(URL) KỊCH và các TIỂU PHẨM VĂN XUÔI của PNT
Bản thảo tập "Bàu trời thơ tình hay & lạ" của tôi được rút ra từ hai tập thơ đã xuất bản: "Rung động trái tim", Nxb thanh niên 2009 & "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá thông tin 2012 - Gồm 119 bài thơ tình. Nó sẽ là tập thơ vô giá của tôi. Vừa để khẳng định chân dung tầm vóc thơ của mình vừa để xuất bản để truyền bá thơ vào bạn đọc cả nước cũng như cộng đồng Việt trên thế giới. Hiện tôi đang tìm người hoặc tổ chức nào đó com măng xuất bản. Vừa qua tôi đã viết một văn bản gửi lên HNVVN yêu cầu đầu tư xuất bản tập thơ bất hủ đó! Thực ra cũng chỉ là một cách tuyên bố cho biết mà thôi, chứ mong gì các loại chấp hành như "Tổ nông hội" thời nay. Xin lưu lại vào trong đời thơ văn của mình để mai sau hậu thế phán xét. Nguyên văn mà tôi đã tung đi đăng trên một số website thế giới như sau: VĂN BẢN VỀ MỘT TÁC PHẨM THI CA TRÁC TUYỆT
Tác giả mong muốn thi phẩm quý báu này sớm phát hành rộng rãi trong nước, đồng thời
tạo điều kiện xuất bản ở cả Hải ngoại, đến được nhiều bạn đọc trong cộng đồng người Việt
tại một số quốc gia trên thế giới.
Tôi cũng kỳ vọng tác phẩm sẽ còn lưu lại mãi cho nền văn học nước nhà.
Dưới đây là nguyên mẫu văn bản đã được gửi lên lãnh đạo của HNVVN: ĐỀ NGHỊ HNVVN ĐẦU TƯ XUẤT BẢN TẬP THƠ TÌNH HAY & TẦM VÓC
Phạm Ngọc Thái
Trân trọng gửi: Ông Hữu Thỉnh Chủ tịch Cùng Ban chấp hành HNVVN Đồng k/gửi: Ông Bằng Việt - Chủ tịch Hội đồng thơ
Tác phẩm mà tôi đề nghị HNVVN đầu tư xuất bản – Đó là bản thảo tập thơ có tên đề “Bàu trời thơ tình hay & lạ” của Phạm Ngọc Thái. Thi phẩm được tôi biên soạn gồm 119 bài thơ tình, rút ra từ trong hai tập thơ đã xuất bản rồi. Đó là: - Tập Rung Động Trái Tim, Nxb Thanh niên 2009 & Hồ Xuân Hương Tái Lai, Nxb Văn hoá Thông tin 2012. Nói về bản thảo tập “Bàu trời thơ tình hay & lạ”này, nó hay đến mức độ có thể gọi là bất hủ! Tôi đảm bảo rằng: Nếu đã là nhà thơ, kể cả những độc giả thực sự yêu thơ, khi đọc nó đều phải thừa nhận là tập thơ hay hoặc tuyệt hay. Còn những nhà thơ đã đạt đến tầm chân dung cỡ Chủ tịch HNV Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Nguyễn Quang Thiều – Các nhà thơ kiêm cả phê bình và lý luận thi ca như: Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa hay Trần Mạnh Hảo… khi đọc xong bản thảo tập thơ tình này sẽ nhận thấy ngay, không cần phải đắn đo rằng: Tác phẩm có tầm vóc chân dung của một nhà thơ tình lớn. Riêng tôi, với con mắt thơ Phạm Ngọc Thái xin khẳng định: Nói về thơ Việt Nam hiện đại, xưa nay chưa từng có thi nhân nào đạt được tầm… chỉ với một tập thơ của riêng mình, hay & cao như thế! Như tôi vẫn từng nói: Thơ tôi là loại thơ tồn tại, không phải chỉ hay nhất thời hôm nay mà còn trường cửu đến mai sau. Nay tôi xin gửi cả tập bản thảo “Bàu trời thơ tinh hay & lạ” đó, kèm theo lá thư này đến tận tay mỗi ông, để các ông tự xác nhận. Cũng như tôi đã nói trên, tập “Bàu trời thơ tình hay & lạ” gồm 119 tình thi được trích từ hai tập thơ của tôi đã xuất bản rồi. Nếu chỉ với một tập thơ tình mà đã có tầm vóc như thế, thì dĩ nhiên Tuyển thơ tôi ( với ngót 400 bài của cả hai tập thơ đã xuất bản đó cộng lại), chắc chắn là phải lớn hơn. Có điều, tôi trích ra thu gọn lại để làm một tập thơ tình hay, thì khi đọc thấy lộng lên, rõ hơn và rõ ngay. Một bản thảo thi ca chỉ riêng của một cá nhân chọn đến 119 bài thơ tình, lại còn dám đặt cho nó cái tên “Bàu trời thơ tình hay & lạ” mà không phải xấu hổ - Thì thiết nghĩ, trên văn đàn xưa nay hình như là chuyện… chưa từng có. Nói về kinh phí mà tôi đề nghị Hội đầu tư xuất bản tập thơ tình đó, thực ra là không lớn. Với trên trăm bài thơ và một lời giới thiệu, tác phẩm chỉ trong vòng 200 trang sách xuất bản. Tôi cũng không dám yêu cầu HNVVN xuất bản nhiều để bán rộng rãi cho bạn đọc cả nước, tôi sẽ tự tìm cách lo liệu để làm việc đó. Chỉ mong muốn Hội xuất bản lấy 500 cuốn đủ tặng cho hội viên HNVVN, mỗi người một tập. Kinh phí (từ A đến Z) khi xuất bản chỉ mất khoảng 10 triệu đồng VN mà thôi. Tôi nghĩ rằng số tiền đó với HNVVN là không lớn. Huống chi tập thơ xuất bản ra còn có giá trị lưu lại một tác phẩm thi ca vô giá cho nền văn hiến nước nhà. Thiết tưởng về ý nghĩa quốc gia, đó cũng là việc mà Hội nên làm. Nhất là đối với những người có chức trách lãnh đạo Hội nhà văn như các ông, thì cũng đáng để quan tâm. Tôi mong muốn được các ông sớm hồi âm với một nhân cách đúng đắn & trung thực nhất. Hà Nội, ngày 16-4-2013 Tác giả - Vào hồi 10h00 sáng ngày 16/4/2013 tại trụ sở HNVVN:
Văn bản trên cùng với bản thảo tập "Bàu trời thơ tình hay & lạ" đã được gửi đến
ông Chủ tịch Hữu Thỉnh & Ban chấp hành HNVVN qua phó Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều.
- Đến 9h40 sáng ngày 18/4/2013 cũng hai văn kiện đó đã được trao tiếp cho ông Bằng Việt,
Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN - Tại trụ sở Hội văn học nghệ thuật Thủ đô, 19 phố Hàng Buồm Hà Nội.
Cá nhân hay tổ chức nào ở trong nước hoặc Hải ngoại có thiện chí com măng xuất bản tập "Bàu trời thơ tình hay & lạ" vô giá này để phát hành đi bốn phương... Phát hành lần đầu tác giả không lấy tiền nhuận bút. Xin liên hệ theo địa chỉ sau:
- Phạm Ngọc Thái ĐT: 0168 302 4194
Email: ngocthai1948@gmail.com
NR: Số 34 ngõ 194, phố Quán Thánh, Hà Nội.
* Trong nước tác giả sẽ cung cấp tập bản thảo thơ bằng giấy để quí vị nghiên cứu.
* Nếu xuất bản ở Hải ngoại tác giả sẽ gửi bản thảo tập thơ qua hộp thư điện tử.
Hữu Thỉnh Chủ tịch HNVVN
Bằng Việt – Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN
Một số link như sau: http://nghiathuc.wordpres...ham-thi-ca-trac-tuyet/
http://nguyenduyxuan.net/...c-phm-thi-ca-trac-tuyt Ở châu Âu: http://www.truclamyentu.i...-thi-ca-trac-tuyet.htm Ở Mỹ: http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-68_4-4529_15-2/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.07.2013 19:08:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Không nên để một chân dung thơ tầm thường, nhân cách kém,
tham lam, xằng bậy như Hữu Thỉnh tiếp tục làm Chủ tịch HNVVN Phạm Ngọc Thái
Hữu Thỉnh rất nhỏ mọn, lòng dạ tham lam, làm việc khuất tất - Nếu tiếp tục cứ để làm Chủ tịch HNVVN thì sẽ kéo nền thi ca đương đại trở nên bát nháo chi khươn. Biến một Hội nhà văn cấp quốc gia và cả Ban chấp hành trở nên tầm thường.
Trước hết xin nhận định về chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn thuộc loại nào?
Hữu Thỉnh - Ch
ủ tịch HNVVN CHÂN DUNG THƠ HỮU THỈNH CƠ BẢN LÀ
LOẠI THƠ TẦM THƯỜNG, KHÔNG TỒN TẠI: Như tôi đã từng bình luận: Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài viết kém, tư duy bát nháo, mới chỉ ở dạng nháp hoặc tư liệu trong bản thảo, cũng bê hết ra để in thành tập sau đó tranh giành lấy giải thưởng. Chưa một ông Chủ tịch nào tham lam, thơ phú thì xoàng xĩnh mà lại vơ nhiều giải thưởng quốc gia đến như vậy. Trần Mạnh Hảo đã viết: - Ông Hữu Thỉnh đạt kỷ lục ăn giải văn chương trong thời đại ngày nay là... vô địch thế giới! Người ta tính đến nay ông đã 05 lần "ăn" giải thưởng văn học quốc gia, kể cả giải thưởng Vua Thái Lan gọi là "Giải Asean - 1000 USD" mà chính ông Chủ tịch tự đề cử cho mình... cùng với nhiều giải khác... Trong một thành phần ban giám khảo do chính Hữu Thỉnh đã thiết kế... rồi ông Chủ tịch "tế nhị khách quan?..." xin rút ra khỏi Hội đồng xét giải. Hay như nhà văn Nguyễn Quang Thân lên tiếng phê phán: - Ông Hữu Thỉnh ăn tham, kiểu tự mình cho mình giải thưởng là vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng vừa khen ban chấm giải... công minh! Thí dụ như việc ông ta đem "Thương lượng với thời gian" - Một tập thơ hỏng, tư duy nhăng nhố, tứ nghĩa lung tung.. rồi cũng chỉ để vứt vào... sọt rác, cùng với một trường ca biển viết hỗn độn, xô bồ, làng nhàng nhạt nhẽo - Mặc dù bị dư luận chê bai chỉ trích rất nhiều, nhưng Hữu Thỉnh vẫn bất chấp, trơ tráo lấy bằng được cái giải lớn của quốc gia. Thật là một Chủ tịch Hội nhà văn đáng mỉa mai. Tôi đã từng bình tập "Thương lượng với thời gian", nay xin trích giới thiệu lại trong bài viết này để càng thấy rõ hơn cái chân dung non yếu, mà không biết tự thẹn của ông Chủ tịch Hội: "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN" MỘT TẬP THƠ LÀM NHÀM, VỚ VẨN Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ rất ẩu, tư duy lung tung, rồi tìm những từ hay hình ảnh hoa hoét hoặc có nỗi đoạn trường ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng... cũng thấy là lạ, hay hay, nhưng rồi gấp lại thì bài thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc đó cũng chỉ là một ý tưởng nhạt thếch, nông choèn. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông. Thí dụ bài "Bóng mát": Tôi như cây biết giấu lá vào đâu/ Giữa gió bụi cõi người/
Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát/ Bóng mát mà không che nổi chính tôi. Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết: Bóng mát mà không che nổi chính tôi Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa - Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản, chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa! Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu chính là vậy. Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lôgich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu. Thí dụ một bài thơ khác: Đôi luống thời gian/ Ai ải mùi đời/
Hì hục câu thơ/ Gieo chỗ không người/
Tấm chăn ngôn từ/ Dầy sao không ấm/
Thi nhân dậy chưa/ Gà đang chuyển sớm (Mồ hôi đón ngõ) Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia... chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi" mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ! Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế! Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại, đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hứu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu, bất cần hình ảnh đó ý nghĩa có hợp với bài thơ không, xào xáo nó lên - lại được thêm một bài thơ nữa, hay gộp nó lại thành tập lấy một giải thưởng văn chương. Tôi ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
Những người đi lại phía tôi/ Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay/
Mặc ai xô dạt mỗi ngày/ Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm. Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình... nỗi đời... Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa! Nó "vô nghĩa" bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng. Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" kia là gì? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh: ... một lời lá bay Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông (đó tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng), ông chỉ đáp lại cho họ, tức là cho cộng đồng... "một lời lá bay" ư? Nghĩa là, tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều, một đôi lời ve vuốt suông, hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi, sau đó ông thoảng qua như ...lá bay! Và ông cứ ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông. Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết: Mặc ai xô dạt mỗi ngày... Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ thì: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi...Ông mặc xác tất cả - Rồi bài thơ kết: Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì? Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời - Ông cứ việc múc đau lòng đời, tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Bởi vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cái nửa đời chiều của ông mà - "vẫn đầy sao hôm" là vậy. Còn nếu ta giả sử hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ - Ông múc đau ông, nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"???... Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý, hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác. Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình?... và có lẽ cũng không phải là không biết sự kém cỏi của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú - Ta hãy đọc bài "Người làm mùa" thì rõ: Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi/ Mùa hoàn hảo?Thiên nhiên bầy kiệt tác/
Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác/ Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong? Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn. Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay - Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia, lần này vẫn mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng cơ đấy! Tôi lại ví dụ thêm bài nữa - Bài "Vô thanh": Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn/ Gió đi tìm khói chon von mấy đồi/
Mây kia ham sự nhất thời/ Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo, tư duy nửa chừng chưa ra đâu vào đâu, nên chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để...loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy, đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong bài viết Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy. Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, tôi chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế. Đó là bài "Lời mẹ" - Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời Mẹ của Hữu Thỉnh thì phải nói thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 8 câu, tổng cộng toàn bài có 24 câu. Đây là: Khúc I- Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý, tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế, tạm gọi là cũng được: Mẹ đã sinh ra tôi/ Đặt tên cho tôi nữa/
Một cái tên nõn nà/ Hồn nhiên như sói nhỏ/
Cái cối và cái chày/ Con mèo và con cún/
Yêu mấy vẫn chưa vừa/ Thoắt trở thành người lớn. Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa đi rồi đấy, ghép lại thành một khúc - Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu - Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu - Chỉ có hai câu đầu là khác, còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau, ý tứ vơ váo. Chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào, cứ như là viết đại cho xong, đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ xin chép lại cả hai khúc sau ra đây: Khúc II - Tôi bước ra ngoài ngõ/ Gió thổi. Nước triều lên...
Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây! Khúc III- Tôi lại bước dưới trời/ Không tiếc mòn tuổi trẻ/... (6 câu sau giống hệt ở khúc 2) Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây! Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường... đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn, hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành... đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu: - Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm, tốt thì ít mà xấu thì nhiều - Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!? Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta: - Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn... thì phải đến cứu vớt họ (như ở câu thơ trên đó đã viết "Đến với ai gặp nạn") - Xong rồi lại về..."chơi với cây"! Vậy lời mẹ dặn vậy, Hữu Thỉnh đã cao thượng đến thế nào mà sao còn tham lam thế? Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng. Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ... đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về - Thế là bê luôn vào thơ, mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc. Thế đấy, thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến 3 khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy? Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về tập thơ "Thương lượng với thời gian" thấp kém, cũng như tầm vóc chân dung thơ Hữu Thỉnh: Một chân dung thơ trung bình! - Không phải là không có lý trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố" - Đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán là dở vô cùng, là không biết làm thơ, là tào lao chi khươn... ngay trên báo Văn Nghệ. (trích bài TMH). - Cũng không phải là không có lý trong lần thứ 2 ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát. Còn với tập "Trường ca biển" - Nếu tôi bình thêm nữa thì dài quá. Song như dư luận hiện nay đã phê phán rất nhiều về giá trị tầm thường, nhàm nhúa của tác phẩm. Tôi chỉ nói thêm: Ý tưởng và cấu tứ thơ luộm thuộm, nội dung ý nghĩa thơ vụn vặt nhàm chán, có nhiều chỗ viết như nói dông dài, nghĩ ra cái gì viết cái đó ào đi chứ không phải thơ. Lời nhiều nghĩa ít, đọc thơ thấy chẳng ra đâu vào đâu. Thơ viết dài dặc, lan man hầu như không có cảm xúc. Một trường ca viết ẩu. Tôi cam đoan rằng: Loại trường ca này không tồn tại với thời gian, không có giá trị và không lưu được đối với nền văn hiến quốc gia. Tóm lại - "Trường ca biển" là một trường ca thuộc loại kém, tầm vóc dưới trung bình. Thế mà Hữu Thỉnh vẫn cố tình mang nó để đoạt lấy giải thưởng văn học lớn đó không chút ngượng ngùng. Đúng là đã rất thiếu tự trọng! Tôi xin dừng bài bình của mình ở đây, không muốn nói gì thêm nữa! Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thứ thơ tạp-pí-lù, câu cú lắp ghép vớ vẩn - Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ? như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn? Xin thưa: HỮU THỈNH KHÔNG CÓ MỘT BÀI THƠ NÀO THỰC SỰ LÀ THƠ HAY CỦA THI ĐÀN Hầu hết thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa, không đứng được với thời gian - Song cũng có được đôi bài thơ gọi là kha khá, đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ kha khá đó... vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác. Vào cuối năm 2012 vừa qua... tôi đã bình cụ thể những tình thơ đó trong một bài viết, tên đề "Cuộc trao đổi thơ toàn cầu" - Nay xin trích đăng lại trong bài viết này phần bình về thơ Hữu Thỉnh, để mọi người cùng suy ngẫm: TRƯỚC HÊT NÓI VỀ MỘT NGUYÊN TẮC TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ - Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không? Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói cho có chút động viên... để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi. Vậy thì hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được. THÍ DỤ VỀ HỮU THỈNH - Đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ khá nhất ấy. 1/. "Thơ viết ở biển" - là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu Nguyễn Khuyến... Xin phân tích đôi nét bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài: Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?... Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay. Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn. Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao. Mấy câu thơ đầu thì hay: Anh xa em/ Trăng cũng lẻ/ Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau: Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay! Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái. Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ Hữu Thỉnh? Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em như... "cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay. Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết: Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la... Hay là: Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả: Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền Rồi nhà thơ giải thích: Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên? Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng: Chỉ có thuyền mới hiểu/ Biển mênh mông nhường nào/
Chỉ có biển mới biết/ Thuyền đi đâu, về đâu... Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía: Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/
Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ... Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca. Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài - Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết: Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh/ Nghiêng ngả/ Vì em... Cảm xúc viết thơ đến đây của Hữu Thỉnh bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh: Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến... Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi! Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn. Bài thơ kết bị đuối. Ta hãy xét đến đoạn thơ kết trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái, nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng: Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố... Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ! Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca của hai thơ về biển trên - có thể nói: Thơ Hữu Thỉnh kém Xuân Quỳnh gần một tầm. 2/. Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù: Vẫn còn bao nhiêu nắng Nhưng: Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về. Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là: Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se Rồi: Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó: Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó... dù của nhà thơ hay nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay. Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng. * Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan - Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau bốn câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi, thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn Đèo Ngang hoang vu: Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà. Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi. Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được - nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên. * Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa xuân: Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang. Tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động: Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Hay là khi tả về tiếng hát: Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây... Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc / Xem ra ý vị và thơ ngây... Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân. Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng: Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? "Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh "nắng chang chang" chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay! Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh: Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi. Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình. * Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo... Nhất là trong hai câu kết: Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay! 3/. "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng chủ nghĩa của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi. Chắc rằng mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần. Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây? BÀN THÊM VỀ BÀI THƠ "HỎI", MỘT BÀI THƠ ĂN CẮP CỦA HỮU THỈNH - Từ mấy năm trước - bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh đã bị tác giả Đại Lãng Du Tử tố cáo trên vietnamnet.vn, vạch trần là đạo thơ theo bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig. Sau đó chẳng ai còn buồn nhắc đến nó nữa. Trong sáng tác thơ ca ăn cắp thơ của người khác rồi biến tấu làm thơ mình là điều rất thối tha, đê tiện đối với một nhà thơ chuyên nghiệp. Thế mà ông Chủ tịch Hội nhà văn, kẻ tham lam đủ thứ cũng mắc luôn vào. Nhưng đã chót thế, thôi thì im đi cho nó xong. Đằng này, vừa qua Văn Chinh còn bới lại để cố bênh vực cho... "thày"! Thật là một tay đồ đệ ngốc nghếch. Như Trần Mạnh Hảo đã chỉ trích: "Sau những lần "đeo khiên" che chắn cho Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh mà giờ Văn Chinh đã có "tí ti bột ngọt". Còn cái loại vung tay, đá chân ngang ngóc nhìn giải thưởng mà khóc nhé, sữa thơm chỉ vắt cho chú nào biết cúi xuống. Bài biện của nhà văn Văn Chinh, cho rằng bài thơ "Hỏi" của nhà thơ Hữu Thỉnh không đạo văn... Dù Văn Chinh cũng giỏi cãi, song "hàng lộ" rồi, thơ ta và thơ tây đều "nguyên con" ở đấy, dân tình có quáng đâu mà nhìn gà hoá quốc. Thật là, yêu nhau như thế bằng mười hại nhau. Làng văn đều dưới quyền ông chủ tịch Hội, đã lâu rồi, đều lờ lớ lơ quên đi bài thơ "Hỏi", thì Văn Chinh lại bạo gan bới thối lại?...". Tôi chỉ nói thêm: Thật ra bài thơ "Hỏi" cũng đâu có phải là bài thơ hay? Nói như nhà phê bình văn học Đặng Tiến đã nhận xét: "nó là một bài thơ xoàng, không hay không dở" - là hợp lý. Nhưng cái giống văn thi sĩ đương đại bây giờ, nhất là một số văn sĩ Hội nhà văn vo ve xung quanh Hữu Thỉnh cứ tâng bốc lên, tung hoả mù, hoa giấy loạn xạ vào bạn đọc là quần chúng... ca mãi nó lên tận mây xanh. Như Nguyễn Trọng Tạo đã ví về sự đạo thơ của Hữu Thỉnh như sau: "Đặt 2 bài thơ của 2 tác giả một Đức một Việt cạnh nhau sao nó giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?" Nói cho đúng mức: cái làm nên giá trị đối với bài thơ là ở tính nhân văn của nó cao - chính là câu thơ nói về người ở cuối bài. Thì giá trị nhân văn cao ấy là nguyên si tứ bài thơ của Christa Reinig đấy chứ, có phải của Hữu Thỉnh đâu? Nữ văn sĩ người Đức thì hỏi "gió, mặt trời, sao..." cuối cùng đến người - Hữu Thỉnh giữ nguyên tứ đó nhưng thay mấy đối tượng thành "hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ" cuối cùng... cũng hỏi người. Hữu Thỉnh đã cóp nguyên si tứ thơ của Christa vào bài thơ "Hỏi" của mình. Thế nào mới là copy hả ông nhà văn Văn Chinh? Chả lẽ phải giống như đứa con nít mới vỡ bọng cứt học vỡ lòng, phải đi mua quyển vở tập viết về cho nó tô theo từng nét chữ rồi đánh vần a, b, c... mới gọi là copy sao? Biến tấu thế còn non đấy. Một tay nhà thơ "nghệ" hơn, muốn ăn cắp thơ nó không dừng lại nguyên cái tứ như thế đâu? Nó còn pha mắm, pha muối vào cho biến dạng hẳn đi. Chắc Hữu Thỉnh chủ quan cho rằng: chẳng ai biết đấy là đâu? Đúng là lưới trời lồng lộng, khuất tất, đen tối rồi cũng bị phơi bày ra ánh sáng. Thật là nhục nhã cho cả Hội nhà văn quốc gia có một ông Chủ tịch đổ đốn đến như thế! CHƯA CÓ GIAI ĐOẠN NÀO MÀ CHÂN DUNG CÁC NHÀ THƠ HỘI NHÀ VĂN THẤP KÉM NHƯ BÂY GIỜ Trong đương đại hiên nay - ngay cả các loại nhà thơ kỳ cựu như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương... và hầu hết các nhà thơ dẫu có tên tuổi khác chẳng ai có nổi một hai bài thơ thực sự được gọi là thơ hay của thi đàn. Thí dụ, cao nhất của Hữu Thỉnh là bài "Thơ viết ở biển" như tôi vừa phân tích trên, của Thanh Nhàn là "Hương thầm", Vũ Quần Phương "Đợi", Bằng Việt "Nghĩ lại về Pauxtôpxky" (chứ không phải Bếp Lửa)... đều mới đạt ở bài thơ khá, chưa đựơc vào loại thơ hay của nền văn học nước nhà như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Mùa Xuân Chín hay Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử, Thu Điếu của Nguyễn Khuyến, Tranh Loã Thể - Bích Khê, Thuyền và biển của Xuân Quỳnh... Kể từ 1975 đến nay, hầu hết trong lớp nhà thơ đương đại chưa ai vượt qua nổi xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh tuy chưa đạt được là một nhà thơ lớn nhưng chí ít bà cũng lưu lại được cho thi đàn Việt một mảng thơ... trong đó có "Thuyền và biển là một bài thơ tình tuyệt hay cùng một số tình thơ đặc sắc. Trong khi hầu hết các nhà thơ đương đại của Hội nhà văn tuy viết nhiều nhưng thơ ca nhàm nhúa, chân dung thấp và không có khả năng tồn tại. Chỉ một số ít, may ra mỗi người có một đôi bài nhâm nhi kha khá sống được trong những năm tháng gần. Theo con mắt thơ của tôi: Gần như cả một đương đại thơ ca, hầu hết các nhà thơ HNVVN (trừ Xuân Quỳnh), không một nhà thơ nào có nổi một tập thơ sống được với đời và để lưu lại cho nền văn học nước nhà. Xin mở ngoặc nói thêm: vừa qua tôi có bình và đăng trên một số trang mạng bài thơ "Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông, là một bài lục bát hay. Thực ra nó hay là hay ở chất lục bát, chứ xét về ý tứ của cả tình thơ thì chưa thật sự đạt được độ viên mãn, hoàn bích của một bài thơ hay. Nhưng dù sao thì Trúc Thông cũng đã lưu lại được cho nền văn học một bài thơ lục bát quí viết về mẹ. Mới lại, đời thơ Trúc Thông cũng chỉ được mỗi bài "Bờ sông vẫn gió" đó! Người ta nói rằng: Ông là một nhà thơ cách tân! Cho là thế, dù có cách tân đến mấy nếu không thành thì cũng bỏ đi. Tôi cho rằng, đời thơ Trúc Thông là một sự thất bại trong cái thất bại chung của phần lớn lớp nhà thơ hậu chiến cùng thời với ông mà thôi. Chân dung thơ Hữu Thỉnh và Vũ Quần Phương cũng không ngoại lệ. Tôi từng nói với Trần Đăng Khoa rằng: Chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN hiện nay là thấp nhất trong lịch sử thi ca của nước nhà. Từ lớp nhà thơ vào thời hậu chiến như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương đến nhiều các nhà thơ đương đại khác.... hầu hết rồi thơ phú sẽ sổ toẹt hết, chết đi là mang theo thơ xuống mồ. Như Gớt nói: tầng tầng bụi phủ... Kể cả lớp kế cận sau như Nguyễn Quang Thiều hay Vi Thuỳ Linh, thơ cũng chưa đứng được đâu!... Mà thơ không tồn tại thì làm gì có chân dung thi nhân thực sự cơ chứ? Nói gì đến "lớn" với chả "cao"... CHÂN DUNG & TÁC PHẨM THƠ ĐƯƠNG ĐẠI THẤP KÉM
THẾ NHƯNG LẠI QUÁ NHIỀU TẠP DỊCH Chưa bao giờ Hội nhà văn lại nhiều uế tạp như dưới triều đại lãnh đạo của ông Chủ tịch Hữu Thỉnh? Chỉ kể vài chuyện gần đây - Nào "Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều", mà ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp bốc thơm lên tận mây xanh... với một ý thức cá nhân đầy thiển cận. Bị dư luận trên văn đàn trong và ngoài nước phê phán, bài xích rất nhiều. Một hội thảo thơ lợi dụng danh nghĩa quốc gia của hai ông đứng đầu hai tổ chức văn học lớn nhất nước, mà những đàm luận nào nhà văn, nhà thơ, phê bình lý luận văn chương quá bát nháo... chẳng có nổi một tầm thước nào khả dĩ có thể nể trọng, về cả tài lẫn nhân cách bình phẩm văn học. Như nhà bình luận Nguyễn Đình Chúc đã đánh giá: "Hội thảo thơ hay là thổi kèn đám ma nền thi ca việt Nam đây? Hoặc theo cách nói của Trần Mạnh Hảo thì đó là"Hội thảo thơ Tân con cóc Nguyễn Quang Thiều", nhận định: "Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ phải đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xoá mọi hàm ngôn (tâm hồn lạnh tanh máu cá/ Nhiệt tình xuống quá độ âm - Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều hoà trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ trương phải độc âm hay độc dương - ... Rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo, v.v...". Đành rằng nói như thế cũng hơi quá đáng, hay cho rằng đấy cũng chỉ là đánh giá của người này, người nọ?... Vậy thực chất thì sao? Thực chất Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều để lại cho văn đàn đương đại một kết quả rất là... ba lăng nhăng. Với cái đám văn sỹ tham gia hội thảo khen nhặng xị thơ Nguyễn Quang Thiều - Kẻ chuyên chân dung lý luận thì huyên thuyên với mớ kiến thức cận thị rất sách vở, làm sao mà đánh giá đúng đắn được một tác phẩm thơ ca? nhất lại là thơ hiện đại. Còn đứa sáng tác cụ thể thì nông cạn, kém cỏi - đến thơ của mình viết ra rồi mai đây cũng chỉ để... cho vào sọt rác, thì thử hỏi làm sao có thể đủ khả năng đánh giá được thơ hay với chả không hay? Cùng hai ông: Một viện trưởng, một Chủ tịch Hội nhà văn - nhận thức để thẩm định tác phẩm thơ hiện đại vẫn còn rất mông muội. Thật là lắm kiểu "dổm". Khi một bình luận viên hỏi Nguyễn Quang Thiều : "Ông có nghĩ về tác phẩm của mình như một di sản để lại"? Ta hãy nghe Nguyễn Quang Thiều trả lời: "Tôi không xem những điều mình viết như một di sản để lại... những tác phẩm? Thật khó có thể trường tồn. Tôi không dám nghĩ điều gì cả - Tôi chỉ mong hậu duệ của mình sau này đọc những bài thơ tôi viết ngày nay có thể nghĩ về năm tháng trong gia đình ấy, mọi người đã sống như thế nào? Mọi thứ rồi sẽ có thể bị quên lãng... " Kể ra Nguyễn Quang Thiều nghĩ thế cũng phải. Thơ Nguyễn quang Thiều trường tồn làm sao được? Sẽ cát bụi thôi... Quang Thiều ạ! Nhưng ngay cả cái ước nguyện mà Thiều muốn "được hậu duệ sau này đọc thơ của mình..."? E, cũng chỉ là một sự hoang tưởng... Muốn hậu duệ chúng còn giở thơ Thiều ra đọc, để ngẫm nghĩ về những gì Thiều đã sống hôm nay ư? Hoạ chăng Thiều phải trở thành nhà thơ lớn của đất nước, của dân tộc - Còn thì chúng chẳng bận tâm đến quá nhiều cái mớ hỗn độn, bùng nhùng hôm nay đâu. Dù trong thơ ca Thiều có muốn dồn nén bao nhiêu ý tưởng hay tình cảm vào đó chăng nữa. Nhưng nếu Thiều trở thành nhà thơ lớn?... thì, mỗi bước đi của Thiều ngày hôm nay... giấc ngủ... sự trăn trở hay những mộng mơ của Thiều... chúng cũng sẽ tìm tòi lại hết, để nuôi sống mãi với quê hương, đất nước. Đời thế đó! Lịch sử rồi sẽ công bằng. Là đại bàng thì rồi đại bàng sẽ bay. Còn nếu chỉ là chim cu hay chim sẻ? dù hôm nay có được cho vào trong lồng son chăm sóc, hoặc tung hứng lên tận mây xanh... thì nó vẫn cứ chỉ là chim cu, chim sẻ thôi. LẠI BÀN ĐẾN VIỆC ÔNG CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN TRƠ TRẼN NGỢI CA
THỨ THƠ ĂN CẮP, LOÈ BỊP HOÀNG QUANG THUẬN Bị dư luận văn đàn trong nước và hải ngoại lên án, phỉ báng - rằng: "Trong cuộc hội thảo của Hội nhà văn Việt Nam do ông Hữu Thỉnh chủ trì để tuyên truyền, tụng ca thơ viết về Yên Tử của Hoàng Quang Thuận lên hàng thơ thần, thơ phật, thơ tiên, thơ thánh nhằm tìm mọi cách dành giải Nobel cho ông Viện trưởng công nghệ thông tin.... Hoá ra, ông viện trưởng "gà sống thiến sót) này đã nói dối, rằng thơ thẩn của ông là thơ ăn cắp... Tội lừa đảo cả thế giới, lừa đảo cả trời phật này của liên danh thơ thẩn Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh to lắm, nặng nghiệp lắm, đê tiện lắm... Mục tiêu của liên danh thơ thẩn này trước hết là danh sau đó là tiền. Hữu Thỉnh từng nổi tiếng về chuyện ăn cắp thơ nên ông vẫn rất hạp, rất nghiền một ông thơ thẩn viện trưởng đại ăn cắp khác. Cho hay, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã... Hữu Thỉnh, vua xin dự án, vua xin tiền trợ cấp sáng tác, nhân đà này, chắc chắn sẽ xin nhà nước trợ cấp hàng nhiều tỉ đồng làm phim về thi thánh thi tiên Hoàng Quang Thuận... Nếu không có các anh Trần Trương, Nguyễn Hoà, Nguyễn Minh Tâm... những người chân chính vạch rõ trò lừa đảo của liên danh thơ thẩn bẩn thỉu này, chắc chắn hàng trăm tỉ đồng của nhân dân sẽ mất toi để quảng bá cho một sản phẩm thơ ăn cắp thành thơ tiên thơ thánh thơ phật thơ trời để đánh lừa nhân dân, lừa thế giới và lừa cả trời phật của Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh...". Như thế càng thấy rõ bộ mặt thật của Hữu Thỉnh - thực sự đã trở thành một kẻ phá hoại, hại dân, hại nước. Trên địa bàn văn học nói chung, Hữu Thỉnh với cương vị một Chủ tịch Hội nhà văn quốc gia nhưng chẳng khác nào thủ lĩnh của một đám người "gian manh cơ hội". Gần đây nhất dư luận trong văn đàn lại chỉ trích về: "GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NĂM 2012" CỦA HỘI NHÀ VĂN còn tạp? Xin nói riêng những xàm bậy về giải thưởng thơ - Ngoài hai tác phẩm "Trường ca chân đất" của Thanh Thảo và "Giờ thứ 25" của Phạm Đương mà dư luận chê bai là viết dở nhạt như nước ốc. Giải thưởng cho tập thơ “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy bị dư luận lên án nhiều nhất. Trần Mạnh Hảo gọi đó là một "Tập thơ nước cống". Lời chỉ trích như sau: "Tại sao chúng tôi gọi thơ của Trần Quang Qúy là thơ nước cống vì nó viết quá dễ dãi, quá nhạt nhẽo, viết lăng nhăng, lảm nhảm, thô tục, phi cảm xúc, phi hình ảnh, phi hình tượng, phi hàm súc, phi nội hàm, nói toẹt ra những câu nói thường nhật tào lao chi khươn, hoàn toàn phi truyền cảm, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi thơ…". Nào là: "Trần Quang Qúy làm thơ như là nhái thơ Nguyễn Quang Thiều, phó bản của Nguyễn Quang Thiều. Nếu Nguyễn Quang Thiều là giáo chủ của trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM thì Trần Quang Qúy đã trở thành phó giáo chủ của trường thơ nước cống này…". Tôi chỉ nói thêm: "Màu tự do của đất" của Trần Quang Quý là thứ thơ học đòi theo kiểu làm thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng vẫn còn vụng. ngôn ngữ thơ viết cứ như thể cố làm bộ làm tịch, nhiều chỗ đọc nó ngô nghê, ngọng nghịu, giả cầy, giả cáo... đến buồn cười. Ý tứ vặn vẹo, triết lý thế này thế nọ, cứ như một cô gái vô duyên nhưng lại hay thích ưỡn ẹo, làm đỏm. Sự bắt chước viết thơ như thế là một điều ngu xuẩn nhất của một thằng làm thơ. Có mất công rồi cũng chỉ để... vứt đi. Huống hồ thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã thành công đâu? Nhưng dù sao Nguyễn Quang Thiều tuy thơ chưa đạt tứ, đạt nghĩa nhưng đã thành một kiểu thơ, một loại thơ riêng của Nguyễn Quang Thiều. It nhiều Thiều sáng tác thơ cũng đã có bản ngã. Đằng này Quý học mót theo kiểu làm thơ ấy... thật là một thứ trò cười của một gã nhà thơ "dổm" của HNVVN vậy. Cũng chẳng hiểu Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng bậu xậu giám khảo của Ban chấp hành xét giải kiểu gì? Cho giải kiểu đó có khác chi là... phóng uế bừa bãi? Mấy năm trước Trần Quang Quý nguyên là Tổng biên tập báo "Gia đình & Xã hội" - Nghe dư luận hồi đó: Quý mắc vào một vụ bê bối tiền bạc ở toà báo, hình như là "tiền tình nghĩa" gì đó? Khi ấy có tin đồn: có thể Quý sẽ bị truy tố? Nhưng sau nghe đâu là nhờ Hữu Thỉnh đã lo lót, chạy đỡ nên Quý thoát khỏi vòng lao lý, nhưng bị trục xuất ra khỏi toà báo "Gia đình & Xã hội". Sau đó Hữu Thỉnh định đưa Quý về làm phó tổng biên tập báo Người Hà Nội, nhưng bị Ban tuyên huấn Thành Uỷ Hà Nội (cơ quan chủ quản của báo Người Hà Nội) không chấp nhận vì đã có tỳ vết, không còn trong sạch. Cuối cùng thì Quý được Hữu Thỉnh đưa về làm phó giám độc Nhà xuất bản Hội nhà văn cho đến nay. Đấy, cái kiểu sử dụng người của Hữu Thỉnh thường hay theo lề thói đó. Nghe anh em trong giới báo chí nói: Trần Quang Quý thuộc những đệ tử ngoan ngoãn nhất của ông Chủ tịch Hội nhà văn - Cho nên một tập thơ dù là "nước cống hay nước rãnh" được giải thưởng như vừa qua cũng chẳng có gì lạ? Như Trần Mạnh Hảo nói: Hội nhà văn quốc gia bây giờ là "Hội nhà văn Hữu Thỉnh", còn giải thưởng văn học của Hội cũng trở thành "giải đểu" mà? Ngoài đồng tiền là vật chất kèm theo, ý nghĩa giá trị của nó đã trở thành giải bèo, giải bọ... Ngay cả việc kết nạp hội viên vào HNVVN bây giờ cũng vậy. Dư luận bao năm nay vẫn chỉ trích rất nhiều, muốn vào Hội thì phải đút lót? nhất là đối với Ông Hữu Thỉnh - Cũng theo Trần Mạnh Hảo đã tố cáo: " Việc ông Hữu Thỉnh kết nạp "nhà thơ Hùng Anh" (tức Hùng Tấn, giám đốc công ty dược Cà Mau) - một kẻ làm thơ con cóc nhưng lắm tiền do tham nhũng vào Hội, là ông đã ném đá lên khát vọng vào Hội của các nhà văn chưa hội viên. Hùng Tấn - Hùng Anh kết nạp vào Hội do tiền mới được hai tháng đã bị bắt vì tham nhũng hàng trăm tỉ đồng. Hiện vẫn còn trong tù..." Hồi còn nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng viết bài trên báo Công an nhân dân lên án ông Chủ tịch kết nạp hội viên vào HNVVN có hành vi không trong sáng, cũng cố tình kết nạp một gã giám đốc nào đó ở phía nam, trình độ thơ ca tầm thường - mặc dù có số người không đồng ý... nhưng Hữu Thỉnh vẫn nhất quyết chỉ đạo đưa vào Hội. Sau đó hắn cũng phải vào tù vì tham nhũng. Có lẽ từ khi có Hội nhà văn Việt Nam đến nay chưa từng có một ông chủ tịch Hội nào lại nhiều xấu xa bẩn thỉu, nhân cách hèn kém như Hữu Thỉnh. Việc để một kẻ như Hữu Thỉnh tiếp tục làm chủ tịch, chẳng những biến Hội nhà văn: một tổ chức văn chương cấp quốc gia thành nơi chứa quá nhiều sự ô uế tạp dịch, mà còn làm cho nền thi ca của nước trở nên tầm thường, thấp kém - Thật là đáng hổ thẹn và nhục nhã thay? Hà Nội, mùa hè 2013 Phạm Ngọc Thái Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới: http://vandanvn.net/vi/ne...ot-chan-dung-tho-1819/ http://lexuanquang.org/post/4181/ http://www.truclamyentu.i...ung-tho-tam-thuong.htm http://to-quoc01.blogspot...06/pham-ngoc-thai.html http://blog.zing.vn/jb/dt...g/15771160?from=friend http://khucthedo.blogtien...4/p5453791#more5453791 http://caubay.blogspot.co...va-nhan-cach.html#more http://69.194.230.19/~new...ZuLw%3D%3D&nin_b=1 http://www.tiengchimviet....chan-dung-tho-tam.html http://www.vnmilitaryhist...thai/pnt_huu-thinh.htm http://www.vanganh.info/2...chan-dung-tho-tam.html http://nghiathuc.wordpres...uc-lam-chu-tich-hnvvn/ http://thaianco.net/xuanl...1/chandunghuuthinh.htm https://www.facebook.com/.../posts/391346557640487 http://hung-viet.org/blog...uc-lam-chu-tich-hnvvn/ .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.07.2013 19:21:52 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
LỜI GIỚI THIỆU TẬP "PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA - PHẠM NGỌC THÁI: PHẠM NGỌC THÁI NHÀ THƠ CỦA TỰ DO
(Lời đầu sách do một NS. Sân khấu & Điện ảnh Hà Nội
viết giới thiệu để chuẩn bị cho việc xuất bản) Anh Trần Tuy là một nhà thơ tự do nhưng ông có chân dung văn học với một tầm vóc thi ca đáng ngưỡng vọng. Ông đã sáng tác được một khối lượng thơ tình hay, chưa từng có thi nhân nào ngày nay đạt được. Với hàng bậc của các nhà thơ hiện nay, ta có thể khẳng định rằng: Ông là một nhà thơ có đẳng cấp siêu hạng ở đương đại này.
Như nhà viết bình luận Nguyễn Đình Chúc trong bài "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc", đã nói về ông như sau:
"Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta.
Đặc biệt là thơ tình: dù ký ức về tình thuở ban mai hay buổi hoàng hôn... khi nhà thơ đã vào tuổi hoa niên, cũng đều tha thiết và tiếc nuối. Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay đến thế! Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc. Một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc. Rồi mai sau ông có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà - Trong đó có đến vài chục tình thi của ông đạt vào cung bậc các tình thơ hay vô giá..." Đọc quyển "Phê bình & tiểu luận thi ca" này, độc giả hoàn toàn có thể nhận thức được những giá trị đó. Tiểu phẩm ấy cũng có in trong tập sách đây, đồng thời nó đã được đăng trên vài chục website văn học - từ trong nước sang Âu Châu, tới Mỹ và đến Toà báo Việt Nam Úc. Bạn đọc nào muốn thưởng lãm có thể xem qua đôi link sau:
http://datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=52&id=2242 http://www.namuctuanbao.net/870/truyenNgan/truyenngan_14.php
Không chỉ thế - Ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích, hấp dẫn cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu, với những lời bình sắc sảo đã được chi chút, gọt rũa… rất đáng để đời chiêm ngưỡng.
Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ hay của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái đầy tài hoa. Ông đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long một khối lượng thơ hay hoặc khá hay rất lớn, với những giá trị nghệ thuật văn học tuyệt vời.
Những năm qua trên văn đàn các trang mạng Việt toàn cầu, thơ ca và những bài bình luận của ông được đăng rất nhiều, danh tiếng cùng chân dung thi nhân ông đã vang khắp.
Nói về cuộc sống đời thường của nhà thơ thì vẫn rất đạm bạc. Ngày ngày ông với người vợ của mình vẫn phải bươn bả vì miếng cơm, manh áo. Ngoài ra sớm hôm ông bầu bạn với văn chương. Ông chính là tác giả của hai tập thơ có tiếng tăm vào hàng đẳng cấp: - Tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009, thật đặc sắc… và tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012 với 298 tình thơ, dày 400 trang - Trong đó nhiều thi phẩm hay hoặc đạt độ kỳ thơ.
Hiện nay nhà thơ đang cùng gia đình sống trong một ngôi nhà nhỏ gần bên hồ Tây, cạnh một ngôi đền cổ. Một hồ nước đã từng có nhiều dấu ấn trong thi ca của các thi nhân xưa nay. Thi sỹ Tản Đà trong bài "Tây Hồ vọng nguyệt", từng ca ngợi:
Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi,
Đêm thu vằng vặc bóng theo người
Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
Hay bà Hồ Xuân Hương cảm xúc trong bài "Chơi Tây Hồ nhớ bạn", rằng:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
Với nhà thơ Phạm Ngọc Thái, hồ Tây cũng ghi lại rất nhiều những hình ảnh chan chứa trong thơ ông, còn là nơi lắng đọng nhiều kỷ niệm tha thiết của tình yêu. Như ông viết:
Anh ở hồ Tây mênh mông sóng vỗ
Vẫn thấy bóng em trong màu hoa thương nhớ
Ôi, màu hoa son sắt trái tim em
Cái màu tím buồn của những cuộc ly tan!
Một số bài rất đặc sắc khi trái tim nhà thơ thao thiết ở bên hồ, như: Một góc hồ Tây, Tình thơ gặp lại ở Tây hồ, hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây" – là một bài thơ tình khá hay, viết vào lúc tuổi thi nhân đã xế chiều, mái tóc trên đầu cũng điểm nhiều sợi bạc:
Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
Vào những tháng năm trước, giai đoạn nhà thơ được biệt phái ra công tác ở nước ngoài, kết hợp làm kinh tế - Lúc nào ông cũng nghĩ về quê hương, nhớ đến gia đình và những người thân. Ông đã sáng tác cả một tập thơ “có một khoảng trời”, Nxb Hà Nội 1990… chỉ viết về vợ con. Trong đó - hình ảnh hồ Tây, mái phố, bóng đa, ngôi đền cổ… thường da diết trong ký ức ông mỗi khi nhớ chốn cố hương. Như những hình ảnh được khắc hoạ trong bài "Tiếng hát đời thường"… gửi về cho người vợ hiền ở quê: Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về… như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn…(*)
(*) Đó là những biểu tượng gắn liền trong truyền thuyết của dân tộc: Hình ảnh một thuở nào bà Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Tây Hồ đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người - Rồi hình ảnh cổng thành Thăng Long phía bắc vẫn còn in dấu đạn đại bác của giặc Pháp bắn vào. Khi thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Tất cả đã vào trong thơ ông cùng với nỗi thương nhớ quê nhà.
Tôi chỉ xin viết ít lời giới thiệu tác giả và phác qua đôi nét về Tuyển "phê bình & tiểu luận thi ca" này - Tập sách sẽ nói đầy đủ hơn, mãnh liệt hơn, cũng như sự thuyết phục của nó hơn bất cứ một lời ca ngợi nào. Mong rằng tác phẩm sẽ mở ra đối với mỗi bạn đọc một cánh cửa tâm hồn bất hủ và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách… những giá trị tinh thần vô hạn trong văn học và cuộc đời.
A.T
NS Sân khấu & Điện ảnh HN
Thăng Long - Đầu thu 2013
* CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ:
- Một tập bình luận thi ca tuyệt hay & có giá trị đối với nền văn học.
Độ dày tập sách khoảng 350 trang - Tổ chức hoặc cá nhân nào muốn com măng
xuất bản để bán, xin liên hệ với tác giả qua:
Email ngocthai1948@gmail.com - ĐT 0168 302 4194
. Để gửi bản thảo nghiên cứu.
. Phát hành lần đầu tác giả không lấy tiền nhuận bút, chỉ xin 100 đầu sách để làm sách biếu, tặng.
(nếu xuất bản ở nước ngoài chỉ cần thông báo...)
* Đã đăng trên nhiều trang mạng trên thế giới: http://tranmygiong.blogti...i_nha_than_carba_tard_ http://vandanvn.net/vi/ne...ai-viet-Anh-Tran-2014/
http://nghiathuc.wordpres...thi-ca-pham-ngoc-thai/ http://www.tiengchimviet....-thi-ca-pham-ngoc.html http://to-quoc01.blogspot.om/2013/07/anh-tran.html http://binhtrung.org/D_1-..._6-1_17-948_14-2_15-2/ http://thaianco.net/xuanl...nvan/phamngocthai1.htm http://vannghequangtri.bl...tho-cua-tu-do-anh.html http://nguyenduyxuan.net/...hi-caq-ca-phm-ngc-thai http://badamxoevietnam2.w...hai-nha-tho-cua-tu-do/ http://www.vanganhonline....-thi-ca-pham-ngoc.html http://www.vanganh.info/2...-thi-ca-pham-ngoc.html
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.07.2013 19:18:14 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nguyễn Khoa Điềm đổi giọng hay đã thực sự ăn năn hối lỗi qua bài thơ "Sự tầm thường" Phạm Ngọc Thái
Tôi có ý định bình tổng hợp một số bài thơ gần đây nhất, Nguyễn Khoa Điềm đã viết sau thời gian hết đường quan lộ về làm thường dân - trong đó đặc biệt là bài "Đất nước những tháng năm thật buồn". Nhưng khi đọc lại "Sự tầm thường": Muốn bình cho trọn ý thì phải phân tích theo suốt dọc bài thơ, gộp cả các tình thơ khác nữa thì sẽ lan man rất dài. Bởi vậy, mới xin bình luận riêng về bài "Sự tầm thường" ấy trong trang này - Còn "Đất nước những tháng năm thật buồn" gộp với số bài thơ khác, tôi sẽ giành để viết sau.
Nói về bài "Sự tầm thường" - Bắt đầu vào thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
Hình ảnh "vợ chồng sớm chiều..." ở đây là sau khi NKĐ đã bị thất sủng buộc phải rời Ban bí thư Trung ương và Bộ Chính trị... về sống nơi thôn hương với gia đình. Dầu tác giả có"treo mình" lên cái đinh mắc màn, mắc áo hoặc trên trần nhà, gì gì đi nữa... nhưng với người vợ má kề gối ấp của mình, thì đáng lẽ đó vẫn phải là hình ảnh đẹp, thân thương đời thường của nhân dân, năm xưa quen chốn quan trường ông không thể nào cảm thấy sự quý giá đó. Bởi vậy, không nên dùng chữ "sự tầm thường" đánh đổ đồng nháo nhào như ở trong bài thơ này .
Xin xét vào các đoạn thơ sau rồi ta sẽ trở lại phán xét tiếp về những câu thơ đầu tiên ấy.
Bàn chuyện chạy chọt
Những đứa trẻ phải vào được lớp một
Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
Mơ ước nào cũng có giá.
Đôi người nhắc nhở rằng
Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
Qua hình ảnh về những "sự tầm thường" để NKĐ lên án một hiện thực xã hội - Đó là một xã hội chưa có "độc lập tự do" thực sự:
Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
Phải chăng đó cũng chính là sự phản ứng chế độ trong tư tưởng của ông Uỷ viên Bộ chính trị một thời? Tôi muốn hỏi cả một thời làm quan to, sao ông không có ý nghĩ này nhỉ? Khi chế độ chưa có độc lập tự do thực sự, thì đừng nên "gieo mơ ước vào đầu con trẻ" - vì mơ ước nào cũng sẽ phải trả giá?
Thí dụ như: Ở xã hội đó nếu đấu tranh cho lẽ công bằng, cho sự tự do hay quyền sống chính đáng của một con người thì sẽ bị đàn áp, sẽ phải vào tù? và... con trẻ lớn lên chỉ nên biết: ...nhẫn nhục để ổn định/- cuộc đời như con lươn, con trạch thôi? Đấy, ý thơ phản biện lại xã hội đương thời của Nguyễn Khoa Điềm là như vậy.
Thế thì, thực sự bản chất của xã hội ấy là gì? Chẳng lẽ những năm tháng khi NKĐ còn là Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, xã hội vẫn còn rất tốt đẹp sao? Nó chỉ vừa mới xấu xa, tha hoá khi ông trở về làm một thường dân? Hoặc chỉ bởi vì khi đó làm một ông quan cách mạng, ông cần phải sống giả tạo để hưởng cho đủ những bổng lộc, vinh hoa phú quý mà đảng và nhà nước đã ban tặng cho ông?
Hôm nay đường quan lộ thất thế rồi, Nguyễn Khoa Điềm mới phản thùng? hay... ông đã thực sự ăn năn hối lỗi trước nhân dân về quá khứ của mình? Ta đặt ra câu hỏi:
1. Có thể khi trở về với cuộc sống thường dân, NKĐ mới nhận ra sự còn phi nhân, phi nghĩa của thể chế, nên Ông tự sám hối về mình?
2. Hoặc là, trước đây không phải ông không biết sự bất chính của guồng máy chính trị ấy... nhưng ông vẫn giả bộ như bao kẻ cơ hội khác, làm cao đạo, đục nước béo cò, để tận hưởng cho thoả những sự sung sướng phè phỡn của một ông quan lớn?
Có bao giờ ông cần quan tâm đến chuyện một đứa trẻ mới vào lớp một cũng đã phải chạy chọt... như thơ ông viết:
Bàn chuyện chạy chọt
Những đứa trẻ phải vào được lớp một
Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
Ông cũng đâu cần quan tâm đến việc nhân dân đã phải chịu đựng bao sự "nhẫn nhục để ổn định", vượt qua cuộc sống... tầm thường?
TA SANG ĐOẠN THƠ THỨ HAI - NKĐ đưa ra một loạt những "sự tầm thường", nào là:
...Với tờ giấy bạc trên miệng.
Sự tầm thường thật kín kẽ
Mặc những tấm áo đúng thời tiết
Tụ tập trên các diễn đàn
Nói lời rỗng... Ối, ông Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương? Chắc cái thời mà chính ông vẫn thường liên tục thuyết giáo trên diễn đàn, khi ấy ông toàn nói những lời đẹp đẽ, quí hoá, lại vô cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn với vận mệnh non sông đất nước chăng? chứ không lăng nhăng, xàm tiếu như những phường ông nghị bây giờ? Rồi:
Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
Thí dụ như... các cuộc "thảo luận đại sự" trong các Hội nghị Trung ương đảng hay là họp Quốc hội vừa qua chẳng hạn. Nghĩa là, những ông nghị thì chỉ toàn... "nghị gật", còn đại biểu phần lớn "đại biểu bù nhìn" để đẻ ra những nghị quyết tào lao chi khươn, vô bổ. Mặc cho nước mạt, quan thì thi nhau tham nhũng, xã hội xuống cấp, tha hoá... chẳng kẻ nào phải chịu trách nhiệm hết? đấy chính là ý nghĩa của câu thơ:
Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
Rồi ông kết luận:
Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
Tai quái.
Thế là đã rõ: Nguyễn Khoa Điềm phủ nhận toàn bộ các phong trào, dù đó là phong trào có tính chất quốc dân, cùng tất cả mọi kiểu hội nghị thời nay - Mục đích làm gì?
- Chỉ để nhõn sắm.../- tức là vơ vét, vơ váo hay là tạo ra... "sự tầm thường tai quái". Nghĩa là các phong trào hay hội nghị đó toàn ba lăng nhăng hoặc mục đích trục lợi... giống như những sự loè bịp quái thai vậy.
Chẳng phải cũng chính Nguyễn Khoa Điềm đã phủ nhận toàn bộ bộ máy nhà nước - dù thời của ông hay hiện nay cũng chỉ để làm ra "những thứ tầm thường tai quái" ?
Ta cần phải hiểu nhân cách ông bí thư T.Ư & Uỷ viên Bộ chính trị Nguyễn Khoa điềm thế nào? kẻ trục lợi quốc gia, cơ hội đục nước béo cò trong một tổ chức của guồng máy còn nhiều phi nhân nghĩa chăng? Để bây giờ hết lợi lộc về thường dân rồi, ông mới buông ra những lời nguyền rủa, bài xích?
Xin trở lại với những câu thơ đầu tiên, khi ông nói về cuộc sống thường dân bên người vợ:
Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
Nếu NKĐ coi sự trở về với gia đình, bên người vợ hiền là một hạnh phúc đời thường vô giá, trước đây khi còn làm quan to trong đảng ông không cảm nhận nổi - thì ông đã không đánh đổ đồng tất cả tuốt tuồn tuột với mọi loại "tầm thường"... mà ông đã nêu ra? Dù rằng người vợ cùng những người thân hoặc cả cộng đồng xã hội này đã phải sống chạy chọt đủ điều... chỉ để mưu sinh, phải "nhẫn nhục để ổn định" cuộc sống - Bởi vì, những sự việc dẫu là tầm thường, nhưng những con người ấy họ đâu có xuất phát từ những ý nghĩ đen tối tầm thường? Bản chất việc làm của họ xuất phát từ sự lương thiện, lương tri của con người. Ông đánh lộn tất cả một cách hổ lốn như cám heo trong một bài thơ, thì bài thơ của ông có khác gì chỉ là một mớ chữ... hoà trộn phân tro lẫn với phẩm chất nhân sinh của con người? Bài thơ "sự tầm thường" là một bài thơ sáng tác cũng rất... tầm thường.
Một bài thơ sáng tác xô bồ như kiểu thông tin, ngôn ngữ lèng xèng nửa văn xuôi, nửa có tí vần, chẳng có một hình tượng thơ nào đáng nói - thì làm gì có nghệ thuật để bàn xét về "nghệ thuật thi ca" cơ chứ?
Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ dưới:
Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
Cứ bày ra chuyện đâu đâu
Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
Nói nhiều hơn tất cả!
Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
- Thay vì bước vào phòng họp -
Để xua các cán bộ làm việc.
Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
Để tham gia nhóm lợi ích.
Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
Tôi không rõ: đại từ "chúng ta" ở đây ông định biểu thị cho tầng lớp nào? - Cho tầng lớp nhân dân trí thức, hay chỉ cho một lớp quan lại đương thời mà ông muốn chỉ trích?
Bởi vì, câu trên thì viết: Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ/- Rõ ràng đây ý tác giả sử dụng nghĩa "chúng ta" để chỉ vào lớp quan chức hoặc thủ trưởng, có ý mỉa mai chúng là những kẻ bảo thủ dốt nát nhưng hay dìm dập những phát kiến tiến bộ, trù úm các tài năng...
Nhưng câu dưới:
Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
Cứ bày ra chuyện đâu đâu...
Thì hai từ "chúng ta" này ngả sang nghĩa biểu thị cho cộng đồng nhân dân. Cái bọn "chơi trội hay bày những chuyện đâu đâu" này không thể biểu thị cho những hình ảnh đẹp đẽ được. Những chuyện đâu đâu ấy, là những sự việc có thể rất hợm hĩnh bày ra để lấy công, tính thành tích dổm... hoặc bày chuyện để ăn tiền, tham nhũng. Rồi để kết luận về những chuyện đâu đâu... tác giả viết:
Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
Nói nhiều hơn tất cả!
Vậy tiếng "keng" của sự cụng ly kia... để chỉ về những cuộc nhậu vui thú đời thường nơi dân dã, hay là "tiếng keng" chạm cốc của những đám công thần nghị sự trong các bàn tiệc được bày ra sau những cuộc "thảo luận đại sự" ... rỗng tuếch như đã nói ở trên? Một loạt hình ảnh tác giả vơ váo hết cả vào rồi nói đại, thành ra chẳng hiểu tiếng "keng" cụng ly ấy thuộc kiểu gì... mà ý nghĩa hơn tất cả? Bài thơ viết còn rất láo nháo.
Rồi một số hình ảnh khác: Nào là những bí thư thay vì các cuộc họp liên miên, cần phải thúc giục cán bộ tích cực làm việc hơn nữa; nào các cô ca-ve thì tập ăn nói những lời tốt đẹp và làm những việc có ích cho xã hội hơn; đến các bậc lão thành cũng phải nên thé này, thế nọ - Đó cũng chỉ là mấy cái băng rôn khẩu hiệu sáo, nhàm.
Trước đây còn quyền chức, tiếng nói của ông là tiếng nói của một quan lớn - Ông có thể nói những lời nói giả tạo để tuyên huấn cho lớp này, lớp nọ... rồi ra chỉ thị cho tổ chức các cấp phải răm rắp theo, mặc dù tiếng nói trên diễn đàn của ông khi đó cũng chỉ là những lời... rỗng tuếch. Bây giờ hết thời, thất thế đường quan, nếu nói như trước thì chẳng những không ai nghe mà họ còn chửi ông là "dổm" nữa - Ông mới "đổi giọng"...
Theo nhà thơ Đỗ Hoàng đã bình luận trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm..." đăng trên Bà Đầm Xoè rằng:
"Thời còn Ban Tư tưởng Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay cho lắm. Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội Nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho), làng văn hoá Đồng Mô (làng bỏ hoang), Bác Hồ với văn nghệ sĩ...
Đường hoan lộ của Nguyễn Khoa Điềm khá hanh thông. Nguyễn Khoa Điềm quan quá to. Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi đứt gánh giữa chừng. Ông quan to Nguyễn Khoa Điềm phải về vườn... còn một hai nhiệm kỳ trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nữa, nhưng lại bị ông cậu ruột của vợ là Nguyễn Đức Đạo viết đơn tố Nguyễn Khoa Điềm không phải là đảng viên và có thời gian bị tù ở lao Thừa Phủ - Huế khai báo với địch". Tôi cũng không rõ độ chính xác về những thông tin của bài viết trên đến mức nào?
Nhưng có một điều thực tế rằng: Nguyễn Khoa Điềm là một quan lại cấp trung ương đã lên đến cỡ Bộ chính trị của đảng cầm quyền... nhưng bị thất sủng phải về làm thường dân. Đương thời quan lộ, Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một ông trùm thực thi nhiều vụ đe nẹt sự tự do văn chương của giới văn nghệ sĩ, cũng như sự đấu tranh cho quyền tự do dân chủ xã hội. Nhân cách và đạo nghĩa ông đâu được trong sạch, tâm hồn tư tưởng sống của ông đâu được thanh cao như hàng bậc thi nhân Nguyễn Khuyến: không thèm làm ông quan phi nhân, phi nghĩa. Chán chường cảnh dơ dáy chốn cung đình, phẫn uất với tầng lớp gian thần hại dân, hại nước... từ quan về sống thanh bạch nơi dân dã. Đằng này ông tận hưởng vinh hoa phú quý, đục nước béo cò... đến tận phút chót, nào có cao đạo hay hớm gì? Nay thành thường dân lại đổi giọng thơ quay ngược "180 độ" để ve vuốt lòng người - Giả dối thay! E rằng, nếu bây giờ cuộc cờ nơi cung đình ở trung ương, bộ chính trị ấy thay đổi, nhóm người hay tổ chức phe phái của ông lại thắng thế trong cục diện. Họ lại dọn đường cho ông trở lại làm quan? Chắc rằng ông ta sẽ lại đổi giọng ngay, lại như trước đây thời ông vẫn còn làm trong Bộ chính trị, ông sẽ lại tiếp tục lên diễn đàn, lại huênh hoang múa mép, phồng mang, lớn tiếng trong các hội nghị và các cuộc "thảo luận đại sự"... cũng lại để soạn thảo ra một mớ các nghị quyết "tầm thường tai quái".
Ta hãy xem đoạn thơ cuối, Nguyễn Khoa Điềm đã kết:
Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
Tốt tươi hơn
Mãnh liệt hơn
Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
Tang chế, nhạt nhoà
Cúi đầu
Đi sau cái chết.
Ông nói rằng chúng ta, tức là "nhân dân" thua cỏ, không bằng cỏ: vì cỏ còn biết đấu tranh để vươn lên với sức sống mãnh liệt, cho sự sống tốt đẹp hơn? Đằng này, chúng ta quá tầm thường khoác bộ áo tang chế nhạt nhoà, chấp nhận cúi đầu nhẫn nhục đi sau cái chết? Nghĩa là ông muốn ngầm bảo với mọi người rằng: chúng ta, nhân dân cần phải đứng lên đấu tranh để lột bỏ cái cũ thay bằng cái mới tốt đẹp. Nếu không đấu tranh là chết ! - Kể ra từ sự bức xúc mà ông có được những ý tưởng tiến bộ như thế cũng là tốt: Nếu xuất phát bởi một tâm hồn trong sáng, tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp?
Vấn đề là ở chỗ: Phải chăng đây lại chỉ là tiếng nói của một kẻ hai mặt, hai giọng? Khi làm quan thì sẵn sàng cùng chính quyền dùng bạo lực trấn áp những tư tưởng đấu tranh vì quyền sống tự do thực sự. Là một ông trùm Tư tưởng Văn hoá Trung ương cưỡng chế, tiêu huỷ những tác phẩm máu xương của các văn sỹ đấu tranh cho quyền sống của con người. Đành rằng như kinh Phật đã truyền: "Quay đầu lại là bờ..." - Được thế thì cũng đáng hoan nghênh. Nhưng liệu ông có thực sự, thực lòng là kẻ ăn năn hối lỗi quay đầu lại phía nhân dân không? Hay lại chỉ là một bộ mặt khác nữa... cũng không khác nào cơ hội?
Xin hỏi ông nguyên Bí thư của Đảng: Xã hội này đâu phải bây giờ mới sa sút? Đất nước cũng đã mạt lâu rồi, từ cái thuở ông vẫn đang chễm chệ quan trên tác oai, tác quái ở trong Ban chính trị ấy cơ? Tại sao khi còn quyền lực đó ông lại không kêu gọi "chúng ta phải đứng lên thay đổi... để có một xã hội tốt đẹp hơn? mà phải đợi cho tới khi đã về vườn làm một thường dân, ông mới nói ra những lời để lấy lòng mọi người đang phẫn uất trăm bề? Cài lời nói cho có vẻ mang tính nhân sinh ấy của ông nó cũng dẻo quẹo như cái mồm dẻo quẹo của ông ở cái thời làm quan vậy.
Người ta nói "lưỡi không xương trăm đường lắt léo" - Ông uốn lưỡi giỏi lắm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ạ! Thậm chí còn giỏi hơn, có kinh nghiệm hơn cả cái thời ông làm quan nữa.
Thể chế này hỏng phải đâu bây giờ mới hỏng? Hiện thực xã hội xuống cấp phải đâu chỉ khi ông thất sủng đường quan lại trở về làm thường dân nó mới xấu? Từ hàng chục năm nay nó đã nát rồi - Khi ấy sao ông không kêu gọi mọi người: hãy vùng lên như loài cỏ sống mãnh liệt để xã hội lại tốt tươi lên? Chúng ta phải bài bỏ các thứ đang hủ bại này để thiết lập nên một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn?
Trong một bài thơ mới viết gần đây tên là "Thời sự cuối ngày", có mấy câu ông đã viết rằng:
Tôi mừng cho nước tôi
Vẫn còn Thạch Sanh
Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm...
Vậy xin đặt ra một câu hỏi:
- Liệu Nguyễn Khoa Điềm có phải cũng chỉ là một trong những tên Lý Thông đĩ bợm ấy không???
PNT.
Hà Nội - 6/2013 SỰ TẦM THƯỜNG
Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn
Bàn chuyện chạy chọt
Những đứa trẻ phải vào được lớp một
Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
Mơ ước nào cũng có giá.
Đôi người nhắc nhở rằng
Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
Đức Phật từ bi
Xin người đừng mắng tôi
Khi tôi nói lắm kẻ muốn ngài ngậm miệng ăn tiền
Với tờ giấy bạc trên miệng.
Sự tầm thường thật kín kẽ
Mặc những tấm áo đúng thời tiết
Tụ tập trên các diễn đàn
Nói lời rỗng
Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
Tai quái.
Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
Chúng ta ghét bọn "chơi trội" Cứ bày ra chuyện đâu đâu Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly Nói nhiều hơn tất cả! Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường - Thay vì bước vào phòng họp - Để xua các cán bộ làm việc. Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự Để tham gia nhóm lợi ích. Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh, Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi... Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại Tốt tươi hơn
Mãnh liệt hơn
Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo Tang chế, nhạt nhoà
Cúi đầu
Đi sau cái chết.
Nguyễn Khoa Điềm 24.4.2013 Được đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới - các link sau: http://vannghecuocsong.co...su-an-nan-hoi-loi-972/ http://badamxoevietnam2.w...-cua-nguyen-khoa-diem/ http://www.danchimviet.in...uyen-khoa-diem/2013/06 http://www.tiengchimviet....u-nan-hoi-loi-qua.html http://nghiathuc.wordpres...-cua-nguyen-khoa-diem/ http://truongchieuchat.bl...uc-su-nan-hoi-loi.html http://ngoclinhvugia.word...thuong-pham-ngoc-thai/ http://rbomtm.blogspot.co...u-nan-hoi-loi-qua.html http://binhtrung.org/D_1-...-nguyen-khoa-diem.html http://hoangtran204.wordp.ss.com/2013/06/22/14904/ http://www.haingoaiphiemd...sContent.aspx?Id=10266 http://mareli13.blogspot....i-nguyen-khoa-iem.html http://thaianco.net/xuanl...ntay1/phamngocthai.htm http://bon-phuong.blogspo...giong-hay-thuc-su.html http://to-quoc01.blogspot...pham-ngoc-thai_21.html http://thinhoi001-thinhoi...u-nan-hoi-loi-qua.html http://k6bc11r.blogspot.c...-van-tho-chu-nhat.html http://dohoang.vnweblogs..m/archives/3360/20130623 http://www.truclamyentu.i...a-nguyen-khoa-diem.htm http://hung-viet.org/blog...-cua-nguyen-khoa-diem/ http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-100_4-4733_15-2/ http://tranmygiong.blogti...r_nga_carba_nguya_n_kh http://namuctuanbao.net/901/tiengnoi/tntn_28.php
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2013 11:17:59 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
CHỬ VĂN LONG VÀ BÀI THƠ ĐẬM NHÂN TÌNH THẾ THÁI
Phạm Ngọc Thái
TRƯỚC HỐC ĐẠN THÀNH CỬA BẮC
Cùng bạn ngồi trước thành Cửa Bắc
Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
Phút đối diện với trăm năm còn mất
Lại diễn ra trong tiệc rượu vui cười.
Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
Bao máu xương, xương máu ngập đầy
Người ta đã lấp đi bao đau thương
để trồng hoa cấy lúa
Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây?
Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
Thêm một lần quên quá khứ thương đau
Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.
Chử Văn Long
Nhà thơ Chử Văn Long
Lời bình: Đi qua con đường Phan Đinh Phùng, dừng lại giữa phố trông thấy một cổng thành khá lớn: mặt đá đã cũ, những mảng rễ đề, rễ đa mọc chằng chịt cùng rêu phong mưa gió - Đó chính là "Cổng thành Cửa Bắc". Bên cổng đối diện mặt phố, ta lại thấy một hốc đạn đại bác sâu hoắm. Sự hiện diện của hốc đạn như muốn lưu lại tàn tích về một cuộc chiến tranh đã đi qua hàng thế kỷ. Dấu vết của viên đạn đại bác mà Thực dân Pháp lần đầu tiên xâm lược nước ta cuối thế kỷ 19, khi chúng đổ bộ đánh ồ ạt vào thành đô Thăng Long. Tại đây, thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ tự tử để tuẫn tiết.
Vào một chiều mùa xuân, tôi cùng nhà thơ Chử Văn Long ngồi với nhau trong một quán bia nhỏ, trước cổng thành xưa…vui chuyện đàm tiếu việc văn chương. Nhìn cái hốc đạn đã cũ, rêu bám xanh rì tựa như một hốc mắt lớn - một ý thức liên tưởng giữa lịch sử với sự sinh tồn của giống nòi cứ xoáy vào tâm trí anh?... và bài thơ "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc” đã ra đời!
Cái hốc đạn như hữu lý lại trở thành một nhân chứng lịch sử đang đối diện trước nhà thơ, để anh viết những câu:
Hốc đạn cổng thành xưa nhìn lại phía tôi
Phút đối diện với trăm năm còn mất Toàn bộ chủ đề tư tưởng, nỗi đau và tình người trong sự vận động thăng trầm xã hội đã được nghén thai từ đó. Ngồi trong quán bia, tức là ngồi trong thời buổi kinh tế thị trường, những tiếng va chạm các vỏ chai, những cốc bia sủi bọt cùng những lời chúc tụng của người đời. Cái hốc đạn lại càng xoáy sâu hơn, tất cả đều: diễn ra trong tiệc rượu vui cười / - Phải chăng "phút đối diện với trăm năm còn mất" chính là ý thức về nhân quả của sự tồn tại đời sống chúng ta hôm nay? Nhưng nếu hốc đạn của quá khứ kia cũng chỉ lưu lại như một kỷ niệm thường tình, chắc chưa làm cho nhà thơ phải nhức nhối tâm can mình đến thế? Thơ được vọt trào ra từ trong sự thảng thốt của tâm hồn và trái tim anh:
Tôi nghĩ về những cuộc chiến tranh đã đi qua đó
Bao máu xương, xương máu ngập đầy
Ý nghĩ không dừng lại để chiêm nghiệm về quá khứ, mà đưa nhà thơ đến một bờ bến xa hơn: Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây? /- Bởi đó, không chỉ còn là dĩ vãng khi chúng ta đang phải chứng nhận bao nhiêu sự tàn bạo, đau thương ngày ngày vẫn xẩy ra của thế giới này? Nào chiến tranh vùng vịnh, máu đổ ở châu Phi, Mỹ-la-tinh, rồi nội chiến nước Nga… cùng sự tan vỡ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Ngay đất nước chúng ta hôm nay, cũng đâu đã có được sự bình yên? Chiến tranh vẫn đang rình rập từ nhiều phía. Những tác động thực tiễn đó để tác giả buông ra hai câu mang đầy nỗi u uẩn trong lòng, kết lại bài thơ:
Hốc đạn giờ nhìn giống chiếc nút chai bật mở
Khi hơi men đã chếnh choáng trong đầu.
Rượu vãn, tiệc tàn, mặt người thì chếnh choáng hơi men. Hình ảnh cái hốc đạn lại hiện lên như chiếc nút chai sâm banh bật mở, bọt bắn tứ tung… cũng giống như các tia lửa từ hốc đạn xưa cứ chĩa thẳng vào mắt ta mà bắn - Ý của câu thơ là vậy. Bên trong tình thơ bọc chứa một tâm linh thánh thiện và khát vọng hoà bình. Nói về khát vọng hòa bình trong ý tưởng thi ca Chử Văn Long còn gặp ở nhiều bài thơ khác, như "xuân về trên mộ hai người lính":
Một phía bên kia, một phía bên này...
Chiến tranh thì người lính phía bên nào cũng... chết! Dẫu về phía ta, sự hy sinh còn vì chính nghĩa, vì dân tộc. Nhưng người lính trận phía bên kia thì sao? - Họ đâu phải là thủ phạm của các cuộc chiến tranh? Thực chất cả hai người lính đều là nạn nhân của các cuộc chiến tranh đó. Bởi vậy đứng trước nấm mồ của hai người lính trận, nhà thơ cùng với quê hương xót xa mà ru những linh hồn được yên giấc ngàn thu :
Hoa đồng nội bừng lên quanh hai nấm mộ
Cánh bướm ngây thơ cũng tới vẽ vòng
Cả tiếng sáo tận bờ tre êm ả
Ru vọng về giấc ngủ ngàn năm.
Đó chính là tư tưởng hoà hợp dân tộc, nhân sinh và thế giới quan nhà thơ. Chử Văn Long là thi sỹ của đồng quê. Anh có một giọng thơ hiền lành, dịu ngọt rất đáng yêu.
Tôi trở lại với bài "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc" - Tình thơ được viết vào mùa xuân, mà mùa xuân thì cây cối tốt tươi, đất trời trong mát với muôn hoa đua nở. Nhưng mùa xuân ở đây lại là:
Mùa xuân phủ lên thêm một lần rêu nữa
Thêm một lần quên quá khứ thương đau.
Những hình ảnh rất riêng của thơ Chử Văn Long. Ý muốn nói, thời gian sẽ rêu phong và rịt lành các vết thương. Nỗi đau nào rồi cũng dần nhoà phai theo năm tháng. Ta hãy quên cái đau mà nghiêng về phía ngọt ngào, để tác giả hạ xuống hai câu thơ hay nhất bài, có tính triết lý về sự sống:
Người ta đã lấp đi bao đau thương
để trồng hoa cấy lúa Lưu lại làm gì một vết đạn ở đây? Tôi xin phân tích ít nét đôi câu thơ sâu sắc này: "cấy lúa" mang ý nghĩa đồng nội để nói về sự sống - còn "trồng hoa" lại biểu tượng cho hạnh phúc, niềm khao khát hoà bình. Hai biểu tượng ấy kết hợp lại với nhau có nghĩa như một câu ngạn ngữ châu Âu: "Bánh mỳ và hoa hồng" - Qui luật tồn tại tất yếu của xã hội con người. Câu thơ mang ý nghĩa đời sống rất điển hình ấy được trào ra từ trong cảm xúc của nhà thơ. Đó là sự kết đúc những trải nghiệm của cuộc đời anh ở chốn đồng quê, hàm chứa cả tính triết học. Dù bất cứ đau thương nào, người ta vẫn phải lấp đi để tiếp tục "trồng hoa cấy lúa", tồn tại và vươn đến một đời sống xã hội tốt đẹp hơn.
Nay mái tóc của nhà thơ đã bạc, biết bao nhiêu mùa xuân vui, buồn qua đi trong đời Chử Văn Long. Đọc lại "Trước hốc đạn thành Cửa Bắc” càng thêm thấm thía tính nhân tình thế thái ở thơ anh. Thế mới biết đời người tựa bóng câu ngang qua. Mới ngày nào còn ngồi vui chuyện với anh trong buổi chiều mùa xuân ấy, giờ như tất cả đã xa xưa.
PNT.
Hà Nội - Ngày đầu thu 2013
Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới: http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3253 http://trannhuong.com/tin...han-tinh-the-thai.vhtm http://tranmygiong.blogti...r_i_bani_thai_a_aosm_t http://www.vanchuongviet....on=detail&id=20380 http://www.quansuvn.info/...10_6-1_17-2_14-2_15-2/ http://llpb.datdung.com/2...am-tinh-nhan.html#more http://vannghequangtri.bl...-tho-am-tinh-nhan.html http://vandanvn.net/vi/ne...a-Pham-Ngoc-Thai-2427/ http://vanthoviet.com/news/n/499/2022/ http://nguyenduyxuan.net/...tinh-nhan-tinh-th-thai http://www.chinhluanvn.co...hoc-thanh-cua-bac.html http://binhtrung.org/D_1-...han-tinh-the-thai.html http://hung-viet.org/blog...nh-nhan-tinh-the-thai/ http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php https://sacmauthoigian.wo...e-thai-pham-ngoc-thai/ https://nghiathuc.wordpre...nh-nhan-tinh-the-thai/ http://to-quoc01.blogspot...am-ngoc-thai.html#more
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2013 11:07:39 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Phạm Ngọc Thái với "Chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà"
Trần Tứ Đức Cái tên gọi "tình yêu & đàn bà" không phải do tôi đặt ra, mà là nhan đề một chùm thơ của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã đăng nhiều trên các trang mạng. Trong bài của một văn nghệ sỹ ở Việt-Nam-thư-quán "Về một huyền thoại thi ca", khi bình phẩm thơ ông - có đoạn viết: - Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tự do. Thơ ông thẳm sâu như bể cả mà rung rinh tựa lá hoa ngàn. Ông viết về nỗi đời dân gian, về tình yêu và đàn bà... Đọc thơ ông như đi vào trong động tích, càng vào sâu càng huyền thẳm vô biên.
Hiện ông đang sống cùng gia đình trong một ngôi nhà gác nhỏ. Phía trước trông ra khu quảng trường thành phố, mặt sau soi bóng xuống hồ Tây quanh năm sóng vỗ. Cõi trần ai ông đã nếm đủ mùi khổ hạnh, đắng cay... cũng từng có những tháng năm phiêu du qua hải ngoại, rồi trở về vui thú trong cảnh sống phong trần của một thi nhân - Viết để lại cho đời một Bộ-thi-ca-thời-đại tầm vóc với bao nhiêu áng thơ tình huyền diệu, sẽ còn sống mãi với sơn hà... Thơ tình hay ở các cung bậc khác nhau của Phạm Ngọc Thái thì nhiều, tôi chỉ chọn ra đây ba bài theo ý riêng mình và chưa có ai bình. Gọi là để đàm đạo ở tao đàn cùng vui trong chốn văn chương:
1. "Người đàn bà trắng" - Một đỉnh cao trong thi ca.
2. "Cây thầm tiếc bóng"
3. "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ".
Xin đi thứ tự từng bài một:
A. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
Người đàn bà đi trong mưa rơi
Chứa một trời thầm như hoa vậy...
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Thơ - Phạm Ngọc Thái
Lời bình: Theo như bình luận ở giới văn chương, báo chí: "Người đàn bà trắng" là bài thơ tình hay nhất của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Trên con đường vô định của tình yêu, những đêm hoang vắng và sâu thẳm trong không gian mênh mông, lòng nhà thơ vẫn âm thầm khắc khoải nhớ về mối tình đã qua:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, ngọn gió đêm vô tình... nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của lòng chàng. Tác giả gọi em là "Người đàn bà trắng", thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Từ chiếc mũ vải trắng mềm một thuở nào người yêu thường đội lệch trên đầu, lẫn vào trong khóm mây. Khóm mây đó lại vờn bay trên mái tóc nàng - Tất cả đã trở thành ấn tượng để nhà thơ mô tả về hình ảnh người đẹp:
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu và xa thẳm. Bích Khê cũng từng mô tả về đôi mắt đẹp của người mỹ nữ trong bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng của ông, rằng:
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường...
Nó chìm ngập một thế giới, chiếu rọi vào ngõ nghách tâm hồn của thi nhân sáng bừng lên. Hay như Xuân Diệu tả về đôi mắt người yêu cũng thật kỳ ảo:
Mắt em thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
Ta trở lại với bài Người Đàn Bà Trắng: Đôi mắt em đong những áng mây /- Như thể đã bao lần nhà thơ từng phiêu du trong đôi mắt ấy. Nó bộc lộ một sự hiền hoà, nhân ái. Tác giả lấy hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc mà mô tả, quyện với mái tóc nàng trong mây bay, gió cuốn... hiển hiện dưới bầu trời cao vời vợi. Bầu trời ấy vừa để nói về tình yêu của người đàn bà ở cõi nhân sinh, vừa là bầu trời của quê hương đất nước ta vậy.
Sang khổ thơ thứ hai - Hình bóng người thiếu nữ hiện lên trong một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa... Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp như một vầng trăng. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm, những tháng năm anh đã sống êm đềm trong hạnh phúc tình yêu. Giờ đi lại trên con đường đã qua, anh như nghe thấy cả khúc tình ca đang sống lại. Mái tóc người con gái xưa vẫn xoã bay trên đôi vai trần trắng của nàng:
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
Bồi hồi trong kí ức, hồn nhà thơ tựa con đò mộng lạc vào nơi bến vắng. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa... cùng những chiếc lá vàng rơi phủ xuống trong trời đất:
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Tiếng lòng nhà thơ cất lên để gọi vọng tình em. Con đường giờ đây hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian. Con đường mà người con gái đã đến với cuộc đời anh. Năm tháng cứ trôi nhưng hình bóng em không phai nhoà. Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng: xác gió, xác mưa, đã đầy xác lá, xác ve... trôi. Tưởng như cái bờ hồ gió thổi đó ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình người yêu ở đấy, mãi mãi trong trái tim thương nhớ của nhà thơ.
Xin trở lại để phân tích sâu thêm về khổ thơ thứ ba:
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Hình ảnh đã được cách điệu hoá: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! /- Biểu tượng thơ mô tả tuy mang màu sắc trừu tượng nhưng vẫn rất gợi cảm.
"Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại, sinh ra ở đó. Nó vừa vĩ đại và man dại. Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có cả linh hồn lẫn sự sống, cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế giới này. Còn câu thơ:
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đại văn hào Lép-Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những nguyên lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi...
Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh.
Tôi bình khổ thơ thứ năm:
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Là một mảng thơ đời, đã triết lý về những mâu thuẫn giữa tình yêu và cuộc sống của nhà thơ với người-đàn-bà-trắng. Đó cũng là một nghịch lý cuộc đời: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /- Còn anh cũng không đầy mình để làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng, cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Hay, cái con-đường-lông-ngỗng-trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp, nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá!
Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng là nó đã được viết như đời. Dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm. Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tại, dù là theo chiều gió cuốn cuộc đời. Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch tình-đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm máu tim, được bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu.
Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt nhất - Mảng thơ thứ nhất như trên đã nói, chính là khổ thơ thứ ba:
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!...
Cùng với khổ thơ thứ năm này - Làm thành nền tảng, như tim óc, tuỷ sống cho cả tình thi. Nhà thơ vẫn thiết tha khao khát gặp lại người thiếu nữ:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Ngọn lửa tình đã từng sưởi ấm trái tim anh. Để rồi bài thơ được kết thúc bằng một câu thơ đẹp nhất về nàng:
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà trẻ hay chính nàng là một vầng trăng? Cái vầng trăng ấy của nàng nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như thánh linh. Nhưng chao ôi! Dù gì thì nàng cũng "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ người yêu, anh đã viết ra thiên tình ca Người Đàn Bà Trắng bất hủ này để lại cho thế gian.
"Người đàn bà trắng" là một bài thơ tình hay thuộc vào hàng đỉnh cao trong thi ca, với sự viên mãn và hoàn bích của nó. Tình thi sẽ còn sống mãi với thời gian cũng như nền văn học nước nhà.
TTĐ.
B. CÂY THẦM TIẾC BÓNG
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.
Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.
Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.
Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...
Phạm Ngọc Thái
Trích tập "Rung động trái tim" 2009
Lời bình: Một bài thơ tình mà lại có cái tên "Cây thầm tiếc bóng"? Ta thấy trong khổ thơ thứ ba đã viết:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.
Hình ảnh cây âm thầm tiếc bóng - Không phải là bóng của nó, mà là bóng của người đàn bà đã ra đi không trở lại ấy! Tác giả chỉ lấy thiên nhiên, trời đất làm biểu tượng cho sự chia ly tình yêu đó thôi. Đến gió cũng phải "giông cuồng rồ dại", hồn thi nhân thì tan tác, năm tháng hoá hư vô.
Tôi sẽ quay trở lại nói thêm về những câu thơ này - Giờ ta đến với khổ thơ thứ nhất:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.
Khung cảnh: liễu đứng hát trong mưa và những lời thở than của nước, mỗi khi tiếng sóng vỗ xô bờ khe khẽ, xôn xao... vào trong cảm xúc nhà thơ như là những tiếng lòng thương nhớ, thuở nàng vẫn thường cùng anh đến bên hồ. Giờ sóng vẫn vỗ mà em thì mãi mãi không trở về. Rồi cái ánh hoàng chiều của một ngày tàn như bức rèm buông xuống phủ trùm lên mặt đất, để vào những giấc mơ đêm tưởng nhớ đến người yêu. Cách diễn tả tâm trạng hoà trong hình ảnh thiên nhiên đồng vọng tạo nên sự huyền thẳm của thi ca, chứa chất ý tình. Giọng điệu, ngôn ngữ thơ đọc lôi cuốn như lời hát mà vẫn sâu. Tuy không nói về người nhưng cảnh vật được nhân sinh hoá - Nghĩa là những cảnh vật ấy biết nói, thể hiện sự vui buồn, thương nhớ từ trong tâm tư, tình cảm của nhà thơ.
Về hình ảnh câu đầu:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Hay là: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp khúc nhiều lần bộc lộ một tình thương yêu da diết, song cũng là nhằm nhấn mạnh tình ý, chủ đề của cả bài.
Sang khổ thơ thứ hai:
Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Đó phải là một người đàn bà đẹp và nhà thơ rất yêu nên lời thơ mới say sưa, hình ảnh duy mỹ như vậy. Mỗi khi ngắm những nhành liễu ru bên hồ, thi nhân lại nhớ tới bóng xưa. Những đêm trăng sáng hồi ấy, như vẫn còn đây cả tấm thân, hơi thở của nàng... lòng Người lại bồi hồi, da diết: Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn /- Thế mà nay chỉ còn là kí ức?... rồi tác giả buông xuống một câu thơ đầy xa xót:
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...
Ta tưởng như chính lòng mình tan vỡ. Về mặt cấu trúc đã đạt được độ viên mãn ngay của khổ thơ. Sang đoạn thơ thứ ba mà tôi đã nói ở phần đầu cũng thế - Cuối đoạn đã được gieo một câu thơ rất mạnh:
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô
Cho nên, tuy viết tung hứng theo sự thăng hoa của tâm hồn mà thơ vẫn súc tích, không rơi vào sự dàn trải tràn theo cảm xúc thường thấy của dòng lãng mạn trước kia. Hình tượng thơ giàu chất sống và đầy ắp nội tâm. Có khi những hình ảnh đó còn mang theo cả tính triết lý về tình yêu và đàn bà. Thí dụ, ta xem tiếp khổ thơ thứ tư:
Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.
Thi nhân mô tả đôi mắt đẹp của người yêu... "đong cả trời biếc" - Còn khi tả về tấm thân nàng lại đưa ra một biểu tượng rất triết học:
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Để nói cả hai mặt: Người đàn bà vừa nồng nàn, êm ấm lại vừa là trái gió, trở giời và dông bão... làm trái tim ta đau đớn. Tấm thân đàn bà thật huyền diệu cũng như sức mạnh của tình yêu là vô bờ bến. Câu thơ sinh động mà tích tụ cả một đời sống tâm lý bên trong. Vì tha thiết nên lòng thi nhân mới: "... tê dại cõi hồn hoang biền biệt" - Nghĩa là khi người yêu xa, lòng thì sầu, tâm hồn thành hoang vắng, cô đơn.
Giọng thơ hay lại hàm chứa, tạo nên vẻ đẹp và tấm vóc của thi phẩm. Đến khổ thơ cuối cùng:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...
Hình ảnh câu thơ: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp thêm một lần nữa để khắc sâu vào lòng người sự nuối cảm. Một đặc điểm thơ Phạm Ngọc Thái khi nói về chốn dân gian, nhà thơ thường dùng hình tượng "bờ bãi...". Thí dụ như trong bài Váy Thiếu Nữ Bay:
"Bờ bãi con người" em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Hay tình thơ Em Về Biển:
Bờ-bãi-đời-người cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Còn bài Cỏ Hoang sáng tác ở nước ngoài, nói về hình ảnh một cô gái cùng những người xuất khẩu lao động sống trôi dạt trên đất khách quê người, tác giả viết:
Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú
Nhà chính khách cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn...
Đó chính là chốn bể dâu của đời người, bèo dạt mây trôi... với những sướng khổ, buồn vui, hạnh phúc và mất mát. Trong khổ thơ cuối của bài này, người đàn bà ấy cũng đang trôi dạt ở nơi đó. Như câu:
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Theo qui luật thời gian - Năm tháng cứ trôi... tất cả sẽ úa tàn, bụi cát. Thơ đưa ta vào cõi vô định của cuộc sống con người, chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già. Giờ đây chỉ còn lại khoảng trời xưa, những nhành liễu, bờ hồ, trăng sao cùng những cơn mưa gió của lòng anh, của đất trời và cuộc sống với bao xô bồ, vật vã.
Điều đặc biệt bao trùm trong bài thơ là hầu hết đều dùng cảnh họa lòng. Những cảnh vật đó được tắm trong hồn, đầm đìa tình ý. Như trên đã nói, nào là: Liễu hát trong mưa, hồ nước than thở, chiều buông rèm mơ, nàng ru mình trong trăng sáng, cây thầm tiếc bóng, gió lại giông cuồng rồ dại, trái tim thì tan tác, cuộc sống hoá hư vô, đôi mắt người yêu dịu dàng đong cả bầu trời, tấm thân nàng tắm hoa thơm nhưng lại ủ cả cuồng phong dông bão, v.v...
Một tình thơ làn điệu du dương được tác giả sáng tác cũng chính ở trên "bãi cuộc đời..." đầy cát bụi, gió mưa ấy - Nơi thi nhân cùng với người đàn bà đẹp từng tha thiết yêu nhau. Tình yêu của họ đã một thời đơm hoa, kết nhụy. Dù nay đã xa vời, nhưng tình thi vẫn đang truyền cảm, cuốn hút ta trầm sâu hơn vào ý nghĩa của thi ca. Như nhiều văn nghệ sĩ khi thưởng thức thơ anh vẫn nói: Thơ Phạm Ngọc Thái càng đọc càng hay! "Cây thầm tiếc bóng" là một bài thơ tình nhiều hương sắc, khá độc đáo và hấp dẫn của văn đàn.
TTĐ.
C. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.
Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?
Phạm Ngọc Thái
Mùa đông 2010
Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" 2012
Lời bình: Đi lại những đường phố đêm dưới hàng sấu xưa, lòng nhà thơ bồi hồi nhớ về một thuở:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Bài thơ được viết vào mùa đông năm 2010, khi anh đã ngoài tuổi lục tuần, nhưng tâm hồn thi nhân thì còn trẻ mãi. Con sông tình ngày đêm vẫn xao xiết chảy trong trái tim anh, như câu thơ đã viết:
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...
Chưa thấy ai đảo ngược chữ "mê man" để viết thành "man mê..." như Phạm Ngọc Thái, để cho âm điệu thơ không rơi vào sự cũ càng. Cũng thấy là lạ, hay hay. Có một nhà giáo khi khi bình thơ anh đã viết:
Ngôn ngữ thi ca Phạm Ngọc Thái là ngôn ngữ của hình tượng hội hoạ. Khi đọc những thi phẩm hay của ông, giống như bức tranh hoàn bích, càng đằm sâu vào trong tranh càng chứa chất ý, tình.
Theo con gió đông nhà thơ "lạc bước" lang thang, hồn vía đang bay về một phương nào?... thuở em yêu vẫn cùng anh đêm đêm dưới hàng sấu phố khuya này. Cái phố nhỏ với hàng cây xưa thật thân thiết. Bao năm qua tưởng tình cũ đã yên, nào ngờ đêm nay thi nhân lại chạnh lòng thổn thức, rồi bài thơ "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" ra đời.
Mặc dù nhà thơ đã nói với mình và khuyên người yêu:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Ai mà chẳng có lúc bồi hồi vương vấn tới tình xưa? Nói rằng: "Em đang ngủ bên chồng..." - Nhưng đọc thơ không thấy sượng, còn tăng thêm sự cảm khoái, diễn đạt ý tình thấm thía hơn. Khi nhà thơ tự vấn: thôi, đừng tiếc nữa! /- Tức là lòng anh đang... mong nhớ. Anh còn biện hộ cả với người xưa: Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em? /- Có nghĩa, đây là mối tình dang dở mà sự tiếc nuối của cả hai người chứ không chỉ đơn phương về phía thi nhân.
Khuyên thế thì khuyên: Rằng, đừng nhớ thương, đừng tiếc nữa em yêu! Song, chính nhà thơ vẫn hoài vọng, tự ru mình trong giấc xa xăm:
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.
Tình yêu không chỉ là sự êm ái và niềm vui sướng, còn mang lại cho hồn thơ anh biết bao cảm xúc ngọt ngào. Trong cuộc sống xô bồ, cát bụi... mỗi khi nhớ về thuở ấy, thi nhân như được tắm trong niềm hạnh phúc của tình yêu, như lời thơ đã viết: Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm /- Tôi trở lại phân tích về khổ thơ thứ hai:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?
Thao thức cùng với nhà thơ, vầng trăng trong đêm đông giá lạnh kia có ngủ được đâu, như lòng người hiu hắt bay vơ vẩn trên trời. Vẫn nguyệt đó mà sao nay thấy lạ? Hồi cùng em tắm trong trăng êm đềm và mơ mộng, giờ trở nên xa vời và lòng anh càng cô quạnh. Cơn gió khuya cũng không ngủ, cứ thầm thì bên tai: Liệu em có còn nhớ đến thuở của đôi ta? Cả đoạn thơ với hình ảnh gió, trăng... thấm đẫm hồn, xao xiết một nỗi tình. Như câu thơ trên đã nói:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái ơi, đọc thơ anh mà tôi thấy nao lòng. Người ta đã ngủ với chồng rồi, anh còn nghĩ đến làm gì? Nhưng phải chăng chuyện tình, khi lòng đã tương tư, mấy ai gỡ ra được? Như Nguyễn Bính từng viết:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Bài thơ có sức truyền cảm, như thể ngòi bút thi nhân hoà lẫn máu tim mà viết ra. Trong canh khuya yên tĩnh, dưới trăng sao, gió thổi và vòm trời. Khi cả thành phố đã chìm vào giấc ngủ đêm. Chỉ còn nhà thơ lặng lẽ đi dưới hàng sấu xưa và con phố. Chúng đang thì thào tâm sự với anh. Dòng thơ cứ nhè nhẹ, dìu dịu tuôn trào ra như vậy. Lời thơ như mơ và đầy chất mỹ học. Hình tượng thơ không kiêu sa mà thanh thoát, tình thơ thấm đượm sự thương yêu.
Như những tiếng đàn tình gảy lên trong không gian sâu thẳm, mênh mông. Tiếng đàn ấy ru theo bước chân người thi sỹ, cùng những cánh lá sấu nhỏ đang rụng xuống tâm hồn mộng mơ của thi nhân, để những lời thơ say đắm bay ra:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Đây là hai câu thơ hay nhất chăng? không hẳn vậy - Những câu thơ khác cũng rất hay, thí dụ:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Vầng trăng kia thao thức hay chính tiếng lòng của chàng đang thao thiết dưới trăng? Bóng nguyệt thì trôi mãi vào cõi vô biên, còn hồn thi nhân bay theo những áng thơ đến tận bến xa vời...
Đấy, thi ca Phạm Ngọc Thái là thế! Đọc câu thơ nào cũng thấy đầy chất sống và sâu lắng. Mỗi câu lại có một hương sắc và sự hay riêng. Tiếng thơ mỏng mảnh tựa dây đàn, như trái tim của thi nhân khẽ bật lên là rung. Nghe êm đềm và tha thiết, nhưng lại có chút gì đó khắc khoải ở bên trong.
Tôi xin bình vào đoạn kết:
Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?
Vậy, lý do vì sao nhà thơ lại giục người yêu đi lấy chồng? Không ai biết cả. Nhưng như thế cũng đã hé mở ra căn nguyên của mối tình bị đứt đoạn này: Hai người cùng yêu nhau nhưng hoàn cảnh éo le không thể lấy nhau được. Một bi kịch tình đời chăng? Biết không thể lấy được nhau, sao lại còn yêu để giờ phải khắc khoải nhớ thương? Nhưng cuộc sống vốn dĩ cũng thường hay nghịch lý như vậy mà. Nếu không thế thì đã không có thi ca!...
Nhà thơ vì quá yêu nên tự dằn vặt với mình đó thôi. Đoạn thơ kết lại như lưu giữ một tấm tình kỷ niệm trong ảo mộng, rồi những đêm lang thang trong phố hay về khắc khoải bên thềm, thi nhân lại cảm xúc sáng tác ra những vần thơ tình chan chứa yêu đương, để thêm nhiều áng thi ca hay cho nền văn học nước nhà.
"Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" là một bài thơ tình gan ruột: Rất Phạm Ngọc Thái! Phong điệu nhẹ nhàng, lời thơ súc tích, hoà quyện tình yêu - cuộc sống với hình ảnh thân thiết của thành phố quê hương mà rung cảm trái tim những người yêu thơ.
Trần Tứ Đức
Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới: http://tranmygiong.blogti...i_var_i_chasm_thai_hay http://www.nhuygialai.com...e-tinh-yeu-dan-ba.html http://vannghequangtri.bl...m-tho-hay-ve-tinh.html http://nghiathuc.wordpres...ay-ve-tinh-yeu-dan-ba/ http://vandanvn.net/vi/ne...n-ba-Tran-Tu-Duc-2275/ http://lalanhdumlarachvn....eu-dan-ba-tran-tu-duc/ http://www.truclamyentu.i...inh-yeu-va-dan-ba.html http://vandanvn.net/vi/ne...n-ba-Tran-Tu-Duc-2275/ http://binhtrung.org/D_1-...e-tinh-yeu-dan-ba.html http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php http://www.vnmilitaryhist...tinh-yeu-va-dan-ba.htm http://www.tiengchimviet....m-tho-hay-ve-tinh.html http://nguyenduyxuan.net/...y-v-tinh-yeu-a-an-baq- http://htruong.violet.vn/..y/show/entry_id/9532821
Phạm Ngọc Thái với tập "Phê bình & Tiểu luận thi ca" Cô giáo Hoàng Giới thiệu
- Đó là tác phẩm thuộc loại phê bình văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã chính thức ra mắt bạn đọc - Nxb Văn hoá Thông tin 2013, dày gần 300 trang với 49 bài viết - kể cả những bài bình trong chùm. Tập sách gồm hai phần: - PHẦN I : Phạm Ngọc Thái bình thơ & tiểu luận. - PHẦN II: Thơ Phạm Ngọc Thái với lời bình Dẫu tôi đã đọc khá nhiều thơ và những bài bình của ông đăng trên văn đàn mạng từ mấy năm nay, thế mà khi cầm quyển sách ông tặng, tôi cứ lan man đọc hết trang này đến trang khác một cách say mê, cuốn hút. Một tập phê bình và tiểu luận thi ca sâu sắc, thực hay. Kể cả mảng ông bình thơ các thi nhân xưa - nay, cũng như thơ của chính ông đã được chọn lọc qua những bài bình từ các văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các trí thức khác. Đúng theo lời nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc đánh giá: "Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta... Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế!... Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà". Hoặc nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh - Anh Trần trong "Lời nói đầu" tác phẩm, đã viết: - Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái tài hoa. Không chỉ sáng tác được nhiều thơ hay, ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu với những lời bình sắc sảo đã được chau chuốt, gọt giũa rất đáng chiêm ngưỡng. Nói riêng về mảng thơ hay Phạm Ngọc Thái được nhiều tác giả bình, như: Nguyễn Đình Chúc bình Váy Thiếu Nữ Bay, là bài thơ mang tính nhân loại có phong cách rất Hồ Xuân Hương, với một bài bình luận về chân dung thi nhân rất nổi tiếng của anh, tiêu đề "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc". Cả hai bài ấy đều được in trong tập sách này. Đến những tác giả khác bình đăng trên các trang mạng Việt toàn cầu trong mấy năm qua: Hoàng Thị Thảo - Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây"; Nhà giáo Đình Bồng - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ áo trắng; Chuyên viên Trần Tứ Đức - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà. Trong đó tác giả đánh giá Người Đàn Bà Trắng là một đỉnh cao thi ca; NS.Anh Trần - Xem Tranh Bán Loã Thể, một kỳ tác thi ca! Trần Việt Thịnh - Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ... Riêng tôi cũng đã bình hai bài thơ hay của ông: "Cảm xúc về Con Đường Phượng Đỏ" và "Em ơi! Thành phố lại mưa", mà tôi cho rằng tình thơ hay vào hàng tuyệt tác. Bởi vậy, cũng nghệ sĩ Anh Trần mới có nhận xét trong bài viết giới thiệu tập sách, rằng: - Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", tác phẩm sẽ mở ra cánh cửa để bạn đọc có dịp khám phá một tâm hồn sâu sắc, một trí tuệ tài năng và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách... Tuy nhiên, ở mảng thơ của thi nhân với lời bình qua nhiều tác giả - Có tới vài ba chục bài bình chưa hề xuất hiện trên văn đàn các trang mạng. Phần lớn tiểu phẩm của những tác giả ấy chỉ đăng trên báo, tạp chí hoặc in trong một tuyển văn thơ nào đó. Thí dụ, Tạp chí Tháp Bút Thủ đô, Sông Hương, Hồn Việt, tạp chí Nhà văn, báo Người Hà Nội... cùng các trang văn học trong cả nước. Những bài bình hay đã được nhà thơ chọn lọc cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" vừa xuất bản này. Chẳng hạn: Nhà thơ Trúc Thông bình Chiều Hoàng Hôn của Phạm Ngọc Thái đăng trên báo Đài Tiếng nói Việt Nam, đồng thời in trong Tuyển "100 bài thơ hay có lời bình", Nxb Thanh niên; Phương Tuấn bình Em Về Biển; Hoàng Ngọc - Cô Quét Lá Đêm Hồ; Tuyết Thuý - Sáng Thu Vàng; Xuân Hùng - Biển Hát; Phạm Thành Công - Tiếng Hát Đời Thường; Trần Ngọc - Em Bán Xoài; Trương Vũ Tiến - Trước Núi Mỹ Nhân; Như Ý - Một Góc Hồ Tây; Ngọc Trâm - Thông Và Biển; v.v... Trong bài giới thiệu ở đây, tôi xin trích từ trong tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" hai bài bình thơ: một bài thơ đời, một thơ tình... của hai tác giả - Đó là nữ nhà giáo Diễm Loan và nhà văn Đào Viết Minh, để bạn đọc bốn phương thưởng lãm thêm cái hay cùng sự phong phú, sâu sắc trong bàu trời thi ca Phạm Ngọc Thái.
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
1- Trước hết nói về thơ Đời - Một bài thơ khóc tang sâu sắc:
LÀM MA EM VỢ
Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du
Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi " kiếp" ! Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi... Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật! Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”! Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời.
Phạm Ngọc Thái
(Trích tập Rung Động Trái Tim)
(*) Ý câu thơ dựa theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo - Trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời!
Lời bình ĐÀO VIẾT MINH:
"Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này: Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" ! Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi... Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn - Còn sống mà sống kém, sống tệ như vậy cũng…? Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em, có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn? Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về cái chết của Hàn Mặc Tử trong Thi Nhân Việt Nam, ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn". Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ - Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Muốn viết một bài thơ khóc tang sâu sắc thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết. Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội cũng như cộng đồng, mà ở đoạn cuối tác giả có nói: Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi... Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em sớm được siêu thoát: Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật! Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm? Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất ấy: Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" ! Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương. Nhìn theo quan điểm nhân đạo, suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia? Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa: Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”! Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh: đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên nỗi xót xa đối với người em: Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục, đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh! Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường, nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Cho nên tác giả đã kết: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Anh ở vì chưng trả nợ đời. Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó, xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành: Làm cho sống đoạ thác đầy Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! ( Kiều ) Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình: Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru? Để mà yên thân nơi cửa chùa: Đã đem mình bỏ am mây... Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than: Nói chi kết tóc xe tơ Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời... Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng: Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây? Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói: Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa... Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng. Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba của đoạn thơ này: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em! Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu? đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này! Ta trở lại với câu thơ đầu tiên: Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" ! Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ này là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian: Anh ở vì chưng trả nợ đời. Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi. Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật, để thắp cho đứa em tội nghiệp cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai, một nén nhang đời!
ĐVM.
Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng 2- Một bài thơ tình khúc triết: KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay. Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*) Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con. Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Phạm Ngọc Thái Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997 (*) Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc! Lời bình DIỄM LOAN: Tác giả kể lại: Vào một đêm mưa gió, không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng, một niềm đam mê man dại. Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về - Chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời! Gọi là Khóc Bên Hồ Núi Cốc nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, nó là một khúc tình ca. Nhà thơ viết thế cho có vẻ đượm màu sắc lâm ly mà thôi: Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba: Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc cả một thế giới tĩnh lặng đến rùng mình của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả thể xác và tâm hồn tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, mà bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng: Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay... Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả: Rõ màu trong ngọc trắng ngà Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên. Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của Khóc Bên Hồ Núi Cốc chỉ là bức tranh ảo, bởi ấn tượng từ kí ức, sự cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, thế mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca chứ đâu phải là một bi kịch tình? Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này đều theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, nhưng đã được hoà phối với dòng thơ lãng mạn, để hình ảnh ngôn ngữ, ý tình được hàm súc, cô đọng. Không viết chảy tràn theo tình cảm như các thi nhân trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến ở nước ta đã viết. Sang đoạn thơ hai là sự gắn bó giữa câu chuyện huyền thoại xưa với câu chuyện tình nay, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái: Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non... Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng lại hoá thành non. Không có tình yêu tất cả trở nên vô nghĩa. Tình yêu là nơi trú ngụ, ý nghĩa tồn tại của đời ta: Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con! Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý ẩn dụ. Nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thì thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con" thì cũng không có những vĩ đại. Cho dù tác giả có đặt câu hỏi: Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chẳng qua là người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất và cũng than cho chính mình. Mượn người xưa để nói nỗi đời nay, ý tình cứ rền xiết lên nhau như hai câu trong đoạn thơ cuối đã viết: Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Cảm xúc thơ tràn ứa mà đẫm lệ. Tôi bình sang đoạn ba, là đoạn thơ máu thịt nhất của bài: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Khi mưa gió phủ táp xuống miền hồ núi, ta nghe như tiếng câu chuyện tình xưa nghiền xé vang lên: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /- Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau. Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn và trái tim son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba này, lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, để nuôi một câu thơ thật, thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn: Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. Cái bóng xanh rì muôn thuở của non ngàn, với "bức phù điêu" đã được tạc trong thiên nhiên kì vĩ kia, là bởi máu và nước mắt tình của những đôi trai gái tắm vào trong nó. Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương tình yêu cũng tô đẹp, là bản tình ca bất hủ trong vũ trụ cũng như cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời. Bằng một cách định nghĩa thi ca Chế Lan Viên đã viết: Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ. (trích di cảo CLV - Bờ bên kia ) Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới thơ của nó. Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai trong đoạn. Nếu không có "vú người yêu" thì thử hỏi: Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này, nếu không có vú người yêu thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? "cắn vú người yêu" là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ, hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi... Đến đây tôi chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng của bài: Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Xuân Diệu thì nói rằng: Anh không xứng là biển xanh Nhưng cũng xin làm bể biếc Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường, lên cả vũ trụ mà chinh phục sao Hoả, sao Kim, sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại, chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu v.v... Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh, hay chỉ là một bồn nước trong nho nhỏ tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu? Đấy, nhà thơ của bài Khóc Bên Hồ Núi Cốc này chỉ muốn kết tình thơ ở đó, để cho đời suy ngẫm? DL. Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" Hà Nội, tháng 1 - 2014 Nguyễn Thị Hoàng Cô giáo ĐH Sư phạm Đã đăng trên nhiều trang mạng thế giới: http://www.nhuygialai.com...tap-phe-binh-tieu.html http://vanthientungqtlh.b...ca-pham-ngoc-thai.html http://llpb.datdung.com/2...tap-phe-binh-tieu.html http://toquocvn.wordpress...-thi-ca-co-giao-hoang/ http://www.tiengchimviet....tap-phe-binh-tieu.html http://www.chinhluanvn.co...tap-phe-binh-tieu.html http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php http://vandanvn.net/vi/ne...Hoang-gioi-thieu-3173/ http://www.tintuchangngay...tap-phe-binh-tieu.html http://nghiathuc.wordpres...binh-tieu-luan-thi-ca/ http://www.aihuubienhoa.c..._5-50_6-1_17-531_15-2/ http://vannghequangtri.bl...tap-phe-binh-tieu.html http://vannghequangtri.bl...eu-pham-ngoc-thai.html http://tranmygiong.blogti...i_var_i_taonp_pha_ba_n http://binhtrung.org/D_1-...-tieu-luan-thi-ca.html http://www.namviet.net/fo...&p=63192#post63192 http://hung-viet.org/blog...binh-tieu-luan-thi-ca/ http://www.vanganh.info/2...tap-phe-binh-tieu.html http://nguyenduyxuan.net/...inh-a-tiu-lun-thi-ca-q http://4phuong.net/ebook/...-tieu-luan-thi-ca.html http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3461
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2014 22:09:19 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Phạm Ngọc Thái với mấy nét tình sử về bài thơ "Người đàn bà trắng" Anh Nguyễn Vào một buổi sáng cuối thu vừa đây, chúng tôi trong tổ chức văn chương HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU MẶT TRỜI THI CA có cuộc hội ngộ cùng nhà thơ Phạm Ngọc Thái, nhân dịp ông cho xuất bản tập "Phê bình & tiểu luận thi ca". Có thể nói đó là một tác phẩm bình luận văn học tuyệt vời, hấp dẫn và quí giá... sẽ chính thức ra mắt văn đàn chỉ trong ít ngày tới. Nhưng thôi, với tác phẩm phê bình và tiểu luận thi ca đó, khi nhà thơ phát hành hoặc gửi biếu tặng anh em, bạn hữu cùng các văn nghệ sĩ, sẽ đề cập đến sau. Trong bài viết này chúng tôi lại muốn chuyện trò với bạn đọc về một vấn đề khác. Như tên đề ở trên: "Phạm Ngọc Thái với mấy nét tình sử về bài thơ "Người đàn bà trắng" - Đó là một bài thơ hoàn bích nhất của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Cũng trong buổi hội ngộ, chúng tôi có hỏi tác giả về tình sử của bài thơ tình đặc biệt này - Sau đây xin lược trình lại câu chuyện cùng bạn đọc, để mọi người có thể cảm nhận tình thi phong phú hơn. HỎI: - Theo chúng tôi được biết, Người Đàn Bà Trắng chính là một thần tượng về "tình yêu & đàn bà" của nhà thơ. Vậy mong ông nói đôi nét về người đàn bà... mà ông đã viết nên bản tình ca bất hủ đó? Ngoài đời người ấy chiếm một vị trí như thế nào trong trái tim và cuộc sống thi nhân? Ông có thể hé mở một chút về cõi riêng tư đó... cho bạn đọc biết được không? Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
NHÀ THƠ TRẢ LỜI: - Nói về thần tượng tình yêu với người đàn bà, nhà thơ Nga Ler-môn-tôp từng viết:
Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng Miếu thơ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ
Người-đàn-bà-trắng với tôi là một mối tình lãng mạn, nhưng không phải là một cuộc tình trăng gió. Chỉ bởi, tôi và nàng yêu nhau mà không thể đến với nhau được mà thôi. - Tại sao vậy, thưa ông? - Người không vượt qua được là tôi chứ không phải là nàng. Nhà thơ tiếp tục nói, khi đó tôi đã có gia đình riêng, nhưng lại không thể bỏ vợ, dù rằng rất yêu nàng. Nàng không có vướng mắc gì cả, thời gian ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Vấn đề này mình cũng chỉ trao đổi với nhau một chút, đơn giản như thế thôi nhé! - Vâng, không sao cả.
HỎI: - Xin ông cho biết số lượng những bài thơ ông đã đã sáng tác về người-đàn-bà-trắng có nhiều không? Đó là những bài thơ nào trong cả tuyển với hàng trăm bài thơ tình của ông, nhất là những tình thơ có thể gọi là hay?
NHÀ THƠ TRẢ LỜI: - Nàng là người đàn bà mà mình đã viết nhiều thơ yêu nhất, cũng nhiều thơ tình hay nhất. Có lẽ Người Đàn Bà Trắng nổi trội và hay hơn cả đó thôi. Phần lớn những bài thơ tình mình sáng tác khi xúc cảm lên đến tột điểm, đều là những bài thơ viết về nàng. Như: Khóc bên Hồ Núi Cốc, Sáng thu vàng, Sáng xuân nay, Trong mưa, Tiếng rúc chim đêm, vớt trăng, Đêm thiếu nữ... còn rải rác hàng chục bài khác, không thể kể hết. Sau đó nhà thơ đã trao đổi với chúng tôi những lời tri kỷ qua một số bài thơ tình của ông, xung quanh chân dung Người-đàn-bà-trắng. ÔNG NÓI: - Thí dụ, Trăng Dạt Trong Mây: Tôi đã sáng tác bài thơ này vào ngay sau cái ngày nàng đi... lấy chồng. Tại sao cái cảm giác khi nàng lên xe hoa lấy chồng lại giống như "bóng trăng dạt vào mây"? Nghĩa là, từ đây mối tình tôi và nàng sẽ bị lấp đi, tối đi, cũng như cái thời mơ mộng, cháy bỏng tình yêu... cùng bao khát vọng trái tim đời thiếu nữ của em, thế là không còn nữa? Nên mở đầu bài thơ viết: Trăng dạt trong mây
Em trôi vào cuộc sống...
Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa
Và những đêm thiếu nữ bên hồ.
Trong những ngày yêu nhau, em từng thổ lộ với tôi về những nỗi niềm riêng tư của cả cuộc đời. Yêu tha thiết đấy mặc dù vẫn biết là không thành. Em từng nói với tôi rằng em không muốn lấy chồng? Có lần tôi đã khuyên:
- Thôi, em lấy chồng đi!
- Sao anh lại nói vậy? nàng hỏi lại.
- Như thế thì coi như cuộc đời đã an bài, dùng dằng mãi chỉ khổ nhau thêm?
Bởi vậy trong bài mới có những câu thơ:
Anh không hỏi gió có buồn
Lá có buồn
Một chiều nào đó có hư không?
Nỗi buồn sâu xa cuộc sống...
Cái tâm trạng chơi vơi, nửa vời - Thì mình đã muốn em đi lấy chồng mà? Nhưng khi em đi lấy chồng thật, lại thấy trong lòng trống vắng và mất mát:
Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống Như thi ca! Tan vỡ mặt trời! Trông theo em bờ-bãi-con-người
Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy?
Giây phút tôi lại nghĩ đến hình ảnh Hòn Trống Mái giữa biển khơi - Đó là núi-chồng, núi-vợ... mặc gió to sóng cả, bão táp dập vùi mà vẫn thuỷ chung: Biển vẫn nuối ngàn năm quanh Trống Mái
Sắc ti-gôn ai từng hát thay ta...
Cả câu chuyện tình với sắc hoa ti-gôn trong bài thơ của TTKH như cũng đang hát vọng lên, nhập hoà vào trái tim yêu da diết của tôi đối với nàng. Người nữ sĩ đã từng than: Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ đến loài tim... vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
(Hai sắc hoa ti-gôn)
Còn ở trong bài Trăng Dạt Trong Mây thì: Em đi biết bào giờ trở lại?
Gió hồn anh thổi mãi bến bờ xa...
Th.sĩ Anh Nguyễn
Ông nói sang một bài thơ khác cũng viết về Người-đàn-bà-trắng, bài "Sáng thu vàng": Vào một buổi sáng mùa thu sau thời gian xa cách - ông tiếp, bỗng nhiên tôi gặp lại nàng. Cái cảm giác gặp lại người yêu lâu ngày xa cách, cứ bàng hoàng đứng chôn chân giữa trời. Một sự tiếc nuối tràn đến, bên hồ làn tóc em bay trong gió, đôi mắt nhìn thăm thẳm. Lại thấy mình tiếc nuối vì đã giục em đi... lấy chồng? Nhưng tất cả đã rồi, chỉ biết thổ lộ vào thơ:
Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn. Em vẫn rất đẹp và đầy cám dỗ, nhưng đã toát lên cái đẹp mang chất của một người đàn bà chứ không còn phải của một thiếu nữ khi xưa. Một chút gì đó đã phôi pha trên khuôn mặt, tâm hồn em có phần sâu lắng hơn: Người con gái đã thành chính quả! Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà... Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Nhưng dù nàng có đẹp hay cám dỗ thế chăng nữa, thì với tôi tất cả cũng không còn. Nàng phá cả mùa thu trong xanh kia hay đã mang cả mùa thu êm đềm của tình yêu đi rồi?
- Nghĩa là người đàn bà ấy đến với thi nhân, tất cả chính là để giành cho thi ca! Có phải vậy không, thưa ông?
- Ý bạn muốn hỏi: với tôi, nàng chỉ là của thơ ca hay đã chiểm cả trái tim trong cuộc đời? Có lẽ là cả hai đấy! Người đàn bà ấy... tôi yêu mãi mãi. Bên em tôi lại thấy bồi hồi, một sự khao khát lại được sống với em như ngày xưa. Sự khao khát ấy là vô tận, không có hạn định của thời gian và cũng không có ngăn cách bởi không gian. Mình nói thêm một bài thơ nữa nhé, bài "sáng xuân nay" - Cũng vào một buổi sáng mùa xuân gặp lại, sau cái ngày em đi lấy chồng ấy. Hai đứa cùng nhau vào một quán nhỏ bên phố. Một cảm giác bâng khuâng, bổi hổi bên em lại tràn về. Hương trên mái tóc em, làn da, tấm thân nồng nàn người đàn bà... tất cả trộn hoà trong nhau. Thương nhớ và đắm đuối mà tạo thành những câu thơ:
Sáng xuân nay không chít khăn tang, không mang áo cưới...
Gió đi đâu không thấy thổi trên đường
Thơ nằm khóc trên nấm mồ êm ái Anh chỉ ngồi thầm lặng bên em.
Em vẫn đấy nhưng đâu còn em nữa? Em của tôi đã xa lắc, xa lơ mất rồi. Xa mãi không về... Hương phảng phất bay lên từ mái tóc
Tình trắng tinh như ngửa đôi bàn tay Đôi mắt em hoá thành mây trôi đi mất Hồn anh chao dưới những lá cây rơi.
Đúng là tình yêu và cuộc đời? xoè đôi bàn tay ra... chỉ còn là đôi bàn tay trắng. Trời đất cũng hoá vô vi. Ngồi bên em giây lát, bỗng nhiên mình lại liên tưởng đến bóng dáng của cái lão Giăng Van Giăng tội nghiệp trong tiểu thuyết "Những người cùng khổ" của V.Huy Gô. Suốt cuộc đời lão dành tình yêu thương cho nàng Cô Dét. Lão sống hết cho nàng. Ấy vậy mà... tới khi lão chết vẫn chỉ một nấm mồ thui thủi, cô đơn. Chỉ có những chiếc lá vàng, hết tháng năm này sang tháng năm khác là đều đặn rơi trên mồ lão - Hình ảnh ấy đã vào thơ: Cứ yên lặng,
Ông lão Giăng Van Giăng yên lặng...
Tôi cũng như ông chỉ thấy lá vàng thôi, Người đàn bà ấy đẹp giống cô Cô Dét
Nàng yêu tôi, nhưng nàng đã đi rồi! Nghĩa là, mỗi bài thơ khi tôi viết về nàng đều từ một cảnh tình nào đó gợi ra, hoặc từ nỗi nhớ nhung tạo thành cảm xúc để trái tim nhà thơ gửi nỗi niềm của mình vào đó. Trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng cũng vậy. Tình thi này anh Trần Tứ Đức đã bình khúc triết rồi, tôi chỉ dẫn giải thêm một chút - Nhà thơ nói tiếp, mình và nàng yêu nhau, chỉ bởi cảnh tình không lấy được nhau... chứ không phải bị chia rẽ hay bởi sự phá vỡ nào. Mình đã có vợ, còn nàng thì rồi cũng phải... lấy chồng. Dù thế, vẫn thương nhớ nhau cả đời. Nên mới có đoạn triết lý rằng: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Cám ơn sự chia sẻ của nhà thơ! Chỉ xin hỏi ông thêm một câu nữa:
- Quan hệ giữa nhà thơ và người-đàn-bà-trắng đã bao giờ đi đến tận cùng của tình yêu chưa, thưa ông? Xin nhà thơ bỏ quá khi chúng tôi hỏi câu này, nếu như nhà thơ có thể hé mở sâu chút nữa, cho thiên tình sử thêm phần sống động?
- Các bạn muốn hỏi mình và nàng đã đi đến tận cùng của tình yêu chưa à?
NHÀ THƠ TRẢ LỜI:
Cái quí nhất của người đàn bà chính là... "cái ấy"! Hầu như các thi nhân khi viết về tình yêu và đàn bà, ai cũng đều muốn có những bài thơ sáng tác về của quí đó. Đàn bà là xứ sở của đam mê, nơi bắt nguồn ngọn lửa Prômêtê sự sống, khát vọng trái tim cả loài người. Cũng xin nói ngay vào bài thơ Người đàn Bà Trắng, có một đoạn thơ đã viết:
Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Chính là cái chỗ thiên thai mà tạo hoá đã sinh ra trên thân thể của người đàn bà. Hai chữ "chùm trinh", tức là chùm trái cấm - Ta có cảm giác như đó là cả một chùm trái thơm ngon lành của nàng đang trĩu trịt, ăn vào là nhớ mãi. Ca dao đã có câu: Dao đâm vào thịt thì đau
Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
Liên tưởng tới truyện Kiều - Khi Kiều đang khoả thân trong buồng tắm, Nguyễn Du mô tả: Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên
Nếu ở đây ta bàn luận về hai chữ "dầy dầy" mà cụ đã tả ấy, đó là cái gì? Nghĩa của nó không thể để chỉ về thân thể của nàng Kiều được - Bởi vì, tấm thân Kiều mà lại "dầy dầy" thì khó coi quá. Một người đàn bà sắc đẹp đến nghiêng nước, nghiêng thành: Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Mô-típ một người con gái đẹp thời xưa thường có một tấm thân mảnh mai như liễu, như mai... chứ không béo tốt, đẫy đà, đầy cảm hứng hưởng thụ như người hiện đại chúng ta bây giờ. Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Kiều là như thế. Còn nếu tả về đôi má Kiều mà lại là "đôi má dầy dầy" thì... nói vô phép, quá là nói về má của... heo. Tôi thấy là chỉ có một chỗ duy nhất trên tấm thân Kiều là có thể dùng hai chữ "dầy dầy", đó là hai bên... mép bướm của nàng. Các bạn cứ tưởng tượng mà xem - Nhà thơ tiếp tục diễn tả: Nói về trái cấm của Kiều "dầy dầy"... thì đúng quá đi rồi! Ta liên tưởng tới câu thơ bà Hồ Xuân Hương cũng tả về chỗ ấy: Cỏ gà lún phún leo quanh mép Cá diếc le te lách giữa dòng
Cho nên, tôi cho rằng hình ảnh câu thơ "dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên" mà đại thi hào Nguyễn du muốn nói đến, chính là cái... "bướm" của Kiều. Cả một toà thiên nhiên mà tạo hoá đã sẵn đúc trên thân thể nàng. Thi nhân nào chả muốn chơi thơ. Các bậc tổ tiên ta cũng rất khoái nói về của ấy, nhưng Người khéo dùng chữ nghĩa cho lẩn đi mà thôi. Xin trở lại với bài thơ Người Đàn Bà Trắng: "chùm trinh" của nàng reo ca... "chùm trinh" của nàng đã hát... Thân thể hoà với tâm hồn nàng đã trở thành một tượng đài bất hủ - Hàm ý ấy được tích đọng vào trong câu thơ mang đầy tính triết lý:
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Vậy theo các bạn, viết được một bài thơ ý tình như thế thì mình đã đi đến tận cùng trong tình yêu đối với nàng chưa? Ông cười ha hả, sau đó chuyển sang nói về một bài thơ khác.
Bài "Khóc bên Hồ Núi Cốc" - Bài này cũng viết về Người-đàn-bà-trắng đấy, ông nhấn mạnh lại như vậy.
Vào một đêm mưa to gió lớn, đứng giữa bàu trời Hồ Núi Cốc mịt mùng... hoà trong câu chuyện tình huyền thoại đau thương, lãng mạn trong truyền thuyết về nàng Công - chàng Cốc. Lòng tôi bỗng bồn chồn, lại da diết nhớ đến người đàn bà của mình. Ôi, những phút giây đã sống và ân ái với nàng? Nàng hiện lên trên bàu trời với cả một tấm thân kiều diễm và mơ mộng, như câu thơ đã tả: Em khỏa thân nằm trên bóng bến xưa bay...
Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc này đã được một nữ nhà giáo Diễm Loan bình, cũng có in trong tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" này, ông bảo vậy. Khi các bạn hỏi mình và nàng đã đi đến tận cùng của tình yêu chưa? Các bạn hãy nghe những câu thơ: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Đó là cảm xúc bởi nỗi khát khao yêu đến tột cùng. Đôi vú của người yêu cũng như cái ấy... là vô giá nhất của người đàn bà. Người-đàn-bà-trắng có một tấm thân hút đến mê hồn, nên những bài thơ tình tôi viết về nàng thường mang màu hoang dã. Tình thơ bao giờ cũng dâng lên một cảm xúc cồn cào, muốn ôm ấp thân thể nàng, cùng người yêu hưởng niềm lạc thú. Nói như thế không phải là tình yêu với nàng không thanh tao? Đâu phải vậy. Có những người đàn bà không chỉ vẻ đẹp của tâm hồn mà cả thể xác cũng quyến rũ, làm ta say đắm đến tột cùng. Nàng thuộc vào loại người đàn bà ấy. Bởi vậy, trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng mình mới kết rằng: Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát, Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng... Cám ơn nhà thơ!
Để kết thúc bài viết với mấy nét về thiên tình sử này, chúng tôi xin đăng lại toàn bộ tình thi trác tuyệt ấy của thi nhân, để bạn đọc thêm một lần cùng thưởng lãm:
NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy... Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xõa ngang vai mái hất tơi bời. Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đường xưa đó về đây em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa. Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau. Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát, Khúc thơ tình anh lại viết về em! Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Hà Nội - 6.11.2013
Th.sĩ Anh Nguyễn
Giảng viên Trường Đ H Quốc Gia VN Đã đăng trên các trang mạng Việt trong nước & thế giới: http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/17373980?from=my http://llpb.datdung.com/2...ay-net-tinh-su-ve.html http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php http://vietinfo.cz/goc-ba...guoi-dan-ba-trang.html http://nguyenduyxuan.net/...i-th-qngi-an-ba-trngq- http://binhtrung.org/D_1-...guoi-dan-ba-trang.html http://www.nhuygialai.com...ay-net-tinh-su-ve.html http://hung-viet.org/blog...ho-nguoi-dan-ba-trang/ http://www.truclamyentu.i...nguoi-dan-ba-trang.htm http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-86_4-5150_15-2/ http://vannghequangtri.bl...ay-net-tinh-su-ve.html http://www.chinhluanvn.co...ay-net-tinh-su-ve.html
NGUYÊN TẮC TRƯỚC HẾT TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ Phạm Ngọc Thái Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung của một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ ra rác, trước sau cũng...vứt đi! Nói cho có chút động viên nhau để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ chết. Hay như cách nói của Gớt, tầng tầng bụi phủ...
Vậy thì bàn luận hoặc hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.
a/. Thí dụ về nhà thơ Hữu Thỉnh: Cơ bản đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ đạt giá trị hay nhất của ông.
"Thơ viết ở biển" là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu của Nguyễn Khuyến...
Xin phân tích đôi nét về bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn". Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?... Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay. Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn! Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao.
Mấy câu thơ đầu thì hay:
Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay! Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái - Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ HT. Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em..."như cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay.
Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la...
Hay là:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Rồi nhà thơ giải thích:
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
Chỉ có thuyền mới hiểu / Biển mênh mông nhường nào / Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu, về đâu...
Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca.
Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài - Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến / Vì sóng đã làm anh / Nghiêng ngả / Vì em...
Cảm xúc viết thơ đến đây của HT bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển, tức là "anh" rồi - thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... HT hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tuỳ tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em": Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn, bài thơ kết bị đuối.
Ta hãy xét đến đoạn thơ kết trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái, nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố...
Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca, có thể nói: "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh kém "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh gần một tầm.
Sở dĩ tôi phân tích hơi kỹ một tý, vì đó là bài thơ hay nhất của đời thơ Hữu Thỉnh.
Nhưng đồng thời cũng là để nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?
* Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Nhưng:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng của một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự miêu tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là:
Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió se
Rồi:
Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu
Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó của nhà thơ hoặc của nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay! Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng về một bài thơ hay trong thi đàn.
* Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan: Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau 4 câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi, thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả, nhưng đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học của nước nhà.
Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi.
Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được... nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên.
* Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
Nhưng tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động:
Bao cô thôn nữ hát trên đồi / Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Hay là khi tả về tiếng hát:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây...
Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc / Xem ra ý vị và thơ ngây...
Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân? Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn... một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
"Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh nắng chang chang chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình...
* Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
Nhất là trong hai câu kết:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!
* "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng ca của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
* Ở đây tôi không muốn nhắc đến bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh - Mà một dạo bài thơ đó cũng đã từng được dư luận tán dương?
Bởi, theo bài viết của tác giả Đại Lãng Du Tử đăng trên vietnamnet.vn rằng: Bài Hỏi của nhà thơ Hữu Thỉnh đã đạo từ bài "Thượng đế đã làm ra mặt trời" của nữ thi sĩ người Đức Christa Reining (sinh 1926), qua bản dịch ra tiếng Việt. Sau đó cả Trần Mạnh Hảo cùng Nguyễn Trong Tạo đã viết bài tố giác trên một số trang internet.
Xin trích lời nhà thơ & bình luận Trần Mạnh Hảo đã được đăng tại website vnthuquan.net vào ngày 21/5/2007, như sau:
"... Qua bằng chứng nêu lên thì chính xác đến không thể chối cãi, bài thơ Hỏi không phải của nhà thơ Hữu Thỉnh mà chính của nữ nhà thơ Christa Reining năm nay đã 80 tuổi, đã từng được giới thiệu trên báo Văn học Nước ngoài từ năm 2002. Bài thơ này đã được nữ thi sĩ Đức viết từ trước năm 1963, năm ông Hữu Thỉnh 19 tuổi chưa từng xuất hiện trên thi đàn? Chuyện động trời này chúng tôi không dám tin là sự thật. Một người mũ cao áo dài, thương hiệu không phải chỉ là của nền văn học Việt Nam, mà còn là thương hiệu của chế độ như ông Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh, lẽ nào lại đi ăn cắp thơ của người khác làm thơ mình?...".
Còn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì viết:
" ... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?...".
Một bài thơ đã đaọ của người khác... thì bàn làm gì cho rợm cả trang viết ?
Như thế là tôi đã nói hết những bài thơ đứng đầu trong những tác phẩm thơ ngắn của Hữu Thỉnh. Ngoài ra ông có viết đôi trường ca. Trường ca đáng nói hơn là "Trường ca biển" mà cùng với tập "Thương lượng với thời gian", ông đã mang ra để chiếm lấy cái giải quốc gia lớn nhất vừa qua, hoặc được ban bệ do chính ông nặn ra tâng bốc để đưa đi lấy cái giải quốc tế chăng nữa? Tôi cam đoan rằng, tất cả trường ca của Hữu Thỉnh không tồn tại được với thời gian. Trường Ca Biển là một tác phẩm viết kiểu ngợi ca của "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", cấu tứ còn làm nhàm , viết ào... tầm vóc trung bình, lời nhiều nghĩa ít, lan man... không có khả năng lưu được trong nền văn học nước nhà. Vì là thơ của ông Chủ tịch HNV nên cố đọc để biết, chứ nếu trường ca đó của một nhà thơ khác, chắc chỉ xem nổi một, đôi chương.. rồi cũng sẽ bỏ đi. Rồi đây tôi sẽ viết một bài bình cặn kẽ về "Trường ca biển" này của ông, của một tay viết chuyên nghiệp nhưng... trình độ thường - Để thấy rằng: Tại sao rồi nó cũng chỉ là một trường ca... ra rác!
Theo nhận biết của tôi: mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng HNV hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần.
Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây?
Tôi vẫn đang nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?
b/. Nói thêm về một nhân vật đang có tên tuổi của HNVVN đương thời, nhà thơ & bình thơ Vũ Quần Phương -
Cũng như Hữu Thỉnh, cơ bản thơ Vũ Quần Phương không có khả năng tồn tại, tôi vẫn thường gọi: đó là những thứ thơ ra rác, hoặc gần 100% như thế. Một người có khả năng cảm nhận được thơ hay, đi tìm trong hàng trăm các bài thơ của Vũ Quần Phương, cũng khó mà tìm nổi một bài thơ thực sự hay của thi đàn để mà bình. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ một tý... "Đợi"!
Bài thơ Đợi chính là đỉnh cao độc nhất chênh vênh của đời thi ca của Vũ Quần Phương. Tôi xin viết lại toàn bộ bài thơ đó:
Anh đứng trên cầu đợi em / Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm / Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy / Nước chảy bên lòng, anh đợi em.
Anh đứng trên cầu nắng hạ / Nắng soi bên ấy lại bên này / Đợi em. Em đến? Em không đến? / Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!
Anh đứng trên cầu đợi em / Đứng một ngày đất lạ thành quen / Đứng một đời em quen thành lạ / Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Cái hay của bài thơ này là những hình ảnh như: nước chảy, trên cầu đứng đợi, nắng hạ soi rồi nắng tắt anh còn đứng... đều trở thành biểu tượng "chờ đợi của tình yêu"! "Cái nước chảy" suốt ngày đêm ấy để nói về thời gian, "nắng" biểu tượng ở không gian, nhất lại là nắng hạ, nó nói về sự chờ đợi tha thiết, mỏi mòn mà em không thấy tới, rồi tác giả đúc vào trong đoạn thơ kết là hình ảnh của những câu hay nhất bài:
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ
Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Tuy thế bài thơ mới nêu lên được khái niệm về cái sự chờ đợi, chứ nó chưa có nội tâm đời sống, thậm chí chưa có cả tình cảm, tâm lý của sự chờ đợi. Ngay cả với "nhân vật chờ đợi" là nhà thơ ở đây, cũng mới chỉ là một ý tưởng còn cứng nhắc, chưa phải là người bằng da, bằng thịt của VQP. Hay nói một cách hình ảnh, hình tượng bài thơ như một người hàng mẫu bầy trong tủ kính, chứ chưa có sự rung cảm trái tim của một con người đang sống. Bởi vậy bài thơ chưa đạt độ xung mãn để trở thành một bài thơ hay thực sự của thi đàn, như những bài thơ của các thi nhân mà tôi đã dẫn chứng ở trên.
Tuy nhiên "Đợi" đã có dáng của một đài thơ, nhưng đài chưa cao. Mới lại... Vũ Quần Phương cũng chỉ có một độc chiêu như thế, dăm ba bài khác như: Trước biển, Áo đỏ, Thuyền Trương Chi đang trôi, Nói với em, hay Vầng trăng trong chiếc xe bò... chỉ nhâm nhi được tí này, tí nọ, rồi cũng sẽ vào cát bụi cả thôi! Đúng như lời tự hoạ trong một bài thơ ông đã viết:
Anh còn gì cho em...
Dăm câu thơ nhoà nhạt
Sẽ còn đúng hơn nếu ông viết:
Anh còn gì cho em?
Đời thơ anh cát bụi...
Và cũng như cái tên đề mà ông đã đặt cho một tập thơ của mình: "Giấy mênh mông trắng" - Đúng như vậy, dù VQP có viết nhiều, sáng tác nhiều thơ hơn thế nữa, thì chân dung thơ của ông vẫn chỉ là "giấy mênh mông trắng"...
Bởi thơ ông không có khả năng tồn tại với thời gian, để lưu lại cho nền văn học nước nhà! Như vậy, đời thơ Vũ Quần Phương gần như con số "O" tròn trĩnh rồi!...
May ra ông có thể lưu lại chút gì đó trong văn đàn, là mảng bình thơ chăng? Mặc dù những bài bình của Vũ Quần Phương cũng chưa thật sự được thuyết phục lắm. Khả năng thẩm định thơ của ông vẫn còn hạn chế, nhất là đối với thơ hiện đại. Tôi xin lấy thí dụ về một bài thơ mà VQP đã bình - Đó là bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử".
Khi bình đến đoạn thơ thứ hai của bài:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Nhà bình thơ VQP nhận xét:
" Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở "...
Hay là: "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." - Rồi nhà bình thơ cho rằng:
" chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm " - Cảm nhận thơ như thế chưa đúng, tức là chưa hiểu hết về thơ HMT?
HMT là một thi nhân viết thơ theo tư duy của nội tâm. Xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy, còn ý tứ thường được diễn tả khá mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng mà diễn đạt nỗi tình thơ...
Đây Thôn Vỹ Dạ là bài thơ mà thi nhân viết về tình yêu đơn phương của ông đối với nàng Hoàng Cúc. Huống chi giờ đây do bị bệnh tật hiểm nghèo, thi nhân phải đi điều trị ở Gành Ráng, một nơi cách biệt với cuộc sống con người. Mối tình ấy càng trở nên xa cách:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Cũng có nghĩa: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi... /- Cái hình ảnh dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay phật phờ bên sông kia, nó cũng để chỉ một tâm trạng buồn tẻ, cô đơn của thi nhân. Còn về hình ảnh con thuyền ở trên bến sông trăng, dù là cảnh mơ, ảo... trong sự hoài tưởng về chốn cũ, người xưa... thì cũng là cảm xúc đã được thăng hoa. Vậy thì toàn bộ bài thơ hoàn toàn từ đoạn một tới đoạn ba, ý tình vẫn được nối với nhau, liên kết rất chặt chẽ - Đoạn thơ hai chính hình ảnh nói về duyên phận của hai người, là sự liên kết ở thế giới bên trong thơ, chứ không phải "đầu Ngô mình Sở" như VQP nhận xét. Hình tượng về gió và mây, đến dòng nước và bông hoa bắp lay...của hai câu thơ này sâu sắc, cũng hay không kém gì những câu thơ kiệt xuất trong bài thơ "Bẽn lẽn" nổi tiếng của Ông:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...
Tôi lại xin liên hệ với bài "Qua đèo Ngang" của BHTQ - Bốn câu đầu của bài thơ, Bà Huyện chỉ tả về quang cảnh của đèo Ngang như đã nói trên - Nhưng đến hai câu 5-6:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia...
Thì hình ảnh con chim cuốc và cái gia gia... là để nói về cái nỗi nước, tình nhà của bà. Bởi theo truyền kể, Bà Huyện không phải chỉ là người đàn bà đảm đang việc gia đình, chăm lo đến chồng con, mà Bà vẫn thường giúp Ông Huyện xử nhiều vụ kiện chốn công đường, rất quan tâm tới việc nước - Nhưng đến hai câu sau thì tứ thơ lại quay trở về thực tại ngay:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cũng rất giống với trình tự lập tứ như trong bài Đây Thôn Vỹ Dạ - Đoạn thơ cuối HMT trở lại với thực tại... tự thán về mình:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vậy cứ theo như cách biện luận của VQP thì bài thơ Qua Đèo Ngang này cũng đầu Ngô mình Sở à? Mặc dù bài thơ của BHTQ theo dòng thơ cổ phương Đông, còn bài thơ của HMT là thơ hiện đại, ảnh hưởng sâu sắc trường phái thơ tượng trưng của châu Âu.
Tôi đã xem khá nhiều những bài bình thơ hiện đại của Vũ Quần Phương, Ông hay sử dụng các tiểu xảo về ngôn từ, cách cú... có tính chất bày vẽ phô diễn, nhưng lời bình phẩm lại chưa thấu tình, đạt ý, nên những tiểu luận phê bình thi ca của ông tồn tại được với nền văn học mai sau chắc cũng không nhiều.
Tôi vẫn đang nói về ý nghĩa cũng rất quyết định đối với một bài thơ, hay một tác phẩm văn học nói chung là "Tồn tại hay không tồn tại"? và "Tồn tại đến đâu"?
HỘI NHỮNG NGƯỜI YÊU THI CA HÀ NỘI giới thiệu: SÁCH BÁN CỦA MỘT THI NHÂN LỚN
Đó là hai tác phẩm văn học:
1. Tập thơ "Hồ Xuân Hương tái lai" của nhà thơ Phạm Ngọc Thái,
Nxb Văn hoá Thông tin 2012
- Có tấm vóc của một tuyển thơ - dày 400 trang với 298 tình thơ.
Một tuyển thơ hấp dẫn & hay.
2. Cuốn "Phê bình & tiểu luận thi ca" cũng của thi nhân,
Nxb Văn hoá Thông tin 2013 - Tập sách dày gần 300 trang. Là một tác phẩm bình luận thi ca đặc sắc, có nhiều bài hay và giá trị đối với nền văn học.
Đọc hai tác phẩm "Hồ Xuân Hương tái lai" - "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" :
- Sẽ hiện lên chân dung của một thi nhân lớn trong đương đại cũng như nền văn hiến nước nhà.
Nếu không phải vậy? Những ai có đủ khả năng trình độ thẩm định thơ, viết bài bình phẩm cụ thể tác phẩm thi ca để phản biện trên các trang văn học của báo chí quốc gia, tác giả sắn sàng bồi hoàn với khoản tiền 10 000 000đ để tỏ lòng thành kính - Vì danh dự nhà thơ quyết không nuốt lời.
Hai tác phẩm đều được in theo khổ sách rộng 14,5 x 20,5cm, bìa gập đẹp, sách dày và khá hoành tráng.
- Giá bìa sách cả hai quyển là 173 000đ
- Giá bán tác giả chỉ lấy tổng cộng 100 000đ
( kể cả tiền cước phí gửi trong nước đối với hai cuốn sách dày như thế, đã mất 20 000đ -
Tức là tác giả chiết khấu tới 50% )
* Nếu mua 1 quyển là 60 000đ ( kể cả tiền cước phí gửi).
Tác phẩm hay, đọc hấp dẫn mà lại rất rẻ, nhà thơ mong muốn sách đến được với nhiều bạn đọc.
- Nếu độc giả nào muốn mua, xin liên hệ trực tiếp với nhà thơ:
Phạm Ngọc Thái
ĐC: Ngõ 194/ Nhà 34, phố Quán Thánh, Hà Nội
ĐT: 0168 302 4194
Email: ngocthai1948@gmail.com
- Độc giả có thể tìm hiểu thêm thi nhân qua link sau.
* Tất cả các bài viết trong link đều được in ở tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" này :
http://4phuong.net/ebook/76310147/pham-ngoc-thai-chinh-la-chan-dung-cua-mot-thi-hao.html
http://nghiathuc.wordpress.com/2013/10/06/pham-ngoc-thai-chinh-la-chan-dung-cua-mot-thi-hao/
VỚI CÁC ĐỘC GIẢ Ở HẢI NGOẠI:
Do tiền cước phí gửi lớn, tác giả không thể gửi sách đi được. Nếu độc giả nào có nhu cầu muốn thưởng lãm tác phẩm, đề nghị liên hệ với nhà thơ qua email. Tác giả sẽ gửi tặng Quý vị nguyên bản hai tác phẩm đó theo hộp thư điện tử.
- Tổ chức và cá nhân nào muốn com măng xuất bản ở hải ngoại hay tái bản ở trong nước để bán, hoặc có thể xuất bản tập mới:
* Thí dụ như bản thảo tập "Bàu trời thơ tình hay và lạ":
- Gồm 119 tình thơ của thi nhân, rút từ trong những tuyển thơ đã xuất bản. Một tập thơ tình tuyệt hay dày khoảng 200 trang.
Đề nghị giao thiệp trực tiếp với nhà thơ.
T/M HỘI THI CA HÀ NỘI
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm
cogiao.hoang61@gmail.com
Ai muốn tìm hiểu "Hội những người yêu thi ca Hà Nội" Mở link sau:
http://nghiathuc.wordpress.com/2013/09/17/gioi-thieu-ve-mot-to-chuc-van-chuong-hoi-nhung-nguoi-yeu-mat-troi-thi-ca-bai-cua-anh-nguyen/
http://www.namuctuanbao.net/913/truyenNgan/truyenngan_27.php Giới thiệu đã được đăng trên một số trang mạng trong nước & Hải ngoại: http://vannghequangtri.bl...hi-ca-ha-noi-gioi.html http://llpb.datdung.com/2...ngoc-thai-co-giao.html http://hung-viet.org/blog...-cua-mot-thi-nhan-lon/ http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_10.php http://blog.zing.vn/jb/dt...8388886?from=hottoppic http://www.nhuygialai.com...nha-tho-pham-ngoc.html http://nghiathuc.wordpres...-cua-mot-thi-nhan-lon/ .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.03.2014 10:39:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Phạm Ngọc Thái với 3 tuyệt tác - 20 tình thơ hay hoặc khá hay Trần Tứ Đức Trong một bài viết, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã nêu ra một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay, rằng: " Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi. Nói để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được". Cũng nhất quán trên cơ sở ấy, với nhận thức bản thân kết hợp, sàng lọc qua nhiều dư luận và đánh giá ở văn đàn - Tôi xin khái quất về chân giá trị tác phẩm thơ ca Phạm Ngọc Thái như sau: A- PHẠM NGỌC THÁI VỚI 3 TUYỆT TÁC THI CA NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG Người đàn bà đi trong mưa rơi
Chứa một trời thầm như hoa vậy. Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng. VÁY THIẾU NỮ BAY Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào chỗ ấy của em...
Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm.
Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh.
Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang. LÀM MA EM VỢ Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi " kiếp"
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!
Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
(*) Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
B- 20 TÌNH THƠ HAY HOẶC KHÁ HAY 1. ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY Tình để lại vết thương không lành được Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian Em hiền dịu trái tim từng tha thiết Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan. Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt Hạnh phúc qua như một cánh chim bay Nông nỗi đời người để đâu cho hết Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây… Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm Đôi mắt từ xa đã nhận ra người Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm Giờ ở đâu, người con gái xa xôi? Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi... 2. EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA
Nghe không em lại mưa lên phố Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi... Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ Mối tình thời trinh nữ xa xôi. Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở Say như mơ và mộng như thơ Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ. Thành phố lại mưa… Có nghe không em? Con chim trời, cá nước Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua Tình êm dịu bên em mơ màng quá Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa. Tiếng mưa rơi não nề thao thức Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ Chân trời vương vấn dải mây lan. Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang... 3. EM VỀ BIỂN Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. ( kỉ niệm K.A: Người nữ sinh trường SPNN năm xưa. Quê hương thành phố biển)
Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả Xô mãi bờ với lá thông reo Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu? Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây! Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
4. EM BÁN XOÀI - Anh trai mua xoài cho em đi? Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang!
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.
Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm. Hương toả mát thân người.
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. 5. CÂY THẦM TIẾC BÓNG Nàng đi mãi mà không trở lại Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa Và mặt nước bi bô lời than thở Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ. Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân. Người đàn bà ra đi không trở lại Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô. Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường. Người đàn bà ra đi không trở lại Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi Một đời trôi theo năm tháng xô bồ. 6. MỘT GÓC HỒ TÂY Anh đến mình anh trong chiều muộn Nhặt thơ tình ở một góc hồ Tây Ngắm mặt gương hồ vào chập tối Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi. Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng Vừa đơn côi mà không đơn côi... Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi. Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu! Trong sân gạch sư già quét lá Bước người đi thầm lặng cõi hư hao. Chiều hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió Ta và người: cõi mộng khác chi nhau? Người quên hết! Còn ta yêu tất cả Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo... 7. SÁNG THU VÀNG Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay... (Kỉ niệm Đ. Gặp lại em sáng đó bên hồ gió, anh đã viết để cho đời bài thơ mùa thu diễm lệ này)
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước…
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa.
Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.
Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười...hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.
Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà em nuốt mùa thu tan... 8. BIỂN HÁT Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi Anh nhặt chút tình vương lại thời xa Treo hồn lên nửa vành trăng lấp Thả lòng bay lặng bến bơ vơ. Biển có thể không biết mình hóa sóng Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh Em có thể không còn nhớ đến... Như làn mây trôi mãi vô tình. Biển ba phần cho trái đất tươi xanh Em trong anh một mùa thu huyền ảo Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão Là đã hòa biển cả với cô đơn! Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa… 9. TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG Tặng vợ Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**) Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu! Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy! Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Phạm Ngọc Thái Nước Đức - tháng 2/1989 (*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây. Bà đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay. (**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. 10. ĐÊM TÓC ĐÁ Nửa đời tóc hoá thành đá cả
Rụng vãi thềm đầy phủ quanh trăng
Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ
Mà nay gò mả, ma rừng.
Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu
Có của nhà vẫn còn ham tơ nhú
Ngồi chẳng yên, hồn dạ cứ vi vu.
Trên kia nguyệt không quần như đã...
Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga
Trinh tiết thời nay em mở cửa
Ngai vàng còn dưới cái em ta! 11. TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM Những tối trăng ngời, dưới ánh sao khuya Anh vẫn đắm mình về phương ấy
Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
Và cuộc chia ly đã hoá cánh buồm.
Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
Nó nói gì không biết?
Chắc con mái ham nơi vui thú khác
Đã không về. Con trống gọi suốt đêm...
Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về nữa?
Để hồn anh hoang mạc, bơ vơ.
Đã xa rồi. Mùa dĩ vãng trăng mơ…
Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
Thành quách loài người em thiêu trụi thành tro!
Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa:
Mọi giá trị vĩnh hằng, nếu có
Sẽ là gì? Khi thiếu vắng em ta!
Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
Và tất cả đã trở thành trống trải Sao em lại phụ bạc tình, con mái thương yêu? 12. CÔ ÁO TRẮNG Anh lại có một cô áo trắng
Mắt nàng nhìn trong biếc mùa thu
Mái tóc xoã, bàu vú nàng hưng phấn
Ngủ đi em, nghe bài thơ anh ru!
Đất Sài Gòn mùa xuân đến trong mơ
Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
Em ơi em, những khi trời trở gió
Có thấy bóng anh về thao thức bên em?
Anh nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh!
Áo em trắng hay là da em trắng
Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên.
Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất
Thế giới văn minh ta không cần gì hết
Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ.
Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ
Em bọc trong anh không cần quần áo
Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong.
Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!
Anh lại có một cô áo trắng
Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi. 13. THỜI ÁO TRẮNG Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Những bông hoa mùa xuân thôi không nở Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn. Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách Mắt em cười mùa thu xanh lên! Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học Tà áo trắng động vào...khe khẽ nát tim anh! Trả lại cho anh một thời áo trắng Đã đi qua và... đã đi qua... Với cả dòng sông trôi mơ mộng Lá lá rụng vàng, tóc tóc hóa sương pha. Nghe gió thổi hàng cây vi vút Em biển xanh xa mãi vô cùng… Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng. Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! 14. TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang gần Hòn Chồng. Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị bão biển đánh đắm, đi đã không về. Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.
Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.
Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
Xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh.
Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?
Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
Cây-thánh-giá-cuộc-đời anh đặt dưới chân em!
Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!
Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay... 15. KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.
Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.
Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.
Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em. Phạm Ngọc Thái Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997
(*) Huyền thoại kể: nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc! 16. HÀNG CÂY LÁ ĐỔ
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió...
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây
Bản tình xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết.
Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga.
Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
lắt lay... 17. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya Nên câu thơ anh theo đông về vội vã Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê... Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức Trăng bay trên trời, anh cứ thương em Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không? Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em? Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ! Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm. Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm Rồi tự trách với mình sao buổi ấy Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim? 18. CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ Một đêm hồ nước đầy sương gió Người đi không rõ mặt người Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng Em thầm thì quét lá, bên tôi! Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim! Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ Trong cõi lòng tôi buồn triền miên. Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya. 19. ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA Trời không mưa áo em đâu có ướt Chỉ ướt lòng em: cô gái nhỏ của anh! Em ngả vào anh mà hình như có khóc? Tiếng con tim thật rõ bên mình. Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng Buổi cuối cùng em đến để chia tay Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi? Kìa không mưa mà áo anh lại ướt Mùa thu đi… sao nắm mãi bàn tay? Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay. Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ Phố vắng em buốt giá cả canh dài Em dại lắm lấy chồng làm chi vội Đưa em sang sông rồi lòng mới biết đã yêu ai! Ta lại bước lang thang trên phố ấy Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi Bóng với mình đi mãi tới ban mai... Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến... đã chia tay? 20. CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi... Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ Xác ve còn bám ở thân cây. Con đường phượng đỏ đêm nay Mây lãng du bay trời xanh vô định Những cánh hoa rung trong hoài niệm Nghe lòng thổn thức đâu đây! Phượng đã cháy lên một thời Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi! Con đường tình đẫm giọt sương rơi Gió vẫn xạc xào vi vút thổi Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy Thì đâu còn phượng để anh ru? Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
Thơ - Phạm Ngọc Thái Ngoài ra anh còn rất nhiều những tình thơ khúc triết giàu hương sắc khác, như: Sáng xuân nay, Phố thu và áo trắng, Người con gái sông xưa, Thành phố mưa rơi, Kí ức mùa thu, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt, Có một khoảng trời, Xem tranh bán loã thể, Cỏ hoang, Thông và biển, Đêm thiếu nữ, Mái tóc con gái, Chiều hoàng hôn, v.v...
Ngay những tình thơ này, nhiều bài cũng không thể nói chưa hay? Anh sẽ có cả một tượng đài thi ca khá kì vĩ để lại cho nền văn học nước nhà.
Hà Nội, tháng 3-2014
Trần Tứ Đức
Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới: http://me.zing.vn/zb/dt/t...18560642?from=category http://to-quoc01.blogspot...014/03/tran-tu-uc.html http://ngancamau.blogspot...tuyet-tac-20-tinh.html http://www.tiengchimviet....tuyet-tac-20-tinh.html http://www.nhuygialai.com...tuyet-tac-20-tinh.html http://vannghequangtri.bl...-ba-tuyet-tac-cua.html http://trangvhntnguoncoi..../tho-pham-ngoc-thai-4/ http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/th/5091-th-tinh-phm-ngc-thai- http://www.tintuchangngay...tuyet-tac-20-tinh.html http://www.vanganh.info/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html http://www.chinhluanvn.co...tuyet-tac-20-tinh.html http://binhtrung.org/D_1-...-hay-hoac-kha-hay.html http://nghiathuc.wordpres...c-kha-hay-tran-tu-duc/ http://hung-viet.org/blog...-tho-hay-hoac-kha-hay/
Lê Đình Cánh và bài thơ tình Thị Nở - Chí Phèo
PHẠM NGỌC THÁI TRĂNG NỞ NỤ CƯỜI Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo,
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao ???
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền... Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn xuông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau. Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi! Lê Đình Cánh nhà thơ Lê Đình Cánh
Lời bình Phạm Ngọc Thái
Vào một đêm trăng. Gã Chí Phèo đi ăn vạ về say khướt vì rượu, khật khưỡng qua vườn chuối. Ả Thị Nở dở người đang nằm ngủ say sưa ở đó. Gió đêm từ bờ sông thổi về mát rượi. Ánh trăng dọi xuống soi lên người ả, trật cả chiếc yếm cùng lớp da trắng hởn. Chí Phèo, một gã điên khùng từ lâu đã tưởng không còn ý thức gì về sự vui thú, bỗng lúc này lòng khát khao được sống đầy đủ lại bùng lên trong gã? Gã mê man nhìn Thị Nở và tiến đến... Thế rồi, cả người gã đè lên thân thể ả. Ả kêu, nhưng Chí Phèo lại còn kêu to hơn| Thì trong làng, ngoài nước, ai còn lạ gì cái thằng Chí Phèo hay ăn vạ? Nên nghe tiếng kêu của gã chẳng ai buồn đến. Mới lại, tiếng kêu của Thị Nở cũng chỉ là tiếng kêu của một mụ đàn bà đang thỏa mãn, thích thú vì... được yêu! Để rồi sau đó, người ta nghe thấy cả hai giọng cười sung sướng đã phát ra từ cái vườn chuối ấy...
Gặp lại vườn chuối xưa, trong một chuyến về thăm quê hương của cố nhà văn Nam Cao - Ở làng Đại Hoàng ( tức làng Vũ Đại trong chuyện ), thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Vẫn bên con sông Châu ngày đêm thao thiết chảy. Tâm hồn nhà thơ Lê Đình Cánh đã rung lên. Cứ như anh đang hồi tưởng lại một tình sử nào đó, chứ không phải là cuộc tình của " Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên. " kia!? Cảnh quê trong thơ anh trào ra bồi hồi, tha thiết:
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...
Đó chính là cảm tác dẫn dắt nhà thơ viết lên "Trăng nở nụ cười " này. Anh không đi vào diễn tả tấn bi kịch xã hội như trong chuyện Chí Phèo, chỉ xoay quanh cuộc tình trăng gió... mà đề cập về giá trị tình yêu đối với đời sống con người.
Nếu đoạn thơ đầu mới chỉ là cảm xúc khi nhà thơ gặp lại tình và cảnh cũ - Thì sang đoạn thứ hai, đoạn thơ cốt lõi, trung tâm của toàn bài. Tác giả đã khoáy sâu vào để khẳng định về chân giá trị của tình yêu ấy:
Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Hai chữ "thành người" ở đây có thể hiểu: Tình yêu đã biến đổi kẻ xấu trở nên người tốt, ác hóa thiện, thằng điên loạn Chí Phèo trở nên hiền lành, ả ngớ ngẩn dở hơi như Thị Nở cũng thành phúc thảo, thiết tha. Đó chính là ý nghĩa hoàn lương sâu sắc của tình yêu gái trai, trong mối quan hệ xã hội và con người. Đọc đến câu thơ:
Vườn xuông trăng nở nụ cười...
Ta thấy rõ thái độ cảm đồng của nhà thơ về cuộc tình Thị Nở - Chí Phèo đó. Thời ấy, tầng lớp thống trị đã đẩy chúng ra khỏi lề cuộc sống như một quái thai. Một cuộc tình không luật pháp công nhận. Ấy vậy mà, với tính chân thiện và lương tri... nhà thơ đang ca ngợi chúng. Hai chữ " vườn xuông..." mà thật đầy hương vị. Cả đến bóng trăng còn... " nở nụ cười" . Cảnh tình trở nên huyền ảo, rung rinh.
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau...
Cùng với câu thơ: Khi tình yêu đến bõng nhiên thành người! - Tạo thành hai câu thơ hay nhất bài.
" Tan chảy vàng mười trong nhau..." là thứ vàng thực sự của lương tri, thảo thơm và thanh khiết tựa thiên thai. Là một tình yêu không vụ lợi, không tính toán. Chúng trao nhau hết thảy, trái tim cùng thể xác lẫn linh hồn. Tình yêu ấy tự nguyện và khát vọng!
Bài thơ viết theo thể lục bát được chia ngắt làm ba đoạn, mỗi đoạn bốn câu, chuyển đoạn là chuyển tứ. Các tứ tuy vẫn nhất quán trong chủ đề tình yêu, nhưng được phát triển từ chuyện đến đời một cách khái quát, hàm súc.
Đoạn thơ cuối được tác giả đúc rút ra qua thực tiễn, những ý nghĩa về tình yêu - cuộc sống:
Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
Ngẫm ra: thì đời nào, thời buổi nào... "vàng lẫn với thau " cũng có. Nhưng anh vẫn tin, lòng tin ấy không đặt vào bất cứ một giá trị vật chất nào, mà vào tình yêu của trái tim! Chỉ có "tình yêu trái tim" mới đầy đủ khả năng hoàn thiện, dẫn dắt nhân tính con người cùng xã hội tốt đẹp hơn! Đó chính là nhân sinh quan của nhà thơ và cũng là tính nhân bản trong thi ca. Khi ta đã có một tình yêu thực sự trong nhau... thì:
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
Bài thơ "Trăng nở nụ cười" đã được kết thúc ở đó, một cách rất... "hương vị cháo hành", mà thấm đầm nghĩa tình chốn nhân gian. PHẠM NGỌC THÁI Đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới: http://tranmygiong.blogti...et/2014/04/24/p5573639 http://vannghenamdinh.com...o-Pham-Ngoc-Thai-3385/
http://vanhac.org/04/le-d...h-thi-no-chi-pheo.html http://tapchivan.com/tin-...no---chi-pheo-772.html
http://batkhuat.net/van-b..otinh-thino-chipheo.htm http://vandanvn.net/vi/ne...t-Pham-Ngoc-Thai-3829/ http://nguyenduyxuan.net/...-th-tinh-th-n-chi-pheo http://blog.zing.vn/jb/dt...18852630?from=category http://nguyennano.blogspo.../trang-no-nu-cuoi.html http://www.aihuubienhoa.c...-2_4-5048_17-441_15-2/ http://www.tintuchangngay...o-tinh-thi-no-chi.html http://www.thuviengiadinh...-tho-tinh-thi-chi-pheo http://www.thaianco.net/x...thai/trangnonucuoi.htm http://llpb.datdung.com/2...o-tinh-thi-no-chi.html http://www.vanganh.info/2...o-tinh-thi-no-chi.html http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3606 http://nghiathuc.wordpres...-tinh-thi-no-chi-pheo/ http://to-quoc01.blogspot...o-tinh-thi-no-chi.html http://vanhac.org/04/le-d...h-thi-no-chi-pheo.html http://www.tiengchimviet....o-tinh-thi-no-chi.html http://vannghequangtri.bl...o-tinh-thi-no-chi.html http://www.vanchuongviet....on=detail&id=20901 http://trannhuong.com/tin...thi-no---chi-pheo.vhtm http://www.chinhluanvn.or...o-tinh-thi-no-chi.html http://www.diendantrungho...2f0686f9c08cc392260f7d http://vanhaiphong.com/va...inh-th-n-chi-pheo.html http://tongocthach.vn/ve-...i-no-chi-pheo-489.html http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_7.php http://hung-viet.org/blog...-tinh-thi-no-chi-pheo/ http://www.quansuvn.info/...4-2_15-2_10-1651_12-1/ http://binhtrung.org/D_1-...h-thi-no-chi-pheo.html
PHẠM NGỌC THÁI
VỚI NHỮNG TÌNH THƠ SÂU NẶNG NỖI ĐỜI
Đọc "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hoá Thông tin 2013
NGUYỄN ĐÌNH CHÚC
giới thiệu
Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều bài thơ tình hay, mà thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của anh không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích, có bài đến hoàn bích: Làm ma em vợ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Cỏ hoang, Em bé cầu bơ, Cô quét lá đêm hồ...
Đọc "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" mới phát hành cuối năm qua, một cuốn sách khá hoành tráng, bề thế... dày gần 300 trang. Trong PHẦN II - THƠ PHẠM NGỌC THÁI VỚI LỜI BÌNH - Có tới 34 bài thơ đạt độ khúc triết, đã được cả thảy 28 tác giả vừa văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các đấng trí thức khác viết lời bình. Mặc dù vẫn còn một số bài thơ không kém phần hay trong tuyển thơ đồ sộ của anh, hiện chưa có lời bình nên chưa đưa vào được trong tập bình luận thi ca lần này. Song, chỉ riêng một nhà thơ mà đạt được số lượng những bài thơ sâu sắc hoặc hay ở những cung bậc khác nhau nhiều như thế, cũng có thể nói đó đã là một chân dung thi nhân vào hàng siêu đẳng rồi.
Trong bài viết nhận định "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" vừa qua của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng, cũng mới đăng trong năm, cô giáo đã trích từ tác phẩm hai bài bình thơ của hai tác giả để giới thiệu cùng bạn đoc:
1. Nhà văn Đào Viết Minh luận bàn về "Làm ma em vợ" - một bài thơ khóc tang khúc triết.
2. Nhà giáo Diễm Loan thì bình bài thơ tình sâu sắc "Khóc bên Hồ Núi Cốc".
Ở bài viết này, tôi chỉ xin nói riêng về mảng thơ đời hay của thi nhân được in trong tập bình luận thi ca đó. Như nhà văn Đào Viết Minh khi bình Làm Ma Em Vợ đã có nhận xét rằng:
"... Trước những cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện - Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái dân gian, theo quan điểm nỗi kiếp đoan trường của cụ Nguyễn Du...
Hay là:
Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm, bể ải nơi nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh của cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi... để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra".
Tức là nhà thơ đã nhìn đời bằng con mắt của những người lao khổ. Có khi còn chĩa mũi dùi vào đả phá những kẻ làm chính trị nhưng đạo đức giả, thậm chí là loạn luân. Như ở bài "Cỏ hoang" viết:
Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn...
Để nói về một cô gái trong cái đám người phải đi xuất khẩu lao động, thực chất là những kẻ làm thuê cuốc mướn ở nước ngoài, tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo - Cô gái đã trở thành một thứ trò chơi, nạn nhân của xã hội đang xuống cấp tận cùng. Cái thế giới nhân quần được gọi là "trần gian" kia:
Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian
Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
Biết bao sự bất công, tàn bạo xô đẩy lớp chúng sinh vào cảnh khốn quẫn. Đấy là nhân sinh quan của Phạm Ngọc Thái. Thí dụ như ở trong bài "Em bé cầu bơ" - Nói về cảnh tết của một thân phận vất vưởng, lang thang nơi đường phố:
Tối ba mươi lò than phở đã nguội rồi
Em bé cầu bơ không nơi ngồi sưởi ấm.
Đêm giao thừa người chúc nhau nhiều may mắn
Dưới gốc cây già một bóng nhỏ nhuộm màu đen.
Hình ảnh một đứa bé cầu bơ, cầu bất trong đêm giao thừa, không nhà không cửa, ngày đi xin ăn, khuya về ngủ nhờ bên cái lò phở lấy chút hơi ấm để qua đêm. Nhưng đêm ba mươi hầu hết các cửa hiệu đều đóng cửa, lò than cũng không còn được đốt nữa. Đứa bé không còn chỗ nào để sưởi ấm tấm thân còm. Chỉ bằng 4 câu mà tác giả khắc họa sâu sắc đến mức điển hình. Người ta chỉ còn nhìn thấy một cái bóng đen, cũng được gọi là sự sống ấy đang co quắp vì giá lạnh dưới một gốc cây già. Chính là cái màu đen của cả một kiếp người, những thân phận thấp hèn của chốn nhân gian. Đọc lên trái tim ta quặn đau, không khỏi xót xa. Rõ ràng từ một hiện thực cuộc sống được tác giả khái quát thật cô đọng mà vẫn đầy cảm xúc. Tầm vóc của bài thơ không nhỏ một chút nào.
Nói về bài "Nỗi trăn trở người đi đi tìm vàng", cũng viết về những người xuất khẩu lao động, làm thuê ở nước ngoài. Thông qua sự trăn trở bản thân, nhà thơ đã đi sâu vào nỗi lòng của những người lao khổ. Nó phục lại một bối cảnh đầy mâu thuẫn, trước những cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau như cảnh chợ giời. Đạo lý thì bị tha hoá, xã hội xuống cấp - Có thể đó đã thuộc vào hàng lớp chúng sinh ở tận cùng đáy xã hội rồi:
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
Cuộc sống của những con người lương thiện đó đã phải:
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ
Là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Rồi tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời đáng thương đó đã phải chịu đựng:
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè, thân hữu...
Như một nhà bình luận khi nhận xét về bài thơ "Nỗi trăn trở người đi tìm vàng" này, đã nói:
- Tiếng thơ đau mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Nó phục lại một hiện thực xã hội bị suy thoái, xuống cấp. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Giá trị nhân văn cũng như tính điển hình xã hội rất cao, v.v....
Để tiếp tục giới thiệu tập "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái" vừa xuất bản đó - Tôi xin trích thêm hai bài bình, nói về mảng thơ đời sâu sắc của thi nhân, đã được hai tác giả là Hoàng Ngọc và Trần Ngọc Lâm viết lời bình, bạn đọc cùng thưởng lãm:
1. Trước hết nói đến bài thơ viết về những kiếp đời gió bụi lang thang, nhà thơ đã từng gặp trên bãi biển Nha Trang:
EM BÁN XOÀI - Anh trai mua xoài cho em đi?
Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang!
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.
Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm. Hương toả mát thân người...
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. Phạm Ngọc Thái
Lời bình TRẦN NGỌC LÂM:
Theo nhà thơ kể lại, trong một dịp đi qua thành phố Nha Trang những ngày sau chiến tranh. Khi đó anh vẫn còn trong quân đội ở chiến trường miền Nam. Vào một buổi tối, anh cùng với một nhóm sĩ quan đi ra chơi trên bãi biển và... đã gặp những cô gái "bán xoài". Một em gái trẻ dễ thương, thân hình bó lẳn trong chiếc áo cánh chẽn mềm mỏng tới mời anh. Không hiểu sao lúc đó anh lại từ chối? để rồi bao nhiêu năm tháng qua đi, hình ảnh người con gái ấy cùng với những kiếp đời sương gió cứ đọng mãi, in sâu vào kí ức nhà thơ thành kỉ niệm. Tới một ngày những xúc động xưa lại quay về và... bài thơ Em Bán Xoài đã ra đời:
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể tình thế thái này. Linh hồn gần như không có nơi bám víu, nhỏ bé và yếu ớt, trong cả biển đời đầy sóng bão chỉ muốn nuốt chửng lấy chúng:
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Tác giả tả về cái thế giới mà các cô gái đang đi, đang sống trong đó - Chính là thế giới của chúng ta, nhưng sao nó thật hãi hùng:
Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
Phải chăng cái thế giới đó cứ muôn đời vùi dập lên những kiếp cảnh chúng sinh? Phải chăng bài thơ chính là tiếng gào thét, lên án sự tàn ác còn tồn tại trong cộng đồng? Nó giống như con bạch tuộc cứ bủa vây đám dân dã, những lớp người nghèo hèn sống hôm nay không biết đến ngày mai. Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó chính phải nhờ vào hương thơm trái xoài và sự tươi mát của những người con gái kia. Thế mà:
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
Biển càng to lớn mênh mang thì bóng hình những người con gái bé nhỏ ấy càng côi cút. Bên bóng của những chiếc cột đèn đứng trong đêm thành phố cũng thật lạnh lẽo, nhập hoà vào những thân phận tội nghiệp, đáng thương, để cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời:
Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Hay là:
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh
Thơ từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang siêu thực, cuối cùng chỉ thấy một bờ cát trắng là tồn tại. Những giọt thơ buồn của nhà thơ rơi lên các linh hồn bèo bọt ở chốn nhân quần:
Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách...
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Như thế là những thăng trầm của lịch sử và xã hội, cũng chỉ giống như chiếc túi càn khôn cứ nghiến xiết đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được kết thúc trong những lời ru, sự cảm đồng của hàng dừa quê hương cùng với nỗi lòng tác giả bên người con gái bán xoài:
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
Ba chữ "xứ sở gió..." diễn tả sự da diết gắn bó của trời đất quê hương với con người, nhưng đồng thời nó cũng thật hoang lạnh, vô tình. Em Bán Xoài vừa là một bài thơ đời vừa là thơ tình. Cảm xúc thơ mạnh và súc tích, giàu tính nhân ái… với những kiếp đời gió bụi lang thang.
TNL. Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
2. Một bài thơ đời dân gian sâu sắc khác:
CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên.
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya.
Phạm Ngọc Thái
Lời bình HOÀNG NGỌC:
Vào một đêm trời đầy sương gió, tác giả đã gặp cô quét lá bên hồ nước, chính là người quét rác trong phố khuya. Đó là những con người lao khổ, cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre ngày tháng quét lê trên đường để mòn vẹt dần đi:
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy kêu xiết vào trái tim người thi sĩ, để những giọt thơ từ trong anh rơi ra. Thông qua bức chân dung Cô Quét Lá Đêm Hồ, nhà thơ muốn phản ánh cuộc sống cùng nhân ảnh của những con người lao động trong cõi dân gian. Giữa khối lòng buồn tình buồn của nhà thơ, nhưng lại ở trong cõi mộng. Nó mơ mộng đến mức hình ảnh cô quét lá trên đường hóa thành như tiên nữ từ trong tranh bước ra, lặng lẽ đi vào bến bờ thi:
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên
Tấm hình của bức chân dung trở thành siêu thực. Siêu thực theo đúng nghĩa của nó: thực mà đã siêu trần. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả như ở đoạn thơ hai ta vừa phân tích, tạo thành nhân cốt của bài thơ. Nhưng đây là "nhân cốt đời"!
Sở dĩ tôi nói “nhân cốt đời“ bởi vì: nếu ta phân tích tới hai câu đầu của đoạn thơ thứ ba, sẽ lại gặp một nhân cốt khác nữa, nhưng nó đã là những hình ảnh mang tính tượng trưng ra khỏi bến trần ai thường tình:
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa..
Nhà thơ tâm sự: nhìn sâu vào trong đêm đó, giữa anh và cô quét lá đêm hồ ấy như có hai khoảng đời cách biệt. Một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét lá rơi. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm sống vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với những xúc cảm lãng mạn của nhà thơ? Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách rờn rợn, lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu cũng trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ. Cô quét lá có cô đơn không, nhà thơ không biết? Cô cứ thầm thì lặng lẽ quét, chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó. Nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn! Câu thơ:
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Đã ra đời như thế. Bóng trăng trên đầu đã được hóa thân để kết hợp với câu thơ dưới:
Con nai vàng chết bóng thu xưa...
Tạo nên những hình ảnh đồng điệu. Nhưng nguyên nhân vì sao lại có cảnh con nai vàng bị chết giữa bóng của rừng thu? Từ nỗi đời mà ra. Hình ảnh cô quét lá cứ quét ngày, quét tháng cũng như chiếc chổi tre năm tháng mòn vẹt dần, còn con người thì lại... "không nhân ảnh". Vậy những kẻ bần khổ ấy làm gì có tâm hồn mà mộng với sầu như cố thi nhân Lưu Trọng Lư, để mơ đến cảnh bóng con nai vàng của Tiếng Thu kia? Thế là từ cảnh ngang trái của đời nảy ra ý ngược thơ: con nai vàng phải chết!
Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô... trong thơ cố thi nhân, nó bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích nằm bên trong tình thơ. Còn hình ảnh "con nai vàng chết" của bài thơ Cô Quét Lá Đêm Hồ này, ý nghĩa xã hội lại nằm bên ngoài tình thơ, để phản ảnh tới sự mất mát cả giá trị đời sống cũng như tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tầm vóc của bài thơ cao lên!
Tôi xin quay trở lại bình đoạn thơ mở đầu:
Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Miêu tả cảnh trời sương gió (nghĩa đen), để phản ảnh cảnh lầm lụi gió sương của những con người lao động đang lặn lội ở đó (nghĩa bóng). Hình ảnh hồ nước biểu tượng về nước non xứ sở, mảnh đất mà mồ hôi họ đã tắm vào trong đó. Thế mà họ lại:
Người đi không rõ mặt người…
Đấy chính là nhân ảnh của dân gian, chẳng khác nào những kiếp phù du? Nghĩa là bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ đến những kiếp đời của chốn nhân quần, cái lớp người thời nào mà chẳng phải chịu những sự bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo cũng không xong. Đến cuối bài thơ hình tượng nhân ảnh mờ mịt này còn được tác giả nhắc lại một lần nữa:
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Suốt dọc bài thơ: từ không gian gió sương hay cuộc sống con người, cái chổi tre, vầng trăng, đến cả bóng con nai vàng... đều là những hình ảnh mang theo hàm ý biểu tượng. Ta hãy nghe tác giả tả về cảnh liễu hồ:
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!
Cái tiếng liễu đìu hiu ru quanh hồ vắng bên những bước đi âm thầm của cô quét lá: cảnh ấy, đời ấy... như Nguyễn Du đã viết:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ trầm lắng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức để cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ, nửa thực, nửa không. Nhà thơ xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá đêm hồ thành thơ rơi vào cõi lòng anh.
Ở ngoài kia, xa kia, cô quét lá vẫn đang lặng lẽ quét, lặng lẽ đi, khuất dần vào trong màn sương tối. Khoảng không gian giờ đây chỉ còn nghe thấy những vần thơ của thi nhân vẫn vọng lên ở đó, với một bóng trăng ngàn thu cô đơn soi mãi trên đầu đi vào cõi muôn năm...
HN.
Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
Nguyễn Đình Chúc chucdinh012@gmail.com
Đã được đăng trên những trang mạng trong nước & thế giới: http://me.zing.vn/zb/dt/tranmygiong/18302712 http://www.tintuchangngay...-nang-noi-oi-pham.html http://llpb.datdung.com/2...hung-tinh-tho-sau.html
http://vandanvn.net/vi/ne...-Chuc-gioi-thieu-3369/
http://nguyenduyxuan.net/...67-2014-02-18-00-47-30 http://binhtrung.org/D_1-...-sau-nang-noi-doi.html http://vannghequangtri.bl...hung-tinh-tho-sau.html http://www.nhuygialai.com...hung-tinh-tho-sau.html http://www.vanganh.info/2...-nang-noi-oi-pham.html http://www.tiengchimviet....-nang-noi-oi-pham.html http://www.chinhluanvn.co...hung-tinh-tho-sau.html https://vonga1.wordpress....-tho-sau-nang-noi-doi/
Phạm Ngọc Thái và sự đa sắc về những bài thơ tình biển Cô giáo HOÀNG Riêng chủ đề thơ "tình biển" Phạm Ngọc Thái có một chùm 4 bài: Em về biển, Biển hát, Thông và biển, Đêm trăng biển. Có bài thì anh xây dựng theo thủ pháp nhân cách hoá như "thuyền và biển" của Xuân Quỳnh. Đó là bài Thông Và Biển - Cây thông đứng trên bờ biển, thân đã chai sạn, xù xì... trong tiếng gào thét của biển cả tình em. Cây thông chính là hình ảnh của người con trai, còn thiếu nữ thì đã được hoá thân thành biển: Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ
Thân xù xì, nắng héo, mưa giông... Tháng năm xa em hoá biển vô cùng
Cùng dấu trong lòng một loài hoa tan vỡ!
Loài hoa tan vỡ ấy chính là... "hoa trái tim"! Thông và Biển như đôi trai gái ngàn năm vẫn quấn quít bên nhau. Khi biển lặng sóng êm, thông vi vút hát vọng gọi người yêu. Nhưng cũng nhiều khi biển cuồng lên đầy bão tố, lòng thông quặn xót trong tiếng sóng biển cào xé, dập vùi. Cũng có bài nhìn biển nhà thơ lại nhớ người yêu. Như bài "Đêm trăng biển" - Anh viết trong một đêm trăng ở biển Sầm Sơn. Lòng người thi sĩ cô đơn:
Anh ngồi biển một mình ngắm bóng
Trăng trên đầu sóng ở dưới chân
Lòng những vắng mênh mang cát trắng Trong thầm thì khẽ gọi tên em!...
Ở bài Em Về Biển thì hình ảnh biển vừa là "tình em biển cả", vừa là "bãi biển đời người". Đời cát bụi, tình thì bèo dạt mây trôi. Đây là bài thơ khi anh nhớ lại mối tình với một cô nữ sinh trường sư phạm ngoại ngữ xa xưa: Tháng năm trôi... tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải...
Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! Một tình thơ biển nhưng thấm đầy nước mắt. Đọc thơ mà trái tim ta cũng không khỏi quặn đau và xa xót.
Còn trong bài Biển Hát - Tiếng biển đã hòa vào trong tiếng hát vọng của người thiếu nữ năm xưa: Biển có thể không biết mình hoá sóng
Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh... Những tháng năm trôi trên bờ bến lênh đênh ấy, tâm hồn anh thi sĩ vẫn đắm chìm trong dạt dào biển cả tình em. Để vào một đêm trái tim anh thổn thức và tiếng nhạc lòng đã cất lên thành một áng thi ca.
Ngoài ra có một số bài thơ tuy không phải chủ đề về "biển", nhưng hình ảnh biển trong bài thơ cũng hết sức đậm nét và da diết. Thí dụ như bài "Em bán xoài" - Nhà thơ viết về những kiếp đời cát bụi lang thang. Những cô gái bán xoài đêm mà anh gặp trên bãi biển Nha Trang. Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể nhân tình thế thái này. Những linh hồn vất vưởng, nhỏ bé và yếu ớt trong cả biển đời đầy sóng bão:
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi...
Hay là:
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Để rồi bài thơ được kết thúc trong lời ru, sự cảm đồng của nhà thơ cùng với hàng dừa quê hương quanh những người con gái bán xoài:
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
Nói về bài Trước Núi Mỹ Nhân cũng được anh viết trên bờ biển Nha Trang, sát với bán đảo Hòn Chồng. Những ngày sau chiến tranh khi còn là một người lính trận trên đường trở về, nhà thơ đã có dịp qua đó. Hình ảnh biển khơi xanh bao la sóng vỗ, cùng với đỉnh núi Mỹ Nhân đã trở thành một tượng thần trong trắng, tạc vào năm tháng. Chính là hình tượng tình yêu bất diệt của người đàn bà đã thấm đẫm trong thơ anh với khát vọng muôn đời. Như nhà thơ đã viết:
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn...
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.
Những thương tích chiến tranh, dù bom đạn có bắn vào thân thể anh cũng chỉ là nỗi đau thể xác. Chính nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn cả vào trái tim, tâm hồn anh còn đau đớn, nặng nề hơn. Chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa được vết thương sâu nhói đó trong anh. Bởi thế mà anh ru nàng: Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.
Vân vân...
Để bạn đọc cảm nhận được sâu sắc hơn. Trong bài viết này tôi xin giới thiệu lời bình của hai tác giả về hai thi phẩm trong chùm thơ tình biển của anh. Cả hai bài bình ấy đều đã được nhà thơ cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", Nxb Văn hóa Thông tin 2013 vừa qua.
A. BIỂN HÁT
Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi
Anh nhặt chút tình vương lại thời xa Treo hồn lên nửa vành trăng lấp Thả lòng bay lặng bến bơ vơ. Biển có thể không biết mình hóa sóng Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh Em có thể không còn nhớ đến... Như làn mây trôi mãi vô tình. Biển ba phần cho trái đất tươi xanh
Em trong anh một mùa thu huyền ảo
Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão
Là đã hòa biển cả với cô đơn! Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa… Phạm Ngọc Thái Lời bình của XUÂN HÙNG:
"Biển hát" là tiếng hát của người con trai ru vọng người yêu trong một đêm trăng ảo. Ngay những hình ảnh thơ đầu tiên đã gợi ta về những gì của êm đềm và dan díu bên em: Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi Anh nhặt chút tình vương lại thời xa Treo hồn lên nửa vành trăng lấp Thả lòng bay lặng bến bơ vơ.
Trái tim chàng thi sĩ như một kẻ không nhà, không cửa... lang thang trên bãi vắng bơ vơ. Ta hãy nghe anh tả về hình ảnh người yêu:
Biển ba phần cho trái đất tươi xanh Em trong anh một mùa thu huyền ảo
Đó là một mùa thu thăm thẳm có in bóng hình em ở đó. Như biển cả chiếm ba phần tư trái đất. Cũng có nghĩa em là sự sâu sắc nhất của cuộc đời anh. Phải chăng như nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ F.K.Đaglargia, trong một bài thơ tình nổi tiếng với nhan đề “Tình yêu“ chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn, ông định nghĩa:
Yêu, có nghĩa
Là cùng người yêu
Chia đều
Trái đất thành hai nửa. Hai người yêu nhau là cả trái đất này. Còn nhà thơ Nga M.Lermôntốp (1814-1841) bằng một cách nói khác trong thi ca, đã ví về tình yêu bất hủ đối với người đàn bà:
Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ Trở lại với bài Biển Hát - Tình yêu thật huyền diệu biết bao, đã mang cho ta cả bàu trời và trái đất tươi xanh, cuộc sống ngập tràn hạnh phúc cùng những vần thơ đẹp nhất! Nhưng khi không còn em? Tác giả viết:
Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão
Là đã hòa biển cả với cô đơn!
"Biển cả" ở đây là hình tượng về tình yêu của người thiếu nữ đối với nhà thơ. Khi anh đã hoà tình yêu em vào trong nỗi cô đơn, thì lòng anh sẽ bị giằng xé bởi trăm ngàn cơn bão tố. Hay là: Biển có thể không biết mình hóa sóng
Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh
Em có thể không còn nhớ đến...
Như làn mây trôi mãi vô tình. Có thể như làn mây trôi vô tình kia, em đã quên đi những tháng năm đẹp đẽ ấy? Nhưng trong lòng anh thì kỉ niệm tình yêu đôi ta mãi mãi không bao giờ phai nhoà. Với nỗi tình mơ mộng của một trái tim da diết giữa đêm trăng mờ tỏ, nhà thơ lại chạnh nhớ về tiếng biển, tiếng của tình yêu xưa:
Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió
Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô
Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động
Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa...
Bài thơ đã được kết thúc ở đó. Tháng năm, như bến bờ lênh đênh, chìm đắm trong biển cả tình em... người thi sĩ đã treo hồn mình lên tận nửa vành trăng xa. Biển Hát là một bài thơ tình có nhiều hình tượng đẹp, sống động. Làn điệu thi ca huyền ảo có thể làm xao xiết trái tim đời. * Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng
B. EM VỀ BIỂN Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. ( kỉ niệm K.A: Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
Quê hương thành phố biển)
Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả Xô mãi bờ với lá thông reo Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu? Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây! Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
Phạm Ngọc Thái Lời bình của PHƯƠNG TUẤN: Bài thơ kể về mối tình của một cô nữ sinh trường Sư phạm Ngoại ngữ với nhà thơ. Nỗi thơ đầy lệ: Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. "biển" ở đây là thành phố quê hương của người con gái (như trong tựa đề bài thơ đã viết), nhưng hình ảnh biển còn là biểu tượng của bãi-biển-đời-người hay là tình-em-biển-cả: Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả Xô mãi bờ với lá thông reo Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát, vừa như sự vô tình mà lại hữu tình của thiên nhiên, với con sóng xô nát bờ khắc khoải mãi về người trinh nữ. Một biển cuộc đời đầy sóng bão, người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người: Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi dâu? Người con gái ấy đã đi không trở lại. Hình ảnh "cát" trong bài thơ này mang màu sắc thơ siêu thực, tức là dạt vào trong chốn cát bụi đời người... Tôi xin phân tích bốn câu thơ làm tựa đề: Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen nát bàn phật tổ của đời anh! Thế mà, trên "bờ bãi đời người" thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu. Thì ra tình yêu không chỉ mang cho ta hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời. Đây là bốn câu thơ hay nhất bài, hình tượng đã đạt đến điểm đỉnh, khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài để đưa tấm phẩm bích Em Về Biển vào trong miếu mạo của thi ca. Xin bình tiếp vào bài: Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mòn mỏi mãi, năm tháng dần thành mục ải... thì mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa lại hiện về xoa lên nỗi đau của lòng anh. Hình bóng người sinh nữ cứ lặng lẽ, âm thầm mà cào xé tưởng như những trận bão lòng không dứt. Em Về Biển tuy không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của người con gái, hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình, như: Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Hay là: Những nát tan vòm ngực đã thương đau Nghĩa là không thấy những hình ảnh yêu thương trần tục xuất hiện trong tình thi này, chỉ có những hương vị thơm tho, thanh thoát, nên thơ... nhưng vẫn đầy cảm xúc da diết, mộng mơ mà năm tháng không phai nhoà trong anh. Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh. Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau để những trận bão tố lòng anh thổi mãi không thôi. Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào, tình thơ lại càng thêm tha thiết: Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi! Anh còn đây, Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ... Những buổi đón người yêu bên cổng trường... gợi lại bao nhiêu kỷ niệm để nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Ta có thể mường tượng, bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước chân em đi nhè nhẹ, những chiếc lá rơi khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều tiêu tan mềm nhũn để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ tựa như đôi mỏm núi kỳ vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm, là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người. Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó, nó nóng hổi và huyền thoại... Nhà thơ đã từng sống qua nửa thế kỉ, chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người, để cuối cùng anh lại quay về, chỉ ngợi ca người yêu bất tử hơn mọi thứ trên đời. Thế mà đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định, tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Như những dòng thơ kết thúc trong Em Về Biển này : Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! Mái tóc sương nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng, vô tận của thời gian, lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Năm tháng qua đi lặng lẽ mà héo úa, như bao chiếc lá vàng rơi rụng xuống, phủ lên trên những hồi ức về người con gái xưa một nấm mồ tình. Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
Hà Nội - 5/2014 N.T.H Giảng viên Trường ĐH Sư phạm cogiao.hoang61@gmail.com Đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới: http://blog.zing.vn/jb/dt...giong/18970573?from=my http://vandanvn.net/vi/ne...et-Co-giao-Hoang-3922/ http://tongocthach.vn/ve-...tho-tinh-bien-527.html http://www.nguyenduyxuan....-nhng-bai-th-tinh-bin- http://www.nhuygialai.com...-sac-ve-nhung-bai.html http://to-quoc01.blogspot...-sac-ve-nhung-bai.html
http://vannghequangtri.bl...-sac-ve-nhung-bai.html http://tranmygiong.blogti...i_van_sarp_a_a_saomc_v http://htruong.violet.vn/...show/entry_id/10392529 http://www.namuctuanbao.n...nNgan/truyenngan_8.php http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=3627 http://nghiathuc.wordpres...nh-bien-co-giao-hoang/ http://hung-viet.org/blog...ung-bai-tho-tinh-bien/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.06.2014 10:49:49 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: