khắc chế
cần xem nguyên khí Dụng thần vượng hay suy : chương Nguyên thần Kỵ thần đã chú
rõ.
 Hóa Tấn thần thì ứng vào lúc trị lúc hợp : Như Thân động hóa Dậu là hóa Tấn
thần hoặc phúc hay họa thì ứng vào ngày tháng Thân cũng có lúc ứng vào ngày
tháng Dậu
 Có khi ứng vào ngày độc phát, độc tĩnh : Xem chương độc phát, độc tĩnh.
 Có khi ứng vào động, biến hào : Như hào lâm Tuất Thổ biến Dậu Kim thì sau ứng
vào ngày Tuất hoặc ngày Dậu.
Chớ xem là không nghiệm, cần phải phân rõ gần xa, xa thì ứng năm tháng, gần thì
ngày. Có lúc xem xa ứng gần, xem gần ứng xa. Xem tháng ứng năm, xem ngày ứng
giờ. Cần phải biết rõ như vậy. Nếu gặp quẻ chẳng rõ thì dùng phép tái chiêm, nếu
quẻ không đích xác thì tái chiêm chớ có đoán bậy. Thế không, nguyên động thì đợi
ngày Nguyên thần trị. Như tuần Giáp Thìn xem cầu tài được quẻ Khốn biến Khảm thì
ngày Hợi đắc tài. Thế suy, nguyên tĩnh thì chờ nguyên khí phùng xung, như mùa
Thu xem mưu sự được quẻ Khốn sau ngày tháng Tỵ thì thành. Ngoài ra phỏng thế.
 

PHẦN IV : QUY HỒN – DU HỒN
 
Du hồn là quẻ thứ bảy ở mỗi cung như ở cung Càn là quẻ Hỏa Địa tấn, Ở cung Khôn
là quẻ Thủy Thiên Nhu. Còn Quy hồn là quẻ thứ tám ở mỗi cung như quẻ Đại Hữu ở
cung Càn, Thủy Điạ Tỷ ở cung Khôn. Ngoài ra phỏng thế. Xưa cho Du hồn là đi nhàn
dặm, muốn làm việc dài lâu thì không kéo dài được. Tâm vô định hướng, đổi thay
bất thường. Quy hồn thì không ra khỏi giới tuyến giống như Du hồn, quái tượng
không được mà đoán ngược lại. Phàm được quẻ Du hồn mà xem Thân mệnh thì bình
sinh không được an cư, xem hành nhân thì đã đi nơi khác, xem xuất hành thì đi
không định, xem gia trạch thì thay đổi bất thường, xem mồ mã thì không được an.
Dã Hạc bảo : nên lấy Dụng thần làm chủ rồi sau đó mới phối hợp thêm, nếu bỏ Dụng
thần mà đoán thì sai lầm vậy.
 

CHƯƠNG 26
 
NGUYỆT PHÁ
 
Bị Nguyệt kiến xung là : Nguyệt phá. Mọi sách đều cho rằng Dụng thần lâm Nguyệt
phá giống như cây khô mục nát, gặp sinh cũng không sinh được, gặp thương khắc
thì càng nặng, phục trong quẻ thì khó hiện, có Nhật thần sinh cũng không thể
sinh được, làm Kỵ thần cũng chẳng làm hại nỗi Dụng thần, làm biến hào thì không
thể thương khắc động hào.
Dã Hạc bảo : ta có kinh nghiệm phá mà động thì có thể thương khắc hào khác, biến
hào bị phá có thể thương khắc động hào. Vì sao vậy ? Thần cơ ở nơi động, việc
chẳn hung cát thì bất động, động thì có họa có phúc, trước mắt tuy bị phá, gần
thì ứng ngày, xa thì ứng năm tháng, chỉ có tĩnh phá không được Nhật thần, động
hào sinh trị thì mới thật là phá vậy
 

 42
 
 
Tháng Hợi ngày Kỷ Sửu : xem tương lai có quan chức hay không được quẻ Đoài biến
Tụng. Quẻ này quan động sinh thế, thế động hóa Tấn thần là tượng có quan chức.
Nhưng quan gặp phá, thế gặp không lại bị Nhật thần xung không tức thực là bất
không, mà hào phá không được Nhật thần sinh, có Nhật thần sinh chưa chắc đã khởi
được huống hồ là không. Ta nghi ngờ không có gì thì sao quan động sinh thế, muốn
rõ xem lại mới biết.
 43
 
Lại xem và được quẻ Thủy Địa Tỷ. Đoán rằng : nếu không có quan chức thì khó được
quan tinh sinh thế và quan trì thế. Nay quẻ trước quan động sinh thế, quẻ sau
quan lâm thế, tức có ngày thực lộc vượng gia. Người xem hỏi ứng vào năm nào ? Ta
đáp : quẻ trước quan lâm Nguyệt phá thì ứng vào năm Tỵ tức năm thực phá. Quả năm
Tỵ được thăng chức trưởng phòng, nêu bảo Nguyệt phá vô dụng thì quá sai.

44
 
 
Tháng Thìn ngày Mậu Tý : xem cha lúc nào về được quẻ Càn biến Quải. Phụ mẫu trì
thế bị phá mà lại hóa không, không được Nhật thần sinh, động hào trợ. Dùng Cổ
pháp mà đoán thì Dụng thần vô khí thì cha chẳng trở về được. Ta lại đoán khác :
Chu tước lâm phụ động, trì thế tất ngày Mão có tin, ngày Ất Mùi trở về. Quả ngày
Mão được tin, ngày Mùi về. Ứng với ngày Mão vì phá mà gặp hợp, ứng với ngày Mùi
vì phụ Mùi lâm không thì xuất không thì về đến nhà.
Cổ pháp luận về Tấn thần : vị trí của ta đã mất, hóa Nguyệt kiến cũng là thôi
không kịp. Quẻ này phụ động phá hóa không nên về nhà vậy.
 
45
 
 
Tháng Ngọ ngày Quý Mão : xem công danh về sau được quẻ Cấn biến Quán. Dần Mộc là
quan tinh trì thế bị Thân Kim động khắc, năm nay tháng bảy tức có điềm hung.
Người xem hỏi : xem vì nguyên nhân gì ? Ta đáp : ứng động khắc thế tức có người
Thù. Lại hỏi : công danh có đáng ngại không ? Đáp : nếu không có Tý Thủy động vị
tất đã khởi nay nhờ Tý Thủy động tiếp tục tương sinh nhưng bị giáng chức đuổi đi
nơi khác thì khó tránh.
Có người khách biết Dịch lý hỏi : đã biết Tý Thủy tiếp tục tương sinh, trong Bốc
thư có ghi : Kỵ thần – Nguyên thần cùng động là điềm thăng chức nay sao đoán là
đổi đi  ? Ta đáp : Tý Thủy phá mà hóa không thì theo Bốc thư tuy có như không
làm Nguyên thần cũng vô dụng nên chẳng dựa vào Cổ pháp mà đoán, Thần cơ ở nơi
động, động tất có nguyên nhân nên đoán là giáng chức. Nay Hạ chí thì đến tháng

Đông chí thì mới nghiệm, vì tại tháng khác thì Tý chưa thực phá thì không biến
được.
Quả tháng 7 thì kết oán với người thành lớn, đến Đông chí thì bị giáng cấp điều
đi nơi khác. Người này đi tỉnh khác lại về than là vận xấu mà bói một quẻ.
 

46
 
 
Tháng Dần ngày Bính Thìn xem được quẻ Địa Trạch Lâm. Nghe nói được người nâng
đỡ, nhưng đợi năm Tý mới được Thu dụng lại như hàm cũ. Khách biết Dịch lý ngồi
bên hỏi : Hào Hợi Thủy ở cửa ngũ sinh quan sao không đoán vậy ? ta đáp : cửa ngũ
là Thủy sinh Kim bị Thìn khắc tượng, lại vào năm Tý vì Hợi Thủy vượng tại Tý. Vả
lại hợp với quẻ trước hào ngũ trị Thái tuế bị không phá cũng hữu dụng chẳng ngại
gì. Quả năm Giáp Tý được phục lại nguyên hàm cũ. Hai lần liên tiếp được bổ nhậm,
năm Mão mở Đốc phủ. Ta khuyên thôi việc nên về. Hỏi tại sao ? Ta đáp : Lấy  quẻ
trước mà luận, Thân Kim khắc thế, Tý Thủy tương động nhưng lâm không phá, không
thể sinh thế tức sinh quan nên kết thành oán, đến tháng Tý tuy vượng nhưng lực
còn yếu nên không bị tước chức mà giáng cấp. Đến năm Tý là năm thực phá, lúc
Thái tuế đương nắm quyền nên được khởi dụng, sang năm Thìn, Tý nhập mộ, Thái tuế
không sinh tất họa nặng. Nhưng người  ấy chẳng nghe theo. Quả năm Thìn, tháng ba
bị điều trần, tuy có danh tiếng nhưng mang tội cách chức. Đấy là luận về Nguyệt
phá, phá mà động, nếu không động thì chớ đoán thế.
Lý Ngã Bình bảo : Dịch Mạo luận Nguyệt phá động làm Kỵ thần thì vô hại, làm
Nguyên thần cũng vô ích, Nhật thần sinh cũng chẳng khởi được, trăm quẻ cũng vô
dụng.
Dịch Lâm Bổ Duy nói : như lâm vào hào Nguyệt phá không cần biết suy vượng đều
đoán hung, gặp sinh chẳng nhận, gặp khắc thì rước họa, tuy có cũng như không.
Như xem quẻ Cấn biến thành Quán ở trên, lúc xem thì Tý bị Nguyệt phá không thể
tiếp tục tương sinh nên bị kiện tụng, gặp tháng điền thực lực còn nhẹ nên bị
gián cấp. Đến lúc Thái tuế đương quyền được bổ nhiệm giữ nguyên hàm cũ. Năm Thìn
nhập mộ  họa chẳng nhẹ. Hung cát cả đời liên quan đến hào Nguyệt phá này há bảo
xem như không có, là vô dụng sao.
 
 
 

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 25.04.2008 11:36:52
PHI PHỤC
 
Thường Dụng thần không hiện trong quẻ thì lấy Nhật Nguyệt làm Dụng thần. Nếu
Nhật Nguyệt không có thì tìm lại quẻ đầu của mỗi cung, vì các quẻ đầu này đầy đủ
Lục Thân tức Phụ, Tử, Tài, Quan, Huynh
 
 47
Giả như xem được quẻ Cấu. Nếu chọn Tài hào làm Dụng thần thì quẻ này thuộc cung
Càn tức dùng Dần Mão Mộc thê tài, mà 6 hào của quẻ chẳng có hào Dần Mão tức Dụng
thần. Nếu xem vào tháng ngày Dần Mão thì lấy Nhật thần Nguyệt kiến làm Dụng
thần. Nếu Nhật thần Nguyệt kiến chẳng phải là Dần Mão thì tìm lại quẻ Càn vi
Thiên tức quẻ đầu của cung Càn. Quẻ Càn này có hào hai là Dần Mộc thê tài, tức
hào này phục tại hào hai Hợi Thủy của quẻ Cấu. Hào Hợi Thủy này gọi là Phi Thần,

Dần Mộc thê tài là Phục Thần, Hợi Thủy sinh Dần Mộc là Phi sinh Phục được Tràng
sinh. Đó là Dụng thần chẳng hiện phải tìm Phục Thần nếu được sinh phò là vô dụng
cũng thành hữu dụng là đoán tốt. Ngoài ra phỏng thế.
 

 
 48
Lại xem được quẻ Độn, chọn Tử tôn làm Dụng thần. Quẻ này Thuộc cung Càn thì Thủy
là Tử tôn. Nay quẻ này chẳng có Hợi Tý tức Tử tôn chẳng hiện trong quẻ. Nếu xem
vào ngày tháng Hợi Tý thì chọn Nhật Nguyệt lầm Dụng thần. Nếu không có Nhật
Nguyệt là Thủy thì tìm lại  quẻ Càn Vi Thiên, quẻ Càn có hào sơ là Tý Thủy Tử
tôn đến Phục tại hào sơ quẻ Độn là Thìn Thổ. Vậy Thìn Thổ là Phi Thần, Tý Thủy
là Phục Thần. Đấy là Phi khắc Phục là Hại, vì Phục Thần Thụ chế thì hữu dụng
cũng vô ích tức đoán hung. Ngoài ra phỏng thế.
 
* Phục Thần hữu dụng có 6 cách :
1. Phục Thần là Nhật Nguyệt   2. Phục Thần vượng tướng
3. Phi Thần bị Nhật Nguyệt động hào sinh khắc  4. Phục Thần được phi sinh
5. Phi Thần bị không phá mộ tuyệt hưu tù  6. Phục Thần được động hào sinh
* Hoàng Kim Sách có ghi : “Không Hạ phục Thần dị vu dẫn bạt”
(Phục tại hào không thì dễ dẫn bạt)
Lý luận này quá thiển cận, không chỉ Phi Thần gặp không vong mà Phục Thần xuất
hiện còn Phi lâm không phá, tuyệt, mộ, hưu tù Phục đều dễ xuất, Phục Thần ở dưới
Phi ở trên, phi Thần gặp mộ phá, suy, không tuy có mà như không khiến Phục dễ
xuất hiện. Ở trên là 6 cách Phục Thần hữu dụng tuy không xuất hiện mà như hiện.
* Phục Thần cuối cùng chẳng xuất hiện được có 5 cách :
1. Phục Thần hưu tù vô khí
2. Phục Thần bị Nhật Nguyệt khắc
3. Phục Thần bị khắc Thần vượng tướng khắc hại
4. Phục Thần bị mộ tuyệt tại Nhật Nguyệt Phi hào
5. Phục Thần hưu tù, Tuần không, Nguyệt phá
Đó là Phục Thần có cũng như không, vô dụng cuối cùng chẳng hiện được.
* Hoàng Kim Sách có viết : “Phục cư không địa sự dữ tâm vĩ”
 (Phục gặp không thì trái với tâm) là đúng với lý luận này.
 
49
 
 
Phàm Dụng thần vượng tướng gặp Tuần không thì ngày xuất không thì dễ hiện. Như
tháng Mão ngày Nhâm Thìn : Xem văn thư ngày nào tới được quẻ Sơn Hỏa Bí. Dụng
thần Ngọ Hỏa phục tại hào hai là Sửu Thổ áp chế khó xuất hiện. Ngày Ngọ xuất
không sẽ được. Quả được vào ngày Giáp Ngọ

50
 
 
 Tháng Dậu ngày Bính Thìn xem con bị bệnh được quẻ Địa Phong Thăng.
Hoàng Kim Sách bảo : “ Không Hạ phục Thần dị vu dẫn bạt”. Quẻ này Tử tôn Hỏa
phục dưới Sửu Thổ gặp Tuần không nên phục dễ xuất hiện. Ngày Ngọ tử xuất hiện
tất lành. Quả lành vào ngày Ngọ.
 
Phần trên đây là Dụng thần chẳng xuất hiện phải tìm ở quẻ đầu ở mỗi cung tương
xứng. Cổ pháp lại bảo phàm được quẻ  Bát Thuần Dụng thần bị không phá thì tìm ở
cung khác, như được quẻ Càn Vi Thiên mà Dụng thần bị không phá suy tuyệt thì ở
cung là trao đổi giữa Càn Khôn. Dịch Lâm Bổ Di lại dùng quẻ Quy hồn Ly quẻ thứ
tư.
Dã Hạc bảo : Hà tất phải như thế, Dụng thần bị không phá suy tuyệt họa phúc đã
biết đến tám chín, há tất phải coi thêm 1 quẻ mà quyết. Ta thường không đợi Dụng
thần suy tuyệt, nhưng gặp Dụng thần không hiện tuy hữu dụng cũng như không. Xem
lại 2 quẻ tức Dụng thần hiện.
 

51


Tháng Mão ngày Bính Thìn : Xem cha bị bệnh được quẻ Phục. Phụ mẫu là Dụng thần
không hiện, phục dưới hào hai là Dần Mộc vượng sinh Tỵ Hỏa là phi sinh phục tất
sẽ lành.
 52


Nhưng không đoán thế mà tái chiêm được quẻ Tổn. Phụ mẫu là Tỵ Hỏa hiện rõ ở quẻ
tại sơ hào, mùa Xuân coi  quẻ tất được vượng nên đoán tất lành, nhưng người này
bị bệnh quá nặng không dám quyết.

 53


Con thứ lại bói được quẻ Tiệm biến Tốn. Ta nghi ngờ hai quẻ trước đều lành, sau
quẻ này Hợi Thủy hồi đầu khắc Ngọ phụ mẫu. Đột nhiên tỉnh ngộ bảo : Hai quẻ
trước Tỵ Hỏa là phụ vượng không bị thương là ứng chuyện trước mắt thì lành. Quẻ
này Hợi Thủy khắc Ngọ thì mùa Đông khó qua được, như vậy cùng với hai quẻ trước
tương đồng.
 
 
54
 
 
Lại mời phu nhân bói được quẻ Độn biến Cấu. Liền ba quẻ tiếp con coi cho cha Hợi
Thủy hóa hồi đầu khắc, cha tự xem thì Hợi Thủy khắc thế, vợ xem cho chồng thì
Hợi Thủy khắc phu. Ba quẻ giống như một, suy ra mùa Đông tất nguy. Quả chết vào
mùa Đông.



Lý Ngã Bình nói : Cổ pháp dùng Phục Thần tuy nghiệm nhưng sự suy vượng, hưu tù,
hình xung khắc Hại, Nguyệt phá, không của Dụng thần cũng khó đoán vì thế xem 
nhiều quẻ. Trong Dịch Mạo có để lại quẻ để chiêm nghiệm.
 
 
55
 
 
Tháng Tý ngày Mậu Dần : xem quan chức được quẻ Khốn biến Đoài. Sách đoán : Phi
hào Ngọ là quan tinh lâm phá. Tỵ  quan phục tại Dần được tràng sinh, mạnh Xuân
sẽ lên chức.



Hoàng Kim Sách bảo : Phi hào biến hào đều không có Dụng thần thì tìm Phục Thần,
quẻ này hào sơ là Dần Mộc biến xuất Tỵ Hỏa là quan tinh, mạnh Xuân quan tinh gặp
tràng sinh, tài hào độc phát sinh quan mà nói Phục Thần. May quẻ này biến và
phục đều là Hỏa.
Nếu người sau gặp quẻ khác mà theo phép đoán này dùng biến lâm phục thì quả dễ
lầm lẫn cho đời sau. Quẻ này để trong phần chiêm nghiệm thì  quá tức cười.
 
 
 
 56
 
 
Năm Tân Mão, tháng Bính Thân, ngày Bính Tý : xem con sống chết được quẻ Quán biến Tụy. Thủy là Tử tôn không hiện trong  quẻ  may nhờ tháng Bính năm Tân, Bính
Thân Hỏa Thủy sau vào tháng Hợi ngày Giáp Thìn giờ Tân Tỵ hợp thành Thủy cục,
tháng Hợi thì về. Ta đoán : thế hào Mùi Thổ động hóa xuất Hợi Thủy Tử tôn, Hợi
Mão Mùi hợp thành tam hợp cục mừng cha con đoàn tụ, tương phùng. Vì sao lại chọn
biến quái vì nếu trong  quẻ không hiện Tử tôn, chọn Tý Thủy Nhật thần làm Dụng
thần mà lại lấy biến như thế, lại lầm cho người sau hơn là dạy họ.

CHƯƠNG 28
 
TẤN THẦN – THÓAI THẦN
 
Tấn thần – Thoái Thần là do động hào biến ra. Cát hung họa phúc của tấn và thoái
đều phân ra có lúc nên có lúc kỵ. Điều tốt thì nên tấn, điều kỵ thì nên thoái.
 Tấn thần : là Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tỵ hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn,
Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
 Thóai Thần : là Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tỵ, Dậu hóa Thân, Thìn hóa
Sửu, Sửu hóa Tuất, Tuất hóa Mùi
Tấn thần là hóa tiến, tiến tới tươi tốt như mùa Xuân như nguồn nước tự tiến xa.
 
 57


Tháng Thân ngày Quý Mão : Xem thi Hương được quẻ Hằng biến Đại Quá. Đoán rằng
Dậu quan trì thế đang vượng được ngày Mão xung thành ám động lại được hào ngũ
tinh hóa Tấn thần giúp đỡ không chỉ đậu vào mùa Thu mà tiếp đến mùa Xuân cũng
đậu đầu. Sau quả đậu liên tiếp.


 58


Tháng Mão ngày Ất Sửu : xem cầu hôn được quẻ Phệ Hạp biến Truân. Tài hào trì
thếhóa Tấn thần, Tỵ Hỏa Tử động sinh thế, chỉ có Tỵ hóa hồi đầu khắc nên đợi
ngày Ngọ xung khởi Tý Thủy để Tỵ Hỏa Tử tôn sinh thế thì thành. Quả sau thành
vào ngày Ngọ. Có người hỏi : Hào Dậu Kim động sao không ngăn trở ? Dậu quỷ hóa
Thoái thần tuy có cũng như không. Quẻ  ngày Mùi Thổ hóa không. Lúc xưa thấy tài
hào hóa Tuần không, bị Nhật Nguyệt xung động cho là không có sức mà tấn. Thật ra
động tấn hóa không mà tấn cũng tiến tới vậy.
 59
 
Như tháng Dậu ngày Giáp Thìn : nhân bị tội phải từ trần chẳng biết ra sao xem
được quẻ Sư biến Minh Di. Đoán rằng : Thế hóa hồi đầu khắc, quan hóa Thoái thần,
tử tôn hóa Tấn thần. Ba hào này đều là tượng đại hung. Quả nhiên qua năm bị cách
chức tra hỏi. Xưa dùng Nhật Nguyệt động hóa không phá đoán là không thóai. Quẻ
này quan lâm Nhật thần hóa không phá. Cũng có nói Nhật Nguyệt động hóa không phá
thì không tấn, quẻ này Tử tôn hưu tù hóa không phá cũng cứ tấn vậy. Tấn cứ tấn,
thoái cứ thoái.
 
 60


Lại như tháng Sửu ngày Bính Tuất : có tin cha đi trấn nhậm, xem đi đón có gặp
không được quẻ Kiển biến Lữ. Phụ hóa thóai Thần thì cha sẽ về. Thế hóa Tấn thần
là mình muốn đi, phụ hào sinh thế thì nhất định sẽ gặp vào ngày Mùi. Quả ngày
Mùi gặp, ứng với ngày Mùi vì Tuất phụ hóa Mùi là hóa không phá, nếu chấp vào Cổ
pháp thì Nhật Nguyệt động hóa không phá thì chẳng sao.
 
 61


Tháng Tuất ngày Quý Tỵ : Xem có được thăng chức không được quẻ Tiết biến Nhu.
Sửu Thổ quan tinh hóa Tấn thần thì ngày Sửu tất được. Sau quẻ được vào ngày Sửu.
Xưa bảo Nhật Nguyệt động hóa không phá thì không tấn, nhưng quẻ này cũng tấn
vậy.
 


 62 
Lại như tháng Mùi ngày Đinh Mão xem công danh sau này có ra làm quan được không
được quẻ Đồng Nhân biến Cách. Nếu ta lấy Cổ pháp mà đoán thì Tử động quan lâm
không thì suốt đời không được làm quan. Ta đoán : năm Thìn sẽ ra làm   quan, Tử
tôn Tuất Thổ động hóa thóai Thần thì không khắc quan, năm Thìn xung Tuất sẽ
được. Quả năm Thìn được tuyển, há động hóa Nhật Nguyệt là không thoái sao ?
 
 63


Tháng Sửu ngày Quý Mão : xem vợ bị bệnh uống Thuốc có lành không được quẻ Lâm
biến Thái. Đoán rằng : huynh động hóa Tấn thần thì linh dược chẳng cứu được, vợ
tất chết vào ngày Thìn. Huynh này động hãn, Nguyệt kiến hóa không thì chẳng tấn
sao ?



 64
 Tháng Thân ngày Tân Mão : xem bệnh được quẻ Quải biến Đại Tráng. Ông này bị
chứng bệnh nguy hiểm. Ta bảo Tử tôn trì thế ngày Thìn sẽ gặp lương y. quả ngày
Thìn gặp thầy châm thì lành. Có kẽ bảo Tử tôn hóa thóai Thần sao dùng Thuốc mà
công hiệu được. Ta đáp: Động biến đều Thuộc Kim đang được mùa xem việc gần nên
có thể không thối được, nếu xem việc lâu dài thì lúc hưu tù mà thối thì được.
Xưa cho động phá hóa Nhật Nguyệt là hết đường thì chẳng đúng.
 65


Tháng Tuất ngày Ất Mão : Xem mẹ bị băng huyết đã một năm được quẻ Đồng Nhân biến
Giải. Đoán rằng : Mão Mộc phụ mẫu lâm Nhật thần, Hợi Thủy là thế hào, Tử tôn lâm
Tuất, Tài lâm Thân Kim, Kim sinh Thủy Hợi, Sửu Thổ hóa Tấn thần khắc Hợi Thủy,
nếu không thì hào phụ mẫu được hào vượng tướng nay sinh được mà thoái. Nay hào
phụ mẫu không có Thủy nuôi dưỡng mà hóa thoái, tinh huyết quá vượng đến tháng
Sửu vượng quá thành tuyệt, sợ hiểm nguy. Quả chết vào tháng Sửu. Đó là phụ hào
lâm Nguyệt kiến chẳng hóa không phá mà cũng thoái.
 
 66


Tháng Tuất ngày Quý Mùi xem bệnh được  quẻ Càn biến Quải. Đoán rằng cửu bệnh gặp
xung khó trị được vả lại phụ hào trì thế Thuốc hay khó lành. Tuy hóa thóai nhưng
tinh Thần kinh mạch khôn lần. Phòng năm tháng xung Mùi Thổ là hết đường. Quả
chết vào tháng Sửu
 


 67


Tháng Mão ngày Quý Dậu xem cha mẹ bị cận bệnh được quẻ Tụy biến Bỉ. Mùi Thổ là
phụ mẫu động hóa Tấn thần, Tuất lại lâm không, cận bệnh gặp không tất lành. Ngày
mai lành bệnh. Quả đến ngày Giáp Tuất xuất không thì lành. Đấy là phụ hào hưu tù
hóa không. Theo cổ pháp Nhật Nguyệt động hóa không phá thì không tấn. Nay đã hưu
tù hóa không mà lại lành sao ?
 68


Tháng Thìn ngày Quý Sửu xem bệnh được  quẻ  Khốn biến Giải. Đoán rằng thế hào ở
Dần Mộc gặp tuần , Dậu Kim là Kỵ thần ở hào ngũ thì theo cổ pháp gặp không như
trốn, xuất không  tức bị thương khắc. Sau chết vào tháng sáu, ứng vào tháng này
vì Mùi là mộ phá của thế, ngày Sửu xung khởi để cho bị khắc. Nhập mộ làm sao
khỏi chết. Hỏi Dậu Kim hóa thoái sao lại khắc mộ, ta nói : Thổ sinh Kim vượng
nên chẳng thoái.
 
 69


Tháng Thìn ngày Ất Sửu xem mẹ vợ bị bệnh được quẻ Tùy biến Bỉ. Tý Thủy là phụ
hào hóa Mùi Thổ hồi đầu khắc, vả lại Mùi Thổ là Tài hào hóa Tấn thần khắc phụ
nên phòng ngày Tuất. Quả chết vào ngày Giáp Tuất là ngày Thổ xuất không. Theo cổ
pháp thì tán xem như chẳng có. Quẻ này Mùi Thổ bị Sửu Nhật  xung lại hóa không,
Nguyệt phá mà chẳng thấy tán gì cả.
 70


Tháng Thân ngày Ất Mão xem xuất hành được quẻ Truân biến Tiết. Thế hào lâm Dần
Mộc hóa Tấn thần thì sắp đi nhưng vì Nguyệt phá nên ra khỏi tháng mới đi được.
Sau đến tháng Hợi thì đi thừ Yên đến Việt, tháng 8 năm sau mới về. Ta hỏi đi
đường có bình an hay không. Đáp : yên ổn. Ta thấy Tử động hóa Tấn thần nên biết
bình an mới hỏi như vậy, ứng vào tháng Hợi vì phá gặp hợp. Đấy là động phá hóa
Nhật thì chẳng tấn sao ?
 71


Tháng Thìn ngày Kỷ Mùi xem anh lúc nào về được quẻ Lý biến Đoài. Huynh động hóa
thóai thì có chí quay về, nhưngg vì Nguyệt phá thì ở ngoài chẳng an, mọi việc
chẳng toại, tháng sáu thì đã ngóng trông được rồi. Sau đến tháng Tuất thì mới
về, đấy là ứng thực phá. Động phá hóa Nhật Nguyệt chẳng thối sao ?
 
 
 72


Tháng Thìn ngày Ất Mùi xem bệnh được quẻ Đại Hữu biến Khuê. Đồng thời có người
xem cho cháu cũng được quẻ này. Phụ lâm Nguyệt kiến hóa thóai mà hôm sau thì
cháu nội chết.





 73


Tháng Mão ngày Bính Dần : người gia dịch xem có lên chức không được quẻ Dãi biến
Khốn. Quan động hóa Tấn thần mùa Thu thì được. Sau được vào tháng Tỵ, ứng vào
tháng Tỵ vì động mà gặp hợp, Thần lại tràng sinh ở Tỵ. Há động Nhật Nguyệt hóa
không phá thì không tấn sao ?
 


 74


Tháng Tỵ ngày Ất Sửu xem thi có đậu không được quẻ Đoài biến Tụng. Đoán rằng :
phụ hóa Tấn thần, Tỵ Hỏa quan tinh động sinh thế hiển nhiên là điềm tốt, cứ ngồi
chờ tên. Quả ngày Dần yết bảng đậu thứ tám. Theo cổ pháp thì động phá tán hóa
Nhật Nguyệt không chỉ tấn. Hào này động hóa không tán mà vẫn cứ tấn sao.
 

 75


Tháng Mùi ngày Đinh Sửu xem mẹ ở xa lúc nào về được quẻ Đại Hữu biến Tỉnh. Sơ
hào Tý Thủy hóa Sửu Thổ, Tý hợp với Sửu thì chẳng về. Mùi phụ hóa Tấn thần cũng
ứng không về. Dậu huynh hóa thóai hợp thế thì mẹ không về mà anh em về. Người
này nói chỉ có em gái. Quả đến sau tháng ba thì em gái về. Đấy là huynh không
hóa không mà vẫn thối.
 
 76


Tháng Mùi ngày Tân Sửu xem mở phố bán vàng bạc được quẻ Phệ Hạp biến Truân. Tài
hào trì thế hóa Tấn thần là tượng lâu dài phát triển. Ta nói nên lấy ngày Giáp
Tuất khai trương thì đại phát. Quả nhiên khai trương vào ngày Tuất thì tiệm
thịnh vượng. Đấy là động hóa Nhật Nguyệt mà vẫn không tấn.
  
Dã Hạc nói :
* Tấn thần có 4 phép
1. Động vượng tướng hóa vượng, thừa thế mà tiến lên
2. Động hưu tù hóa hưu tù, đợi thời mà tiến
3. Động hào, biến hào có một bị hưu tù thì cũng đợi lúc vượng tướng mà tiến
4. Động hào, biến hào có một bị không phá thì đợi ngày điền thực mà tiến.
* Thoái Thần cũng có 4 phép :
1. Động vượng tướng hóa vượng tướng hoặc có Nhật Nguyệt sinh phù, động hào sinh
thế, xem việc gần được thời chẳng thối.
2. Động hưu tù hóa hưu Thù đến lúc sẽ thối
3. Động hào biến hào có một vượng tướng thì đợi lúc hưu tù sẽ thối
4. Động hào biến hào có một bị không phá thì đợi ngày điền thực sẽ thối.
Lý Ngã Bình nói : Ban đầu Dịch Mạo có đại tấn, bất tấn, bất năng tấn mà vậy là
cân lý. Người sau thấy động Nhật Nguyệt hóa không phá thì là không có đường tức
không tấn, như thế sao động hào mà lâm Nhật Nguyệt hóa không phá chẳng bị phá,
huống gì bị không phá. Nhật Nguyệt hóa không như trời bị mây che, lúc thực
không, thực phá thì mây bay, mù tán. Biến Nhật Nguyệt là như ở nhờ làm sao mà
tiến. Chẳng biết động phá thì có lúc thực phá, động mà tán thì có ngày điền
thực, huống gì hào lâm Nhật Nguyệt gọi là hóa vượng thì ngày sau lại gặp điền
thực càng vượng, sao bảo chẳng tiến được.
 
 77


Như tháng Thân ngày Mão xem huynh đệ được quẻ Đoài biến Phong. Dậu Kim là huynh
đệ bị ngày Mão xung tán hóa Thân lâm Nguyệt kiến cũng không kịp thối. Bảo không
kịp kịp thối thì quá sai. Sách này chương Nguyệt tướng có nói  hào lâm Nhật
Nguyệt gặp tán thì bất tán, những chương khác còn đủ chiêm nghiệm, còn chương
này chỉ có vài phần ta biết là viết vậy chẳng do kinh nghiệm.
 
 
 
 

vanti67
  • Số bài : 1369
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.04.2007
RE: TĂNG SAN BỐC DỊCH (DÃ HẠC LÃO NHÂN) - 25.04.2008 11:44:53
 
CHƯƠNG 29
 
TÙY QUỶ NHẬP MỘ
 
Xưa có nói đến tam mộ, là nhập mộ, động mộ, hóa mộ rồi thế hào tùy quỷ nhập mộ,
bản mệnh theo quỷ nhập mộ, quái Thân tùy quỷ nhập mộ, thế Thân tùy quỷ nhập mộ.
Giác Tử hỏi :  Chấp theo lý luận này thì gặp ngày Thìn Tuất Sửu Mùi chẳng dám
xem quẻ, thế không lâm quẻ thì quái lâm quẻ không, thế thì bản mệnh lâm quỷ mà
không chỉ ở các ngày Thìn Tuất Sửu Mùi, các ngày khác cũng chẳng dám xem. Vì sao
vậy ? Bốc quẻ làm sao khỏi tránh được tam mộ, động mộ, thế chẳng nhập thì thân,
thế không hóa mộ thì thân thật khó bảo toàn bản mệnh. Còn hào chẳng hóa mộ thì
không cần xem hình khắc hại phá tán tuyệt, phàm xem bệnh chỉ lấy tùy quỷ nhập mộ
thì biết hung cát. Ta thường thử xem quẻ bệnh tật, mọi quẻ đều thấy thế vượng
thì lành, thân có tùy quỷ nhập mộ cũng không chết, hóa mộ động cũng không chết.
Những kinh nghiệm để lại chẳng đúng, thử mãi thấy trong 100 quẻ thì chỉ ứng một
hai, thế mới biết dụng hào thế hào nếu tùy quỷ nhập mộ động mộ hóa mộ nếu hưu tù
vô khí mới hung nguy, còn vượng được phò thì có cứu giải.
 
 78

 Tháng Thân ngày Mậu Thìn xem chồng bị bệnh được quẻ Đồng nhân biễn Ly. Đoán rằng
vợ xem cho chồng thì dùng hào Quan quỷ làm Dụng thần, Dụng thần nhập mộ tại ngày
Thìn là phu tinh nhập mộ. Theo cổ pháp đoán thì tất chết. Ta đoán : không những
chẳng chết mà ngày mai lành. Vì sao vậy ? Ngày Thìn xung động Tuất Thổ sinh Thân
Kim vì thế Hợi Thủy bị không vong không được sinh, ngày mai xung khởi, Hợi Thủy
được sinh thì hết bệnh. Quả hôm sau thì lành.
  
 79
 Như tháng Tuất ngày Giáp Dần xem thi Hội có đậu không được quẻ Tiểu Quá biến
Cấu. Thế hào theo Quan nhập mộ, nhập động mộ hóa mộ, nhập vào mộ tại Nguyệt
kiến. Sang năm xung khởi mộ khố thì ngược lại rất tốt không chỉ đậu liên tiếp mà
đậu cao nữa. Quả nhiên vậy.
  
 80
  
Lại như tháng Thân ngày Kỷ Sửu xem bệnh được quẻ Hằng. Mình tùy quỷ nhập mộ, thế
hào tủy quỷ nhập mộ, thế Thân lạc không vong, quái Thân lâm Nguyệt phá, theo Cổ
pháp thì hết đường. Ta nhân thế hào vượng tướng nên đoán ngay Mùi lành. Quả ngày
Mùi lành ứng với ngày xung khai mộ khố. Cổ pháp xem trọng ở mộ khố, như vậy là
cân lý. Người bị bệnh hôn trầm đột nhiên đến ngày Mùi thì lành, há tùy quỷ nhập
mộ thì chết.
 
 81


Lại như tháng Mùi ngày Mậu Thìn xem bị trọng tội còn hy vọng được ân xá không?
Được quẻ Cổ biến Tổn. Thế hào tùy quỷ nhập mộ lại động hóa mộ nên hung, ta chẳng
đoán vậy vì Nhật Nguyệt sinh thế, Sửu mộ bị Nguyệt phá là phá la võng nên dễ
xuất ra. Sang năm là Dậu được ân xá. Quả sang năm thì được thả ra.
 
Ta thường thử được nghiệm, lại có kinh nghiệm về thế hào nhập mộ thường chia ra
ba loại :
1. Thế hào tùy quỷ nhập mộ ở Nhật thần
2. Thế hào nhập động mộ
3. Thế hào động hóa mộ
Tự đi xem thì thế hào vượng tướng thì không thật mộ. Dụng thần vượng tướng thì
không thật mộ. Duy thế hào, Dụng thần hưu tù bị khắc nhập mộ mới thật là mộ. Mộ
Thần gặp ngày tháng xung phá, động hào xung phá cũng chẳng phải mộ, giống như
phá lưới để xuất hiện.
Xem công danh được thế vượng, đắc địa thì năm tháng xung khắc mộ khố sẽ thành
danh, nếu thế bị không phá hưu tù thì tượng khó thành
Xem Thân mệnh : Thế vượng đắc địa, gặp năm tháng xung khởi mộ khố sẽ phát lớn,
thế hào không phá hưu tù thì chẳng ra gì giống như Nhật Nguyệt không có ánh
sáng.
Xem ra làm quan, xem xuất hành : Thế vượng đắc địa gặp ngày thàng xung khởi mộ
khố sẽ được toại ý, nếu không phá hưu tù thì chẳng được gì
Xem cầu tài, mưu sự thế vượng thì ngày tháng xung mộ sẽ thành, nếu không phá hưu
tù thì cuối cùng chẳng được.
Xem hôn nhân : Thế vượng đắc địa cùng tài hào hữu khí sinh thế thì gặp ngày
tháng xung khởi mộ thì thành, nếu không phá hưu tù thì khó thành tựu.
Xem tật bệnh : Thế vượng đắc địa gặp ngày tháng xung khởi mộ thì lành, nếu không
phá hưu tù gặp ngày xung khởi thì nguy, cận bệnh gặp không vong thì xung không
thì lành.
Xem tụng ngục : Thế vượng thì ra được, không phá hưu tù thì khó tránh được hung.
Xem hành nhân : Dụng thần hóa mộ, nhập mộ, động mộ tất trở về, Dụng thần không
phá hưu tù thì chẳng bệnh cũng lưu lạc tha hương.
Xem thai sản : Tài hào tử tôn nhập động mộ hóa mộ mà vượng thì ngày tháng xung
mộ tất sinh, tài bị không phá hưu tù thì vợ bị gặp sản nạn, tử bị không phá thì
con tất nguy.
Xem về chốn công môn : Thế vượng đắc địa gặp năm tháng xung mộ được toại tâm,
gặp không phá hưu tù thường bị gông cùm ngục tù.
Xem gia trạch : Thế vượng hoặc được tài hào sinh thế thì năm tháng xung mộ sẽ
hưng gia, nếu không phá hưu tù thì Thân suy gia phá.
Xem mồ mã gia trạch cũng như vậy.
Xem mới chôn cất thì vượng tướng hưu tù đều giống nhau.
Xem ra đi vào nơi hiểm trở : Thế hào vượng tướng lại được sinh phù thì chẳng
nguy dù quỷ ở bên mình.
Xem kiện tụng : Thế vượng thì đắc lý, không phá hưu tù thì khắc hình ngục tù.
Xem mọi chuyện : Thế hào nếu vượng, mộ hào bị không phá thì đợi ngày điền thực
mộ hào sẽ cát, thế hào không phá hưu tù sẽ gặp hung tại ngày tháng điền thực.
Vì vậy xưa cho thế lâm phá quỷ như xem khi phòng chuyện lo âu thì có họa tiêu.
Ta thì chẳng cho như vậy, thế bị Nguyệt phá dù có Bạch Hổ, quỷ trước mắt tuy
khỏi phòng, nhưng gặp năm tháng thực phá thì không tốt.
 
 82


Như tháng Thân ngày Kỷ Mùi xem giặc có đến không được quẻ Đại Súc biến Thái.
Thời đó có giặc cướp nổi lên, lui tới bất thường, người làng không lúc nào được
an. Ngày nọ đột nhiên giặc đến, người xem đem vợ con chạy trốn, con gái nhỏ chưa
kịp theo, y trở lại nên cùng với con gái bị hại. Hào thượng quỷ hóa tử tôn cho
nên như vậy, thế lâm quỷ phá họa đâu có tiêu. Quỷ lâm Nguyệt phá bất động cũng
chẳng nghiệm.
 
CHƯƠNG 30
 
ĐỘC PHÁT – ĐỘC TĨNH
 
* Năm hào đều động, một hào bất động gọi là độc tĩnh
* Năm hào bất động, một hào động gọi là độc phát
Sự thành bại là do Dụng thần nhanh chậm, ứng kỳ cũng do Dụng thần độc phát, độc
tĩnh. Xưa cũng có nghiệm nhưng nghiệm sau khi ứng việc đã rồi, chẳng dám chấp mà
đoán họa phúc cùng ứng kỳ, huống hồ quẻ độc tĩnh thì ít mà quẻ độc phát thì
nhiều. Bỏ Dụng thần mà chấp theo hào độc phát độc tĩnh thì sợ lầm lẫn.
 
 83


Tháng Thìn ngày Giáp Ngọ xem nghênh đón linh cửu của phụ vương có được không
được  quẻ Đại hửu biến Ly. Người này có môn khách biết Dịch lý nói : Dần Mộc độc
phát hóa xuất Sửu phụ là đúng ý nguyện thấy đượcc linh cửu của cha. Ta bảo đoán
thế là ngoa : trong quẻ phụ hào trì thế bị Dần Mộc khắc chế là Thân không động
mà linh cửu của cha cũng không động, muốn thân động mà thấy linh cửu cần ngày
tháng xung khai Dần, xin xem thêm một quẻ để dễ quyết đoán.
 
 84 
Lại được quẻ Cách biến Ký tế. Ta bảo : quẻ này hợp với quẻ trước, quẻ trước ứng
với xung khai Dần Mộc là Thân Kim. Quẻ này thế hóa Thân Kim hồi đầu sinh cũng
ứng vào tháng Thân. Thế lâm Hổ động nhân việc tang chế mà đi, ngày Mão xung động
hào ngũ sinh thế, năm nay tháng Thân được ân. Trước mắt thì Nguyệt phá ngàn lần
chẳng được. Sau ứng vào năm Thân cuối năm đón linh cửu mà về. Đấy là hai quẻ độc
phát có thể chấp nhận được.
 
 85 
Tháng Ngọ ngày Giáp Thân : phòng nước lụt phá lúa xem ngày nào tạnh được quẻ
Đồng nhân biến Cách. Có người cầm quẻ này đến hỏi ta và nói : Tuất Thổ tử tôn
độc phát thì ngày Bính Tuất phải tạnh sao lại còn mưa. Ta nói : Lo lúa bị nước
lụt làm hư dùng tử tôn động khắc  quỷ bên mình, muốn khỏi phải lo thì không ứng
với tạnh, tuy trước mắt không tạnh nhưng nước chẳng lên. Đã quyết đoán lúc nào
tạnh thì ngày Mão tạnh hẳn, người xem hỏi vì sao ? Động thì gặp hiệp tất hết lo.
Quả nhiên ngày Mão tạnh hẳn.
86 
Tháng Thìn ngày Giáp Ngọ xem khai mỏ than được quẻ Gia Nhân biến Ích. Sửu là tài
trì thế được ngày Ngọ sinh có thể khởi được. Hỏi lúc nào thấy than ? Đáp : Sửu
Thổ là tài tinh, tháng Mùi xung khởi ứng vào tháng sáu. Đến tháng sáu chẳng thấy
than, đến năm Hợi tháng Thìn thì được than. Đấy là ứng độc phát, Hợi Thủy hóa
Thìn Thổ, năm tháng đều ứng quẻ, ai dám đoán vào năm Hợi tháng Thìn.
 
 87


Tháng Dần ngày Canh Tuất xem con gái bị bệnh được quẻ Vị Tế biến Kiển. Xưa dùng
hào độc tĩnh để đoán ứng kỳ, ví như quẻ này Dần Mộc độc tĩnh , nếu không xem
Dụng thần mà đoán Dần Mộc thì sống hay chết. Ta thấy quẻ này tử tôn tuy hưu tù
nhưng được Tỵ Ngọ Hỏa động sinh nó, Mùi Thổ hóa Tấn thần, Thìn Thổ hóa hồi đầu
sinh, ngày Dần tất lành, nhưng chẳng dám quyết.
 88
  Khiến mẹ xem thêm một quẻ được quẻ Cấu biến Vô Vọng. Hợi Thủy tử tôn động hóa
Dần Mộc không vong  bệnh gặp không tất lành. Ngày xuất không là ngày Dần. Quẻ
nầy hợp với quẻ trước
Ta nói : Ngày Dần lành, trước mắt tuy bị nặng nhưng đừng lo, quả ngày Dần đang
mê thì tỉnh. Đấy là quẻ trước tuy ứng một hào độc tỉnh nhưng được một hào vượng
tướng, lại được quẻ sau mới dám quyết là ngày Dần.
Lý Ngã Bình nói : Dịch mạo lấy cát hung ở động vì thế trọng ở động mà xem nhẹ ở
dụng, việc ứng lại không xem ở dụng mà xem ở quái tượng khiến dạy người coi
trọng ở độc tỉnh. Dùng độc tỉnh mà không dùng Dụng thần thì đã rõ.
Lại bảo tuy không là Dụng thần mà bất chấp dụng hào, như vậy dạy người dùng dụng
hay không dùng dụng.
Lại nói : Độc phát độc tỉnh có thể định ngày giờ còn hung cát nên xem Dụng thần
. Như vậy dạy người nên xem trọng dụng hào sao? Để sách truyền cho người, phá
những chỗ nghi ngờ xưa nay, chứ bất định như vậy làm sao thành phép để lại.
  
CHƯƠNG 31
 
LƯỠNG HIỆN
 
Như xem về cha mẹ mà trong quẻ có hai hào phụ mẫu gọi là Dụng thần lưỡng hiện.
theo cổ pháp tì bỏ hưu tù dùng vượng, bỏ tĩnh dùng động, bỏ Nguyệt phá dùng bất
phá, bỏp tuần dùng bất không, bỏ bị thương mà dùng không bị thương. Ta có kinh
nghiệm với Tuần không Nguyệt phá là bỏ bất không dùng tuần, bỏ bất phá dùng phá.
 
 89
 
Tháng Mùi ngày Canh Tý xem cầu tài được quẻ Tỉểu Súc. Ưáng lâm Nguyệt kiến là
tài khắc thế thì chắc chắn được. Người xem hỏi lúc nào ? Ta bảo ngày Tân Sửu
xung động tài tất được, thế mà được vào ngày Thìn xuất không. Đấy là bỏ bất
không mà dùng không. 
 90


Tháng Mùi ngày Giáp Ngọ xem lên chức được quẻ Sư biến Hoán. Đoán rằng thế hào
cực vượng lâm Nhật thần, được Nguyệt kiến lâm quan tinh hợp thế, nhưng trong quẻ
hiện hai hào quan một không và một phá. Đến năm Thìn thì xuất không thì lên cao,
nhưng ngoại quái phản ngâm tức đi rồi lại về. Quả năm Thìn điều đi Hà Nam, tháng
5 vì cớ khác đưa về chổ cũ, tháng 10 mở đốc phủ, 10 năm hai lần thăng chức, ứng
với thực không. 
 91


Tháng Hợi ngày Bính Ngọ xem con lúc nào thoát ách được quẻ Dự biến Lôi. Ta thấy
trong quẻ tử tôn hiện ba nơi đều sinh hào thế : Ngọ ở Nhật thần và hào Ngọ tĩnh,
hào Tỵ bị Nguyệt phá nên đoán năm Tỵ thoát ách tức năm thực phá. Âëy là Dụng
thần tam hiện mà dùng Nguyệt phá vậy.
 

Dã Hạc nói : Ta lấy hào Nguyệt phá mà đoán ứng kỳ. Nghe nói không phải chỉ một
quẻ này. Dầu là lão phu nhân đến xem quẻ thì gặp Thân tử tôn động, động thì gặp
hợp ứng với năm Tỵ. Rồi em xem cho anh cũng Thân Kim động, ứng vào năm Tỵ, quẻ
này Tỵ tử tôn hôì đầu sinh thế, tuy bị Nguyệt phá nhưng hợp hai quẻ trước mới
dám đoán năm Tỵ. Bốc dịch linh cơ hoạt biến, muốn lưu lại Thần kỳ, nếu chẳng lưu
tâm thì đoán Ngọ Hỏa sinh thế thì dùng năm Ngọ, huống gì Ngọ hợp với thế đâu dám
đoán năm Tỵ nhân hai quẻ mới dám đoán thế. 
 
CHƯƠNG 32
 
TINH SÁT
 
* Thái ất quý nhân :
- Giáp mậu kiêm Ngưu Dương
- Ất Kỷ thử Hầu Vương
- Bính Đinh Trư Kê vị
- Nhâm Quý Thố Xà Tràng
- Canh Tân phùng Mã Hổ
Ví dụ : ngày Mậu xem quẻ, trong quẻ có hào Sửu tất Quý nhân ở đấy
* Lộc Thần :
Giáp lộc ở Dần, Ất lộc ở Mão, Bính Mậu lộc ở Tỵ, Đinh Kỷ lộc ở Ngọ, Tân lộc ở
Dậu, Canh lộc ở Thân, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý. Ví dụ ngày Giáp xem quẻ lộc
tại hào Dần.
* Dịch mã :
Thân Tý Thìn mã ở Dần, Tỵ Dậu Sửu mã ở Hợi, Dần Ngọ Tuất mã ở Thân, Hợi Mão Mùi
mã ở Tỵ. Như ngày Thân xem có hào Dần tức có dịch mã.
* Thiên hỷ :
Xuân : Tuất ; Hạ : Sửu ; Thu : Thìn ; Đông : Mùi. Như mùa Xuân tháng 1, tháng 2
quẻ có hào Tuất tức có Thiên Hỷ. Tháng 3 tuy lấy hào Tuất làm Thiên hỷ nhưng bị
Nguyệt phá nên trong quẻ có hào động sinh, Dụng thần vượng tướng thì là Hỷ chớ
không phải phá, ngoài ra phỏng thế.
Mọi sách thường có nhiều Tinh đẩu, ta lưu tâm 40 năm thì chỉ nghiệm có quý nhân,
Lộc Thần, Dich mã và Thiên hỷ. Nhưng chẳng độc quyền nắm họa phúc. Dụng thần
vượng tướng thì tốt thêm, Dụng thần thất hãm có cũng như không.
Lý Ngã Bình nói : Phục Hy xem chẳn lẽ để định âm dương, Văn Vương dùng hào đoán
hung cát sau đó Chu Công quyết họa phúc ở Ngũ hành là cùng cực của Đạo Dịch.
Ơã chương tật bệnh trong Dịch mạo bốc quẻ bất tử gặp tinh đẩu bất tử, Dụng thần
sinh thì sống, Dụng thần tử thì chết. Đó cùng đắc lý.
Gần đây trong chương Tinh đẩu lại định nhiều sao để kẽ hậu học chẳng biết ra sao
mà theo để được nghiệm quý nhân lộc mã tất chỉ là Thần phụ họa. Sự vượng tướng
của Dụng thần mới quyết được họa phúc, không dùng cũng chẳng sai ý của tiền
nhân. Thiên Kim phú có viết :
 “ Cái hung Thần chi đa đoan, hà như sinh khắc chế hóa chi lý”
 
 
Chôĩng  Thièn  Thĩøi
 
 Thê tài phát động bát phương hàm ngưỡng tình quan phụ mẫu hưng long tư hải tân
triêm vũ trạch. Giải nghĩa : Lấy hào phụ mẫu làm mưa, tài động tức khắc chế được
Thần vũ cho nên chủ là nắng.
 Ứng nãi thái hư phùng không tắc vũ tĩnh nang ngoại. Giải nghĩa : Chiêm thiên
thời ứng lâm không thì mưa nắng tráo trở, nên cần phải dựa vào tác vụ Nhật thần
để đoán.
 Thế rãi đại khôi thọ khắc chế tắc thiên biến phi thường. Giải nghĩa : Ứng là
trời là thể của vạn vật, thế là đất là chủ của vạn vật. Nếu thế bị động hào khắc
chế tức là có chuyện thay đổi phi thường.
 Nhật Thân chủ nhất Nhật chi âm tính. Giải nghĩa : Như hào phụ mẫu bị động hào,
Nhật thần khắc chế thì trời không mưa, nếu hào phụ mẫu động được Nhật thần sinh
phò thì trời mưa to, tài hào động được Nhật thần sinh phò thì chủ nắng gắt vì
vậy cho nên Nhật thần là chủ.
 Tử tôn quán chủ thiên chi Nhật Nguyệt. Giải nghĩa : Tương dương thì tử tôn là
mặt trời, tương âm tử tôn là mặt trăng. Nếu tương vượng thì trăng thanh, tương
suy thì trăng mờ. Bị khống phục thì mờ ảo, mây mù, mộ tuyệt thì an nuôi không
thấy vì vậy cho nên mộ cần gặp xung, tuyệt thì cần gặp sinh phò.
 Nhược luôn phong vân, toàn bằng huynh đệ. Giải nghĩa : Lấy hào huynh đệ để xem
về mây gió, vượng động hoặc suy hình để lấy đó mà luận mây gió to nhỏ hoặc mù ảm
đạm. Nếu hỏi về gió Thuận nghịch thì không cần phải lấy hào huynh đệ mà ta lấy
hào tử tôn làm gió Thuận, hào quan quỷ làm gió nghịch.
 Yếu trí lôi điền đảm khán quan hào. Giải nghĩa : Hào quan quỷ tại quẻ chấn
động thì sấm vượng tướng, thì có sét, mà hóa tiến Thần cũng như vậy. Hoặc quẻ mà
không có hào phụ mẫu thì sấm mà không mưa. Nếu hào phụ mẫu trực Nhật thì mưa mới
có .
 Canh tùy tứ quý thôi tường ở đoạn. Giải nghĩa : Ở đoạn này giống đoạn văn trên
mà nói mùa Đông thì không thể đoán có sấm được.
 Tu thôi Ngũ hành tham quyết. Giải nghĩa : Ngũ hành có thời vượng của nó. Mùa
Xuân Đông thì băng tuyết mây mù. Mùa hè Thu thì nhiều sấm chớp buổi sáng tối.
 Thanh hoặc phòng quang vi yên vi lê. Giải nghĩa : Quẻ có triều nắng mà gặp
quan quỷ động thì nhiều khói nặng nề, và có ác phong ám muội. Mùa Đông lạnh rét,
mùa hè nắng gắt.
 Vũ nhi ngộ phước vi điện vi hồng (cầu vồng). Giải nghĩa : Quẻ có triều mà tử
tôn động thì có chớp điện cầu vồng cho nên tử tôn chủ về cầu vồng ngũ sắc và
chớp. Nếu thấy có tượng đó thì ta cũng lấy đây mà suy ra.
 Ứng trực tử tôn bịch lạc vô hà tỷ chi bàn điền. Giải nghĩa : Phàm hào tử tôn
động thì ngày đó có nắng to đẹp, hoặc hào tài lâm ứng động hóa cũng vậy.
 Thế lâm Thổ quỷ hoàn sa đa tán ngang ư thiên khôi. Giải nghĩa : Hào phụ mẫu
hoặc hào phụ mẫu không, phục mà hào thế lâm Thổ quỷ động thì đó là trời rơi cát
xuống. Đôi khi hào phụ xuất phục xuất không thì đó mới lộ ra có mưa.
 Tam hợp thành tài vân vũ na kham nhập quái. Giải nghĩa : Quẻ có tam hợp tài
cục thì có mây ngũ sắc không mưa.
 Ngũ hương liên phụ tinh quái sát lâm không. Giải nghĩa : Ngũ hương tức là Ngũ
hành duy chỉ lấy hào phụ làm mưa, hào tài làm kỵ sát, nếu như cầu nắng to thì
tài hào lâm Tuần không.
 Tài hào quỷ âm tình vị dinh. Giải nghĩa : Tài chủ về trời trong sáng, quỷ chủ
về trời âm u. Nếu như gặp tài hóa quỷ, quỷ hóa tài đều động thì chủ về trời âm u
mà nắng.
 Phụ hào hóa huynh phong vũ phi thường :
- Hào phụ là chủ mưa, hào huynh chủ gió, hai hào biến qua biến lại hoặc cùng
động, đều chủ về trời mưa và gió (huynh biến phụ hay phụ biến huynh).
- Như hào động hợp với phụ hào được hào quan đến xung động thì trước có sấm sau
mưa. Nếu hào tài bị hào động đến hợp nếu được hào huynh đệ đến khắc hào động thì
không có gió mà chẳng có mưa.
 Khảm tốn phó văn thứ Nhật tuyết hoa phi lục xuất. Hai quẻ Khảm tốn đó là chỉ
nói về hào phụ hào huynh. Nếu như hai hào này động về mùa Đông khi ta chiêm thì
có cơn gió và tuyết bay.
 Âm dương đó là nói về hai Thần quan, phụ : Như cầu mưa mà thấy quan phụ đều
vượng động không bị xung hợp thương tổn thì đương nhiên ngày đó có mưa.
 Huynh Mộc hưng hệ tốn phong nhi bằng di hà kỳ tứ nể : Nếu gặp hào huynh đệ nằm
ở Mộc tại cung tốn, vượng động hình khắc thế hào thì đương nhiên có tai nạn gió
bão hoặc như phụ hào cũng vượng động thì chủ mưa giao nhau.
 Thế tài hào phát động Thuộc càn dương nhi Hạn, bạt hổ nhỉ hành hung. Thế hào
tác phát động hoặc biến cung càn rồi lại gặp Nguyệt kiến, Nhật thần động hào
sinh phò hợp trợ thì tất nhiên chủ có đại Hạn.
 Lục phong ngự thiên kỳ viên xà hưng chấn quái : Chấn là tượng rồng nếu gặp
thanh long hoặc hào Thìn ở cung đó mà được vượng động thì tất nhiên có rồng xuất
hiện, nếu theo hào phụ hóa Thìn thì mưa trước rồng hiện sau hoặc ngược lại,
trường hợp phụ hào yên tĩnh hoặc lâm không, phục, tuy rồng hiện mà không có mưa
và nếu hóa tài cũng vậy.
 Ngũ lôi khu điền cai lộc không tiến. Thì đó là chớp, như hào quỷ ở nhi động
thì đương nhiên ta đoán có ngũ lôi khu điền (sấm chớp liên tục) mà ở cung ly thì
có cái tượng có móng sắc (cầu vồng) hoặc ở hào Hỏa có hào quan quỷ ta cũng đoán
vậy.
 Thổ tình y phụ vân hành vũ thí chi thiên Mộc đức phò Thân Nhật ổn phong hào
chi cảnh : Thổ chủ về mây, phụ chủ về mưa cho nên Thổ lâm phụ động thì có tượng
mây mưa rơi. Mộc chủ về nắng cho nên hào Mộc lâm tài động thì có cảnh chủ gió
mát.
 Bàn tình bàn vũ quái trung tài phụ đồng hương : thế tài phụ mẫu đều động tất
nhiên ngoài đó chủ nửa nắng nửa mưa thì nên lấy phụ hào không hay bất không,
nóng nên thì nên xem kỹ hào phục hay không phục từ đó mà biết được Dụng thần lại
cả kèm luôn coi cả Nguyên thần, vì vậy nên đựơc nói rằng phụ không tài phục thì
phải nghiên cứu kỹ hào Nguyên thần, ta luận về trước sau thì động làm trước biến
sau, cùng động thì lấy vượng làm trước suy làm sau.
 Mẫu hóa tử tôn vũ hậu trường hồng đái đống, đệ liên phước đức vân trong Nhật
Nguyệt xuất hiện thử : Mặt trời, mặt trăng, lẹm, vồng trời đều Thuộc về hào tử
tôn. Nếu gặp hào phụ hóa xuất tất nhiên sau khi mưa thì ta thấy lẹm. Nếu huynh
hóa xuất thì trong mây thấy mặt trời.
 Phụ trì Nguyệt kiến tất nhiên âm vũ liên tuần : nếu muốn xem được trời nắng mà
được Nguyệt kiến phò không có tài hào, tử tôn động thì mưa liên miên suốt tuần
lễ.
 Huynh tao tương sanh nghị định cuồng phong lụy Nhật : Thần trường sinh là manh
nha của sự khởi đầu của mọi sự việc như hào phụ gặp thì mưa suốt ngày. Nếu hào
huynh gặp thì gió suốt ngày. Nếu hào quan gặp thì mây mù không tan. Tài hào gặp
thì đừng mong mưa nên chờ đến ngày mộ tuyệt thì mới mưa, lúc đó mưa rơi ngừng
gió thì hết, mây mù tan trời sáng sũa trở lại.
 Phụ tài vô tư hàn liễu Thủ trường : Quan quỷ phụ mẫu vô khí mà tài hào động
vượng thì chủ là Hạn hán. Tử tôn thê tài vô khí mà phụ mẫu vượng động thì trời
làm lụt khi gặp nó ta rất sợ cho nên hật Nguyệt đến sanh phò thì lụt lớn, Hạn
hán thì cây khô. Như phụ tài hai hào tuy động nhưng được khắc chế mà không có sự
phụ trợ thì có  lúc lụt lúc Hạn không chừng.
 Phước đức đãi hình Nhật Nguyệt tất thực : Tử tôn mà bị hình hóa quan quỷ hợc
hào quan quỷ động đến khăc Hại, hoặc hào phụ cớ đằng xà đến khắc Hại đểu chủ
Nhật Nguyệt thực. Nếu hào dương tức mặt trời bị thực, hào âm thì mặt trăng bị
thực.
 Vũ khiêm thê vi chi phùng Xuân : Nếu coi về trời mưa mà hào tài âm động, tức
phụ mẫu chịu sự âm thương thì mưa chưa hy vọng thấy được.
 Tình lợi phụ hào chi nhập mộ : Hào phụ mà nhập mộ lại không có Nhật thần động
hào xung khai mộ khố thì mưa ngừng.
 Tử phục tài phi thiềm Hạ bao phu do ngường uất : Tài hào chủ về nắng không chủ
về mặt trời được, hào tử tôn xuất hiện động vượng tướng khi đó mới thấy mặt
trời. Nếu như không có tử tôn thì tài hào không có gốc tức quan quỷ sẽ chuyên
quyền cho nên không phải là triệu chứng nắng.
 Phụ suy quan vượng môn tiền hành khách thương xu thư : Lấy mưa lấy phụ làm chủ
mà được hào quan vượng tướng thì có mưa như phụ hào lâm không thì trời không mưa
nhưng có mây kín (chủ trương thành ra phải đợi hào phụ xuất không và gặp xung
thì mới mưa được). Như phụ suy tài vượng thì nắng nhiều mưa ít, phụ vượng tài
suy thì mưa nhiều nắng ít.
 Đa vu đa yến hào, thượng tài quan giai động : Hào tài mà động chủ nắng, hào
quỷ động chủ âm u, quan vượng tài suy thì ngày đó mù nhiều có mưa nhỏ, quỷ suy
tài vượng có mây mù trong chốc lát lại nắng.
 Thân trực đồng nhân, tùy tình nhi Nhật lung hãm nhiệt. Thế trì phước đức tống
vũ nhi lôi cổ tàn thanh : Phàm huynh trì thế động thì đó là khắc tài. Nếu như
tài hào vượng tướng thì bầu trời chẳng được sáng sũa. Tử tôn trì thế động thì sẽ
khắc quan, nếu quan động thì có mưa mà không có tiếng sấm.
 Phụ không tài phục ta cứu phụ hào khắc Nhật Thủ kỳ đương minh chiêm pháp : Như
chiêm về mưa thì phụ hào là Dụng thần, quan quỷ là Nguyên thần. Như chiêm về
trời nắng thì ta lấy thê tài hào làm Dụng thần và tử tôn làm Nguyên thần. Như
Dụng thần bị không phục, suy vượng động, tĩnh, mộ tuyệt hợp xung Nguyệt phá thì
ta lấy phép đoán như về bệnh và Thuốc.
 
 
 
     
     
     
     
      
 
 
 
                                                    HẾT
 
 
tải từ THƯ VIỆN TUVILYSO.COM
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.04.2008 11:57:23 bởi vanti67 >