(URL) KỊCH và các TIỂU PHẨM VĂN XUÔI của PNT
Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 14 của 18 trang, bài viết từ 196 đến 210 trên tổng số 270 bài trong đề mục
Nhatho_PhamNgocThai 17.01.2017 12:10:47 (permalink)
                Không sao đưa được hình ảnh chó Jôn 
        Tháng qua mình ốm dài, không thể chăm sóc cho con chó yêu quí được nữa – Đành phải cho đi! Nó là con chó Jôn – Anh Quốc, một con chó quí nặng trên 50kg trông như một con sư tử. lòng xót vô vàn – Đã tìm được cho Jôn một người có vi la – biệt thự giàu có, với một khuôn viên gần nghìn m2, có hồ có sân cho nó được sống một cuộc đời sung sướng. Thôi thế lòng mình cũng mãn nguyện, giải thoát cho tâm linh mình và cho cả chó yêu, chỉ xin lưu lại một bài thơ từ biệt:
            VĨNH BIỆT CHÓ YÊU
Mày sống với tao nghĩa tình năm tháng
Tao nuôi mày cũng dãi nắng, dầm mưa
Sớm tối có nhau, miếng bánh sẻ chia
Như bóng với hình khác nào tri kỷ.
 
Tao chỉ cần xa một ngày
                            là mày mong mày nhớ
Gặp lại mừng cuống quít tựa hàng năm
Đêm tao cho mày ngủ trên thềm
                           gần bên giường của tao
Mùa đông đệm êm, mùa hè quạt mát.
 
Sáng sáng tao dắt mày ra vườn hoa
                               tung tăng nhảy nhót
Lúc ốm đau cũng bác sĩ thuốc thang
Chó Jôn ơi!
Nay phải cho mày đi, lòng tao xót vô vàn…
Chỉ cầu mong
Mày sống sung sướng bên người chủ mới.
 
Tao già yếu không thể chăm chút cho mày sớm tối
Nhà thì nhỏ, mày lại to lớn tựa con bê
Tao tìm cho mày
                 một người có vi la – biệt thự nguy nga
Có vườn, có sân để mày chạy nhảy.
 
Người chủ mới cũng rất yêu quí mày
Trong tâm tao tạm yên bề, Jôn hỡi!
Đêm ngày nguyện cầu thánh phật chở che
Cho mày sống mãn đời, mãn kiếp
Thế là đã mãn nguyện lắm rồi!
Dầu nỗi nhớ mày lòng tao chẳng khôn nguôi…
Jôn à !
Jôn ơi !
                                         10.1.2017
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2017 10:42:29 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhân văn 22.01.2017 10:55:24 (permalink)
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2017 11:15:05 bởi Nhân văn >
Nhatho_PhamNgocThai 26.02.2017 11:13:20 (permalink)
 
       Nhớ lại kỷ niệm về những năm xa xứ - Một bài thơ tâm đắc viết về người vợ ở quê hương:
            
         TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
                                         Tặngvợ                                                                                [<font]
 
  
  [<font]         
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ 
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ 
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. 
 
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**)

Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.

Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!

Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe... 
                                 Nước Đức - tháng 2/1989
 
(*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở Hồ Tây. Bà  đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay. 
(**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.02.2017 11:27:22 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 31.03.2017 11:46:17 (permalink)
 
              Lời giới thiệu cho tập Bản thảo
                    "THƠ TÌNH LÃNG MẠN VÀ HOANG DÃ"
                                 của Phạm Ngọc Thái

 
                                    LỜI TÁC GIẢ
       Sáng tác thơ là một ham muốn lớn, niềm vui thú lớn của bản thân tôi ở dương trần. Việc bàn cãi về thơ hiện đại ngày nay còn nhiều ý kiến trái chiều giữa các luồng tư tưởng khác nhau, song dù thế nào đi nữa – Thi ca vẫn là một thế giới thật kì vĩ! Vẻ đẹp của thế giới ấy đầy bí ẩn, giàu sắc thái và huyền diệu.
     Bươn bả trong đống cát bụi cuộc đời vì miếng cơm manh áo - Thơ ca trở thành một sứ mạng, là giá trị tồn tại, ý nghĩa về sự sống... trong những năm tháng tôi đã ghi nhận ở cõi thế gian này. Gọi là kỷ vật được sinh ra làm người, dâng hiến lại cho đời: Thế giới của thơ tôi!
     Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội đã viết: “Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc. Thơ anh súc tích, hấp dẫn, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Anh đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của anh trong lòng người yêu thơ... với những giá trị nghệ thuật tuyệt vời để lại cho nền văn hiến Thăng Long”.
     Hay như Nhà văn Bảo Ngọc trong lời đề tựa cho tập thơ “Rung động trái tim” của tôi... tại Nhà xuất bản Thanh Niên, đã có nhận xét:
-  Là một “Nhà thơ của tự do” nhưng Phạm Ngọc Thái có tầm vóc lớn trong thi ca! Thơ của anh cũng chủ yếu là thơ tự do. Có rất nhiều bài đã đạt đến độ khúc triết, viên mãn, là những thi phẩm hay. Thơ hàm chứa đầy ý nghĩa trong câu chữ và hình tượng thi ca. Nó gắn liền tính chất sâu xa của thơ cổ phương Đông, kết hợp nhuần nhuyễn với thi pháp của các trường phái thơ hiện đại Âu Châu – Từ trường phái thơ lãng mạn, tượng trưng đến thơ siêu thực... cô đúc lại trong một thứ thơ, gọi là thơ triết học! Nó được đúc kết ra không chỉ từ lý luận thuần túy, mà gắn liền với đời sống xã hội cùng nỗi dâu bể trầm luân chốn dân gian. Thơ anh giàu tính nhân văn, càng đọc càng thấm thía hơn nỗi long đong, lận đận nơi bờ bến con người. Nhưng trước hết vẫn phải nói: Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tình yêu! Hiếm có thi nhân nào có thể viết được nhiều thơ tình hay đến thế...
     Có thể kể ra đây hàng loạt các bài thơ tình hay của anh như: Người đàn bà trắng, Em ơi! Thành phố lại mưa, Đêm nay trời lại không mưa, Anh vẫn ở bên Hồ Tây, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Con đường phượng đỏ, Váy thiếu nữ bay, Mưa bay trong tiếng chuông, Thời áo trắng, Cô áo trắng, Tiếng hát đời thường, Biển hát, Em về biển, Tiếng rúc chim đêm, Em bán xoài, Thiếu nữ đi trong chiều mây, Thế giới nàng, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Một góc Hồ Tây, Đêm tóc đá...
     Chưa kể đến nhiều bài thơ tình khác nữa của anh cũng rất khúc triết sâu xa: Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh, Thành phố mưa rơi, Phố thu và áo trắng, Khoảng trôi trong lá, Hàng cây lá đổ, Trước Núi Mỹ Nhân, Người con gái sông xưa, Mái tóc con gái, Trăng lặn, Sáng thu vàng, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, v.v.
     Tôi xin trích ra trên một trăm bài thơ tình thích nhất của mình, với gần 20 bài viết đặc sắc của những văn nghệ sĩ và các nhà giáo... bình thơ hay Phạm Ngọc Thái – xuất bản trong tập: PHẠM NGỌC THÁI – THƠ TÌNH LÃNG MẠN VÀ HOANG DÃ này, xin giới thiệu để bạn đọc thưởng lãm!
     Mong rằng, tác phẩm sẽ mang đến cho các bạn đọc còn ham thú thi ca một sự cảm khoái và yêu mến.
 
                                                         Tác giả tri ân  
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2017 11:49:08 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 30.04.2017 12:43:51 (permalink)
 
 
                     CHUYỆN Ở  QUÁN GỐC ĐA
 
                                                Kịch vui
                                          PHẠM NGỌC THÁI
                                                 
            NHÂN VẬT :

1.   Anh Phạm                               Nhà thơ  -  chồng chị Phạm

2.   Chị Phạm                                     Bán bún - vợ anh Phạm 

3.   Vũ                                                 Nhà thơ  - Tổng biên tập báo "Ngày mai"  

4.   Đức                                               Nhà phê bình lý luận văn học. Trẻ tuổi nhất.

5.   Cô bán báo

                                Chuyện xẩy ra tại thành phố
 
 
                                        MỞ MÀN

                            Vào một buổi sáng tại quán bán bún của chị Phạm.
                            Dưới gốc cây đa lớn gần hồ. Thụt vào trong phố một chút.
                        Quán ở cạnh một ngôi nhà trông thấy cửa sổ. Bên trong cửa sổ
                        đặt một chiếc bàn điện thoại.
                             Lúc này cũng đã gần trưa. Chị Phạm thôi không bán hàng nữa,
                        đang thu dọn đồ cho vào một chiếc xe đẩy.

CHỊ PHẠM -    (vẻ sốt ruột. Dừng tay trông về cuối phố lẩm bẩm) Không biết chạy
 chọt có được không? Đi từ tờ mờ sáng đến giờ. Người ta bán hết cả buổi
 hàng, vẫn chưa thấy về!
                                      (chị quay lại dọn tiếp, thì anh Phạm vào)
CHỊ PHẠM -   (vội đến hỏi chồng) Thế nào, con và xe máy đâu? Trông điệu bộ của
 bố nó thế này, chắc là lại không giải quyết xong việc với công an rồi?
ANH PHẠM  -   Cứ có ba triệu nộp cho họ thì xong tất.
CHỊ PHẠM  -   Nó chỉ mắc mỗi cái tội phóng xe máy nhanh, làm cái gì mà phải nộp
phạt những ba triệu?
ANH PHẠM  -   Không phải mỗi tội phóng xe máy nhanh, mà là phóng xe tốc độ
 cao! Có khi, người ta còn bắt tù giam ấy chứ?
CHỊ PHẠM  -   Ừ thì phóng xe tốc độ cao! Nhưng nó chỉ đi có một mình. Lại vào
 ban đêm thanh tịnh, vắng người. Đúng là cái thời buổi, vớ được là các ông
 ấy chém.  
ANH PHẠM  -   Con mình mắc tội thì mình phải chịu.
CHỊ PHẠM   -   Để cho anh mở mắt ra mà nhìn vào thực tế, trăm bề hỗn loạn. Còn
 anh thì...
ANH PHẠM  -   Mẹ nó lại sắp...
CHỊ PHẠM  -  Chứ lại không à? Sống phải có thực tế một tý, để vợ con nó nhờ.
 Lúc nào cũng mơ mộng. Ta sẽ là nhà thơ vĩ đại. Như người ở trên mây. Vĩ
 đại đâu chẳng thấy? Vợ con anh đang chịu sống khốn khổ, khốn nạn đây
 này.
ANH PHẠM  -  Ơ... mẹ nó hay nhỉ? Con mình mắc tội, công an họ bắt nộp phạt.
 Liên quan gì đến chuyện thơ phú của tôi?  
CHỊ PHẠM  -   Tôi hỏi bố nó? Nếu nhà không giàu nhưng cũng dư dật một chút
 tiền bạc, hoặc bố nó có tý địa vị xã hội? thì chuyện đơn giản như thế này,
 một câu nói với công an, họ sẽ vị nể là xong. Con cũng được họ thả về, xe lại
 được trả lại.Việc gì đến mức bắt phải nộp phạt?
ANH PHẠM  -   Nói thế thì vô cùng...
CHỊ PHẠM -   Anh thì... sống hôm nay chẳng thèm nghĩ đến cái thực tế của hôm
 nay. Cứ thản nhiên… phớt tất. Còn nghĩ đến việc lưu danh sử sách cơ? Thế
 nên vợ con mới khổ.
ANH PHẠM -   (lúng túng) Thì tôi...
CHỊ PHẠM -  (than vãn) Lấy đâu ra ba triệu để mang ra công an nộp phạt bây giờ?
                                           (anh Vũ vào)
VŨ -  Nào, đến hàng chị Phạm để xin bát bún riêu buổi sáng đây?
CHỊ PHẠM -   Kìa, anh Vũ! Định ăn bún của nhà em mà sao anh đến muộn thế?
 Cũng còn vài bát nữa mới hết, nhưng vãn khách... em đang dọn hàng về.
VŨ -  Quán của chị Phạm có vẻ bán đắt hàng nhỉ?
CHỊ PHẠM -   Nếu không đắt hàng thế thì… một cái quán tận trong hẻm, em nuôi
 nổi làm sao được cả ba bố con anh ấy? Gia đình bốn miệng ăn. Trông tất cả
 vào cái quán bún riêu dưới gốc cây này đấy, anh ạ!
VŨ -  Chị Phạm giỏi lắm! (với anh Phạm) Dẫu mai sau ông có thành đại nghiệp,
 hoặc một thiên tài gì... gì đó? thì cũng phải nhờ vào sự vất vả làm ăn, với cái
 tài bán bún riêu của chị ấy đấy!
ANH PHẠM -   Vẫn, vẫn... tôi vẫn biết thế!           
CHỊ PHẠM -   (với anh Vũ) Chán lắm anh ạ! Người đâu như người cổ đại.
 ANH PHẠM -   Mẹ nó lại sắp...
 VŨ - (với anh Phạm) Thời buổi thị trường. Ông cũng nên sống thực tế một chút thì
 tốt hơn.
CHỊ PHẠM -  May quá, nước dùng pha bún em vẫn chưa đổ đi, rau sống vẫn còn,
 để em làm cho anh một bát.
VŨ -  (ngăn lại) Thôi, chị cho phép để lúc khác. Sáng tôi cũng ăn vài miếng bánh,
 uống tách cà phê rồi ! (với anh Phạm) Vừa đăng báo cho ông bài thơ! Tôi từ
 toà soạn tạt về đây, đưa ông tờ báo để ông mừng.
ANH PHẠM -   Thế à! Đăng trên báo "Ngày mai" của ông ấy à? Mà, ông cho đăng
 bài thơ nào thế?
                        (anhVũ giở trang đăng bài thơ… rồi đưa báo cho anh Phạm)
VŨ -   Thì bài thơ mấy hôm nọ ông đưa cho tôi xem ấy! Tôi thấy cũng hay hay. Về
 toà soạn tôi cho đăng luôn.
ANH PHẠM -   À… à... thì ra cái bài thơ "vợ bán ế bún"?
                         (chị Phạm đang dọn hàng, nghe vậy giật mình ngẩng lên)
CHỊ PHẠM -   Tôi bán ế bún mà anh cũng đem làm thơ, rồi lại cho đăng cả báo à?
ANH PHẠM -   Ông Vũ ông ấy đăng lên báo, chứ tôi đâu có bảo?
VŨ -   Đây, đây... lại có cả tiền nhuận bút nữa đây! Tiện thể tôi đem đến cho ông
 luôn. Lần này tôi đưa cho chị ấy nhé!
                                  (Vũ đưa phong bì tiền cho chị Phạm)
CHỊ PHẠM -   (vui vẻ) Lại có cả tiền nhuận bút cho em nữa cơ đấy? Cứ thế này
 thì... phấn khởi quá!
ANH PHẠM -   Mẹ nó thì... cứ có tiền là vui.
CHỊ PHẠM -   Không có tiền thì anh sống bằng cái gì để làm thơ?
VŨ -   Bài thơ hay bởi vì nó rất đời, ông ạ! Mới lại... chỗ thân quen, cảm thông với
 nỗi khó nhọc của chị Phạm. Đáng lý, một bài thơ ở báo "ngày mai" của tôi
 tiền nhuận bút chỉ có đôi trăm. Nhưng đây là một bài thơ hết sức xúc động,
 tôi đã duyệt tăng tiền nhuận bút lên cho ông thành 300.000 đồng đấy!
CHỊ PHẠM -   Chỉ mỗi bài thơ mà được những 300.000 đồng. Kể cũng đã anh nhỉ?
Lãi bằng cả buổi bán hàng của em.
VŨ -  Không thể so sánh thế được? Tiền chất xám mà chị.  
CHỊ PHẠM -   (hỏi chồng) Mà anh vừa nói, nhan đề của bài thơ là gì ấy nhỉ?
VŨ -   "vợ bán ế bún".                           
 CHỊ PHẠM -   Phải!... Phải !... " vợ bán ế bún ". (với chồng) Thế thì , bố nó cứ
             ngày ngày lấy ngay cái hàng bún của tôi mà làm thơ. Đem đăng báo mà lấy
tiền nhuận bút. Này, có khi lãi hơn cả thơ tình đấy? Chẳng hạn, mai bố nó
 viết bài "vợ bán đắt bún". Ngày kia bố nó lại viết "vợ bán không đắt cũng
            không ế ". Ngày kìa bố nó lại...
  ANH PHẠM -   Thôi… thôi… thôi... mẹ nó định đem thơ của tôi ra làm trò đấy à?
  CHỊ PHẠM -   Trò là trò thế nào? (với Vũ) Em nói thế cũng có lý chứ, anh Vũ nhỉ?
  VŨ -   Ờ ờ ờ....
  CHỊ PHẠM -   Anh Vũ đọc thử cho em nghe bài thơ "vợ bán ế bún", em nghe xem
thơ của chồng em viết về em như thế nào?  (lẩm nhẩm đọc) "Vợ bán ế bún”, cái tên đề nghe cũng thấy hay.
VŨ -   Được. Để tôi đọc.
ANH PHẠM -   (ngăn lại) Thôi, ông đừng đọc bài thơ ấy ở đây. (với chị Phạm) Thế,
 mẹ nó quên ngay cái sự cố xe máy và con đang bị giữ trên công an rồi à?  
 CHỊ PHẠM -   Quên làm sao được. Lúc nẫy nhìn thấy anh Vũ đến là tôi nảy ngay
 ra ý nghĩ, nhưng chưa kịp nói. (nói riêng với chồng ) Bố nó... cứ đem ngay
 cái việc đó mà nhờ anh Vũ. Anh ấy lên đồn cảnh sát nói giúp một câu, có khi
            là xong đấy?
ANH PHẠM -   Xong là xong thế nào? Anh Vũ thì cũng làm văn học như tôi. Đằng
 kia là chính quyền, làm sao anh ấy giải quyết được?
 CHỊ PHẠM -  Anh Vũ sao lại giống anh được? Bố nó chỉ là một anh nhà thơ
 chân cò, chân vạc... Đằng này, anh ấy là ông tổng biên tập báo. Nghe nói, lại
 còn có chân trong Ban chấp hành của Hội nhà văn Việt Nam nữa. Có vai, có
 vế. Địa vị xã hội hẳn hoi. Mà... công an họ nể các nhà báo lắm!
 ANH PHẠM -   (lưỡng lự) Nhưng tôi vẫn thấy...
  VŨ -   Hình như anh chị đang gặp rắc rối chuyện gì? Liệu tôi có thể giúp đỡ được
 không nào?
 CHỊ PHẠM -  (với chồng) Bố nó cứ nói thẳng với anh ấy đi?
 ANH PHẠM -  Ừ thì nói. Thằng con lớn của tôi đêm qua chẳng hiểu buồn chán
 cái gì, nửa đêm mà nó còn lôi xe máy ra ngoài phố phóng bạt tử. Thế là bị
 công an bắt. Họ quy nó vào tội phóng xe tốc độ cao!
  CHỊ PHẠM -  Sáng sớm hôm nay công an họ gọi điện thoại đến nhà, gia đình em
mới biết.
  ANH PHẠM -  Họ bắt quá đi chứ! Hành động của nó có khác gì một thằng điên?
  VŨ -  À, thanh niên bây giờ...
   CHỊ PHẠM -   Lúc nẫy nhà em cũng đã lên đồn để xin cho cháu và xin xe máy về.
 Nhưng công an họ bảo: Cứ mang ba triệu lên nộp phạt rồi lấy xe máy, đưa
 con về mà giáo dục.
  VŨ -  Thế thì phiền phức quá nhỉ?
   ANH PHẠM -  Ông bảo, hoàn cảnh như gia đình nhà tôi? Mẹ nó buôn bán vỉa hè.
 May ra vặt mũi cũng chỉ vừa đủ đút miệng, thì lấy đâu ra ngay ba triệu?
 Con cái bây giờ toàn làm khổ bố mẹ.
  CHỊ PHẠM -  Anh thì chỉ biết đứng đấy mà kêu!... Sao không mang cái tiếng là
            ông nhà thơ của anh, lên đồn cảnh sát mà làm việc với họ? Toàn sống hão.
      ANH PHẠM - Thì, tại nó chứ tại tôi à?
     CHỊ PHẠM -  Nhưng anh là bố nó. Anh phải có trách nhiệm giải quyết.
     VŨ -  Anh chị đừng cãi vã nhau nữa. Ta sẽ tìm cách xoay xở?
     ANH PHẠM -   Hay là... Ông lên đồn nói giúp một câu?
     VŨ -  (xua đi) Không xong. Không xong. Tôi va chạm thấy nhiều cái tình cảnh
 bây giờ, tôi biết. Chỉ có mang tiền đi mà nói!... Nước bọt, không ăn thua.
     CHỊ PHẠM -  Dù sao anh cũng có vai vế, lại quan hệ nhiều với những người có
quyền chức.
     VŨ -  Nén bạc mới có thể đâm toạc được tờ giấy mà chị.
     CHỊ PHẠM – (đay nghiến chồng)  Anh đã mở mắt ra mà nhìn vào cái thực tế
 chưa?
     ANH PHẠM -  Mẹ nó lại sắp sửa...
     VŨ -  Cũng chỉ còn cách xoay lấy ba triệu mà nộp phạt cho xong đi! (giở ví) Ở
 đây tôi có vét hết cũng chưa đủ một triệu.
     CHỊ PHẠM -  Bác bảo em buôn bán cò con... Ngay đến ba trăm còn khó. Chạy
đâu ra hơn hai triệu nữa?
     VŨ -  Tôi chưa nói hết. (với anh Phạm) Hay là, tôi cùng anh đến mấy tay nhà
 thơ, nhà báo quen biết. Vay mỗi người một ít để lo cho xong chuyện đi vậy?
     ANH PHẠM -   Tôi chả vay tiền ai bao giờ. Chẳng hiểu có được không? Hay là
lại...
     VŨ -  Mà cũng không được thật. Vay cho ai còn dễ... chứ, vay cho ông Phạm
 thì… chắc chẳng tay nhà thơ, nhà báo nào chịu bỏ tiền ra cho ông vay đâu?
     ANH PHẠM – Sao ông lại nói thế? Ra tôi là loại người đểu cáng lắm hay sao?
 Đến nỗi họ lại khinh ghét tôi như vậy?
     VŨ -  Không phải ông đểu cáng. Ông còn là người tử tế, đứng đắn nữa là khác.
     ANH PHẠM -  Thế thì tại sao?...
     VŨ -  Chỗ anh em tôi cứ nói thật. Từ khi ông tung ra cái tập bình thơ, rồi tuyên
 bố: Ta là nhà thơ vĩ đại nhất Việt Nam!... Bây giờ, trong làng văn thơ báo
 chí, người ta ghét ông. Có hỏi vay cho ông? chắc là họ cũng từ chối.
     ANH PHẠM -  Tôi tuy tuyên bố là nhà thơ vĩ đại nhất Việt Nam. Nhưng đâu có
 nói xấu bọn nhà thơ các ông? Cũng không tranh giành địa vị với ai? Cả ông
 nữa, ông cũng cứ tuyên bố đi! Ai cấm?
     CHỊ PHẠM -   (với chồng) Ối giời ơi!... Anh là anh gàn dở. Kiếm miếng ăn nuôi
            con còn chẳng đủ. Anh lại còn tuyên bố mình vĩ đại nhất! Để cho họ thêm
 ghét ra. Có khốn khổ tôi không?
     ANH PHẠM -  Việc thơ phú mặc tôi, không việc gì đến mẹ nó.
     CHỊ PHẠM -  Đấy! Ông lấy thơ mà nuôi hai đứa con của ông? rồi chạy lấy mấy
triệu, mang lên công an mà đón nó về.      
     ANH PHẠM -  Thế, nó là con tôi chứ không phải con bà?
     CHỊ PHẠM -  Thì mỗi người nuôi một đứa.
     ANH PHẠM -  Tôi quen làm thơ, chứ có biết đi buôn đâu nào?
     CHỊ PHẠM -  Nhưng cái việc mà ông tuyên bố " là nhà thơ vĩ đại nhất " ấy?... là
            hâm tột độ, hâm củ tỷ nhà ông ra rồi. Vợ con khốn khổ theo ông.
     ANH PHẠM -  Vâng, tôi hâm, tôi hâm củ tỷ. (nói lửng lơ) Ăn được cái hâm
            của tay này còn khó.
    CHỊ PHẠM -  Thì ông mở mắt ra mà nhìn. Nó rành rành ra đấy! Bây giờ có
 muốn vay mỗi người vài trăm, người nào họ cũng ghét. Có ai chịu cho ông
 vay đâu?  
    VŨ -  (chợt reo lên) Thôi, anh chị đừng cãi nhau nữa. Tôi nghĩ ra cách rồi.
    CHỊ PHẠM -  (vội vã) Thì em cũng chỉ trông vào bác mà lỵ. Thế, bác nghĩ ra
            cách gì giúp vợ chồng em?
   VŨ -  (với anh Phạm) Ông đưa tờ báo cho tôi! May quá, vừa đăng cho ông bài thơ
 đúng lúc cần có việc. Tôi sẽ đưa ông lên gặp tay quận phó… (với chị Phạm)
 Tay quận phó công an này tôi quen biết. Nếu được anh ta giúp, chỉ cần anh
 ta nói một câu xuống đồn, thì… vụ này giải quyết dễ như bỡn.
     CHỊ PHẠM -  Đấy! Em đã bảo mà, có quyền hạn như bác Vũ...
     ANH PHẠM -  Nghĩa là, ông lấy tờ báo này để làm công tác ngoại giao?
     VŨ -  Vì tờ báo này có đăng bài thơ của ông!
     ANH PHẠM -  Ông nói về bài thơ "Vợ bán ế bún " của tôi?
    VŨ -  Bài thơ ra đời thật là hợp thời, đúng cảnh. Tôi quan hệ nhiều ngoài xã hội,
 tôi biết. Đọc bài thơ này của ông, tất người ta sẽ mủi lòng. Khi ấy chỉ cần kể
 lể thêm đôi điều, họ sẽ cảm thông ngay.
     ANH PHẠM -  Tức là người ta sẽ rủ lòng thương hại?... mà tha con và trả lại xe
 máy cho vợ chồng tôi?
   VŨ -  Cảnh mình khó khăn phải chịu nhẫn một tý ông ạ! Đừng mặc cảm nhiều
 quá.
     CHỊ PHẠM -  Bài thơ nhà em viết về cái việc em bán ế bún, hoá ra lại được
            nhiều cái lợi... bác Vũ nhỉ? Nhưng liệu anh quận phó ấy có cảm động thật mà
 giúp? Em chỉ sợ…
    VŨ -  Chị Phạm chưa biết đấy! Bài thơ này anh Phạm viết hay lắm. Vừa thực tế
 lại rất xúc động. Tuy chưa được gọi là một kiệt tác thi ca, nhưng cũng không
 kém phần bất hủ.
     ANH PHẠM -  (với khán giả) Kiệt tác với chả bất hủ… cái con khỉ?
     CHỊ PHẠM -  Đấy, tôi đã bảo với bố nó rồi! Cứ viết ngay vào cái việc bán bún
 của tôi, có phải hơn không nào? Vừa có tiền, lại được mọi người quý. Lại
 chả nhanh nổi tiếng, vĩ đại hơn cả cái thứ thơ tình... mà bố nó hay viết ấy
 chứ?
    ANH PHẠM -   Vâng. Khi ấy thì thơ tôi làm… toàn mùi bún riêu và mắm tôm
của bà mà thôi.
  VŨ -  Bây giờ tôi với ông đi ngay để gặp tay quận phó. Xe máy tôi gửi ngoài kia, tôi
 sẽ đèo ông đi.
  ANH PHẠM  -  Thì tôi cũng đành theo ông.
 VŨ-   Chị Phạm cứ yên tâm. Anh em chúng tôi đi một loáng là về ngay.
                                                   ( Vũ và anh Phạm ra khuất )
 CHỊ PHẠM  -  (nói một mình)  Bố nó là chúa gàn. Viết thơ về vợ bán bún… lại sợ
thơ không bất hủ?
                                (chị Phạm vui vẻ dọn hàng tiếp. Đức vào)
ĐỨC -  Chào chị Phạm! Tôi vừa gặp hai ông ở đầu phố. Các ông ấy đã kể cho tôi
 nghe mọi chuyện xẩy ra rồi!
 CHỊ PHẠM  -   Chào chú Đức! Đấy, chú xem: Cuộc sống kiếm miếng cơm đã vất vả
 mà chả lúc nào hết chuyện? Mệt mỏi lắm chú ạ!
ĐỨC -  Chị đúng là người vợ kiểu vợ ông Tú Xương, Nguyễn Khuyến.
                       ( Đức cảm hứng ngâm thơ):
                                     Quanh năm buôn bán ở mom sông
                                      Nuôi đủ năm con với một chồng…
CHỊ PHẠM  -    Đấy là ngày xưa dễ đẻ, dễ nuôi. Bây giờ đẻ thì vẫn dễ đẻ, nhưng
lại cực kỳ khó nuôi chú ạ! Bà Tú Xương thì nuôi cả năm con với một ông chồng, dễ như không. Chứ tôi, chỉ nuôi có một ông chồng nhà thơ với hai đứa con, là đã  toé phở ra rồi! Nếu năm đứa, có mà đưa nhau… xuống lỗ.
ĐỨC -   Nhưng anh Phạm cũng là người tốt tính đấy chứ chị? Tuy không kiếm ra
 tiền, nhưng anh ấy cũng không phải là người không quan tâm tới vợ con
 đâu?
CHỊ PHẠM  -  Thì tôi có nói là anh ấy không tốt đâu. Mọi người vẫn bảo tôi, thời
 buổi bây giờ lấy được ông chồng không cờ bạc, rượu chè, không trai gái, đĩ
 bợm... cũng đã là cái phúc rồi! Nghĩ thế, tôi cũng đỡ tủi thân.
ĐỨC -    Chị nói đúng. Bao nhiêu cảnh gia đình tan nát chỉ vì những ông chồng
rượu chè, cờ bạc.
CHỊ PHẠM  -   Trông lên thì chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì...
ĐỨC -   Nghĩ được vậy, chị sẽ thấy lòng thanh thản hơn. Ô kìa ! Hai ông ấy đã về
 rồi.
                                          (anh Phạm và Vũ vào)
CHỊ PHẠM  -  (hỏi dồn chồng) Thế, anh quận phó ấy… có chịu giúp cho nhà ta
không?
ANH PHẠM  -   May ra thì...
VŨ -    Nếu trước đây mà ông cứ nghe lời tôi, có phải bây giờ mọi việc sẽ đỡ phiền
 toái hơn không?
CHỊ PHẠM  -    Nghĩa là… việc vẫn không xong?
VŨ -  (với Đức)  Cũng chỉ tại cái tập thơ mà ông ấy tự phát hành… rồi tuyên bố
            mình là nhà thơ vĩ đại nhất ấy mà? Đức còn nhớ chứ?
ĐỨC -    Tôi nhớ. Nhưng mà làm sao?
VŨ -    Chỗ nào ông ấy cũng biếu tặng! Đến tay quận phó, biết người vi phạm luật lệ
 là con anh Phạm? Hắn cũng ghét. Tôi vừa trình bầy hoàn cảnh, anh ta đã
gạt phăng đi và chối đây đẩy.
CHỊ PHẠM  -   Lại vì cái lời tuyên bố “mình vĩ đại… " khỉ gió ấy của anh?  Bây giờ
gặp cảnh... mang vạ vào thân. Anh đã thấy thấm thía chưa?
ANH PHẠM  -  Thì mẹ nó cứ để cho anh Vũ nói rõ đầu đuôi câu chuyện đã nào?
CHỊ PHẠM  -  Còn nói cái gì nữa? Lấy đâu ra ba triệu để nộp phạt bây giờ, hở ông
Phạm ơi !
                        (chị Phạm túm lấy chồng mà lay)
ĐỨC -   Chị Phạm cứ bình tĩnh. Có gì ta sẽ tìm cách gỡ?
CHỊ PHẠM  -  Gỡ gì? Người đâu mà sống trong thời buổi bây giờ, thánh thần
            chẳng ra thánh thần, quỷ không là quỷ. Cứ hâm hâm dở dở...
ANH PHẠM  -    Có hâm thế mới đấu nổi cái đương đại tùm lum, ù xoẹ này đấy?
CHỊ PHẠM  -    Đấy, lại còn nói như thế nữa chứ?
 VŨ -  Chị Phạm cứ để tôi nói tiếp đã. Nhưng may quá... nhờ có bài thơ "vợ bán ế
            bún" mà lại gỡ được chuyện.
CHỊ PHẠM  -    Anh Vũ nói thế nghĩa là...
VŨ -  (với anh Phạm) Ông thấy tôi bầy cho ông một chưởng… đã độc chưa? Những
            nước cờ đời này, là tôi sành điệu lắm!
ANH PHẠM  -    Phải! Ông sành điệu, ông thạo đời.
CHỊ PHẠM  -   (ngơ ngác)  Ơ...
VŨ -  (cười với chị Phạm)  Chả là thế này. Khi tay quận phó kiên quyết từ chối
 không chịu giúp. Thấy tình thế cam go, tôi liền tế nhị biếu ngay anh ta tờ
 báo...
CHỊ PHẠM  -  Tờ báo mà anh đã đăng bài thơ "vợ bán ế bún" của nhà em á?
VŨ -  Chính thế! Rồi lại khéo léo giở trang báo ra… lật đến chỗ có bài thơ. Tôi vừa
            chỉ cho tay quận phó thấy, vừa thong thả đọc cho anh ta nghe...
ĐỨC -  (giọng hơi hài hước) Thế là anh quận phó liền… tâm phục, khẩu phục, tỏ
 thiện chí yêu mến nhà thơ Anh Phạm của chúng ta ngay?
VŨ -   Đức nói rất đúng. Nghe xong bài thơ, tay quận phó vỗ đùi đánh đét một cái…
            gật đầu khen mãi. Nào là... bài thơ viết mùi mẫm, đáng yêu, đáng trân trọng
 lắm!
CHỊ PHẠM  -  Thế rồi, anh quận phó đã đồng ý tha cho con của em… về rồi chứ ạ?
ANH PHẠM  -  Và sẽ cho mang cả xe máy về nữa.  Anh ta nói, cứ về nhà ngồi chờ
            điện thoại. Anh ta báo xuống đồn công an, can thiệp giúp.
CHỊ PHẠM -   Nghĩa là… vẫn phải chờ?
VŨ -   Tôi biết, cấp trên mà đã chỉ đạo… thì cấp dưới sẽ nghe theo.
CHỊ PHẠM  -   Nếu như thế thì tốt quá! Tốt rồi! Em đã bảo mà... có anh Vũ đã
            ra tay giúp thì... (với chồng)  Thế, bố nó có cho anh quận phó số điện thoại
            của nhà ta không? À quên, số điện thoại mà ta nhờ kia kìa!...
                            (chị Phạm vừa nói vừa chỉ tay vào chỗ cửa sổ của căn nhà cạnh
                             đấy. Có đặt một chiếc điện thoại trên bàn)
ANH PHẠM  -    Cho rồi. Tất nhiên là tôi phải cho số điện thoại nhà bác hàng
            phố mà mình vẫn nhờ.
ĐỨC -   (nói thủng thẳng)  Bài thơ "vợ bán ế bún" vớ vẩn của anh Phạm, không
khéo lại trở thành nổi tiếng?
CHỊ PHẠM  -   Sao chú Đức lại nói là “vớ vẩn”? Thơ anh ấy mà đã viết về "bún"...
            của tôi, thì tất là phải hay rồi!
ĐỨC -    Tôi đùa ông anh một tý ấy mà... (với anh Phạm) Lại có một tờ báo khác
cũng đăng thơ của bác đây!
                                  ( Đức rút lấy ra một tờ báo đưa cho anh Phạm )
-   Báo văn học của Hội nhà văn in đàng hoàng đấy!
ANH PHẠM  -    Báo Hội nhà văn mà các ông ấy cũng chịu in thơ của tôi à? Bài
thơ nào thế?
ĐỨC -   Thì vẫn là bài thơ "vợ bán ế bún" đó!
CHỊ PHẠM  -   Khi tôi bán bị ế bún, nhưng sang thơ của bố nó... đăng báo, hoá ra
 lại đắt hàng. Hay thật đấy bác Vũ, chú Đức nhỉ?
ANH PHẠM  -    Chỉ có mỗi bài thơ "vợ bán ế bún" tôi viết lăng quăng, đưa cho hai
            ông đọc cho vui. Thế mà, liền một lúc lại in liền hai báo?
CHỊ PHẠM  -  Các báo khác mà biết!... Có khi bẩy, tám, mười báo họ in liền một
 lúc ấy chứ?
ĐỨC -    Thì, bác đưa cho xem bài thơ. Tôi đọc thấy cũng hay. Mới mang thử đến
 báo Văn học. Ai dè, các ông ấy liền chộp ngay lấy, khen lấy… khen để… Thế
            này mới là thơ chứ! Rồi cho đăng báo liền.         
VŨ -   Bài thơ hay thì ai cũng thích. (với Đức) Có phải thế không nhà bình luận văn
            học?
ANH PHẠM  -  Không thể nào hiểu nổi? không thể nào hiểu nổi?
CHỊ PHẠM  -   Có gì mà không hiểu nổi? Bố nó cứ làm thơ, nhưng thơ cũng phải có
            thực tế một chút. Đừng có thơ tình, thơ tọt... làm gì nữa. Là sẽ vĩ đại ngay ấy
            mà!
                                              (chợt nhớ ra hỏi Đức)
             -   Thế... cái báo văn học ấy họ có cho tiền nhuận bút không, hả chú Đức? 
ĐỨC -   Có chứ! Báo nào mà chả có nhuận bút. Nhưng đây là tờ báo tôi lấy trước.
             ( với anh Phạm ) Còn nhuận bút, một tuần nữa bác đến toà soạn mà lấy.
CHỊ PHẠM  -    Tiền nhuận bút ở báo "ngày mai" của bác Vũ, bác ấy trả những
             300.000 đồng cơ đấy!
ĐỨC -   Báo văn thì không được cao như thế. Mỗi bài thơ chỉ được 100.000 đồng
            thôi.
CHỊ PHẠM  -  (chép miệng)  Kể ra, trả thế có phần hơi rẻ mọn. Nhưng thôi, cũng
 tốt chán. Còn hơn là chẳng có đồng nào.
ANH PHẠM -    Mẹ nó chỉ được cái việc...
CHỊ PHẠM -   Ông nhớ… từ nay tiền nhuận bút in thơ phải liên tục mang về đưa
Tôi đấy! Không rồi lại ỉm đi, vợ con chẳng biết đấy là đâu?
ANH PHẠM -  Có đăng được khối thơ đấy... mà đòi liên tục.    
CHỊ PHẠM -    Tôi vẫn chưa biết bài thơ bố nó đã viết về bún bánh của tôi nó hay
 thế nào, mà lại được nhiều báo đăng như thế? Bố nó đọc thử cho tôi nghe
            xem nào?
ANH PHẠM -  (xua tay) Thôi! Để lúc khác. Từ sáng đến giờ chưa có cái gì vào
            bụng. Tôi đang đói cồn cào lên đây này. Mẹ nó xem còn bún không? Làm cho
anh em chúng tôi mỗi người một bát bún riêu nóng, ăn cho ấm cái bụng đã.
CHỊ PHẠM -  Còn bún. Vẫn còn bún. Để em hâm nóng nước dùng, làm cho mỗi
            anh một bát. Chả mấy khi các anh đến hàng em?
VŨ -   Cũng nhân thể còn phải chờ tay quận phó công an điện thoại xuống. Chị
Phạm có lòng thì chúng tôi xin thưởng thức. Nghe nói, hàng của chị nổi tiếng lắm?
CHỊ PHẠM -  Cũng nhất nhì mấy phố này đấy anh ạ! Em làm xong ngay rồi đây.
 Còn hai chai bia Hà Nội, các anh uống một chút cho vui.
                         (Chị Phạm dọn bún lên bàn, sau đó chị đi về chỗ xe đẩy, nói tiếp):
           -   Các anh cứ ngồi ăn uống. Em tranh thủ đẩy cái xe đồ này vào nhà.
                                                   (chị quay sang nói với chồng):
           -   Có điện thoại của anh quận phó, bố nó nhớ bảo tôi nhé!
ANH PHẠM  -  Mẹ nó cứ đẩy xe hàng về nhà đi, có điện thoại tôi sẽ báo.
                                (chị Phạm đẩy xe vào lối trong. Ba người ngồi rót bia, ăn
                                   uống, nói chuyện vui vẻ)
ĐỨC -   Uống đi hai bác! Ngồi ăn bún, uống bia... lại nhớ tới cái bài thơ " Uống
            rượu với Tản Đà" của Huyền Trân...  (ngâm):
                            Cụ hâm rượu nữa đi thôi
                             ... Rót đau lòng ấy vào đau lòng này,
                             ... Tôi say? Thưa cụ chưa say,
                             ... Cái say nhân thế thì say nỗi gì?
                             ... Rót đi, rót rót đi thôi
                             ... Lời say sưa mới là câu chân tình.
VŨ -   Ông lại biến tấu cả thơ của thi sỹ Huyền Trân rồi? Cái câu thứ ba mà ông
 trích để ngâm ấy phải là:
                                   Tôi say? thưa, trẻ chưa đầy...
                 Chứ không phải là:
                                  Tôi say? thưa cụ chưa say...
ĐỨC -    Thì... tôi biến tấu đi một tý, cho nó hợp cảnh với chúng ta mà lỵ.
ANH PHẠM -    Nghe những lời tâm huyết, tri kỷ của các bậc xưa - lại nghĩ đến
 cảnh thơ phú viết lung tung, bát nháo của những nhà thơ bây giờ…mà thấy
 buồn.
VŨ -    Các ông, toàn là những gái goá đi lo chuyện triều đình? Thôi, ăn bún đi kẻo
            nguội hết, mất cả ngon.
ĐỨC -  Không biết ăn bún riêu, mắm tôm… mà uống với bia Hà Nội thế này, có
            đúng vị không nhỉ?
VŨ -  Bây giờ cái gì mà chả pha trộn lung tung tứ mẹt. Ai mà biết được, đúng vị hay
            là không đúng vị?
ANH PHẠM -   Cái món rau sống này, bà xã nhà tôi phải chọn người mua cẩn thận
            lắm! Tránh cái nơi không đảm bảo vệ sinh. Các ông cứ yên tâm mà ăn.
ĐỨC -   Cụng cốc lần nữa đi, các bác!  Cảm xúc thế này, bác Phạm ứng khẩu cho ra
 một bài thơ  thật mùi, để anh em chúng tôi thưởng thức?
ANH PHẠM -    Phải ăn đã, mình đang đói.  Nào cụng!
                                ( Họ cụng cốc. Vừa lúc đó, có tiếng rao của một cô gái bán
                                                           báo ngoài phố vọng đến)
                           TIẾNG RAO:
              “Báo ơ!... Báo ơ!... Báo Văn số đúp. số báo đặc biệt đây! Một vụ xì-căng-đan
  tai tiếng... đang xẩy ra trong hội văn chương đây!”
CÔ BÁN BÁO -  (tiến ra rao) Lời lên án của nhà thơ Trần Mạnh... xung quanh vụ
 chửi bới của nhà văn Nguyễn Thiệp đối với các nhà văn, nhà thơ đây!
VŨ -  Vụ này đang ầm ĩ. Để tôi mua tờ báo.
ĐỨC -    Sáng nay tôi có tạt đến toà báo, cũng đã được xem rồi.
CÔ BÁN BÁO -    Chào mấy chú! Báo Văn số này hay lắm, các chú mua đi?
VŨ -    Ờ, lấy cho một tờ.
                           ( cô gái vừa đưa báo vừa chăm chú nhìn Vũ)
CÔ BÁN BÁO -  (với Vũ)   Em trông chú quen quá! Đúng rồi, em nhận ra rồi. Chú
            là nhà thơ…em vẫn thường nhìn thấy trên ti vi.
ĐỨC -  (với khán giả) Cô ta gọi là chú nhưng lại xưng… “em”?
CÔ BÁN BÁO -   Thì em nghe người ta bảo: các nhà thơ không có tuổi. Dẫu có
            già...vẫn chỉ thích được con gái  gọi là "anh" xưng "em" mà lị! (với Đức) Cả
anh nữa, em thấy cũng quen quen… Phải rồi, anh  cũng thường hay lên ti vi. Chỉ có anh này? (chỉ anh Phạm) em thấy hơi là lạ...
ANH PHẠM -  Thì tôi có lên ti vi bao giờ đâu.
ĐỨC -  Anh ấy cũng là nhà thơ đấy!
CÔ BÁN BÁO -   Ôi, Hôm nay em được gặp toàn những nhà thơ. Em thấy vinh dự
quá! Báo hôm nay hay lắm, cứ mỗi khi nhà thơ, nhà văn các anh cãi chửi  nhau… là báo bán chạy ầm ầm. Văn thơ các anh càng phê nhau nhiều… bọn bán báo chúng em càng kiếm. Hai anh có mua không ạ?
ANH PHẠM -   À, chúng tôi có rồi.
CÔ BÁN BÁO -  Thôi, em chào mấy anh. Em đi bán báo đây!
                                          (rao tiếp)
                Báo ơ! Báo ơ!... Báo văn số đặc biệt... một vụ xì-căng-đan tai tiếng đang
 xẩy ra trong hội văn chương đây!
                                         (cô bán báo đi khuất)
ĐỨC -    Nào, xin các bác tiếp tục. Uống đã!... Ăn đã!...
                                        (họ lại tiếp tục cụng cốc vui vẻ )
 ANH PHẠM -    Kể ra, cái ông nhà văn Nguyễn Thiệp dùng những từ “vô học”,
            “gian manh” để phê các nhà văn, nhà thơ chúng ta… thì cũng có phần quá
             đáng.
VŨ -    Để tôi đọc cho các ông nghe một đoạn báo của nhà thơ Trần Mạnh đã viết.
                       (đọc to): " Sở dĩ nhà văn Nguyễn Thiệp chửi bới như thế, đều có dụng
 tâm, xuất phát động cơ là chửi có thưởng...
                                                              (dõng dạc)
… Ít nhất trong vòng 15 năm qua, hội chứng chửi của anh - tức là nói về
            nhà văn Nguyễn Thiệp đấy - Là có hệ thống, có cân nhắc tính toán hẳn hoi.
Cứ mỗi lần Nguyễn Thiệp chửi xong, cũng nhận được vài ba  lời mời đi du
            lịch nước ngoài, không phải mất tiền. Chắc là lần này, anh ta lại hơi bị bận vì
sắp phải sang Âu-Mỹ "?
ĐỨC -    Đó cũng chỉ là một sự trục lợi.
ANH PHẠM -    Cả nhà thơ Trần Mạnh, chắc gì đã không phải là không trục lợi?
 Nhà văn Nguyễn Hoàng chẳng đã từng lên tiếng về cuộc chạy chọt để đi Mỹ
 của Trần Mạnh năm 2002 là gì?
ĐỨC -    Nhưng ai đời… cái ông nhà văn Nguyễn Thiệp ấy lại bảo: bây giờ các nhà
 văn, nhà thơ là vô học, gian manh? Cũng có phần hơi bậy, nên Trần Mạnh
             mới viết bài đả lại.
ANH PHẠM -  Nguyễn Thiệp nói thế... cũng không phải là không có cái lý đâu? Nhà
 văn , nhà thơ của chúng ta bây giờ cũng nhộm nhoạm, tạp-pí-lù thật! 
VŨ -  (cười) Bác Phạm nói như thế nghĩa là, tuy không phải là tất cả… nhưng phần
lớn các nhà thơ, nhà văn bây giờ cũng  hầm bà làng... vớ vẩn?
ĐỨC -    Suy cho cùng, nhiều đọc giả họ đã phê phán Hội văn chương của chúng ta
 cũng là đáng. Thôi, tiếp tụcuống bia đi hai bác!
VŨ -  (giơ cái cốc không) Nhưng hết bia rồi… còn đâu mà uống?
ĐỨC -   Em sẻ cho bác một nửa này.
                                   (san bia cho Vũ)
ANH PHẠM -    Hai ông uống nốt cả chỗ bia của tôi đi, tôi đủ rồi.
                        ( Anh Phạm trút bia đều cho hai người, rồi đứng lên thẩn tha
                                         như người lãng du, quên sự đời)
VŨ -    (với Đức) Nào, uống đi! Nhà phê bình văn học trẻ tuổi. Trăm phần trăm đấy
            nhé!
ĐỨC -    Đây là loại ra sống tinh khiết nhất. Bác Vũ đừng sợ. Ăn nốt đi bác, kẻo phí.
ANH PHẠM -    (ngâm thơ):
                                              Thiên hạ đảo điên chỉ chữ "tiền"...
                                              Anh đi làm thánh mãi cao thiên.
                                      (chị Phạm từ trong lò dò đi ra)
CHỊ PHẠM -    (bĩu môi)  Làm...thánh... mãi cao thiên? Có mà đi Tây thiên thì có!
 Không có cái hàng bún của tôi, thì anh có muốn làm quỷ cũng khó, chứ
 đừng nói là thánh?
ANH PHẠM -    Ăn uống no say. Tôi mới ngâm nga thơ phú một tý!... Chưa chi mẹ
nó đã...
CHỊ PHẠM -  Thế, đã có điện thoại của anh quận phó gọi xuống chưa? Anh phải
 quan tâm tới cái việc đang xẩy ra với con cái chứ?
ANH PHẠM -    Thì vẫn. Tôi với hai anh ở đây vẫn đang chờ?
VŨ -  Cám ơn chị Phạm đã cho anh em chúng tôi một bữa bún riêu và bia. Ăn uống
            thật là đã.
                   (đúng lúc có tiếng chuông điện thoại từ nhà bên, qua cửa sổ vọng ra )
ANH PHẠM -  Điện thoại của mình đấy! Mẹ nó thiêng thật, vừa nhắc đến là có điện
 thoại liền.
TIẾNG NGƯỜI -   (gọi từ trong nhà) Có điện thoại của anh Phạm này!
ANH PHẠM -   (đi tới cầm điện thoại) Vâng, cảm ơn bác.      
TIẾNG NGƯỜI -  Khi nào anh chị về, nhớ khép hộ lại cái cánh cửa sổ nhé!
ANH PHẠM -  Bác cứ yên tâm, chúng tôi sẽ đóng cửa sổ lại cẩn thận.
                                    ( nói chuyện qua điện thoại):
-         Vâng ạ!... Đồng chí quận phó nói về bài thơ "vợ bán ế bún" của tôi ấy ạ?
 Vâng, cảm ơn đồng chí đã quá khen. Bài thơ chưa được hay đến thế đâu ạ.
VŨ -  Tôi đã bảo ngay mà. Bài thơ đã hay thì ai cũng phải khen! Tay quận phó này
mà đã khen thế, thì việc chạy chọt ăn thua rồi.
                                               (với chị Phạm):
-   Chuyến này anh chị Phạm phải thưởng cho tôi đấy!
CHỊ PHẠM -  Chúng em sẽ không để cho bác Vũ  thiệt.
VŨ -   Nói thế thôi. Giúp anh chị giải quyết xong vụ nan giải này, tôi cũng thấy nhẹ
 cả người.
ANH PHẠM -   (tiếp tục nói chuyện qua điện thoại) Thế cơ ạ!... Cả anh em công an
            ở trên đồn cũng hết lời ca ngợi bài thơ của tôi cơ à? Đồng chí làm tôi xúc
 động quá!
VŨ -  Nếu thơ tôi mà được người ta khen như thế thì… tôi cũng phải xúc động mà
            chết ngất đi ấy chứ!
ĐỨC -  Chuyện này phải viết vào biên niên sử mất thôi.
ANH PHẠM -  (tiếp tục điện thoại) Thưa đồng chí quận phó! Thế còn việc?... đã
 xong rồi ạ! Cám ơn đồng chí quá!... Vâng, gia đình tôi sẽ lên ngay ạ.  Chúc
 đồng chí ngày càng mạnh khoẻ và tiến tới!
                                      (anh Phạm bỏ máy điện thoại)
CHỊ PHẠM -  Nghe bố nó nói chuyện trong điện thoại thì...
ANH PHẠM -    Xong rồi!... Xong rồi!... Không phải mất tiền mà chỉ nhờ có mỗi bài
            thơ của tôi.
CHỊ PHẠM -  Và công của bác Vũ đã đăng báo cho bố nó bài thơ đó nữa chứ!
ANH PHẠM -  Ừ, đúng là nhờ công của anh Vũ. Thế bây giờ mẹ nó lên đồn đón con
            và mang xe máy về, hay là tôi đi nào?
CHỊ PHẠM -    Tôi cũng dọn xong hàng rồi, để tôi đi. Bác Vũ và chú Đức cứ ở lại
            chơi với nhà em nhé! Em đi một nhoáng là về ngay.
                               (chị Phạm đi ra… còn ngoái cổ lại nói với chồng):
            -   Tôi đã bảo rồi! Bố nó cũng nên rút kinh nghiệm về cái việc làm thơ? Từ
 giờ trở đi, bố nó cứ bún, bánh… của tôi mà sáng tác.
ĐỨC -    (nói theo) Chúc chị Phạm đi giải quyết mọi việc được thuận lợi nhé!
                                    (chị Phạm ra khuất)
ANH PHẠM -  (với Đức) Nhà bình luận thơ ca này? Thế, liệu có đúng là cái bài thơ
 "vợ bán ế bún" của mình hay thật không?
ĐỨC -  (cười) Nhà thơ Anh Phạm đang bị cảnh tình làm cho mê man, sung sướng
 quá rồi hả?
ANH PHẠM -  Thì các ông cũng thấy đấy! Là tác giả của bài thơ được mọi người ca
 ngợi đến thế, ai mà chả xúc động?
VŨ -  Nó hay!... Bởi vì nó hoà hợp với cảnh đời. Thấm vào lòng người. Ông nhà thơ
 Anh Phạm ạ! Không phải phân vân gì hết.
                            (bỗng lại có tiếng rao của cô bán báo )
CÔ BÁN BÁO -    (vừa đi tới vừa rao) Báo ơ!... Báo ơ!... Báo Văn của Hội văn
            chương chính cống. Có đăng bài thơ nổi tiếng "vợ bán ế bún" của nhà
            thơ Anh Phạm đây!...
ĐỨC -  (ôm chầm lấy anh Phạm) Ôi, bác Phạm! Nhà thơ Phạm! Thế là bác trở
 thành nhà thơ vĩ đại rồi!
VŨ -  Chúc mừng ông! Chúc mừng sự thành công rực rỡ trong đời thi ca của ông.
            Để hoà cảm với niềm sung sướng cùng thi hữu, tôi xin ôm hôn thắm thiết cả
            hai ông.
                               ( họ ôm chầm lấy anh Phạm hôn lấy hôn để)
ANH PHẠM -    Bỏ ra!... Hai ông không bỏ tôi ra, kẻo tôi ngạt thở mà chết bây giờ?
CÔ BÁN BÁO -   (tiến lại phía họ) Em lại chào các anh!... Mỗi anh mua cho em một
 tờ. Báo của Hội văn chương số mới nhất đấy, các anh ạ. Hay lắm! Có đăng
             bài thơ...
VŨ -  Chúng tôi biết rồi! Cô không cần phải quảng cáo nữa.
CÔ BÁN BÁO  -    À, vâng. Các anh là nhà thơ, chắc cũng là bạn của nhà thơ Anh
            Phạm? Ôi, giá em được gặp nhà thơ Anh Phạm đang nổi tiếng ấy?. Dù chỉ
 một lần… thì dẫu chết em cũng không oán thán.
ĐỨC -    (chỉ anh Phạm) Thế cô có biết ai đây không?
CÔ BÁN BÁO  -    (nhìn anh Phạm) Anh này ấy ạ? Em biết rồi. Anh ấy cũng là một
            nhà thơ. Nhưng...
VŨ -    Chính là nhà thơ Anh Phạm mà cô đang ao ước được gặp đấy?
CÔ BÁN BÁO -   Ôi... nhà thơ Anh Phạm đây ạ?
                                       (cô gái xúc động nói như hét):
            -   Tôi đã được gặp nhà thơ Anh Phạm rồi! Tất cả ơi... Thật là vinh dự cho
 em quá! Em đã được gặp...
ANH PHẠM -  (ngăn lại) Thôi… thôi đi cô! Có gì mà cô cứ làm như là...
CÔ BÁN BÁO -     Cả thành phố đang ca ngợi bài thơ của anh đấy! Vì nhờ có bài
thơ "vợ bán ế bún" nổi tiếng này, mà em bán được bao nhiêu là báo.
ĐỨC -  (với cô gái) Thế, số báo có đăng bài nói về sự đả nhau... giữa ông nhà thơ
Trần Mạnh với nhà văn Nguyễn Thiệp, cô đã bán hết rồi à?
CÔ BÁN BÁO -    Còn thừa khối. Em đem trả lại cho toà soạn rồi. Bán chững lại,
            em chẳng muốn lấy thêm nữa.
ĐỨC -   Tại sao thế? Tưởng các nhà văn, nhà thơ càng cãi nhau nhiều, thì cô càng
 bán được nhiều báo?
CÔ BÁN BÁO -  Nhưng rồi đọc mãi thấy các nhà văn, nhà thơ cứ cãi chửi nhau
hoài… chẳng ra đâu vào đâu? công chúng họ cũng chán. Chẳng thèm đọc báo nữa.
ĐỨC -    À, ra thế!...
CÔ BÁN BÁO -  (với anh Phạm) Anh đã được đăng bài thơ hay như thế! Mua cho
            em mấy tờ nhé, để tặng bạn bè?
ANH PHẠM -  (đếm tiền) Ừ, thì để xem còn đủ tiền mua luôn cả chục tờ...
                                (cô gái xếp báo đưa cho anh Phạm)
ĐỨC -    Bác Phạm phải mua hết cả chồng báo này để tặng người thân, cũng bõ ấy
chứ!
ANH PHẠM -    Từ từ thôi!... Đừng quá xá!...  
VŨ -  (với cô bán báo) Bây giờ cô lại bán được nhiều báo, là nhờ có bài thơ "vợ bán
 ế bún" của nhà thơ Anh Phạm hả?
CÔ BÁN BÁO -    Đúng như vậy đấy ạ! Tuy thời buổi thị trường, nhưng công chúng
họ vẫn được thèm nghe một bài thơ hay! Lâu nay thơ ca vẫn in nhiều, nhưng
toàn thơ chán lắm! May mà...
                              (bỗng anh Phạm lảo đảo chực ngã)
ĐỨC -  (vội chạy lại đỡ) Kìa, bác Phạm! Nhà thơ làm sao thế?
ANH PHẠM -    (lắp bắp) Tôi... tôi... đau... tim...
VŨ -    Chết!... Quen ông đã lâu mà không biết ông lại bị đau tim? Ông bị mắc
 chứng bệnh đau tim này từ bao giờ thế?
ANH PHẠM -  Hôm... hôm… hôm nay tôi mới bị đau.
CÔ BÁN BÁO  -  Em biết rồi! Vì bài thơ hay quá. Được nhiều người ngưỡng mộ,
            nên… anh ấy xúc động. Trái tim không chịu đựng nổi, mới bị đau.
ĐỨC -  (với anh Phạm) Vấn đề bây giờ là... bác phải thật bình tĩnh. Đừng nên xúc
            động quá!
ANH PHẠM -  Thế này thì… tôi phải giảm tuổi thọ đến mười năm mất thôi!
VŨ -  Viết được một bài thơ hay như thế thì... có chết ngay cũng đáng. Chỉ giảm tuổi
 thọ có mười năm, bõ bèm gì?
                              (cô bán báo chạy lại săn sóc. Vuốt ngực cho anh Phạm)
CÔ BÁN BÁO -    Hay là để em đọc bài thơ "vợ bán ế bún" cho anh nghe lại nhé!
Có khi... nghe lại bài thơ hay của mình, bệnh tình của anh đỡ cũng nên? Em chỉ rao bán báo, mà cũng đã thuộc cả bài thơ rồi đấy! Em biết khối người mua báo, họ đã học thuộc ngay.
ANH PHẠM -   (xua tay) Thôi… thôi… không cần đọc. Tôi đỡ rồi, cảm ơn cô!
                                                 (với Vũ và Đức):
           -  Các ông ơi! Thật không ngờ bài thơ viết vớ vẩn mà lại có tiếng vang như
 thế. Khéo tôi sung sướng đến chết non mất?
ĐỨC - Ấy, nếu thế thì bác phải mua gấp ngay một bộ quan tài để phòng sẵn đấy.
 Kẻo nhỡ chẳng may bị chết đột ngột, mới đi mua thì cập rập quá!
ANH PHẠM - Đức nói chí phải.
VŨ –   Đăng được một bài thơ hay cho ông, lại nổi tiếng như thế!... Khéo rồi tôi cũng
            theo ông mà chết non mất thôi. Hay là… mình cũng sắm một bộ quan tài để
phòng sẵn đấy, Đức nhỉ?
ĐỨC – Bác Vũ cẩn thận lo cho mình chu đáo như thế… thì còn gì bằng.
ANH PHẠM -  Nhưng sắm một bộ quan tài bây giờ cũng không phải là ít tiền. Tôi…
VŨ – Ông chưa có tiền chứ gì? Để tôi sắm luôn hai bộ cho cả tôi và ông luôn thể.
ANH PHẠM - Thế thì phiền anh Vũ quá!
VŨ – Không có gì! Chuyện vặt. (với Đức) Hay là… Đức cũng nên phòng sẵn một bộ,
 mình mua luôn thể?
ĐỨC –  Không ạ!... Các bác có tuổi rồi có chết ngay cũng chẳng sao. Em còn trẻ,
 chẳng dại gì mà em lại chết theo các bác.
ANH PHẠM – (với Vũ) Thôi. Đức nó chưa muốn chết non với mình, thì ta cũng
 đừng nên ép.
VŨ – Không muốn chết thì thôi.
CÔ BÁN BÁO -   (vui vẻ) Gặp được nhà thơ Anh Phạm rồi. Thế là em đã mãn
 nguyện. Khéo em… cũng chết non như hai anh mất thôi!
ĐỨC -  Thì cô cũng mua luôn một bộ quan tài để sẵn đấy!... Tiện thể cùng một công
 mua, nhờ bác Vũ đây mua luôn cả ba bộ?
VŨ – Không hề hấn gì! Ba bộ thì ba.
CÔ BÁN BÁO -   Nhưng em còn quá trẻ! Mới lại… nói thật với các anh là, em chưa
được biết mùi đời. Bây giờ mà chết đi thì phí quá! Các anh ai cũng  được
 nếm mùi đời cả rồi, chết đã đành. Còn em? Thội, em chả dại. Chào các anh,
            em đi bán báo đây! (ngoái lại nói to) Em chả chết non nữa đâu!
                                                (cô vừa ra vừa tiếp tục rao)
                Báo ơ!... Báo ơ!... Báo Văn của Hội văn chương quốc gia chính cống. Có
            đăng bài thơ nổi tiếng "vợ bán ế bún" của nhà thơ Anh Phạm , tên tuổi đang
 lẫy lừng đây. Mua mau kẻo hết!                        
                                      (cô gái ra khuất)
ĐỨC -  (với anh Phạm) Cô gái trẻ trông xinh xinh dễ thương là… bác Phạm thật là
 người hạnh phúc!
                                       (chị Phạm có vẻ hốt hoảng bước vào)
ANH PHẠM -  (vội tới) Kìa mẹ nó!... Sao lại hốt hoảng thế?
CHỊ PHẠM -  Tôi đã lên đến đồn công an. Họ bảo tha cho con rồi… và còn cho nó
mang cả xe về.
ANH PHẠM -    Thế là tốt chứ sao. Nhưng chưa thấy nó về?
CHỊ PHẠM -  Đã gặp được nó đâu. Người ta bảo: được thả, nó nhảy lên xe và
 phóng mất tiêu rồi!
ANH PHẠM -  Chắc con nó đi đâu đấy, rồi nó về. Thấy mẹ nó hốt hoảng… tôi cứ
tưởng lại xẩy ra chuyện gì?
CHỊ PHẠM -  Nhưng tôi vẫn thấy lo. Với cái tính khí của nó, rồi nó lại gây ra
            chuyện này, chuyện khác mất thôi?
VŨ -  Chị Phạm đừng lo xa quá! Chắc cu cậu được thả ra… sướng quá, phóng vi vu
            một chút rồi về ngay thôi mà. Thế là ổn rồi. Miễn là mình giải quyết xong
 việc với công an.
CHỊ PHẠM -  (thở dài) Con với chả cái...
                                      (bỗng có tiếng điện thoại)
ANH PHẠM -    Để tôi nghe! ( cầm điện thoại) A lô! À, ra là con đấy hả?
                                                 (quay lại nói với vợ)
            Không phải là điện thoại của công an. Con nó gọi về, mẹ nó ạ!
CHỊ PHẠM -  Thì bố nó cứ nói chuyện với con, xem có chuyện gì xẩy ra không nào?
ANH PHẠM -    (nghe điện thoại) Sao? Con lại bị bắt à? Nhưng ở đồn công an nào
 mới được chứ? Bố nghe rõ rồi. Đồn công an Gầm Cầu!... Nhưng tại sao con
            lại bị bắt? Vì tội vượt đèn đỏ à! Thế có khổ không? Thì con lựa lời mà nói
            khó với các chú công an tha cho vậy. Nhất quyết không được à? Họ bắt nộp
phạt những một triệu cơ à? Lấy đâu ra tiền để nộp phạt bây giờ hả con? Thôi…thôi… bố biết rồi. Bố đang ốm đây, con không cần nói nữa!
                         (anh Phạm bỏ máy điện thoại)
CHỊ PHẠM -  Tôi nghe rõ cả rồi! Chồng ơi  là chồng? Con ơi là con?... Thế này thì
 tôi đến chết quách đi cho xong.
ANH PHẠM -   Tại con nó… sao mẹ nó lại nói tôi?
CHỊ PHẠM -  Thì cũng bởi anh lúc nào cũng chỉ mải thơ phú… không chịu răn đe
            con cái, mới nên nông nỗi này?
ANH PHẠM -    Mẹ nó hay nhỉ?
CHỊ PHẠM -    Tôi hay thế đấy? Tôi... chỉ muốn chết quách đi cho đỡ khổ.
ĐỨC -    (với chị Phạm) Thôi, chị ạ! Chị hãy cứ bình tĩnh. Cũng đành phải  tìm cách
            để cứu cháu và chuộc lại xe máy về vậy.
                                                           (thở dài)
                Cổ nhân đã chẳng từng nói: Đời là cái nợ đồng nần mà...
CHỊ PHẠM -  Các anh xem! Hết chuyện này đến chuyện khác. Lần trước nó vừa bị
            bắt vì tội phóng xe tốc độ cao. Bây giờ nó lại mắc vào tội vượt đèn đỏ?
                                                (quay lại phía chồng)
              Hay là... bố nó lại làm bài thơ nữa, cũng về "bún" của tôi ?... để lại phải
nhờ bác Vũ đây đăng báo. Rồi đem thơ lên công an mà xin cho con nó về?
ANH PHẠM -  Ối… mẹ nó làm thơ của tôi cứ như trò hề ấy? Mới lại, văn chương
            không thể gượng ép và vụ lợi được. Thơ của tôi cũng chỉ rung cảm trước vẻ
            đẹp của cuộc sống, chứ đâu...
VŨ -    Đúng đấy chị Phạm ạ! Thơ ca không thể giả tạo được.
                                                                  (thở dài)
ĐỨC -     Suy rộng ra: Nếu cha, anh... mà không sống cho tử tế, cho cẩn thận? Thì…
 mai đây, con trẻ chúng nó sẽ đua nhau vượt đèn đỏ hết!

          
                                                    HẾT KỊCH


<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2017 12:52:50 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 09.06.2017 11:54:51 (permalink)
          THƠ TÌNH
  VIẾT DƯỚI HÀNG CÂY

 
            CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi…
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây.

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru?

Em đã mang màu phượng ấy ra đi…


 
              KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ
Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng
Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ
Nhưng vẫn đó: Em, anh - Cuộc sống
Xa nhau rồi! Tình cũ đến bơ vơ.

Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng
Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi?
Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát?
Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi!

Hỡi những hàng cây xanh! Những con đường lá đổ!
Chỉ dùm ta đôi gót đỏ thời thiếu nữ em xưa
Kỷ niệm về trái tim đau thổn thức
Chỉ dùm ta! Nào, chỉ giúp ta đi!

Bài hát năm xưa bên anh em đã hát
Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng
Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu?

Con đường ta đi... có bao đôi trai gái
Ai cũng một thời yêu, em nhỉ? để xa nhau,
Để được nhớ, được buồn, được khóc,
Được nghe quanh đời những tiếng lá bay theo.

Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
Nhưng vẫn đó: Em , anh - Cuộc sống
Và một mối tình ta đã tặng cho hết thẩy trăng sao.
 
 
         HÀNG CÂY LÁ ĐỔ

Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây…
Bản tình xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết.

Ôi, hàng cây! Cùng ta... bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga.

Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
                                          lắt lay
 
 
         ANH VẪN CHỜ EM DƯỚI CÂY
Hàng cây đêm lặng im không nói
Rì rào gió thổi lúc anh qua
Anh đứng lặng nghe không gian vọng lại
Bóng hình em nay đã mờ xa.

Ôi,  năm tháng chỉ còn hoài vọng
Cuộc sống bao năm anh đã tôn thờ
Quá khứ một bản tình hoang dại
Hiện tại giờ hết thảy lại hư vô.

Cả không gian vẫn âm thầm gió thổi
Em xa rồi, tình cũng vỡ tan!
Trong tít tắp tận miền xa chới với
Nghe thấy không em? Tiếng gọi của lòng anh.

Trời mưa gió hay lòng anh mưa gió
Dưới hàng cây thổn thức canh khuya
Cuộc sống thì mây trôi bèo dạt
Anh vẫn đứng chờ em như thế mãi ngàn thu.
                           Phạm Ngọc Thái
 
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2017 12:16:47 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 17.07.2017 11:55:53 (permalink)
 
 
                    LỜI GIỚI THIỆU
                                             . Tập Bản thảo tác phẩm sẽ xuất bản
                             "Các chùm thi ca có một không hai & những lời bình"
 
 
         27 chùm thi ca với ngót 100 bài thơ được chọn ra từ trong đời thơ Phạm Ngọc Thái – Như nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc đã đánh giá:
     “ Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng, cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn, mức độ hay của mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi có thể cảm hoá được trái tim người yêu thơ là rất nhiều.
     Về bút pháp, nhiều bài thơ tình của anh được hoà trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Điển hình là thuyết  “tương ứng cảm quan“ của nhà thơ tượng trưng bậc thầy Charles Baudelaire (1821 – 1867) lúc đó chủ xướng “.
     Hàng loạt các chùm thơ như: Chùm thơ tình trong mưa, thơ tình mùa thu, chùm thơ tình yêu và đàn bà, chùm thơ tình biển, Chùm thơ áo trắng, thơ tình sông hồ, thơ tình thời con gái, thơ tình viết dưới hàng cây, chùm thơ xa quê, chùm thơ tình trong trăng, thơ tình chiều hoàng hôn, thơ tình trong mây v.v… Những năm qua đã được nhà thơ cho đăng rất nhiều trên các trang mạng Việt trong nước và thế giới.
     Đặc biệt là thơ tình – Anh đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay. Rồi mai sau Phạm Ngọc Thái sẽ có cả trăm bài đứng trường cửu với đời, trong đó nhiều tình thi của anh đạt vào cung bậc thơ danh giá.
     Trong tập sách này tác giả còn chọn ra mươi bài viết, do các văn nghệ sĩ và nhà giáo bình thơ hay Phạm Ngọc Thái. Đó là những bài bình khúc triết, ngôn ngữ sắc sảo và hấp dẫn. Đọc những bài bình ấy cùng 27 chùm thơ đặc sắc của Phạm Ngọc Thái – Ta sẽ thấy cả một bầu trời thơ huyền diệu, để hiện lên chân dung một nhà thơ Phạm Ngọc Thái đầy tài hoa. Anh đã để lại cho nền Văn hiến Thăng Long một dòng thơ hiện đại hay riêng, với giá trị nghệ thuật văn học vào hàng đẳng cấp.
    Mấy dòng viết giới thiệu không thể bao quát hết được cả một thế giới thơ sâu thăm thẳm, bao la như biển trời của Phạm Ngọc Thái. Nhưng đọc tập sách, ta hoàn toàn có thể nhận ra những giá trị đó. Xin dành để các độc giả đọc và cảm nhận.
     Tôi tin rằng, với những ai còn yêu và quan tâm tới thi ca của văn học nước nhà hay thi ca hiện đại thế giới nói chung – Khi đọc tác phẩm không thể không khen… hay! Hoặc thốt lên “ tuyệt vời ”!
     Bằng những dòng thi ca như huyền thoại tuôn chảy ra trong máu tim thi sĩ, với một tay bút sáng tác đã tinh luyện - Tác phẩm sẽ mang đến cho bạn đọc sự cuốn hút, say mê qua mỗi bài thơ và trên từng trang sách.
                                                                ANH TRẦN
                                                          NS Sân khấu và Điện ảnh HN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.07.2017 12:04:59 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 06.09.2017 15:28:31 (permalink)
          NHÀ VĂN PHẠM NGỌC THÁI NHƯỢNG
             TÊN TÁC GIẢ
KỊCH BẢN SÂN KHẤU
                              
                                                               NGUYỄN THỊ HOÀNG     
                                                                    giới thiệu
 
     Trước hết, phải nói Phạm ngọc thái là một thi sĩ độc đáo, đồng thời anh còn là một cây bút bình luận văn chương sắc sảo. Tác giả đã sáng tác một khối lượng thơ lớn đều đã xuất bản thành sách, nhất là thơ tình... nhiều bài hay có khả năng sống mãi với thời gian cũng như nền văn học nước nhà. Thi ca Phạm Ngọc Thái và những bình luận về anh, hảng chục năm nay đã được đăng tải nhiều trên các trang mạng Việt trong và ngoài nước, chúng tôi không nói lại nữa. Chỉ xin giới thiệu đại diện một tác phẩm văn học vô giá: dầy 372 trang, do số văn nghệ sĩ và nhà giáo Hà Nội biên soạn, xuất bản năm 2014. Sách có nhan đề:
        "PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG

               NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI"
     Mời độc giả tìm đọc.



      Quí vị có thể tham khảo một bài nghị luận văn chương, có một không hai trong văn đàn:                                                                                             "Phạm Ngọc Thái thách đấu cả HNVVN đương đại    
-   của chính nhà văn viết cách đây đôi năm, đã được đăng tải trên rất nhiều các trang báo mạng Việt khắp thế giới. Chúng tôi chọn ra đây vài trang đại diện ở các nơi, ai muốn đọc thì mở qua các link sau:
        Đăng trên báo Tổ quốc tại Mỹ
       http://to-quoc01.blogspot.com/2015/07/pham-ngoc-thai-thach-au-ca-hoi-nha-van.html
        Tòa báo Việt Nam Úc
       http://www.namuctuanbao.net/permanent/1003/truyenNgan/truyenngan_8.php
         Đăng trong nước
       http://www.vandanviet.com/2015/07/pham-ngoc-thai-thach-au-ca-hoi-nha-van.html



        Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng

     Sở dĩ chúng tôi nói kĩ mấy nét về văn chương như trên, là muốn nhấn mạnh tầm vóc một nhà văn, tác giả của những kịch bản sẽ đề cập đến sau đây.
     Giờ xin nói về vấn đề chính như đã ghi ở đầu bài:
              NHÀ THƠ PHẠM NGỌC THÁI NHƯỢNG
                   TÊN TÁC GIẢ
KỊCH BẢN SÂN KHẤU
    A*  Vài lời giới thiệu kịch:
     Trong nghiệp bá văn chương, anh đã sáng tác thành công 5 kịch bản sân khấu, đó là những vở kịch nói:
          1.   Số phận những hòn đá tảng           kịch dài
          2.   Bản án dưới mồ                              kịch dài
          3.   Cánh cửa quốc tế                           kịch ngắn
          4.   Chuyện ở quán gốc đa                   kịch ngắn
          5.   Mối tình hoa hồng bạch                  kịch ngắn

    Những vở kịch nói này, đều có khả năng công diễn trên sân khấu với những đoàn kịch lớn tầm vóc quốc gia.
  -  Thí dụ như "Số phận những hòn đá tảng" là một vở kịch dài,  diễn khoảng gần 3 tiếng trong một tối. Một kịch bản mà tác giả Phạm Ngọc Thái đã viết rất công phu trong nhiều năm. Nội dung:

      Đề cập đến sự tha hóa và thấp kém của những kẻ lãnh đạo trong một cơ quan kinh tế quốc gia, dẫn đến sự sụp đổ cả kinh tế lẫn guồng máy. Đó là cái mâu thuẫn thế hệ, sự cũ rích, bảo thủ. Họ như những hòn đá tảng phải bảy đi ! Trong đó tình yêu và cuộc sống, mới và cũ được phơi bày đầy kịch tính ở xã hội đương thời, v.v... với những nhân vật đại diện sừng sỏ, điển hình.
    
Trong đợt sáng tác sân khấu toàn quốc ít năm trước, đã được cố NSND Trọng Khôi - Chủ tịch Hội Nghệ sĩ VN lúc đó, tặng thưởng kịch bản sâu sắc.
     Thời gian qua anh cũng đã gửi kịch bản này tới các đoàn kịch lớn quốc gia ở Thủ đô, như Đoàn kịch nói Trung Ương; Đoàn kịch Tuổi Trẻ; Nhà hát kịch Hà Nội và Đoàn kịch Tổng Cục Chính Trị  - Theo các đoàn kịch cũng như NSND Lê Hùng, nguyên giám đốc Đoàn kịch Trung Ương... thuộc trong những bậc đạo diễn sân khấu tài danh nhất hiện nay, cho biết: "Số phận những hòn đá tảng" là một vở kịch hoành tráng, nhưng dàn dựng tương đối tốn phí...
    Nếu được tài trợ kinh phí dàn dựng, thì các đoàn kịch lớn sẵn sàng dựng để công diễn trong toàn quốc.

-    Hoặc như 3 vở kịch ngắn: "Cánh cửa quốc tế * Chuyện ở quán gốc đa * Mối tình hoa hồng bạch) - Tác giả đã từng trao đổi với Nhà hát tuổi trẻ ở Hà Nội, là đoàn thường diễn 2-3 vở kịch ngắn trong một tối. Nhà hát cũng có gợi ý: Nếu được tài trợ kinh phí, đoàn kịch sẽ dàn dựng để công diễn...
         B*  Nhà văn Phạm Ngọc Thái ngỏ ý như sau:
1.   Nếu đại gia nào chịu chi ra một khoản kinh phí cho tác giả, theo thỏa thuận - Trước hết, Nhà văn sẽ cho xuất bản thành sách cả 5 vở kịch đó... "đồng tên tác giả" kịch bản, để cùng lưu danh đại gia đó!... không chỉ hiện tại, mà vĩnh viễn lâu dài trong nền sân khấu nước nhà.
     Thí dụ, như tác phẩm " Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941" của Hoài Thanh chẳng hạn? Đến nay qua hơn nửa thế kỷ, mỗi khi xuất bản người ta vẫn lưu giữ, không chỉ riêng Hoài Thành... mà tên của cả hai tác giả trên sách, là "Hoài Thanh & Hoài Chân"!
2. Còn công diễn, chỉ cần tài trợ kinh phí cho Đoàn kịch dàn dựng - cũng sẽ đồng tên tác giả sáng tác kịch bản: cả Nhà văn và Đại gia đó !... để công bố với quảng đại công chúng trong cả nước.
3.  Có thể một công ty hay cơ sở nào... muốn mua bản quyền 5 kịch bản như đã nêu trên, xin trao đổi trực tiếp với Nhà văn Phạm Ngọc Thái.
    Về phía Tòa soạn: chúng tôi cũng có nhận được 5 kịch bản của tác giả gửi đến,  qua hộp thư điện tử - Nếu cá nhân hay công ty, cơ sở nào muốn giao dịch ? xin liên hệ, tòa soạn sẽ cung cấp kịch bản để quí vị thưởng lãm.
  Hoặc quí vị có thể trao đổi trực tiếp với chính tác giả Phạm Ngọc Thái, theo địa chỉ dưới đây:
                           ĐT:      0168 302 4194
                       Email:     ngocthai1948@gmail.com 
     Nhà văn sẽ cung cấp cho quí vị kịch bản để đọc.
   T/M Hội thi ca Thăng Long
     NGUYỄN THỊ HOÀNG
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.09.2017 15:36:50 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 16.10.2017 11:40:30 (permalink)
 
 
       THƠ TÌNH MÙA ĐÔNG PHẠM NGỌC THÁI


 
          LẠC GIỮA MÙA ĐÔNG
Phố không vắng mà tình anh vắng
Giọt thơ rơi xuống tận đáy lòng
Gió du đãng leo cành du đãng
Anh vẩn vơ hoài lạc giữa mùa đông...

Thành phố quay cuồng cơn lốc sống
Cả bọn kéo nhau cuộc nhậu nhoẹt bốc đồng
Lời quan trọng của mấy ông văn thơ
                                         đầu dê, chả chó…
Anh chẳng buồn đâu, chỉ nhớ em!

Cô gái trẻ nhà bên nên thơ quá!
Nhìn cô ta anh đốt thuốc tràn
Lại thoáng bóng em tận trời cánh nhạn
Lúc này có nhớ anh không?

Ngoài kia hoa rơi hay lá rụng
Gậm mòn anh đêm chia tay cuối cùng
Mái tóc xưa bay làn hương gió thoảng
Cánh bướm vàng đâu đó vẫn hồn nhiên.

Tình là trận gió rền mưa trút
Xa nhau rồi anh hát khúc cô đơn ! (*)

-------------
(*)   Khi Từ Hải chết đứng, mắt mở trừng trừng, Kiều vật vã khóc than rồi đến vuốt mắt cho chàng, lúc đó Từ Hải mới chịu nhắm mắt để rồi ngã vào trong vòng tay của Kiều. Tình đời, giọt nước mắt của đàn bà còn mạnh hơn cả súng đạn binh đao!
 
        VỆT SÁNG MÙA ĐÔNG
Màu thành phố mưa sa liễu rủ

Không mặt trời chói lói xuyên qua
Một vệt sáng mùa đông nhợt nhạt
Tiếng chim nào quanh quất rướn lên ca…

Đoàn thiếu nữ áo váy màu phấp phới
Nét thanh xuân khêu gợi mắt đa tình
Sưởi ấm lại vầng trăng toan hấp hối
Anh trong lòng cũng nhói thương em.

Mảnh trăng khuyết sáng ngày treo như chết
Tình rách tan ai vá lại cho lành ?
Và trong vệt sáng mùa đông ẩm ướt
Có cái gì tan vỡ giống... "em-anh"!
 
           NHỚ EM ĐÊM NOEL
Trái tim anh mưa tạnh, sóng lặng rồi
Dẫu nhớ nhung lòng chỉ hơi man mác
Em ngủ bên chồng, chắc cũng đã yên bề ngon giấc 
Tình chúng mình chấm hết, thế là xong !

Những đêm yêu thành cổ tích, phải không em?
Ôi! Những đêm không chiếu, không màn bên trăng gió
Đời thiếu nữ em trôi hoá câu vọng cổ
Anh cũng chỉ ru anh trong bóng nhạt khuya về.

Nhớ ngày nào anh vẫn đón em đi
Tối phố, trời sao... tình yêu tuổi trẻ!
Ta trút cho nhau cả trời lẫn bể
Tháng năm qua tất cả ngỡ chiêm bao.

Đêm noel đó em! Trai gái vẫn rủ nhau
Chỉ có hai ta hai trời cách biệt.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.10.2017 11:51:38 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 20.11.2017 10:35:43 (permalink)
  
                                                Đây là bản thảo tập sách - kêu gọi cộng đồng người Việt 
                                                  cá nhân hoặc tôe chức xuất bản - xin liên hệ cùng tác giả  
          
                                      PHẠM NGỌC THÁI 
  
  
[_mce_style="color: #ff0000;"]                    NHỮNG ÁNG VĂN CHƯƠNG
[_mce_style="color: #ff0000;"]                        LÊN ÁN CỘNG SẢN 
[_mce_style="color: #ff0000;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                                        Phần 1.
[_mce_style="color: #000080;"]                                   THƠ ĐẤU TRANH 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                 NƯỚC ĐÃ MẠT RỒI

[_mce_style="color: #000080;"]                               I.

[_mce_style="color: #000080;"]Thế đã chết những tháng năm đẹp đẽ
[_mce_style="color: #000080;"]Bầu trời không còn xanh. Mây phủ kín linh hồn.
[_mce_style="color: #000080;"]Tim nhỏ xuống những dòng thơ cào xé
[_mce_style="color: #000080;"]Tổ quốc ơi! Bọn ưng khuyển hoành hoành.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân tôi như cá dưới dao, nằm trên thớt
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ thù kề cận ngoại bang, kẻ phản bội nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng trâng tráo nhe nanh, nhe vuốt
[_mce_style="color: #000080;"]Nước mạt rồi quằn quại dân đen.

[_mce_style="color: #000080;"]Thằng Tàu đó, chính kẻ thù vạn thuở
[_mce_style="color: #000080;"]Lẫn giặc trong nhà hại nước cầu vinh
[_mce_style="color: #000080;"]Miệng nói vì dân nhưng tâm địa sói lang
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản ư? Xin thắt vòng tang trắng!

[_mce_style="color: #000080;"]Lũ quan lại địa phương cướp đất của dân, đủ điều độc đoán
[_mce_style="color: #000080;"]Cấu kết với quan trên - Tiếng ai oán đau lòng!
[_mce_style="color: #000080;"]Thành một bầy quan bọ cạp dày đen tổ quốc
[_mce_style="color: #000080;"]Xưa bần cố nông, giờ "vô sản hoá lưu manh". (1)

[_mce_style="color: #000080;"]                             II.

[_mce_style="color: #000080;"]Cùng với Mỹ kết anh em bè bạn
[_mce_style="color: #000080;"]Cuộc chiến tranh nào cũng chỉ chết nhân dân?
[_mce_style="color: #000080;"]Con đường Phan Châu Trinh xưa "đề huề Pháp-Việt" (2)
[_mce_style="color: #000080;"]Nay nhập vào khối Hoa Kỳ 
[_mce_style="color: #000080;"]mà tiến về phía "Tượng thần tự do" bất khả muôn năm!

[_mce_style="color: #000080;"]Vừa để chống giặc Tàu vừa nâng nước lên ngang tầm thời đại
[_mce_style="color: #000080;"]Con đường "tư bản" mới chính là chủ nghĩa dân sinh
[_mce_style="color: #000080;"]Xã hội lắm bọ dòi, nhà nhà thì vô phúc
[_mce_style="color: #000080;"]Đó là kết cục đường lối cũ suy vong.

[_mce_style="color: #000080;"]Đảng xã hội, đảng dân chủ hay một đảng nào tích cực
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng nào tốt thì cầm quyền!
[_mce_style="color: #000080;"]Chẳng phải cũng qui luật cạnh tranh của Marx - Ăng Ghen? (3)
[_mce_style="color: #000080;"]Chính qui luật để bảo vệ non sông gấm vóc
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu chỉ một đảng độc quyền: sẽ thành hùm beo cắn xé nhân dân.

[_mce_style="color: #000080;"]Tổ quốc ta yêu! Ngàn năm thương xót
[_mce_style="color: #000080;"]Có nhìn nay chính phủ đang hoá những yêu tinh?
[_mce_style="color: #000080;"]                                        
[_mce_style="color: #000080;"]                                          Hà Nội - 4/6/2013
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](1)  Tầng lớp giai cấp vô sản trong guồng máy lãnh đạo nhà nước XHCN biến chất thành "những tập đoàn tham nhũng, lũng loạn" hoặc… "vô sản hoá lưu manh".                          
[_mce_style="color: #000080;"]2)  Đường lối cách mạng của cụ Phan Châu Trinh là không theo con đường bạo động, để tránh đổ máu nhân dân - Cụ chủ trương: "Pháp - Việt đề huề"...
[_mce_style="color: #000080;"]3)   Cũng theo Marx - Ăng Ghen: "cạnh tranh" chính là qui luật của sự tiến bộ!... Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trong chính trị cũng như các lĩnh vực khác.                                         
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]    NÓI THẬT THÌ PHẢI VÀO TÙ
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nói thật thì phải vào tù, nên đành sống giả?
[_mce_style="color: #000080;"]Thơ viết mãi về tình yêu và đàn bà,
[_mce_style="color: #000080;"]                                            cũng đã chán rồi!
[_mce_style="color: #000080;"]Mười năm chiến trường huân chương đầy ngực
[_mce_style="color: #000080;"]Nay lặng nhìn vận nước khôn nguôi.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Ta ủng hộ ai? Ủng hộ chính thể nào?
[_mce_style="color: #000080;"]XHCN ư…
[_mce_style="color: #000080;"]Marx đã thành hoang tưởng.
[_mce_style="color: #000080;"]Theo Lê-nin…
[_mce_style="color: #000080;"]Hoá ra lại  gây tổn hại cho dân tộc, giống nòi (*)
[_mce_style="color: #000080;"]Con đường này cả thế giới đều sai.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"] “Độc lập” gì mà nhân quyền sụp đổ?
[_mce_style="color: #000080;"]“Tự do” gì mà đàn áp lương tri cả nhân dân?
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                         Tháng 2-2014
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](*) Chủ nghĩa Marx hoang tưởng đã đành - Ngay cả lãnh tụ Lê Nin cũng ngộ tưởng khi tuyên bố: Những nước nhược tiểu như Việt Nam ở châu Á, hay châu Phi, Mỹ la-tinh... vừa ra khỏi ách thuộc địa, có thể tiến thẳng lên CNXH - đốt cháy giai đoạn không cần qua TBCN, khi có Liên bang Xô Viết làm chỗ dựa - Thì chính Liên Xô cùng các nước XHCN ở Đông Âu lại sụp đổ đầu tiên.
[_mce_style="color: #000080;"]     Sự ngộ tưởng của Lê Nin không chỉ trở thành một hệ quả đối với nhân dân Nga, đất nước Nga... mà còn kéo theo sự lầm lạc của những nước như Việt Nam và các nước nhược tiểu đó!  Trên con đường tiến lên CNXH, nó dẫn đến sự thoái hoá của bộ máy nhà nước và xã hội: 
[_mce_style="color: #000080;"]      Nay nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Ukraine từng thuộc Liên bang Xô viết cũ, hàng loạt tượng đài Lê Nin bị nhân dân đập phá - Cảnh báo CNCS đã và đang hoàn toàn bị sụp đổ. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                 BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                    Hãy cứ đo bể ta bằng luật-điều quốc tế
[_mce_style="color: #000080;"]                      Trời xanh ta xanh bao nhiêu hải lý
[_mce_style="color: #000080;"]                      Nhưng chớ đo lòng căm giận chúng ta
[_mce_style="color: #000080;"]                      Máu hơn ba chục năm trời ta đã đổ ra.
[_mce_style="color: #000080;"]                                       Chế Lan Viên

[_mce_style="color: #000080;"]                      I-

[_mce_style="color: #000080;"]Chúng muốn cướp biển ta - Lũ Tàu khốn kiếp!
[_mce_style="color: #000080;"]Anh em gì? răng với chả môi…
[_mce_style="color: #000080;"]Từ thuở nghìn năm cha ông đã nói rồi:
[_mce_style="color: #000080;"]“Phải coi chúng muôn đời là giặc”.

[_mce_style="color: #000080;"]Nếu bị mất lòng dân thì mất hết!
[_mce_style="color: #000080;"]Sao lại đàn áp người biểu tình
[_mce_style="color: #000080;"]                             khi họ chống giặc Trung?
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu ta mà sợ sệt luồn mình
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng có nghĩa là hại dân, hại nước.

[_mce_style="color: #000080;"]Rất hoan nghênh ông Thủ tướng đã lên tiếng
[_mce_style="color: #000080;"]                              bảo vệ chủ quyền Tổ quốc (*)
[_mce_style="color: #000080;"]Lên án bọn Tàu xâm phạm địa phận biển Đông ta!...
[_mce_style="color: #000080;"]Tội lỗi thay những ai chỉ biết co ro,
[_mce_style="color: #000080;"]                      khi giặc vào để chiếm nhà?
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu Đảng không còn đủ đức tin với giống nòi
[_mce_style="color: #000080;"]Cấp thiết phải thay bằng con đường dân chủ.

[_mce_style="color: #000080;"]Sinh mạng bao chiến sỹ hải đảo và máu nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]                                    vẫn đổ nơi biển trời xứ sở
[_mce_style="color: #000080;"]Nhìn cảnh bọn Tàu cậy mạnh ức hiếp mình,  
[_mce_style="color: #000080;"]                             không khác gì một lũ sói lang
[_mce_style="color: #000080;"]Hoà bình đấy mà bao hờn căm uất hận
[_mce_style="color: #000080;"]Với thằng Tàu - Bản chất chúng là không có anh em!
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                            II-

[_mce_style="color: #000080;"]Ta sẵn sàng đối xử hiền hoà
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu chúng biết tôn trọng chủ quyền ta,
[_mce_style="color: #000080;"]                                 hòa hảo làm ăn đều có lợi.
[_mce_style="color: #000080;"]Không cần úp mở gì: Chúng chỉ lui nhường,
[_mce_style="color: #000080;"]                              một khi không nuốt nổi ta!
[_mce_style="color: #000080;"]Ừ, thì cả hai bên cùng đóng kịch, diễn trò
[_mce_style="color: #000080;"]Miễn rằng: Nếu anh biết tôn trọng tôi…
[_mce_style="color: #000080;"]                  tôi cũng sẽ tôn trọng anh, là được.

[_mce_style="color: #000080;"]Cậy nước lớn
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng chỉ muốn nuốt sống, ăn tươi người khác.
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ thù lớn kề sát cạnh ta
[_mce_style="color: #000080;"]       vừa thâm độc, tính lại bẩn như loài cầm thú.
[_mce_style="color: #000080;"]Muốn đất nước, dân tộc mình
[_mce_style="color: #000080;"]Không phải nhấn chìm mãi
[_mce_style="color: #000080;"]                          trong cảnh máu xương nhuộm đỏ?
[_mce_style="color: #000080;"]Xã hội phải thật sự có nhân quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Để liên minh với nước Mỹ hùng cường
[_mce_style="color: #000080;"]              cùng bầu bạn, anh em trên trường quốc tế!

[_mce_style="color: #000080;"]Bản thân tôi đã vào đảng nơi chiến trường
[_mce_style="color: #000080;"]Trải qua ba lần đạn bom bắn vào cơ thể
[_mce_style="color: #000080;"]Là ba lần máu đổ với mấy mảnh xương tan
[_mce_style="color: #000080;"]May không chết, được Đảng kết nạp ngay trên chốt.
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu ở đến bây giờ,
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng phải hơn 40 năm là người trong tổ chức?
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng tôi đã xin ra khỏi Đảng.

[_mce_style="color: #000080;"]"Tượng thần tự do" một đỉnh cao sáng lạn
[_mce_style="color: #000080;"]Ở ngay nước Hoa Kỳ!
[_mce_style="color: #000080;"]Của nhân loại vĩnh hằng…
[_mce_style="color: #000080;"]Con đường ta cần đến, cần đi
[_mce_style="color: #000080;"]Không có đảng độc quyền:
[_mce_style="color: #000080;"]- Trước hết, không phải vì đảng
[_mce_style="color: #000080;"]Mà phải vì Nhân dân - Tổ quốc!

[_mce_style="color: #000080;"]ÔI, biển đảo quê hương ta ngàn năm tha thiết
[_mce_style="color: #000080;"]Chưa bao giờ được yên bình, đầy bão táp phong ba.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                                Hà Nội - 6/2014
[_mce_style="color: #000080;"]      
[_mce_style="color: #000080;"](*)   Trong cuộc họp báo quốc tế tại Philippines ngày 22/5/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có tuyên bố trước toàn thế giới, rằng: “ Việt Nam không đánh đổi chủ quyền lấy một thứ hoà bình, hữu nghị viển vông…” - Nhưng rồi lời nói của ông cũng chỉ là sáo rỗng? 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]      NGƯỜI LÍNH TRẬN NĂM XƯA
             NGHĨ VỀ NGÀY 30-4


[_mce_style="color: #000080;"]Tôi không bật vô tuyến để coi lễ duyệt binh ở Sài Gòn
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng không xem bắn pháo hoa ngoài Hà Nội
[_mce_style="color: #000080;"]Sống giữa Thủ đô mà lòng buồn không tả nổi
[_mce_style="color: #000080;"]" 30 - 4 " đâu có phải là ngày chung của dân tộc Việt Nam?

[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ là dân mình giết nhau
[_mce_style="color: #000080;"]                    lập lên một chính thể chưa có nhân quyền
[_mce_style="color: #000080;"]"Chủ nghĩa xã hội" gì đâu? "mèo mả gà đồng"…
[_mce_style="color: #000080;"]Nước non đầy rẫy những quan tham
[_mce_style="color: #000080;"]Cưỡng chế, chiếm đất của dân, đục khoét trăm đường,
[_mce_style="color: #000080;"]                            tàn phá quốc gia hơn những thằng phá hoại.
[_mce_style="color: #000080;"]Cái tên Nhà nước do dân, vì dân...
[_mce_style="color: #000080;"]                             phải chăng cũng chỉ là giả dối?

[_mce_style="color: #000080;"]Chí ít hãy trả cho ta một bầu trời
[_mce_style="color: #000080;"]                      có luật pháp, nhân quyền, tự do như nước Mĩ
[_mce_style="color: #000080;"]Văn nghệ sĩ ta không cần "đảng trị" trên tác phẩm của mình
[_mce_style="color: #000080;"]"Nhân văn giai phẩm" xưa, chính là ngọn cờ
[_mce_style="color: #000080;"]                                                     đòi quyền sống thiêng liêng
[_mce_style="color: #000080;"]Thôi ! Bỏ Tổng bí thư đi
[_mce_style="color: #000080;"]Hoặc giả như hàng loạt nước Âu Châu mà bầu ra Tổng thống. (1)

[_mce_style="color: #000080;"]Lấy ngọn cờ tư bản mà đi...
[_mce_style="color: #000080;"]Thế lực nào không mang lại quyền sống cần thiết cho dân nghèo
[_mce_style="color: #000080;"]Đạp bỏ.
[_mce_style="color: #000080;"]Nguyên thủ nào yếu hèn, cấu kết, uốn gối trước giặc Tàu
[_mce_style="color: #000080;"]Mở đường cho dân Tàu tràn vào
[_mce_style="color: #000080;"]                            ngông cuồng chiếm đất, lấn át dân ta
[_mce_style="color: #000080;"]Đạp bỏ.
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ nào lợi dụng thế lực chính quyền
[_mce_style="color: #000080;"]                                bức chế sự tự do của văn nghệ sĩ
[_mce_style="color: #000080;"]Đạp bỏ.
[_mce_style="color: #000080;"].....

[_mce_style="color: #000080;"]Nghĩa là ông Tổng thống phải đem sinh mạng mình ra
[_mce_style="color: #000080;"]                                                          hành trình trước quốc dân
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu làm tổn hại nước non,
[_mce_style="color: #000080;"]                                            sẽ phải xử như một tội nhân dân tộc.

[_mce_style="color: #000080;"]Ôi đất nước,
[_mce_style="color: #000080;"]Con úp mặt lên mảnh đất của Người
[_mce_style="color: #000080;"]                        thấm đầy máu giống nòi và nước mắt
[_mce_style="color: #000080;"]Tổ quốc có bao giờ buồn thế này không?
[_mce_style="color: #000080;"]Tôi đã đi suốt Trường Sơn
[_mce_style="color: #000080;"]                                         đến khi kết thúc chiến tranh
[_mce_style="color: #000080;"]Hiến cả tuổi thanh xuân. Cứ ngỡ
[_mce_style="color: #000080;"]                          mình đã góp phần hy sinh vì Tổ quốc
[_mce_style="color: #000080;"]Có ai ngờ lại mang mối thảm sầu
[_mce_style="color: #000080;"]                          cho hàng triệu người, nửa nước? (2) 
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy mở một "Hội nghị Diên Hồng" để hỏi dân:
[_mce_style="color: #000080;"]Có nên cho Đảng cộng sản vẫn nắm quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Hay chính phủ cần đa đảng?
[_mce_style="color: #000080;"]Thế kỉ XXI rồi
[_mce_style="color: #000080;"]Xã hội con người phải có mọi quyền tự do cuộc sống
[_mce_style="color: #000080;"]Chính thể nào trấn áp nhân quyền của ta
[_mce_style="color: #000080;"]                                         thì đào mồ chôn lấp nó đi.

[_mce_style="color: #000080;"]                                     * * *
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Người lính trận năm xưa
[_mce_style="color: #000080;"]                                 lớn lên trên mảnh đất nghèo quê
[_mce_style="color: #000080;"]Mơ một giấc mơ bình thường, rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]Dân mình sẽ được sống tự do bằng con đường Tư bản.

[_mce_style="color: #000080;"]                           Hà Nội - Đêm 30/4/2015
[_mce_style="color: #000080;"]   
[_mce_style="color: #000080;"](1)   Cuối năm 1990-1991 toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Âu Châu bị sụp đổ,
[_mce_style="color: #000080;"]      để thay bằng một thể chế khác.
[_mce_style="color: #000080;"](2)   Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói về ngày 30- 4 rằng :
[_mce_style="color: #000080;"]          "Có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn".      
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]      HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐÃ TRỞ THÀNH
                  NỖI NHỤC CỦA QUỐC GIA


[_mce_style="color: #000080;"]Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
[_mce_style="color: #000080;"]Khi cái danh hội viên Hội nhà văn đã trở thành nhơ nhớp
[_mce_style="color: #000080;"]Hàng loạt các nhà văn cội gạo tuyên bố từ bỏ Hội
[_mce_style="color: #000080;"]Như rũ bỏ một chiếc áo lâu ngày lấm lem, rơm rác. (1)
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Ý Nhi không thể ở lại, vì kẻ lãnh đạo Hữu Thỉnh
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ là hiện thân của một con "biến hình trùng"...    
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng lồng lộn dã tâm tim cách thanh trừng
[_mce_style="color: #000080;"]Những anh em trong "Văn đoàn độc lập"...  (2)
[_mce_style="color: #000080;"]Như Nhà nước và Đảng cộng sản từng đàn áp
[_mce_style="color: #000080;"]                                nhân văn giai phẩm năm xưa
[_mce_style="color: #000080;"]Ngọn cờ đầu sáng chói ngàn thu
[_mce_style="color: #000080;"]            của văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do.

[_mce_style="color: #000080;"]Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
[_mce_style="color: #000080;"]Nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo:
[_mce_style="color: #000080;"]Lãnh đạo Hội đã vi phạm hiến pháp,
[_mce_style="color: #000080;"]                 sự tự do sáng tác, nhân quyền của nhà văn
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ thì bảo: người tử tế không ở lại làm bia chắn cho Hội nhà văn
[_mce_style="color: #000080;"]Dư Thị Hoàn tuyên bố:
[_mce_style="color: #000080;"]                            Hội nhà văn đã biến ra... "sợt rác".
[_mce_style="color: #000080;"]Ôi, cái gọi là Hội nhà văn Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Thảm hại hơn bao giờ hết!
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nhà thơ Bùi Minh Quốc lên án
[_mce_style="color: #000080;"]                                    HNVVN ngày càng sa đọa
[_mce_style="color: #000080;"]Tiêu xài phung phí tiền thuế đóng góp của nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Hội viên càng đông thì chất lượng càng thấp.
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng "con biến hình trùng" Hữu Thỉnh
[_mce_style="color: #000080;"]                                             vẫn phồng mang trợn mắt:
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng ta nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng?
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng ta hãnh diện khi được làm...
[_mce_style="color: #000080;"]                                   nô lệ tiên phong cho Đảng?
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy đổi tên thành Hội nhà văn của Đảng cộng sản.
[_mce_style="color: #000080;"]Để khỏi làm nhục nhã quốc gia
[_mce_style="color: #000080;"]Khỏi làm ố danh cho cả Tổ quốc Việt Nam ta!

[_mce_style="color: #000080;"]Hội nay như quái thai của Đảng cộng sản cầm quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Sặc sụa mùi nô bộc
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng coi đường hướng văn chương
[_mce_style="color: #000080;"]                       chỉ là nói theo Đảng như con vẹt
[_mce_style="color: #000080;"]Nên cả một thời tác phẩm văn học hầu hết thấp ngang bồn-toa-lét
[_mce_style="color: #000080;"]Nhổ bọt vào cái danh hội viên HNVVN đã thành nhơ nhớp.

[_mce_style="color: #000080;"]Mồm hô hào yêu nước
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng khi biển Đông bị giặc Tàu xông vào ăn cướp
[_mce_style="color: #000080;"]                                   đánh phá dân chài, bắn giết chiến sỹ ta 
[_mce_style="color: #000080;"]Lãnh đạo Hội lại sợ sệt né tránh
[_mce_style="color: #000080;"]                                 không dám động đến lũ Tàu-ô...
[_mce_style="color: #000080;"]Có nghĩa là để cầu thân mà bỏ nước?
[_mce_style="color: #000080;"]Có khác gì phản lại nhân dân?
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nghĩa là HNVVN thành "cái đít" của Đảng!
[_mce_style="color: #000080;"]Nghĩa là cái đít của Đảng
[_mce_style="color: #000080;"]                      là cái mồm văn nghệ sĩ của Hội nhà văn
[_mce_style="color: #000080;"]Nghĩa vụ của Hội nhà văn là phải ca ngợi... "cái đít"!
[_mce_style="color: #000080;"]Tác phẩm của Hội nhà văn trọng tâm là ca ngợi... "cái đít"!
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng bảo thơm là thơm
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng bảo thối là thối
[_mce_style="color: #000080;"]Mà dẫu có thối nhưng Đảng bảo rằng... thơm,
[_mce_style="color: #000080;"]                    văn nghệ sĩ của Hội vẫn phải nói là “thơm”.

[_mce_style="color: #000080;"]Các nhà thơ, nhà văn của Hội phải thi nhau ngửi mà ca ngợi
[_mce_style="color: #000080;"]Phải tuyên truyền cho mọi người cùng ngửi và ca ngợi
[_mce_style="color: #000080;"]Thối đấy! Nhưng vẫn phải nói
[_mce_style="color: #000080;"]                          nó đẹp như hoa hồng, thơm tựa hoa lay-ơn
[_mce_style="color: #000080;"]Tóm lại, tác phẩm của Hội nhà văn chỉ được phép ngợi ca... "cái đít"!

[_mce_style="color: #000080;"]Còn ai muốn xin vào Hội nhà văn Việt Nam nữa không?
[_mce_style="color: #000080;"]Khi cái danh hội viên Hội nhà văn đã trở thành nhơ nhớp
[_mce_style="color: #000080;"]Chắc rồi Hội sẽ tuyển mộ hàng loạt hội viên
[_mce_style="color: #000080;"]Là những mớ văn chương xóm, phường, ba-lăng-nhăng hợp tác
[_mce_style="color: #000080;"]Đứa đốn mạt nào còn định đút tiền
[_mce_style="color: #000080;"]                                để chạy vào Hội nhà văn sọt rác
[_mce_style="color: #000080;"]Nó phải ngu hơn lợn!

[_mce_style="color: #000080;"]                                           Hà Nội, tháng 6 - 2015

[_mce_style="color: #000080;"](1)   Ngày 11- 5 - 2015 đồng loạt 20 nhà văn, nhà thơ đã tuyên bố... từ bỏ  HNVVN.
[_mce_style="color: #000080;"](2)   Ngày 5 - 5 - 2015 tại Hội nghị của Hội nhà văn TP. HCM - Lãnh đạo HNVVN đã chỉ đạo
[_mce_style="color: #000080;"]gạch tên 9 người đang sinh sống tại TP. HCM (trong tổng số 26 người toàn quốc), đã tham gia "Văn đoàn độc lập"... không được làm đại biểu đi dự Đại Hội HNVVN sẽ diễn ra vào tháng 7/2015 - Nhằm "loại bỏ" để thanh trừng những hội viên tham gia trong Văn đoàn độc lập Việt Nam. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]          NGƯỜI CHƠI MƯA
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tặng Chủ tịch Hữu Thỉnh
[_mce_style="color: #000080;"]                      và Ban chấp hành HNVVN

[_mce_style="color: #000080;"]Mưa dại, mưa khôn, mưa rừng, mưa rú
[_mce_style="color: #000080;"]Mưa mãi rồi võng mái nhà tôi
[_mce_style="color: #000080;"]Tiểu tiện vào mưa làm cái thú người
[_mce_style="color: #000080;"]Nước này trắng hơn hay các thứ mưa
[_mce_style="color: #000080;"]                     của Hội nhà văn qua làng, qua phố?

[_mce_style="color: #000080;"]Ta lấy mưa chơi cho thoả chí
[_mce_style="color: #000080;"]Sao lu hết rồi, ếch nhái nhảy tứ tung
[_mce_style="color: #000080;"]Ngẫm khúc mưa nay mà thấy lạ lùng
[_mce_style="color: #000080;"]Khi gió giật lung tung,
[_mce_style="color: #000080;"]                   lúc lại lầm rầm như thằng lẫn.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Xem các thứ mưa hò reo làm trò quẫn
[_mce_style="color: #000080;"]Điệp khúc nào nghe mãi cũng nhàm tai
[_mce_style="color: #000080;"]Mới lấy mưa để mưa chơi
[_mce_style="color: #000080;"]Nhìn các loại: Chủ tịch, Hội đồng…
[_mce_style="color: #000080;"]          rặt những phường chèo múa may thơ phú.

[_mce_style="color: #000080;"]Hữu ý - vô tình: ai biết ai nhân bản?
[_mce_style="color: #000080;"]Họ lên diễn đàn còn tôi đứng chơi mưa
[_mce_style="color: #000080;"]Tiểu tiện vào mưa như một trò đùa
[_mce_style="color: #000080;"]Oàm oạp quanh hồ tai nghe toàn chão chuộc.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                     Mùa xuân, 2014 
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]    BÀI CA ÔNG TÂN CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN

[_mce_style="color: #000080;"]Ông Tân Chủ tịch ơi! Sao ông tham lam thế?
[_mce_style="color: #000080;"]Hay sợ hết quyền rồi, đời sẽ dẫm đạp lên ông...
[_mce_style="color: #000080;"]Gọi ông là "tân", thật ra thì đã cũ mèm.
[_mce_style="color: #000080;"]Bốn khóa - hai mươi năm
[_mce_style="color: #000080;"]Cả linh hồn, trí não ông đều rách nát.

[_mce_style="color: #000080;"]Ông trơ trẽn tới mức không cần nhân cách
[_mce_style="color: #000080;"]Mặt ông mo rồi, máu cũng đã hơi tanh...
[_mce_style="color: #000080;"]Ông lãnh đạo Hội nhà văn mà suy yếu toàn phần
[_mce_style="color: #000080;"]Tổ chức thì hỗn mang,
[_mce_style="color: #000080;"]                          nền văn học nước nhà thấp kém.

[_mce_style="color: #000080;"]Ông giỏi nịnh Đảng để lấy tiền nhà nước
[_mce_style="color: #000080;"]Khéo bầy trò tổ chức tiêu pha
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy nhớ! Đây là tiền đóng thuế, tiền máu của dân ta
[_mce_style="color: #000080;"]Không phải để cho Hội nhà văn tiêu xài, không kết quả?

[_mce_style="color: #000080;"]Khi dùng trao giải thưởng văn chương
[_mce_style="color: #000080;"]            thì tư lợi, cửa quyền, đầy những mánh mung
[_mce_style="color: #000080;"]Thẩm định tác phẩm đa phần thấp kém và bậy bạ.
[_mce_style="color: #000080;"]Lúc hội thảo thơ "tân con cóc" (1)
[_mce_style="color: #000080;"]                         lại hùa nhau hò reo, hỉ hả
[_mce_style="color: #000080;"]Ai muốn vào Hội nhà văn... phải chạy chọt, đút tiền
[_mce_style="color: #000080;"]Xem ra, ông có tội nhiều hơn công thì phải?

[_mce_style="color: #000080;"]Hàng loạt các hội viên
[_mce_style="color: #000080;"]                  ngán ngẩm ông mà bỏ ra khỏi Hội (2)
[_mce_style="color: #000080;"]Vì quyền sống tự do chân chính của con người
[_mce_style="color: #000080;"]Không phải lũ nô bộc viết thuê!
[_mce_style="color: #000080;"]Hội nhà văn giờ bung bét
[_mce_style="color: #000080;"]                                 có khác gì một bãi tha ma?
[_mce_style="color: #000080;"]Ông trát trấu, bôi tro vào mặt mình
[_mce_style="color: #000080;"]Ngẩng lên thẹn trời, cúi đầu ngượng đất.

[_mce_style="color: #000080;"]Ham hố quyền vị nhất thời, thơ phú vứt vào sọt rác
[_mce_style="color: #000080;"]Là văn nghệ sĩ thường cầu danh thơm để nghìn thu ?
[_mce_style="color: #000080;"]Phải chăng ông cũng chỉ một tên cơ hội "đục nước béo cò"...
[_mce_style="color: #000080;"]Mãi mãi về sau nền văn học này
[_mce_style="color: #000080;"]Đời sẽ bêu riếu tên ông...
[_mce_style="color: #000080;"]Dấu hoen nhục, ông định rửa bao giờ cho sạch ?
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                                  Hà Nội, tháng 7- 2015

[_mce_style="color: #000080;"](1)  Thơ "tân con cóc": mượn chữ của Trần Mạnh Hảo
[_mce_style="color: #000080;"](2)   Ngày 11- 5 - 2015 đồng loạt 20 nhà văn, nhà thơ... sau này tiếp tục còn một số hội viên khác nữa, đã tuyên bố từ bỏ  HNVVN. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                 BÀI CA TƯỢNG ĐÀI HỒ CHÍ MINH

[_mce_style="color: #000080;"]Tôi lại viết bài thơ đất nước
[_mce_style="color: #000080;"]Đất nước đã mạt và buồn
[_mce_style="color: #000080;"]Nhìn lên bầy quan tham
[_mce_style="color: #000080;"]Chế độ thì băng hoại
[_mce_style="color: #000080;"]Trông xuống oan khuất chốn dân tình
[_mce_style="color: #000080;"]                              ngập trong bao kiếp đời khổ ải.

[_mce_style="color: #000080;"]Ông Hồ Chí Minh ơi! Ông khóc hay ông cười?
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng đang đua nhau lấy trăm nghìn tỷ
[_mce_style="color: #000080;"]                                                 dựng tượng đài ông...
[_mce_style="color: #000080;"]Đấy là tiền thuế, máu của nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Con cháu đang bám vào cái xác của ông
[_mce_style="color: #000080;"]Để đầu cơ chính trị, tàn phá nước non.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Ông có nghe tiếng dân bao miền oán than
[_mce_style="color: #000080;"]Bao làng quê vẫn vô cùng nghèo khổ
[_mce_style="color: #000080;"]Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc
[_mce_style="color: #000080;"]Trẻ thơ chưa đủ trường để học
[_mce_style="color: #000080;"]Người ốm đau bệnh tật thiếu bệnh xá, thuốc men
[_mce_style="color: #000080;"]Mà chúng còn định dùng 1.400 tỷ
[_mce_style="color: #000080;"]                                         để dựng tượng đài ông
[_mce_style="color: #000080;"]Máu và nước mắt dân đen ngập tràn trong đó...
[_mce_style="color: #000080;"]Làm sao nuốt nổi, ông ơi?

[_mce_style="color: #000080;"]Ông khóc hay ông cười?
[_mce_style="color: #000080;"]Bọn tham nhũng đang bám vào tượng đài ông mà phá nước
[_mce_style="color: #000080;"]Đẩy nền kinh tế xã hội tới kiệt cùng
[_mce_style="color: #000080;"]Nợ vay nước ngoài ngày càng chồng chất
[_mce_style="color: #000080;"]Có ai nghĩ: Theo chủ nghĩa Marx - Lenin lại sai đường, lạc bước?  (*)
[_mce_style="color: #000080;"]Có ai nghĩ: Chính chủ nghĩa tư bản
[_mce_style="color: #000080;"]                                   mới là con đường đưa dân tộc đi lên!
[_mce_style="color: #000080;"]Giá khi đó ông đừng thân Tàu,
[_mce_style="color: #000080;"]                                  mà thân Mỹ có hơn không!?

[_mce_style="color: #000080;"]Hôm nay chúng định dùng 1.400 tỷ dựng tượng đài ông
[_mce_style="color: #000080;"]Giáo sư Ngô Bảo Châu thì bảo:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Nếu không thần kinh cũng là đồ khốn nạn!
[_mce_style="color: #000080;"]Mà không phải chỉ một thằng khốn nạn
[_mce_style="color: #000080;"]Trong chính phủ, trung ương liệu đếm có hết tên?

[_mce_style="color: #000080;"]Ông có thấy không? Những bọn cẩu quan
[_mce_style="color: #000080;"]Tàn hại giống nòi
[_mce_style="color: #000080;"]Nên khóc hay nên cười…
[_mce_style="color: #000080;"]Chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít
[_mce_style="color: #000080;"]                         đang hoàn toàn sụp đổ, ông ơi! (*)
[_mce_style="color: #000080;"]1.400 tỷ để dựng tượng đài
[_mce_style="color: #000080;"]Liệu ông có nuốt trôi?

[_mce_style="color: #000080;"]Mà ông cũng chỉ được một phần
[_mce_style="color: #000080;"]Ai nói chúng sẽ không chia nhau, lại quả?
[_mce_style="color: #000080;"]Hậu duệ giờ quá nhiều "phường mèo mả..."
[_mce_style="color: #000080;"]Ông Hồ Chí Minh ơi!

[_mce_style="color: #000080;"]                       Hà Nội. Tháng 8 - 2015
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](*) Chính đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: đến cuối thế kỉ XXI này, không biết có còn CNXH không? 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]        NGHĨ VỀ NHỮNG TƯỢNG ĐÀI LÊ NIN
                      BỊ GIẬT ĐỔ Ở NGA


[_mce_style="color: #000080;"]Ukraine, Kharkiv, Kiev... cùng các quốc gia vùng Baltic...
[_mce_style="color: #000080;"]Hàng trăm tượng đài Lê Nin
[_mce_style="color: #000080;"]                          bị nhân dân giật đổ không thương tiếc
[_mce_style="color: #000080;"]Chủ Nghĩa Mác-Lê chưa thành thân đã hết thời
[_mce_style="color: #000080;"]Cả xã hội loài người lên án.

[_mce_style="color: #000080;"]                                    I-

[_mce_style="color: #000080;"]Cách mạng vô sản: một cuộc chiến tranh phi lý
[_mce_style="color: #000080;"]                                                      đời đời còn phỉ báng
[_mce_style="color: #000080;"]Tắm nhân loại vào những vũng máu tàn khốc, đau thương
[_mce_style="color: #000080;"]Vì ông - Lê Nin: nhân dân Nga phải đổ bao máu xương
[_mce_style="color: #000080;"]Để giành lại
[_mce_style="color: #000080;"]Một nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo, cầm quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Chính phủ, trung ương biến thành những tập đoàn lũng loạn
[_mce_style="color: #000080;"]Tham nhũng, cửa quyền, vô nhân đạo
[_mce_style="color: #000080;"]Hành tiến con đường xã hội chủ nghĩa tha hoá, hủ lậu
[_mce_style="color: #000080;"]Đời sống xã hội dân Nga trở nên tồi tệ, bần cùng
[_mce_style="color: #000080;"]Kéo lùi lịch sử nước Nga...
[_mce_style="color: #000080;"]             không bằng thời Nga tư bản dã thú ngày xưa.

[_mce_style="color: #000080;"]Vào những năm 90 - Xô Viết Nga và toàn bộ
[_mce_style="color: #000080;"]                                      khối XHCN Đông Âu sụp đổ.
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu không có ông - Lê Nin
[_mce_style="color: #000080;"]Nước Nga... cứ tiến theo con đường tư bản Nga lúc đó
[_mce_style="color: #000080;"]Thì giờ chắc cũng sẽ không thua kém Mỹ!
[_mce_style="color: #000080;"]Chính ông - Lê Nin: đã kéo nước Nga tụt lại hàng thế kỷ...
[_mce_style="color: #000080;"]Chính ông - Lê Nin: đã đẩy nước Nga vào con đường "chết"...
[_mce_style="color: #000080;"]Chính ông - Lê Nin: một trùm cộng sản
[_mce_style="color: #000080;"]                              trở thành tội đồ hại nước, hại non.

[_mce_style="color: #000080;"]Cho dù nay nhân dân Nga đã và đang
[_mce_style="color: #000080;"]                        giật đổ hàng trăm tượng đài ông
[_mce_style="color: #000080;"]Những tượng đài
[_mce_style="color: #000080;"]Khi đó người ta phải bỏ ra hàng triệu triệu đô-la
[_mce_style="color: #000080;"]Bằng tiền thuế, máu của dân Nga mà xây dựng
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ còn lại một đống phế liệu hoang tàn
[_mce_style="color: #000080;"]Ôi, những tượng đài Lê Nin
[_mce_style="color: #000080;"]Đến chết vẫn còn làm
[_mce_style="color: #000080;"]                              tổn hại tiền của của nhân dân.

[_mce_style="color: #000080;"]Không chỉ nước Nga
[_mce_style="color: #000080;"]Mà bao quốc gia
[_mce_style="color: #000080;"]Bao dân thuộc địa theo ông làm cuộc chiến tranh
[_mce_style="color: #000080;"]Cuộc cách mạng vô sản đẫm máu, đau thương và phi lý
[_mce_style="color: #000080;"]Tắm máu triệu triệu người dân
[_mce_style="color: #000080;"]Để xây dựng một chính thể XHCN vô nhân, bất nghĩa
[_mce_style="color: #000080;"]Chính ông - Lê Nin: đã trở thành một tội đồ quốc tế!

[_mce_style="color: #000080;"]                                        II-

[_mce_style="color: #000080;"]Nhớ khi xưa Đảng vẫn dậy ta:
[_mce_style="color: #000080;"]" Chủ nghĩa tư bản dẫy chết - Chủ nghĩa xã hôi ưu Việt " ???
[_mce_style="color: #000080;"]Xem ra toàn những lời ma
[_mce_style="color: #000080;"]Ma cà rồng
[_mce_style="color: #000080;"]CNTB không những không dẫy chết mà thăng hoa
[_mce_style="color: #000080;"]CNXH lần lượt bị đánh đổ và thối nát
[_mce_style="color: #000080;"]Cho nên
[_mce_style="color: #000080;"]Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng (1)
[_mce_style="color: #000080;"]Phải lần lượt sang Mỹ cầu cứu Obama
[_mce_style="color: #000080;"]Vì sao?
[_mce_style="color: #000080;"]Vì CNXH như con rắn nhiều đầu phun nọc độc
[_mce_style="color: #000080;"]Sinh ra những lớp quan lại hoá lưu manh
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản cầm quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Những "đầy tớ nhân dân" giàu nứt đố đổ vách
[_mce_style="color: #000080;"]                                                   như các đế vương
[_mce_style="color: #000080;"]Tham nhũng, độc quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ bám gót giặc Tàu hại nước
[_mce_style="color: #000080;"]Chà đạp lại giai cấp cần lao
[_mce_style="color: #000080;"]Đàn áp dân chủ và nhân quyền dân tộc.

[_mce_style="color: #000080;"]Bản cáo chung toàn nhân loại vang lên:
[_mce_style="color: #000080;"]Rằng, chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít phải hoàn toàn sụp đổ!
[_mce_style="color: #000080;"]Goóc Ba Chốp , Đặng Tiểu Bình
[_mce_style="color: #000080;"]                           đều đã được tặng thưởng giải nobel
[_mce_style="color: #000080;"]Vì đã có công góp phần với loài người
[_mce_style="color: #000080;"]                          sớm đánh gục chủ nghĩa Marx - Lenin ! (2)
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ còn lại Việt Nam, Cu Ba
[_mce_style="color: #000080;"]Chủ nghĩa xã hội hiện hình như những bóng ma
[_mce_style="color: #000080;"]Thoi thóp và dẫy chết.

[_mce_style="color: #000080;"]                                        *

[_mce_style="color: #000080;"]Không chỉ tượng đài Lê Nin
[_mce_style="color: #000080;"]Mà nhiều tượng đài
[_mce_style="color: #000080;"]          các lãnh tụ Đảng cộng sản trên thế giới (3)
[_mce_style="color: #000080;"]Bị nhân dân giật đổ cả rồi.
[_mce_style="color: #000080;"]Người ta đặt câu hỏi:
[_mce_style="color: #000080;"]Vậy tượng đài Hồ Chí Minh rồi sẽ ra sao
[_mce_style="color: #000080;"] Một khi CNXH ở Việt Nam đã không còn?
[_mce_style="color: #000080;"]Như hồi 1990 - Đông Đức mất vào tay Tây Đức
[_mce_style="color: #000080;"]Người ta cũng giật đổ những tượng đài của Marx.

[_mce_style="color: #000080;"]" Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá
[_mce_style="color: #000080;"]Những nhiệt tình xuống quá độ âm! " (4)
[_mce_style="color: #000080;"]Hỡi những nhà lãnh đạo chóp bu
[_mce_style="color: #000080;"]                            của Đảng cộng sản Việt Nam!
[_mce_style="color: #000080;"]Có tham nhũng cũng không nên
[_mce_style="color: #000080;"]                          bám vào cái xác của người đã chết?
[_mce_style="color: #000080;"]Mà lại quả, chia nhau…
[_mce_style="color: #000080;"]Nhất là khi nhân dân còn quá khổ nghèo, đói khát
[_mce_style="color: #000080;"]Thì dẫu linh hồn có sa xuống chín tầng địa ngục sâu
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng không gột sạch được lỗi lầm.

[_mce_style="color: #000080;"]                                   Hà Nội tháng 9/2015
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](1)   Khi đó họ đều là đương kim Thủ tướng, Chủ tịch nước và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.  
[_mce_style="color: #000080;"](2) -  Goóc Ba Chốp nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô. Ông đã được nhận giải nobel hoà bình 1990.
[_mce_style="color: #000080;"]     -  Đặng Tiểu Bình một lãnh tụ tối cao của Đảng cộng sản Trung Quốc, xoá bỏ tư tưởng chủ nghĩa xã hội với câu nói của một chính trị gia, thành một danh ngôn nổi tiếng thế giới: "Mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt chuột tốt".
[_mce_style="color: #000080;"](3)    Theo tin trên mạng: Từ cuối năm 1989 - không chỉ ở 15 nước thuộc Liên Xô cũ, còn nhiều quốc gia khác tại Đông Âu, Mông Cổ, Ghana, Ethiopia, Afghanistan - Hàng ngàn tượng đài các lãnh tụ của Đảng cộng sản đã bị đập phá hoặc giật sập.
[_mce_style="color: #000080;"](4)   Thơ Chế Lan Viên 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]        RƯỚC GIẶC VÀO NHÀ  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng dám mang nghĩa nước non
[_mce_style="color: #000080;"]                                  rước giặc vào nhà
[_mce_style="color: #000080;"](Tập Cận Bình - Tên Thái thú Trung Hoa)
[_mce_style="color: #000080;"]Khác nào Lê Chiêu Thống?
[_mce_style="color: #000080;"]Tôi là một người lính
[_mce_style="color: #000080;"]Thuở chiến tranh đã từng cầm súng
[_mce_style="color: #000080;"]Nhìn chính phủ Việt Nam ươn hèn, đổ đốn
[_mce_style="color: #000080;"]Lại nhớ câu thơ Trần Dần:
[_mce_style="color: #000080;"]" Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ ".

[_mce_style="color: #000080;"]Việt Nam quê hương tôi!
[_mce_style="color: #000080;"]Có bao giờ nhục như thế này không?
[_mce_style="color: #000080;"]Ở trong nước mà như người vong quốc
[_mce_style="color: #000080;"]Máu ta đổ xuống đất này
[_mce_style="color: #000080;"]                         đã thành suối, thành sông
[_mce_style="color: #000080;"]Xương dân tộc chất cao như núi
[_mce_style="color: #000080;"]Để bọn chúng hôm nay
[_mce_style="color: #000080;"]Cắt từng mảnh đất cha ông
[_mce_style="color: #000080;"]                             nhượng đem cho giặc
[_mce_style="color: #000080;"]Tàn hại nước non vơ vàng, vơ bạc
[_mce_style="color: #000080;"]Bán biển trời, bán đảo, phản dân.
[_mce_style="color: #000080;"]Tên Bộ trướng Quốc phòng thì ôm gối Hán gian
[_mce_style="color: #000080;"]Lão Tổng bí thư quì sụp, dạ vâng...
[_mce_style="color: #000080;"]Mà chúng gọi đấy là "hữu nghị"?

[_mce_style="color: #000080;"]Tầu của quân Tàu vào biển đảo mình
[_mce_style="color: #000080;"]                                        bắn giết ngư dân
[_mce_style="color: #000080;"]Đánh phá chiến tầu hải quân ta
[_mce_style="color: #000080;"]Máu bao chiến sỹ trên Trường Sa, Hoàng Sa
[_mce_style="color: #000080;"]                                         ngày đêm vẫn đổ
[_mce_style="color: #000080;"]Thế mà chúng lại coi giặc Tàu là "bố" !?

[_mce_style="color: #000080;"]Hèn với giặc, ác với dân
[_mce_style="color: #000080;"]Công an như thể lũ sài lang
[_mce_style="color: #000080;"]Đàn áp những người biểu tình yêu nước
[_mce_style="color: #000080;"]Một nhà nước mà...
[_mce_style="color: #000080;"]Cơ quan hành pháp như bầy ăn cướp
[_mce_style="color: #000080;"]Giả dạng côn đồ
[_mce_style="color: #000080;"]Đánh đổ máu nhân dân, hành hung các bloger ái quốc
[_mce_style="color: #000080;"]Một quốc thể không còn chính nhân luật pháp.

[_mce_style="color: #000080;"]Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!
[_mce_style="color: #000080;"]Tên Thái thú giặc Tàu
[_mce_style="color: #000080;"]Dám trâng tráo,
[_mce_style="color: #000080;"]            huênh hoang trước Liên Hiệp Quốc
[_mce_style="color: #000080;"]Do tổ tiên cổ đại của hắn - Người Trung Hoa để lại?
[_mce_style="color: #000080;"]Thế mà bọn chúng vẫn đón hắn vào nhà
[_mce_style="color: #000080;"]Rước voi giày mả tổ.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Linh hồn muôn ức triệu người dân
[_mce_style="color: #000080;"]Người đang sống và những người đã khuất
[_mce_style="color: #000080;"]Nhìn Chính phủ dẫm đạp lên cả cha ông
[_mce_style="color: #000080;"]Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Có bao giờ hèn, nhuc thế này không ?

[_mce_style="color: #000080;"]                        *

[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Cái tàn dư cuối cùng
[_mce_style="color: #000080;"]         của chủ nghĩa Marx - Lê trên trái đất
[_mce_style="color: #000080;"]Thực ra nó đã quá thối nát
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ còn lại bộ khung
[_mce_style="color: #000080;"]                      bên trong toàn bọ mà thôi.
[_mce_style="color: #000080;"]Tổng bí thư cuối cùng chăng ?
[_mce_style="color: #000080;"]                               của Đại hội Đảng XII
[_mce_style="color: #000080;"]Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng...
[_mce_style="color: #000080;"]Trên chính trường kẻ nào thắng thế?  (*)

[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân mong đợi
[_mce_style="color: #000080;"]Có một Goóc Ba Chốp mới ở Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Để hoả táng cái tàn dư cuối ấy
[_mce_style="color: #000080;"]                                      của Đảng cộng sản
[_mce_style="color: #000080;"]Như đã từng đạp đổ
[_mce_style="color: #000080;"]            cả khối XHCN Đông Âu khi trước.
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân không mong đợi
[_mce_style="color: #000080;"]Tổng bí thư mới lại là
[_mce_style="color: #000080;"]            một tên Lê Chiêu Thống hèn nhát?
[_mce_style="color: #000080;"]Bám đít giặc Tàu
[_mce_style="color: #000080;"]Biến Tổ quốc Việt Nam thành địa phương Đại Hán.

[_mce_style="color: #000080;"]Các tổ chức chính trị
[_mce_style="color: #000080;"]Nếu còn yêu giang sơn, nòi giống
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy làm một cuộc cách mạng bất bạo động
[_mce_style="color: #000080;"]Để thực hiện một chính phủ đa nguyên, đa đảng
[_mce_style="color: #000080;"]Chôn vùi sự độc tài chính trị của Đảng cộng sản
[_mce_style="color: #000080;"]Vì nền tự do, dân chủ, nhân quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Vì quê hương yêu dấu, bờ cõi được yên bình
[_mce_style="color: #000080;"]Tổ quốc Việt Nam ơi!

[_mce_style="color: #000080;"]                              Viết đúng ngày
[_mce_style="color: #000080;"]              Tên Thái thú Tập Cận Bình vào Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]                             Hà Nội, 5/11/2015
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](*) Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam XII vào cuối tháng 1/2016 phái thân Tàu đã thắng thế: Nguyễn Phú Trọng được tái nhiệm làm Tổng bí thư đảng - Thủ tướng Nguyễn Tần Dũng bị thất thế phải về vườn. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]            BARACK OBAMA NGƯỜI BẠN LỚN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

[_mce_style="color: #000080;"]Giá như ông Tổng bí thư của Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Có được tấm lòng với nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]                                bằng một phần ông ấy?

[_mce_style="color: #000080;"]Hỡi những kẻ hại dân, hại nước!
Hãy dỏng ai mà nghe

[_mce_style="color: #000080;"]Mở mắt mà nhìn
[_mce_style="color: #000080;"]Bài diễn văn ông Obama đọc ở Mỹ Đình
[_mce_style="color: #000080;"]Hôm 24 tháng 5
[_mce_style="color: #000080;"]Trước 4.000 trí thức, sinh viên
[_mce_style="color: #000080;"]Rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận
Tự do báo chí
Quyền hội họp và quyền biểu tình...
Đó cũng là trong hiến pháp Việt Nam.
Rằng, cũng ông Obama nói:
-  Duy trì các quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất
Của nền độc lập
Rất nhiều quốc gia trân trọng
Kể cả tại đây,
Một quốc gia tự tuyên bố là
            "của Dân, do Dân và vì Dân".


[_mce_style="color: #000080;"]Giờ chúng phản lại nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Đi ngược lại cả hiến pháp Việt Nam.

[_mce_style="color: #000080;"]                    ***

[_mce_style="color: #000080;"]Sao có thứ lực lượng vũ trang
[_mce_style="color: #000080;"]Mặc quần áo thanh niên xung phong
[_mce_style="color: #000080;"]Hung hãn như lũ hồng-vệ-binh Tàu cộng
[_mce_style="color: #000080;"]Vặn cổ, đè đầu, đánh đập nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Cả bà già, trẻ con
[_mce_style="color: #000080;"]Như loài chó má!
[_mce_style="color: #000080;"]Đấy là cha, là mẹ, là vợ, là anh, là chị,
[_mce_style="color: #000080;"]                                         là em của các ngươi
[_mce_style="color: #000080;"]Ai nuôi các ngươi nên người?
[_mce_style="color: #000080;"]Sao còn dám mệnh danh là công an nhân dân?
[_mce_style="color: #000080;"]Ôi, cái bộ máy công quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Bức áp dân tình,
[_mce_style="color: #000080;"]Đục khoét tàn phá quốc gia khác nào phản tặc?

[_mce_style="color: #000080;"]Biển bị đầu độc
[_mce_style="color: #000080;"]Hàng nghìn tấn cá chết xác ngập đầy bờ cát
[_mce_style="color: #000080;"]Dân 4 tỉnh miền Trung bị đầu độc
[_mce_style="color: #000080;"]Cả dân tộc Việt Nam đang bị đầu độc
[_mce_style="color: #000080;"]Người dân đấu tranh
[_mce_style="color: #000080;"]"Cá cần nước sạch. Dân cần Nhà nước minh bạch"
[_mce_style="color: #000080;"]Đó là tiếng kêu thét của một dân tộc đang bức bách...
[_mce_style="color: #000080;"]Đó là tiếng kêu thét của những người yêu nước...
[_mce_style="color: #000080;"]Bọn bay là ai?
[_mce_style="color: #000080;"]Bạn bay là lũ cầm thú gì?
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân biểu tình, đấu tranh
[_mce_style="color: #000080;"]Còn chính vì sự phản bội lại dân tộc, nước non
[_mce_style="color: #000080;"]Của bè lũ nhà ngươi nữa đấy!

[_mce_style="color: #000080;"]                        ***

[_mce_style="color: #000080;"]"Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá
Những nhiệt tình xuống quá độ âm
" (*)

[_mce_style="color: #000080;"]Tên bám gót theo Tàu lòng dạ vô lương
[_mce_style="color: #000080;"]Trâng trâng tuyên bố:
[_mce_style="color: #000080;"]       "Dân chủ đến thế là cùng"...
[_mce_style="color: #000080;"]Mở mồm nói hữu nghị Việt-Trung
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng bản chất việc làm
[_mce_style="color: #000080;"]           có khác nào thằng Hán gian hèn nhát?
[_mce_style="color: #000080;"]Còn báo chí, truyền hình
[_mce_style="color: #000080;"]Mang danh là cơ quan ngôn luận chính thống của Đảng
[_mce_style="color: #000080;"]Mà không trung thực
[_mce_style="color: #000080;"]Đến bài diễn văn của Tổng thống Hoa Kỳ trước nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng cố tình cắt xén...
[_mce_style="color: #000080;"]Sợ công lý như loài dơi sợ ánh sáng.
[_mce_style="color: #000080;"]Bưng bít sự thật
[_mce_style="color: #000080;"]        Như vụ biển bị đầu độc
[_mce_style="color: #000080;"]        Nạn cá chết đã trở thành thảm kịch của non sông
[_mce_style="color: #000080;"]        Cuộc sống triệu triệu người dân đang bị đe doạ
[_mce_style="color: #000080;"]        Truyền hình không dám nói
[_mce_style="color: #000080;"]        Không dám đưa tin
[_mce_style="color: #000080;"]Đáng lý phải lên tiếng đấu tranh
[_mce_style="color: #000080;"]Đòi Nhà nước có biện pháp kịp thời khắc phục?
[_mce_style="color: #000080;"]Thì lại hùa nhau đấu tố người đã lên tiếng vì yêu nước...
[_mce_style="color: #000080;"]- Chúng vì dân hay theo lãnh đạo hại dân?
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Biển Đông giặc Tàu vào đánh chiếm liên miên
[_mce_style="color: #000080;"]Máu các chiến sỹ ngoài hải đảo và ngư dân vẫn đổ
[_mce_style="color: #000080;"]Chính phủ cộng sản đang cắt dần
[_mce_style="color: #000080;"]                 biển đảo và đất đai cho chúng?
[_mce_style="color: #000080;"]Chính phủ cộng sản đang biến dần
[_mce_style="color: #000080;"]                cả dân tộc này thành nô lệ cho Tàu Cộng?
[_mce_style="color: #000080;"]Sự việc để mất đảo Gạc Ma
[_mce_style="color: #000080;"]Thiếu tướng Lê Mã lương đã nói:
[_mce_style="color: #000080;"]Một vị tướng lãnh đạo cấp rất cao của Đảng
[_mce_style="color: #000080;"]Ra lệnh cho các chiến sỹ hải quân ta
[_mce_style="color: #000080;"]Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được đánh trả
[_mce_style="color: #000080;"]( Nghĩa là, nếu quân Tàu vào chiếm đảo
[_mce_style="color: #000080;"]          thì phải đầu hàng, chứ không được đánh??? )
[_mce_style="color: #000080;"]Đó là lệnh của kẻ phản quốc!  
[_mce_style="color: #000080;"]64 chiến sỹ hải quân Việt nam phải bỏ mạng
[_mce_style="color: #000080;"]Và đảo Gạc Ma rơi vào tay địch.
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy đem treo cổ tên tướng đã ra lệnh đó lên
[_mce_style="color: #000080;"]Giữa sơn hà
[_mce_style="color: #000080;"]Cùng với tên "nãnh tụ" đảng của nó
[_mce_style="color: #000080;"]Để cảnh báo cho những kẻ nhận giặc là bố !?

[_mce_style="color: #000080;"]                             ***

[_mce_style="color: #000080;"]Chủ nghĩa cộng sản dẫy chết
[_mce_style="color: #000080;"]Nhà nươc XHCN sinh ra
[_mce_style="color: #000080;"]Những tập đoàn vô sản lãnh đạo
[_mce_style="color: #000080;"]                   lũng loạn, tham nhũng, lưu manh
[_mce_style="color: #000080;"]Con đường chính trị Phan Chu Trinh bất diệt!
[_mce_style="color: #000080;"]Chính ông Obama cũng nói:
[_mce_style="color: #000080;"]Sẽ mở trường Đại học Fulbright phi lợi nhuận ở Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Để học từ Nguyễn Du đến tư tưởng Phan Chu Trinh...

[_mce_style="color: #000080;"]Chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố
[_mce_style="color: #000080;"]Xoá bỏ lệnh cấm vận
[_mce_style="color: #000080;"]Bán vũ khí sát thương cho Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Để bảo vệ Tổ quốc!
[_mce_style="color: #000080;"]Mỹ sắn sàng hỗ trợ nhiều mặt
[_mce_style="color: #000080;"]Một khi Chính phủ Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]     thực thi đầy đủ các cam kết của mình
[_mce_style="color: #000080;"]Như quyền ứng cử, bầu cử phải tự do và công bằng
[_mce_style="color: #000080;"]Đảm bảo chế độ dân chủ, nhân quyền...

[_mce_style="color: #000080;"]Tổ phụ Lập quốc Lý Thường Kiệt của ta đã nói:
[_mce_style="color: #000080;"]"Sông núi nước Nam vua Nam ở..."
[_mce_style="color: #000080;"]Ông Obama cũng nhắc lại những lời như thế!
[_mce_style="color: #000080;"]Chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng
[_mce_style="color: #000080;"]Không một kẻ nào được xâm phạm.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nước non này cha ông ta gìn giữ cả nghìn năm
[_mce_style="color: #000080;"]Máu giống nòi bao đời đã đổ
[_mce_style="color: #000080;"]Mà nay Đảng Cộng sản hại nước, hại dân
[_mce_style="color: #000080;"]Bọn bay hãy dỏng tai mà nghe
[_mce_style="color: #000080;"]Mở mắt mà nhìn
[_mce_style="color: #000080;"]Bài diễn văn ông Obama đọc ở Mỹ Đình
[_mce_style="color: #000080;"]Hôm 24 tháng 5
[_mce_style="color: #000080;"]Tổng thống Hoa kỳ, một chính phủ ngoại bang
[_mce_style="color: #000080;"]Dậy cho bọn bay đó
[_mce_style="color: #000080;"]Bọn bay có biết không?

[_mce_style="color: #000080;"]Barack Obama người bạn lớn của dân tộc Việt Nam ./.
[_mce_style="color: #000080;"]                   Bài viết nhân ngày Tổng thống Mỹ B.Obama
[_mce_style="color: #000080;"]                          sang thăm VN 23-25/5/2016
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]  (*)  Thơ Chế Lan Viên


[_mce_style="color: #000080;"]                      
[_mce_style="color: #000080;"]              XỬ TỘI FORMOSA

[_mce_style="color: #000080;"]Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Nó là tội đồ của dân tộc Việt Nam ta!
Gây thảm hoạ đến long trời, lở đất
Đầu độc biển và nạn cá chết
Di họa dân sinh không biết đến bao giờ.


[_mce_style="color: #000080;"]Phải xử tội tên lãnh đạo
[_mce_style="color: #000080;"]                       đã dẫn dắt Formosa vào đất nước
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ vì lòng tham giết cả nước non
[_mce_style="color: #000080;"]Đem nó ra vạch mặt trước nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Tống tù chung thân.

[_mce_style="color: #000080;"]
[_mce_style="color: #000080;"]Ta lên án nhà cầm quyền
[_mce_style="color: #000080;"]Lên án Bộ chính trị của Đảng cộng sản Viêt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Sau một thời gian đã dài thảm họa nước non
[_mce_style="color: #000080;"]Mà vẫn lấp liếm...
[_mce_style="color: #000080;"]Không có một phán quyết nghiêm chỉnh nào
[_mce_style="color: #000080;"]                                        về thủ phạm tội ác
[_mce_style="color: #000080;"]Vẫn để cho Formosa ung dung tồn tại
[_mce_style="color: #000080;"]Đó là mưu đồ của bộ máy quan lại
[_mce_style="color: #000080;"]Cố tình trục lợi trên lưng của nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Cái chết của biển, của cá
[_mce_style="color: #000080;"]Chính là cái chết của đạo đức, lương tâm...
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân yêu cầu Đảng cộng sản Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Phải đem Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Truy tố trước pháp luật và đóng cửa vĩnh viễn.

[_mce_style="color: #000080;"]                                      *

[_mce_style="color: #000080;"]Phải xử tội
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ đã ra lệnh cho các cơ quan
[_mce_style="color: #000080;"]                               báo chí, truyền thông
[_mce_style="color: #000080;"]Cố tình bưng bít sự thật
[_mce_style="color: #000080;"]Cố tình lừa gạt nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Tiếp tay cho những tâm địa hại nước
[_mce_style="color: #000080;"]                        trong Chính phủ, Trung ương
[_mce_style="color: #000080;"]Cùng lũ phản động nước ngoài
[_mce_style="color: #000080;"]Lôi cổ chúng ra trước vành công lý
[_mce_style="color: #000080;"]Chiểu theo pháp luật
[_mce_style="color: #000080;"]Truy xét từng tên.                                    
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                      *

[_mce_style="color: #000080;"]Tại sao ông Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam?
[_mce_style="color: #000080;"]Khi biển cả bị đầu độc, hàng trăm tấn cá chết
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân 4 tỉnh miền Trung lâm vào thảm khốc
[_mce_style="color: #000080;"]Không tới thăm dân? Tìm cách cứu dân?
[_mce_style="color: #000080;"]Lại tới thăm Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Vỗ an kẻ thù
[_mce_style="color: #000080;"]Rằng: "Hãy an tâm..."
[_mce_style="color: #000080;"]Hành động khác gì một tên
[_mce_style="color: #000080;"]                                 phản dân, phản nước?
[_mce_style="color: #000080;"]Chỉ có một tên phản dân, phản nước
[_mce_style="color: #000080;"]Mới đồng loã với kẻ làm hại Tổ quốc,
[_mce_style="color: #000080;"]                                Dân tộc mình như thế!
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                    *

[_mce_style="color: #000080;"]Bô y tế thì vô nhân bất nghĩa?
[_mce_style="color: #000080;"]Khi dân bj ngộ độc biển, ngộ độc cá
[_mce_style="color: #000080;"]Do Formosa gây ra
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng lại cấm tất cả các bệnh viện
[_mce_style="color: #000080;"]Cấm các bác sĩ không được xét nghiệm
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng không được thông báo kết quả xét nghiệm
[_mce_style="color: #000080;"]Phụ họa với chủ trương lừa gạt của trên   
[_mce_style="color: #000080;"]Nói láo rằng: " Biển cơ bản là sạch..."
[_mce_style="color: #000080;"]Ngày 24 tháng tư
[_mce_style="color: #000080;"]Người thợ lặn đầu tiên Lê Văn Ngày đã chết
[_mce_style="color: #000080;"]Rồi hàng loạt thợ lặn ở khu công nghiệp Sơn Dương
[_mce_style="color: #000080;"]Cũng nguy cơ bị nhiễm
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng bỏ mặc
[_mce_style="color: #000080;"]Không xét nghiệm
[_mce_style="color: #000080;"]Không kiểm tra sức khoẻ
[_mce_style="color: #000080;"]Còn đe dọa chấm dứt hợp đồng...
[_mce_style="color: #000080;"]"Lương y như từ mẫu"
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng lại trở thành những kẻ hút máu dân mình
[_mce_style="color: #000080;"]Những tên lãnh đạo nào?
[_mce_style="color: #000080;"]Phải lôi ra trước vành móng ngựa
[_mce_style="color: #000080;"]Mà trừng trị.

[_mce_style="color: #000080;"]                              *

[_mce_style="color: #000080;"]Bộ công an thì đàn áp nhân dân như thổ phỉ
[_mce_style="color: #000080;"]Những người lâm nạn xuống đường
[_mce_style="color: #000080;"]Yêu cầu Nhà nước phải có biện pháp cứu giúp
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng dùng lực lượng vũ trang
[_mce_style="color: #000080;"]                         thẳng tay dã man, đè bẹp
[_mce_style="color: #000080;"]Đánh đập cả phụ nữ, trẻ thơ
[_mce_style="color: #000080;"]Bắt giữ những phóng viên đi làm phóng sự điều tra
[_mce_style="color: #000080;"]Đồng loã với Chính phủ
[_mce_style="color: #000080;"]Che dấu cho bọn tội phạm Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Cấm không được quay phim, chụp ảnh
[_mce_style="color: #000080;"]Ai nói chuyện với ngư dân lâm nạn
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng cũng đe nạt
[_mce_style="color: #000080;"]Mua chuộc cả lũ côn đồ
[_mce_style="color: #000080;"]Hành hạ các luật sư yêu nước
[_mce_style="color: #000080;"]Mang danh là "công an nhân dân..."
[_mce_style="color: #000080;"]Mà không khác gì bọn cướp ngày
[_mce_style="color: #000080;"]Vô nhân, thất đức.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Nói theo cách nói của ông Hồ Chí MInh
[_mce_style="color: #000080;"]Hỡi tên Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng!
[_mce_style="color: #000080;"]Ngươi hãy công khai trả lời trước toàn thế giới rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]- Nhân dân yêu nước
[_mce_style="color: #000080;"]Hay Bộ máy của Chính phủ 
[_mce_style="color: #000080;"]              Đảng cộng sản Việt Nam phản dân, phản nước?
[_mce_style="color: #000080;"]Chính các ngươi đang cúi nạp trước bọn Tàu
[_mce_style="color: #000080;"]Từng bước rước chúng vào
[_mce_style="color: #000080;"]Chiếm cả biển đảo, đất đai, thành phố Việt Nam ta!

[_mce_style="color: #000080;"]                                  *

[_mce_style="color: #000080;"]Phải xử tội formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Dân tộc ta là dân tộc biển
[_mce_style="color: #000080;"]Quốc gia ta là quốc gia biển
[_mce_style="color: #000080;"]Bảo vệ bờ biển dài
[_mce_style="color: #000080;"]Là bảo vệ sự sinh tồn của ngư dân,
[_mce_style="color: #000080;"]                         của cả dân tộc tự nghìn năm
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy hợp lực toàn dân bên trong và bên ngoài
[_mce_style="color: #000080;"]Cần có cả thế giới và Hoa Kỳ hợp lực
[_mce_style="color: #000080;"]Đánh cho tan bè lũ quan chức Đảng công sản
[_mce_style="color: #000080;"]                                                   trục lợi, tham lam
[_mce_style="color: #000080;"]Đã lộ rõ bộ mặt vô tổ quốc và vô dân tộc.

[_mce_style="color: #000080;"]500 triệu đô-la bồi thường để bịt công luận
[_mce_style="color: #000080;"]Với thảm họa giáng xuống đầu
[_mce_style="color: #000080;"]                   1 triệu dân 4 tỉnh miền Trung
[_mce_style="color: #000080;"]Tức là bồi thương 500 đô ($) một người...
[_mce_style="color: #000080;"]Là cái giá diệt dân quá rẻ mạt
[_mce_style="color: #000080;"]Di hại biển nhiễm độc
[_mce_style="color: #000080;"]             và sự tồn sinh của các loài thuỷ sản
[_mce_style="color: #000080;"]Phải 50 năm mới trở lại đươc như xưa...
[_mce_style="color: #000080;"]Không thể để cho Chính phủ đứng ra dàn xếp
[_mce_style="color: #000080;"]Thông đồng với Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Mà phải để người dân giải quyết.

[_mce_style="color: #000080;"]Luật sinh tồn bảo rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]Dân ta phải đấu tranh
[_mce_style="color: #000080;"]Không chỉ với Chính phủ - Nhà nước
[_mce_style="color: #000080;"]Mà với cả chính sách diệt chủng dân tôc Viêt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]                                           của bọn giặc Trung...
[_mce_style="color: #000080;"]Lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]Thì lại quá hèn hạ, cúi đầu tiếp tay cho chúng.

[_mce_style="color: #000080;"]Chúng muốn ép ngư dân ta phải đổi nghề
[_mce_style="color: #000080;"]Là dã tâm
[_mce_style="color: #000080;"]Giúp cho Formosa cùng với bọn Tàu chiếm biển.
[_mce_style="color: #000080;"]Hãy lấy giải pháp giúp ngư dân bám biển
[_mce_style="color: #000080;"]Duy trì ngành nghề truyền thống lâu dài
[_mce_style="color: #000080;"]Mới là liệu pháp bảo vệ dân,
[_mce_style="color: #000080;"]                    bảo vê đất nước, giống nòi.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Dân tôc gặp đại nạn
[_mce_style="color: #000080;"]             mà chế độ vẫn cố tình bưng bít
[_mce_style="color: #000080;"]Dùng bạo lực hành xử với nhân dân
[_mce_style="color: #000080;"]Tàn độc đủ đường và vô liêm sỉ
[_mce_style="color: #000080;"]Với Chính phủ này
[_mce_style="color: #000080;"]Mất nước đến nơi rồi - Việt Nam ơi!

[_mce_style="color: #000080;"]Đã đến lúc không thể dung tha cho Đảng cộng sản
[_mce_style="color: #000080;"]Giành quyền dân chủ, tự do
[_mce_style="color: #000080;"]Nhân dân phải đứng lên truy tố Formosa
[_mce_style="color: #000080;"]Khởi kiện chúng ra Toà!
[_mce_style="color: #000080;"]Bảo vệ biển, bẩo vệ cá
[_mce_style="color: #000080;"]Là bảo vệ sư tồn sinh của dân tộc, nước nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]Formosa phải bồi thường thiệt hại,
[_mce_style="color: #000080;"]Phải khắc phục hậu quả và làm sạch biển...
[_mce_style="color: #000080;"]Rồi tống cổ nó cút khỏi Việt Nam ta!

[_mce_style="color: #000080;"]                                       Tháng 7-2016 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                  ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÌNH ĐỂU QUÁ,
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                      PHẢI KHÔNG EM
[_mce_style="color: #000080;"]                                                 Tặng cô giáo Trần Thị Lam
[_mce_style="color: #000080;"]                               Tác giả bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh”
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản Việt Nam mình đểu quá, phải không em
[_mce_style="color: #000080;"]Bẩn hơn cả “đít” thằng Formosa mang chất độc
[_mce_style="color: #000080;"]Làm cho cá và biển quê mình phải chết
[_mce_style="color: #000080;"]Tội Đảng lần này trời đất chẳng dung tha...
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Những chiếc bánh trưng em kể đã xa xưa
[_mce_style="color: #000080;"]Như chuyện cọc sóng Bạch Đằng
[_mce_style="color: #000080;"]                cha ông ta đánh tan giặc Nguyên cũng cũ
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản bây giờ phản nước, buôn chế độ
[_mce_style="color: #000080;"]Lũ quan tham Chính phủ thời nay toàn đứa hại giống nòi
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Em thương dân bốn nghìn năm
[_mce_style="color: #000080;"]Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...” (1)
[_mce_style="color: #000080;"]Thì đến trí thức, văn sĩ giờ
[_mce_style="color: #000080;"]                                phần lớn uốn lưng sống nhục
[_mce_style="color: #000080;"]Nhà báo như những con chó mực... (2)
[_mce_style="color: #000080;"]Gã Chủ tịch Hội nhà văn chỉ là tên cơ hội,
[_mce_style="color: #000080;"]                               làm tay sai cho bọn Việt Gian
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản Việt Nam mình kinh tởm quá, phải không em
[_mce_style="color: #000080;"]Cái “chủ nghĩa xã hội” thối tha
[_mce_style="color: #000080;"]Hàng nghìn tượng đài Lê Nin
[_mce_style="color: #000080;"]                               ở thế giới và bị chính dân Nga đạp đổ
[_mce_style="color: #000080;"]Kể làm gì Việt Nam mình dựng tượng đài nghìn tỷ
[_mce_style="color: #000080;"]Giành cho ông Hồ một phần,
[_mce_style="color: #000080;"]                              chúng chia nhau đục khoét đấy, em ơi!
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Em nói “sinh mạng con người chỉ như cái móng tay” thôi
[_mce_style="color: #000080;"]Thế mà chúng lại rêu rao
[_mce_style="color: #000080;"]                      “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, em ạ!
[_mce_style="color: #000080;"]Quốc Hội toàn những ông bà nghị gật đầu
[_mce_style="color: #000080;"]Để chiếm đất và vét vơ của nả…
[_mce_style="color: #000080;"]Kẻ tìm đường chạy ra nước ngoài
[_mce_style="color: #000080;"]Đứa về hưu hạ cánh an toàn
[_mce_style="color: #000080;"]                     sau khi đã hút kiệt máu xương dân…
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Anh cũng không biết Việt Nam mình rồi sẽ đi về đâu? như em
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng anh biết chắc chắn một điều
[_mce_style="color: #000080;"]Dân mình phải vùng lên đấu tranh
[_mce_style="color: #000080;"]                                   để giành quyền tự do, dân chủ
[_mce_style="color: #000080;"]Đánh cho chính thể Đảng cộng sản độc tài này phải đổ
[_mce_style="color: #000080;"]Lôi lũ quaan hại giống nòi kia ra trước vành công lý nước nhà
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]Đảng cộng sản Việt Nam mình đáng phỉ nhổ quá, hỡi em xa!
[_mce_style="color: #000080;"]Anh chỉ phát triển bài thơ em cho thêm sâu, thêm rộng
[_mce_style="color: #000080;"]Để gửi cho thế giới yêu chuộng hoà bình
[_mce_style="color: #000080;"]                                                          và gửi cả trời xanh
[_mce_style="color: #000080;"]Nỗi đau dân tộc này không biết đến bao năm…
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                                              25-7-2016
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"](1)  Thơ của Trần Thị Lam
[_mce_style="color: #000080;"](2)  Nguyễn Như Phong, một nhà báo của Đảng cộng sản đã phát biểu: “Chó khôn nhờ chủ - nghĩa là nhờ sự dậy dỗ của Đảng – Nhà báo là phải như những con chó!”  
[_mce_style="color: #000080;"]   
                               [_mce_style="color: #ff0000;"]            Phân 2.
[_mce_style="color: #ff0000;"]                         VĂN CHƯƠNG PHẢN BIỆN
[_mce_style="color: #ff0000;"]               PHÊ PHÁN CNXH VÀ SỰ THOÁI HOÁ 
[_mce_style="color: #ff0000;"]  
  
[_mce_style="color: #000080;"]                BẰNG VIỆT PHÊ PHÁN XÃ HỘI BẰNG THƠ
                    

[_mce_style="color: #000080;"]                                                      PHẠM NGỌC THÁI
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]         - Tôi xin bình luận qua tập thơ "Nheo mắt nhìn thế giới" của Ông.
[_mce_style="color: #000080;"]   "Nheo mắt nhìn thế giới" - Nxb Văn học 2008, là một tập thơ có tiếng vang và hay nhất của Bằng Việt. Trong lời giới thiệu tập thơ, ông đã viết:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Thơ đối với tôi (tức tác giả) không chỉ là thơ mà còn là một thái độ sống. Đã là một thái độ sống, thì bút pháp thể hiện cốt sao nói được hết điều mình cần nói, cần tỏ thái độ...
[_mce_style="color: #000080;"]      Một đoạn khác cũng lời giới thiệu ấy, Ông còn nhấn mạnh:
[_mce_style="color: #000080;"]    "Nheo mắt nhìn thế giới" - đầu đề tập thơ này thoạt nghe có vẻ hơi kênh kiệu, thậm chí có phần xấc lược! Nhưng đọc kỹ các bạn sẽ thấy, thực ra là một thái độ, một tâm trạng khá kìm nén, đến mức có phần nhẫn nhịn, lặng lẽ chiêm nghiệm, đôi khi chua chát, ngậm ngùi...”.
[_mce_style="color: #000080;"]      Nhìn tổng thể tập thơ bắt nguồn từ một cách nhìn của một cõi lòng có phần u uẩn, dồn ứ cảm xúc mà tạo thành thi phẩm, mang tính phê phán xã hội sâu sắc. Vậy ta hãy xem, qua những bài thơ Bằng Việt đã phê phán xã hội thế nào? Xin mở đầu trang bình luận này bằng việc:
[_mce_style="color: #000080;"]*  phân tích bài "Nhớ Trịnh"-
[_mce_style="color: #000080;"]                   Có khi
[_mce_style="color: #000080;"]                   Một ngày ruổi rong, một ngày tất bật
[_mce_style="color: #000080;"]                   Cũng không làm xong một việc ra hồn!
[_mce_style="color: #000080;"]                   Có khi 
[_mce_style="color: #000080;"]                   Cả tuần lao lung, cả tuần suy ngẫm
[_mce_style="color: #000080;"]                   Cũng không nhìn thấu bản thể mình!
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi nói về đoạn thơ giữa trước:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội
[_mce_style="color: #000080;"]                   Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già
[_mce_style="color: #000080;"]                   Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
[_mce_style="color: #000080;"]                   Được chuyển động - làm bù nhìn của gió...
[_mce_style="color: #000080;"]      Bằng Việt không chỉ là nhà thơ, mà còn thuộc hàng thủ lĩnh chính trị trong cơ quan tuyên huấn Đảng, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thủ đô, phó Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật VN, đồng Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN. Có thể nói: suốt cuộc đời ông luôn tỏ ra trung thành, mẫn cán, phụng sự chế độ như một cái ..."chong chóng quay" ( thơ đã viết). Vậy sao lại phải thốt lên: Chong chóng quay, rút cuộc được gì? /- Rồi ông tự trả lời: Được chuyển động - làm bù nhìn của gió...
      Có nghĩa là, tất cả sự phụng sự không biết mệt mỏi ấy: Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội/-  Cả đến những bổng lộc, vinh quang mà ông đã có (tôi xin nói về ý nghĩa của sự "vinh quang" này sau), cũng chỉ để làm..."một bù nhìn"! Nhưng là bù nhìn của ai: bù nhìn của gió...?

[_mce_style="color: #000080;"]      Gió thổi thì chong chóng phải quay! "gió" ở đây nó biểu thị cho một thế lực - Đó chính là bộ máy nhà nước. Ta đọc tiếp những câu thơ dưới:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Và gió, quẩn quanh đầu sông, cuối bãi,
[_mce_style="color: #000080;"]                      Cũng một kiểu bù nhìn của nóng lạnh, Âm-Dương      
[_mce_style="color: #000080;"]     Khí trời thay đổi lúc nóng, khi lạnh thì tạo thành gió - Vậy "gió" lại cũng chỉ là "một thứ bù nhìn"... của trời đất ( tức Âm-Dương)! Hình tượng "Âm-Dương" tác giả sử dụng, chính là để chỉ về chế độ, cũng chỉ như... "một thứ bù nhìn" - theo chủ nghĩa Marx hoang tưởng mà thôi! Nó vận hành như gà mắc tóc:                                   
[_mce_style="color: #000080;"]                      cứ quẩn quanh nơi đầu sông, cuối bãi
[_mce_style="color: #000080;"]      Đó là một bộ máy cổ hủ, thậm chí còn bị tha hoá...
[_mce_style="color: #000080;"]    (nếu ta suy xét ở các bài khác thì thấy ý nghĩa này rõ hơn: như bài "Ngô đồng", "Người của thế kỷ trước", hay "Ngôn ngữ và chính trị" v.v...). Rồi tác giả kết luận:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Còn Âm-Dương có từ đâu, tồn tại tới đâu
[_mce_style="color: #000080;"]                      Thì mở hết giác quan, ta vẫn là mù tịt!
[_mce_style="color: #000080;"]      Với kiến thức của một học giả, sự từng trải một đời người và chân dung của một văn nghệ sĩ có tầm vóc, mà Bằng Việt phải than: Mở hết các giác quan, ta vẫn là mù tịt!/ -  Ông hoài nghi? Nói chính xác là ông không còn tin vào thể chế của chủ nghĩa Marx là đúng nữa! Ôi, nhưng đó lại chính là lý tưởng mà cả đời ông cống hiến, để bây giờ sụp đổ thế ư? rồi tác giả buồn bã kết luận:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Rầu rĩ trở về câu thơ của Trịnh:
[_mce_style="color: #000080;"]                      "Đêm thấy ta là thác đổ..."
[_mce_style="color: #000080;"]                      Vậy ngày ơi, ta là gì?
[_mce_style="color: #000080;"]      Nghĩa là, hôm nay chỉ là đêm trường - Còn ngày mai khi trời sáng lạn thì sao? Ông chợt thấy mình rồi sẽ chẳng là gì cả! Mai ngày khi thời thế đổi thay, chủ nghĩa Marx đã không còn, xã hội đi theo một hướng khác đúng đắn và hợp lý hơn! Nói một cách cụ thể, tên tuổi với niềm vinh quang mà ông có hôm nay sẽ chỉ giả ảo nhất thời. Nó giống như một "bóng ma" trong chốn quan trường, một thứ bù nhìn của cái thế thời này! Lòng Bằng Việt tan nát, nên mới  nhắc đi nhắc lại mãi câu thơ:
[_mce_style="color: #000080;"]                     "Đêm thấy ta là thác đổ..."
[_mce_style="color: #000080;"]                      Có lẽ nào, chỉ thế thôi sao?
[_mce_style="color: #000080;"]*   Tôi phân tích sang bài "Ngô đồng"-
[_mce_style="color: #000080;"]                     Thất vọng với ngàn xưa hay thương xót ngô đồng
[_mce_style="color: #000080;"]                     Trót được tôn quá cao, đẩy mãi vào lịch sử 
[_mce_style="color: #000080;"]                     Để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá
[_mce_style="color: #000080;"]                     Lưu luyến thưở vàng son xa lạ với đời thường!
[_mce_style="color: #000080;"]      Ngay vào câu thơ đầu ta đã thấy: Phải chăng như vua Ngô xưa, ngồi ở quá cao không nghe lời ai, có mắt như đui… để đến lúc cả thành trì bị đốt cháy mới chịu tỉnh ra? Thì nước đã mất, nhà đã tan rồi! Đồng thời còn tồi tệ hơn, thất vọng và chua xót bởi cả đến lớp hậu duệ giờ cũng theo đó... mà bị đổ đốn và tha hoá. Tức là ông thất vọng cho guồng máy nhà nước đương đại đó! Hình tượng"ngô đồng" mà Bằng Việt dùng trong bài thơ, là để chỉ cho lớp quan chức chốn cung đình. Luận theo ý nghĩa thực tiễn thì ta thấy, từ trên cao nhà nước xuống đến dưới các cấp địa phương… vẫn bao tệ nạn, tha hoá. Không ít vùng nông thôn Việt Nam ngày nay, chính quyền bạo hành, đè nén dân tình, lại hình thành các kiểu địa chủ phong kiến ngày xưa. Bằng Việt đã lên án, Ông chỉ trích sự xuống cấp về cả nhân cách, phẩm giá của những lớp "ngô đồng" ấy, giờ chỉ còn là:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những chậu cảnh rẻ tiền, bầu cây thô tháp
[_mce_style="color: #000080;"]                     Lá nhăn nhúm răng cưa, xoè rẻ quạt
[_mce_style="color: #000080;"]                     Giống lai tạp bình dân, xa rời danh giá cũ
[_mce_style="color: #000080;"]                     Chỉ khiến nguội tanh trí tưởng tượng ngàn đời! 
[_mce_style="color: #000080;"]      Đã cổ hủ, thoái hoá mà vẫn cố bám lấy quyền vị và những vàng son để hưởng lợi lộc, vinh hoa, thì tất yếu sẽ sinh ra ung nhọt trong xã hội. Xét ra nhiêù nước ở thế giới, trên con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp giai cấp vô sản trong guồng máy lãnh đạo nhà nước, từ giai cấp vô sản thuần tuý biến chất thành "Tầng lớp giai cấp vô sản hoá lưu manh", hoặc "Tập đoàn giai cấp vô sản tham nhũng, lũng loạn..."! Đó cũng là kết quả tất yếu để đến cuối thập kỷ 90, sang 1991 của thế kỷ XX, hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu bị sụp đổ. Hệ thống chủ nghĩa cộng sản tan rã, lan rộng trên phạm vi toàn thế giới. Ông than:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Ngô đồng ơi, ngô đồng
[_mce_style="color: #000080;"]                      Có phải nhầm không đấy?
[_mce_style="color: #000080;"]                      Giờ hoá hèn mọn vậy
[_mce_style="color: #000080;"]                      Biết trách ai, ngô đồng?                    
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta nói như thế không phải là thương xót cho những sự đổ vỡ ấy, mà để nhìn thấy sự hoang tưởng của chủ nghĩa Marx - khi Người đã vạch ra một viễn vọng của chủ nghĩa cộng sản? Viễn vọng cùng chủ nghĩa đó đã tan tành!
[_mce_style="color: #000080;"] *  Tôi phân tích bài "Người của thế kỷ trước" - Nói về những gương mặt đặc trưng cho một chế độ của một thế kỷ đã đi qua, song những con người cổ hủ của thế kỷ đó vẫn tiến tới, cùng với lớp hậu duệ kế thừa trong guồng máy đương đại cũng bị thoái hoá (như đã phân tích ở bài trên): Để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá/ - đang ngất ngưởng phán xét, điều hành xã hội ở thế kỷ mới này:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Anh đâu cần ai thương,
[_mce_style="color: #000080;"]                      Anh bình giá mọi điều bằng cái nhìn khinh bạc
[_mce_style="color: #000080;"]                     Anh đứng trên mọi điều để xét nét thời gian/
[_mce_style="color: #000080;"]                     Nhưng có ích gì đâu!
[_mce_style="color: #000080;"]                     Khi trên khuôn mặt anh đã in vết thẫm mầu...
[_mce_style="color: #000080;"]      Với những con người đã bất chấp cả điều hay, lẽ dở - Tức là khinh bạc cả quyền lợi cộng đồng, coi thường luân lý... để xét nét mà phán quyết! Thì đâu còn phải là người của nhân dân, của đất nước nữa? Đó chính là lớp quan lại đang dẫm đạp lên quyền lợi dân tộc mà chúng ta thấy không ít trong xã hội ngày nay. Nếu lớp quan lại  đó chiếm nhiều trong bộ máy nhà nước, thì tất dẫn đến lúc bọn họ sẽ bán cả nước để cầu vinh! Như thơ ông viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Anh đầy khôn ngoan, đầy so đo, đầy tránh né
[_mce_style="color: #000080;"]                    Anh sống đến hôm nay, dương dương tự đắc
[_mce_style="color: #000080;"]                    Nhưng than ôi!
[_mce_style="color: #000080;"]                     ...Tôi ngồi uống với anh như uống cùng ảo ảnh
[_mce_style="color: #000080;"]                     Uống cùng bao nhiêu khát vọng không thành?                        
[_mce_style="color: #000080;"]      Đó cũng chính là hình ảnh của cái guồng máy "như một thứ bù nhìn" mà Bằng Việt  đã tả trong bài "Nhớ Trịnh".
[_mce_style="color: #000080;"]*  "Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông" – Là một bài thơ chế nhạo những kẻ hợm hĩnh. Đó là phường ngu dốt, kệch cỡm... lại luôn luôn lên mặt dậy dỗ, thuyết giáo cho đời. Tác giả không có ý bôi xấu hoặc chế giễu những người bị khuyết tật, như thơ đã  viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Không phải ngọng bẩm sinh
[_mce_style="color: #000080;"]                       Chúng đánh lưỡi, chúm môi... dần hoá ngọng.
[_mce_style="color: #000080;"]      "ngọng" cũng chỉ là biểu tượng, tác giả dùng để ám chỉ lớp quan cách dởm đời. Đó chính là những thứ quan hay hống hách thường thấy nhan nhản thời nay. Chúng như phường trưởng giả học làm sang. Có khác nào Tú Xương cũng đã từng giễu cợt những phường như thế ở thời xưa:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đứa thì mua tước, đứa mua quan
[_mce_style="color: #000080;"]                      Phen này ông quyết đi buôn lọng
[_mce_style="color: #000080;"]                      Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
[_mce_style="color: #000080;"]      Đọc bài thơ của Bằng Việt ta thấy cả một sự nực cười và chua chát. Những loại quan ngọng đó càng tỏ ra oai vệ, càng lên cao giọng, ỷ quyền đe nạt mọi người, thì chúng lại càng "ngọng", ngọng đặc quánh lại. Người đời bây giờ biết nhiều loại quan ngọng như thế lắm! Người ta không dại gì nói chuyện tử tế, đứng đắn với chúng, có khi lại mang vạ vào thân. Cho nên:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Người đời thừa hơi nói mãi chuyện khôn
[_mce_style="color: #000080;"]                     Thì ngọng hùa nhau cùng dồn đến dại...
[_mce_style="color: #000080;"]      Có thể chúng sẽ đổ xô vào cấu xé, dẫm đạp lên cả những người dân yêu nước? Và nếu một khi luật pháp lại thuộc về những kẻ quan lại cầm quyền như thế, thì xã hội này đâu có còn là của nhân dân?
[_mce_style="color: #000080;"] *  Tôi nói đến bài "Sự kiện tày đình" - Tác giả chỉ đi từ sự việc thay đi, đổi lại của pháp luật: Cấm đăng kí xe, xong rồi lại cũng pháp luật - cho đăng kí xe thoải mái? Nhưng đây cũng chỉ là một hiện tượng lấy ra làm minh chứng. Thực tế sự thay đổi pháp luật ở xã hội ta nó diễn ra tuỳ tiện tới mức, như ông viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Mình tự trói tay mình, rồi lại tự cởi ra
[_mce_style="color: #000080;"]                    Tự biểu quyết xong, lại tự chê mình phạm vào hiến pháp!
[_mce_style="color: #000080;"]                    Khi quyết đáp, cũng viện đủ lý do quyết đáp
[_mce_style="color: #000080;"]                    Khi huỷ đi lại cười trừ: "Chưa hợp lòng dân!"
[_mce_style="color: #000080;"]     Ông muốn chỉ trích sự méo mó, một sự ẩm ương đến nực cười của lớp quan chức nhà nước đương thời, những người làm ra pháp luật, cầm cương nẩy mực ở xã hội. "pháp luật" có khác nào thứ trò và những thứ trò đó cứ ngang nhiên diễn đi, diễn lại. Một bài thơ mang tính chất rất điển hình của thời thế hôm nay.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Giờ tôi phân tích về bài "Ngôn ngữ và chính trị" - Tác giả đứng trên bình diện của thời đại, thế giới mà phân tích nhân tình thế thái:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Tôi đến Vácsava khi Liên Xô đã đổ
[_mce_style="color: #000080;"]                    Thấy tiếc toà nhà cao như trường Lômônôxốp
[_mce_style="color: #000080;"]                    Kiến trúc thời Xtalin, giờ bỗng bị bỏ hoang!
[_mce_style="color: #000080;"]      Khi Liên Xô còn vững, nước Nga trở thành thành trì trung tâm của khối XHCN. Nhưng khi Liên Xô bị đổ rồi, thì than ôi!... đến cái tiếng Nga cũng không ai muốn dùng. Ngay cả người Nga lúc ra nước ngoài cũng không muốn sử dụng cái tiếng nói mẹ đẻ của họ nữa. Thứ ngôn ngữ của một dân tộc lớn như thế, mà nay cả thế giới khinh miệt nó. Ông đã phải than lên:
[_mce_style="color: #000080;"]                 Ngôn ngữ tội tình gì?...
[_mce_style="color: #000080;"]                 Mà dâu bể khó lường, mà giậu đổ bìm leo?
[_mce_style="color: #000080;"]                 Hay cũng nhiễm thói đời, như đồng tiền đen bạc
[_mce_style="color: #000080;"]                 Lúc thắng thế vung vinh, lúc tủi phận bọt bèo?!
[_mce_style="color: #000080;"]    Thế mới biết thế thời "Được làm vua, thua làm giặc" là vậy!
[_mce_style="color: #000080;"]    Sự sụp đổ của Liên Xô cùng hàng loạt các nước XHCN ở châu Âu - Nó báo hiệu sự tan vỡ của Chủ nghĩa Marx-Lenin! Một số lãnh thổ trong Liên bang Nga rơi vào cảnh nội chiến tương tàn, không biết khi nào mới hồi phục được như trước? Lại trở về thời kỳ của "tư bản dã thú" đã qua từ hàng trăm năm trước. Marx hoang tưởng đã đành, mà ngay cả lãnh tụ Lê Nin cũng ngộ tưởng khi tuyên bố rằng: Những nước vừa ra khỏi ách thuộc địa như Việt Nam, Trung Quốc... ở châu Á, hay các nước nhược tiểu ở các châu lục khác trên thế giới, có thể tiến thẳng lên CNXH không cần qua TBCN (nghĩa là đốt cháy giai đoạn) - Khi đã có Liên bang Xô viết làm chỗ dựa. Thì chính Liên Xô lại đổ đầu tiên!
[_mce_style="color: #000080;"]      Như thế là sự ngộ tưởng của Lê Nin không chỉ trở thành một hệ quả đối với nhân dân Nga, đất nước Nga - mà còn kéo theo sự lầm lạc trên con đường đi tới của lịch sử các nước vừa giải phóng ra khỏi ách đô hộ của thực dân hay đế quốc? Nó sẽ dẫn đến sự thoái hoá của bộ máy nhà nước và xã hội đó!
[_mce_style="color: #000080;"]      Đứng trước thực tế ấy, Bằng Việt hoài nghi về Học thuyết Marx? Ông không còn lòng tin vào thể chế, dù cả đời ông đã phụng sự cho thể chế ấy! Khi ông nhận ra mình cũng chỉ là... "thứ bù nhìn" của một guồng máy bù nhìn, trong cái chủ nghĩa hoang tưởng kia mà thôi - như ở bài "Nhớ Trịnh":
[_mce_style="color: #000080;"]                   Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
[_mce_style="color: #000080;"]                   Được chuyển động - làm bù nhìn của gió,
[_mce_style="color: #000080;"]                   Và gió, quẩn quanh đầu sông, cuối bãi,
[_mce_style="color: #000080;"]                   Cũng một kiểu bù nhìn của nóng lạnh, Âm-Dương...
[_mce_style="color: #000080;"] *  Giờ ta xem xét đến bài thơ "Nheo mắt nhìn thế giới" - mà ngay cái đầu đề của bài cũng được lấy để đặt tên cho cả tập thơ của ông.
[_mce_style="color: #000080;"]      Bài thơ gồm có ba đoạn ngắn. Hai đoạn trên chỉ là sự tả: Ở trên máy bay với độ cao 3000m nhìn xuống - người thì như hạt bụi, các cao ốc như hộp diêm, rừng già như tóc rối. Còn trông ra cả vũ trụ kia... toàn mây trắng mây, như vẩy rồng, vẩy cá, một màu xanh da trời vô cùng, vô tận. Thực ra ông chỉ lấy đó làm hình tượng. Ý nói, ta hãy rút ra một tầm xa mà nhìn và suy xét cả thời đại mà xem ? Sau mỗi đoạn ấy tác giả đều bung ra một câu kết, thán rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]               -  Kết đoạn 1/.  Nheo mắt biết buồn gì?
[_mce_style="color: #000080;"]               -  Kết đoạn 2/.  Nheo mắt biết vui gì?
[_mce_style="color: #000080;"]      Có nghĩa là: Khi đứng trên một tầm để bao quát cả xã hội cùng thế giới, thì… chẳng biết nên vui hay buồn? Tức là lòng ông hoang mang. Nhưng ông hoang mang vì cái gì? Chính là "Thế sự"! Như đã phân tích: ông không biết, cả chủ nghĩa Marx cùng thế chế mà ông đã suốt đời phụng sự đó, rồi sẽ đi về đâu? đến đâu? Bài thơ mang ý nghĩa ẩn dụ.
[_mce_style="color: #000080;"]    ình hình xã hội tác động lên tư tưởng, nhân sinh quan Bằng Việt, lý tưởng trở nên mờ mịt. Bằng Việt thảng thốt cảm thấy đời ông có thể sẽ trở thành vô nghĩa? Bởi thế ở đoạn thơ thứ 3, ông viết với một tâm trạng nửa vời và mang đầy sự phẫn chí:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Nheo mắt vì rợn ngợp
[_mce_style="color: #000080;"]                   Nheo mắt vì bất cần
[_mce_style="color: #000080;"]                  Có thể đầy phấn kích 
[_mce_style="color: #000080;"]                  Có thể đầy phân vân
[_mce_style="color: #000080;"]                  Hay nhuốm màu khinh bạc
[_mce_style="color: #000080;"]                  Hay chan hoà bao dung...
[_mce_style="color: #000080;"]      Để cuối cùng dồn nén vào một câu tổng quát: Nheo mắt nhìn thế giới/ -  Bằng Việt "rợn ngợp" trước bao sự kiện lớn thế giới đã đành, nhưng cũng vì cả những điên đảo, sự rối loạn của xã hội và thế thời đang bao phủ lên tâm hồn cùng nhỡn quan… Bởi vậy Bằng Việt than:
[_mce_style="color: #000080;"]                  Có mở hết giác quan, ta vẫn là mù tịt!
[_mce_style="color: #000080;"]      Ông "bất cần" vì chán cái thời thế có quá nhiều sự đen bạc, giả tạo này! Tôi xin chép ra đây những vần thơ của Chế Lan Viên:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Lũ ta là con rối
[_mce_style="color: #000080;"]                   Cho cuộc đời giật dây...
[_mce_style="color: #000080;"]      Phải chăng, bởi không muốn làm một con rối và thứ "bù nhìn" như thế nữa? Cái lý tưởng cùng chủ nghĩa suốt đời ông theo đuổi bỗng trở thành bong bóng. Vừa hoang tưởng lại vừa chìm trong sự tha hoá, nên tâm trạng mới:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Có thể đầy phấn kích
[_mce_style="color: #000080;"]                   Có thể đầy phân vân
[_mce_style="color: #000080;"]      Nghĩa là, không biết mình nên "khinh bạc" hay nên "độ lượng mà bao dung"? Với tâm trạng ấy, trong một bài thơ khác Bằng Việt tự thán:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Người đàn ông đã đến tuổi gàn
[_mce_style="color: #000080;"]                   Đã đến tuổi không còn gì để mất
[_mce_style="color: #000080;"]                   Mới hiểu được góc nhìn ngoài sự vật
[_mce_style="color: #000080;"]                   Thấy rõ hình hài những thứ vô vi...
[_mce_style="color: #000080;"]      "những thứ vô vi" ở đây chính là sự vô nghĩa bao quanh cuộc đời. Những "đạo nghĩa" tưởng như cao cả mà ông tâm huyết, nay tất cả đã… tan vỡ! Cũng giống như nỗi lòng của Tú Xương ngày xưa, tự vỗ an mình:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Ngủ đi! Ngủ đi...
[_mce_style="color: #000080;"]                     "Ngủ quách sự đời thây kẻ thức"
[_mce_style="color: #000080;"]                       ...
[_mce_style="color: #000080;"]                       Ngủ đi!... Ngủ ư?... lại mất ngủ rồi!
[_mce_style="color: #000080;"]      Bằng Việt muốn ngủ để quên tất cả mà không ngủ được, bởi thế mới... "bất cần"! Ông không muốn mở to mắt nhìn ra xã hội và thế giới nữa, nên:
[_mce_style="color: #000080;"]                      "Nheo mắt nhìn thế giới"...
[_mce_style="color: #000080;"]     Đó là một thái độ phủ nhận và phủ nhận một chủ nghĩa hoang tưởng, cùng guồng máy  hiện hành của Bằng Việt.
[_mce_style="color: #000080;"]     Trang viết đã dài, tôi chỉ xin bình thêm một bài nữa:
[_mce_style="color: #000080;"]*   "Rượu của Nguyễn Cao Kỳ" - Thuộc trong những bài thơ có tiếng tăm nhất của tập Nheo Mắt Nhìn Thế Giới này. Hơn 30 năm sau chiến tranh, Nguyễn Cao Kỳ từ Mỹ trở về Việt Nam thăm quê, có tặng cho vị thiếu tướng công an một chai rượu. Vị thiếu tướng mang ra cho anh em uống. Mọi người thì vui vẻ:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Ồ, rượu ngon thì cứ uống! Đâu cần cố chấp mãi chuyện xưa.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Nhưng một người thì nhất quyết: "không"!
[_mce_style="color: #000080;"]      Đấy, câu chuyện diễn tả lại chỉ có thế. Bài thơ đặt ra trước chúng ta một câu hỏi: Chiến tranh qua lâu rồi, trong chúng ta những người ở hai chiến tuyến, có nên giữ thái độ hận thù và mặc cảm nữa hay không? Một câu hỏi không phải dễ trả lời. Nhưng đọc lên ta thấy cũng phân vân: Không thể trách những người bỏ qua tất cả, cứ uống tràn - Nhưng cũng không thể trách anh chàng đã nhất định không chịu uống kia? và thế là:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Bữa rượu bỗng dưng trở thành đắng đót.
[_mce_style="color: #000080;"]    Nó khoáy vào một vết thương của cả hai bên, chưa sao lành lại được:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Vì sao không?
[_mce_style="color: #000080;"]                    Chẳng cố chấp quá ư!
[_mce_style="color: #000080;"]                    Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều cựu chiến binh cả chứ!
[_mce_style="color: #000080;"]                    Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử
[_mce_style="color: #000080;"]                    Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù!
[_mce_style="color: #000080;"]      Nhưng rượu dù ngon mà sao vẫn đắng? Thế đấy! Sự đời, chuyện đất nước, chuyện con người:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm
[_mce_style="color: #000080;"]                    Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa,
[_mce_style="color: #000080;"]                    Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ
[_mce_style="color: #000080;"]                    Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...
[_mce_style="color: #000080;"]      Thái độ của nhà thơ trung thành với hiện thực. Tác giả giữ sự khách quan với ý nghĩ của các nhân vật trong việc mô tả. Ông chỉ đặt ra câu hỏi, chứ không có ý định phê phán ai, hay lên tiếng ủng hộ ai - Bởi vì, chính Bằng Việt cũng có trả lời được câu hỏi đó đâu?
[_mce_style="color: #000080;"]      Ông cũng uống, nhưng chẳng qua là muốn quên đi tất cả: cứ uống! Ông không thể trả lời được về cả cuộc chiến tranh xưa cùng những bối rối của hôm nay?
[_mce_style="color: #000080;"]-  Ừ thì giải phóng xong rồi, nhưng để phụng thờ cái gì và... " lý tưởng" gì đây? Chủ nghĩa Marx ư? Hoang tưởng! Thế thời này đâu còn phải là của dân tộc, của nước non? Ta lại trở về với bài thơ Nhớ Trịnh - Và ông thấy mình bỗng nhiên đã trở thành một "con rối", một thứ bù nhìn quay như 'chong chóng"... trong cái guồng máy có phần phi nhân nghĩa của đương đại này.
[_mce_style="color: #000080;"]      Bài thơ trăn trở trong đó một câu hỏi: Chúng ta đang ở đâu và... phải đi đến đâu đây?
[_mce_style="color: #000080;"]      Tôi đã được xem một bức tranh lớn nổi tiếng của danh hoạ Pháp Henri Paul Gauguin (1848-1903), có một cái tên rất dài, tôi nhớ đại để là: Chúng ta là ai? đang ở đâu? và sẽ đi đến đâu? -  Nhân sinh quan chủ đạo của nhà thơ trong tập thơ này chính là ở câu hỏi đó! Hơn thế, về một phương diện nhất định - Bằng Việt đã phủ nhận chính cái thế thời mà chúng ta đang sống hôm nay!
[_mce_style="color: #000080;"]      Đến đây - Tôi xin tặng Bằng Việt đôi khúc thơ nhỏ, trích ra từ trong thiên sử thi gọi là: "Tiểu trường ca Thế Giới Tự Do - Phạm Ngọc Thái", như sau:
[_mce_style="color: #000080;"]                  Khúc 1 -   Năm xưa ta đã trải thảm đỏ cho Mỹ rút về nước
[_mce_style="color: #000080;"]                                   Nay ta lại trải thảm đỏ để Mỹ vào Việt Nam
[_mce_style="color: #000080;"]                                    Nếu Mỹ không mang bá mộng xâm lăng...
[_mce_style="color: #000080;"]                                    (Chuyện thời thế - Thế thời: Phải thế!).
[_mce_style="color: #000080;"]                  Khúc 2 -   Thằng Tàu - ta cố tranh thủ kết đồng minh
[_mce_style="color: #000080;"]                                   Nhưng bản chất chúng là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam...
[_mce_style="color: #000080;"]                                    Ngàn năm trước đã thế!
[_mce_style="color: #000080;"]                                    Ngàn năm sau vẫn thế!
[_mce_style="color: #000080;"]                                    (Nếu một khi ta không đủ mạnh).
[_mce_style="color: #000080;"]     "Nheo mắt nhìn thế giới" là một tập thơ mở - Nó mở cái gì? Nó mở ra một câu hỏi: Chúng ta là ai? đang ở đâu? và chúng ta sẽ đi đến đâu đây?
[_mce_style="color: #000080;"]       Bằng Việt đáng quí ạ:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Chúng ta đi về phía "Tượng thần tự do" - Nước Mỹ.
[_mce_style="color: #000080;"]                   Việt Nam đi về phía "Tượng thần tự do" - Nước Mỹ.
[_mce_style="color: #000080;"]                    "Tượng thần tự do" muôn năm!!!

[_mce_style="color: #000080;"]                                                       Hà Nội, mùa thu 2012
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                       PNT. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]              HỮU THỈNH CHỦ TỊCH HNVVN -
[_mce_style="color: #000080;"]           MỘT CHÂN DUNG THƠ TẦM THƯỜNG,
[_mce_style="color: #000080;"]           NHÂN CÁCH KÉM, THAM LAM, XẰNG BẬY…

[_mce_style="color: #000080;"]                                                          PHẠM NGỌC THÁI
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]       Hữu Thỉnh rất nhỏ mọn, lòng dạ tham lam, làm việc khuất tất… đã kéo nền thi ca đương đại trở nên bát nháo chi khươn. Biến một Hội nhà văn cấp quốc gia và cả Ban chấp hành trở nên tầm thường.
[_mce_style="color: #000080;"]    Trước hết xin nhận định về chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn thuộc loại nào?      
[_mce_style="color: #000080;"]              CHÂN DUNG THƠ HỮU THỈNH CƠ BẢN
[_mce_style="color: #000080;"]              THUỘC LOẠI THƠ TẦM THƯỜNG, KHÔNG TỒN TẠI
[_mce_style="color: #000080;"]     Như tôi đã từng bình luận: Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài viết kém, tư duy bát nháo, mới chỉ ở dạng nháp hoặc tư liệu trong bản thảo, cũng bê hết ra để in thành tập, sau đó tranh giành lấy giải thưởng.
[_mce_style="color: #000080;"]     Chưa một ông Chủ tịch nào tham lam, thơ phú thì xoàng xĩnh mà lại vơ nhiều giải thưởng quốc gia đến như vậy? Trần Mạnh Hảo đã viết:
[_mce_style="color: #000080;"]-   Ông Hữu Thỉnh đạt kỷ lục ăn giải văn chương trong thời đại ngày nay là... vô địch thế giới! Người ta tính đến nay ông đã 05 lần "ăn" giải thưởng văn học quốc gia, kể cả giải thưởng Vua Thái Lan gọi là "Giải Asean - 1000 USD" mà chính ông Chủ tịch tự đề cử cho mình... cùng với nhiều giải khác...Trong một thành phần ban giám khảo do chính Hữu Thỉnh đã thiết kế... rồi ông Chủ tịch "tế nhị khách quan?..." xin rút ra khỏi Hội đồng xét giải.
[_mce_style="color: #000080;"]     Hay như nhà văn Nguyễn Quang Thân lên tiếng phê phán:
[_mce_style="color: #000080;"]-    Ông Hữu Thỉnh ăn tham, kiểu tự mình cho mình giải thưởng là vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng vừa khen ban chấm giải... công minh!
[_mce_style="color: #000080;"]     Thí dụ như việc ông ta đem "Thương lượng với thời gian" - Một tập thơ hỏng, tư duy nhăng nhố, tứ nghĩa lung tung.. rồi cũng chỉ để vứt vào... sọt rác, cùng với một trường ca biển viết hỗn độn, xô bồ, làng nhàng, nhạt nhẽo - Mặc dù bị dư luận chê bai chỉ trích rất nhiều, nhưng Hữu Thỉnh vẫn bất chấp, trơ tráo lấy bằng được cái giải lớn của quốc gia. Thật là một Chủ tịch Hội nhà văn đáng mỉa mai.
[_mce_style="color: #000080;"]      Tôi đã từng bình tập "Thương lượng với thời gian", nay xin trích giới thiệu lại trong bài viết này để càng thấy rõ hơn cái chân dung non yếu, mà không biết tự thẹn của ông Chủ tịch Hội:
[_mce_style="color: #000080;"]                     "THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN"
[_mce_style="color: #000080;"]                     MỘT TẬP THƠ LÀM NHÀM, NHIỀU BÀI VIẾT HỎNG
[_mce_style="color: #000080;"]          Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ rất ẩu, tư duy lung tung, rồi tìm những từ hay hình ảnh hoa hoét hoặc có nỗi đoạn trường ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng... cũng thấy là lạ, nhưng rồi gấp lại thì bài thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc đó cũng chỉ là một ý tưởng nhạt thếch, nông choèn. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
[_mce_style="color: #000080;"] *   Thí dụ bài "Bóng mát":
[_mce_style="color: #000080;"]                    Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
[_mce_style="color: #000080;"]                     Giữa gió bụi cõi người
[_mce_style="color: #000080;"]                     Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
[_mce_style="color: #000080;"]                     Bóng mát mà không che nổi chính tôi.
[_mce_style="color: #000080;"]    Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Bóng mát mà không che nổi chính tôi
[_mce_style="color: #000080;"]     Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa. Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản, chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành...vô nghĩa!
[_mce_style="color: #000080;"]     Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ rất ẩu, chính là vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]     Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lôgich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu.
[_mce_style="color: #000080;"]*   Thí dụ một bài thơ khác:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Đôi luống thời gian
[_mce_style="color: #000080;"]                     Ai ải mùi đời
[_mce_style="color: #000080;"]                     Hì hục câu thơ
[_mce_style="color: #000080;"]                     Gieo chỗ không người
[_mce_style="color: #000080;"]                     Tấm chăn ngôn từ
[_mce_style="color: #000080;"]                     Dầy sao không ấm 
[_mce_style="color: #000080;"]                     Thi nhân dậy chưa
[_mce_style="color: #000080;"]                     Gà đang chuyển sớm
[_mce_style="color: #000080;"]                                ( Mồ hôi đón ngõ )
[_mce_style="color: #000080;"]       Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia, chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi" mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ? Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. 
[_mce_style="color: #000080;"]     Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
[_mce_style="color: #000080;"]     Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại. Đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hứu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó, hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu - Bất cần hình ảnh đó, ý nghĩa có hợp với bài thơ không? xào xáo nó lên, lại được thêm một bài thơ nữa, gộp lại thành tập… để lấy giải thưởng văn chương.
[_mce_style="color: #000080;"] *  Ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
[_mce_style="color: #000080;"]                    Những người đi lại phía tôi
[_mce_style="color: #000080;"]                    Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
[_mce_style="color: #000080;"]                    Mặc ai xô dạt mỗi ngày
[_mce_style="color: #000080;"]                    Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.
[_mce_style="color: #000080;"]      Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình, nỗi đời - Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa! Nó "vô nghĩa", bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng.
[_mce_style="color: #000080;"]      Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" ? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ, đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
[_mce_style="color: #000080;"]                      ...  một lời lá bay
[_mce_style="color: #000080;"]      Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông, tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng, ông chỉ cần đáp lại cho họ, tức là cho cộng đồng... "một lời lá bay" ư? – Tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều… một đôi lời ve vuốt suông, hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi? sau đó ông thoảng qua như là ...lá bay…
[_mce_style="color: #000080;"]     Rồi ông cứ việc ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông -  Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
[_mce_style="color: #000080;"]    Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ thì: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi. Ông mặc xác tất cả. Rồi bài thơ kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
[_mce_style="color: #000080;"]      Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì?
[_mce_style="color: #000080;"]-  Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời: Ông cứ việc múc đau lòng đời, tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cho cái nửa đời chiều của ông mà: vẫn đầy sao hôm /-  là vậy.
[_mce_style="color: #000080;"] -   Còn nếu ta giả sử hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ: Ông múc đau ông,  nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"???... Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý, hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.                    
[_mce_style="color: #000080;"]     Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình? và có lẽ cũng không phải là không biết sự kém cỏi của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú…
[_mce_style="color: #000080;"]*  Ta hãy đọc bài "Người làm mùa":
[_mce_style="color: #000080;"]                     Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi
[_mce_style="color: #000080;"]                     Mùa hoàn hảo? Thiên nhiên bầy kiệt tác
[_mce_style="color: #000080;"]                     Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác
[_mce_style="color: #000080;"]                     Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?
[_mce_style="color: #000080;"]       Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn - Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay. Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia, rồi lại  mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng nữa đấy?
[_mce_style="color: #000080;"]* Tôi ví dụ bài "Vô thanh":
[_mce_style="color: #000080;"]                     Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
[_mce_style="color: #000080;"]                     Gió đi tìm khói chon von mấy đồi
[_mce_style="color: #000080;"]                     Mây kia ham sự nhất thời
[_mce_style="color: #000080;"]                     Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
    
Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo, tư duy nửa chừng, chưa ra đâu vào đâu và chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để... loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy, đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông. Trong một bài viết, Trần Mạnh Hảo nói Hữu Thỉnh làm thơ hay lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" là vậy! Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, tôi chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế!

[_mce_style="color: #000080;"]*  Bài "Lời mẹ": Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng Lời Mẹ của Hữu Thỉnh thì phải nói, thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 8 câu, tổng cộng toàn bài là 24 câu.
[_mce_style="color: #000080;"]     Khúc I-  Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý, tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế. Tạm gọi là cũng được:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Mẹ đã sinh ra tôi
[_mce_style="color: #000080;"]                     Đặt tên cho tôi nữa
[_mce_style="color: #000080;"]                     Một cái tên nõn nà
[_mce_style="color: #000080;"]                     Hồn nhiên như sói nhỏ
[_mce_style="color: #000080;"]                     Cái cối và cái chày
[_mce_style="color: #000080;"]                     Con mèo và con cún
[_mce_style="color: #000080;"]                     Yêu mấy vẫn chưa vừa
[_mce_style="color: #000080;"]                     Thoắt trở thành người lớn.
[_mce_style="color: #000080;"]           Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa… rồi ghép lại thành một khúc. Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu? Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu, chỉ có hai câu đầu là khác - còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau. Ý tứ vơ váo, chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào, cứ như là viết đại cho xong. Đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ, xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
[_mce_style="color: #000080;"]      Khúc II -  Tôi bước ra ngoài ngõ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Gió thổi. Nước triều lên...
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đi hoài không gặp tiên
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đành quay về hỏi mẹ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Hãy yêu lấy con người
[_mce_style="color: #000080;"]                       Dù trăm cay nghìn đắng
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đến với ai gặp nạn
[_mce_style="color: #000080;"]                       Xong rồi, chơi với cây!
[_mce_style="color: #000080;"]   Khúc III-    Tôi lại bước dưới trời
[_mce_style="color: #000080;"]                       Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
[_mce_style="color: #000080;"]                                    (6 câu sau giống hệt ở khúc 2)
[_mce_style="color: #000080;"]                        Đi hoài không gặp tiên/  Đành quay về hỏi mẹ/
[_mce_style="color: #000080;"]                        Hãy yêu lấy con người/   Dù trăm cay nghìn đắng/
[_mce_style="color: #000080;"]                        Đến với ai gặp nạn/   Xong rồi, chơi với cây!
[_mce_style="color: #000080;"]      Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                       "Xong rồi chơi với cây"?
[_mce_style="color: #000080;"]     Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường, đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? Hay như thi sĩ Tản Đà, chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành? Đằng này, Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà!
[_mce_style="color: #000080;"]     Đọc thơ ta có thể hiểu: Mẹ từng dặn anh ta rằng, con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều, đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!...
[_mce_style="color: #000080;"]      Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta: Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn thì phải đến cứu vớt họ! - Như ở câu thơ trên đó đã viết: Đến với ai gặp nạn"/ - Xong rồi lại về... "chơi với cây"!
[_mce_style="color: #000080;"]      Lời mẹ dặn vậy - Hữu Thỉnh đã cao thượng đến thế nào mà sao còn  tham lam thế? Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu… nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng.
[_mce_style="color: #000080;"]     Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ, đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về - Thế là bê luôn vào thơ, mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
[_mce_style="color: #000080;"]      Thế đấy, thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến 4 khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
[_mce_style="color: #000080;"]      Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về  tập thơ "Thương lượng với thời gian" thấp kém - Cũng như tầm vóc thơ Hữu Thỉnh: Một chân dung trung bình!
[_mce_style="color: #000080;"] -  Không phải là không có lý, trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố" - Đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán là dở vô cùng? là không biết làm thơ? là tào lao chi khươn?... ngay trên báo Văn Nghệ. (trích bài TMH).
[_mce_style="color: #000080;"]-   Cũng không phải là không có lý, trong lần thứ 2 ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát.
[_mce_style="color: #000080;"] *  Còn với tập "Trường ca biển": Nếu tôi bình thêm nữa thì dài quá! Song như dư luận hiện nay đã phê phán rất nhiều, giá trị tác phẩm làng nhàng, tầm thường. Tôi chỉ nói thêm: Ý tưởng và cấu tứ thơ luộm thuộm, nội dung ý nghĩa thơ vụn vặt, có nhiều chỗ viết nói dông dài, nghĩ ra cái gì viết cái đó ào đi. Lời nhiều nghĩa ít. Thơ viết dài dặc, lan man và hầu như không có cảm xúc. Nghĩa là, một trường ca viết ẩu.
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi cam đoan rằng: Loại trường ca này không tồn tại với thời gian và không lưu lại  được đối với nền văn học nước nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]      Thế mà Hữu Thỉnh vẫn cố tình mang nó ra, để đoạt lấy giải thưởng văn chương lớn không một chút ngượng ngùng. Đúng là rất thiếu tự trọng! Tôi xin dừng bài bình của mình ở đây.
[_mce_style="color: #000080;"]     Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thứ thơ tạp-pí-lù, câu cú lắp ghép vớ vẩn - Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ?  như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn?
[_mce_style="color: #000080;"]     Xin thưa:
[_mce_style="color: #000080;"]              HỮU THỈNH KHÔNG CÓ MỘT BÀI THƠ NÀO
[_mce_style="color: #000080;"]                  THỰC SỰ LÀ THƠ HAY CỦA THI ĐÀN?    
     Hầu hết thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa, không đứng được với thời gian - Song cũng có được đôi bài thơ gọi là kha khá, đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ kha khá đó... vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.

[_mce_style="color: #000080;"]        TRƯỚC HÊT NÓI VỀ MỘT NGUYÊN TẮC 
[_mce_style="color: #000080;"]         TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
[_mce_style="color: #000080;"]      Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
[_mce_style="color: #000080;"]      Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng, nó cũng chỉ là loại thơ... ra rác mà thôi! Nói cho có chút động viên để các nhà thơ đỡ xót xa, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn nghệ nhất thời, rồi thì nó sẽ... vứt đi!
[_mce_style="color: #000080;"]      Vậy thì hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.
[_mce_style="color: #000080;"]      THÍ DỤ VỀ HỮU THỈNH - Đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Xin phân tích ít dòng về vầi bài thơ được gọi là khá nhất của Hữu Thỉnh.
[_mce_style="color: #000080;"]      1/. "Thơ viết ở biển"- Bài thơ chứa rất nhiều khuyết tật? Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
[_mce_style="color: #000080;"]                      Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
[_mce_style="color: #000080;"]     Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Hình ảnh thơ dùng không đúng nghĩa, nên tính lôgic của ý thơ bị kém đi.
[_mce_style="color: #000080;"]      Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh?... Hình tượng ví von này còn gượng gạo - Tại sao em lại là… "chiều"? Hình ảnh "chiều" không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ.  Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa chính xác. Về phương diện sáng tác thi ca, nhất là đối với một nhà thơ chuyên nghiệp, sử dụng hình tượng như thế là… dùng bừa.
[_mce_style="color: #000080;"]      Mấy hình ảnh thơ đầu thì hay:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Anh xa em
[_mce_style="color: #000080;"]                    Trăng cũng lẻ
[_mce_style="color: #000080;"]                    Mặt trời cũng lẻ
    
  Nhưng đến hai câu sau:

[_mce_style="color: #000080;"]                   Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
[_mce_style="color: #000080;"]                   Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
[_mce_style="color: #000080;"]     Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này được. Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt. Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái? Trong văn học người ta thường ví: Em là biển cả mênh mông… tình em biển cả… hay “Trên biển cả tình em, anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi”... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong thơ Hữu Thỉnh - Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" -  Thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em!
[_mce_style="color: #000080;"]     Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển cả" còn em như... "cánh buồm" ???  Sự ví von lộn ngược như thế hơi buồn cười, thơ trở thành khập khiễng. 
[_mce_style="color: #000080;"]-  Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Lòng thuyền nhiều khát vọng
[_mce_style="color: #000080;"]                   Và tình biển bao la...
[_mce_style="color: #000080;"]     Hay là:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Những đêm trăng hiền từ
[_mce_style="color: #000080;"]                   Biển như cô gái nhỏ
[_mce_style="color: #000080;"]                   Thầm thì gửi tâm tư
[_mce_style="color: #000080;"]                   Quanh mạn thuyền sóng vỗ
[_mce_style="color: #000080;"]     Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
[_mce_style="color: #000080;"]                  Cũng có khi vô cớ
[_mce_style="color: #000080;"]                  Biển ào ạt xô thuyền
[_mce_style="color: #000080;"]     Rồi nhà thơ giải thích:
                  Vì tình yêu muôn thuở

[_mce_style="color: #000080;"]                  Có bao giờ đứng yên?
[_mce_style="color: #000080;"]    Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong. Nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
[_mce_style="color: #000080;"]                 Chỉ có thuyền mới hiểu
[_mce_style="color: #000080;"]                 Biển mênh mông nhường nào  
[_mce_style="color: #000080;"]                 Chỉ có biển mới biết
[_mce_style="color: #000080;"]                 Thuyền đi đâu, về đâu...
[_mce_style="color: #000080;"]     Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lôgic! Khi nói về sự xa cách hoặc có thể rạn vỡ tình yêu? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
[_mce_style="color: #000080;"]                Những ngày không gặp nhau
[_mce_style="color: #000080;"]                Biển bạc đầu thương nhớ
[_mce_style="color: #000080;"]                Những ngày không gặp nhau
[_mce_style="color: #000080;"]                Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
[_mce_style="color: #000080;"]     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự… "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái. Còn sự rạn vỡ của con thuyền trong biển cả tình yêu, chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình.
[_mce_style="color: #000080;"]      Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới được coi là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học nước nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]     Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài.
[_mce_style="color: #000080;"] -  Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
[_mce_style="color: #000080;"]                 Vì sóng đã làm anh
[_mce_style="color: #000080;"]                 Nghiêng ngả
[_mce_style="color: #000080;"]                 Vì em...
[_mce_style="color: #000080;"]     Cảm xúc đến đây Hữu Thỉnh bị bí, nên hình ảnh thơ dùng bị quẫn - Vì là một bài thơ viết ở biển, tác giả mới lấy hình tượng “sóng” để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng câu:
[_mce_style="color: #000080;"]                 Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
[_mce_style="color: #000080;"]      Như phân tích ở đoạn trên: "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai! Mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi!... Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em ???...
[_mce_style="color: #000080;"]     Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh - tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ cũng chưa được viên mãn, bài thơ kết bị đuối.
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta hãy xét đến đoạn thơ kết  trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng thuyền-biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái,  nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Nếu từ giã thuyền rồi
[_mce_style="color: #000080;"]                        Biển chỉ còn sóng gió
[_mce_style="color: #000080;"]                        Nếu phải cách xa anh
[_mce_style="color: #000080;"]                        Em chỉ còn bão tố...
[_mce_style="color: #000080;"]    Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
[_mce_style="color: #000080;"]    Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca của hai thơ về biển trên, có thể nói: Thơ Hữu Thỉnh kém Xuân Quỳnh gần một tầm.
[_mce_style="color: #000080;"]         2/.  Xin nói đôi nét về "Sang thu"- Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ khá nhất của Hữu Thỉnh. Tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Vẫn còn bao nhiêu nắng
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhưng:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Sương chùng chình qua ngõ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Hình như thu đã về.
[_mce_style="color: #000080;"]     Cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó có khéo. Nào là:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Bỗng nhận ra hương ổi
[_mce_style="color: #000080;"]                       Phả vào trong gió se
     Rồi:

[_mce_style="color: #000080;"]                       Sông được lúc dềnh dàng
[_mce_style="color: #000080;"]                       Chim bắt đầu vội vã
[_mce_style="color: #000080;"]                       Có đám mây mùa hạ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Vắt nửa mình sang thu
[_mce_style="color: #000080;"]     Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Sấm cũng bớt bất ngờ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Trên hàng cây đứng tuổi
[_mce_style="color: #000080;"]      Tức là, tác giả mới cảm nhận về một khung cảnh thiên nhiên mà miêu tả nó ra. Tuy sự miêu tả có gợi cảm, nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận về một “tình đời” hay “nỗi người”, là không có!
[_mce_style="color: #000080;"]     Trong nền văn hiến nghìn năm Thăng Long xưa nay, chưa từng có bài thơ nào chỉ tả cảnh suông, “nỗi đời” - “tình người” không có hoặc nhạt nhẽo mà lại được gọi là thơ hay? Xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng.
[_mce_style="color: #000080;"]* Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan - Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau bốn câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá  thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi,  thưa thớt vài quán chợ bên sông… Chỉ bằng hai câu ở giữa bài, mượn cảnh vật để mô tả nhưng đã ôm bọc cả nỗi nước, tình nhà của lòng bà gửi trong đó:
[_mce_style="color: #000080;"]                         Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
[_mce_style="color: #000080;"]                         Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
[_mce_style="color: #000080;"]   Cuối cùng, tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu, hạ một câu kết tuyệt bút:
[_mce_style="color: #000080;"]                          Một mảnh tình riêng ta với ta
[_mce_style="color: #000080;"]    Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích. Cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]    *  Dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là  một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
[_mce_style="color: #000080;"]                           Trong làn nắng ửng khói mơ tan
[_mce_style="color: #000080;"]                           Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
[_mce_style="color: #000080;"]                           Sột soạt gió trêu tà áo biếc
[_mce_style="color: #000080;"]                           Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
[_mce_style="color: #000080;"]      Tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy, hết sức đời và sống động:
[_mce_style="color: #000080;"]                           Bao cô thôn nữ hát trên đồi
[_mce_style="color: #000080;"]                           Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
[_mce_style="color: #000080;"]                           Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
[_mce_style="color: #000080;"]     Hay là khi tả về tiếng hát:
[_mce_style="color: #000080;"]                           Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
[_mce_style="color: #000080;"]                           Hổn hển như lời của nước mây...
[_mce_style="color: #000080;"]      Không phải chỉ là nước mây “hổn hển”, mà chính là lòng thi nhân… “hổn hển” vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
[_mce_style="color: #000080;"]                           Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
[_mce_style="color: #000080;"]                           Xem ra ý vị và thơ ngây...
[_mce_style="color: #000080;"]     Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân. Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
[_mce_style="color: #000080;"]                          Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
[_mce_style="color: #000080;"]                          Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
[_mce_style="color: #000080;"]                          -  Chị ấy năm nay còn gánh thóc
[_mce_style="color: #000080;"]                          Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
[_mce_style="color: #000080;"]     "Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân, hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh "nắng chang chang" chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
[_mce_style="color: #000080;"]     Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh: 
[_mce_style="color: #000080;"]                       Vẫn còn bao nhiêu nắng
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đã vơi dần cơn mưa
[_mce_style="color: #000080;"]                       Sấm cũng bớt bất ngờ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Trên hàng cây đứng tuổi.
[_mce_style="color: #000080;"]     Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình gì đâu? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử...  mà có tiếng. Trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình.                   
[_mce_style="color: #000080;"]    * Lại ví dụ "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình hiu hắt với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ, khi ông chán nơi quan trường… từ quan về nương náu chốn thôn hương:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
[_mce_style="color: #000080;"]                        Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
[_mce_style="color: #000080;"]   Nhất là hai câu kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Tựa gối buông cần lâu chẳng được
[_mce_style="color: #000080;"]                        Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả nỗi niềm bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời. Một tâm trạng khắc khoải, chênh vênh  trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!
[_mce_style="color: #000080;"]       3/. Nói về "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu hùng tráng của một thời. Giọng điệu từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường. Qua thời gian  thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
[_mce_style="color: #000080;"]* KẾT LUẬN: Chắc rằng, mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ. May ra có vài ba tình thơ đứng lại được trong những năm tháng nào đó, nhưng cũng nhạt nhoà.. Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào?
[_mce_style="color: #000080;"]           BÀN THÊM VỀ BÀI THƠ "HỎI",
[_mce_style="color: #000080;"]         MỘT BÀI THƠ ĂN CẮP CỦA HỮU THỈNH
[_mce_style="color: #000080;"]   Thời gian trước, bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh đã bị tác giả Đại Lãng Du Tử tố cáo trên vietnamnet.vn, vạch trần là đạo thơ bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig.  Trong sáng tác thơ ca, ăn cắp thơ của người khác rồi biến tấu làm thơ mình là điều rất thối tha, đê tiện đối với một nhà thơ chuyên nghiệp. Thế mà ông Chủ tịch Hội nhà văn, kẻ tham lam đủ thứ cũng mắc luôn vào.
[_mce_style="color: #000080;"]       Như Nguyễn Trọng Tạo đã ví về sự đạo thơ của Hữu Thỉnh như sau :
[_mce_style="color: #000080;"]    “Đặt 2 bài thơ của 2 tác giả một Đức một Việt cạnh nhau sao nó giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy...        
[_mce_style="color: #000080;"]     Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?”.
[_mce_style="color: #000080;"]    Tôi chỉ nói thêm: Thật ra bài thơ "Hỏi" cũng đâu có phải là bài thơ hay? Nói như nhà phê bình văn học Đặng Tiến đã nhận xét: Nó là một bài thơ xoàng, không hay không dở / - Nhưng cái giống văn sĩ đương đại bây giờ, nhất là một số trong Hội nhà văn vo ve xung quanh Hữu Thỉnh tâng bốc, tung hoả mù, hoa giấy loạn xạ... ca mãi nó lên tận mây xanh.
[_mce_style="color: #000080;"]    Nói cho đúng mức: Cái làm nên giá trị đối với bài thơ là tính nhân văn trong những câu thơ “nói về người” ở cuối bài - Thì giá trị nhân văn ấy, Hữu hỉnh đã bê nguyên si từ bài thơ của nữ văn sĩ Christa Reinig vào, làm thành bài thơ “Hỏi” của mình !?
[_mce_style="color: #000080;"]     Chắc Hữu Thỉnh chủ quan cho rằng: chẳng ai biết đấy là đâu? Đúng là lưới trời lồng lộng, khuất tất, đen tối rồi cũng bị phơi bày ra ánh sáng.Thật là nhục nhã cho cả Hội nhà văn quốc gia, có một ông Chủ tịch đổ đốn đến như thế!
[_mce_style="color: #000080;"]              CHƯA CÓ GIAI ĐOẠN NÀO MÀ CHÂN DUNG
[_mce_style="color: #000080;"]           CÁC NHÀ THƠ HỘI NHÀ VĂN THẤP KÉM NHƯ BÂY GIỜ
[_mce_style="color: #000080;"]  Trong đương đại hiên nay, không ít những nhà thơ loại kỳ cựu như Hữu Thỉnh, dẫu có tên tuổi nhưng chẳng ai có nổi một - hai bài thơ thực sự được gọi là thơ hay thi đàn! Thí dụ, Hữu Thỉnh thì tôi vừa phân tích trên - Thanh Nhàn là "Hương thầm" - Vũ Quần Phương "Đợi" - Bằng Việt "Nghĩ lại về Pauxtôpxky" (chứ không phải Bếp Lửa)... đều mới đạt ở bài thơ khá, chưa đựơc vào loại thơ hay của nền văn học nước nhà, như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Mùa Xuân Chín hay Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử, Thu Điếu của Nguyễn Khuyến, Tranh Loã Thể - Bích Khê, Thuyền và biển của Xuân Quỳnh...
[_mce_style="color: #000080;"]      Kể từ 1975 đến nay, hầu hết trong lớp nhà thơ đương đại chưa ai vượt qua nổi xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh tuy chưa đạt được là một nhà thơ lớn, nhưng chí ít bà cũng lưu lại được cho thi đàn Việt một mảng thơ, trong đó có "Thuyền và biển” là một bài thơ tình hay cùng một số tình thơ đặc sắc khác. Còn phần lớn các nhà thơ đương đại của Hội nhà văn, tuy viết nhiều nhưng thơ ca nham nhúa, chân dung thấp và không có khả năng tồn tại. Một số ít, may ra mỗi người có vài ba bài tạm được. Theo con mắt thơ của tôi: Gần như cả một đương đại thơ ca, hầu hết các nhà thơ HNVVN… không một nhà thơ nào có nổi một tập thơ sống được với đời, để có thể lưu lại cho nền văn học nước nhà?
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi từng nói với Trần Đăng Khoa rằng: Chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN hiện nay, thấp nhất trong lịch sử thi ca của nước nhà! Từ lớp nhà thơ vào thời hậu chiến như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, đến nhiều các nhà thơ đương đại khác.... rồi thơ phú sẽ sổ toẹt hết! Chết đi là mang theo thơ xuống mồ. Như Gớt nói “tầng tầng bụi phủ” - Kể cả lớp kế cận sau như lớp nhà thơ Nguyễn Quang Thiều… thơ cũng chưa đứng được!... mà thơ không tồn tại thì làm gì có chân dung thi nhân cơ chứ? Nói gì đến "lớn" với chả "cao"...
[_mce_style="color: #000080;"]           CHÂN DUNG & TÁC PHẨM THƠ ĐƯƠNG ĐẠI THẤP KÉM
[_mce_style="color: #000080;"]                               NHƯNG LẠI QUÁ NHIỀU TẠP DỊCH
[_mce_style="color: #000080;"]   Chưa bao giờ Hội nhà văn lại nhiều uế tạp như dưới triều đại lãnh đạo của ông Chủ tịch Hữu Thỉnh? Chỉ kể vài chuyện gần - Nào "Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều" tháng 6/2012, mà ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp bốc thơm lên tận mây xanh, với một ý thức cá nhân đầy thiển cận. Bị dư luận trên văn đàn trong và ngoài nước phê phán, bài xích rất nhiều.
[_mce_style="color: #000080;"]      Một hội thảo thơ lợi dụng danh nghĩa quốc gia của hai ông đứng đầu hai tổ chức văn học lớn nhất nước, mà những đàm luận của các nhà văn, nhà thơ, phê bình lý luận văn chương… quá bát nháo chi khươn. Chẳng có nổi một tầm thước nào khả dĩ để có thể nể trọng, về cả tài lẫn nhân cách bình phẩm văn học. 
[_mce_style="color: #000080;"]        Như nhà bình luận Nguyễn Đình Chúc đã đánh giá: "Hội thảo thơ hay là thổi kèn đám ma nền thi ca việt Nam?”.
[_mce_style="color: #000080;"]      Hoặc theo cách nói của nhà bình luận văn học Trần Mạnh Hảo, đó là một "Hội thảo thơ Tân con cóc Nguyễn Quang Thiều", nhận định:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ phải đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xoá mọi hàm ngôn (tâm hồn lạnh tanh máu cá/ Nhiệt tình xuống quá độ âm - Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều hoà trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ trương phải độc âm hay độc dương - ... Rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo, v.v...
[_mce_style="color: #000080;"]     Nói như thế có thể hơi nặng quá! Vậy thực chất thì sao? Thực chất Hội thảo thơ Nguyễn Quang Thiều để lại cho văn đàn một kết quả… rất là ba lăng nhăng. Với cái đám văn sĩ tham gia hội thảo, khen nhặng xị thơ Nguyễn Quang Thiều. Kẻ lý luận thì huyên thuyên với mớ kiến thức cận thị rất sách vở, đứa sáng tác cụ thể thì nông cạn, kém cỏi - đến thơ của mình viết ra rồi mai đây cũng chỉ để... cho vào sọt rác. Thử hỏi làm sao có thể đủ khả năng đánh giá được thơ hay với chả không hay? nhất lại là thi ca hiện đại! Cùng hai ông: Một viện trưởng, một Chủ tịch Hội nhà văn - nhận thức thẩm định tác phẩm thơ ca vẫn còn rất mông muội. Thật là lắm kiểu "dổm". 
[_mce_style="color: #000080;"]     Khi một bình luận viên hỏi Nguyễn Quang Thiều:
[_mce_style="color: #000080;"]-    Ông có nghĩ về tác phẩm của mình như một di sản để lại?                                
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta hãy nghe Nguyễn Quang Thiều trả lời:
[_mce_style="color: #000080;"]-    Tôi không xem những điều mình viết như một di sản để lại... những tác phẩm? Thật khó có thể trường tồn. Tôi không dám nghĩ điều gì cả - Tôi chỉ mong hậu duệ của mình sau này đọc những bài thơ tôi viết ngày nay có thể nghĩ về năm tháng trong gia đình ấy, mọi người đã sống như thế nào? Mọi thứ rồi sẽ có thể bị quên lãng...                                        Kể ra Nguyễn Quang Thiều nghĩ thế cũng phải. Thơ Nguyễn quang Thiều trường tồn làm sao được? Sẽ cát bụi thôi! Nhưng ngay cả cái ước nguyện mà Thiều muốn "được hậu duệ sau này đọc thơ của mình..."? E, cũng chỉ là một sự hoang tưởng - Muốn hậu duệ chúng còn giở thơ Thiều ra đọc, để ngẫm nghĩ về những gì Thiều đã sống hôm nay ư? Hoạ chăng Thiều phải trở thành nhà thơ lớn của đất nước, của dân tộc. Còn thì chúng chẳng bận tâm đến quá nhiều cái mớ hỗn độn, bùng nhùng hôm nay đâu?
[_mce_style="color: #000080;"]     Đời thế đó! Lịch sử rồi sẽ công bằng. Là đại bàng thì rồi đại bàng sẽ bay, còn nếu chỉ là chim cu hay chim sẻ? dù hôm nay có được cho vào trong lồng son chăm sóc, hoặc tung hứng lên tận mây xanh...  thì nó vẫn cứ chỉ là chim cu, chim sẻ thôi!  
[_mce_style="color: #000080;"]        LẠI BÀN ĐẾN VIỆC ÔNG CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN TRƠ TRẼN
[_mce_style="color: #000080;"]        NGỢI CA THỨ THƠ ĂN CẮP, LOÈ BỊP HOÀNG QUANG THUẬN
[_mce_style="color: #000080;"]       Bị dư luận văn đàn trong nước và hải ngoại lên án, phỉ báng - rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]    " Trong cuộc hội thảo của Hội nhà văn Việt Nam do ông Hữu Thỉnh chủ trì để tuyên truyền, tụng ca thơ viết về Yên Tử của Hoàng Quang Thuận lên hàng thơ thần, thơ phật, thơ tiên, thơ thánh nhằm tìm mọi cách dành giải Nobel cho ông Viện trưởng công nghệ thông tin.... Hoá ra, ông viện trưởng "gà sống thiến sót” này đã nói dối, rằng thơ thẩn của ông là thơ ăn cắp... Tội lừa đảo cả thế giới, lừa đảo cả trời phật này của liên danh thơ thẩn Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh to lắm, nặng nghiệp lắm, đê tiện lắm... Mục tiêu của liên danh thơ thẩn này trước hết là danh sau đó là tiền. Hữu Thỉnh từng nổi tiếng về chuyện ăn cắp thơ nên ông vẫn rất hạp, rất nghiền một ông thơ thẩn viện trưởng đại ăn cắp khác. Cho hay, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã... Hữu Thỉnh, vua xin dự án, vua xin tiền trợ cấp sáng tác, nhân đà này, chắc chắn sẽ xin nhà nước trợ cấp hàng nhiều tỉ đồng làm phim về thi thánh thi tiên Hoàng Quang Thuận... Nếu không có các anh Trần Trương, Nguyễn Hoà, Nguyễn Minh Tâm... những người chân chính vạch rõ trò lừa đảo của liên danh thơ thẩn bẩn thỉu này, chắc chắn hàng trăm tỉ đồng của nhân dân sẽ mất toi để quảng bá cho một sản phẩm thơ ăn cắp thành thơ tiên thơ thánh thơ phật thơ trời để đánh lừa nhân dân, lừa thế giới và lừa cả trời phật của Hoàng Quang Thuận - Hữu Thỉnh..."
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                         (theo Trần Mạnh Hảo)                  
[_mce_style="color: #000080;"]     Như thế càng thấy rõ bộ mặt thật của Hữu Thỉnh - thực sự đã trở thành một kẻ phá hoại, hại dân, hại nước. Trên địa bàn văn học nói chung, Hữu Thỉnh với cương vị một Chủ tịch Hội nhà văn quốc gia nhưng chẳng khác nào thủ lĩnh của một đám người "gian manh cơ hội".  
[_mce_style="color: #000080;"]                    Dẫn chứng thêm về:
[_mce_style="color: #000080;"]            GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NĂM 2012 CỦA HỘI NHÀ VĂN
[_mce_style="color: #000080;"]                                                      rất tạp? 
[_mce_style="color: #000080;"]      Xin nói riêng những xàm bậy về giải thưởng thơ - Ngoài hai tác phẩm "Trường ca chân đất" của Thanh Thảo và "Giờ thứ 25" của Phạm Đương mà dư luận chê bai là viết dở nhạt như nước ốc.
[_mce_style="color: #000080;"]     Giải thưởng cho tập thơ “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy bị dư luận lên án nhiều nhất. Trần Mạnh Hảo gọi đó là một "Tập thơ nước cống". Lời chỉ trích như sau:
[_mce_style="color: #000080;"]    "Tại sao chúng tôi gọi thơ của Trần Quang Qúy là thơ nước cống vì nó viết quá dễ dãi, quá nhạt nhẽo, viết lăng nhăng, lảm nhảm, thô tục, phi cảm xúc, phi hình ảnh, phi hình tượng, phi hàm súc, phi nội hàm, nói toẹt ra những câu nói thường nhật tào lao chi khươn, hoàn toàn phi truyền cảm, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi thơ…".
[_mce_style="color: #000080;"]     Nào là:
[_mce_style="color: #000080;"]     "Trần Quang Qúy làm thơ như là nhái thơ Nguyễn Quang Thiều, phó bản của Nguyễn Quang Thiều. Nếu Nguyễn Quang Thiều là giáo chủ của trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM thì Trần Quang Qúy đã trở thành phó giáo chủ của trường thơ nước cống này…".
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi chỉ nói thêm:  "Màu tự do của đất" của Trần Quang Quý là thứ thơ học đòi theo kiểu làm thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng vẫn còn vụng. Ngôn ngữ thơ viết cứ như thể cố làm bộ làm tịch. Nhiều chỗ đọc nó ngô nghê, ngọng nghịu, giả cầy, giả cáo… đến buồn cười. Ý tứ vặn vẹo? triết lý thế này, thế nọ? cứ như một cô gái vô duyên nhưng lại hay thích ưỡn ẹo, làm đỏm. Sự bắt chước viết thơ như thế là một điều ngu xuẩn nhất của một thằng làm thơ! Có mất công rồi cũng chỉ để... vứt đi! Huống hồ thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã thành công đâu? Quý học mót theo kiểu làm thơ ấy... thật là một thứ trò cười của một gã nhà thơ "dổm" của HNVVN vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]     Cũng chẳng hiểu Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cùng bậu xậu giám khảo của Ban chấp hành xét giải kiểu gì? Cho giải kiểu đó có khác chi là... phóng uế bừa bãi?
[_mce_style="color: #000080;"]   Mấy năm trước Trần Quang Quý nguyên là Tổng biên tập báo "Gia đình & Xã hội" - Nghe dư luận hồi đó: Quý mắc vào một vụ bê bối tiền bạc ở toà báo, hình như là "tiền tình nghĩa" gì đó? Khi ấy có tin đồn: có thể Quý sẽ bị truy tố? Nhưng sau nghe đâu là nhờ Hữu Thỉnh đã lo lót, chạy đỡ nên Quý thoát  khỏi vòng lao lý, nhưng bị trục xuất ra khỏi toà báo "Gia đình & Xã hội". Sau đó Hữu Thỉnh định đưa Quý về làm phó tổng biên tập báo Người Hà Nội, nhưng bị Ban tuyên huấn Thành Uỷ Hà Nội (cơ quan chủ quản của báo Người Hà Nội) không chấp nhận vì đã có tỳ vết, không còn trong sạch. Cuối cùng thì Quý được Hữu Thỉnh đưa về làm phó giám độc Nhà xuất bản Hội nhà văn cho đến nay.
[_mce_style="color: #000080;"]     Đấy, cái kiểu sử dụng người của Hữu Thỉnh thường hay theo lề thói đó. Nghe anh em trong giới báo chí nói: Trần Quang Quý thuộc những đệ tử ngoan ngoãn nhất của ông Chủ tịch Hội nhà văn - Cho nên một tập thơ, dù là "nước cống hay nước rãnh" được giải thưởng như vừa qua cũng chẳng có gì lạ? Như Trần Mạnh Hảo nói:  Hội nhà văn quốc gia bây giờ là "Hội nhà văn Hữu Thỉnh", còn giải thưởng văn học của Hội cũng trở thành "giải đểu" mà? Ý nghĩa, giá trị của nó đã trở thành giải bèo, giải bọ...
[_mce_style="color: #000080;"]     Ngay cả việc kết nạp hội viên vào HNVVN bây giờ cũng vậy. Dư luận bao năm nay vẫn chỉ trích rất nhiều, muốn vào Hội thì phải đút lót? nhất là đối với Ông Hữu Thỉnh - cũng theo Trần Mạnh Hảo đã tố cáo:
[_mce_style="color: #000080;"]     " Việc ông Hữu Thỉnh kết nạp "nhà thơ Hùng Anh" (tức Hùng Tấn, giám đốc công ty dược Cà Mau) - một kẻ làm thơ con cóc nhưng lắm tiền do tham nhũng vào Hội, là ông đã ném đá lên khát vọng vào Hội của các nhà văn chưa hội viên. Hùng Tấn  - Hùng Anh kết nạp vào Hội do tiền mới được hai tháng đã bị bắt vì tham nhũng hàng trăm tỉ đồng..."    
[_mce_style="color: #000080;"]     Hồi còn nhà thơ Phạm Tiến Duật đã từng viết bài trên báo Công an nhân dân, lên án ông Chủ tịch kết nạp hội viên vào HNVVN có hành vi không trong sáng. Cũng cố tình kết nạp một gã giám đốc nào đó ở phía nam, trình độ thơ ca tầm thường - mặc dù có số người không đồng ý... nhưng Hữu Thỉnh vẫn nhất quyết chỉ đạo đưa vào Hội. Sau đó hắn cũng phải vào tù vì tham nhũng.
[_mce_style="color: #000080;"]     Có lẽ từ khi có Hội nhà văn Việt Nam đến nay, chưa từng có một ông chủ tịch Hội nào lại nhiều xấu xa, nhân cách kém như Hữu Thỉnh? Chẳng những biến Hội nhà văn, một tổ chức văn chương cấp quốc gia thành nơi chứa quá nhiều sự ô uế tạp dịch. Càng làm cho nền thi ca nước nhà trở nên tầm thường, thấp kém! Thật là đáng hổ thẹn và nhục nhã thay?
[_mce_style="color: #000080;"]           
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                        Hà Nội, mùa hè 2013
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                                               PNT. 
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]                              NGUYỄN KHOA ĐIỀM HAY TÊN LÝ THÔNG ĐĨ BỢM
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                 PHẠM NGỌC THÁI

[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi có ý định bình tổng hợp một số bài thơ gần đây nhất, Nguyễn Khoa Điềm đã viết sau thời gian hết đường quan lộ về làm thường dân - Nhưng khi đọc bài "Sự tầm thường" thì lại muốn bình luận riêng trong trang này, số bài thơ khác xin để viết sau.
[_mce_style="color: #000080;"]      Nói về bài "Sự tầm thường"? Bắt đầu vào thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
[_mce_style="color: #000080;"]                    Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
[_mce_style="color: #000080;"]     Hình ảnh "vợ chồng sớm chiều..." ở đây, là ý nói sau khi Nguyễn Khoa Điềm đã bị thất sủng, buộc phải rời Ban bí thư Trung ương và Bộ Chính trị... về sống nơi thôn hương với gia đình. Dầu tác giả có"treo mình" lên cái đinh mắc màn, mắc áo… hay gì gì đi nữa -  Nhưng với người vợ má kề gối ấp của mình, đáng lẽ đó vẫn phải là hình ảnh đẹp, thân thương trong đời thường của nhân dân. Năm xưa quen chốn quan trường, ông không thể nào cảm thấy sự quý giá đó? Bởi vậy không nên dùng chữ "sự tầm thường", đánh đổ đồng láo nháo như ở trong bài thơ này .
[_mce_style="color: #000080;"]     Xin xét vào các đoạn thơ sau, rồi ta sẽ trở lại phán xét tiếp về những câu thơ đầu tiên ấy.
[_mce_style="color: #000080;"]                      Bàn chuyện chạy chọt
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Mơ ước nào cũng có giá.
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đôi người nhắc nhở rằng
[_mce_style="color: #000080;"]                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
[_mce_style="color: #000080;"]                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
[_mce_style="color: #000080;"]     Qua hình ảnh về những "sự tầm thường", để Nguyễn Khoa Điềm lên án một hiện thực xã hội? Đó là một xã hội chưa có "độc lập tự do" thực sự:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
[_mce_style="color: #000080;"]                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
[_mce_style="color: #000080;"]      Phải chăng đó cũng chính là sự phản ứng chế độ trong tư tưởng của ông Uỷ viên Bộ chính trị một thời? Tôi muốn hỏi cả một thời làm quan to, sao ông không có ý nghĩ này nhỉ? Khi chế độ chưa có độc lập tự do thực sự, thì đừng nên "gieo mơ ước vào đầu con trẻ" - vì mơ ước nào cũng sẽ phải trả giá?
[_mce_style="color: #000080;"]      Thí dụ: Ở xã hội đó, nếu đấu tranh cho lẽ công bằng? cho sự tự do hay quyền sống chính đáng của con người? Thì sẽ bị đàn áp! Sẽ phải vào tù! Bởi vậy, con trẻ lớn lên chỉ nên biết: ...nhẫn nhục để ổn định/-  Nghĩa là, chấp nhận cuộc đời như con lươn, con trạch thôi. Đấy, ý thơ phản biện lại xã hội đương thời của Nguyễn Khoa Điềm như vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]     Thế thì, thực sự bản chất của xã hội ấy là gì? Chẳng lẽ, những năm tháng khi Nguyễn Khoa Điềm còn là Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, xã hội vẫn còn rất tốt đẹp sao? Nó chỉ vừa mới xấu xa, tha hoá… khi ông trở về làm một thường dân? Hay bởi, khi đó đang còn là một ông quan cách mạng, ông cần phải sống giả tạo để hưởng cho xả láng những thứ bổng lộc, vinh hoa phú quý… mà đảng cộng sán và cái nhà nước độc quyền này đã ban tặng cho ông?
[_mce_style="color: #000080;"]     Hôm nay đường quan lộ thất thế rồi, Nguyễn Khoa Điềm mới phản thùng? Hay, ông muốn ăn năn hối lỗi trước nhân dân về quá khứ của mình chăng? Ta đặt ra câu hỏi:
[_mce_style="color: #000080;"]1.  Có thể khi trở về với cuộc sống thường dân, Nguyễn Khoa điềm mới nhận ra sự còn phi nhân, phi nghĩa của thể chế, nên đã tự sám hối về mình?
[_mce_style="color: #000080;"]2.   Hoặc là, trước đây không phải ông không biết sự bất chính của guồng máy chính trị ấy? nhưng ông vẫn giả bộ như bao kẻ cơ hội khác: Tỏ ra cao đạo, đục nước béo cò, để tận hưởng cho thoả mãn sự sung sướng, phè phỡn của một ông quan lớn!
[_mce_style="color: #000080;"]     Có bao giờ ông cần quan tâm đến chuyện một đứa trẻ mới vào lớp một cũng đã phải chạy chọt... như thơ ông viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Bàn chuyện chạy chọt
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
[_mce_style="color: #000080;"]   Ông cũng đâu cần quan tâm đến việc nhân dân đã phải chịu đựng bao sự "nhẫn nhục”,  để ổn định và vượt qua cuộc sống... “tầm thường”?
[_mce_style="color: #000080;"]      TA SANG ĐOẠN THƠ THỨ HAI - Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một loạt những "sự tầm thường", nào là:
[_mce_style="color: #000080;"]                   ...Với tờ giấy bạc trên miệng.
[_mce_style="color: #000080;"]                   Sự tầm thường thật kín kẽ
[_mce_style="color: #000080;"]                   Mặc những tấm áo đúng thời tiết
[_mce_style="color: #000080;"]                   Tụ tập trên các diễn đàn
[_mce_style="color: #000080;"]                   Nói lời rỗng...
[_mce_style="color: #000080;"]     Ối, ông Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương! Chắc cái thời mà chính ông vẫn thường liên tục thuyết giáo trên diễn đàn? Khi ấy ông toàn nói những lời đẹp đẽ, quí hoá, lại vô cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn với vận mệnh non sông đất nước chăng? chứ không lăng nhăng, xàm tiếu như những phường ông nghị bây giờ? Rồi:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
[_mce_style="color: #000080;"]                     Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
[_mce_style="color: #000080;"]     Thí dụ, như các cuộc "thảo luận đại sự" trong các Hội nghị Trung ương đảng hay là họp Quốc hội vừa qua chẳng hạn? Nghĩa là, những ông nghị thì chỉ toàn... "nghị gật"! Còn đại biểu phần lớn là… "đại biểu bù nhìn"! Rồi đẻ ra những thứ nghị quyết tào lao chi khươn, sáo rỗng, phản dân chủ tự do của nhân dân. Mặc cho nước mạt, quan thi nhau tham nhũng, xã hội xuống cấp, đạo đức tha hoá - Đấy chính là ý nghĩa của câu thơ:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
[_mce_style="color: #000080;"]     Rồi ông kết luận:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
[_mce_style="color: #000080;"]                    Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
[_mce_style="color: #000080;"]                    Tai quái.
[_mce_style="color: #000080;"]      Thế là đã rõ: Nguyễn Khoa Điềm phủ nhận toàn bộ các phong trào? Dù đó là phong trào có tính chất quốc dân, cùng tất cả mọi kiểu hội nghị thời nay - Mục đích làm gì?
[_mce_style="color: #000080;"]- Để chỉ nhõn sắm.../-  tức là vơ vét… tạo ra: "sự tầm thường tai quái" /- Nghĩa là các phong trào hay hội nghị đó toàn ba lăng nhăng, hoặc mục đích trục lợi giống như những sự loè bịp quái thai vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]     Chẳng phải cũng chính Nguyễn Khoa Điềm đã phủ nhận toàn bộ bộ máy nhà nước, dù thời của ông hay hiện nay đó sao?
[_mce_style="color: #000080;"]    Ta cần phải hiểu nhân cách ông bí thư T.Ư & Uỷ viên Bộ chính trị Nguyễn Khoa Điềm thế nào? Có phải cũng chỉ là một kẻ trục lợi quốc gia… cơ hội, đục nước béo cò… trong một guồng máy còn phi nhân, phi nghĩa! Để bây giờ hết lợi lộc rồi, về làm thường dân… ông mới buông ra những lời nguyền rủa, bài xích? 
[_mce_style="color: #000080;"]      Xin trở lại với những câu thơ đầu tiên, khi ông nói về cuộc sống thường dân bên người vợ:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
[_mce_style="color: #000080;"]                       Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
[_mce_style="color: #000080;"]     Nếu Nguyễn Khoa Điềm coi sự trở về với gia đình, bên người vợ hiền là một hạnh phúc đời thường vô giá. Trước đây khi còn làm quan to trong đảng cộng sản, ông không cảm nhận nổi? Thì ông đã không đánh đổ đồng tuốt tuồn tuột với mọi loại "tầm thường"  mà ông đã nêu ra.  Bởi vì, những sự việc trong thường dân dẫu là tầm thường, nhưng những người dân… họ đâu có xuất phát từ những ý nghĩ “đen tối tầm thường”, như những kẻ làm trong Ban T.Ư và Bộ chính trị các ông? Bản chất việc làm của họ xuất phát từ sự lương thiện, lương tri của con người! Ông đánh lộn tất cả một cách hổ lốn như cám heo trong một bài thơ, thì bài thơ của ông có khác gì chỉ là một mớ chữ... hoà trộn cả phân tro, vào trong phẩm chất nhân sinh của con người? "Sự tầm thường" là một bài thơ sáng tác… cũng rất tầm thường.
[_mce_style="color: #000080;"]     Một bài thơ sáng tác xô bồ như kiểu thông tin. Ngôn ngữ lèng xèng… nửa văn xuôi, nửa có tí vần. Chẳng có một hình tượng thơ nào đáng nói, thì làm gì có nghệ thuật để bàn xét về "nghệ thuật thi ca" cơ chứ?
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ dưới:
[_mce_style="color: #000080;"]                         Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
[_mce_style="color: #000080;"]                         Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
[_mce_style="color: #000080;"]                         Cứ bày ra chuyện đâu đâu
[_mce_style="color: #000080;"]                         Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
[_mce_style="color: #000080;"]                         Nói nhiều hơn tất cả!
[_mce_style="color: #000080;"]                         Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
[_mce_style="color: #000080;"]                         - Thay vì bước vào phòng họp -
[_mce_style="color: #000080;"]                        Để xua các cán bộ làm việc.
[_mce_style="color: #000080;"]                        Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
[_mce_style="color: #000080;"]                        Để tham gia nhóm lợi ích.
[_mce_style="color: #000080;"]                        Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
[_mce_style="color: #000080;"]                        Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi không rõ: đại từ "chúng ta" ở đây, ông định biểu thị cho tầng lớp nào? - Cho tầng lớp nhân dân trí thức, hay chỉ cho một lớp quan lại đương thời mà ông muốn chỉ trích?
[_mce_style="color: #000080;"]     Bởi vì, câu trên thì viết: Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ/-  Rõ ràng đây ý tác giả sử dụng nghĩa "chúng ta" để chỉ vào lớp quan chức. Có ý mỉa mai chúng là những kẻ bảo thủ, dốt nát, nhưng hay dìm dập những phát kiến tiến bộ, trù úm các tài năng...
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhưng câu dưới:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
[_mce_style="color: #000080;"]                       Cứ bày ra chuyện đâu đâu...
[_mce_style="color: #000080;"]     Thì hai từ "chúng ta" ở đây, ngả sang nghĩa biểu thị cho cộng đồng nhân dân. Cái bọn "chơi trội hay bày những chuyện đâu đâu" này, không thể biểu thị cho những hình ảnh đẹp đẽ được. Những chuyện đâu đâu ấy… là những sự việc có thể rất hợm hĩnh, bày ra để lấy công, tính thành tích dổm, hoặc bày chuyện để ăn tiền, tham nhũng. Rồi để kết luận về những chuyện đâu đâu... tác giả viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
[_mce_style="color: #000080;"]                       Nói nhiều hơn tất cả!
[_mce_style="color: #000080;"]      Vậy tiếng "keng" của sự cụng ly kia... để chỉ về những cuộc nhậu vui thú đời thường nơi dân dã? Hay là "tiếng keng" chạm cốc của những đám công thần nghị sự trong các bàn tiệc, được bày ra sau những cuộc "thảo luận đại sự" ... rỗng tuếch, như đã nói ở trên? Một loạt hình ảnh tác giả vơ váo hết cả vào rồi nói đại, thành ra chẳng hiểu tiếng "keng" cụng ly ấy  thuộc kiểu gì... mà ý nghĩa hơn tất cả? Bài thơ viết còn rất lộn xộn.
[_mce_style="color: #000080;"]     Một số hình ảnh khác: Nào là những bí thư thay vì các cuộc họp liên miên, cần phải thúc giục cán bộ tích cực làm việc hơn nữa; nào các cô ca-ve thì tập ăn nói những lời tốt đẹp và làm những việc có ích cho xã hội hơn; đến các bậc lão thành cũng phải nên thé này, thế nọ - Đó cũng chỉ là mấy cái băng rôn khẩu hiệu sáo, nhàm.
[_mce_style="color: #000080;"]     Trước đây còn quyền chức, tiếng nói của ông là tiếng nói của một quan lớn. Ông có thể nói những lời nói giả tạo, để tuyên huấn cho lớp này, lớp nọ? rồi ra chỉ thị cho tổ chức các cấp phải răm rắp theo. Mặc dù tiếng nói trên diễn đàn khi đó của ông, cũng chỉ là những lời... rỗng tuếch. Bây giờ hết thời, thất thế đường quan - Nếu nói như trước thì chẳng những không ai nghe, mà họ còn chửi ông là "dổm" nữa? Ông mới "đổi giọng"...
[_mce_style="color: #000080;"]      Theo nhà thơ Đỗ Hoàng đã bình luận trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm..." đăng trên blog Bà Đầm Xoè rằng:        
[_mce_style="color: #000080;"]     "Thời còn Ban Tư tưởng Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay cho lắm. Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội Nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho), làng văn hoá Đồng Mô (làng bỏ hoang), Bác Hồ với văn nghệ sĩ...
[_mce_style="color: #000080;"]     Đường hoan lộ của Nguyễn Khoa Điềm khá hanh thông. Nguyễn Khoa Điềm quan quá to. Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi đứt gánh giữa chừng. Ông quan to Nguyễn Khoa Điềm phải về vườn... còn một hai nhiệm kỳ trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nữa, nhưng lại bị ông cậu ruột của vợ là Nguyễn Đức Đạo viết đơn tố Nguyễn Khoa Điềm không phải là đảng viên và có thời gian bị tù ở lao Thừa Phủ - Huế khai báo với địch".
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi cũng không rõ độ chính xác về những thông tin của bài viết trên đến mức nào?
[_mce_style="color: #000080;"]Nhưng có một điều thực tế rằng: Nguyễn Khoa Điềm là một quan lại cấp trung ương đã lên đến cỡ Bộ chính trị của đảng cộng sản, nhưng bị thất sủng phải về làm thường dân. Đương thời quan lộ, Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một ông trùm thực thi nhiều vụ đe nẹt sự tự do văn chương của giới văn nghệ sĩ, cũng như sự đấu tranh cho quyền tự do dân chủ xã hội. Nhân cách và đạo nghĩa ông đâu được trong sạch? Tâm hồn tư tưởng sống của ông đâu được thanh cao?... như hàng bậc thi nhân Nguyễn Khuyến, không thèm làm ông quan phi nhân, phi nghĩa. Chán chường cảnh dơ dáy chốn cung đình, phẫn uất với tầng lớp gian thần hại dân, hại nước... từ quan về sống thanh bạch nơi dân dã. Đằng này ông tận hưởng vinh hoa phú quý… đục nước béo cò... đến tận phút chót. Nào có cao đạo hay hớm gì? Nay thành thường dân, lại đổi giọng thơ quay ngược "180 độ" để ve vuốt  lòng người? Giả dối thay! E rằng, nếu bây giờ cuộc cờ nơi cung đình ở trung ương, bộ chính trị ấy thay đổi. Nhóm người hay tổ chức, phe phái của ông lại thắng thế trong cục diện. Họ lại dọn đường cho ông trở lại làm quan? Chắc rằng ông ta sẽ lại đổi giọng, lại như trước đây, thời vẫn còn làm trong Bộ chính trị - Ông sẽ lại tiếp tục lên diễn đàn, lại huênh hoang múa mép, phồng mang, lớn tiếng, trong các hội nghị và các cuộc "thảo luận đại sự"... Cũng lại để soạn thảo ra những mớ nghị quyết "tầm thường tai quái".
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta hãy xem đoạn thơ cuối, Nguyễn Khoa Điềm đã kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
[_mce_style="color: #000080;"]                       Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
[_mce_style="color: #000080;"]                       Tốt tươi hơn
[_mce_style="color: #000080;"]                       Mãnh liệt hơn
[_mce_style="color: #000080;"]                       Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
[_mce_style="color: #000080;"]                       Tang chế, nhạt nhoà
[_mce_style="color: #000080;"]                       Cúi đầu
[_mce_style="color: #000080;"]                       Đi sau cái chết.
[_mce_style="color: #000080;"]     Ông nói rằng chúng ta, tức là "nhân dân" thua cỏ, không bằng cỏ - Vì cỏ còn biết đấu tranh để vươn lên với sức sống mãnh liệt, cho sự sống tốt đẹp hơn? Đằng này, chúng ta quá tầm thường khoác bộ áo tang chế nhạt nhoà, chấp nhận cúi đầu nhẫn nhục đi sau cái chết? Nghĩa là, ông muốn ngầm bảo với mọi người rằng: chúng ta, nhân dân cần phải đứng lên đấu tranh để lột bỏ cái cũ thay bằng cái mới tốt đẹp! Nếu không đấu tranh là chết!...
[_mce_style="color: #000080;"]  - Kể ra từ sự bức xúc mà ông có được những ý tưởng tiến bộ như thế, cũng là tốt: Nếu xuất phát bởi một tâm hồn trong sáng, tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp? 
[_mce_style="color: #000080;"]     Vấn đề là ở chỗ: Phải chăng đây lại chỉ là tiếng nói của một kẻ hai mặt? Hai giọng? Khi làm quan thì sẵn sàng cùng chính quyền, dùng bạo lực trấn áp những tư tưởng đấu tranh, vì quyền sống tự do của con người. Là một ông trùm Tư tưởng Văn hoá Trung ương, cưỡng chế tiêu huỷ những tác phẩm máu xương của các văn sỹ đấu tranh cho quyền sống chính đáng. Đành rằng như kinh Phật đã truyền: "Quay đầu lại là bờ..." - Được thế thì cũng đáng hoan nghênh! Nhưng liệu ông có phải thực lòng là kẻ ăn năn hối lỗi, quay đầu lại phía nhân dân? Hay đó chỉ là bộ mặt của một tên cơ hội?
[_mce_style="color: #000080;"]     Xin hỏi ông nguyên Bí thư của Đảng: Xã hội này đâu phải bây giờ mới sa sút? Đất nước cũng đã mạt lâu rồi! Từ cái thuở ông vẫn đang chễm chệ quan trên tác oai, tác quái ở trong Ban chính trị ấy cơ? Tại sao khi còn quyền lực đó, ông lại không kêu gọi "chúng ta phải đứng lên thay đổi! Để có một xã hội tốt đẹp hơn! Mà phải đợi cho tới khi đã về vườn làm một thường dân, ông mới nói ra những lời lẽ… lấy lòng những người dân đang phẫn uất trăm bề? Cài lời nói cho có vẻ mang tính nhân văn ấy của ông, nó cũng dẻo quẹo như cái mồm dẻo quẹo của ông ở cái thời làm quan vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]     Người ta nói "lưỡi không xương trăm đường lắt léo" - Ông uốn lưỡi giỏi lắm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ạ! Thậm chí còn giỏi hơn, có kinh nghiệm hơn cả cái thời ông làm quan nữa.
[_mce_style="color: #000080;"]     Thể chế này phải đâu bây giờ mới hỏng? Hiện thực xã hội xuống cấp, phải đâu chỉ khi ông thất sủng đường quan lại trở về làm thường dân, nó mới xuống cấp?  Từ hàng chục năm nay nó đã nát rồi! Khi ấy sao ông không kêu gọi mọi người: hãy vùng lên như loài cỏ, sống mãnh liệt để xã hội lại tốt tươi lên? Chúng ta phải bài bỏ các thứ đang hủ bại này, để thiết lập nên một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn?
[_mce_style="color: #000080;"]      Trong một bài thơ mới viết gần đây tên là "Thời sự cuối ngày", có mấy câu ông đã viết rằng:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi mừng cho nước tôi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Vẫn còn Thạch Sanh
[_mce_style="color: #000080;"]                      Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm...
[_mce_style="color: #000080;"]     Vậy xin đặt ra câu hỏi:
[_mce_style="color: #000080;"]-   Liệu Nguyễn Khoa Điềm có phải cũng chỉ là một trong những tên Lý Thông đĩ bợm ấy không?
[_mce_style="color: #000080;"]     
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                     Hà Nội - 6/2013
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                            PNT.
[_mce_style="color: #000080;"] 
[_mce_style="color: #000080;"]                  SỰ TẦM THƯỜNG

[_mce_style="color: #000080;"]Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
[_mce_style="color: #000080;"]Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn
[_mce_style="color: #000080;"]Bàn chuyện chạy chọt
[_mce_style="color: #000080;"]Những đứa trẻ phải vào được lớp một
[_mce_style="color: #000080;"]Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
[_mce_style="color: #000080;"]Mơ ước nào cũng có giá.
[_mce_style="color: #000080;"]Đôi người nhắc nhở rằng
[_mce_style="color: #000080;"]Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
[_mce_style="color: #000080;"]Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.

[_mce_style="color: #000080;"]Đức Phật từ bi
[_mce_style="color: #000080;"]Xin người đừng mắng tôi
[_mce_style="color: #000080;"]Khi tôi nói lắm kẻ muốn ngài ngậm miệng ăn tiền
[_mce_style="color: #000080;"]Với tờ giấy bạc trên miệng.
[_mce_style="color: #000080;"]Sự tầm thường thật kín kẽ
[_mce_style="color: #000080;"]Mặc những tấm áo đúng thời tiết
[_mce_style="color: #000080;"]Tụ tập trên các diễn đàn
[_mce_style="color: #000080;"]Nói lời rỗng
[_mce_style="color: #000080;"]Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
[_mce_style="color: #000080;"]Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
[_mce_style="color: #000080;"]Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
[_mce_style="color: #000080;"]Tai quái.
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
[_mce_style="color: #000080;"]Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
[_mce_style="color: #000080;"]Cứ bày ra chuyện đâu đâu
[_mce_style="color: #000080;"]Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
[_mce_style="color: #000080;"]Nói nhiều hơn tất cả!
[_mce_style="color: #000080;"]Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
[_mce_style="color: #000080;"]- Thay vì bước vào phòng họp -
[_mce_style="color: #000080;"]Để xua các cán bộ làm việc.
[_mce_style="color: #000080;"]Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
[_mce_style="color: #000080;"]Để tham gia nhóm lợi ích.
[_mce_style="color: #000080;"]Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
[_mce_style="color: #000080;"]Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
[_mce_style="color: #000080;"]Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
[_mce_style="color: #000080;"]Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
[_mce_style="color: #000080;"]Tốt tươi hơn
[_mce_style="color: #000080;"]Mãnh liệt hơn
[_mce_style="color: #000080;"]Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
[_mce_style="color: #000080;"]Tang chế, nhạt nhoà
[_mce_style="color: #000080;"]Cúi đầu
[_mce_style="color: #000080;"]Đi sau cái chết.

[_mce_style="color: #000080;"]            Thơ  NGUYỄN KHOA ĐIỀM  
[_mce_style="color: #000080;"]  
 [_mce_style="color: #000080;"]              THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU SẼ RA RÁC
          VÀ CHỦ TỊCH HNVVN HỮU THỈNH "ĂN ỐC NÓI MÒ"
                      . Qua nhận định và đánh giá "Sự mất ngủ của lửa"


[_mce_style="color: #000080;"]                                                                 PHẠM NGỌC THÁI 

     Muốn đọc và hiểu được thơ Nguyễn Quang Thiều cho dễ, trước hêt phải nhìn ra cách Nguyễn Quang Thiều thường hành trình để xây dựng cấu tứ cho một bài thơ. Thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là loại thơ tượng trưng, siêu thực hay cách tân, cách tiếc gì hết? Một số người nói: nó "tây" quá! Chỉ vì họ đọc thơ Thiều thấy khó hiểu. Nhiều bài ngôn ngữ, giọng điệu nghe từa tựa như kiểu người nước ngoài nói lơ lớ, ngọng nghịu... khi phát âm tiếng Việt.

[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi đã đọc khá nhiều thơ của Thiều, cả thơ đã xuất bản thành sách và đăng trên mạng. Theo nhận định của tôi: "Sự mất ngủ của lửa" là tập thơ hơn cả so với các tập thơ khác, trong đời thi ca Nguyễn Quang Thiều. Được tác giả cho xuất bản lần đầu vào năm 1992 và nay, sau 23 năm lại cho tái bản.  
[_mce_style="color: #000080;"]     Phần nhiều các bài thơ của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả. Khi tả cảnh, lúc miêu tả sự việc. Hầu hết là tả nổi... ít tư duy trong. Không ít bài đến hết thơ cũng chỉ dừng lại ở sự miêu tả đó. Nhiều bài đọc mãi, đọc mãi... mà vẫn không hiểu thơ nói cái gì? Sau đây, khi phân tích một số bài cụ thể, tôi sẽ dẫn chứng về vấn đề này.
[_mce_style="color: #000080;"]     Giờ xin đi vào bình - "Sự mất ngủ của lửa" bao gồm 25 bài thơ, phụ thêm 22 bức tranh họa của 15 hoạ sĩ, không kể bức tranh họa bìa sách. Nhưng với 22 bức tranh minh họa đó cũng chỉ có ý nghĩa trang trí, hoặc tăng thêm sự quảng cáo mà bán sách, hoặc để đọc cho đỡ rức mắt. Nhất là với loại thơ viết câu cú thường rất dài của Nguyễn Quang Thiều. Bởi vậy, những bức hoạ đó tôi không bàn đến trong bài bình luận này.
[_mce_style="color: #000080;"]      Khuôn khổ của một bài viết không thể bình tất cả các bài được, vì quá dài. Nhưng để cho khách quan, trong 25 bài thơ của cả tập… tôi sẽ bình hẳn 10 bài. Thế đã là nhiều lắm rồi! Năm bài đầu và năm bài cuối. Những bài đầu và cuối thường là các bài thơ trội nhất, các tác giả hay chọn để sắp xếp khi cho in. Sau đó sẽ nhận định, đánh giá chung cho cả tập. 
[_mce_style="color: #000080;"]                                              NĂM BÀI THƠ ĐẦU TIÊN
[_mce_style="color: #000080;"]   1.  Mở đầu tập là bài "Sông Đáy":  Quả nhiên, tuy Sông Đáy chưa được gọi là bài thơ thật sự hay, nhưng đã là bài khá nhất tập. Tôi để lại sẽ bình cuối cùng.
[_mce_style="color: #000080;"]  2.  Sang bài "Ban mai":  Chia làm năm khúc với 20 câu. Tác giả tả khung cảnh một buổi sáng sớm ở làng quê.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Khúc một - Tả bóng đêm dần tan như bóng một con mèo nhung khổng lồ bước đi. Anh ta tỉnh giấc dậy mỉm cười với sớm ban mai.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Khúc hai -  Những tiếng xôn xao từ cánh đồng mờ sương lùa về. Có tiếng xe trâu chất đầy hương cỏ tươi lặng lẽ đi qua.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Khúc ba -  Nghe như có tiếng ai gọi ơi... ơi... ơi... từ những con đường quen thuộc. Anh ta lách mình qua khe cửa nhòm ra.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Khúc bốn - Tác giả mường tượng...  người nông dân bế anh ta lên đặt vào thùng xe. Người nông dân cất cái giọng trầm trầm lên hát, như tiếng thóc khô chảy vào trong cót, như đất ấm trào lên trong loé sáng của lưỡi cày.
[_mce_style="color: #000080;"]*  Khúc năm -  Vẫn là hình ảnh chiếc xe trâu một nửa đã ra ngoài sáng, một nửa còn trong đêm. Sau cái tiếng gọi huầy ơ như người chợt thức ấy, những ngọn ban mai mơn mởn rướn mình.
[_mce_style="color: #000080;"]       Đấy là toàn bộ bài thơ mà tôi đã diễn giải ra. "Ban mai” là bài thơ tả cảnh một buổi sớm quê, qua sự xuất hiện của chiếc xe trâu chở đầy cỏ tươi và người nông dân theo xe đi trên đường. Ngôn ngữ diễn tả thuộc ngôn ngữ nói thông thường. Tức là, không phải ngôn ngữ bắn ra từ trong tâm linh hay cảm xúc của tư duy trong - Nên các hình ảnh thường cứng khô, không có thần.
[_mce_style="color: #000080;"]       Tôi xin đưa ra vài thí dụ để minh họa.
[_mce_style="color: #000080;"]- Bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử:  Mặc dù là bài thơ tả cảnh mùa xuân, khi thi nhân da diết một nỗi lòng thương nhớ làng quê. Mô tả qua hình ảnh trong hồi ức:
[_mce_style="color: #000080;"]                       ... Chị ấy năm nay còn gánh thóc
[_mce_style="color: #000080;"]                       Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
[_mce_style="color: #000080;"]     Sắc điệu "... trắng nắng chang chang" vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Hình tượng của những câu thơ đó được mô tả bằng thứ ngôn ngữ trào ra từ tâm linh, một thứ tư duy cảm xúc đã thăng hoa... mà tạo nên sự rung cảm mãnh liệt, đẩy tình thơ đi đến viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc cả nỗi tình đời sâu sắc, bằng một nghệ thuật ngôn ngữ siêu đẳng, mới có thể trở thành bài thơ hay!
[_mce_style="color: #000080;"]     Hoặc khi ông tả về bóng trăng với nỗi lòng hiu hắt:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Với sao sương anh nằm chết như trăng
[_mce_style="color: #000080;"]     Đây chính là một câu thơ thần cảm tuyệt hay! Bóng trăng mà chứa cả linh hồn cùng số phận thi nhân bên trong - Thứ ngôn ngữ siêu đẳng của thi ca, xuất thần từ trong tâm linh... như Chế Lan Viên từng viết trong Di cảo:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Ở bên kia bờ hư ảo - bờ thơ.
[_mce_style="color: #000080;"]     Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Quang Thiều là thứ ngôn ngữ diễn tả theo lối kể lể thông thường, ngôn ngữ đại trà. Đơn giản là tả nổi bên ngoài, nên hồn thơ không có thần cảm. Thí dụ, cũng ở bài "Ban mai" - khi tác giả muốn nói về sự gắn bó thân thiết giữa mình với người nông dân ở quê, nhưng hình ảnh diễn tả khô cứng:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Người nông dân bế tôi lên và đặt vào thùng xe
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                 (câu thơ 13)
[_mce_style="color: #000080;"]     Hoặc khi tả cảnh trời đêm đang sáng dần, anh ta cũng dùng hình ảnh ví nhưng kể như văn xuôi:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Bóng tối đêm dần sáng như con mèo nhung không lồ bước đi uyển chuyển
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                (câu thơ thứ nhất)
[_mce_style="color: #000080;"]     Nếu trong thi ca mà dùng toàn loại ngôn ngữ diễn tả nông nổi, sơ đẳng này - Thứ ngôn ngữ không cần tư duy, thần cảm... thì khó lòng sáng tác nổi một câu thơ hay, chứ đừng nói đến bài thơ hay? Thơ Nguyễn Quang Thiều hầu như chỉ dùng loại ngôn ngữ kể lể sơ đẳng này.
[_mce_style="color: #000080;"]     Một ví dụ nữa, nói về những ngôn ngữ thi ca tầm bậc của các thi nhân.
[_mce_style="color: #000080;"]- "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến chẳng hạn? Tả về một đêm thu ngồi thuyền câu cá, cảnh tình thì hiu hắt với nỗi cô đơn:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
[_mce_style="color: #000080;"]                      Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
[_mce_style="color: #000080;"]                      Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
[_mce_style="color: #000080;"]                      Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhất là đến hai câu kết:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
[_mce_style="color: #000080;"]                     Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
[_mce_style="color: #000080;"]     Ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng, một tâm trạng khắc khoải chênh vênh của người ẩn sĩ, chán nơi quan trường… từ quan về nương náu chốn thôn hương. Hình ảnh của hai câu thơ kết ấy thật sống động, như có thần... chứa cả nội tâm ở bên trong. Đó chính là thứ ngôn ngữ bậc cao của thi ca.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Tôi ví dụ thêm bài "Qua Đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan - Bốn câu đầu bà tả cảnh đèo:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
[_mce_style="color: #000080;"]                     Cỏ cây chen đá, lá chen hoa,
[_mce_style="color: #000080;"]                     Lom khom dưới núi tiều vài chú,
[_mce_style="color: #000080;"]                     Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]     Cảnh đã rất sinh động và đẫm hồn, nhưng vẫn chỉ là để tả cảnh trí. Sang đến hai câu sau:
[_mce_style="color: #000080;"]                     Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
[_mce_style="color: #000080;"]                     Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
[_mce_style="color: #000080;"]     Thì cảnh tả ở đây đã ôm bọc cả nỗi nước tình nhà, sự da diết của bà giữa chốn Đèo Ngang hoang vu. Ý, tình trong hình ảnh thơ bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Điển hình đến mức hoàn bích, cho nên tình thơ mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà. Những câu thơ thần cảm ấy phải được đẩy ra từ trong tâm linh. Như nữ sĩ Lâm Thị Mỹ Dạ từng viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những câu thơ run rẩy
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những câu thơ trốn chạy...
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những câu thơ... cháy rôi !
[_mce_style="color: #000080;"]     Thứ ngôn ngữ tả cảnh vật theo lối kể bên ngoài như của Nguyễn Quang Thiều không thể có được những câu thơ ôm chứa sâu sắc và hay đến như thế!
[_mce_style="color: #000080;"] - TRỞ LẠI VỚI BÀI "BAN MAI":  Như tôi đã nói ở trên " Phần nhiều các bài thơ của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả" con người hoặc sự việc diễn ra. Ý nghĩa bên trong chưa sâu xa. Độc giả khi đọc thơ Thiều cũng rất khó hiểu? Không dễ nắm bắt như tôi đã trải rạch ròi ra như ở trên. 
[_mce_style="color: #000080;"]     "Ban mai" là một bài thơ tả cảnh vào loại bình thường, ý nghĩa cũng chưa có gì.
[_mce_style="color: #000080;"]  3. "Tiếng cười":  Bài thơ dài 24 câu, nói về sự bỏ nhà ra đi của người cha. Tác giả tả từ lúc còn tuổi hai mươi cha đã bỏ mặc người vợ trẻ với một nỗi buồn đầy nước mắt, đứng vùi chân trong cát... ra đi không ngoảnh lại. Chỉ có tiếng chó rộ lên từ xóm tới đầu làng và con đò cô độc ở bến sông quê.
[_mce_style="color: #000080;"]     Khi cha trở về thì tóc... đã trắng. Đêm đêm cha lại ngồi hút thuốc lào:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Tiếng điếu rít lên muốn khoan thủng nỗi buồn
[_mce_style="color: #000080;"]                    Khoan vào phận con buốt nhức
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhưng lý do ông buồn vì vợ con... hay tại hoàn cảnh như thế nào? Bài thơ không nói. Chỉ thấy tác giả than:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Bốn anh em con...
[_mce_style="color: #000080;"]                   ... không phải là đích cuối cùng của đời cha
[_mce_style="color: #000080;"]     "Chỉ là bốn cột số"... trong nỗi buồn dằng dặc của ông. Bởi thế, tuổi 70 rồi cha lại bước lên con đò chao đảo, bỏ gia đình ra đi... trong sự hoảng hốt của những người con. Tiếng chó lại sủa từ đầu làng về ngõ.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nghĩa là, không thể bàn về tính nhân văn hay ý nghĩa xã hội... trong bài thơ này?
[_mce_style="color: #000080;"]     Bởi vì, việc ông bỏ gia đình ra đi không phải vì nước non? mà cũng chẳng phải tại gia đình? Như ý thơ thì... vợ con ông vẫn yêu thương ông cơ mà? Chỉ biết là... 4 người con với ông không có nghĩa gì hết. Người vợ nhìn ông bỏ nhà đi với một nõi buồn đầy nước mắt, đứng chôn chân trong cát. Còn do... "tại phận" mà ông buồn? Thì phận làm sao? Bài thơ mới chỉ vẽ lên cái cảnh cha rời nhà vào lúc nửa đêm, không giống người say rượu. "Đom đóm bay quanh ông" như những vòng dây thép nung đỏ đứt tung ra, rồi tiếng chó sủa v.v... để tác giả kết luận:
[_mce_style="color: #000080;"]                   Tóc cha trắng một tiếng cuời ngửa mặt
[_mce_style="color: #000080;"]     "... tiếng cười ngửa mặt" là một tiếng cười tự mãn, tiếng cười thách đố! Kết luận như thế này có vẻ cường điệu, cho kêu, cho thật... oách! Chứ không hợp lý? Cái tính cách có vẻ dở người của một ông bó như thế, có gì mà tự mãn? mà thách đố? Người ta có thể suy luận: đó là một người cha kỳ cục, thậm chí là khùng... mới có cái "tiếng cười ngửa mặt" như thế? Ngôn ngữ và tình ý thơ chưa có sự thuyết phục. Theo tôi, tác giả viết chưa thành. Tuy có màu sắc của một bài thơ tự sự, nhưng Nguyễn Quang Thiều chưa diễn đạt nổi tư duy ra thơ, vẫn còn ở trong dạng bản thảo.
[_mce_style="color: #000080;"]     Bài thơ hỏng.
[_mce_style="color: #000080;"]     4.  Bài "Cái đẹp":  Một bài thơ gồm 15 câu thơ ngắn. Tác giả tả mấy gương mặt, cả đàn ông lẫn đàn bà với một con bò đang kéo chiếc xe nặng nề đi trên đường - Qua đó để xây dựng hình tượng về... "cái đẹp"? Song bài thơ không lột nổi ý tưởng. Câu cú, hình ảnh, ý nghĩa chưa có gì đáng bàn - Tôi bỏ qua cho bớt dài.
[_mce_style="color: #000080;"]     5.  "Xô-nát hoàng hôn trên biển":  Đến bài này thì mới thực là rối rắm. Một bài thơ dài tới 54 câu. Tác giả chợt loé lên ý tưởng của cảnh đánh cá biển trong hoàng hôn, rồi dẫn dụ mặt trời như cái vòng quay lửa đang lăn. Khi thì anh ta ví con sóng chìm tan trước mặt là con sóng chết; Lúc gọi những con sóng vỗ triệu năm đó điên cuồng, mệt mỏi; Rồi những dây buộc chèo xiết đến toé máu; Những tấm lưới bung ra và cả lũ cá dại khờ... vào cuộc chia ly! Nghĩa là chia ly với sự sống, bị bắt và chết.
[_mce_style="color: #000080;"]     Thế thôi! Trong cái vòng ấy, mặt trời lăn thêm một vòng, một vòng nữa thì chạm vào mặt biển... và đó là cơn đau đớn vĩ đại, nỗi khát khao vĩ đại của lửa... và lúc đó lòng anh ta đau đớn nhất? Ngôn ngữ thơ nói phóng đại, nói to tát, nhưng ý nghĩa hình ảnh chẳng ra đâu vào đâu? Chủ đề không rõ ràng. Đọc chán chê, rức cả mắt mà vẫn không biết Nguyễn Quang Thiều định nói về cái gì? Tứ còn loạn nên rất khó bình. Rồi anh ta than rằng: Không chịu nổi lúc có một bài ca lưu lạc trở về... Nhưng vì sao như vậy? Thì chịu. Phải gọi diêm vương dưới âm phủ về giàng nghĩa.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Nào là bài ca con thuyền vỡ.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Bài ca những tấm lưới rách.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Cả bài ca của những người đã chết rơi xuống đáy biển... mà rơi như một chiều đang buồn ngủ... nhưng, không đau khổ và không ân hận ???
[_mce_style="color: #000080;"]      Thật vô lý và vô tâm !... Anh ta vơ tất cả những số phận bị hiểm hoạ, phải rơi xuống đáy biển ấy làm thành một bài ca, rồi bảo họ chết không đau khổ và không ân hận? Tình cảnh ra sao? Hiểm họa thế nào? Tại sao tất cả họ, ai cũng... vui vẻ chết? Đấy là nhà thơ vui vẻ ca, chứ có phải ai cũng sẵn sàng chết đâu?
[_mce_style="color: #000080;"]     Cái mà người ta gọi thơ Thiều như... "thơ tây"? Cái mà Hữu Thỉnh, ông Chủ tịch HNVVN chắc gì đã hiểu mô tê về thơ của Thiều? nhưng cứ nói quàng: Đọc xong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông trở thành một con người khác - và ông Chủ tịch kết luận: "như thế gọi là thơ hay!" ? Đúng là "ăn ốc nói mò". Một ông Chủ tịch Hội, trình độ thẩm định thơ ca đã yếu lại hay nói bậy, làm bậy.
[_mce_style="color: #000080;"]    Trở lại với bài thơ. Tất cả cái mớ hình ảnh được miêu tả như thế, Nguyễn Quang Thiều vơ vào mà tạo thành " Xô-nát hoàng hôn biển". Tả đủ mọi kiểu như một tập an-bom hỗn độn. Suy lý tuỳ tiện, thả phanh. Đọc cứ nhoằng nhoằng, thấy có vẻ kêu kêu... kêu kêu... chứ chả có hình ảnh hoặc câu thơ nào được gọi là súc tích và hay.
[_mce_style="color: #000080;"]    Kết luận: Bài này cũng chỉ là một thứ thơ... ra rác !!! Ai nói không ra rác, hãy bình thử tôi nghe?
[_mce_style="color: #000080;"]                          TÔI BÌNH SANG NĂM BÀI THƠ CUỐI
[_mce_style="color: #000080;"]    6.  "Câu hỏi cuối ngày" tr.75-76:  Trước hết, phải nói đây là một bài thơ viết rất vớ vẩn. Không những thế, tác giả còn tỏ ra... hợm. Dù có bị dài, nhưng với bài thơ này tôi cũng xin chép cả ra đây:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đợi chuyến xe tan tầm
[_mce_style="color: #000080;"]                      Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

[_mce_style="color: #000080;"]                      Phía bên kia đường tôi đợi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những chiếc lá tôi không biết tên phủ đầy bụi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
[_mce_style="color: #000080;"]                      Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng lên
[_mce_style="color: #000080;"]                      Trong cơn mơ đói và buồn
[_mce_style="color: #000080;"]                      Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
[_mce_style="color: #000080;"]                      Như dao sắc phất vào tôi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi nhói lên một câu hỏi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Như người ứa máu
[_mce_style="color: #000080;"]                      Rằng nếu tôi lấy họ
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào.

[_mce_style="color: #000080;"]                      Và chuyến xe tan tầm lại đến
[_mce_style="color: #000080;"]                      Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi vội vã bước vào trong đó
[_mce_style="color: #000080;"]                      Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
[_mce_style="color: #000080;"]                      Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
[_mce_style="color: #000080;"]                      Và lòng tôi nấc một câu hỏi
[_mce_style="color: #000080;"]                      Như một người sặc khói
[_mce_style="color: #000080;"]                      Rằng nếu tôi lấy họ
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào.
[_mce_style="color: #000080;"]     Có gì đâu, anh ta tả về một buổi chiều đợi chuyến xe tan tầm, chắc là để về nhà. Nội dung của bài thơ chỉ tả rằng: Anh ta tựa lưng vào một bức tường xám mốc, đợi xe trong sự đói và buồn. Ở bên kia đường chả có gì... ngoài những chiếc lá phủ đầy bụi.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhưng có điều kì quặc là, những chiếc lá "phủ đầy bụi" mà lại... "dịu dàng rụng" ?... trong cái tâm trạng... "vừa đói vừa buồn"?
[_mce_style="color: #000080;"]- Đói và buồn... lại thấy những chiếc là phủ đầy bụi... dịu dàng rụng xuống? Nguyễn Quang Thiều viết thơ với một cảm xúc thật quái gở và giả tạo.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nguyễn Du từng viết:
[_mce_style="color: #000080;"]                       Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
[_mce_style="color: #000080;"]    Chưa hết, khi những chiếc lá phủ đầy bụi ấy... "dịu dàng rụng"? Thì: Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng lên /  (câu thơ 7) -  "Cơn mơ vàng thẳm"  là hình ảnh của một cơn mơ đẹp...  ("vàng vọt" hay "vàng bủng" mới là màu biểu tượng cho sự úa tàn, buồn chán)
[_mce_style="color: #000080;"] - Đói và buồn mà lại có một... cơn mơ đẹp? khi những chiếc lá "phủ đầy bụi"... "dịu dàng rụng" - Thơ ơi là thơ?... Thiều ơi là Thiều?... Quả tình Nguyễn Quang Thiều viết thơ văng mạng. Người ta bảo thơ Thiều đọc như "tây" cũng vì tả như thế này chăng? Một cách tả chẳng những vô lý, vô nghĩa mà lại còn sai bét cả.
[_mce_style="color: #000080;"]     Thế rồi, nhìn thấy mấy cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua... lòng anh ta nhói đau "như có dao sắc phất vào... như kẻ ứa máu" - Anh ta than:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Rằng nếu tôi lấy họ
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi sẽ ngủ với họ thế nào ???
[_mce_style="color: #000080;"]     Có phải ai người ta cũng muốn lấy cái anh chàng nhà thơ làm nhàm Nguyễn Quang Thiều đâu? Họa chăng phải là kẻ lắm tiền, nhiều của như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chẳng hạn?...  Hoặc nguyên Tổng bí thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh... " liêm khiết và đạo đức" đến mức, khi về hưu rồi mới xây cả một cơ ngơi nhà cửa dát vàng, dát bạc hoành tráng, sàn lát đá hoa cương... nguy nga như cung vua, phủ chúa, rồi chiếm cả nhân tình của con trai về làm vợ?
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi nói tiếp phần cuối của bài - Hết cái đoạn anh ta tả về các cô gái phóng xe máy qua rồi thì, chuyến xe tan tầm đến. Anh ta lại tả về chiếc xe tan tầm đó: Nó "ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ" - vào trong thấy:
                      
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ

[_mce_style="color: #000080;"]                       Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
     C
ũng một ý nghĩ như trên, nhưng lần này Thiều không "ứa máu" nữa, mà:

[_mce_style="color: #000080;"]                       ... nấc lên một câu hỏi
[_mce_style="color: #000080;"]                       Như một người sặc khói
[_mce_style="color: #000080;"]     - Rằng nếu lấy họ, thì anh ta sẽ phải ngủ với họ thế nào ??? Hết thơ!
[_mce_style="color: #000080;"]     Đúng là thơ với chả thẩn? Ai cũng đòi ngủ. Lại còn tỏ ra kênh kiệu, kệch cỡm:
[_mce_style="color: #000080;"]                    Không hiểu: Tôi sẽ ngủ với họ thế nào?
[_mce_style="color: #000080;"]     Thế mà một số trong Hội nhà văn cứ khen rối, khen rít... Thơ hay?
[_mce_style="color: #000080;"]     Hữu Thỉnh thì buông lời phán bậy: Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc cao? Rồi tuyên bố: Sắp tới tập thơ "Sự mất ngủ của lửa " sẽ được tặng giải thưởng nhà nước là hoàn toàn xứng đáng? Đúng là một lão Chủ tịch Hội nhà văn hài hước hết mức.
[_mce_style="color: #000080;"]     Mà cũng chẳng có gì là lạ: Nước đã mạt thì Hội nhà văn quốc gia cũng suy, cũng mạt. Chẳng thế, ngay chính Hữu Thỉnh từng đem cả tập "Thương lượng với thời gian" thấp kém chỉ để vứt đi, cùng với tập trường ca biển làng nhàng, tranh giành lấy cái giải thưởng Hồ Chí Minh đó sao? Thì tập thơ "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều, chúng có đem trao cho nhau cái giải thưởng nhà nước... cũng đâu phải chuyện bất ngờ? Ngay nhà thơ Việt Phương, một Hội viên HNVVN đã phải buồn chán từng than rằng: "Hội nhà văn Việt Nam" đang bị thao túng bởi nhóm lợi ích". Đúng là những kẻ mất nhân cách và đáng phỉ báng.
[_mce_style="color: #000080;"]  7.  Bài "Thời gian":  Là bài thơ Nguyễn Quang Thiều tự sự về đứa con gái đang ốm của mình. Với tình phụ tử ấy nên tôi không muốn bình nhiều, chỉ xin nói ít lời khái quát. Bài thơ chia làm bốn  khúc, 15 câu thơ.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc đầu, giới thiệu tác giả ngồi bế cô con gái đang sốt. Bố cũng sốt và con cũng sốt:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Trò chuyện với nhau bằng những cơn ho
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc hai, tả cái bếp lửa gần đó và tiếng bẻ củi. Ngọn lửa linh thiêng cựa mình, hình như có bước chân đi quanh đống lửa, làm những làn tro ấm bay lên.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc ba, tác giả tưởng tượng ra một mùa thu thắm đỏ... có con rắn nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng... rồi anh ta bỗng khóc cùng mùa hạ, khi thấy bóng mình quanh khu vườn đó?... Hoài niệm về tuổi thơ hay quá khứ chăng? Không biết. Ý nghĩa khi tả những hình ảnh ấy để nói cái gì? Con rắn nâu kia biểu tượng cho cái gì? Có quan hệ gì tới đứa con gái đang sốt? Như " thơ kín mít " Âu Châu thế kỷ XIX vậy.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc bồn, trở lại với hình ảnh ban đầu: Tác giả đang ngồi ôm con trước lửa. Một cơn sốt ôm một cơn sốt: Những tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi / - Hết thơ.
[_mce_style="color: #000080;"]     Hình ảnh, ngôn ngữ và ý nghĩa thơ còn làng màng, sơ giản bên ngoài... chưa rung cảm được trái tim đời. Bài thơ không đứng được với thời gian.
[_mce_style="color: #000080;"]   8.  Bài "Âm nhạc":  Cũng là một bài thơ tác giả tả về ngày đưa tang con gái. Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận! Bài thơ này tôi bỏ qua, không động vào.
[_mce_style="color: #000080;"]   9.  "Tha phương":  Bài thơ gồm 22 câu ngắn và thuộc trong những bài thơ ngắn nhất tập. Tác giả nói về tâm trạng của người sống tha phương, chắc là ở nước ngoài.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc thứ nhất tả con đường lạ, ngơ ngác... vừa bước vừa vấp.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Khúc thứ hai có 3 câu tả về "nỗi khóc" - Ba câu là ba kiểu khóc: Khóc trong cỏ gai? Khóc trong rơm rạ? và cuối cùng... khóc thành rêu? Tình thơ rất khó suy luận. Những hình ảnh nhặt nhạnh này không có tính đặc trưng, điển hình... nên thơ không thoát ý. Phân tích kỹ thì như tác giả cố bịa ra để thơ thêm màu sắc, chứ không phải thơ ra từ trong cảm xúc? Còn nỗi khóc thư ba "Khóc thành rêu": Tức là khóc liên miên, ngày này qua tháng khác - Ý nói, những ngày sống tha phương tác giả...  chỉ toàn khóc mà thôi !? Hình tượng tả bị hỏng.
[_mce_style="color: #000080;"]     Đoạn thơ sau cũng tả vài hình ảnh để nói về nỗi đau, nỗi nhớ của kẻ tha phương, rồi tác giả kết thơ:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Chỉ mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa
[_mce_style="color: #000080;"]                      Ngăn ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nói chung bài thơ bình thường, dưới trung bình. Từ nội dung ý nghĩa đến ngôn ngữ nghệ thuật... nhàng nhàng, nhàn nhạt.
[_mce_style="color: #000080;"]10. Cuối tập là "Bài hát về cố hương": Một bài thơ dài 33 câu, chia làm bốn khúc. Mỗi khúc đều được tác giả bắt đầu bằng câu thơ:
[_mce_style="color: #000080;"]                      Tôi hát bài hát về cố hương tôi
[_mce_style="color: #000080;"]-   Khúc mở đầu: Tác giả giới thiệu hát bài cố hương này vào lúc tất cả đã ngủ say, chỉ còn những vì sao và ngọn gió hoang cùng thức.
[_mce_style="color: #000080;"]    Sau đó đến một só hình ảnh còn đọng trong tiềm thức - Nào là, có tiếng nói mê của đàn ông bên mé tóc đàn bà; thoảng mùi sữa mẹ tràn vào đêm; rồi những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên; cả tiếng ho khúc khắc của người già với vườn cỏ khuya vẫn thức một mình
[_mce_style="color: #000080;"]     Đấy, toàn bộ hình ảnh cố hương được gợi ra trong khúc một là thế!
[_mce_style="color: #000080;"]-   Khúc hai:  Nói về ánh sáng của ngọn đèn dầu để tác giả sáng tác văn thơ... cũng là ngọn đèn của cố hương mà ông bà để lại, đẹp và buồn, cho tác giả biết yêu, biết khóc.
[_mce_style="color: #000080;"]-   Khúc ba:  Nói về khúc ruột, ( tức là cái cuống rốn khi người mẹ sinh ra anh ta ) đã chôn ở đó. Nó thành con giun đất bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao, quằn quại qua khu mồ dòng họ, qua bãi tha ma người làng chết đói, đất đùn lên máu chảy ròng ròng.
[_mce_style="color: #000080;"]-   Khúc bốn:  Khúc cuối cùng để kết thơ, nói về những chiếc tiểu sành bên lò gốm. Một mai anh ta chết cũng sẽ nằm trong đó - Và chí nguyện của tác giả là kiếp này là người, nhưng kiếp sau phải là vật. Anh ta chỉ xin làm một con chó nhỏ... để canh giữ nỗi buồn, báu vật của cố hương.
[_mce_style="color: #000080;"]     Tôi cứ đọc đi, đọc lại mãi bài thơ và luôn đặt ra một câu hỏi: Bài thơ viết về vấn đề gì nhỉ? Ừ, thì viết về cố hương - Nhưng ý của bài thơ muốn nói đến cái gì?
[_mce_style="color: #000080;"]     Khi nói về hình ảnh của làng quê Việt Nam, người ta thường dùng hình tượng về "Cây đa, bến nước, sân đình..." hay các hình ảnh mang tính đặc trưng, đặc thù của quê hương đó.
[_mce_style="color: #000080;"]     Nhưng hình ảnh cố hương của Nguyễn Quang Thiều lại chỉ là: Tiếng nói mê của những người đàn ông về đàn bà, những bầu vú của con gái tuổi mười lăm đang mơn mởn, rồi tiếng ho khúc khắc của mấy ông bà già...
[_mce_style="color: #000080;"]- Những hình ảnh này nhặt nhạnh ở cuộc sống... nơi nào mà chẳng thấy, đâu phải là những hình ảnh để làm biểu tượng? Chỉ có hình tượng về "dòng sữa thơm của mẹ" là chấp nhận được.
[_mce_style="color: #000080;"]     Đến đoạn thơ tác giả nói về khúc ruột, nó không tiêu tan mà thành con giun đất bò đi khắp nơi, khắp chốn... máu chảy ròng ròng? - Vậy ta cũng có thể nói: khúc ruột đó nó không tiêu tan mà hoá thành... con gián. Con gián bò khắp nhà, từ xó này qua xó khác - Hoặc hoá thành con cào cào bay khắp đồng trên, xóm dưới, phủ kín bầu trời cố hương v.v...
[_mce_style="color: #000080;"]     Nghĩa là, những hình tượng trong "Bài hát về cố hương" của Nguyễn Quang Thiều còn mang tính lặt vặt, manh mún. Tác giả chưa khai thác được những nét riêng biệt, để bài thơ có tính đặc trưng hay đặc thù của cố hương. Tầm vóc thi ca thường, chưa gây được cảm xúc đối với người đọc.
[_mce_style="color: #000080;"]   *  Giờ tôi quay trở lại bình vào bài "Sông Đáy": Chính là bài thơ in đầu tiên của tập. Như tôi đã nói, Sông Đáy tuy chưa đạt được là thơ hay, nhưng là bài thơ khá nhất tập. Tính đến nay, Thiều chưa có một bài thơ hay nào.
[_mce_style="color: #000080;"]     Một bài thơ về quê hương dài 24 câu, phần lớn là những câu thơ dài. Thơ dễ đọc, cũng dễ hiểu. Cấu tứ bài thơ chia làm hai phần:
[_mce_style="color: #000080;"]-  Phần 1/.   Tình cảm khi xa quê, tức là xa sông Đáy.
[_mce_style="color: #000080;"]-  Phần 2/.   Trở về.
[_mce_style="color: #000080;"]     Cái được của bài thơ là giầu cảm xúc, ngôn ngữ giản đơn hơn nhiều so với những bài thơ khác. Tuy nhiên, liệu bài thơ có tồn tại nổi với tháng năm không? Nó có giá trị về mặt thi ca như thế nào đối với nền văn học? Tôi sẽ bàn sau. Giờ xin đi vào phân tích một số nét cụ thể.
[_mce_style="color: #000080;"]a. Phần 1/.  Xa quê - Tác giả ví dòng sông Đáy đi vào cuộc đời như hình ảnh người mẹ vất vả, sau mỗi chiều đi làm về người đẫm mồ hôi. Anh ta dụi mặt vào lưng áo người thấy mát một mảnh sông đêm. Những năm tháng sống xa quê, vẫn nhớ đến hình ảnh mái tóc của người mẹ trên bến mòn đứng đợi đã xoa dịu nỗi đau của lòng anh. Mẹ như cây ngô cuối vụ khô gầy:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Suốt đời buồn trong tiếng lá reo
[_mce_style="color: #000080;"]     Lòng anh ta như người hụt hẫng. Trong cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu, như một tiếng nấc âm thầm vỡ...
[_mce_style="color: #000080;"]     Rồi chiều chiều mong hình ảnh dòng sông dâng lên ngang trời. Đôi mắt nhớ thương của anh ta trở thành như hai hốc đất, nơi những con cá bống đến làm tổ giàn giụa nước sông.
[_mce_style="color: #000080;"]b. Phần 2/.  Trở về gặp lại sông -  Tác giả reo lên:
[_mce_style="color: #000080;"]                        Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
[_mce_style="color: #000080;"]     Cảm xúc như những cánh buồm cổ tích bay xa về tức tưởi trong lòng - Phần này tách ra làm hai đoạn:
[_mce_style="color: #000080;"]*  ĐOẠN MỘT:  Nghĩ về em. Tưởng tượng em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò vào một ngày sông bến vắng - Nhưng anh lại chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi... nhớ về một trăng xưa, chiếc áo em tuột rơi trên bến...
[_mce_style="color: #000080;"]*  ĐOẠN HAI:  Trở lại với hình ảnh người mẹ. Mẹ giờ đã già như cát bên bờ. Ngỡ mùi cát khô như mùi tóc của mẹ, quì xuống vốc cát áp vào mặt và... khóc! Cát từ mặt chảy xuống dòng dòng.
[_mce_style="color: #000080;"]     Đấy, toàn bộ bài thơ Sông Đáy mà tôi đã diễn giải ra. Tuy khá nhưng bài thơ chưa có gì đặc biệt. Từ hình tượng đến ngôn ngữ cũng chưa có một câu thơ nào thật hay - Với bài thơ này, Thiều cũng đã được một cái gì đó!... Nhưng liệu rồi bài thơ có đứng nổi với thời gian không? Thì tôi nghĩ rằng cũng khó.  So với các bài thơ hay của thi đàn như: Mùa Xuân Chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bẽn lẽn của Hàn Mặc Tử - Thu Điếu của Nguyễn Khuyến - Tương Tư hay Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính - Tràng Giang Huy Cận - Tranh Loã Thể Bích Khê - Hay như với Thuyền Và Biển của Xuân Quỳnh v.v... Thì Sông Đáy của Nguyễn Quang Thiều còn kém rất xa.
[_mce_style="color: #000080;"]    KẾT LUẬN:  "Sự mất ngủ của lửa" là tập thơ vào loại trung bình và không có khả năng tồn tại đối với nền văn học nước nhà.
[_mce_style="color: #000080;"]   -  Nghĩa là thơ của Nguyễn Quang Thiều sẽ ra rác - Vậy mà Hữu Thỉnh cứ trâng trâng tâng bốc: Như thế mới gọi là thơ hay! Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc cao, xứng đáng được tặng giải thưởng nhà nước? Thật là, một ông Chủ tịch Hội nhà văn toàn "ăn ốc nói mò".

[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                         Hà Nội, 1/2016 
[_mce_style="color: #000080;"]                                                                                                  PNT.   
[_mce_style="color: #000080;"]  
[_mce_style="color: #000080;"]  
   
   
                CHẾ LAN VIÊN VỚI BA BÀI THƠ PHÊ PHÁN SÂU SẮC

                                                                  PHẠM NGỌC THÁI


        Trong lời giới thiệu tập sách " Chế Lan Viên - Thơ chọn lọc", Nxb Văn học 2014 - Dương Phong, người tuyển chọn khi nói về ba bài thơ này đã viết:
 -    Ba thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di cảo Chế Lan Viên - chính là:  "Ai ? Tôi!"  -  "Bánh vẽ"  -  "Trừ đi"... là những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời.
     Thực ra, nếu nói "Đó là... những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời", là Dương Phong đã lựa lời nói cho nhỏ nhẹ đi, tránh khâu kiểm duyệt, sợ không cho xuất bản. Theo tôi, xác đáng hơn thì phải nói: Ba thi phẩm đó đã... lật trái lại mặt sau của xã hội và chính trị - Người đã tự phê phán, thậm chí tự lên án mình! Cả ba bài thơ đều nằm trong Di cảo. Khi còn sống Người đã không cho xuất bản, không dám công bố. Tôi xin phân tích từng bài một.
      Trong bài "Ai? Tôi!" - Bài thơ viết vào những ngày sau khi nước nhà đã hoàn toàn giải phóng. Có lẽ một thực trạng xã hội đã tác động vào tâm can, tư tưởng, dầy vò làm ông đau đớn. Ông chạnh nghĩ về những hy sinh của những người lính trong cuộc chiến tranh xưa. Những bi thương mà dân tộc đã phải trả giá. Bắt đầu vào thơ... bằng sự phê phán chính mình, ông chỉ ra:
                      Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
     Cái nguyên nhân đó chỉ là sự tự vấn lương tâm. Người tự kết tội mình: Vì những câu thơ cổ võ của Người làm cho những người lính xung phong, nên mới để 2.000 người đi thì 1.970 người bỏ mạng không trở về. Nhưng tại sao Người nói vậy???
    Ta vẫn biết thơ Chế Lan Viên là loại thơ bình luận. Thơ triết lý. Về phương diện nghệ thuật, nó có tính triết học cao. Tính tư tưởng trong thơ rất sâu sắc, cả về ý nghĩa cuộc sống cũng như sự phê phán xã hội và cuộc đời. Mỗi câu thơ ông đều hàm súc ý nghĩa ở bên trong. Thơ đọc càng sâu càng thấm thía. Về tính nhân văn, ông là một nhà thơ của nhân dân.
     Nhà thơ của nhân dân ấy từng viết những bài thơ nổi tiếng một thời, như: Sao chiến thắng, Người đi tìm hính của nước... Ông đã sáng tác cả một tập "Ánh sáng và phù sa" danh tiếng. Đầy hoài vọng với một tương lai huy hoàng của đất nước về ngày chiến thắng:
                      Xưa phù du mà nay đã phù sa
                      Xưa bay đi mà nay không trôi mất
                      Cho đến được... lúa vàng đất mật...
                      Anh đã mất gì? Đã mất bóng đêm.
      Không tiếc lời ca ngợi lãnh tụ. Ca ngợi Đảng quang vinh:
                      Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
                      "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
                      Hình của Đảng lồng trong hình của nước
                                    (Người đi tìm hình của nước)
     Hết lời ca ngợi chủ nghĩa. Tin vào ngọn cờ khi theo Đảng quang vinh:
                      Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
                      Khi tự do về chói ở trên đầu
                      ......
                      Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
                      Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
                      Sao vàng bay theo liềm búa công nông
    Thế mà giờ đây, những năm tháng sau chiến tranh, đất nước đã hoà bình. Một thực tế xã hội với bao nhiêu mảng đen về sự bất công, thiếu nhân quyền. Đầy rẫy những quan lại tham nhũng đủ kiểu, tiếp tay cho chính quyền địa phương chèn ép, chiếm đoạt cả đất đai của dân lành, đẩy họ vào sự cùng quẫn. Chính quyền như thế đâu có phải còn của dân? Cái băng rôn Nhà nước do dân, vì dân... âu cũng chỉ là khẩu hiệu? Tâm hồn ông bị đổ vỡ. Người đổ vỡ về Đảng chăng?... Người thất vọng về chủ nghĩa chăng?...  Người không nói. Nhưng rõ ràng đọc: "Ai?Tôi!", lật mặt sau của những câu thơ ta thấy: Cái thần tượng về một Đảng mác-xít trong ông đã bị sụp đổ! Ông không còn niềm tin thật sự vào thể chế của ngày hôm nay nữa.
       Nghĩ lại cuộc chiến xưa. Bao sinh mạng những người lính xung phong cho sự tốt đẹp của đất nước, hạnh phúc của dân tộc... lại như thế này sao? - mà chính thơ ông đã góp phần thúc giục họ xung phong. Hàng vạn, hàng vạn người lính chết cho một cuộc chiến... đã trở thành phi lý ư? Ông đau đớn mà thốt lên. Không, phải nói là ông đã thét lên khi viết những câu thơ:
                     Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                     Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                     Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
     Ở đây ta thấy một Chế Lan Viên quay ngược lại hoàn toàn, không còn phải là tâm hồn như khi Người đã viết "Ánh sáng và phù sa" nữa. Trái tim ông quằn quại. Sau đó Người lý giải về kết quả những câu thơ mà Người đã cổ võ những người lính xung phong đó: 2.000 người đi... thì 1.970 người bỏ mạng, chỉ 30 người sống sót. Để cuối cùng dân tộc được gì?... Tổ quốc được gì?... Thông qua một hiện thực cuộc sống, Người viết:
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                      Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                      Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                      Lại chính là tôi!
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                      Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                      Mà tôi xấu hổ
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
     Ta đặt câu hỏi: Nếu sự hy sinh kia... cũng vì Tổ quốc, tại sao Người lại phải xấu hổ?... dẫu cho là chính thơ Người cũng đã cổ võ những người lính ấy xung phong chăng nữa. Vấn đề là ở chỗ, bật ra những câu thơ như thế, Trong thẳm sâu trái tim Người đã phải rên rỉ, đớn đau vì tình hình của đất nước hôm nay. Mặc dù ông chỉ giải nghĩa nguyên nhân làm ông xấu hổ, rằng:
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
     Hay là:
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
     Chỉ có thể giải thích rằng: mặc dù đất nước đã hoà bình, nhưng tình hình xã hội lại ngày càng suy. Rền xiết trong ông một nỗi niềm u uẩn: về chế độ còn nhiều sự giả trá, bất công chăng? Thực tế một Nhà nước xã hội chủ nghĩa đâu có được tốt đẹp trong tâm hồn như ông hằng tâm niệm? Ông trăn trở... máu dân tộc đã đổ cho cuộc chiến ấy, chỉ để giành lại một chính thể phi lý này ư? Thế mà 1.970 người lính phải chết trong một đêm Mậu Thân - đấy mới chỉ là một cuộc xung phong. Nếu nói đến mọi cuộc xung phong thì phải hàng vạn, hàng vạn những người lính nữa đã phải chết... cho một cuộc sống với bao sự phi nghĩa như thế này?
     Ta lật lại mặt kia của câu thơ: Nếu như sự xung phong của những người lính, là để giành lại độc lập, tự do cho một đất nước... có một xã hội công bằng, ấm no và hạnh phúc của dân tộc. Thì việc gì Người phải xấu hổ? Như Người từng viết:
                       Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
                       Như cha mẹ ta, như vợ như chồng
                       Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
                       Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
                                                       (Sao chiến thắng)
       Máu của dân tộc đã đổ. Cái chết của những người lính ngoài chiến trận, cho ngày hôm nay ra sao?
 -  Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?...  Khi trung ương và chính phủ đầy những quan tham nhũng. Một xã hội tràn lan bao lớp quan lại địa phương cấu kết với quan trên chèn ép, ức hiếp dân lành. Chỗ nào cũng bất công. Chỉ chết những kẻ thấp cổ, bé họng - có oan trái mà không tiền, đi kiện cáo cũng chẳng ai thèm quan tâm.
-   Vì một Đảng cộng sản quang vinh ư?... Khi những "đầy tớ của dân" ấy thì giàu nứt đố, đổ vách. Có nguyên Tổng bí thư Đảng làm hai khoá cả chục năm. Đứng đầu của một Đảng cộng sản quang vinh - Thời ông ta còn đương nhiệm... thì Đảng yếu kém, xã hội tạp dịch bung bét, kinh tế quốc dân sa sút. Nếu không tham nhũng mà khi ông ta mãn nhiệm trở về, giàu như một đế vương? Nhà cửa, biệt thự nguy nga như cung vua phủ chúa, sàn lát đá hoa cương. Đạo lý chẳng khác gì những kẻ tha hoá? Cha thì đoạt lấy nhân tình, bồ bịch của con trai. Nhân cách rất rẻ tiền. Con gái với mẹ kế cũng bới móc, kiện cáo nhau vì giành giật tiền bạc của nả. 
-   Một nhà nước, một chính thể chân chính của dân, do dân, vì dân ư? Ngay cuối tháng 3/2015 vừa qua, trong bài viết "Chả lẽ ông Chủ tịch thành phố Hà Nội không có lỗi gì trong vụ chặt cây", đăng trên laokhoa.blogtiengviet.net - chính nhà thơ Trần Đăng Khoa đã lên tiếng cảnh báo những lãnh đạo Đảng và Nhà nước, rằng:
   ... “Bởi chúng tôi chỉ là nhân dân. Nhân dân là mác là chông. Là sông là núi nhưng cũng không là gì... Vâng nhân dân là thế đấy. Khi có giặc thì chúng tôi là mác là chông, là sông là biển ngăn giặc, đánh giặc, rồi hy sinh thành hàng vạn, hàng triệu những nấm mồ vô danh ở Điện Biên, ở Thạch Hãn, ở Hoàng Sa, Trường Sa, ở Biển Đông, ở khắp mọi nơi trên đất nước này. Còn khi yên hàn, chúng tôi chẳng là gì cả”.
     Liên tưởng những năm qua - Ở ngoài biển đảo thì bọn Tàu khựa cướp biển, cướp đảo ta. Chúng hung hăng bắn giết những người dân đánh cá và chiến sĩ ta... đang phải ngày đêm canh giữ biển trời. Khắp nơi trong nước, nhất là ở các thành phố... nhân dân xuống đường biểu tình lên án giặc Tàu - Thì chính quyền lại đi trấn áp, bắt bớ. Rồi hăm dọa, tống giam cả các bloger yêu nước.
     Ta trở lại với bài thơ của Chế Lan Viên: Trong thẳm sâu tâm linh của Người, điều làm cho Người xấu hổ - Như Người nói, bởi chính thơ Người đã kêu gọi những người lính kia... và họ đã phải chết đi trong những cuộc xung phong ấy?... cho tương lai của đất nước với một thể chế thiếu nhân đạo như hôm nay.
        Tôi xin nói tiếp sang bài thơ "Bánh vẽ".

                                                BÁNH VẼ
                      Chưa cần cầm lên nếm,
                                                  anh đã biết là bánh vẽ
                      Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
                      Cầm lên nhấm nháp.
                      Chả là nếu anh từ chối
                      Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      Đêm vui
                      Bảo anh không còn có khả năng nhai
                      Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
                      Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
                      Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
                      Như không có gì xảy ra hết
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                      Nhai ngồm ngoàm...
     Chả cần phải khó nghĩ ta cũng hiểu ngay: Những "bánh vẽ" mà Chế Lan Viên nói ở đây thuộc các chủ trương, chính sách hay đường lối của Nhà nước, của Đảng. Có những thứ bánh vẽ chỉ gây tổn hại lớn nhỏ đối với nền kinh tế hay đời sống dân sinh, làm cho nhân dân đói khổ. Nhưng cũng có loại bánh vẽ thì lại làm... chết người. Có khi giết hàng nghìn, hàng vạn người lương thiện và vô tội.
     Xin lược lại mấy cái bánh vẽ đã gây ra những tội ác kinh hoàng trong lịch sử của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Như cái bánh vẽ:
-   Về Cải cách ruộng đất của Đảng và chính phủ 1946-1957.
-   Sự kiện hay còn gọi là "vụ án nhân văn giai phẩm" 1955-1958.
                  1.  Sơ lược về thảm hoạ của cuộc Cải Cách Ruộng Đất. 
     Cái bánh vẽ của Đảng Lao động VN (tức Đảng Cộng sản VN bây giờ) và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hòa - Người ta gọi đó là "chiến dịch đấu tố thảm sát tàn bạo". Nồi da xáo thịt kinh hoàng. Đồng bào, đồng loại thảm sát, tận diệt lẫn nhau. Những người cùng huyết thống trong gia đình bị tuyên truyền, cưỡng chế vu cáo ám hại nhau. Con đấu tố cha, vợ vu cáo chồng... là địa chủ cường hào, là phản động, là bóc lột. Giẫm đạp lên luân thường đạo lý. Người ta chưa biết thật chính xác về số người đã bị giết trong CCRĐ. Có nguồn tin thì nói khoảng 120.000 người bị giết, nhưng cũng có thông tin những người bị giết lên đến trên 170.000 người. Vậy chí ít cũng phải trên chục vạn người bị giết ở cuộc CCRĐ ấy. Trong đó, cứ 10 người đem ra kết án rồi bắn chết thì có 7 người bị vu oan.
     Bao nhiêu người cách mạng - hy sinh cả một đời, hy sinh cả gia đình, cống hiến của cải cho kháng chiến... cuối cùng cũng bị đội cải cách của chính phủ qui tội, xử bắn rất tàn ác. Nói về những hành động giết chóc khủng khiếp thời kỳ ấy, thấy nổi trôi trên mạng mấy vần thơ của nhà thơ Tố Hữu - một ông quan cách mạng mà sau này lên tới chót đỉnh, uỷ viên trong Bộ chính trị của Đảng cộng sản, viết tuyên truyền trong thời ký CCRĐ. Thơ rằng:
                      Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
                      Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
                      Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
                      Thờ Mao Chủ tịch, thơ Sít-ta-lin bất diệt!
     Chẳng hiểu có đúng vậy không? Nghe vần thơ, giọng thơ thì rất giống thơ Tố Hữu. Nếu đúng thế thì - Chao ôi!  Một ông quan cấp cao của Đảng cộng sản nhưng thơ khát máu quá!... mà lại là máu cùng đồng loại, giống nòi.
                   2.  Đôi nét về vụ nhân văn giai phẩm.
-   Là phong trào đấu tranh của những văn nghệ sĩ đòi dân chủ, tự do văn hoá và trong sáng tác văn học nghệ thuật.
-   Những văn nghệ sĩ trong Nhân văn giai phẩm tuyên bố: văn học nghệ thuật không để phục vụ cho chính trị, đó là quyền tự do sáng tác của họ. Với khẩu hiệu "trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
-   Họ phản đối sự chuyên chính của Đảng, đòi xoá bỏ sự đảng trị, độc đoán trên lĩnh vực văn hoá và sáng tác văn học nghệ thuật. Theo họ, chủ nghĩa cộng sản là không nhân văn, chà đạp con người. Họ chống sùng bái cá nhân. Phong trào nhân văn giai phẩm này đã bị Đảng và Nhà nước dùng bạo lực thanh trừng, bắt bớ, tù đầy. Hàng loạt các văn nghệ sĩ phải đi cải tạo, hoặc bị quản thúc, cấm sáng tác... kéo dài hàng chục năm. Trần Dần phẫn uất cứa cổ tự tử mà không chết. Từ một trào lưu đấu tranh đòi dân chủ, tự do trong văn học nghệ thuật - trở thành một vụ án "nhân văn giai phẩm", đẩy thành một vụ án chính trị. Phong trào được khởi xướng 1955 và chính thức bị dập tắt tháng 6/1958. Đến khi được cởi trói cho văn nghệ sĩ thì nhiều người đầu đã bạc, kẻ thì bệnh hoạn ốm đau... nào bại liệt, tâm thần, hoặc chết trước khi được cởi trói. Như nhạc sĩ Văn Cao được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh một năm sau khi mất (1996). Tháng 2/2007 các nhà văn trong nhóm Nhân văn giai phẩm như Phùng quán, Trần Dần, Yến Lan, Lê đạt, Hoàng Cầm thì được tặng giải thưởng Nhà nước... vì đã có công trong sự nghiệp sáng tác văn học của nước nhà.
     Chao ôi, mới thấy kiểu lãnh đạo của chế độ XHCN chúng ta, có khác gì bánh vẽ? Đúng là những thứ trò. Thậm chí những thứ trò và bánh vẽ ấy đầy giả tạo, lừa dân và vô nhân thất đức... "cởi ra rồi lại buộc vào như không".
     Xin quay trở lại với bài thơ "Bánh vẽ" của Chế Lan Viên. Tại sao một nhà thơ lớn của chúng ta cũng như bao văn nghệ sĩ khác, biết là "bánh vẽ" rồi... mà vẫn phải ngồi vào bàn, vẫn phải... ăn??? Như Người đã viết:
                      Chả là... nếu anh từ chối
                      Chúng sẽ bảo anh phá rối
                      .....
                      Và đưa anh ra khỏi bàn tiệc
     Nghĩa là: nếu anh không ăn cái bánh vẽ của chúng, thì chúng sẽ "đánh"anh. Sẽ qui tội và sẽ... triệt anh. Cũng như "vụ án Nhân văn giai phẩm" vậy thôi.
    Ngay như Nguyễn Khải - một nhà văn có danh tiếng và tầm vóc. Đương thời ông đã phải kìm nén, nhẫn nhịn biết bao sự nhiễu nhương của thể chế. Sự vô đạo của những kẻ điều hành xã hội - Ông có dám viết lên cái hiện thực ấy đâu? Đến khi mất, ông mới để lại một cuốn di cảo, tập tùy bút chính trị... gọi là "Đi tìm cái tôi đã mất". Phê phán, phanh phui những cái mất tự do, dân chủ, chưa có nhân quyền của chế độ. Như người ta nói: Nguyễn Khải chết rồi mới dám nói thật.
     Không phải chỉ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải... mà cùng bao văn nghệ sĩ khác thời nay - Nếu muốn còn được cầm bút để viết. Nếu muốn còn được sống để hoạt động văn học nghệ thuật, thì phải chấp nhận ăn... "bánh vẽ". Lương tri dẫu bị dằn vặt? Họ vẫn phải - như Chế Lan Viên đã viết:
                     Rốt cuộc anh lại phải ngồi vào bàn
                     Như không có gì xẩy ra hết
     Và:
                     Nhai ngồm ngoàm...
     Nếu anh không chịu ngồi vào bàn nhai cái bánh vẽ ấy? Nếu trái tim nhà văn bức bối mà không kìm nén được nữa, cố viết nó ra - thì sẽ bị... triệt ngay. Thí dụ như cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" của nhà văn Hoàng Minh Tường chẳng hạn?
     "Thời của thánh thần", Nxb Hội nhà văn 2008 - Là một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh tổng thể của xã hội. Nhà văn phục lại những hiện thực, qua những số phận chìm nổi của một gia đình. Những trận đấu tố đầy chất bi hài. Những chiến dịch cưỡng bức nhuộm máu... để tái hiện lại sự đen tối của thời Cải cách ruộng đất. Vụ án Nhân văn giai phẩm... những người trí thức và văn nghệ sĩ bị nhà cầm quyền vùi dập, bắt tù đầy, khủng bố tư tưởng, bị vô hiệu hoá trở thành những cái bóng dặt dẹo. Rồi cuộc đấu tranh với xét lại hiện đại đến vấn đề Hoà hợp dân tộc?...  Các nhà bình luận nhận xét rằng: "Thời của thánh thần" là bi kịch của một gia đình thông qua tấn đại bi kịch của dân tộc. Đọc Thời của thánh thần phải rùng mình vì sự bất ổn của một xã hội, trong cơn bão loạn thời thế. Bạo lực được xây dựng trên những thứ triết lý không tưởng, vừa cuồng tín vừa tàn bạo.
     Sách bị qui là bôi xấu chế độ. Mới phát hành được vài ngày thì bị Nhà nước ra sắc lệnh thu hồi. Nghe nói ngày 28/8/2008, chính nhà văn Hoàng Minh Tường đã phải đi tất cả các cửa hiệu gửi... để thu hồi sách.
    Năm qua, nhà văn Đỗ Hoàng cũng một lần nữa lên tiếng vạch trần những hành động phi nhân nghĩa của ông Trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương một thời - Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Uỷ viên Bộ chính trị của Đảng cộng sản. Khi còn đương chức đương quyền, ỷ thế vào bộ máy quyền lực của Đảng đã bóp nghẹt sự tự do dân chủ các văn nghệ sĩ và thẳng tay trấn áp những ai không chịu... "ăn bánh vẽ" của Đảng. Trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm" đăng trên trang vannghecuocsong.com - Nhà văn Đỗ Hoàng vạch rõ:
     " Nguyễn Khoa Điềm - Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam, đứt gánh giữa chừng... phải về vườn - Thời còn Trưởng ban tư tưởng văn hoá,  Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay: Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyên kể năm 2000 của Nguyễn Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: Phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho)..." v.v.
     Như thế có thể thấy rằng: cái bánh vẽ mà Đảng và Nhà nước XHCN của chúng ta vẫn liên tục vẽ ra suốt từ hồi CCRĐ đến giờ. Các văn nghệ sĩ muốn tồn tại bình yên thì đều phải... “ăn”? Như cách nói của Chế Lan Viên:
                      Và những người khác thấy anh ngồi,
                      Họ cũng ngồi thôi
                      Nhai ngồm ngoàm...
     Nếu ai không "nhai ngồm ngoàm..." thì Đảng sẽ cho chính quyền đến... "hỏi thăm"? Sự tự do, dân chủ của chế độ ta vẫn chỉ là giả hiệu: như việc đàn áp, đe nẹt, bắt bớ những người biểu tình chống giặc Tàu. Những kẻ quá khích chỉ là số ít. Chủ yếu đó là dân tình và những trí thức yêu nước. Bóp nghẹt nhân quyền sống của con người qua việc trấn áp, giam hãm tù đầy các bloger yêu nước... dám nói lên sự thật.
      Giờ tôi xin nói thêm ít lời về bài "Trừ đi":
                      Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
                      Có phải tôi viết đâu? Một nửa
                      Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
                      Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
                      Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
                      Tôi giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
                      Tôi giết bão táp ngoài khơi
                                               cho được yên ổn trên bờ
                      Và giết luôn mặt trời trên biển,
                      Giết mưa và giết luôn cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
                      Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
                      Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
                      Và thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?

                      Không phải!
                      Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
                      Đã giết đi bao nhiêu cái
                      Có khi không có tội như mình!
     Đọc mấy câu thơ kết trong bài 'Trừ đi" này, thấy tâm trạng Chế Lan Viên có khác gì Nguyễn Khải và một số văn nghệ sĩ?... chỉ dám viết một nửa sự thật - Còn một nửa thì phải viết theo sự cưỡng chế của... Đảng và chế độ - Người nói:
                      Thơ này rơi đến tay anh
                      Anh bảo đấy là tôi?
                      Không phải!
     Người phủ nhận chăng? Không, để rồi cũng chính Người thừa nhận:
                     Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
     Câu thơ viết thổ lộ như thế - để nói lên những xót xa trong lòng ông, trăn trở và đau đớn. Có thể nói đó là sự quằn quại, dầy vò lương tâm của những người cầm bút, những văn nghệ sĩ sống bằng lương tri. Những con người yêu đất nước và dân tộc - Nay chỉ vì thờ phụng cho một chính thể đã mọt ruỗng mà phải giết đi bao nhiêu cái tốt đẹp. Giết đi cả những tình cảm, lòng nhân ái và tư tưởng trong sáng. Cái tội ấy của nhà thơ, nhà văn... còn lớn hơn cả bao nhiêu thứ mà Người đã qui tội kia? Người - tức Chế Lan Viên đã bảo vậy:
                     Chính tôi đã giết đi bao nhiêu thứ
                     Có khi không có tội như mình!
     Đấy, ông đã viết như thế đấy! Vậy "trừ đi" là trừ đi cái gì? Ông nói, sau này đọc thơ ông thì hãy trừ đi một nửa - Chỉ đúng một nửa thôi, còn lại là giả...
     Có phải cái "giả" mà ông muốn nói ấy... có khi là cả những bài thơ mà ông đã từng ca ngợi chế độ, ca ngợi Đảng? Bởi vì: nếu ông phê phán Đảng, lên án chế độ, thì ông sẽ bị... "đánh", bị triệt... như vụ án Nhân văn giai phẩm. Gia đình, vợ con sẽ khốn khổ, khốn nạn theo ông. Nghĩa là, nếu ông mà nói thật... thì Đảng và Nhà nước cũng lắm tội lắm chứ!?
     Tôi xin dừng lại bài bình luận về ba bài thơ của Người ở đây.

                                                                       Hà Nội, tháng 4/2015   
                                                                                       PNT.
-----------------
       Hai bài "Bánh vẽ" - "Trừ đi" đã viết đầy đủ như ở trong bài bình. Xin chép lại toàn bộ bài thơ "Ai? Tôi!" dưới đây, để bạn đọc xem cho mạch lạc:

                                    AI? TÔI!


                      Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
                      Chỉ một đêm, còn sống có 30
                      Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
                      Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
                      Ca tụng người không tiếc mạng mình
                                                    trong mọi cuộc xung phong
                      Một trong ba mươi người kia
                                               ở mặt trận về sau mười năm
                      Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
                      Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
                      Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
                      Ai chịu trách nhiệm vậy?
                      Lại chính là tôi!
                      Người lính cần một câu giải đáp về đời
                      Tôi ú ớ
                      Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
                      Mà tôi xấu hổ
                      Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
                      Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
                      Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
                                                                    ( Thơ Chế Lan Viên)
                     
 
 
 
                                              
 
 
 
 
 
 
 
                                 MỤC LỤC
 
                                                                                                              Trang
 
                                             Phần 1.    
                                    THƠ ĐẤU TRANH
 
Nước đã mạt rồi    ---------------------------------------------------------------
Nói thật thì phải vầo tù
Biển đảo quê hương
Người lính trận năm xưa nghĩ về ngày 30-4
Hội nhà văn Việt Nam đã trở thành nỗi nhục của quốc gia
Người chơi mưa
Bài ca ông tân Chủ tịch Hội nhà văn
Bài ca tượng đài Hồ Chí Minh
Nghĩ về những tượng đài Lê Nin bị giật đổ ở Nga
Rước giặc vào nhà
Brack Obama người bạn lớn của dân tộc Việt Nam
Xử tội Formosa
Đảng cộng sản Việt Nam mình đểu quá, phải không anh
 
                                          Phân 2.
                         VĂN CHƯƠNG PHẢN BIỆN
                  PHÊ PHÁN CNXH VÀ SỰ THOÁI HOÁ
 
Bằng Việt phê phán xã hội bằng thơ   .......................................................
Hữu Thỉnh Chủ tịch HNVVN - Một chân dung thơ tầm thường,
          nhân cách kém, tham lam, xằng bậy  ----------------------------------
Nguyễn Khoa Điềm hay tên Lý Thông đĩ bợm .......................................
Thơ Nguyễn Quang Thiều sẽ ra rác
       và Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh « ăn ốc nói mò » .........................
Chế Lan Viên với ba bài thơ phê phán sâu sắc .......................................
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
       TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
 
*   Có một khoảng trời                  -   Tập thơ
                                                          Nxb Hà Nội 1990
*   Người đàn bà trắng                 -   Tập thơ
                                                          Nxb Thanh niên 1994
*   Rung động trái tim                 -   Tập thơ
                                                          Nxb Thanh niên  2009
*   Hồ Xuân Hương tái lai           -   Tập thơ
                                                          Nxb Văn hoá - Thông tin 2012
*  Phê bình & tiểu luận thi ca Phạm Ngọc Thái
                                                          Nxb Văn hoá - Thông tin 2013
*  Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại
                          -  Tập “Thơ & bình”, Nxb Văn hoá -Thông tin 2014
       KỊCH BẢN SÂN KHẤU ĐÃ SÁNG TÁC:
               (Có cơ hội sẽ công diễn)
*   Bản án dưới mồ                       -  Kịch dài
*   Số phận những hòn đá tảng     -  Kịch dài
*   Mối tình hoa hồng bạch          -  Kịch ngắn
*   Chuyện ở quán gốc đa             -  Kich ngắn
*   Cánh cửa quốc tế                     -  Kich ngắn
      SẮP TỚI SẼ RA MẮT:
*   Chiến tranh và tình yêu          -  Tiểu thuyết
 
      Ngoài ra viết nhiều bài lý luận phê bình thi ca, chân dung văn học… về các mảng thơ văn nói chung - Đăng trên các báo Quốc gia và những trang mạng Việt ở khắp thế giới. 
  
 
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2017 11:42:57 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 22.12.2017 11:27:15 (permalink)
                CHÙM THƠ XA QUÊ
 
                TRĂNG QUÊ

Trời đó trời quê, trăng cũng quê
Mà nước thì xa xa đến xa
Nhìn ra cửa sổ trông trăng mọc
Lòng những nôn nao nhớ bóng nhà.

Trời đó trời trăng, trăng vẫn trăng
Biệt nhà, biệt nước, biệt dòng sông...(*)
Bơ vơ bóng lẻ hồn hiu quạnh
Cô lái đò ơi: có giống không?

                              Nước Đức
                               11/4/1989
       
(*) Phỏng theo thơ Nguyễn Bính:
           Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ dòng trong...
                                        (cô lái đò)
 
 
              NỖI TRĂN TRỞ 
         NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG

Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                    lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.

Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!

Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.

Rồi một ngày - Sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
                         cũng rộm vàng khói cột...
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
Và khi đó tóc tôi có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?...

                        Nước Đức- Đêm 11/9/1989

(1) Mượn ý trong câu của Nguyến Duy: "Còn ít vàng mười mang ra bán nốt!"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.

           CÓ MỘT KHOẢNG TRỜI
                                                      
Có một khoảng trời để thương để nhớ
Là khoảng trời ở đó có em
Những bóng cây in trên đường phố thân quen
Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc.

Có một khoảng trời không ai thấy được
Dẫu đêm nào chớp cũng loè lên
Có ánh chớp không kéo theo tiếng sét
Mà rung ngân, rung ngân… trong tim!

Khoảng trời gió thổi xót đêm
Hoá sắc cầu vồng nối hai miền thương nhớ
Cây tình yêu lớn theo cấp số
Ngược trời về cho ta gần ta.

Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa
(xa thật đấy mà cũng gần thật đấy)
Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy
Thổi về phương em giữa chiều gió nổi
 
Hạt vô tư còn lại… những tàn tro!

                                     11/10/1988
 
   KHÚC HÁT NGƯỜI THA PHƯƠNG 

Đi về đâu cuối chiều
Khi xung quanh vắng lặng
Con thú nào lạc bạn
Hoảng hốt giữa đồi nương

Suối róc rách bìa rừng
Cứ kêu hoài chân vực
Một thành phố quê hương
Hiện lên trong đáy mắt.

Ôi, cuộc đời nghèo xác
Nằm chết giữa tình thương
Có người vợ hiền lành
Với con tôi ở đó...

Chiều nay trong nắng đỏ
Bước lang thang mình tôi
Khúc buồn như chim bay
Hỡi người tha phương ơi?

Đi về đâu cuối chiều
Đời xa nước cô liêu!

                   4/9/1988
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2017 11:29:24 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 12.02.2018 15:41:55 (permalink)
 
 
                    PHẠM NGỌC THÁI
 
      CHIẾN TRANH và TÌNH YÊU
 
                           Tiểu thuyết
 
                               Tập I
 
 
                                         CHƯƠNG i
 
                   Đã đăng ở bên "MỘT HUYỀN THOẠI THI CA" - Trang 16
 
                                               Chương II.   
 
                             CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI VÀ CHIA LY
 
 
                                                   6-
 
     Giai đoạn này, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam ngày càng khốc liệt. Máy bay hoa kỳ đã ném bom oanh tạc đến các vùng ngoại thành của Thủ đô Hà Nội.
     Ra đến cửa, Ông Giáo vẫn còn tần ngần dừng lại dặn con gái. Không biết ông đã dặn dò con đến bao nhiêu lần?
-  Nhớ đi đứng cho cẩn thận, con nhé! Nếu đi đường nghe thấy tiếng báo động, là phải tìm ngay một chiếc công sự gần đấy mà nấp. Thanh niên các con là hay chủ quan lắm đấy!                    
     Ông còn cặn kẽ nhắc: “Con nhớ luôn luôn phải chuẩn bị một chiếc khăn mặt bông thấm nước, phòng bom hơi độc. Chớ có đi đâu xa, nhỡ ngộ…” -  Thu nhìn ba tủm tỉm cười. Suốt tối qua, ông bận bịu lo cho cô mọi thứ: nào  là dây buộc đồ, ít thuốc đau đầu, thuốc cảm… Mỗi gói, ông lại đề tên thuốc ra ngoài, ghi liều lượng uống. Sợ cô dùng nhầm. Ông cứ dặn đi, dặn lại:
-  Con phải đề phòng muỗi đốt. Ở vùng rừng núi là hay mắc bệnh sốt rét.
     Thực ra, Thu đã được mẹ lo cho chu tất từ mấy hôm trước nhưng Ông Giáo vẫn không yên tâm. Ông bảo: “Giá con trai lại là chuyện khác. Nó chưa bao giờ xa nhà…”.
-  Con nhớ rồi, ba ạ! Ba cứ lẩn quẩn với con mãi thì đến trễ giờ đi làm mất!                
     Ông Giáo ngước nhìn chiếc đồng hồ báo thức đặt trên bàn, rồi nói:
-  Hôm nay, ba có đến cơ quan chậm một chút cũng chẳng sao.   
     Sực nhớ chuyện gì đó, ông lại lật đật chạy vào nhà trong mang ra một chiếc mũ rơm. Chiếc mũ có vành rộng gần bằng cái nón. Cầm đưa cho con, ông nói:
-  Ba nhờ một chị ở cơ quan bện hộ chiếc mũ rơm này, cho con mang đi học ở nơi sơ tán. Mãi chiều tối qua chị ấy mới bện xong.
     Ngừng một lát, ông tiếp: “ Nó chống bom bi tốt lắm, con ạ!”.
     Thu cầm chiếc mũ đội thử lên đầu.
-  Chiếc mũ bện khéo quá, ba nhỉ? Chỉ tội hơi nặng.
-  Lúc báo động mà có nó để đội thì mới yên tâm. Cồng kềnh một tí, con chịu khó đem đi!
-  Nhưng con không biết sẽ nhét vào đâu?
     Thu ái ngại nói. Người chị dâu của Thu từ khi chồng đi nhập ngũ, đưa con về bên ngoại cho mẹ đẻ trông nom. Nay Thu sắp đi học xa, lại mang con trở về ở với ông bà Giáo. Từ nhà trong chạy ra, đỡ chiếc mũ rơm trên tay em.
-  Để chị buộc vào sau ba lô cho nào.
     Hoàng cũng vừa tới. Anh chào Ông Giáo rồi quay lại nhìn chiếc mũ rơm to cồ cộ, trêu Thu:
-  Chuyến này thì bom Mỹ phải tránh thật xa.
     Thu nhìn anh nguýt dài. Bà Giáo ở bếp lên, bê ra hai gói to tướng được bọc cẩn thận bằng lá chuối đã hơ lửa. Một gói là cơm nếp, bà chuẩn bị cho cô ăn lúc đi đường – Bà bảo vậy. Còn gói kia là nửa con gà, bà đã chặt ra từng miếng cẩn thận, với một dúm muối tiêu để chấm và tí mì chính.
-  Mẹ chuẩn bị nhiều như thế này thì con ăn làm sao hết?
     Thu đỡ hai gói đồ ăn trên tay mẹ, nói: "Chỉ mang mấy gói cơm với thịt của mẹ thế này, cũng đủ gẫy xương sống".
-  Rồi chẳng có lúc, cô đói rã xác ra đấy?
     Bà Giáo mắng yêu con gái: "Cố mà mang đi, dọc đường xe cộ nhỡ ngại.".
     Lúc này, chắc là Ông Giáo đã thấy yên tâm. Ông thong thả dắt chiếc xe đạp Thống Nhất đã được cơ quan cho mua phân phối vài tháng trước, ra cửa đi làm.
     Lan và Thúy, hai người bạn học cùng lớp với Thu và Hoàng, cũng đến để đưa bạn ra bến xe. Họ phân công nhau: Lan sẽ đèo ba lô, Thúy đèo chiếc va ly, Hoàng có nhiệm vụ... đèo Thu.
     Thu tới bên chiếc gương lớn ở cánh tủ, soi lại mình lần nữa. Cô đến chào chị, rồi ôm chầm lấy mẹ. Hai giọt nước mắt nóng hổi, lăn trên đôi gò má đã nhăn lại của Bà Giáo.
-  Con đi học mà mẹ. Con về hậu phương chứ có phải ra chiến trường đâu?
     Nói thế chứ, chính cô cũng thấy bùi ngùi.
-  Nhớ giữ gìn sức khỏe, con nhé! Ở đồng rừng nước độc lắm đấy! Nhớ đừng thức khuya quá.
-  Con lớn rồi mà mẹ cứ lo cho con như là con nít?
-  Ấy là mẹ cứ dặn thế!
     Niềm vui ánh lên trong đôi mắt còn ướt nhoèn của Bà Giáo. Bà nói: "Nhớ viết thư ngay về, kẻo mẹ mong.".
     Bà Giáo đưa chân con ra tận đầu phố. Thu và các bạn của cô phải giục mãi, bà mới chịu quay trở lại. Họ lên xe, đi về phía bến xe Kim Mã.
 
 
                                                        7-
 
     Vào bến xe như thể người ta bước đến một khu rừng nhỏ di động. Mỗi chiếc ô tô đỗ ở bến đều được phủ ngụy trang bằng những cành lá xanh, tốt um như một búi cây biết chạy. Khi một chiếc xe đã lấy đầy khách ra khỏi bến, một chiếc khác cũng đã được ngụy trang sẽ vào thay thế, hàn kín lại cái khoảng xanh vừa bị trống.
     Sát mé bến là khu nhà lợp ngói. Đó là phòng đợi của khách đi xe. Trong các phòng đợi có các ngăn bán vé, cho từng tuyến đường từ Hà Nội đi về các tỉnh ở miền Bắc.
     Cạnh bến có những quầy nhỏ bán thuốc, nước, bánh kẹo... bầy la liệt mời chào khách.
     Thu đi chuyến xe của tuyến đường về tỉnh Tuyên Quang – Việt Bắc. Hoàng chuyển ba lô, va li của Thu cho người phụ lái đứng trên nóc xe. Thúy và Lan giúp bạn lên xe. Chiếc xe đã đầy khách, và việc giằng buộc của người phụ lái cũng đã hoàn tất. Nó chuẩn bị khởi hành.
     Hoàng đứng lặng nhìn về phía ô cửa sổ xe, nơi có người bạn gái anh ngồi trong đó. Lan và Thúy đang tíu tít dặn dò cô nhiều thứ lắm! Thu vửa trả lời bạn vừa nhìn về phía Hoàng - Cả hai đều biết rằng: đối với họ,  chuyến chia tay này sẽ dài lắm...
     Hai người bạn gái đang nói chuyện với cô những gì nhỉ? Thu vẫn cười nói với các bạn đấy, nhưng hình như cô không hiểu mình đã nói cái gì?... và cuộc đối thoại tay ba giữa cô với hai người bạn gái, chẳng khác nào là những nốt nhạc đệm trong bản tình đời giữa cô và anh.
-  Tạm biệt nhé! Nhớ viết thư về cho bọn mình.          
     Thu cúi xuống nắm lấy tay hai bạn, môi nở một nụ cười. Lan và Thúy chào Thu rồi đi ra – Hãy dành chút thời gian ngắn ngủi cho anh chàng đang đứng im lặng đằng sau họ! Hai cô bạn gái đều có ý nghĩ ấy.
-  Chúng mình sẽ đợi Hoàng ở ngoài kia.                                         
     Họ nói với Hoàng. Trong cái nhìn thiện ý của hai cô, như muốn nói: " Bọn này cũng tâm lý lắm đấy!".
     Thu cười, đón anh lại gần. Hoàng nhận thấy, nước mắt như đang chạy vòng quanh khóe mắt của Thu, nhưng cô không khóc.
-  Hôm nào Hoàng nhận được giấy triệu tập nhập ngũ, nhớ báo cho Thu biết! Thu sẽ xin phép trường về Hà Nội để tiễn Hoàng.               
     Thu nói, khi anh đang đứng sát thành xe.
-  Chẳng cần thế đâu, Thu ạ! Nơi sơ tán của Thu ở xa quá, xe cộ lại khó khăn.             
      Cái tiếng nói sâu kín từ trong trái tim nổi lên choán toàn bộ trong tâm trí Thu, tiếng nói sâu thẳm tận trong lòng cô – Lúc này chỉ có thể gói lại trong câu từ biệt: "Chào Hoàng thân yêu, Thu đi!Thế là chúng mình phải xa nhau rồi đấy! Chỉ còn vài phút nữa thôi, đừng buồn bạn nhé!".
-  Rồi chúng ta sẽ còn phải đón nhiều thử thách nữa, Thu ạ!
     Hoàng bàng hoàng nắm lấy tay người bạn gái và nối: "Hoàng mãi mãi yêu Thu!". Giọng anh nhỏ chỉ vừa đủ để Thu nghe.
-  Thu cũng yêu Hoàng!
     Cái giọt lệ không kìm nén được trào ra trong khóe mắt cô. Xe từ từ chuyển bánh. Họ cố níu lấy tay nhau lần nữa.
-  Tạm biệt!
     Hoàng giơ tay vẫy và đuổi theo vài bước. Anh có cảm giác, một cái gì như vừa rơi mất, tuột khỏi tay anh... Ngoài kia, Lan và Thúy cũng giơ tay vẫy theo tiễn Thu lần cuối. Đợi Hoàng đến gần, cả ba im lặng cùng nhau bước ra ngoài phố. Mỗi người lại đuổi theo ý nghĩ của riêng mình.
 
                                                     8- 
 
     Trong đêm Hoàng một mình đứng trên gác thượng, mắt đăm đăm nhìn về phía trời xa. Sáng nay anh vừa đi tiễn người bạn gái thân nhất của đời anh. Lúc này, bao ý nghĩ về tình yêu và cuộc sống cứ ùn lên trong đầu...
     Phải chăng ý nghĩa sâu sắc nhất về một đời sống: Người ta đi tìm nó như tìm một kho quí ở nơi sâu nhất, sẽ được trả lời đằng sau những mất mát? Cũng ở đấy, giá trị chân xác mà con người muốn tiếp cận đến chứa đầy mâu thuẫn. Cái điểm xác định mà ta muốn vươn tới nằm ở chân bờ biển bên kia, cách ta một khoảng cách: gồm có muối và sóng bão – Bởi chân bên này của biển mới chỉ là bờ cạn, dù ở đó có những bóng hàng dương xanh rờn và quanh năm gió mất.
     Trong Hoàng trăm ngàn những suy lý hỗn độn. Bản thân anh thì chưa hề hiểu rằng: Bao trăn trở của anh trong những ngày tháng này, vẫn chỉ là màn giáo đầu giới thiệu sơ sài.
     Cái gì sẽ chờ đợi ta? Ý nghĩ hay hành động của ta trong những ngày qua, đã xuất phát từ điểm mốc của tư tưởng nào: Lương tri ư? Chưa hẳn. Còn một cái gì đấy khác nữa – Đó là ý thức về xã hội, hay chỉ là sự tự phát cá nhân? Cái "riêng" và cái "chung", cái nào mạnh mẽ hơn?
     Bóng Hoàng in trong đêm thành một vệt đen dài trên sân gác thượng. Vầng trăng còn khuyết đã vượt lên cao, bỏ lại cả hàng cây xanh bên bờ hồ sau những dẫy nhà của khu ngõ Cống Trắng. Trăng mang màu vàng ráng mỡ gà, nhuộm thẫm đám mây... sóng sánh trong vòm trời như một cái vung lớn. Điếu thuốc trên môi anh lập lòe, khi tàn khi đỏ.
     Cái gì mới xẩy ra ngày hôm nay, có khi chỉ mới hồi sáng thôi... mà như đã trở thành quá khứ? Cũng giống vì sao đổi ngôi vừa vụt sáng lên kia, để rồi mất hút vào nơi có hàng vạn các ngôi sao khác đang cháy. Anh cảm thấy, tất cả như đã và đang lùi vào dĩ vãng – Chẳng lẽ cả tình yêu nữa: của anh và Thu, rồi cũng sẽ trở thành quá khứ hay sao? Không, nó mới chỉ là bắt đầu! Thế mà đã phải chia ly, để không biết đến khi nào gặp lại. Liệu nó có thể biến mất đi như ngôi sao, vừa vụt tắt kia không?
-  Không, không thể là thế được! 
     Một tiếng nói như quát vang lên trong đầu Hoàng, vang lên ở trong hồn và trái tim anh. Ngọn lửa đầu tiên: "Tình yêu và khát vọng"của cuộc đời anh, sẽ không dễ dàng có thể tắt đi!
 
                                                      9-
 
     Thu ngồi bên một bộ bàn ghế đóng mộc mạc, cắm cúi viết thư. Trên chiếc giường gần đó, người bạn gái mới mẻ sẽ học cùng lớp với Thu, dưới xuôi vừa lên đây, đã mắc màn đi ngủ sớm. Hai đứa được sắp xếp tạm ở trọ học tại một gia đình người địa phương. Trong khi trường chưa dựng xong lán cho các sinh viên nữ.
     Gian bên, bà chủ nhà cũng đã ngủ. Tiếng ngáy của bà nghe đều đều. Cụ ông mất từ ba năm nay. Bà sinh được ba người con - Anh con cả vào bộ đội, đã đi B. Người con gái thứ hai thì lấy chồng ở làng bên. Bà ở với cô con dâu cả và thằng út, nó chưa đầy mười lăm tuổi.
     Trong buồng, người con dâu của bà đang ru đứa con nhỏ, tiếng võng nghe kẽo kẹt. Lúc này, thằng con út di chơi với lũ trẻ trong xóm chưa về.
     Họ sống thật đơn giản và tốt bụng! Đấy là ấn tượng trong Thu, của những ngày đầu tiên cô đến đây. Mái tóc cô sinh viên xinh đẹp mới gội lúc chiều tối, được gió rừng, gió núi lùa qua ô cửa sổ làm cho khô, bay lất phất trên những trang giấy trắng. Thu đang viết thư về cho gia đình. Cô tả những dòng tâm tư mới mẻ, sự việc và quang cảnh của vùng rừng núi... cho ba, mẹ và chị dâu nghe.
     "Có thể kết luận được rồi" - Thu nghĩ vậy. Cuối bức thư, Thu còn đề thêm câu: "Cô hôn cháu Kỳ Anh yêu quí của cô!". Kỳ Anh là đứa con gái yêu của người anh trai Thu đã ra tiền tuyến.
     Ngoài trời, trăng cũng lên cao. Bãi mía trước cửa nhà gặp gió, những chiếc lá mía cọ vào nhau kêu lào... xào... Tiếng một con tắc kè ở mé rừng trái nhà, thủng thẳng kêu năm tiếng.      
     Thằng út đã về. Nó gọi Thu bằng chị, hỏi vài ba câu rồi đi ngủ. Trong giấc ngủ, chắc nó nằm mơ về buổi sáng mai: Khi đi học về, nó sẽ lùa trâu ra tận mé rừng phía sườn dốc bên kia - Ở đấy , nó mới tìm thấy một bãi cỏ non mướt. Hồi chiều, Thu thấy nó khoe với mẹ và chị dâu như thế!
     Đây là những dòng thư cô viết tiếp cho anh:
     “Hoàng có biết không, trước đây Thu mới chỉ nhìn thấy rừng trên phim ảnh. Đọc về rừng trong tiểu thuyết. Bây giờ, rừng đã ở trước mặt Thu. Thu đang sống trong nó…”.
     Những dòng thư cứ chảy đều đều lên trang giấy trắng, như máu trong cơ thể cô. Những ý nghĩ lộn xộn, không bóng bẩy. Thu có cảm giác, cuộc sống xung quanh cùng hòa nhập với niềm vui của tâm hồn cô. Nó cũng thân thiết, hào hùng tựa một bản hành khúc tình yêu! Như thể ở đâu đó đang nổi lên từng hồi trống trận và giục giã…
     Cô viết:
     “Nếu tình yêu của Thu có thể giúp cho Hoàng thêm phần nào lý trí, để Hoàng vững tin trên con đường đời rộng lớn. Thì đấy, chính là niềm hạnh phúc đã đến với Thu! Thu sung sướng thấy được, khi chúng ta có những tình cảm sâu sắc gắn bó với nhau – mà ở đó, mỗi đứa biết vượt lên cái riêng mình…”.
     Ngày mai, có người ở trường về Hà Nội, Thu sẽ nhờ mang bỏ vào hòm thư của thành phố, cho nhanh. Dán tem phong bì thư cẩn thận, Thu lên giường quàng tay ôm lấy người bạn gái, ngủ thiếp đi.
 
 
                                                     10-
 
     Tiến Thành lia một đường dao cạo quanh cằm người khách cắt tóc, đang nằm ngả đầu lên thành ghế. Vừa lúc một người khách khác bước vào cửa hàng, anh chủ hiệu xua tay nói:
-  Nghỉ rồi, anh bạn nhé! Có chút việc nên nghỉ sớm.
      Nói thế nhưng Tiến Thành vẫn mải làm, không để ý. Theo đường dao cạo, vệt xà phòng đã xoa trắng trên mặt khách được lột đi, để lộ lớp da trắng mịn như da con gái của một tay thanh niên. Anh chủ hiệu ngẩng lên, quệt đám bọt xà phòng lẫn với đám lông tơ bám lên bàn dao cạo.. vào một cái đế cao su đặt trên giá. Lúc này Tiến Thành mới nhận ra, người khách bước vào lại chính là cậu em trai.
-  Ồ, chú Hoàng! Anh chị cũng nghe tin là chú đã có giấy gọi nhập ngũ. Chú vào nhà trong đi! Chị vừa nhắc, sao chưa thấy chú đến?
     Anh ta vừa tiếp tục cạo nốt mặt cho người khách, vừa phân trần:
-  Đã định nghỉ rồi đấy, nhưng anh bạn này nằn nì mãi. Nể quá, cái nghề này nó thế! Cắt tóc thì lấy tiền thật đấy, nhưng cơ bản là nhiều khi phải chiều lòng khách.
     Tiến Thành lại giục:
-  Chú cứ vào đi, anh cũng sắp xong rồi đây!
     Hoàng đi vào nhà trong. Tiến Thành phân trần với tay khách trẻ:
-  Cậu em tớ sắp nhập ngũ. Gọi chú ấy đến, anh em nhậu nhoẹt với nhau để tiễn chú ấy lên đường.
-  Đợt này họ tuyển nghĩa vụ gắt lắm!
     Tay thanh niên vẫn đang nằm ngả đầu trên thành ghế, nói:
-  Cứ dăm, bảy ngày lại có một đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Gọi là khám cho nó đúng thể lệ, chứ... loại A tuốt! Sức khỏe khá, thế là mời anh đi!
-  Vậy thì còn có nhẽ?... đằng này chú em tớ, nó lại xung phong. Mà nó đã nhận được giấy gọi vào đại học Bách Khoa, nữa cơ!
-  Đại học năm nay ưu tiên số một, mà anh? Cứ mang giấy gọi đại học lên Ban tuyển quân, là được miễn.
     Tay khách nói có vẻ ngạc nhiên.
-  Thế thì còn có nhẽ!
     Tiến Thành gập con dao cạo lại đặt lên giá, buông một câu thở dài: "Đã bảo... cậu em trai tớ, nó xung phong!".
-  Bỏ đại học à?
-  Thế mới có chuyện chứ!     
-  Hoài của.
     Gã thanh niên xuýt xoa tiếc rẻ. Anh chủ hiệu lấy chiếc bàn chải, phẩy phẩy những sợi tóc bám trên gáy khách. Người khách ngắm nghía mái tóc vừa được cắt gọn ghẽ qua chiếc gương lớn, vẻ ưng ý. Lấy tiền trả rồi cầm cái mũ lưỡi trai ngoắc trên chiếc mắc, đội lên đầu. Bước ra cửa, anh ta còn hất hàm về phía nhà trong, có ý chỉ Hoàng... ghé vào tai nói nhỏ với anh chủ hiệu:
-  Con người của thời đại đấy! Như anh em mình là lỗi thời rồi?
     Tiến Thành cất dọn đồ nghề, quét những mớ tóc vương trên sàn đá trắng, bỏ vào chiếc thùng gỗ đựng rác đặt ở góc nhà. Sau khi đã treo tấm biển có đề chữ "nghỉ" ra trước cửa hiệu, anh ta mới thong thả bước vào nhà trong.
 
                                                         *
 
-  Chú đã quyết định dứt khoát rồi đấy hả?
     Tiến Thành cởi áo treo lên mắc, hất hàm hỏi em. Cả tấm thân đồ sộ của anh ta phơi ra trắng hếu. Bộ ngực mỗi ngày một nở to, vú đã chảy xệ xuống. Anh ta mặc trần một chiếc quần soóc, bộ đùi hộ pháp hằn lên, lớp da dầy dưới bụng trễ xuống cạp. Mái tóc đen vuốt mượt ra phía trước. Hai bên mai thì xén ngang hình lưỡi tràng, quặp xiên thẳng chính khoáy tai. Khuôn mặt đầy mỡ của anh chủ hiệu trắng hồng lên, đôi má béo múp míp... Nói vô phép, chẳng khác mấy là má giống lợn ỉ.
-  Chú chờ một chút, anh ra rửa cái mặt.
     Tiến Thành nói rồi bước đi từng bước chắc nịch trên nền nhà đá hoa, dáng ngất ngưởng như một con gấu.
     Vợ Tiến Thành thì gầy quắt, đen nhẻm. Mái tóc phi dê của chị ta cuốn lên cong tớn, trông như những vòng dây thép gai cuộn ngang ngửa, phủ lên một khuôn mặt có cái cằm nhọn hoắt, cắm lêu nghêu vào một tấm thân khô khốc. Tưởng như ở trong con người phụ nữ này, tỏa ra hơi ẩm mốc và ám khí. Duy chỉ có đôi mắt là sắc lẹm tựa một lưỡi dao, nhìn như soi vào ruột người ta vậy.
-  Chú nó đi là phải. 
     Người chị dâu của Hoàng vừa ở bếp lên, nói thế. Chị ta bê một mâm cỗ đặt lên ban thờ, lại nói dóng xuống:
-  Ít nhất thì nhà mình cũng phải có một người đóng góp nghĩa vụ quân sự.
     Ý chị ta tránh không muốn nói: "Nếu chú nó không đi, biết đâu anh chú... lại chẳng phải đi?".
-  Thì tôi có nói là chú nó không nên đi đâu?
     Đã vào sân trong. Tiến Thành đưa hai tay vục vào chậu nước, phả lên mặt, rồi với lấy chiếc khăn bông trắng vắt trên dây phơi, lau qua quít. Tiến Thành vừa đi ra vừa nói:
-  Chú cũng nên đi, nhưng giá để học xong... lấy được cái bằng đại học đã. Tôi vẫn tiếc cái tài học của chú.
-  Hết chiến tranh về... em sẽ học tiếp.
     Hoàng thản nhiên trả lời anh như vậy.
-  Chú nói đơn giản? Mai sau có tuổi, lại vợ con... Cứ quần thảo với cuộc sống mà kiếm miếng ăn, cũng đủ mệt. Khi ấy còn nói tới việc "học", e là không phải nhẽ.
     Tiến Thành giơ tay đón đứa con gái nhỏ, đang chơi đồ hàng ở trên giường: "Cái Nguyệt ra đây, bố bế tí nào?".  Con bé xoa nháo nhào các thứ đồ chơi của nó, rồi sà vào lòng bố. Bàn tay bé teo của cái Nguyệt cứ vân vê đầu vú bố, như nó vẫn sờ "ti" mẹ.
     Vợ Tiến Thành thắp mấy nén hương, giục chồng:
-  Anh cúng tổ tiên đi!
     Đèn ngoài phố đã bật sáng. Cúng vái xong, Tiến Thành hỏi em:
-  Sao thầy và dì vẫn chưa đến nhỉ? Lúc chú đi...
-  Em ở nhà bạn về thẳng đây, nên không rõ.
     Vừa lúc, ông Tiến Thịnh bước vào nhà. Tiếng ông sang sảng;
-  cháu Nguyệt của ông đâu nào?
     Ông dựa chiếc xe đạp Phượng Hoàng mác Trung Quốc còn mới cứng vào góc nhà, đi lại đón cháu. Mẹ nó nhắc con:
-  Con chào ông nội đi!
     Cái Nguyệt nói lí nhí trong mồm rồi chạy đến chỗ ông. Vợ Tiến Thành quay lại phia bố chồng nói:
-  Con định đạp xe đến tìm thầy?
-  Tao khắc đến, việc gì phải tìm? Cố cắt nốt mấy cái tóc. Khách nó chờ, bỏ đi không được.
-  Con cũng thế đấy! Người ta đợi, chẳng lẽ mình lại từ chối? Lắm lúc mệt bã.
-  Cái nghề này nó thế!
     Ông nói tiếp: "Cũng cầu mong cho ngày nào cũng vậy".
     Ông Tiến Thịnh đặt cháu xuống giường, bước đến gần ban thờ, chắp hai tay lên vái. Cúng xong ông quay ra, mồm vẫn lẩm bẩm: "Mong sao thánh nhân cứ phù hộ cho con cháu, ăn nên làm ra".
     Cái Nguyệt lại rối rít ngồi vào lòng ông.
-  Dì con không đến hả thầy?
     Vợ Tiến Thành hỏi.
-  Dì mày bận chút việc. Mới lại, cũng phải có người ở nhà, đi hết cả sao được.
-  Thế thì chẳng còn ai nữa đâu ạ! Con cũng đã bảo cả chú Lâm, nhưng có lẽ...
-  Thằng ấy nó lêu têu suốt ngày, biết đâu mà chờ.
     ... Hoàng có cảm giác như mình đang lạc lõng. Trong suốt bữa ăn hầu như anh không nói. Khi thầy và anh trai hỏi, anh chỉ trả lời nhát gừng, quấy quá cho xong. Ăn miếng thịt gà mà anh trai gắp bỏ vào bát, anh thấy nó bã ra. Như thể anh đang bơ vơ giữa một bãi hoang...  Cái gianh giới phân cách tình cảm và cả trong tư tưởng, giữa anh với gia đình, kéo dài thành một vệt tối sẫm. Sống trong nhà mình mà lúc nào anh cũng muốn thoát ra khỏi đó. cả buổi, anh chỉ nói dăm ba câu. Mọi khi, ông Tiến Thịnh hay trì triết con, nhưng giờ... thì dù gì nó cũng chuẩn bị đi rồi? Ông chỉ lẳng lặng đùa vui với đứa cháu. Xong bữa, uống hết chén nước trà nóng do vợ Tiến Thành đưa, ông dắt xe ra về.
      Khi Hoàng bước ra đường thì trời thấm lạnh, đã bắt đầu sương muối. Bức thư của Thu, Hoàng mới nhận được vẫn cồm cộm trong túi áo. Tình yêu của Thu là nguồn an ủi và sức mạnh đối với anh. Anh muốn chạy nhanh về nhà để viết thư cho Thu.
     "Anh sẽ thức cả đêm nay để viết cho em" – Đó là tiếng nói ở trong anh.
     Tiếng bom ở ngoài kia là chuyện của ngày mai, mà cho dù nó đang là thực tại ở ngay đây chăng nữa? thì ánh sáng của tình yêu em trong trái tim tôi, tiếng bom kia cũng chỉ là nhỏ bé.
     Trong ít ngày còn ở lại thủ đô, Hoàng sẽ dành để lên thăm Thu. Ý định ấy thôi thúc trong đầu anh. Trời cũng đã khuya, Hoàng rảo bước về nhà. 
 
                                                      11-  
 
     Theo chỉ dẫn của Thu trong thư, Hoàng xuống xe ở bến thị xã Tuyên Quang. Anh đi thẳng tới ngã ba, bước vào một cái quán nước hỏi đường. Bà chủ quán lấy tay chỉ lối cho anh.
-  Cậu cứ theo con đường đất này, đi tuốt ra tít xa kia kìa! Đấy, khu rừng xanh trước mặt mà cậu nhìn thấy, chính là khu sơ tán của trường Đại học Sư phạm. 
     Bà ta còn cẩn thận nói thêm: "Ở đây, không phải chỉ có riêng mỗi trường Sư phạm về sơ tán đâu? Có cả khu quân sự nữa đấy!" Bà ghé sát vào tai anh, thì thào một điều bí mật:
-  Khu cấm mà cậu. Hình như họ đang dấu loại vũ khí hiện đại gì đó?  Canh phòng cẩn thận lắm! Khéo... kẻo lạc vào đấy, người ta hỏi giấy tờ là rầy rà.
     Bà chủ quán giục anh đi ngay kẻo trời sắp tối. Một ông khách mới bước vào quán, bà quay ra gọi đứa cháu nhỏ mang phích nước sôi, rót vào ấm trà. Anh chào bà lão rồi đi.
     Hoàng mặc chiếc áo khoác ngoài màu hạt dẻ, để đi đường cho đỡ bẩn. Vóc dáng anh cân đối, toát lên một sự hài hòa bình dị. Đôi mắt sáng, nhìn hơi mơ mộng và thông minh. Trông anh có cái cứng cỏi thật "đàn ông", lại vừa gợi vẻ trữ tình.
     Bóng nắng đã rơi thõng xuống lưng chừng nền trời xanh lam, thấp thoáng vài dải mây trắng nhạt. Hoàng tần ngần dừng lại ở đầu đường, nhấc chiếc túi xách ra khỏi vai rồi rảo bước đi đến một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ ở ngay mé rừng... cách đó vài ba trăm mét.
     Một cô gái có thân hình to béo, khuôn mặt trắng hồng vì mới ở bếp ra. Cô lấy tay phủi phủi những tàn tro bám trên tấm áo cánh màu lá mạ. Tóc để dài nhưng đã được cuộn lên cho gọn ghẽ. Khuôn mặt sởi lởi với nụ cười mời đón. Cô đi lại phía anh chàng thanh niên đang đứng ngơ ngác ở ngoài sân, cất tiếng hỏi:
-  Anh hỏi ai ạ?
-  Hoa!
     Hoàng reo lên. Cô gái đứng sững người, đôi mắt tròn xoe vì ngạc nhiên:
-  Cơn gió nào đưa chàng hoàng tử đến đây?
     Cô gái có tên gọi là Hoa ấy… vẫn chưa hết vẻ sững sờ, bắt tay người con trai. Hoàng nháy mắt, cười mỉm một cách ý tứ.
-  Nhớ Hoa quá, lên thăm!
     Hoa cười rộ lên… láy lại câu nói của Hoàng, rồi lại cười.
-  Không khéo xúc động quá! Hoa đứt mạch máu, chết bây giờ?
     Cô nói tiếp: “Hoa làm gì có được cái vinh hạnh ấy?” – Giọng cô không có gì ác ý. Hoàng cự lại:
-  Chẳng lẽ lên thăm bạn không được hay sao?
-  Sao lại không được?
     Họ vẫn đối đáp với nhau bằng cái giọng vui vẻ: “Nhưng nhà tài tử lừng danh ơi!” – Cô gái gọi lại cái biệt danh mà hồi còn đi học cùng nhau, các bạn lớp thường hay gọi đùa Hoàng.
-  Nhà tài tử thân mến của em, nếu người có nhã ý lên thăm em, thì thật là tốt phúc cho em quá! Nhưng họa khi nào loài người đã giải được thuốc độc cho chàng hoàng tử Hăm Lét sống lại, để chàng lại đến đón nàng Ôphêlia yêu quí của chàng?  
-  Khiếp! Hoa ví von mà nghe "sợ người".
    Hoa nói vậy, chứ... gặp lại người bạn trai, lòng cô vui sướng. Cô mời bạn vào nhà, vừa đi vừa cười nói.
- Hoàng ngạc nhiên đấy! Không ngờ Hoa cũng về học ở trường Đại học Sư phạm này?
     Hoàng bảo vậy.
-  Thì Hoàng cũng biết: Hoa đã có danh sách cùng một số bạn lớp sang học ở Trung Quốc, nhưng vì "cách mạng văn hóa"  nên tất cả bị đình lại. Bộ giáo dục mới bổ xung Hoa về học ở đây.
-  Ra thế!
     Bước vào nhà, anh thấy một bà lão ngồi trên một chiếc giường gỗ. Bàn tay gầy guộc của bà cầm một cái chầy giã trầu nhỏ xíu bằng đồng. Đầu chầy được tán dẹt và khía ra như răng khế. Bà lão thục thục cái chầy xuống một cái cối nhỏ cũng bằng đồng. Bà giã trầu để ăn.
     Anh chào bà lão. Hoa nhanh nhảu giới thiệu:
-  Đây là mẹ của Hoa! Hoa đưa mẹ cùng lên đây sơ tán, vừa học và cũng tiện bề chăm sóc mẹ.
     Hoa giải thích vì có mẹ đi cùng, nên cô thuê riêng một gian nhà nhỏ của người dân địa phương. Căn nhà cũng gần với khu lán ở của các sinh viên nữ, gọi là kí túc xá của trường.
     Ngước nhìn anh thanh niên lạ, bà lão vui lây với niềm vui của con gái. Chắc bầ nghĩ: Chàng trai này lên đây là để thăm con gái bà? Bà tíu tít hỏi anh đủ mọi chuyện... cứ như là bà đã xa Hà Nội từ lâu lắm.
     Nào là, theo cháu: Hà Nội mình liệu bao giờ được yên? Gớm, ở trên này cứ u u.. minh minh... Sáng ra gặp rừng, tối lại gặp núi, chẳng biết tình hình nó ra sao?
     Nào là, cháu có nghe gì về Hội nghị Pa Ri không? Ông nhà mình giỏi thật, thằng Kít-sinh-giơ tài như thế... mà vẫn bị ông Thọ, bà Bình nhà mình "vặn" cho hết chỗ nói. 
     Hoa phải ngắt lời mẹ:
-  Mẹ để cho anh ấy nghỉ tí đã nào? Mẹ cứ làm như là...  
     Bà lão vẫn còn giải thích với Hoàng:
-  Chẳng là, bác cũng được nghe các anh, các chị nói chuyện như thế. Vui vui là...
     Rồi bà giục con gái dọn cơm cho anh Hoàng cùng ăn. Khi Hoàng nói, anh đã ăn ở ngoài quán rồi, bà chép miệng:
-  Cái người Hà Nội mình, chúa là hay khách khí.
     Hoàng sốt ruột. Anh chỉ muốn hỏi Hoa về tin tức của Thu? Nhưng lại thấy ngài ngại... Hoa thì vui quá, cô cứ tíu tít kể lể với Hoàng đủ thứ chuyện, không thể dứt ra được. Cuối cùng Hoàng cũng lựa cách ướm hỏi...
-  Mình biết ngay mà! Nhà tài tử lên đây là phải có lý do riêng?
     Thoáng chút ghen tuông trong nụ cười cởi mở của Hoa. Cô nhìn như sói vào anh:
-  Khéo chọn thế? Thu nó cũng là hoa khôi của trường sư phạm này đấy! Nghe nói, mới lên đây mà đã có khối chàng muốn ngấp nghé...
-  Chắc Hoa không biết? Thu là... em gái họ xa của mình. 
     Hoàng nói chống chế với bạn.
-  Em gái con ông bác chứ gì?
     Hoa cười toáng lên, chăm chăm nhìn vào Hoàng. Cái nhìn của Hoa như muốn nói: "Đây biết tỏng đi rồi. Bạn dấu ai, chứ đừng dấu gái này?".
    Ở phia kí túc xá của trường, từng tốp sinh viên tay cầm bát đũa, đi từ phía nhà ăn về khu lán ở của nữ sinh. Hoa chỉ tay về phía đó, ghé vào tai Hoàng nói nhỏ:
-  Chắc Thu nó đi ăn cơm cũng sắp về đấy?  
     Rồi Hoa reo lên:
-  Cô nàng về kia kìa!   
     Hoa chạy ra cửa gọi to:
-  Thu! Thu ơi! Có khách... khách...
     Tiếng "khách" cuối cùng vang vào hốc núi, dội lại thành một âm hưởng đanh đanh, như khi ta gõ một thanh sắt lên mảnh vại sành đã vỡ.
     Hoa đưa tay đẩy khẽ vai Hoàng, ra hiệu bảo anh tới đó. Hoàng đứng dậy chào bà cụ và Hoa rồi tiến về phía Thu. Trống ngực anh đập dồn dập. Bước chân đi cũng nhẹ bẫng, chênh vênh, như người bay trên mây.
 
                                                  *
 
     Thu đưa bát đũa của mình cho cô bạn đi bên cạnh cầm hộ, vuốt lại mấy sợi tóc xõa trước trán rồi đi về phía anh. Cô còn nghe thấy tiếng người bạn gái hỏi phía sau lưng: "Cái anh chàng sắp đi bộ đội mà cậu kể đấy, hả Thu?". Thu quay lại nhìn bạn, gật đầu.
     Nhìn hai người đang im lặng tiến lại phía nhau, Hoa đã hiểu tất cả: "Thế mà anh chàng dám bảo với mình, là cô em gái họ xa" - Trông kìa, họ có cần biết đến ai nữa đâu? Mà còn thấy gì nữa cơ chứ! Bây giờ thì anh chỉ nhìn thấy chị, chị chỉ nhìn thấy anh thôi.
     Tiếng bà cụ giục Hoa dọn cơm ăn, cô quay vào nhà.
     Khi đến gần, Thu cất tiếng hỏi trước:
-  Anh Hoàng chờ em đã lâu chưa?
-  Cũng được một lúc rồi, Thu ạ!
-  Về qua phòng em để anh biết, rồi chúng mình ra suối ngồi chơi.
     Hoàng gật đầu, theo Thu đi vào khu lán của nữ sinh. Anh chào hỏi, chuyện trò với các bạn gái cùng lán với Thu một lát... rồi rủ nhau ra suối. Trước mắt họ hiện lên một chiếc cầu treo nhỏ, Thu bảo:
-  Bây giờ em sang cầu trước! Thi xem ai sẽ đi cầu giỏi hơn? 
-  Thi thì thi, nhưng đừng bắt anh lội xuống suối vớt lên đấy!
-  Khỏi lo.
     Thu kéo dài giọng: "Em chỉ sợ anh qua cầu không quen, lại ngã?".
     Cầu là thân cây gỗ tròn nhỏ, bắc ngang qua suối. Vòng thân cây chỉ rộng bằng miệng cái rá vẫn dùng vo gạo. Hoàng đưa tay định đỡ Thu lên cầu, nhưng cô hất tay anh ra. Thu nắm lấy sợi dây treo làm chỗ vịn bước lên cầu. Cô nói:
-  Cầu nhỏ, chỉ đi một người thôi. Em phải sang tới bên kia, anh mới được bước lên cầu đấy!
     Buông hai tay như người biểu diễn xiếc trên dây thép, hai chân Thu đưa thoăn thoắt trên thân cây gỗ nhỏ. Cứ thế, Thu đánh đà đi trên chiếc cầu độc mộc một cách khá thuần thục. Sang tới bên kia suối, Thu cười khanh khách:
-  Nào, bây giờ thì đến lượt anh!
     Hai tay Hoàng níu chặt lấy sợi dây treo, dò dẫm đi từng bước một trên cây gỗ. Lúc anh chành sang bên trái, lúc lại nghiêng sang phải. Ngoắt một cái... Thu chỉ kịp kêu "ối"! Hoàng đã trượt chân ngồi tệt lên cầu. May mà không ngã. Thu níu vào dây treo, tiến ra giữa suối đỡ Hoàng cùng sang.
-  Thu đi cầu tài quá!
     Hoàng khen. Thu cười nói:
-  Em sắp trở thành người dân tộc rồi đấy! Hôm mới lên đây, cứ mỗi lần qua suối, em lại phải vòng lên tít trên kia, chỗ nước cạn... xắn quần bước sang, thế mà vẫn bị ướt. Dần dần, tập đi ít hôm nó quen.
     Họ rủ nhau đến ngồi trên một phiến đá rộng. Nước suối chảy qua các kẽ đá dưới chân họ, kêu lóc róc. Mấy con chim vẫn còn tận dụng ánh sáng đã nhạt của một buổi chiều, rỡn nhau trên những cành cây. Một con ta tả màu xanh biếc lao như cắm xuống mặt nước, lấy chiếc mỏ nhọn hoắt cắp lên một chú cá con.
     Thu khỏa hai chân xuống khe nước, nhặt những hòn sỏi nhỏ ở lòng suối, ném ra chỗ có dòng nước lớn. Hoàng mở túi xách lấy ra chiếc máy ảnh, nói với bạn gái:
-  Anh chụp cho em vài kiểu ảnh nhé!
-  Nhưng em không thích đăng báo đâu.
     Thu bảo vậy.
-  Thì anh có nói đăng ảnh của em lên báo đâu? để kỷ niệm thôi! Anh sẽ mang những bức ảnh này của em ra đi.
     Cô nhìn anh tình tứ, xoay người làm dáng để cho anh chụp. Chụp ảnh xong, cô lại ngồi lặng yên… tiếp tục ném những hòn sỏi xuống nước.
-  Giờ phút này em chẳng biết nói gì nữa. Thế là anh sắp đi rồi!
-  Anh chỉ ở đây với Thu được một ngày, rồi phải về để chuẩn bị lên đường.
     Hoàng đặt chiếc máy ảnh xuống mặt phiến đá, kéo Thu lại gần rồi giang tay ôm người yêu vào lòng. Anh nói giọng xúc động:
-  Anh yêu em! Những ngày em lên đây, cứ tối tối anh lại lang thang trên phố, tìm đến ngôi nhà em ở. Anh đứng dưới đường, nhìn lên cửa sổ chỗ phòng em. Anh biết, kề bên cửa sổ là chiếc giường cá nhân em vẫn nằm. Đọc thư em, anh đã nuốt từng chữ mà em đã viết.
     Thu nằm yên trong lòng Hoàng, để đón nhận những nụ hôn nồng nàn của anh trút lên môi, lên mắt và cả tấm thân của người con gái. Họ biết đây sẽ là những giờ phút ly biệt, chẳng rõ bao giờ mới có thể còn gặp lại nhau? Khi đã yên tĩnh, mắt Thu ngước nhìn lên cả khoảng trời xanh mênh mông. Một lần, một lần nữa… cô muốn nhìn thật sâu vào đôi mắt anh, để giữ mãi hình ảnh người bạn trai trong trái tim mình.
     Hoàng cũng lặng đi. Trên thế gian này, biết bao nhiêu bài ca trữ tình làm say đắm lòng người? Cuộc sống thật sâu sắc và nhiều ý nghĩa kia: với anh, đó chính là Thu! Bàn tay anh xoa lên khắp người con gái. Một sự ham muốn rạo rực dâng lên trong anh. Cô không chống cự. Tâm hồn dường như đang bay tới một chân trời mênh mông, xa xăm. Đã xế chiều mà Thu cảm giác có cả một bầu trời hồng đang che rợp khu rừng, tỏa lên như một ngọn núi lửa khổng lồ, hừng hực cháy trong cô.
     Ôi! Có khi một sự khuất phục trái tim, sẽ đem đến cho ta cả một thiên đường tràn ngập ánh sáng. Thu mặc cho bàn tay man dại của anh xoa lên khắp thân thể cô. Hoàng đặt Thu nằm trên mặt hòn đá lớn. Tiếng nước suối vẫn róc rách chảy xung quanh, cùng hòa tấu trong bản tình tuyệt vời của thiên nhiên và con người.
-  Anh muốn... anh muốn... em thân yêu!
     Tiếng Hoàng bổi hổi đan trong những phút giây điên dại. Đôi bàn tay anh đã cởi bỏ quần áo Thu, ném sang bên cạnh. Cả tầm thân của người con trai choàng lên người con gái mềm mại, mịn màng như tơ lụa.
     Mới đầu Hoàng còn có cảm giác dụt dè, nhưng rồi sự cuốn hút làm cho anh trở nên mạnh bạo. Anh với tay xuống, cầm lấy chân cô kéo lên... Như một con mang hiền lành, Thu mặc cho Hoàng muốn làm gì thì làm. Cô dang hai chân, đón nhận của anh. Đây, tấm thân tuyệt vời của người trinh nữ đang chiều anh tất cả! Anh cúi xuống dán những chiếc hôn nóng bỏng lên ngực, lên bụng nàng. Đôi bàn tay xoa lên cả "tòa thiên thai" lộng lẫy và linh thiêng nhất thế gian. Nàng ôm ghì lấy anh. Hơi thở nàng gấp gáp trong cơn mê đắm đến cuồng nhiệt, của cuộc giao hoan trai gái này.
     Nàng đã tiễn anh lên đường bằng kỉ vật thiêng liêng nhất của người thiếu nữ. "Sẽ không có kỉ vật nào quí giá hơn mà em đã hiến dâng... phải không anh ?" – Tấm thân lõa lồ của Thu vẫn ghì xiết lấy Hoàng, cô thì thào nói với anh như vậy.   
-  Sẽ không có gì quí giá hơn tấm chân dung thiên thần của em đâu, Thu ạ!
     Anh vẫn nằm trên thân thể của người yêu, hơi thở còn dồn dập. Tưởng rằng anh có thể cứ nằm như thế mãi để ngủ suốt đêm. Dưới chân họ, tiếng con suối vẫn róc rách chảy. Chỉ có rừng núi là biết được bí mật ấy của họ hôm nay.
     Thu đăm đắm nhìn lên anh, mỉm cười:
-  Thôi, ta dậy đi anh!
-  Anh cứ muốn nằm với em như thế này mãi.
     Hoàng bảo vậy. Cô đưa tay thoa lên mặt anh, đầy cảm mến. Anh lại cúi xuống hôn da diết lên môi, lên mắt và khắp người cô.
-  Anh đã được biết tất cả của em rồi đấy!
     Thu nói: "Anh thân yêu, giây phút này sẽ không bao giờ em quên!".
-  Anh sẽ mang kỉ niệm của chúng mình ra đi, và giữ mãi mãi trong cuộc đời.
     Hoàng lấy hai tay bế xốc người yêu lên, định làm lần nữa. Thu khẽ ngăn anh lại.
-  Thôi anh, để lần sau.
-  Anh chỉ ở với em được một ngày, biết khi nào chúng mình mới lại có lần sau?
     Thu dịu dàng, đưa tay vuốt lại những sợi tóc xòa trên trán anh:
-  Anh làm dữ dội như một con gấu thế, mà chưa thấy thỏa thích à? Anh không thấy chán à?
 -  Với Thu, chẳng bao giờ anh chán cả.
-  Ghét anh.
     Cô mắng yêu: "Muốn nữa thì anh làm. Chỉ sợ rồi anh lại nằm thỉu trên bụng em, không dậy được.".
-  Không đâu, em thân yêu!
     Hoàng ngắm nhìn người yêu. Tấm thân trắng của nàng lồng lộng phơi dưới những ánh sáng nhạt của những đốm sao mới lên.
     Hoàng xoay người yêu ngược lại, nằm phủ kín lên cả khuôn mặt cô. Thu chiều anh. Đôi bàn tay nhỏ nhắn như búp măng người con gái nắm lấy cái của anh, nó nần nẫn trong tay. Nàng hôn và vuốt ve.  
-  Của em đấy!
    Anh bảo. Thu chỉ mỉm cười. Bàn tay cô vẫn nhẹ nhàng mân mê, nơi có hai hòn bi tròn trong đó. Cô bảo:
-  Anh nhớ là không được cho người con gái khác đấy!
-  Anh nhớ!
-  Biết đâu đấy? Các anh bộ đội bây giờ, hành quân qua làng, qua bản, được các cô gái săn đón nhiều lắm! Rồi lại con rơi, con vãi dọc đường.
     Nói rồi, cô kéo anh xuống ngậm lấy cái của anh. Trong cơn hứng khởi, cô kéo ra kéo vào như kéo bễ… Toàn thân anh xúc cảm, rung lên vì sự nghịch ngợm của người yêu. Anh kéo chân cô dang rộng thêm ra, nhìn sâu vào đó… Dưới ánh sáng cuối của một ngày, anh thấy cả một thế giới đo đỏ ẩn sâu trong âm vật của nàng. Cái thế giới mà bao triết lý loài người vẫn không tả hết.
     Trong cơn hưng phấn tột cùng, Hoàng ghì người yêu xuống, với sức trai tráng của chàng thanh niên tuổi đôi mươi. Thu thấy mình tê dại đi, cảm nhận cái của anh đã vào tận sâu bên trong. Cô rên khe khẽ:
-  Anh làm em đau quá!
     Nhưng rồi cô vẫn nằm yên, đôi mắt nhắm nghiền để mặc anh… Một lát, Thu thì thào nói nhỏ:
-  Giờ về dược chưa anh?
- Ừ, ta về.
     Thu nũng nịu:
-  Mặc quần áo vào đền cho em đi!
     Hoàng đỡ Thu dậy, mặc lại quần áo cho cô. Thu quàng tay ôm lấy Hoàng, cả hai bước trở về khu lán của sinh viên. Cô vẫn còn nhìn thấy con chim ta tả màu xanh biếc, tận dụng cái ánh sáng của màn sao… lại lao xuống mặt nước, lấy chiếc mỏ nhọn hoắt cắp lên một chú cá con. Kiếm ăn cả chiều mà có lẽ con chim vẫn chưa thấy đã cơn đói?
     Tối đó, Thu dẫn Hoàng sang khu lán các sinh viên nam để nghỉ đêm. Thu mang tất cả chăn, màn của cô cho anh. Thu sợ anh dùng đồ của người khác, lạ… khó ngủ. “Đắp chiếc chăn có hơi ấm của cô, Hoàng sẽ dễ ngủ hơn!” – Thu nghĩ vậy.
     Mấy bạn sinh viên nam buông lời trêu trọc, Thu chỉ tủm tỉm cười. Trở về khu lán nữ sinh, Thu vẫn chưa hết bàng hoàng. Nghĩ lại những gì đã diễn ra giữa anh và cô hồi chiều tối, lòng cô lại lâng lâng…
     Ôi, cuộc đời mới quí giá biết bao! Cô cảm thấy thỏa mãn với tất cả những gì đã làm cho anh. Anh chỉ có thể ở với cô ngày mai nữa thôi, rồi anh phải trở lại Hà Nội để lên đường.
     Về tới lán của mình, Thu chui vào trong chiếc màn mà người bạn gái đã buông sẵn, ngủ lúc nào không hay biết. 
 
 
                
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.02.2018 15:52:13 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 18.04.2018 16:24:34 (permalink)
 
 
                                 Chương V.   
 
                     TỔNG QUÁT CHIẾN SỰ
                        XUÂN MẬU THÂN
 
                                                       20-
 
     Nhà sử học Mỹ Gbriel Kolko, trong tác phẩm "Giải phẫu một cuộc chiến tranh", xuất bản tại New York năm 1985, đánh giá:
     "Cuộc tiến công tết Mậu Thân là sự kiện quan trọng nhất và phức tạp  nhất của chiến tranh Việt Nam" – Theo ông: "với Mậu Thân 1968, đã gây ra một cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về chính trị trong giới quan chức Mỹ".
     Nghĩa là, cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968, đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.
     Theo con số thống kê của các nhà nghiên cứu trong Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Tính đến đầu năm 1968, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên đến 480.000 tên và 68.800 quân của các nước đồng minh. Đấy là chưa kể đến trong số trên 20 vạn quân Mỹ đóng ở các căn cứ quân sự của đất Thái Lan, Nhật Bản, phi-lip-pin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6 – thì đã có tới 80 vạn quân Mỹ tham gia vào chiến tranh Việt Nam... cùng một lực lượng hùng hậu của QLVNCH.
     Người ta nói rằng: Trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ có một cuộc tiến công đều khắp và rộng lớn như cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân 1968.
     Đúng đêm giao thừa và mồng 1 tết Mậu Thân - Nếu tính theo lịch dương là đêm 30 sang rạng ngày 31.1.1968, như Bách khoa toàn thư Wikipedia: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau. Quân giải phóng bất ngờ tiến công rộng phắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ.
     Hiệu lệnh mở màn là bài thơ chúc tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
                 Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
                 Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
                 Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
                 Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.
 
                    MẶT TRẬN SÀI GÒN CHỢ LỚN
 
     Là trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ Bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và Chính phủ VNCH tại miền Nam Việt Nam.
     QGP tiến công đồng loạt vào Tòa đại sứ Mỹ; Dinh Độc Lập; Bộ Tổng tham mưu VNCH; Đài phát thanh Sài Gòn; Sân bay Tân Sơn Nhất; Biệt khu Thủ đô; Tổng nha cảnh sát; các Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1,4,25,101...
     Cùng với các cuộc tiến công này, hàng chục vạn người dân đã hưởng ứng nổi dậy giành quyền làm chủ dài ngày ở nhiều khu phố.
     Tại Dinh Độc Lập: khoảng 1h30 phút ngày 2 tết, đội biệt động thành số 5 gồm 15 người đánh vào Dinh Độc Lập. Lúc này, Tổng thống Thiệu nghỉ tết ở quê vợ tại Mỹ Tho. Lực lượng phòng vệ QLVNCH bên trong Dinh Độc Lập chống trả quyết liệt. Lực lượng cảnh sát VNCH và Mỹ điều quân đến chi viện dữ dội để giải tỏa. Các chiến sĩ biệt động đánh rất dũng cảm, đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân đội Mỹ. Đến gần sáng mồng 3 tết, chỉ còn lại 7 người bị thương và bị bao vây. Còn quả lựu đạn cuối cùng, họ quyết định cảm tử... nhưng rút chốt ra, lựu đạn không nổ nên đã bị bắt.
     2 giờ 30 phút sáng ngày 2 tết, 17 chiến sĩ đội biệt động thành số 11 của QGP đánh vào Tòa đại sứ Mỹ - Quân Mỹ đến cứu viện: đổ bộ lính Sư đoàn dù 101xuống sân thượng Tòa đại sứ, đã giải tỏa sau sáu giờ giao tranh. 17 người trong đội biệt động thì 16 người bị tử trận, 1 bị thương và bị bắt. Quân Mỹ cũng bị thiệt hại nặng: 5 lính chết tại chỗ, 17 chết tại quân y viện và 124 bị thương.
     3h sáng ngày 2 tết, đặc công QGP đánh vào Đài phát thanh. Quân Mỹ dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ phản kích. Tiểu đoàn 1 lính dù của QLVNCH nhảy dù xuống giải tỏa. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động còn sống sót quyết định bằng biện pháp cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc đài phát thanh. Lực lượng biệt động thương vong gần hết, chỉ còn 2 nữ phục vụ viên bị bắt.
     Đấy là ba vị trí quan trọng. Mặc dù các chiến sĩ QGP chiến đấu rất dũng cảm, song do chiến đấu đơn độc, các lực lượng tăng cường không đến được theo kế hoạch – Chỉ chiếm được Đài phát thanh, Tòa đại sứ trong thời gian ngắn, các mục tiêu khác không vào được bên trong. Trong số 88  chiến sĩ biệt động tham chiến đánh vào 6 mục tiêu chủ yếu, đã có 56 người tử trận và 10 người bị bắt. Lực lượng vũ trang những huyện ngoại thành, không tăng viện được cho nội thành Sài Gòn. Bộ đội chủ lực không tiến vào được nội đô. Đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc. Lực lượng bị tiêu hao tới 80%, có đơn vị hy sinh đến người cuối cùng, tổn thất nặng nề.
     Sau đó các đơn vị của QGP chiến đấu trong nội thành đã được lệnh rút ra vùng ven củng cố. Cuộc Tổng tiến công ở trọng điểm Sài Gòn Chợ lớn giảm dần và kết thúc.
 
                              MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ
 
     4 giờ 20 phút sáng ngày 2 tết, hai trung đoàn 812 và 814 của cộng sản Bắc Việt đồng loạt nổ súng tấn công thành phố Quảng Trị.
     Tiểu đoàn K4 thuộc E812 chia làm hai mũi tiến vào phía nam thành phố, để tấn chiếm làng Trí Bưu.
     Tiểu đoàn K8 – E812 tấn công mặt tây bắc, nhằm vào các đơn vị bộ binh QLVNCH và địa phương quân, để chiếm lĩnh phần phía bắc Quảng Trị.
     Tiểu đoàn K6 – E812 đánh mặt phía đông nam dọc Quốc lộ 1 và đường xe lửa, nhằm tấn chiếm khu nhà thờ La Vang.
     Tiểu đoàn K5 – E812 chia làm hai thành phần trù bị, ém quân tại phía đông nam thành phố.
     Trung đoàn 814 tiếp ứng cho E812 chuẩn bị tấn công vòng thứ nhì, bằng các chiến xa từ phía tây bắc, để tiến đến đánh chiếm hoàn toàn thành phố... đồng thời ngăn chặn viện binh của QLVNCH tái chiếm lại các thị trấn, khi đã bị quân cộng sản Bắc Việt chiếm giữ.
      Các đại đội của Tiểu đoàn 9 QLVNCH nhảy dù chống trả quyết liệt, ở cả ba mặt đông, nam và phía bắc thành phố Quảng Trị.
     Phía trong thành Đinh Công Tráng, các đơn vị bộ binh QLVNCH, địa phương quân và cảnh sát cũng giao tranh quyết liệt với QGP.
     Về phía Mỹ:
-  Hai đại đội của Sư đoàn 12 không kỵ đụng độ với Tiểu đoàn K4 – E812 Bắc Việt ở nam thành phố.
-  Tiểu đoàn 1 Sư đoàn 5 không kỵ cùng với trực thăng vận, đánh nhau với K6 – E812 ở đông thành phố.
-  Tiểu đoàn 9 quân nhảy dù Mỹ cùng với Trung đoàn 1 lính QLVNCH, tổ chức hàng loạt các cuộc phản công theo hướng đông và đông nam thành phố.
     Không quân Mỹ oanh tạc trung đoàn 814 QGP đang đóng ở làng Trí Bưu, hợp lực với Trung đoàn 1 QLVNCH tấn công chiếm lại làng lúc 13 giờ 30 cùng ngày.
     Bị tổn thất nặng nề, E814 phải rút khỏi làng Trí Bưu ngay đêm đó.
     Vào lúc xế trưa ngày 2 tết, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 QLVNCH có thiết giáp yểm trợ, đánh nhau với K6-E812 QGP trong khu nghĩa địa thành phố - K6 bị áp lực lớn phải tháo lui về hướng đông nam thành phố. Số chiến sĩ bị tử trận và thương vong nhiều.
     Đêm mồng 2 tết, cả hai trung đoàn quân Bắc Việt buộc phải rút khỏi thành phố.
     Mồng 3 tết, QLVNCH sử dụng Trung đoàn 9 để phòng thủ thành phố Quảng Trị đã tái chiếm lại. Thành phố khá yên tĩnh.
     Trong mười ngày sau đó, Sư đoàn 502 bộ binh QLVNCH cùng với lính nhảy dù Mỹ, có trực thăng yểm trợ... mở rộng vòng cung truy lùng những đơn vị QGP còn lại trong thành phố. Một số cuộc đụng độ đã xẩy ra, như:
-  Ngày 2.2.1968 dương lịch, Tiểu đoàn 1 Sư 12 không kỵ Mỹ đánh nhau với một đại đội QGP, cách hướng đông thành phố 6 cây số.
-  Này 4.2.1968, Tiểu đoàn 1 Sư 501 bộ binh QLVNCH đụng độ với K5 và D10 đặc công QGP tại quận Hải Lăng, cách thành phố Quảng Trị 8 km về hướng đông nam. 
     Cuộc chiến nổ ra không kém phần dữ dội, cả hai bên đều tổn thất nhiều.
     Vào cuối tuần thứ nhất của tháng hai, thành phố Quảng Trị đã qua vòng nguy biến. Các cuộc giao tranh lắng xuống, trừ vài vụ quân cộng sản dùng súng cối và hỏa tiễn bắn vào bãi đáp của Lữ đoàn 1 QLVNCH.
     Tuy vậy, tình hình an ninh của thành phố Quảng Trị trong suốt tháng hai vẫn rất yếu.
     Quân hai trung đoàn 812 – 814 Bắc Việt vẫn rải rác đâu đó, nhất là các vùng ở nông thôn, lính của VNCH chưa kiểm soát nổi.
     Theo con số thống kê của Chính phủ VNCH: Từ sáng 31.1 (tức ngày 2 tết) đến 6.2.1968 – phía QGP bị chết khoảng 914 quân và 86 chiến sĩ bị bắt. Số thương binh rất lớn, tiêu hao nhiều súng đạn... đến mức E812 phải hoàn toàn né tránh các cuộc đụng độ sau đó.
     Sau 24 giờ, giai đoạn khốc liệt nhất ở mặt trận Quảng Trị kết thúc. Về nhiều phương diện: Bắc Việt có phần bị bất ngờ trước sự phản kháng quyết liệt của Lữ đoàn 1 QLVNCH, Tiểu đoàn 9 quân nhảy dù và "trực thăng săn mồi" từ trên không của Mỹ.
      Thành phố Quảng Trị tan hoang, cả hai bên đều tổn thất nặng nề.
 
                                    MẶT TRẬN HUẾ
 
     Thành phố Huế có diện tích 380km2 với dân số năm đó khoảng 209.043 người. Huế có ba quận: Hữu Ngạn, Tả Ngạn và Thành Nội.
     Theo một tài liệu, thấy ghi: Huế là cố đô của Nhà Nguyễn (1802-1945), bao gồm những công trình kiến trúc lịch sử như cung điện, lăng tầm của các tiên vương Nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long khởi công xây cất từ năm 1805, mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m. Phía đông nam bên bờ sông Hương, nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành, hướng bắc có đài Mang Cá. Ngoài ra còn có mười cửa chính với những vọng lầu cao ngất, để ra vào tòa thành. Được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật Á Đông. Biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy, nhưng không kém phần mơ mộng, trang đài. Từ vách thành, vọng lầu, cửa Ngọ Môn cho tới đền đài, cung các… được chạm trổ, điêu khắc hài hòa với cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.
     Tháng 12.1993, Huế được tổ chức UNESCO của Liên Hợp Quốc công nhận là di sản văn hóa nhân loại, cần được bảo tồn.
     Trong đợt Tổng công kích xuân Mậu Thân, Huế bị tàn phá nặng nề, sau này đã được tôn phục lại.
…..   
     Huế là một trong ba chiến trường chính của cuộc Tổng tiến công, cũng là thành phố lớn thứ ba miền Nam, sau Sài Gòn và Đà Nẵng. Lực lượng Mỹ và QLVNCH ở đây khá mạnh, khoảng 25.000 đến 30.000 quân, nòng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh.
     Lúc 2h33 phút sáng ngày 2 tết, pháo binh QGP đồng loạt bắn vào các mục tiêu, như: Khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Đông Toàn, Đông Ba, Bộ tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, Ban chỉ huy tiểu khu, trung tâm huấn luyện Đống Đa và Thiết đoàn 7 kỵ binh ở An Cựu…để mở màn cho cuộc tiến công vào cố đô Huế.
     Sau loạt pháo, QGP trên hai hướng cùng đánh vào bốn mươi mục tiêu trong và ngoài thành Huế.
     Cánh thứ nhất: Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc tả ngạn sông Hương, đánh vào đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc và Đại Nội.
     Cánh thứ hai: Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ nam hữu ngạn sông Hương, tấn công vào các cơ sở hành chính ở phía đó.
     Cùng với Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá dọc theo La Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba.
     Một đoàn khác mang tên Đường 12 từ Phú Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thương Tứ.
     Các trận đánh ác liệt kéo dài, thương vong mỗi lúc một tăng. Đến 11h trưa thì bộ phận QGP đánh vào Mang Cá – nơi đóng quân của Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, buộc phải rút ra.
     Lực lượng QGP đánh vào phi trường Tây Lộc, phá hủy 20 máy bay và một số xe quân sự của QLVNCH.
     2h40 phút sáng 2 tết, cánh QGP đánh vào khu Đại Nội:
-  Lúc 4h30 chiếm được khu Cột Cờ.
-  5h sáng chiếm toàn bộ khu Đại Nội: diệt 1 đại đội thám báo và 130 cảnh sát VNCH.
-  8h sáng ngày 2 tết, lá cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam được kéo lên cột cờ, báo hiệu quân cánh mạng đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Phần lớn thành phố với 90% dân chúng, hoàn toàn nằm trong vùng QGP kiểm soát.
     Nói chung trong những ngày đầu tiến công và nổi dậy ở Huế, QGP đã chiếm được nhiều mục tiêu chủ yếu, phát động quần chúng nổi dậy và giành được chính quyền ở nhiều nơi. Mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình thành phố đã ra đời. Tiếp đó, Ủy ban Nhân dân cách mạng Thừa Thiên Huế được thành lập.
     Như Hãng thông tin Pháp AFP ngày 7.2.1968 đã bình luận: “Sau một đêm đánh nhau, Việt Cộng đã kiểm soát được 90% dân chúng thành phố Huế. Ngay sáng hôm sau, bộ máy hoạt động và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng đã bắt tay vào làm việc…”.
     Còn Hãng thông tin Anh Roitơ, cũng ngày 7.2.1968 thì viết: “Sau 5 ngày đánh nhau ác liệt giành giật từng ngôi nhà, quân Việt Cộng đã chiếm hơn nửa thành phố Huế, còn quân VNCH và đồng minh Mỹ tiến dần từng bước vất vả. Các nhà quân sự ở đây cảm thấy rằng, quân Việt Cộng chứng tỏ là họ có thể ra vào Huế bất cứ khi nào họ muốn.”.
     Ngày 8.2.1968, quân Mỹ bắt đầu phản kích dữ dội. Mỹ huy động cả lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra: như Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến.
     Ngày 11.2, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến Mỹ cũng được tăng cường, đưa quân số ở đây lên đến 16 tiểu đoàn.
     Từ 9.2 đến 12.2, QGP phải liên tục chống phản kích, không thể tiếp tục tiến công mà buộc chuyển sang phòng ngự.
     Quân Mỹ đồng loạt phản kích trên bốn cổng thành: Cửa Chánh Tây, Cửa Hữu, Cửa Thương Tứ, Cửa Đông Ba và phản kích từ Quốc lộ 1 vào An Hòa.
     Ngày 16 và 17.2, quân Mỹ đánh dữ dội và chiếm lại được Đông Ba.
     Ngày 18.2, quân Mỹ chiếm lại được Cổng Thủy Quan, uy hiếp Cửa Hữu, Cửa An Hòa và Cửa Thương Tứ.
          Tình hình QGP lúc này xấu đi rõ rệt. Mỹ tăng cường cho khu Mang Cá và Đông Ba một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến, kết hợp cùng lực lượng quân ở bên ngoài, bao vây tiêu diệt QGP đang chiếm giữ phần còn lại ở tả ngạn thành phố.
     Chính trong thời điểm đó, Mỹ ồ ạt tăng quân đến 23 tiểu đoàn:
-  11 tiểu đoàn trong thành phố.    
-  12 tiểu đoàn ở vòng ngoài.
     Ngoài ra cả máy bay B52 cũng được trưng dụng ném bom rải thảm, để nhanh chóng đánh bật QGP giải tỏa thành phố Huế.
     Trước sức ép của quân Mỹ và tránh bị bao vây – Ngày 22.2.1968, Khu ủy Trị Thiên và Ban chỉ huy Mặt trận Huế quyết định, rút toàn bộ ra ngoài thành phố.
     Sau 26 ngày đêm chiến sự, về phía Mỹ và Chính phủ VNCH thương vong trên 4.400 quân. QGP cũng thương vong hơn 4.000 người.
     Tuy tổn thất lớn và phải rút, song việc giữ được thành phố 26 ngày – QGP Huế đã tạo nên một chiến tích lớn, giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác. Góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về mặt chính trị của cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968 toàn miền.
      Theo thống kê: sau 26 ngày chiến sự 40% thành phố bị phá hủy, 116.000 người mất nhà ở. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế thì có 9.776 ngôi bị phá hủy hoàn toàn, 3.169 ngôi bị hư hỏng nặng.
     Theo một học giả Mỹ Gareth Porter: ước lượng ban đầu số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776 người, trên tổng số dân bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người.
                                CÁC MỒ CHÔN TẬP THỂ
     Tại thành phố Huế và khu Thừa Thiên, người ta tìm thấy 22 địa điểm các mồ chôn tập thể, đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, các gia đình kê khai có người chết và mất tích với chính quyền VNCH, lên đến 4.000 gia đình. Theo số liệu của Chính phủ VNCH  đã đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân bị giết hoặc bị bắt cóc.
     Nhưng theo con số của Cục tâm lý chiến, cơ quan thông tin Hoa Kỳ 1970, tổng kết số người chết và mất tích ở Huế như sau:
-  Dân sự 7.600 người.
-  Trong những ngôi mộ tập thể tìm thấy đợt đầu 1968 là 1.173 nạn nhân.
     Vấn đề thảm sát dân thường trong xuân Mậu Thân ở Huế, cho đến nay tài liệu cả phía cộng sản Việt Nam và Mỹ vẫn qui trách nhiệm cho nhau về  nguyên nhân và tính xác thực, do các bên công bố còn sai lệch nhau - Nhất là sự kiện 22 hố chôn tập thể với con số khoảng ngót 3.000 thi thể các nạn nhân đã được đào lên?
     Cộng sản thì nói rằng : Để tái chiếm lại Huế, Mỹ đã dùng pháo hạm, máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Thậm chí dùng cả B52 trải thảm vào thành phố. Sử dụng các loại vũ khí sát thương hàng loạt, như pháo không giật 107mm, bắn đạn tổ ong (mỗi viên khi nổ sẽ văng ra 5 vạn mảnh như cơn mưa đinh), bom napan, đạn pháo tăng, súng phun lửa… Những vũ khí này đã giết hại rất nhiều dân thường.
     Chính bản thân Tổng thống Thiệu, cho phép dùng bất kỳ phương tiện nào cần thiết để lấy lại bằng được thành phố Huế.
     Thiệt hại gây ra cho Hoàng Thành – Sau Tổng công kích Mậu Thân, Huế bị tàn phá tới 80% nhà cửa, Thành Nội với chiều dài 2,5km kể như hoàn toàn bị tàn phá. Cửa Ngọ Môn cùng nhiều công trình trong Hoàng Thành hư hại nặng nề. Sau này, mãi tới cuối thập niên 1970 mới được trùng tu sửa chữa lại.
              KHÁI QUÁT MẶT TRẬN MẬU THÂN Ở HUẾ
     Để chuẩn bị chiến dịch đánh Huế, Quân khu đã đề nghị Bộ quốc phòng tăng cường, nên trước ngày Tổng công kích lực lượng QGP ở Huế đã có: 4 trung đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo mặt đất, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn thông tin, 15 đội biệt động thành và một số đơn vị phục vụ khác.
     Đây là trận chiến ác liệt nhất trong đợt 1 Tổng công kích Mậu Thân của toàn miền - Dù QGP đã bị đánh bật khỏi Huế, song nó đã đem đến sự đổ vỡ về mặt tâm lý và chính trị lớn nhất cho Hoa Kỳ.
     Ngày 23.2.1968, QGP rút khỏi Huế… thì cuối ngày 24.2.1968, quân đội Mỹ và QLVNCH tái kiểm soát lại các khu vực nội thành.
     Theo tài liệu của QGP ghi nhận: Sau 26 ngày đêm, họ đã tiêu diệt , bắt sống, bức hàng và làm tan rã 25.000 tên địch. Bắn rơi và phá hỏng hơn 200 máy bay, bắn cháy 41 tầu chiến, phá hủy 533 xe quân sự, giải phóng 210.000 dân, 20 xã, 271 thôn – trong đó thành lập chính quyền ở 200 thôn.
 
                               MẶT TRẬN KHE SANH
 
     Căn cứ Khe Sanh tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị trong dãy Trường Sơn. Phía bắc và tây bắc có bốn ngọn đồi án ngữ là: 881 Bắc – 881 Nam – 861 – 558. Khe Sanh gần biên giới Lào Việt trên đường số 9 chạy theo hướng đông tây, nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào Việt tới tận Savanakhet bên Lào.
     Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục chiến lược quan trọng được cộng quân sử dụng để vận chuyển người, vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc. Đường số 9 tuy chỉ là một đường giao thông nhỏ nhưng lại là một chiến trường quan trọng, nơi đã xẩy ra nhiều trận đánh lớn. Lý do, vì con đường này dẫn sang Lào rồi giao tiếp với đường mòn Hồ Chí Minh. Nơi quân Bắc Việt đưa người và vũ khí vào Quảng Trị,  Thừa Thiên, Tây Nguyên và miền Nam. Nơi các đại đoàn chính qui cộng sản Bắc Việt , từ vùng bắc vĩ tuyến 17 qua biên giới Việt Lào vào chiến trường Nam Bộ.
     Về dân cư: vì là vùng rừng núi hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên Khe Sanh chỉ có vài ngàn người Việt cư ngụ - Đa số là thân nhân các gia đình quan chức, binh sĩ VNCH hoặc gia đình nhân viên những cơ quan hành chính làm việc tại đó. Còn chủ yếu là các dân tộc thiểu số Lào , chừng 50.000 người sống rải rác trên các đồi, núi dọc biên giới Lào. Qui tụ đông nhất ở hai làng: Khe Sanh và làng Vây dọc đường số 9, như các sắc tộc Bru, Rhađê, Hrê… Giống người Bru thuộc chủng loại Mã Lai – Polynesia.
     Căn cứ Khe Sanh là một vị trí trọng yếu nhất, để ngăn chặn quân Bắc Việt xâm nhập vào chiến trường miền Nam. Căn cứ nằm cách biên giới Lào Việt chừng 14km về hướng cực tây, quận Hương Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đóng trên một vị trí cao thuộc ngọn Đông Tre hùng dũng nhất trong vùng. Có phụ lưu của sông Thạch Hãn là Rao Quan chảy qua. Vùng này chẳng khác nào một lòng chảo được bao bọc bởi đồi 881 Bắc , 861, 558 và 881 Nam: kiểm soát các trục lộ quan trọng tới căn cứ và sân bay Khe Sanh. Tất cả các ngọn đồi trên mọc đầy tre nứa và cây cối. Đây là nơi tranh giành đẫm máu nhất suốt thời gian chiến sự giữa quân Mỹ và quân Bắc Việt.
     Tóm lại, căn cứ Khe Sanh được coi như một bàn đạp, để bộ binh và pháo binh Hoa Kỳ đánh phá, ngăn chặn trực tiếp quân của cộng sản Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh.
     Theo như báo chí của Bắc Việt đã phân tích sau này, Bộ chính trị của Chính phủ Hà Nội quyết định mở chiến dịch tấn công Khe Sanh xuân 1968 với qui mô lớn, trước mười ngày khi nổ ra cuộc tổng công kích của toàn miền – Nhằm thu hút lực lượng chủ lực của Mỹ và QLVNCH ra khu vực Đường 9 để vây hãm, tiêu hao, tạo thế thuận lợi cho QGP đánh vào các đô thị lớn: đặc biệt là ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị…
     Cũng theo thông báo của Chính phủ Hà Nội, lực lượng QGP tham gia chiến dịch Khe Sanh gồm:
-  4 sư đoàn bộ binh F304, 320, 325, 324 và 2 trung đoàn E27, 270.
-  2 tiểu đoàn biệt động địa phương của tỉnh Quảng Trị.
-  Các trung đoàn pháo binh E45, 84, 164, 204, 675.     
-  Các trung đoàn pháo cao xạ phòng không E128, 282, 241.
-  1 tiểu đoàn và 5 đại đội đặc công.
-  1 tiểu đoàn xe tăng PT-76
-  1 tiểu đoàn thông tin.
-  1 tiểu đoàn trinh sát.  
-  1 tiểu đoàn hóa học.
-  1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh.
1 đại đội súng phun lửa.
     Cùng bộ đội địa phương các vùng Cam Lộ, Do Linh, Hương Hóa thuộc tỉnh Quảng Trị.
     Giữa chiến dịch, Bộ tư lệnh mặt trận đã điều F325 và phần lớn F324 sang chiến trường khác, đưa F308 và E246 vào thay thế.
     Cũng theo thông báo từ phía Bắc Việt: Lực lượng Mỹ và QLVNCH tham chiến có khoảng 45.000 quân – Trong đó là 28.000 quân Mỹ, gồm 3 trung đoàn tăng cường lính thủy đánh bộ, 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, 1 tiểu đoàn quân phái hữu Lào. Không kể lực lượng không quân Hoa Kỳ và pháo binh từ các vùng xung quanh bắn đến, cũng như các đơn vị phục vụ tham gia trợ chiến.
     Trận chiến Khe Sanh bắt đầu ngày 20.1.1968 và kết thúc ngày 8.4.1968 - Sau 77 ngày bị QGP tiến đánh và vây hãm, Mỹ và QLVNCH mới giải tỏa được. Trong khi cuộc Tổng công kích trên toàn chiến trường miền Nam, chỉ có thể kéo dài 26 ngày: Mở màn chính là đêm giao thừa Mậu Thân, tức là lúc 2h sáng ngày 31.1.1968 dương lịch – Mặt trận Huế kéo dài nhất là tới cuối ngày 24.2.1968, quân đội Hoa Kỳ mới hoàn toàn tái kiểm soát được nội thành Huế.
     Vào năm 1968, người Mỹ tin rằng: QGP thực hiện một trận quyết chiến chiến lược Khe Sanh, như một Điên Biên Phủ nữa. Nhưng về phía Cộng sản Bắc Việt, thực ra chỉ là một đòn nghi binh – Họ thực hiện một "Điện Biên Phủ giả vờ" để lừa đối phương, ghìm chặt Mỹ ở chiến trường miền núi, tạo điều kiện cho cuộc tổng công kích toàn miền... với mục tiêu lớn nhất của họ là, các thành phố và thị xã.
     Nửa đêm 20.1.1968, chiến dịch Khe Sanh chính thức mở màn, bằng trận đánh đầu tiên quyết liệt tại đồi 881 Nam.
     Đến 5h30 sáng 21/1, pháo bình QGP đồng loạt bắn vào căn cứ Khe Sanh. Ngày thứ hai, kho đạn chính của quân đội Mỹ với sức chứa 1.500 tấn đạn pháo bị phá hủy hoàn toàn.
      Nhầ báo, Sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: "Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng, Khe Sanh là một Điên Biên Phủ nữa, và họ đã làm sa bàn Khe Sanh ở Washington. Thậm chí họ còn yêu cầu tướng Westmoreland – Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam lúc đó, phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh, vì đó là danh dự của nước Mỹ". 
     Trong vũ lực bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá, Mỹ đã thực hiện chiến dịch Niagara II, ném rải thảm với hơn 100.000 tấn bom, cầy nát 32 km2 chiến trường mức độ ác liệt và tàn khốc chưa từng có.
     Ngày 22.1.1968, Tiểu đoàn 1/9 Thủy quân lục chiến Mỹ được trực thăng vận đến chi viện.
     Ngày 25/1, Thiếu tướng J.J.Tolson – Tư lệnh Sư đoàn 1 Mỹ, tổ chức một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh.
     Ngày 27/1, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH được không vận đến tăng viện, hợp thành 5 tiểu đoàn phòng thủ căn cứ.
     Về phía Mặt trận giải phóng – Khi đó có tin F325 đang ở phía bắc đồi 881 Bắc, F304 từ Lào hành quân vào chiến trường, có mặt tại tây nam Khe Sanh.
     Một trung đoàn của F324 cũng có mặt tại khu phi quân sự, cách Khe Sanh chừng 24km.
     F320 đang ở phía bắc căn cứ Rockpile để tiếp ứng cho mặt trận.
     Hai trung đoàn 68 và 164 cũng được tăng cường đến.
     Từ ngày 5/2, Cộng quân liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh vòng đai Khe Sanh.
     Ngày 7/2, với sự yểm trợ của 10 chiến xa PT-76 do Liên Xô chế tạo, quân Bắc Việt tấn công mạnh vào làng Vây, nằm sát biên giới Lào ngoài Khe Sanh.
     Ngày 9/2, một tiểu đoàn quân Bắc Việt thuộc E101, F325 tấn công đồi 64 do thủy quân lục chiến Mỹ trấn giữ. Trong ba tiếng đồng hồ máu lửa cả hai bên đều tổn thất nặng nề, nhiều binh sĩ thương vong không còn khả năng chiến đấu, nhất là cộng sản Bắc Việt – Bởi vậy sau trận đánh đồi 64, cộng quân phải tạm ngừng các trận chiến để bổ xung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần.
     Ngày 21.2.1968, QGP lại tiếp tục tấn công vào Tiểu đoàn 37 Biệt động quân. Quân của VNCH cố thủ và đánh trả quyết liệt, đợt tấn công của cộng quân bị bẻ gẫy.
     Ngày 23/2, QGP tập trung pháo binh để mở đợt tấn công lớn: 1.300 quả đạn pháo đủ loại nã vào Khe Sanh tám tiếng đồng hồ liền, nhiều quân Hoa Kỳ bị tử trận và làm nổ tung một kho dự trữ đạn của Mỹ nữa.
     Lúc 4h30 phút chiều tối ngày 29/2, Tiểu đoàn F304 Bắc Việt đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh – Nơi chiếm đóng của Tiểu đoàn 37 Biệt động quân. Quân VNCH chống trả quyết liệt, đã đánh lui cả ba lần xung phong của cộng quân, nhiều chiến sĩ QGP bị thương và tử trận.
     Mỹ tập trung giải cứu Khe Sanh – Tướng Westmoreland đã chấp thuận kế hoạch giải vây Khe Sanh, với cuộc hành quân Lam Sơn 207A, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng J.J.Tolson. Lực lượng tham gia hành quân gồm có:
-  3 lữ doàn quân đồng minh Hoa Kỳ.
-  Trung đoàn 1 và 26 Thủy quân lục chiến.
- Cùng 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 nhảy dù QLVNCH.
     Bộ tư lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stad gần Cà Lu. Quân số tham chiến lên đến khoảng 20.000 quân, với sự yểm trợ của 300 trực thăng và 148 khẩu pháo các loại.
      Ngày 25.3.1968, Thiết đoàn 1/9 Hoa Kỳ dùng trực thăng rà sát dọc theo Quốc lộ 9, hướng về phía Khe Sanh nhằm tìm và tiêu diệt các ổ phòng không của Bắc Việt.
     Sáng ngày 30/3, Sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ kết hợp với Sư đoàn 1 bộ binh QLVNCH, hành quân tại vùng Côn Thiện và Do Linh. Cuộc hành quân này chỉ chạm trán với cộng quân bằng những cuộc bắn súng lẻ tẻ.
     Ngày 1/4, cuộc hành quân chính thức được khai triển: Lữ đoàn 3 Mỹ đổ quân xuống bãi đáp phía trước Khe Sanh khoảng năm dặm.
     Ngày 2/4, Lữ đoàn 1 và 2 Mỹ liên tiếp trong hai ngày đổ bộ xuống phía nam Khe Sanh và Quốc lộ 9.
     Ngày 4/4, các Tiểu đoàn 3,6 và 8 thuộc Lữ đoàn 3 QLVNCH được thả xuống khu vực phía tây và tây nam Khe Sanh.
     Các trận chiến xẩy ra ác liệt, cả hai bên đều thương vong và tử trận nhiều.
     Ngày 6/4, lực lượng hành quân Lam Sơn 207A từ bên ngoài Khe Sanh vào, bắt tay được với lực lượng Thủy quân lục chiến bên trong căn cứ tại đồi 471. Mỹ và QLVNCH bắt đầu thực hiện cuộc càn quét để đẩy lui quân Bắc Việt, từ đồi 552 đến đồi 681. Trận chiến mất tiếp hai ngày dữ dội.
     Nhờ có tiếp viện từ ngoài, lính thủy quân lục chiến bên trong căn cứ được đẩy cao khí thế, phản công quyết liệt. Cộng quân bị kẹp giữa hai làn đạn trong và ngoài, tiến thoái đều khó khăn. Mỹ và QLVNCH lại được hỗ trợ bằng pháo kích mãnh liệt, máy bay ném bom – Cộng quân tổn thất nặng nề và bị chết nhiều.
        Ngày 8.4.1968, sau 77 ngày bị vây hãm... căn cứ Khe Sanh đã được giả tỏa. Cuộc hành quân Lam Sơn 207A của Mỹ chính thức kết thúc vào ngày 15.4.1968.
     Có con số thống kê nói: Sau 77 ngày của chiến dịch Khe Sanh, QGP thương vong từ 10.000 đến 13.000 chiến sĩ, cùng với sự tổn thất lớn về súng đạn và các phương tiện chiến tranh khác.
     Theo một thông báo từ phía cộng sản Bắc Việt - Trong trận chiến Khe Sanh: 13.000 lính Mỹ và 4.000 quân VNCH bị thương và tử trận, 400 máy bay các loại bị bắn hạ. QGP thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.
     Sau này Tướng Abrams thay thế Tướng Westmoreland làm Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh tại miền Nam Việt Nam, đã mô tả:
-  Trong thời gian trận chiến Khe Sanh có khoảng 6.000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng, là nơi tranh giành đẫm máu giữa quân Mỹ và Bắc Việt.
     Quân Hoa Kỳ được yểm trợ với nhiều pháo binh và thiết giáp, gồm chiến xa M-48, kể cả thiết vận xa M-113... cộng với sự kiên cố của vòng phòng thủ, có đặt mìn dầy đặc từ trong ra ngoài và máy bay oanh tạc.
     Đặc biệt trong căn cứ còn được thiết kế, một hệ thống giao thông hào chạy vòng doanh trại.
     Nói về mức độ ác liệt trong trận chiến Khe Sanh, theo một con số ở phía Bắc Việt:
-  Chỉ tính riêng từ 20/1 đến 31.3.1968, Mỹ đã sử dụng đến 24.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, 2.700 lần chiếc "pháo đài bay" B-52. Các trận địa pháo bắn tới 150.000 quả, tạo ra những trận bão lửa khốc liệt.
     Ở Washington, Tổng thống Mỹ theo dõi chặt ché tình hình chiến sự Khe Sanh. Giôn Sơn bắt Bộ tham mưu liên quân Mỹ phải ký "Quyết tâm thủ bằng máu", giữ Khe Sanh trong bất kì tình huống nào.
 
                               MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN
 
     Cuối tháng 12.1967, nhận được chỉ thị từ Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương ở Hà Nội gửi vào – Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên của QGP đã mở hội nghị liên tịch ba tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc để bàn bạc cách phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực và quân địa phương. Chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968, mục tiêu chính được xác định là ba thị xã: Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắc Lắc), Pleiku (tỉnh Gia Lai) và Kon Tum.
     Bộ tư lệnh Mặt trận nhanh chóng bổ xung thêm cho mỗi thị xã đủ 1  tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội hỏa lực hỗn hợp. Tăng cường cho Buôn Ma Thuột 2 tiểu đoàn bộ binh, Pleiku 1 tiểu đoàn, đưa sang thị trấn Tân Cảnh (Kon Tum) 1 tiểu đoàn. Củng cố và mở rộng các tuyến ở hành lang Đông Tây.
     Lúc này ở Kon Tum đã có E24, Gia Lai E95, Đắc Lắc E33 và Sư đoàn 1 (gồm ba trung đoàn 66, 174 và 320). Ngoài ra, còn một lực lượng cổ động của mặt trận được tập trung trên hướng Pleicần, để đón lõng quân Mỹ ra phản kích và sẵn sàng đánh sang Đắc Tô - Tân Cảnh.
     Khi cuộc Tổng công kích Mậu Thân toàn miền bùng nổ, thì quân chủ lực cùng quân địa phương và dân Tây Nguyên , cũng đồng loạt nổ súng đánh vào hầu hết những cơ quan đầu não, các căn cứ quan trọng của Mỹ và QLVNCH ở khắp ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc.
     Theo tư liệu phía cộng sản Bắc Việt - Thí dụ như ở chiến trường Gia Lai:  Đúng 0 giờ 55 phút đêm giao thừa, QGP chủ lực và quân địa phương, đồng loạt tấn công các mục tiêu chủ yếu của Mỹ và VNCH trong và ngoài thị xã Pleiku.
     Đại đội 10 đặc công chia làm hai mũi:
-  Một mũi đánh vào khu biệt động quân, diệt gọn ban chỉ huy với 200 lính (vừa Mỹ và QLVNCH), bắn cháy 35 xe quân sự, phá hủy 1 trận địa pháo 21 khẩu, đốt cháy gần 1.000 tấn đạn và hàng vạn lít xăng dầu.
-  Mũi thứ hai đánh vào trung tâm thị xã, diệt lực lượng cảnh sát, bảo an, phá nhà lao giải phóng 2.000 người đang bị Chính phủ VNCH giam giữ.
     Còn đội 21 đặc công của mặt trận – Đánh chiếm khu tỉnh đoàn, bảo an, tòa hành chính, khu cảnh sát. Phối hợp với các đội vũ trang Pleiku diệt 2 đại đội bảo an, phá hủy 10 xe M-113, bắn rơi 2 máy bay trực thăng.
     Tiểu đoàn 408 đặc công quân chủ lực (gồm các đại đội 60,70,80), đánh vào sân bay Arêa, cơ quan Quân đoàn 2 của VNCH, phá hủy 45 máy bay lên thẳng, 37 xe quân sự.
     Các trận địa pháo binh quân chủ lực nã pháo dồn dập vào sân bay, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, phá hủy khu ra-đa với 15 máy bay.
      Trung đoàn 95 chặn diệt đoàn xe lính Mỹ 26 chiếc trên Đường 9, không cho cứu viện Pleiku.
     Tiểu đoàn 15 của Tỉnh đội Gia Lai đánh chiếm khu vực Thần Phong, Trà Bá. Phối hợp với đặc công quân chủ lực, tấn công căn cứ trung đoàn thiết giáp QLVNCH ở ngã ba Phù Đổng, rồi tiến đánh khu vực Hội Phú.
     Sau khi đã chiếm các mục tiêu chính trong thị xã, bộ đội chủ lực cùng quân địa phương tiêu diệt các ổ đề kháng của địch ở ngã ba Diệp Kính.
     Những ngày sau QLVNCH được Mỹ tăng viện, dùng cả không quân, pháo binh, thiết giáp và bộ binh phản công lại QGP rất quyết liệt.
     Bộ đội chủ lực và quân địa phương Gia Lai, tuy thắng cũng lớn nhưng tổn thất rất nặng nề.
     Những ngày này, Tỉnh ủy đã huy động được gần 11.000 quần chúng đồng loạt nổi dậy, 11 làng xung quanh Thị xã Pleiku được giải phóng.
     Ở Kon Tum: 0 giờ 30 phút ngày 30.1.1968 - Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư đoàn 1 bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương nổ súng nhanh chóng đánh chiếm Đắc Tô – Tân cảnh… tiêu diệt đồn cảnh sát, phá sập khu đồn Đắc Prông... làm tê liệt hoàn toàn khả năng phản kích của đối phương.
      Đồng thời quân và dân toàn tỉnh Kon Tum đồng loạt nổi dậy, nổ súng tấn công vào 23 mục tiêu quan trọng của Mỹ và VNCH trong thị xã: như tòa hành chính, ty cảnh sát, tiểu khu và sân bay Kon Tum.
     Tính riêng Kon Tum trong đợt Tổng công kích xuân Mậu Thân - Từ 30/1 đến 17.2.1968, quân cách mạng đã giải phóng và diệt 1.500 tên (trong đó có 650 lính Mỹ), đánh hỏng 253 xe quân sự, bắn rơi và phá hủy 37 máy bay, đánh phá 5 kho xăng dầu, 3 kho đạn, phá đồng loạt 7 ấp chiến lược và giải phóng nhiều làng xã.
     Ở Đắc Lắc: QGP đã đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng trong thị xã Buôn Ma Thuột như đài phát thanh, trụ sở Sư đoàn 23 quân Sài Gòn, tòa hành chính, ty cảnh sát, đánh tan hoang Trung đoàn 45 Mỹ và sân bay. Sau đó đánh chiếm khu cư xá Mỹ, khu cơ giới và pháo binh. Cùng với QGP, nhân dân cũng nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt ác ôn. Hàng vạn đồng bào Kinh, Thượng từ các ngả kéo vào Thị xã Buôn Ma Thuột, vây chặt các căn cứ QLVNCH và kêu gọi binh lính đầu hàng.
     Tổng kết cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân Tây Nguyên - Đã làm chủ nhiều ngày Thị trấn Tân Cảnh (Kon Tum), Thị xã Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) và nhiều khu vực ở Thị xã Pleiku (Gia Lai). Tiêu diệt, làm tan rã một lực lượng rất lớn lính Mỹ và VNCH, góp phần đáng kể vào chiến thắng của toàn miền.
 
             MẤY NHẬN ĐỊNH CHUNG TOÀN CHIẾN TRƯỜNG
 
     Tướng Maxwell D.Taylor – cựu đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau khi từ chức về làm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Johnson, trong hồi ký "Thanh gươm và lưỡi cày" xuất bản tại New York năm 1972, đã thừa nhận: "Ngày 31.1.1968, quân địch (tức Quân giải phóng) tiến công chỉ trong hai ngày họ đã tiến vào 5 thị trấn, 39 tỉnh lỵ và nhiều thành phố".
     Còn Westmoreland – nguyên Tư lệnh Bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, viết trong quyển "Một quân nhân tường trình", xuất bản ở New York năm 1976: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị - Nói chung theo quan điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận, đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề.".
     Hãng thông tấn Reuters của Anh ngày 5.2.1968, nói: "Mỹ có đến nửa triệu quân ở miền Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và tiêu mỗi ngày 60 triệu đô la, mà vẫn không bảo vệ được một tấc vuông đất nào ở miền Nam Việt Nam cả.".
     Theo thông cáo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ngày 20.12.1968, về những trận đánh trong năm 1968 – Chủ yếu là cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân: Quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, quân của các nước đồng minh và VNCH. Tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn – chiến đoàn – tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp, phá hủy 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu trên sông, 70 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại. Diệt – bức hàng – bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu.
     Tài liệu Hoa Kỳ thì xác nhận - Tổn thất trong đợt Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân 1968, là: Hơn 48.500 quân và 552 máy bay bị phá hủy. Năm 1968 trở thành năm đẫm máu nhất đối với quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam, với 16.511 lính chết và 87.388 bị thương. Như vậy tổng thương vong của quân Mỹ và đồng minh trong năm 1968, khoảng 310.000 người.
     Về phía Quân giải phóng – Theo một tài liệu của Chính phủ VNCH, ghi rằng: Năm 1968 có 44.824 chiến binh giải phóng bị chết, 61.000 bị thương, mất tích 4.511, bị bắt 912 người –Tổng cộng là 113.000 người.
 
 
 
 
 
                                          
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2018 16:33:24 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 22.05.2018 12:18:10 (permalink)
 
 
                                CHƯƠNG VIII.
                MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN ĐẪM MÁU (A)
                                                        25-
        Tây Nguyên là một vùng cao nguyên thuộc miền Trung Việt Nam, bao gồm năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; phía nam giáp Đồng Nai, Bình Phước; phía tây giáp Lào và Căm Pu Chia.
     Trong khi phía tây của Kon Tum giáp cả Lào và Căm Pu Chia – thì Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông chỉ có chung đường biên giới với Căm Pu Chia – còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.
      Tây Nguyên do một loạt các cao nguyên liền kề nhau mà tạo thành. Các cao nguyên này đều được bao bọc về phía đông, bởi những dẫy núi và ngọn núi cao: chính là Trường Sơn. Diện tích cả vùng Tây Nguyên với năm tỉnh rộng 54.641 km2. Hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai thuộc Bắc Tây Nguyên – Đắc Lắc, Đắc Nông thuộc Trung Tây Nguyên – còn Lâm Dồng thuộc Nam Tây Nguyên.
      Về khí hậu Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng tư – Trong đó tháng ba và tháng tư là hai tháng nóng, khô nhất.
      Trong cuộc kháng chiến đánh Mỹ, chiến trường Tây Nguyên được gọi là chiến trường B3 – trừ tỉnh Lâm Đồng tách riêng ra, do trực tiếp Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo.
      Như đã nói: mùa xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 được lệnh gấp rút vào chiến trường B3 Tây Nguyên, trận đánh đầu tiên tại cao điểm Chư Tan Kra. Đến nay đã qua bốn mùa khô, lúc này đang ở vào cuối mùa mưa thư tư.
      Hiện Mặt trận B3 Tây Nguyên của QGP do Tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy. Năm 1966, Quân ủy Trung ương của quân đội Bắc Việt cử thiếu tướng Hoàng Minh Thảo vào chiến trường Tây Nguyên. Nghe nói: trước ngày lên đường, ông đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời tới gặp và dặn: “Tây Nguyên là một địa bàn vô cùng quan trọng đối với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tây Nguyên không chỉ là căn cứ địa, mà sẽ là bàn đạp, là nơi phát động những chiến dịch tiến công lớn của các binh đoàn chủ lực, để tạo ra những đột biến có tính chất bước ngoặt, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược”.
      Tướng Hoàng Minh Thảo sinh năm 1921, tên thật là Tạ Thái An. Quê ở xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Khu trưởng chiến khu 3, Tư lệnh liên khu 4, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được cử làm giám đốc Học viện quân sự rồi Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
      Lại nói về Mặt trận Tây Nguyên: có dung lượng chiến trường lớn, vừa có rừng núi vừa có cao nguyên, lại là nơi có con Đường Mòn Hồ Chí Minh đi qua.
      Như mọi năm vào tháng cuối mùa khô sang đầu mùa mưa này, những trận mưa dữ dội có thể ập đến bất cứ lúc nào. Trên bầu trời Tây Nguyên, nhất là vùng biên giới Việt Miên Lào trong địa phận Kon Tum, Gia Lai – Từ trên cao nhìn xuống, những rừng cây của dãy Trường Sơn, đồi núi và các thung lũng bao quanh những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng…
     Trước kia, khi bom đạn chưa cầy xéo lên những vùng rừng núi – Các ngày nắng đẹp, nơi đây là cả một khung trời xanh êm, thoáng gợn mây hồng. Từng làn gió nhẹ không vẩn một chút bụi nào, vuốt ve bên tai khi ta đi qua. Cho ta một cảm giác dễ chịu và thơ mộng – nhưng bây giờ, đấy là chuyện trong tưởng tượng.
     Lại nói về Hoàng – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết: Sau trận đánh trên cao điểm Chư Tan Kra đó, anh bị thương phải vào viện ở hậu cứ của mặt trận Tây Nguyên điều trị. Khi vết thương lành thì trung đoàn 209 của anh đã được điều động xuống đồng bằng – Do vậy, Hoàng được bổ xung về đơn vị pháo cao xạ phòng không 37ly, trung đoàn pháo 40 trực thuộc Mặt trận B3.
     Thời kỳ này, do yêu cầu chiến đấu – Hoàng lại được thuyên chuyển từ trung đoàn pháo 40 về làm trung đội trưởng một trung đội súng máy cao xạ 12ly7, đại đội 4, tiểu đoàn hỏa lực D16 của mặt trận, hiện đi phối thuộc với Sư 320 từ Bắc mới vào chiến trường Tây Nguyên.
     Nói về sự ác liệt và gian khổ, không đâu bằng chiến trường B3 – như những người lính từng nói; “Máu của đồng đội chảy, cũng chẳng còn nước mắt mà khóc nữa”. Có sống và chiến đấu trên chiến trường B3, mới hiểu hết được sức chịu đựng và sự hy sinh của những người lính trong chiến trận.
     Hoàng vào đây đã qua bốn mùa khô rồi đến bốn mùa mưa. Anh cũng đã tham gia hàng chục trận đánh, nên thấm thía thía lắm! Anh đã từng chứng kiến có những trận đánh, khi người chiến sĩ bị thương phải lên bàn mổ để lấy mảnh đạn ra khỏi người… mà không có thuốc gây mê. Không chỉ ác liệt còn thiếu thốn đủ điều. Tuy nhiên dù đói khát, gian khổ, nhưng những người lính vẫn rất thương yêu nhau; nhường nhịn, san sẻ cho nhau từng viên thuốc; khi đi hành quân núi cao hiểm trở, nhường nhau từng ngụm nước, chia nhau từng hạt gạo, ngọn rau và hút chung từng điếu thuốc lào.
     Đơn vị mà Hoàng mới chuyển đến làm trung đội trưởng, anh em vừa đặt ba lô ở hậu cứ đã nhận được chỉ thị phải vào chiến dịch ngay – Đêm nay họ dừng chân trong một cánh rừng già, dưới chân đỉnh cao 1008. Ở đây nhìn phong cảnh thì thật hữu tình, non xanh, suối chảy róc rách, chim ca vượn hót. Duy chỉ có sinh hoạt thì thật thiếu thốn. Mới vào chiến trường mà ra trận, mỗi người mỗi ngày chỉ được cấp 5 lạng gạo, thức ăn chủ yếu là cá khô và mắm kem. Đấy là với những người đi chiến dịch, chứ còn những ai làm nhiệm vụ ở lại hậu cứ - mỗi tháng chỉ được cấp 4kg rưỡi gạo một người. Nấu nồi cơm lên, phải nhìn kỹ lắm mới phát hiện thấy hạt cơm lẫn trong sắn.
     Hoàng cảm thấy thương thương những người lính trẻ, mới vào chưa quen chịu đựng như anh. Sức trai tráng tuổi mười tám: phải hành quân, vác súng, đào hầm… mà mỗi bữa chỉ được hai lưng bát cơm. Bụng lúc nào cũng đói cồn cào. Mưa thì mưa dầm, nắng thì nắng đổ lửa, lại phải leo dốc ngược. Hòm đạn pháo, súng ống đè trên lưng nghiến xuống vai. Lúc thì rừng sâu núi hiểm, nhìn lên đỉnh núi dựng ngược. Khi thì qua những triền đồi bọn Mỹ rải chất độc vẫn vàng ễnh màu cỏ cháy. Nếu được lệnh hạ trại dưới một rừng cây, mắc võng nằm phải mắc theo kiểu thời chiến: kiểu như thắt nút thòng lọng, càng ngồi càng chắc, có lệnh báo động hoặc di chuyển chỉ cần với tay giật đầu dây, cuốn võng lại là có thể đi ngay.
     Bước vào chiến dịch này, Bộ tư lệnh toàn miền cũng như Quân ủy Trung ương ở ngoài Bắc chỉ thị: Sẽ mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam – Tây Nguyên được xác định là hướng tiến công trọng yếu. Mặt trận B3 chính là bàn đạp cho các cuộc tiến công của các mặt trận B1-B2-B4-B5… và như cách nói của các nhà quân sự về Sư 320, quả đấm thép của quân chủ lực Bộ, rằng: “Khi quả đấm thép đã tung lên, thì chiến trường phải có tin thắng lớn!”.
      Theo dự đoán của nhiều tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam lúc đó: Vào năm 1972 tới, các binh đoàn chủ lực của QGP sẽ mở mặt trận đánh lớn trên chiến trường, và tập trung hướng tấn công chính tại chiến trường Tây Nguyên.
     Dựa vào những tin tức tình báo, phía quân đội của Chính phủ VNCH cũng đã biết: Hiện Sư đoàn 320 đã vào vùng ngã ba biên giới ở địa phận Kon Tum. Bởi vậy Tướng Ngô Du - chỉ huy QLVNCH và Mỹ trên lãnh vực Tây Nguyên, một mặt cho máy bay trinh sát do thám bầu trời Tây Nguyên, một mặt thu thập thông tin về đối phương để sẵn sàng ứng chiến. Tướng Ngô Du lệnh cho Sở chỉ huy tiền phương của hai trung đoàn 42-47 QLVNCH, cùng toàn bộ lực lượng pháo binh (khoảng 10 tiểu đoàn) và chiến xa (khoảng 10 chi đoàn) Sư 22 bộ binh, di chuyển lên Tân Cảnh – Đắc Tô, Ngọc Bờ Biêng, Chư Mom Ray thuộc Kon Tum… sẵn sàng giao chiến với Sư 320 của quân chủ lực Bắc Việt mới vào.
      Về phía Bắc Việt đã bắt được nguồn thông tin: Quân của Chính phủ VNCH sẽ thực hiện các động thái nhằm dụ 320 QGP tiến sâu vào vùng Đắc Tô – Tân Cảnh, rồi dùng B52 ném bom hủy diệt sư đoàn này.
     Tại Mặt trận B3: Để phối hợp với toàn miền chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công năm 1972, Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo – Tư lệnh mặt trận, đã điều động Sư 320 gồm ba trung đoàn 52 - 64 và 48, cùng 4 trung đoàn bộ binh độc lập thuộc mặt trận, phối hợp với trung đoàn đặc công và 2 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 6 tiểu đoàn phòng không – trong đó có cả trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn hỏa lực D16. Ngoài ra, còn có sự tham gia của tổng binh lực quân địa phương khoảng 2.000 người.
     Ngày 30.3.1972, hai trung đoàn 52-64 Sư 320 liên minh với quân địa phương, đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía tây sông Pô Kô… do 3 tiểu đoàn biệt động QLVNCH đóng giữ. Tướng Ngô Du vội tức tốc điều 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn dù 2 từ Tân Cảnh về các cứ điểm phía tây sông Pô Kô phòng thủ.
     Tướng Hoàng Minh Thảo điều 2 tiểu đoàn của E48 - F320 đánh Ngọc Bờ Biêng, còn 1 tiểu đoàn E48 phối hợp với lực lượng quân địa phương đánh Ngọc Rinh Rua.
    Tướng Ngô Du vội điều trung đoàn 47 QLVNCH tăng cường cho Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng – Đó là hai căn cứ hỏa lực trên các triền đồi phía nam Tân Cảnh.
     Hoa Kỳ cho cả máy bay cường kích gọi từ Thái Lan về ném bom xung quanh để bảo vệ các cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua này.
     Trong tháng 3 và 4/1972, hai trung đoàn 52-64 F320 liên tục tấn công hai cứ điểm Charlie (1049) và Rocket Ridge (1015) của QLVNCH phía tây sông Pô Kô ấy – Các cuộc tấn công diễn ra nhiều đợt. Pháo binh và không quân Mỹ, đặc biệt là các phi cơ AC130 Spectre có gắn súng máy ngăn chặn QGP chủ lực suốt ngày đêm.
     Do núi non hiểm trở, việc đưa pháo lớn vào rất khó khăn nên các trung đoàn QGP chủ lực chỉ có pháo phòng không tầm thấp là 12ly7 và 14ly5, khả năng đánh máy bay địch dù sao cũng bị hạn chế.
     Vào lúc 22h30 ngay11 tháng 4, trung đoàn 52 F320 đã chiếm được căn cứ Charlie, đánh Tiểu đoàn dù 11 QLVNCH thiệt hại nặng phải rút về Võ Định. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dù là Nguyễn Đình Bảo bị tử thương.
     Ngày 15 tháng 4, E64-F320 chiếm được Rocket Ridge, đánh tan Lữ dù 3 QLVNCH, diệt 9 máy bay trực thăng.
      Mỹ đã dùng B52 hủy diệt hai cứ điểm này. Một số chiến sĩ E52 trên đồi Charlie chưa kịp rút hết, đã bị thiệt hại.
     Sau khi thất thủ 1049 và 1015, QLVNCH cho tàn quân rút về bổ xung mặt trận Quảng Trị và cho không vận rút về Huế. Chính phủ VNCH điều tiếp Sư 23 và Liên đoàn biệt động 6 đưa vào Kon Tum, để cố giữ vùng Bắc Tây Nguyên.
     Về phía QGP – Hai trung đoàn 52-64 F320 tuy đã thắng nhưng thiệt hại cũng nặng, phải tạm thời chuyển vào củng cố và giữ các cứ điểm đã chiếm đóng được.
     Về Trung đoàn 48 F320 được sự trợ lực của các lực lượng phảo mặt đất và súng máy cao xạ 12ly7 - tiểu cao 14ly5, tiến đánh Ngọc Bờ Biêng.
 
                                                        *
 
     Thực ra giờ vẫn còn là cuối mùa khô, nhưng năm nay có vẻ đã có mưa sớm. Một đoàn trinh sát dưới sự trực tiếp chỉ huy của tham mưu trưởng D16 Hoàng Khấu – Nói về tiểu đoàn hỏa lực D16 trực thuộc mặt trận, đi phối thuộc cho E48 Sư 320 để đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, gồm bốn đại đội hỏa lực: Đại đội cối 82mm – Hỏa tiễn cá nhân DKB – rốc két B41 và Đại đội 4 súng máy cao xạ 12ly – 14ly5 do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu.
     Đoàn trinh sát dừng lại nghỉ chân bên một khe suối trên đường tiến sâu vào cứ điểm. Một con hổ già nào đấy, theo thói quen thường vẫn tới ngồi ở bờ suối này. Nơi nó ngồi, đất đã chai cứng lại. Không ai biết con hổ thường quen lệ đến đây lúc nào? Vào những buổi chiều hoàng hôn nhợt nhạt, hay các buổi sáng khi trời đỏ rựng trên đỉnh núi. Chỉ thấy phía trước nơi nó ngồi, một đám rãi rớt đã đóng thành nhiều lớp. Những lớp cũ khô đi và mốc rêu như da con kỳ đà, đám rãi trên cùng thì còn đọng nước. Một thứ nước nhờn như nhớt của loài ễnh ương, thường thấy ở các khe suối cạn. Vết chân con hổ in đầy trên đất. Vết chân mới hằn lên vết chân cũ, thành một đường mòn. Cứ đến bên suối là con vật dừng lại, ngồi đúng vào chỗ nó đã ngồi hôm trước, rãi chảy ra đụn cao thành đống như đống mối.
     Đoàn trinh sát đứng vây quanh chỗ ngồi của con hổ, cảm thấy con thú vẫn còn lảng vảng quanh đây, anh nào cũng rùng mình? Bởi vậy, tuy trời đã chạng vạng tối, tham mưu trưởng Hoàng Khấu quyết định đoàn tiếp tục đi thêm một quãng nữa để tránh xa nơi con hổ thường đến, rồi mới dừng lại nghỉ chân qua đêm ở đó.
     Đêm của rừng già đen trũi. Mưa mỗi lúc một to, nước xối lên mái tăng chảy ròng ròng xuống hai bên võng. Suốt quãng đời chiến sĩ ngoài mặt trận, tăng võng thân thiết với họ như mái nhà quê hương. Hôm nay mắc tăng võng ở khu rừng này, sớm mai khi con nai rừng còn thẩn tha tìm đến bên dòng suối uống nước, lại vội vã tháo tăng võng hành quân tiếp qua những con núi và các khu rừng khác. Những ổ lá để nằm của một đàn lợn rừng nào đó, mùi hăng hăng và hôi còn bốc lên nóng hổi, vết chân vẫn tươi in trên mặt đất xốp… tất cả cũng trở nên thân thuộc với họ như kỉ niệm.
     Nằm trên võng mắc gần chỗ với Hoàng là cậu Sảng: trung đội trưởng B2. Hoàng là trung đội trưởng B1, còn Đễ là trung đội trưởng B3. Trong tiếng mưa rơi, nhưng Hoàng vẫn nghe thấy tiếng cựa mình của Sảng… rồi rên hèm hèm trong cổ, chẳng khác nào tiếng khịt khịt của một con lợn rừng. “anh chàng vẫn chưa ngủ được?” – Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng vẫn nằm im. Sảng cất tiếng gọi nhỏ:
-  Ngủ chưa Hoàng?
-  Ngủ rồi!
     Hoàng trả lời Sảng rồi bật cười trong đêm tối. “Chắc là lại nhớ mẹ thằng cu, nên mới không ngủ được chứ gì?”.
-  Kể thì cũng nhớ…
     Sảng trả lời, mắt nhìn lên mái tăng. Cơn mưa vẫn còn mạnh. Nước từ thân cây đã bắt đầu ngấm vào đầu dây võng. Sảng thì thầm tâm sự:
-  Nhiều lúc nhớ con đến phát cuồng lên được.
-  Thế, vợ không nhớ à?
      Sảng vội vàng thanh minh:
-  Nhớ! Nhớ lắm chứ, nhưng… à, mà ông chưa có vợ con, chắc không có tâm trạng như tớ?
     Hoàng vặn lại Sảng:
-  Ngoài vợ con ra, không còn ai đáng nhớ chắc?
-  Không, mình không muốn nói như vậy.
     Sảng xuýt xoa xin lỗi và nói tiếp:
-  Nghe nói chiến dịch này còn kéo dài suốt mùa mưa đấy!
-  Có thể còn kéo dài sang cả mùa mưa sang năm.
     Giọng Hoàng bỗng trở nên tư lự:
-  Anh em ở hậu cứ gặt lúa chắc cũng sắp xong.
-  Bây giờ mà được mấy lon gạo nếp nương, làm ống cơm lam thì tuyệt!
     Bỗng Sảng nhảy ra khỏi võng kêu lên: “Lưng tớ ướt sũng hết rồi!”.
-  Ai bảo cậu không làm cọc giả, chống mưa?
     Hoàng cười.
-  Thì từ sáng đến tối không mưa, cứ tưởng ông giời sẽ cho tạnh ráo cả đêm.
     Sảng lấy tấm vải mưa trong ba lô treo ở phía dưới chân, cuốn tròn vào người rồi lại nhảy lên võng nằm. Anh chàng nói có vẻ khoái trá:
-  Bây giờ thì bất chấp mưa. Nước mưa có chảy vào võng tớ như suối, tớ cũng mặc.
     Cách đấy vài bước đã nghe thấy tiếng ngáy của Đễ, phì phò như kéo bễ.
-  Cái tay Đễ này?
     Tiếng nói của quản lý Chu nằm cách đó cũng không xa lắm:
-  Người bằng một mẩu mà ngáy đến to.
     Chu nói tiếp: “Áp sát địch mà đi với tay Đễ này, có bận thiệt mạng”.
     Cậu chiến sĩ trinh sát mắc võng nằm phía ngoài đại đội trưởng Quảng, gọi giật giọng:
-  Anh Chu ơi!
-  Gọi gì thế ông trẻ?
    Chu làu bàu mắng.
-  Mai phát cho hai đứa trinh sát chúng em thêm ít muối để giã vào giềng, làm thức ăn khô ăn cơm nắm buổi trưa nhé?
-  Ông trẻ lấy muối ăn độn hay sao mà dữ thế?
     Nghe anh quản lý mắng vậy, nhưng cậu chiến sĩ vẫn không hề mếch lòng. Ở C4 này, còn ai lạ gì tiếng ông Chu kỹ tính? Nhưng thực ra anh ta lại rất dễ. Cậu trinh sát vẫn nài nỉ:
-  Thôi mà anh Chu! Hai đứa trinh sát chúng em cũng phải được ưu tiên một tý chứ? Thiếu muối, cổ đã lên tràng hạt rồi đây này.
-  Tiêu chuẩn mỗi một tháng chỉ được sáu lạng muối một đầu người. Thế mà mới có hơn mười ngày, các tướng đã xơi hết tiêu chuẩn?
     Quản lý Chu tiếp tục dậy bảo mấy cậu trinh sát:
-  Các cậu không thấy à? Đến bếp ăn của cả đại đội, nấu canh cũng không dám cho muối, chỉ dành muối để xào măng. Đi trinh sát đã được ưu tiên hơn anh em ở hậu cứ rồi, ăn cơm nắm cũng đừng chấm muối bỗ bã quá!? Phải biết tiết kiệm một tí, ăn lẹm vào cả số muối dự phòng rồi đấy!
     Đại trưởng Quảng giục họ đi ngủ, mai còn hành quân sớm.
     Cứ thao thức giữa rừng mưa, Hoàng miên man suy nghĩ. Trong đầu anh, hồi ức về những năm tháng đã qua trên chiến trường Tây Nguyên, hiện về như một cuốn phim. Sau trận đánh Chư Tan Kra hồi mùa xuân Mậu Thân 1968 đó, anh bị thương phải đi viện điều trị mất hơn ba tháng. Khi vết thương ổn định thì trung đoàn 209 của anh đã được lệnh điều động xuống chiến đấu ở chiến trường B2. Anh được bổ xung về trung đoàn pháo 40.
      Mấy năm sau đó, đánh liên miên hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Nào là, đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH, áp sát phía tây Kon Tum; đánh Ngọc Tu Ba; Ngọc Rinh Rua; Chư Nghé; Đức Cơ; Plâyme… Đến tháng 3 năm 1970, đánh tiểu khu Plâycần thì QGP bị thiệt hại nặng phải rút về hậu cứ củng cố.
     Vào mùa xuân 1971, trung đoàn pháo cùng với các sư đoàn bộ binh chủ lực QGP liên tục bắn phá thị xã Kon Tum. Mục tiêu đánh mạnh nhất là công kích sân bay Phượng Hoàng bằng nhiều loại pháo: pháo mặt đất 130mm, 122mm và hỏa tiễn H12, pháo cao xạ phòng không…
     Anh còn nhớ giai đoạn đánh vào thị xã Kon Tum, chiến sự xẩy ra rất ác liệt – Đó là vào tháng 5 năm 1971, có ngày địch thả đến 75 lần B52 rải thảm, hơn 100 lần chiếc loại cường kích A37 và AD6, đến hàng nghìn quả bom vào những khu vực QGP đã làm chủ hoặc đang tranh chấp. Sau chiến dịch 1971, anh lại được điều động về C4 Tiểu đoàn hỏa lực D16 này.
     Chiến trường Tây Nguyên ngay từ mùa khô cuối năm 1968 thật sự đã rất khó khăn rồi: Đường vận tải lương thực, súng đạn từ Bắc vào bị địch bắn chặn. B52 và máy bay cường kích ném bom rất ác liệt. Mặt trận vừa đói vừa thiếu súng đạn, hầu như đến mức kiệt quệ. Bộ đội phải ăn toàn măng và rau rừng. Lính chết vì bệnh tật cũng nhiều, nhất là bệnh sốt rét.
     Theo chỉ thị của Bộ tư lệnh mặt trận, đơn vị phải để hẳn một bộ phận đi hàng tháng ròng sang Căm Pu Chia tải đạn, gạo về. Đường về bị B52 rải thảm khốc liệt. Sau đó mới có chủ trương phát nương trồng lúa, trồng sắn – Chiến trường tự cung cấp lương thực cho mình. Lúc đó quân B2 ở đồng bằng , lính tráng có vẻ ung dung hơn. Họ có gạo, có cả tiền của Chính phủ VNCH để tiêu. Họ gọi các chiến sĩ trên chiến trường B3 Tây Nguyên là “loại lính mọi rợ” cũng vì thế!
     Hoàng nhớ, thời gian khi vừa ăn xong cái tết 1970 – Có một trận đánh, Mặt trận B3 giao cho Tiểu đoàn 30 thuộc Trung đoàn pháo 40 của anh, chi viện cho Trung đoàn 66 bộ binh vây ép 1 tiểu đoàn lính dù Mỹ ở Plâycần. Lúc tiếp cận trận địa vào một đêm trời tối như bưng, đường rừng đi toàn đá lởm chởm. Trận đánh diễn ra nhiều ngày vô cùng cam go. Địch rải nhiều đợt B52, một lần trúng đội hình E66, bộ đội chết la liệt.
     Trời vừa sáng, khi đơn vị đang phải làm công tác thương binh, tử sĩ để chuyển về tuyến sau, thì bất ngờ một đại đội Mỹ da đen từ đâu ập đến. Trung đoàn 66 lại phải dàn quân đánh, rồi ta cũng đánh cho đại đội Mỹ da đen ấy tan tác, tàn quân còn sót lại của chúng phải tháo chạy vào cứ điểm. Trận đó, đồng chí đại đội phó của đơn vị Hoàng bị trúng bom napan, cháy bỏng cả người rất nặng. Anh vẫn rất kiên cường, chỉ huy đại đội cho tới lúc quị hẳn. Tải thương đưa về được đến trạm phẫu của mặt trận, thì anh ấy hy sinh không cứu nổi.
     Những ngày sau lương thực cũng hết – Quân chủ lực Bắc Việt phải đào kiếm củ mài, rau rừng ăn độn thay cơm. Lúc đó, Mỹ lại đổ thêm 1 tiểu đoàn lính dù Hoa Kỳ nữa xuống cứ điểm. Trên đành phải cho lệnh rút lui.
     Trên đường rút về, có đồng chí y tá của trung đoàn đi đào củ mài, lúc cúi lấy củ mài gục xuống chết luôn không dậy được nữa. Ăn măng rừng, mộc nhĩ, rau tàu bay, môn ngứa… tất cả nháo nhào, đều phải nấu lên mà ăn chống đói. Ngứa móc họng cũng phải ăn. Người ta bảo: Bộ đội kiếm lá ăn trụi cả rừng.
     Có lần hành quân, lính đói quá… tối vẫn phải mò vào rừng đào sắn, lấy măng. Trời mưa to bị lạc mất đường, phải đốt cả dép cao su để lần đường bò về chỗ chốt.
     Đêm rừng Tây Nguyên vẫn mưa tầm tã. Hoàng nằm miên man suy nghĩ, như thể nó vừa mới hôm qua. Anh không khỏi rùng mình. Nghĩ đến bao đồng đội đã ngã xuống, lòng anh lại trào lên nỗi xót xa.
     Hoàng lại xốn xang nhớ về quê hương! Bao hình ảnh thương mến với bạn bè cùng những người thân, và với Thu của anh? Lòng anh bồi hồi một cách lạ thường. Thời gian đưa người ta xa dần nơi mình đã sinh ra. Sự xa cách ấy làm sống lại đủ điều: một tiếng rao đêm của người bán bánh bao, bánh khúc trong đêm Hà Nội; những tiếng xe lúc lắc, hay tiếng chổi khua của quét rác đêm; đến một mảng tường chùa đã mốc rêu xanh…Quá khứ như đứng dậy choáng ngợp trong tâm hồn Hoàng.
     Thực tại là ác liệt và khốn khổ? nhưng thiếu những kỉ niệm về quá khứ ấy, tưởng chừng như linh hồn trống trải và nghèo đói – Đó chính là tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận.
     Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được hai lá thư của Thu. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
     Anh lại chạnh lòng nghĩ về người con gái Mường ở Hòa Bình? Anh thấy mình vừa có lỗi với Thu, vừa có lỗi với cô gái bản – Người ta không thể lẩn tránh được chính mình. Nhưng giờ có tự trách mình thì mọi chuyện đã rồi! Anh lại tự nhủ: “Thôi! Chiến tranh, tất cả sẽ xóa nhòa… em sẽ quên đi” – vì thế, anh đã không viết thư về cho Mỵ.
     Với người con gái bản, anh từng tự hỏi: Liệu có lúc nào mình đã yêu chưa nhỉ? Anh không thể không thừa nhận: hương vị và tình cảm của người con gái Mường ấy như làn gió thơm xoa mát lên tâm hồn anh. Tình cảm cô như chén nước trong muốt và tinh khiết. Mỗi khi hồi tưởng, Hoàng vẫn còn thấy lòng mình xôn xao – Nhưng rõ ràng, ranh giới giữa tình cảm của anh với cô và với người bạn gái thủa thiếu thời, có những phân cách rất khác nhau. Còn sự phân cách khác nhau thế nào? thì anh cũng chỉ cảm thấy, chứ không thể giải nghĩa được một cách rõ rệt.
     Khi triết lý về tình yêu, mọi sự so sánh đều trở thành khập khiễng và mâu thuẫn? Ta không thể mượn ngôn ngữ để thiết lập ra một công thức hay khuôn mẫu nào đó, mà định cho nó một qui tắc. Nó không giống như nhà toán học khi phát biểu một định lý, được rút ra từ một phép phối hợp tài tình, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên.
    Thế là nằm trong đêm mưa giữa chiến trường, tâm trạng Hoàng trở nên bối rối. Tuy vậy, anh vẫn khẳng định trong mình rằng: chỉ có Thu là tình yêu đích thực của trái tim anh! Anh không thể sống thiếu cô.
     Từ xa, một loạt súng trung liên AR15 của Mỹ ở cao điểm Ngọc Bờ Biêng bắn vọng đến, xé toang sự tĩnh mịch của đêm rừng già. Sảng chợt thức giấc, thấy Hoàng vẫn trở mình trên võng, liền hỏi:
-  Hoàng vẫn chưa ngủ à? Khuya rồi đấy! Phải ngủ đi chứ, mai còn xuất phát sớm.
-  Cũng muốn nhắm mắt mà ngủ, nhưng lại thấy tiêng tiếc thế nào ấy!
     Hoàng nằm nghiêng người trên võng quay về phía Sảng, anh nói tiếp:
-  Nhiều đêm tớ thèm mơ một giấc mơ đẹp, sáng mai dậy thấy mình thật tỉnh táo.
-  Ừ, cuộc sống của những người lính chiến đầy những sự khốn khổ và hy sinh, ai cũng thèm những giấc mơ đẹp, những kỉ niệm thân thương ở quê hương… trở thành những liều thuốc bổ dưỡng tinh thần.
     Sảng nói vậy rồi lại giục Hoàng:
-  Nhưng thôi, phải ngủ đi ông bạn! Cuộc chiến nghe chừng còn khốc liệt lắm! Hồi ở Bắc đã cứ tưởng, không vào mau thì giải phóng đến nơi, sẽ chỉ nhặt ống bơ rỉ? vào đến chiến trường, đánh nhau rồi mới biết…
      Sảng khẽ thở dài: “mà thôi, ngủ đi! Phía trước là chiến trận chứ không phải là những giấc mơ…”.  
     Chỉ một loáng, đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Sảng. “Hắn vô tư thật” – Hoàng nghĩ vậy. Trời đã về khuya, các đồng chí của Hoàng đều đã ngủ say, chỉ còn hai người lính gác trong đêm thì vẫn thức. Qua kẽ lá rừng, Hoàng nhìn lên một khoảng trống, cơn mưa nhạt dần. Những vì sao sáng láng lại hiện lên trên nền trời xanh ngắt.
      Cơn mưa dứt, những con thú đã ra rừng để đi kiếm ăn. Tiếng một con nai đực gọi con nai cái. Giọng của nó mỗi lúc một khàn, như thể nó đã gọi rát cổ mà bạn gái của nó chưa chịu đến? Ở quãng rừng gần đấy, có con nai cái nào đó đang hít… hít… những ngọn lá non còn mát những giọt nước mưa - nghe tiếng con đực gọi, vểnh tai lên nghe ngóng? Dáng chừng còn tiếc rẻ cái vị chát và ngọt của lá, nên lại cúi xuống ăn tiếp. Bỗng nó nhảy té lên, chạy miết lại nơi con nai đực đang gọi.
     Có con chim nhỏ ngủ quên, ngã chúi xuống một cành cây thấp. Nó kêu choe chóe rồi đi lần lần mấy bước, rúc đầu vào một đám lá gần đấy, ngủ tiếp. Đêm đó cũng được coi là một đêm yên bình của đoàn trinh sát. Hoàng chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
 
                                                   26-
 
     Sáng sớm hôm sau, đoàn trinh sát D16 tiếp tục xuất phát tiến gần về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Hành quân đến xế trưa, họ leo lên một ngọn núi có tên là “nghìn không lẻ một” (1001). Đứng trên đỉnh 1001, có thể chiếu ống nhòm quan sát những hoạt động của địch trên cao điểm Ngọc Bờ Biêng, với khoảng cách 1km đường chim bay.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu trải tấm bản đồ lên mặt đất, nói với các cán bộ và chiến sĩ trong đoàn:
-  Đây là nơi chúng ta đang đứng!
      Ông chỉ tay lên bản đồ: “… và chỗ có đánh dấu chữ thập (+) đỏ này, chính là cao điểm Ngọc Bờ Biêng mà các đồng chí đang nhìn thấy.”.  
     Ông giơ tay chỉ về phía cao điểm, tiếp tục nói:
-  Từ 1001 này, đi theo con đường yên ngựa dài hai cây số đường vòng, các đồng chí sẽ đến một khu đồi thấp, có tên là “mắt ngỗng” – Đấy là hướng chính diện để tiến vào cao điểm. Hướng mà Tiểu đoàn hỏa lực D16 ta trợ lực cho hai tiểu đoàn E48 bộ binh của Sư 320, mũi chủ công đánh lên đồi A – còn Tiểu đoàn 3 E48 cùng với quân địa phương, đánh hướng thứ yếu lên hai đồi B và C.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu diễn đạt tỉ mỉ:
-  Theo như trinh sát bám địch báo về, con đường “mắt ngỗng” thỉnh thoảng vẫn có những tốp thám báo địch đi tuần tra qua. Bởi vậy, chúng ta phải hết sức đề phòng để không bị lộ.
       Ngọc Bờ Biêng là một cụm cứ điểm kiên cố, án ngữ phía nam vào Thị trấn Tân Cảnh. Theo quyết định của Bộ tư lệnh B3: Trong chiến dịch này, bộ đội chủ lực hợp với quân giải phóng địa phương phải đập nát cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua… chọc thủng phòng tuyến Tân Cảnh – Đắc Tô, tiến đến giải phóng Kon Tum – làm bàn đạp cho toàn mặt trận, để giải phóng Tây Nguyên, Nam Bộ.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu gập tấm bản đồ lại, căn dặn rất cặn kẽ: Đã hai mươi năm nay, Ngọc Bờ Biêng là một trong những cụm cứ điểm làm tổn hại rất nhiều xương máu QGP, nhưng ta chưa bao giờ chiếm được. Ông nhấn mạnh:
-  Để đảm bảo thắng lợi, chúng ta phải có công tác trinh sát và chuẩn bị thật chu đáo. Như Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh trưởng Mặt trận B3 vẫn nói: “Kế hoạch tác chiến càng công phu kỹ lưỡng bao nhiêu, thắng lợi càng dễ bấy nhiêu. Thế trận càng phức tạp, thì tình huống càng diễn ra giản đơn”.
     Kon Tum chính là cửa ngõ để đi vào Tây Nguyên. Thọc qua Kon Tum và Buôn Ma Thuột là có thể khống chế được hoàn toàn Tây Nguyên – Mà Tây Nguyên là yết hầu của cả chiến trường miền Nam. Một khi đã làm chủ Tây Nguyên, có thể đưa quân chủ lực miền Bắc kết hợp với QGP miền, tràn xuống tiến công đánh vào các vùng đồng bằng và thành phố.
      Hoàng và đoàn trinh sát đứng trên đỉnh 1001 nhìn về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng – Nơi mà cả Tiểu đoàn hỏa lực D16 của anh cùng với Trung đoàn 48, sắp tới sẽ tắm mình trong máu lửa. Giây phút này nhìn lên, bầu trời Tây Nguyên sáng và cao. Cơn mưa đêm đã dứt từ sáng sớm, mặt trời lại chiếu chứa chan lên các thảm rừng. Đồi núi và thung lũng bao quanh cứ điểm, khung trời xanh êm thoáng gợn một chút mây hồng.
      Mặc dù thỉnh thoảng vẫn có vài chiếc máy bay trinh sát OV10 hay L19 bay vè vè trên đầu, nhưng mặc nó. Trung đội trưởng Hoàng bỗng nhiên lại nhớ đến bài hát “Tây nguyên! Ai một lần đi qua đó”:
                    Tháng 3 mùa con ong đi lấy mật
                    Mùa con voi xuống sông uống nước
                    Mùa em đi phát rẫy làm nương…
      Mặc dù bây giờ đã là tháng tư rồi. Nếu không có chiến tranh thì Tây Nguyên đẹp và mơ mộng biết bao nhiêu. Chỉ có những ai đã từng đi qua cuộc chiến như anh và các đồng đội hôm nay, được thấy cả mùa hoa dã quỳ nở vàng rực ngay trong bom lửa, mới thấm thía câu hát:
                    Tây Nguyên! Ai một lần qua đó
                    Suốt cuộc đời nhớ lại vẫn thương nhau…
      Hoàng đã đi qua bốn mùa hoa dã quỳ nở vàng rực Tây Nguyên, bốn mùa con ông đi lấy mật. Những địa danh ở Kon Tum như Chư Mom Ray, Kleng, Ngọc Tu Ba, Gia Lai… rồi những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy… những con đường quốc lộ số 7, 14, 18, 21… từng in dấu chân những người lính mặt trận như anh, với những trận đánh máu lửa. Nhưng cũng chính ở đây – trên mặt trận Tây Nguyên ác liệt và gian khổ này, đã gắn kết những người lính trận lại với nhau, thương nhau như máu thịt. Dù đói khát họ vẫn san sẻ, nhường nhịn nhau từng lưng cơm, củ sắn, nhúm muối. Chia nhau từng viên thuốc sốt rét. Dành nhau từng ngụm nước trong các cuộc hành quân, hút chung cả đồng đội một điếu thuốc lào, một hơi thuốc lá miên – vẫn nghe thấy những tiếng cười ròn tan giữa bom đạn chiến trường.
      Đoàn trinh sát truyền nhau chiếc ống nhòm nhìn về phía Ngọc Bờ Biêng: Một cụm cứ điểm gồm ba khu đồi lớn, đứng thành thế chân kiềng bảo vệ lẫn nhau. Khu đồi A – cứ điểm chính diện gần họ nhất, trung tâm của cụm cứ điểm là một đỉnh núi dốc ngược. Mũi chủ công của Trung đoàn 48 và D16 muốn đánh cứ điểm này, phải vượt qua một cái vực sâu hun hút như địa ngục. Chỉ có một con đường tương đối bằng phẳng nối liền cao điểm với Mắt Ngỗng - Ở tuyến này, địch phòng thủ rất vững chắc. Có những năm, các tiểu đoàn bộ binh của QGP bất ngờ từ dưới vực đánh lên cứ điểm, đã phải trả một giá rất đắt mà vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch.
      Bên trong cái vỏ lạnh lùng của cứ điểm kia, những trận chiến nóng bỏng và ác liệt đã từng diễn ra. Những trận chiến mù trời khét lẹt mùi bom đạn, và mùi da thịt của những người lính trận cả hai bên. Chiến tranh là vậy!
      Hoàng lại chạnh nghĩ tới những người đồng đội của anh: bao chiến sĩ gương mặt còn thật trẻ, nhiều anh vừa mới rời ghế nhà trường, dáng như các thư sinh. Giờ đây họ đã thành những người lính trận cảm tử… và chỉ ít ngày nữa thôi, có người sẽ phải nằm xuống vĩnh viễn, không bao giờ trở về nơi mảnh đất mình đã sinh ra được nữa. Hôm nay họ vẫn tươi cười với anh, nhưng ngày mai… chỉ còn lại trong kí ức. Có thể đó là một kí ức ghê người, khủng khiếp? và biết đâu, cả anh nữa liệu có qua được trận chiến tới không? Không ai trả lời được điều đó!
      Tiếng tham mưu trưởng Hoàng Khấu chậm rãi:
-  Cùng phối hợp với Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn 16 của ta để đánh Ngọc Bờ Biêng này – các trung đoàn chủ lực mặt trận sẽ đồng loạt tiến đánh Pleicần, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba…
      Ông dừng lại giây lát:
-  Sau khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng rồi, Trung đoàn pháo 40 của mặt trận sẽ tiếp quản trận địa pháo trên cao điểm của địch, dùng chính những họng pháo của chúng bắn thẳng vào các căn cứ quân sự của QLVNCH ở Tân Cảnh – Đắc Tô. Nghĩa là, dùng pháo địch để diệt địch!
      Giọng người tham mưu trưởng dằn xuống, chắc nịch như thể chiến thắng đã nằm trong bàn tay của ông:
-  Khi đó các trung đoàn bộ binh khác như E52, 64, 66 cùng phối hợp với các Tiểu đoàn pháo 30, 31… tràn qua Ngọc Bờ Biêng vào đánh Đắc Tô – Tân Cảnh, hợp lực với QGP địa phương ở dưới đấy – Sau đó, tất cả cùng tiến công vào chiếm thị xã Kon Tum.
      Lúc này, họ nhìn thấy mấy chiếc trực thăng Huê Kỳ bay đến, hạ cánh xuống cao điểm A trong Ngọc Bờ Biêng. Chúng tiếp tế lương thực, đồ hộp, nước uống và cả gái điếm cho những tên sĩ quan QLVNCH với mấy tên cố vấn Mỹ.
      Nghỉ ngơi một lúc, đoàn trinh sát D16 lại tiếp tục xuất phát. Họ rời đỉnh 1001, cắt tọa độ xuyên rừng tiến về phía Mắt Ngỗng – Nơi mà họ sẽ cho quân đến chiếm lĩnh trận địa, chuẩn bị đánh Ngọc Bờ Biêng.
 
                                                  27-
 
      Vượt qua các đỉnh núi cao chót vót và những vực sâu hun hút, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn 48 bộ binh đã đến vị trí tiếp cận trận địa dưới chân cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng – Nhưng C4, đại đội súng cao xạ 12ly7 và tiểu cao 14ly5 của Tiểu đoàn hỏa lực D16 trợ chiến, thì dàn trận trên một ngọn đồi đối diện với cao điểm A, cách nhau là một con vực sâu thẳm. đó là một cánh rừng già, phong cảnh không kém vẻ hữu tình. Họ tiến vào trong đêm một cách lặng lẽ, đào trận địa. Sáng ra, từ đâu chạy đến một đàn vượn bạc má khoang đen trắng. Giá như gặp tại hậu cứ hoặc ở rừng phía tuyến sau, là anh em chiến sĩ sẽ dùng AK bắn hạ vài con để cải thiện. Ở đây thì phải tuyệt đối bí mật, đến ánh lửa cũng không dám bật. Anh nào chót lên cơn ho thì phải ôm lấy ngực, dùng khăn tay ấn vào miệng rồi úp mặt xuống đất. Chỉ nghe thấy tiếng khục khục ục ra từ trong cổ họng. Cơn ho lên, có cậu đỏ mặt, tía tai mà vẫn phải cố nén. Nhìn cảnh tượng mà thương quá! Nhưng nếu để địch phát hiện, trận đánh bại lộ thì hậu quả sẽ không biết đâu mà lường.
      Từ trận địa này, những khẩu súng cao xạ 12ly7 – 14ly5 của họ có thể bắn thẳng sang các ụ pháo, lô cốt và cả máy bay địch đến tiếp viện… yểm trợ cho Trung đoàn 48 tràn lên đánh cứ điểm.
      Sau một đêm tập trung xây dựng trận địa. Mặt trời vừa nhô lên khỏi ngọn cây trên đỉnh núi, đã thấy hai chiếc máy bay trinh sát OV10 từ đâu bay tới. Khoảng 10h sáng, lại thấy một chiếc L19 lượn đi lượn lại hàng chục vòng, khắp mấy khu rừng quanh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Chúng cứ thu vòng bay hẹp dần lại, ngó nghiêng nhòm xuống soi mói. Có lúc, tưởng chúng đã phát hiện ra?
      Họ được biết, đêm nay vào giờ G sẽ phát lệnh nổ súng, nên mọi công tác chuẩn bị phải khẩn trương, chu tất. Khoảng 5h30 phút chiều tối, hai đồng chí trong trung đội của Hoàng xuống dưới bếp anh nuôi ở gần suối, lấy cơm mang lên cho trung đội. Hai chiến sĩ phải cho cơm canh vào hai bên đôi quang bằng chão, với chiếc đòn gánh làm bằng một ống tre nhỏ. Họ đã quẩy cơm lên đến triền núi, cách trận địa chỉ còn hơn 100 mét thì trời tối hẳn. Đây là bữa cơm chuẩn bị  khai hỏa trận đánh, bộ phận anh nuôi được quản lý cho gia thêm thực phẩm, chuẩn bị khá thịnh soạn. Hai chiến sĩ hý hửng, đang tưởng đến niềm vui của anh em pháo thủ được thưởng thức bữa cơm ngon ngay giữa chiến trường? vì có thể sau bữa cơm này, đêm nay khi đã vào trận chiến, có đồng chí sẽ không bao giờ còn được thưởng thức những bữa cơm cùng đồng đội nữa. Ở đây, nghĩ đến cái chết cũng bình thường, đơn giản lắm! Họ không cần biết đến sự kiêng kỵ, hay nói gở mồm.
      Có những lần mấy anh em đang ăn cơm với nhau, một cậu ra ngoài vòi nước ở khe núi rửa tay. Một quả pháo lạc và anh gục ngay xuống chết trước mặt đồng đội, vẫn còn ngồi quanh mâm cơm trò chuyện.
      Lại có đêm dọc đường hành quân vào chiến dịch, ba đứa cùng nằm với nhau trong một cái hầm không có nắp: gọi là hầm mở. Đào sâu khoảng nửa mét, rồi rải lá nằm. Khoảng nửa đêm, cũng một quả pháo lạc vu vơ ở đâu bay đến. Một mảnh pháo nghiến đứt ngay khoanh đầu của anh nằm ở giữa. Mảnh pháo xiên qua trán, tách đôi mảnh đầu ra như khúc giò lụa. Máu tung ra chan chứa, đỏ lòm, thấm hết vào bao gạo mà người chiến sĩ gối đầu để ngủ. Hai đứa nằm bên giật nẩy người choàng dậy, thì người đồng đội của mình đã hy sinh. Thương lắm, xót lắm, nhưng chiến tranh là như thế! Anh em lặng lẽ khiêng đồng chí mình ra, bó vào tăng võng rồi chôn ở bìa rừng,  đánh dấu sau này tìm lại xác cho khỏi mất. Cũng không còn nước mắt để khóc nữa.
      Lại nói về chuyện hai chiến sĩ mang cơm cho trung đội lên trận địa – Bữa cơm thịnh soạn ấy có thịt hộp, măng xào với nộm hoa chuối rừng… và cả món cá kho, mà sáng nay mấy anh nuôi quây được ở dưới suối. Khi hai anh em quẩy cơm đến gần trận địa thì trời đất bỗng nhiên rung chuyển, một loạt pháo từ đâu bắn tới. Tiếng nổ ầm ầm, khói đen mù mịt. Hai người chỉ kịp chúi vào khe của hai cây gỗ đổ bên rừng. Khi loạt pháo dứt, họ lồm cồm bò dậy – thì ôi thôi, hai quẩy cơm cùng thức ăn đã bay đâu mất? còn trơ lại mẩu dây chão và ống tre làm đòn gánh. Nhìn lên cả một mảng rừng, cây cối và đất đá bị cầy xới ngổn ngang. Hai người vội chạy về trận địa, mặt buồn tiu ngỉu… như là người có lỗi. Anh em trong trung đội nhìn thấy họ chạy về, mừng rỡ đến đón và an ủi:
-  May quá, người không chết là tốt rồi! Ta tạm dùng một bữa lương khô dự phòng cũng được. 
     Giây lát, đại đội trưởng Quảng đến động viên:
-  Rất may là các cậu không bị hy sinh! Thôi, để tớ bảo với bộ phận anh nuôi tìm cách giải quyết, trung đội sẽ lại có cơm ăn.
      Nói rồi, ông cử cậu liên lạc xuống bếp bảo anh nuôi tìm cách xử trí. Cả đại đội biết chuyện, anh em lập tức san sẻ phần cơm của các trung đội để đưa cho trung đội của Hoàng.
      Câu hỏi đặt ra: chẳng lẽ địch phát hiện được ta chuẩn bị đánh chăng? Nhưng không thấy động tĩnh gì. Đây chắc chỉ là loạt pháo chúng bắn lung tung, bừa bãi ra bốn phía để đe nẹt, đề phòng. Ta biết tỏng cái thói của địch, nên vẫn giữ bí mật tuyệt đối đến giờ nổ súng.
      4h15 phút sáng, trận đánh mở màn. Các loại pháo đi phối thuộc với Trung đoàn 48, kể cả pháo mặt đất của mặt trận B3 từ xa chi viện, đều đồng loạt đánh vào cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Từ hướng đường 14, các cỡ pháo lớn của Trung đoàn 40 như pháo 85 – 105mm căn tọa độ bắn vào các lô cốt địch. Sau đó cối 82mm, DKZ của D16 – Tiểu đoàn hỏa lực tiến theo bộ binh bắn thẳng vào trong trận địa.
      Ban chỉ huy QGP bắt được tín hiệu thông tin của địch báo về trung tâm. Chúng báo: phía trước, phía sau, bốn phía đều bị Việt Cộng pháo kích dữ dội. Chúng xin điều máy bay đến ném bom vào các khu vực của QGP và pháo binh chi viện. Được một lát, các phản lực Mỹ và trực thăng bay đến,  nhưng thời tiết khi đó lại rất bất lợi cho chúng: mây rất thấp, núi cao – Nếu bay cao thì máy bay không thể ném bom, oanh kích chính xác vào các mục tiêu, hỏa điểm của QGP… còn bay thấp thì làm mồi cho súng cao xạ 12ly7 - 14ly5 của C4 Tiểu đoàn 16 – Đấy là do núi cao, quân chủ lực Bắc Việt không thể kéo pháo cao xạ 37ly vào được. Súng máy cao xạ 12ly7 mang vác thuận tiện thì không nói làm gì, nhưng còn loại tiểu cao 14ly5, họ cũng phải tháo rời ra một số bộ phận, rồi dùng đôi vai bộ đội mang vác vào trận địa – khi chiếm lĩnh lại lắp vào mà đánh.
      Nói về trung đoàn bộ binh 48 – Trên báo cho biết: Tại Ngọc Bờ Biêng hiện có 1 tiểu đoàn lính dù Mỹ và 2 tiểu đoàn biệt động QLVNCH đóng giữ. Đêm đó khi cho quân vào ém vây cụm cứ điểm, các tiểu đoàn đã phải cho trinh sát vào trước cắt hàng rào. Ở hai cao điểm phụ B và C thì địch chăng 12 lớp hàng rào, còn cao điểm A là cao điểm chính, anh em trinh sát phải cắt tới 15 lớp hàng rào. Mìn và lựu đạn, chúng gài khắp nơi. Cắt cũng rất cơ cực, trinh sát phải dùng kìm cộng lực mà cắt. Cắt phải nhẹ nhàng, kết hợp tháo gỡ mìn. Nếu cắt mà rung dây thép gai, pháo sáng và mìn, lựu đạn phát nổ là toi. Cắt rồi phải tháo gỡ mìn, lựu đạn, dọn đường cho bộ binh xông lên. Pháo sáng thì phải lấy chốt ra, nếu lỡ để nó bật một cái… bắn vọt lên sáng trưng, là lộ. Địch phản kích ra có thể gây thiệt hại, hy sinh, đồng thời làm hỏng cả chiến dịch.
      Còn bộ phận đặc công của trung đoàn – Từ mấy hôm trước đã phải mò hẳn vào bên trong để xác định cụ thể vị trí: Sở chỉ huy địch, khu điện đài, vị trí lô cốt, bãi pháo ở chỗ nào? Về báo cáo tường tận cho trung đoàn. Tư lệnh trưởng của Sư đoàn 320 còn cho 1 tiểu đoàn của E52 dự phòng ở tuyến sau, sẵn sàng chi viện, cùng Trung đoàn pháo 40 của mặt trận, hợp lực tạo thế phản công cho Trung đoàn 48 tiến đánh, chiếm hoàn toàn cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng.
      Sau trận mưa pháo của quân chủ lực mặt trận giải phóng, những cánh quân của các tiểu đoàn ào ạt nổ súng, xông lên cứ điểm. Các ổ súng máy từ các lô cốt địch cũng chống trả quyết liệt. Lúc này, các máy bay tiêm kích ném bom và trực thăng tới bắn xối xả vào đội hình của QGP. Cuộc tấn công lên cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng diễn ra nhiều đợt. Pháo rồi các phi cơ Mỹ như loại AC130 bắn súng máy xa xả, ngăn chặn không cho QGP tiến lên cao điểm.            
      Súng máy cao xạ 12ly7 và tiểu cao 14ly5 của D16 bắn chi viện rất quyết liệt. Khi bộ binh xung phong lên, đại đội pháo cao xạ C4 chỉ để lại hai trung đội 14ly5 từ trận địa bắn chéo xuống cao điểm A áp đảo địch, còn các tiểu đội súng máy cao xạ 12ly7 của trung đội trưởng Nguyễn Hoàng cùng những đại đội cối 82mm, súng hỏa tiễn cá nhân DKB và rốc két B41 của tiểu đoàn thì tiến theo bộ binh đánh thẳng vào cứ điểm.
     Sau hơn một tiếng, đại đội súng cao xạ phòng không C4 đã bắn rơi 1 trực thăng đuôi nhọn chuyên phóng rốc két, 1 AD6 lao xuống ném bom và 1 AC130 bốc cháy ngay trên bầu trời. Anh em còn nhìn thấy rõ đám lửa lớn ở thân máy bay kéo theo một vệt khói khổng lồ, lao xuống rơi ở một cánh rừng cách xa khoảng vài cây số.
      Các loại phi cơ Mỹ đến tiếp ứng rất nhiều, chúng thả hết đợt bom này đến đợt bom khác xung quanh cứ điểm và những khu vực cao điểm mà QGP đã chiếm được. Trung đoàn 48 bị thương vong, tổn thất khá nhiều. Tiếng bom nổ long trời, khói bụi và đất đá bay mù mịt. Từng đoàn máy bay A37 – AD6 bắn phá dữ dội, cả trực thăng vũ trang Mỹ loại Cobra bắn xối xả vào đội hình của trung đoàn bộ binh, kèm với phản lực F101 ném bom. Một khẩu sáng máy cao xạ 12ly7 của trung đội Hoàng bị súng hỏa tiến địch loại Sagger bắn tung đi, ba chiến sĩ hy sinh ngay tại chỗ.
      Trong trận đánh vào cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, thì mũi tiến công cao điểm A của tiểu đoàn chủ công E48 là diến ra cam go nhất. Ông tiểu đoàn trưởng D1 của trung đoàn đã tung tất cả lực lượng chủ chốt, đặc biệt tinh nhuệ của tiểu đoàn vào trận đánh. Mũi tiến công đã triệt hạ được một số cụm, chốt cơ bản của địch, mở đường cho cả tiểu đoàn xông lên – Tuy nhiên, Mỹ và các tiểu đoàn biệt động QLVNCH đã xây dựng ở đây một hệ thống cụm kháng cự liên hoàn từ trên các dốc đá rất kiên cố, cùng các chốt cố thủ hai phía bắn chéo sang, nên bộ đội dù được pháo chi viện, đã nhiều đợt xung phong mà vẫn bị đánh bật trở lại. Từ các vị trí cố thủ ấy, tiểu đoàn lính dù Mỹ và quân biệt động VNCH, được yểm trợ cả không quân và pháo binh đánh trả quyết liệt, chặn đứng các cuộc tiến công của QGP.
      Hai tiểu đoàn ở hướng chủ công E48 thương vong khá nặng nề. Tình hình cấp bách, Ban chỉ huy mặt trận điều thêm 2 đại đội dự bị của trung đoàn 52 xông vào tiếp ứng. Thế trận giằng co đã được giải tỏa. Hỏa lực địch ở đỉnh A câm bặt. Tiểu đoàn chủ công E48 mở đợt tấn công cuối cùng vào trung tâm cao điểm A. Các loại hỏa lực chi viện cho trung đoàn như cối 82mm, DKZ, đại liên bắn như mưa.
       Pháo địch bắn trả dữ dội. Không quân Mỹ trên đầu bỏ bom, phóng rốc két vào đội hình QGP đang tấn công lên – Súng máy cao xạ 12ly7 nổ ròn rã, thả sức bắn. Từ trên đỉnh đồi bên kia, tiểu cao 14ly5 vừa đánh máy bay vừa chúc nòng bắn vào các hỏa lực địch. Súng B41 phóng thẳng vào các lô cốt phòng thủ của chúng, cối 82mm dập xuống không ngớt. Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 gia tăng cả pháo kích của mặt trận cho Trung đoàn 48.
      Bị o ép, lính Mỹ trong chốt liên tục gọi không quân và pháo kích ứng cứu. Máy bay ném bom đào, bom napan vào những địa phận QGP đã làm chủ. Sau đó, tiểu đoàn lính dù Mỹ và quân biệt động VNCH tổ chức nhiều đợt phản kích từ trong chốt ra, song đều bị Việt Cộng đánh bật vào. Chúng bị thương vong và chết nhiều, vẫn không ra nổi. Thừa thế, bộ đội xông lên đập nát các cụm, điểm còn lại.
      Máu và bom đạn hòa trộn trong bụi lửa chiến trường. Địch chết, bộ đội chết… phơi đầy xác trên mặt đất. Cứ điểm bị cầy tung, đất đá và dây thép gai chằng chịt.
     Ở cao điểm B: một kho đạn pháo địch bị trúng hỏa tiễn B41 của QGP bốc cháy, nổ ầm ầm như một trận động đất. Khói lửa mịt mù loang ra mấy khu rừng.
      Máy bay địch quần thảo trên bầu trời vây quanh cứ điểm. Chúng cho cả B57 đến đánh tọa độ khu vực mà chúng cho là ban chỉ huy quân chủ lực Bắc Việt ở đó và nơi bộ đội ém quân. Có lần chúng đánh tọa độ đúng Sở chỉ huy Sư đoàn 320, nhưng cũng may địch chỉ thả bom trúng vào mé bên. Cũng có quả rơi gần sát, nhưng hầm của Sở chỉ huy được xây theo kiểu hầm chữ A  Triều Tiên kiên cố, nên không ai việc gì.
      Sau hơn bốn tiếng đồng hồ - vào lúc gần 10h sáng thì toàn bộ cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã bị Trung đoàn 48 tiêu diệt. Số còn lại co cụm, kéo cờ trắng xin hàng. Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 cho một đại đội của Trung đoàn 52 lên giải giáp tù hàng binh về tuyến sau. Lập tức ngọn cờ giải phóng nửa xanh, nửa đỏ được kéo lên trên nóc hầm chỉ huy của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ. Gió đèo thổi mạnh, cờ giải phóng bay phần phật.
      Trong chiến tranh, sau những trận đánh ác liệt như ở Ngọc Bờ Biêng thế này – người ta gọi là “vùng đất chết”! Mồ chôn hàng ngàn lính trận cả hai bên.
      Về trận đánh – Tin tức từ các đài phương Tây đã bình rằng: “Một tiểu đoàn lính dù Mỹ cùng hai tiểu đoàn biệt động quân VNCH, chốt giữ trên cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã bị thất bại thảm hại. Mỹ ném hàng nghìn tấn bom xuống xung quanh cứ điểm với hàng ngàn trái pháo để giành sự sống, mà vẫn bị Việt Cộng chặn đứng, tiêu diệt.
      8 máy bay gồm cả trực thăng, tiêm kích AD6 – AC130 bị bắn hạ. Không có cách nào để đưa được quân bị thương ra khỏi chiến trường. Lính chết nằm chạt trên đồi. Cách duy nhất để phân biệt được người sống, người chết… là khi Việt Cộng dùng pháo cối, B41 dội vào – người còn sống thì đổ xô chạy, kẻ chui vào những chiếc boong ke ở trên đồi, nhảy vội xuống giao thông hào, lính bị thương thì quằn quại bò tìm nơi ẩn nấp sau những gốc cây đổ ngổn ngang, hay trong những hố pháo lớn.”.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2018 12:31:10 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 22.05.2018 12:20:39 (permalink)
 
                                                    28-
 
      Sau khi cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng bị tiêu diệt. Lúc này ở đồi A, cùng với đội hình các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn hỏa lực D16 – Trung đội trưởng Hoàng dẫn đầu trung đội súng máy cao xạ 12ly7, tràn lên cao điểm.
      Tại căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, được xây dựng bằng các bao cát. Một tên sĩ quan Mỹ chết nằm ngã sấp trước cửa, đầu lộn vào phía trong. Có lẽ lúc đó, hắn ra ngoài đang định chạy vào thì trúng đạn của bộ đội. Hai tay tên sĩ quan Mỹ giang về phía trước, nằm dốc theo những bậc lên xuống, giồng như tư thế của vận động viên bơi lội từ trên cầu phao đang nhào xuống. Khẩu súng ngắn của y văng ra rơi xuống sàn nhà hầm. Không thấy xác của tên tiểu đoàn trưởng Mỹ đâu? Có thể nó đã chết ở trên cứ điểm trong đống xác của lính, cũng có thể đã bị bắt ở đám tù binh.
      Các chiến sĩ đẩy xác tên sĩ quan Mỹ sang một bên. Hoàng cùng anh em bước vào trong nhà hầm. Một con chó bẹc-giê màu xám từ trong góc nhà hầm nhảy chồm ra, định lao tới cắn. Khẩu AK của Hoàng lập tức rung lên, con chó ngã vật xuống, mồm còn kêu ăng ẳng. Hai chân con chó cào làm nát cả hai ống quần của tên Mỹ, may bằng loại vải dầy cộp. Bộ đùi lông lá của nó bị móng con chó cào xé còn loang máu. Máu ộc ra từ cổ con chó đỏ lòm, toé lên người tên sĩ quan. Hai giống sinh vật ấy nằm đè lên nhau, lấp cả một khoảng căn nhà hầm.
      Hoàng cầm cây đèn pin soi loằng nhoằng vào bên trong, nói:
-  Hôi như cóc chết!
      Căn nhà hầm chỉ còn trơ lại hai cái xác và một số dụng cụ của bộ phận thông tin, vô tuyến. Họ kéo nhau đi chỗ khác. Đến trước một căn nhà có cửa bằng sắt, đóng kín với một ổ khoá lớn. Mấy anh em chiến sĩ lấy hết sức dẩy rầm rầm vào cánh cửa. Phiến cửa được làm bằng một loại tôn khá dầy, không lay chuyển. Một chiến sĩ bước hẳn ra ngoài, đưa ống tay áo quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán, chửi đổng:
-  Đồ chó má! Kho đạn thì nó để tênh hênh, kho lương thì nó khoá chắc thế?
       Một anh khác phụ hoạ:
-  Bọn chỉ huy nó sợ lính tráng vào lấy bừa bãi, chứ sao!
      Hoàng hỏi anh em:
-  Không thể phá được à?
-  Báo cáo trung đội trưởng, cửa chắc lắm ạ! Trung đội trưởng cho chúng em dùng một liều bộc phá, sẽ tung hết.
      Cả nhóm chiến sĩ đồng tình:
-  Phải đấy! Trung đội trưởng đồng ý đi, chắc kho lương này nhiều thứ ngon lắm, đấy ạ!
      Hoàng cười rồi gật đầu, nhưng vẫn nhắc anh em dùng bộc phá cho cẩn thận.
-  Trung đội trưởng cứ yên trí, chúng em là lính dùng bộc phá đã có tay nghề rồi mà.
      Một cậu quay lại hỏi các đồng ngũ:
-  Bộc phá đâu?
-  Bộc phá đây, có ngay!
      Một anh khác nhanh nhảu đưa đến một thỏi bằng bánh xà phòng thơm, nói:
-  Thỏi này cũng đủ sức công phá cả căn nhà vừa vừa đấy!
-  Đưa cho thằng Lãm nó nổ.
      Nói rồi, anh ta quay sang hỏi một chiến sĩ tên là Lãm:
-  Bằng này đủ chứ?
-  Ừ! Thoải mái rồi, không nên dùng quá lớn.
      Lãm là lính trinh sát của Tiểu đoàn 16, đi cùng dẫn đường cho trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng vào trận đánh này. Cậu ta có khuôn mặt bé choắt và đen nhẻm. Lãm cầm miếng bộc phá từ tay người chiến sĩ nọ, tiến vào gần cửa sắt căn nhà hầm gài ngòi nổ. Gài xong, cậu ta hét các chiến sĩ đang vây quanh mình:
-  Tất cả tránh ra xa, tìm chỗ nấp đi. Chuẩn bị cho bộc phá nổ!
      Hoàng và các chiến sĩ lùi lại. Người thì nhảy xuống giao thông hào đã đào sẵn của địch, một số khác đến ẩn trong những căn nhà hầm của lính biệt động VNCH trên cao điểm. Lãm châm ngòi bộc phá rồi chạy lại phía sau, nhẩy xuống một chiếc giao thông hào.
      Rầm! Một tiếng nổ long trời. Đất đá và khói đen tóe lên mù mịt. Cánh cửa sắt sập xuống. Khi làn khói đen loãng dần và tan hẳn, mọi người xô đến. Một mảng tường được xếp bằng các bao cát đổ sụp, căn nhà hầm hiện ra. Bên trong nào là những kiện gạo sấy, thịt hộp, các thùng rượu, bia, nước hoa quả, hàng đống thuốc lá Ru bi, Cáp tăng có hình chiến binh ở vỏ bao thuốc.  Loại thuốc này của Mỹ có pha thêm cả chất thuốc phiện, hút say và thơm ngon. Chỉ chuyên cung cấp cho lính.
      Tất cả reo lên:
-  Khuân ra đi, anh em ơi!
       Đấy là một kho hàng nhiều vô kể, chứa đầy cả một căn nhà hầm lớn. Mấy cậu quay ra cửa, gọi những anh em chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 quanh đấy đến.
      Đây chỉ là kho dự trữ – Ở các căn nhà hầm khác của lính, những thứ này cũng nhiều. Anh em bộ đội thỏa sức lấy. Các chiến sĩ mở thịt hộp và bóc những bao gạo sấy ra, nói với nhau:
-  Chén đã các cậu.
      Tất cả ăn mừng chiến thắng, vui như ngày hội. Lính là thế đấy! Chỉ ít phút trước bom đạn gầm trời, máu đổ. Còn lúc này, họ đang thưởng thức những chiến lợi phẩm của trận đánh.
-  Đồ Mỹ có khác! Bọn chúng đi đánh nhau mà cũng được cung cấp sướng như thế này? Mà đây là chúng cung cấp cho cả lính của QLVNCH, chứ ở những cứ điểm toàn lính Mỹ và quân đồng minh – Loại lính cậu! Còn được trực thăng thả xuống cả đoàn gái điếm cung cấp cho các sĩ quan. 
     Nói về quang cảnh chung của cụm cứ điểm, sau khi đã toàn thắng – Trên con đường yên ngựa từ Ngọc Bờ Biêng tới Mắt Ngỗng… về đỉnh 1001: Toàn trung đoàn 48 và các đơn vị hỏa lực đi phối thuộc, tiểu đoàn dự phòng của Trung đoàn 52 – Tất cả đều được tung ra để chuyên chở chiến lợi phẩm.
      Họ vận chuyển các kho súng đạn và hàng trăm kiện thực phẩm các loại  về tuyến sau. Người nọ giục người kia nhanh lên! Kẻ ngược, người xuôi như hội ngày mùa.
      Lúc này, trên bầu trời Ngọc Bờ Biêng khá yên tĩnh. Thỉnh thoảng cũng có chiếc máy bay trinh sát OV10 bay vè vè xung quanh. Nó cũng không dám đến gần cao điểm, vì sợ bị bắn. Từ khi chúng kéo cờ trắng đầu hàng, không còn thấy pháo bầy bắn tới. Cũng không thấy có phản lực, máy bay tiêm kích hoặc trực thăng đến oanh tạc nữa – Nhưng Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 báo xuống:                                                                                          
      “Tất cả mọi công tác tù hàng binh, thu chiến lợi phẩm, công tác thương binh tử sĩ… phải làm thật nhanh, gọn trong ngày. Theo trên cho biết: rất nhiều khả năng tối hoặc đêm nay, Mỹ sẽ cho B52 đến rải thảm hủy cao điểm”.
      Tuy vậy, các đơn vị vẫn không được chủ quan, đề phòng có máy bay phản lực đến oanh tạc, ném bom thì phải tản ra và trú ngay. Không để bị thương vong, tổn thất thêm. Cho nên lúc này không khí lại càng khẩn trương, rộn ràng.
      Trên nóc căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, ngọn cờ giải phóng vẫn phần phật tung bay trong gió. Còn trên con đương rừng từ cứ điểm về tuyến sau, những dòng người đi – lại vẫn tấp nập. Đó là những chiến sĩ đầy quả cảm trong trận đánh. Người thì vác những quả đạn pháo vàng chóe, kẻ thì mang kiện thịt hộp, có anh gánh cả hai bao tải gạo sấy, những kiện bia, nước ngọt… Giống như một cuộc hành quân của đoàn kiến: con đi về thì chất trên lưng miếng mồi to hơn cả thể xác của nó, con đến thì đi không. Chúng cộc đầu vào nhau, thúc nhau đi nhanh lên! Con nào, con nấy vội vã rảo bước.
 
                                                          *
 
     Như mọi năm vào tháng tư này thường có những cơn mưa dồn dập và dữ dội, nhưng hôm nay trên đỉnh Ngọc Bờ Biêng, bầu trời cao nguyên rất trong sáng. Nắng vàng rực trên khuôn mặt của những chiến binh trẻ tuổi, rạng rỡ sau cuộc chiến thắng. Các đơn vị bộ binh đang hối hả giải quyết chiến lợi phẩm. Họ còn củng cố lại đội hình, bổ xung quân số và đạn dược, chuẩn bị cho trận chiến mới.
      Vào lúc giữa trưa, hai vị trung đoàn trưởng gặp nhau trên cao điểm vừa được giải phóng. Ông trung đoàn trưởng E48 là một người thấp bé, có giọng nói lơ lớ người miền Trung. Ông là một sĩ quan trưởng thành từ trong chiến tranh. Chiến trường đã rèn đúc cho ông đức tính quả cảm và linh hoạt.
      Bên cạnh ông là một người đàn ông to lớn, trông hơi dữ - Đó chính là viên trung tá, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo E40. Ông có nước da đỏ tía như da gà chọi. Đôi lông mày rậm nhíu lại như một chóp nón, úp lên đôi mắt thành một hình tam giác, hai cạnh kéo dài về hai bên.
      Mắt đăm đăm nhìn về phía Thị trấn Tân Cảnh, trung đoàn trưởng pháo E40 nói với trung đoàn trưởng E48:
-  Chiến sự của toàn mặt trận diễn biến nhanh quá! Khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng thì ở Đắc Tô – Tân Cảnh, quân chủ lực của ta đã đánh tan tành vành đai ngoài, giờ đang tràn vào trung tâm của Sư đoàn 42 QLVNCH trong thị trấn rồi.
 -  … và anh đã hụt mất một miếng mồi ngon chứ gì?
      Viên trung đoàn trưởng bộ binh nói thế rồi phá lên cười. Trông ông nhỏ thó mà tiếng nói thì sang sảng. Trung đoàn trưởng pháo cười theo.
-  Kể cũng tiếc thật! Cả một kho đạn pháo lớn thế kia…
Ông đưa tay chỉ về phía kho đạn pháo của địch trên cao điểm, giải thích:
-  … với hàng trăm viên đạn pháo ấy mà được nã vào các cứ điểm trong Tân Cảnh, như kế hoạch ban đầu của Bộ tư lệnh Mặt trận B3… mới gọi là sướng tay! Giờ thì quân bộ binh của ta đang tràn vào bên trong thị trấn, không bắn được.
      Viên trung đoàn trưởng pháo khẽ thở dài có vẻ tiếc nuối:
-  Ta mà chiếm được cứ điểm này nhanh thêm chút nữa?
     Với giọng vui vẻ pha chút hài hước, viên trung đoàn trưởng E48 nói:
-  Nhưng báo cáo ngài trung đoàn trưởng pháo: Ngài cũng thấy là, ta đã chiếm được Ngọc Bờ Biêng này, nhanh hơn cả yêu cầu của Bộ tư lệnh B3 rồi?
      Trung đoàn trưởng pháo E40 xác nhận:
-  Đúng thế!... và ở Tân Cảnh, quân chủ lực đánh vào còn nhanh hơn cả ta. Dù sao thì đó cũng là điều đáng mừng.
-  Thế anh định xử dụng những khẩu pháo kia, thế nào?
      Viên trung đoàn trưởng bộ binh hỏi. Cả hai ông trung đoàn trưởng đều quay lại nhìn. Một trận địa có đến sáu khẩu pháo lớn 100ly của Mỹ đặt trên cao điểm A, mà Trung đoàn 48 vừa chiếm được. Những khẩu pháo nước thép trên nòng vẫn còn sáng bóng.
      Lúc này tại trận địa pháo đó, các chiến sĩ pháo thủ E40 đã vào thay thế. Họ đang ở trong vị trí, chờ lệnh của ông trung đoàn trưởng pháo, sẵn sàng nổ súng.
      Viên trung đoàn trưởng pháo E40 nói:
-  Tôi đã báo cáo về Bộ tư lệnh B3: vì bộ đội ta cũng không khuân chúng đi theo được, nên sẽ cho trút tất cả kho đạn pháo 100ly kia vào Thị xã Kon Tum.
      Nói rồi, ông quay người về phía bộ phận thông tin, vô tuyến ra lệnh:
-  Hãy báo cáo Ban chỉ huy mặt trận: 5 phút nữa, Trung đoàn 40 sẽ cho pháo bắn!
      Ông nói tiếp với trung đoàn trưởng E48:
-  Không kịp đánh vào Thị trấn Tân Cảnh thì ta rót vào Thị xã Kon Tum, để uy hiếp chúng. Cũng là bàn đạp dọn đường trước cho bộ đội, sắp tới sẽ tiến công giải phóng thị xã.
      Viên trung đoàn trưởng E48 nhìn đồng hồ, nói với trung đoàn trưởng pháo:
-  Vẫn đúng giờ qui định, chúng ta sẽ cùng hành quân tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, chứ anh?
-  Không có gì thay đổi.
      Trung đoàn trưởng pháo nói: “Ta so lại đồng hồ cho thống nhất.”. Cả hai ông trung đoàn trưởng đưa cánh tay đeo đồng hồ sát lại gần nhau, lấy lại giờ cho khớp. Viên trung đoàn trưởng pháo nhìn chiếc đồng hồ vỏ mạ crôm đen bóng trên cánh tay hộ pháp của mình lần nữa, rồi nói:
-  Bây giờ chúng ta sẽ chứng kiến, trận đánh thứ hai trong ngày.
      Ông quay hẳn người về phía trận địa pháo 100ly, giơ cánh tay phải lên ngang mặt ra hiệu lệnh:
-  Bắn!
      Cả sáu khẩu pháo đồng loạt nổ chói tai, khói mịt mù trận địa. Các pháo thủ, người thì điều chỉnh nòng pháo cho đúng cự ly, tầm… kẻ lắp đạn, rộn rã như một công binh xưởng vậy.
      Những chiến sĩ ở xung quanh cao điểm ùa đến. Họ vây quanh các khẩu pháo vẫn liên tục nổ ròn rã về phía Thị xã Kon Tum. Các xạ thủ của trung đoàn pháo 40 đang thực hành một chiến trận đầy khí thế hào hùng.
      Người trung đoàn trưởng bộ binh giơ tay bắt thật chặt vị trung đoàn trưởng pháo. Ông nói:
-  Giờ tôi phải về Ban chỉ huy để tổ chức lại đội hình của trung đoàn. Đúng giờ xuất phát, anh cứ cho trung đoàn pháo tiến về Tân Cảnh, chúng tôi lập tức sẽ hành quân tiếp theo.
      Nói rồi, viên trung đoàn trưởng E48 rảo bước đi về phía Mắt Ngỗng.
      Thắng lợi  trận đánh Ngọc Bờ Biêng có ý nghĩa rất to lớn trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972: Đã tạo thế để QGP đồng loạt tấn công các cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Kleng… Bởi vậy, không chỉ Ngọc Bờ Biêng thắng lớn, mà từ phía các cụm cứ điểm khác ở phía Bắc Tây Nguyên, chung quanh Thị xã Kon Tum báo về… chiến thắng đều vang dội.
      Sau đó, QGP sẽ dồn lực tràn về giải phóng Đắc Tô – Tân Cảnh. Tiến tới tập trung lực lượng đánh vào Thị xã Kon Tum cùng với Buôn Ma Thuột, là những căn cứ quan trọng, vững chắc nhất của QLVNCH và Mỹ cố thủ ở Tây Nguyên này.
      Đánh Ngọc Bờ Biêng là QGP đánh ngay vào sào huyệt, cứ điểm kiên cố của địch – làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn lúng túng, đi hết thất bại này đến thất bại khác. Đó chính là sự mở đầu cuộc phản kích của Quân đội nhân dân Việt Nam – Tạo thế tiến công phát triển, bàn đạp cho sự thắng lợi của chiến dịch toàn miền – Buộc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng, đàm phán ở Hội nghị Pa Ri.
     Ngọc Bờ Biêng là một trong những trận đánh rất ác liệt, nhưng thắng lợi ròn rã - Là những kỉ niệm máu lửa trong đời một chiến binh... sau này Hoàng còn nhớ mãi.
 
                                                   29-
 
      Để bạn đọc thấu hiểu hơn về quá trình cuộc chiến tranh trên mặt trận Tây Nguyên, cũng như toàn cục – Tác giả cuốn tiểu thuyết này xin nói sơ lược về một trận đánh, một thắng lợi có tính chất quyết định trên chiến trường trong xuân hè 1971: Đó là “chiến dịch Đường 9 – Nam Lào” (theo cách gọi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), hay là “chiến dịch Lam Sơn 719” (theo cách gọi của Chính phủ VNCH và phía Mỹ) – con số 719 được ghép từ năm 1971 và Đường 9, trục chính của cuộc tấn công.
      Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào khởi nguồn do QLVNCH tổ chức, với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ, tiến vào vùng lãnh thổ Lào quanh Đường 9, kéo dài từ biên giới Việt Lào tới Thị trấn Xê Pôn – để cắt “con đường mòn Hồ Chí Minh” từ Bắc vào Nam. Mục tiêu của chiến dịch còn nhằm phá vỡ hệ thống hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam và QGP miền Nam Việt Nam tại Lào.
      “chiến dịch Lam Sơn 719” này với Mỹ còn là một cuộc thử nghiệm về chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” – tức là cuộc thử nghiệm về khả năng của QLVNCH có thể tự chiến đấu, trong tình huống Mỹ rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam. 
      Tham gia “chiến dịch Lam Sơn 719” -
* Lực lượng Mỹ và QLVNCH gồm có:
      1.  QLVNCH – Tổng cộng 31 ngàn quân, chưa kể 10 ngàn quân dự bị hỗ trợ tuyến sau.
-  Gồm 3 sư đoàn: Sư đoàn dù, Sư đoàn thủy quân lục chiến và Sư đoàn 1 bộ binh… đều là những sư đoàn thuộc loại thiện chiến nhất QLVNCH.
-  3 lữ đoàn biệt động quân.
-  4 trung đoàn thiết giáp trang bị xe tăng M-41
      2.  Phía Mỹ, tổng cộng 10 ngàn quân.                                      
-  12 tiểu đoàn bộ binh, kể cả bộ binh sư đoàn dù, bộ binh cơ giới và bộ binh thuộc Sư đoàn Americal.
-  8 tiểu đoàn pháo binh, cỡ từ 155 đến 203mm.
-  1.200 máy bay: trong đó 800 trực thăng, 300 máy bay phản lực, 50 máy bay vận tải cỡ lớn và 50 pháo đài bay chiến lược B52.
-  Ngoài ra còn có 2 binh đoàn quân đội Hoàng gia Lào khoảng 4.000 quân thuộc 2 binh đoàn cơ động GM30 và GM33.
      Nhưng trong diễn biến của “chiến dịch Lam Sơn 719”: Mỹ đã tăng từ 10.000 lính bộ binh lên 15.000, thêm 1 tiểu đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh bảo vệ phía sau – chưa kể đến việc điều thêm 300 máy bay lên thẳng để phục vụ cho việc vận chuyển và cơ động quân lính.
      Đấy là theo công bố của phía VNCH, còn theo công bố của QGP miền và Bắc Việt: Lực lượng Mỹ và QLVNCH lúc cao nhất lên đến 55.000 quân – gồm 15 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn thiết giáp, 578 xe tăng và xe bọc thép, 318 khẩu pháo, 700 máy bay các loại.
*  Lực lượng Quân giải phóng gồm có:
      Tổng cộng khoảng 50.000 quân – Chỉ huy là Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 – Nam Lào (mật danh “Bộ tư lệnh 702”.
-  với 5 sư đoàn bộ binh
-  3 tiểu đoàn tăng thiết giáp T-34, T-54 – trong đó có 22 xe tăng lội nước PT-76
-  một số tiểu đoàn đặc công
-  3 trung đoàn pháo binh cơ giới
-  1 trung đoàn pháo mang vác 84
-  3 trung đoàn pháo cao xạ phòng không
-  3 trung đoàn công binh
-  2 trung đoàn tên lửa
      Bộ đội Đoàn 559 tổ chức 7 khu vực tác chiến tại chỗ và 8 cụm trên tâm điểm tam giác: Bản Đông – Tha Mê – La Hạp. Tham gia còn có cả lực lượng chính qui cùng dân quân Pa thét Lào.
      Xét về tương quan – Hai bên tương đương quân số, nhưng phía Mỹ và QLVNCH mạnh hơn hẳn về trang bị và hỏa lực hạng nặng: như gấp 4 lần về thiết giáp, 3 lần về pháo hạng nặng và hơn tuyệt đối về không quân.
     Ngày 29.1.1971, Tổng thống Mỹ Richard Nixon phê chuẩn lần cuối cùng đối với chiến dịch.
      Tối 7.2.1971, Tổng thống Mỹ nhận được bản báo cáo: cuộc tiến công vượt biên giới Việt Lào đã tiến hành theo đúng kế hoạch, không bị bất cứ một cản trở nào.
      8h sáng ngày 8.2.1971, Tổng thống Chính phủ VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công “chiến dịch Lam Sơn 719”… để cắt đứt “con đường mòn Hồ Chí Minh”.
      Tuy nhiên, ngay từ cuối tháng 1 sang đầu tháng 2.1971, cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã được khơi mào: 17.000 quân (sau tăng lên 21.000) VNCH đã vượt biên giới vào Lào, đi theo Đường 19 hướng về trung tâm hậu cần của QGP miền Nam / và Quân đội nhân Việt Nam tại Xê Pôn. Chúng tiến đánh các vị trí định sẵn trong kế hoạch. Do đã dự đoán được trước, QGP miền / Quân đội NDVN chủ động phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH.
       Từ ngày 1 đến ngày 5.2.1971, Tiểu đoàn 2 E272, Tiểu đoàn 3 E84 pháo binh của QGP miền / Quân đội NDVN đã đánh áp đảo quân VNCH ở các khu vực Tân Lâm, Sa Mưu, Đầu Mẫu. Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán.
      Trong hai ngày 6 và 7.2.1971, Tiểu đoàn 3 E84 pháo binh bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và sở chỉ huy tiền phương Sư 1 bộ binh QLVNCH trên hướng tây Đường 9: bao gồm các khu vực Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn thuộc tỉnh Savanakhet của nước Lào.
      Trong hai ngày 25 và 26.1.1971, Trung đoàn 48 F320 phối hợp với quân Pa thét Lào đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn đặc nhiệm, Binh đoàn GM33 QLVNCH ở Pha Lan (Lào).
      Lại nói, sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “chiến dịch Lam Sơn 719” bắt đầu vào ngày 8.2.1971 – Mở màn là các đợt bắn phá dữ dội của hàng chục trận địa pháo, gồm hàng trăm khẩu từ 105 tới 175mm, bố trí dọc biên giới Việt Lào trên một chính diện 30km, và các phi vụ ném bom B52 hai bên Đường 9 – Nam Lào.
      Tiếp theo, những cánh quân hùng hậu QLVNCH và lực lượng thiết giáp bộ binh với sự yểm trợ của không quân, pháo binh… mở các cuộc tiến công như vũ bão trên các hướng phía bắc và phía nam Đường 9 – Nam Lào, đánh vào Bản Đông, Xê Pôn, Tchepone…
      Về phía QGP miền / Quân đội NDVN – Bộ tư lệnh “Mặt trận 702” đã lệnh cho ba sư đoàn 304, 308 và 320 vào vùng chiến sự Nam Lào; Sư đoàn 2 hành quân từ phía nam tới khu vực Xê Pôn và tiến về phía đông, đón đánh các binh đoàn của QLVNCH. Chiến sự xẩy ra rất ác liệt, phức tạp trên hàng trăm khu vực xung quanh Đường 9 – Nam Lào. Thương vong và chết rất nhiều với cả hai bên, nhất là phía QLVNCH: tổn thất không thể kể hết… nhưng cuối cùng quân VNCH và Mỹ vẫn bị thất bại – buộc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Hoàng Xuân Lãm, chỉ huy trực tiếp chiến dịch phải ra lệnh rút quân. Cuộc rút quân nhanh chóng biến thành một cuộc rút chạy hỗn loạn. Đó là những giờ phút bi thảm nhất với một đạo quân chủ lực đặc biệt tinh nhuệ của VNCH, thực hiện cuộc hành quân Lam Sơn 719 thảm bại.  
      Những binh lính sống sót của QLVNCH về được miền Nam Việt Nam vào ngày 23.3.1971 – 45 ngày kể từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến khi kết thúc.
      Theo QGP miền Nam / Quân đội NDVN tuyên bố: Chiến dịch phản công của họ kết thúc thắng lợi sau 45 ngày chiến đấu, đã diệt được:
-  2 lữ đoàn (Lữ đoàn dù 3 và Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến)
-  1 trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 1 Sư 1) và 5 tiểu đoàn khác (Tiểu đoàn 39 biệt động quân + Tiểu đoàn 8 Lữ dù 1 + Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 3 + Tiểu đoàn 2 và 4 của Trung đoàn 4)
-  4 thiết đoàn (4,7,11 và 17)
-  8 tiểu đoàn pháo (3 tiểu đoàn pháo Sư 1 + 2 tiểu đoàn pháo sư đoàn dù + 1 tiểu đoàn pháo Lữ 147 + 1 tiểu đoàn pháo của biệt động quân + 1 tiểu đoàn pháo Lữ đoàn kỵ binh không vận).
-  Đánh thiệt hại nặng Sư đoàn dù, Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn Thủy quân lục chiến.
-  Bắn rơi, phá hủy hoặc thu giữ 556 máy bay (có 505 máy bay trực thăng); 43 tầu xà lan; 1.138 xe quân sự (trong đó 528 xe tăng và xe bọc thép); 112 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn.
      Theo một tài liệu của Chính phủ VNCH thống kê, con số thương vong của QLVNCH là: 1.529 chết, 5.483 bị thương và 625 mất tích, ngoài ra còn có 1.142 bị bắt.
      Tuy nhiên, theo tài liệu của Quân đoàn XXIV Hoa Kỳ (đơn vị tham gia hỗ trợ chiến dịch) thì, con số thương vong của QLVNCH còn cao hơn nhiều: lên tới 8.483 chết, 12.420 bị thương, 691 mất tích.
*  Quân đội Mỹ: 215 chết, 1.149 bị thương, 38 mất tích – 168 trực thăng bị bắn rơi và 618 chiếc khác bị bắn hỏng.
*  Quân giải phóng: Theo số liệu QGP miền / và Quân đội NCVN – thương vong của họ trong chiến dịch là 2.163 chết, 6.176 bị thương.
      “chiến dịch Lam Sơn 719” là một cuộc hành quân thiệt hại nặng nề nhất đối với QLVNCH, cũng là sự thất bại thảm hại của Mỹ: chẳng những không cắt đứt được Con đường mòn Hồ Chí Minh vượt qua Trường Sơn – qua ba nước Đông Dương vận chuyển vào miền Nam Việt Nam của quân đội Bắc Việt chi viện cho chiến trường.
      Nếu xét về phương diện – là một cuộc thử nghiệm “Việt Nam hóa chiến tranh” trong ý tưởng chiến lược của Mỹ, hoàn toàn bị suy sụp.
     Một tướng Mỹ sang giám sát tình hình, đã nhận xét:
      “Chiến dịch Lam Sơn đã phá hủy mất phần tinh nhuệ nhất của QLVNCH và trở nên nghiêm trọng, bất lợi hơn nhiều so với điều mà người ta tưởng lúc đó. Việc điều khiển chiến dịch của chúng ta rất tồi. Toàn bộ vai trò chỉ đạo yểm trợ của Mỹ không hoàn tất được, vì sự quan liêu của Lầu Năm Góc… Đây là một thử thách thực sự của chương trình “Việt Nam hóa”. Lầu Năm Góc đã từ chối không để người Mỹ tham gia vào chiến dịch. Sự yểm trợ mà Nam Việt Nam đã quá quen thuộc và đang mong đợi được tiếp tục, đến đây đã bị cắt đứt…”.
      Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đánh giá: “Đem một đội quân quen lệ thuộc phần lớn vào quân đội khác về chỉ huy, về vũ khí và ngay cả chiến lược để nhào nặn thành “mới”, và tách ra độc lập tác chiến như kiểu Lam Sơn 719, rất khó mà địch nổi đối phương.”.
      Nếu xét về phía Mặt trận giải phóng miền Nam:
-  Ảnh hưởng kết quả của Lam Sơn 719, kể cả đối với mặt trận Tây Nguyên và toàn chiến trường, theo đánh giá của Mỹ:
      “chiến dịch Lam Sơn 719” làm kế hoạch tấn công các tỉnh phía nam giới tuyến của QGP miền Nam / Quân đội NDVN bị chậm lại một năm, nhưng về cơ bẩn: đường vận chuyển tiếp tế lương thực, vũ khí, quân lương của họ từ Bắc vào toàn chiến trường, hệ thống không bị hư hại. Số chuyến xe vận tải tăng lên ngay sau khi chiến dịch kết thúc.
      Đầu năm 1972, lực lương QGP miền / Quân đội NDVN đã tích lũy đủ đạn dược, và lại tung ra một trận tổng tiến công nữa: “chiến dịch xuân hè 1972” – Cuộc hành binh Lam Sơn 719 đầy tham vọng của Mỹ và Chính phủ VNCH đã bị thất bại hoàn toàn.
 
                                                                              HẾT TẬP MỘT
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2018 12:36:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 14 của 18 trang, bài viết từ 196 đến 210 trên tổng số 270 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9