(URL) KỊCH và các TIỂU PHẨM VĂN XUÔI của PNT
Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 18 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 270 bài trong đề mục
Nhatho_PhamNgocThai 18.04.2009 12:10:06 (permalink)
.


     Tình cảm đau đáu về một người mẹ già nghèo nhưng rất thương con đã in đậm nét trong suốt cuộc đời thơ anh. Trong cả 3 tập thơ, tập nào ta cũng thấy mỗi khi nói về mẹ dường như trái tim anh thắt lại. Thơ lắng sâu, cồn cào da diết với những kỷ iệm thân thương:

Tuổi thơ con thoáng đâu đây nhớ
Nhớ bàn tay mẹ khuya gầy gió đông...

                          
(Nhớ bàn tay mẹ)

Rau muống ao mẹ thái phơi khô
Đồng hai vụ trông vào hạt thóc
Sóng xô trên gương mặt mẹ bao giờ.

                        
  (Làng quê tôi)

Ở tập "Chân trời mới thắp" anh cũng thốt lên xót xa:

Ai ví tuổi già nuối bóng hoàng hôn
Mẹ ốm luôn giá sương ngậm buốt
Con đánh dậm sục bùn góp mua thang thuốc

                        
  (Mẹ-Làng quê)

Còn ở tập "Thời tôi biết" ta lại bắt gặp hình ảnh về một người mẹ mà cuộc đời gắn liền nơi đồng lúa:

Đêm mưa trắng đồng mẹ không nằm yên chỗ
Vuốt lá lúa đầu hồi cơn ho kéo tàn canh...
Mẹ bấm chân ngoài cửa khuya chắp tay vái vô biên.

                       
  (Mẹ)

Có lẽ bởi những tình cảm máu thịt về nơi chôn rau cắt rốn, cùng với cảnh tình sinh động chốn thôn quê, đã tạo thành trong "Dáng thơ quê" của anh rất nhiều những câu thơ hay, sống động mà vẫn xúc tích:

Tiếng ếch duềnh trời ran bờ đất
Lá tre sũng ngõ nhà, ao bèo lụt vây quanh
Nắng hoa bưởi ngõ lay trắng muốt


Hay là:

Con vịt trời ngơ ngác về đâu?
Xoay chiều gió, cơn mưa đang dồn xuống...


Những bài thơ sau này Vũ Xuân Hoát đi vào việc cắt gọt, tỉa thơ nhiều quá, Đảo chữ ngược chữ xuôi cho lạ, một số bài rơi vào sử dụng câu chữ thơ tới mức độ cầu kỳ, có phần bị sáo. Nó hạn chế cả việc diễn đạt xúc cảm trong anh. Rồi có khi vì cố lấy được chữ thơ "thật mới", thật kỳ mà bỏ mất ý đẹp, những câu thơ hay không còn được thấy như trước nữa. Thú thật tôi vẫn yêu tập thơ "Cơn giông Hồ Gươm", là tập thơ đầu tiên của anh hơn cả: Tình thơ ăm ắp chất đồng quê, thơm thảo hương vị nông thôn mà lại rất máu tim.

Tôi yêu cái bình dị cùng phong điệu khá nhuần nhuỵ, mềm mại của thơ anh - Cũng chính là cái tập thơ đầu tay mà Vũ Xuân Hoát đã viết... khi vẫn là một chàng trai quê nghèo, lạ lẫm nơi đô thị, đêm đêm lang thang trên các bờ hè có hàng me, hàng sấu, có mùi hương hoa sữa của phố phường Hà Nội. Ừ thì có vẻ hơi cổ hơn thơ sau này của anh thật đấy... Nhưng chắc gì "tân" hết thảy đã toàn hay!?

                                                             Phạm Ngọc Thái
    
#91
    Nhatho_PhamNgocThai 08.05.2009 13:18:55 (permalink)
    .

              BÌNH MỘT BÀI THƠ TỰ THÁN


                             KIẾP XƯA


    Có lẽ ngày xưa mình là cá
    Nên giờ khát lắm đại dương ơi!
    Một đời mắc cạn không luồng lạch
    Ngửa mặt nhiều khi muốn hỏi trời.
     
    Có lẽ ngày xưa mình là chim
    Suốt đời vỗ cánh vẫn không yên
    Hồn còn theo mãi làn mây bạc
    Bên cánh Hải-âu vẫy khát thèm.
     
    Hay là kiếp trước mình thi sĩ
    Toàn mơ mộng hão vẫy vùng chơi
    Chả thế hơi thơ vừa run rẩy
    Lòng đã rưng chực khóc rồi.
     
                             CHỬ VĂN LONG
                (Rút trong tập thơ "Ru những trăm năm" của tác giả)


       Có một lần, vào một đêm nỗi niềm trăn trở không yên, xa xót với nỗi đời của một nhà thơ, Chử Văn Long đã viết một "Kiếp xưa". Tư duy thơ có dáng lạ:

    Có lẽ ngày xưa mình là cá
    Nên giờ khát lắm đại dương ơi!
    Một đời mắc cạn không luồng lạch
    Ngửa mặt nhiều khi muốn hỏi trời.
     
    Nói "cá" chỉ là mượn nghĩa ẩn để tác giả tự bộc bạch về bản thân, tình thơ vẫn tự nhiên đã thấm được vào ta. Khẽ quặn đau trút ra như hơi thở, toát lên tâm tư nỗi lòng của nhà thơ. Xem ra: Mới đầu trong cảm xúc ban đầu để viết bài thơ này không do lý trí của tác giả, mà chỉ bởi một ý nghĩ siêu nhiên nào đó... Nói "đời bị mắc cạn không luồng lạch"  là bộc lộ trạng thái mâu thuẫn của tư tưởng, giữa mong muốn và thực tiễn, hay khát vọng với sự chưa thoả mãn trong nhân quả cuộc đời. Hai chữ "mắc cạn" nó nói về sự chi phối bởi khách quan mà khả năng chủ quan dễ gì có thể vượt qua? Còn:

    Ngửa mặt nhiều khi muốn hỏi trời

    Bởi giây phút xúc động ấy - Nhà thơ đã rơi vào tâm trạng hơi cực đoan, anh bối rối về sự lý giải... Lời thơ không đại ngôn, từ tâm mà trào ra, từ đời thực để đưa vào trong thơ.

    Khổ thơ thứ hai chuyển sang cách ví "chim":

    Hồn còn theo mãi làn mây bạc
    Bên cánh Hải-âu vẫy khát thèm...

    Ở đây là sự "khát thèm" trước xa rộng, thanh cao... nên nhân cách thơ không vì thế mà bị nhỏ đi! Huống chi: Hồn kia còn theo đuổi cả làn mây bạc, tư tưởng thơ đã được đẩy lên một bậc, mang thơ bay cao hơn.

    Phát triển của hai khổ thơ đầu - Tuy để bộc lộ mâu thuẫn nội tâm của tác giả, nhưng nó biểu thị một tình cảm sống luôn vươn tới: Hồn còn theo, lòng vẫn khát... Thơ tả trần tình với cách nói ví. Lúc đầu có vẻ vô tình tác giả buột ra viết, sau đó lại được thơ!

                                  
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2009 16:47:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
    #92
      Nhatho_PhamNgocThai 17.05.2009 16:46:57 (permalink)
      .


            Đến khổ thơ cuối - Trở về với chân dung người thi sỹ. Chính sự trở về với bản thân làm cho hình ảnh ví von "cá, chim" kia trở thành có lý! Tôi nói có lý vì đó là đặc thù riêng trong thi pháp của thi ca. Cảm động nhất bài là hai câu thơ kết:

      Chả thế hơi thu vừa run rẩy
      Lòng đã rưng rưng chực khóc rồi.


      Không phải chỉ là "chực khóc", mà có lẽ trong lòng nhà thơ đã khóc rồi!... Ta tự hỏi: Kiếp cá, kiếp chim hay một kiếp gì nữa, liệu có kiếp nào phải trăn trở nhiều hơn cái kiếp của nhà thơ? Tất cả sự trần cảnh trong mười câu thơ đầu ấy, là nguyên nhân đẩy đến là để bật nấc lên của hai câu thơ cuối này.

      Lời thơ được đẫm trong hồn, rơi lệ nhỏ lên trang giấy trắng, rồi lại tự trang giấy trắng thơ bay ra mà thấm vào ta. Hai chữ "hơi thu" âm hưởng tuy chỉ nhẹ, ngọt, ngỡ như thoang thoảng tựa vô vi... nhưng lắng sâu trong nỗi của nó có thể làm xao xuyến tâm can. Thi nhân Xuân Diệu từng viết:

      Để hồn ràng buộc với muôn giây...

      Giọt lệ ấy có yếu lòng nhưng không yếu hèn. "hơi thu" trở thành hình ảnh tượng trưng nho nhỏ cho một mùa xanh mát, trong lành của thiên nhiên tác động đến con người, nó vừa tạo ra tiếng nhạc, đồng thời tình lại khăng khít với câu thơ dưới:

      Lòng đã rưng rưng chực khóc rồi...

      Chúng lay động nhau, thể hiện tâm trạng trung thực. Nếu ta cùng trăn trở trong tình cảm của tác giả. ta sẽ hoà đồng được với nỗi buồn thấm tháp và sâu xa của tình thơ.

      "Kiếp xưa" - Là một bài thơ mang tính tự sự về một đời thơ! Dung lượng chứa không phải là một bản thống kê các sự việc, mà là tiếng chuông lòng rung nga... từ một trái tim đau!...

                                                            Lời bình - PNT
      #93
        Nhatho_PhamNgocThai 10.06.2009 12:15:49 (permalink)
        .

                BÌNH LUẬN TÁC PHẨM THI CA


                                   ĐỌC "NHEO MẮT NHÌN THẾ GIỚI”
                                       CỦA BẰNG VIỆT
                                                                      
        (Nhà xuất bản Văn học 2008 )

                                                                                  

                                                                                                          Phạm Ngọc Thái
                                                                    
               
             Tập thơ cả thảy gồm 39 bài, hầu hết đều được sáng tác khi Bằng Việt (BV) đã ra ngoài tuổi lục tuần. Như Ông đã viết:

        Người đàn ông đã đến tuổi buồn
        Đã đến tuổi không còn gì để nói

        Hay là:

        Người đàn ông đã đến tuổi gàn
        Đã đến tuổi không còn gì để mất
                                (Không đề)

        Nhưng đọc cả tập thơ thì ta lại thấy, đó là một BV có sự chiêm nghiệm hết sức sâu sắc và rất đời.
              
        Tôi xin phân tích bài thơ  “Sự kiện tày đình” - Chỉ là câu chuyện về pháp luật: Cấm đăng ký xe, xong rồi, cũng pháp luật... lại bỏ lệnh đó, cho đăng ký xe thoải mái ! Ông muốn chỉ trích sự méo mó, ẩm ương đến nực cười của một lớp quan chức đương thời - Những người làm pháp luật ! Đó là một BV với tư tưởng của một trí thức mới, trí thức lớn! Mặc dù chính bản thân Ông không chỉ là một văn nghệ sĩ, lại cũng đương là một quan chức. Ngòi bút , thơ Ông vẫn đang góp phần làm trong sáng cho đời. Bài thơ mang tính hiện thực phê phán sâu sắc, Ông viết:

        Mình tự trói tay mình, rồi lại cởi ra
        Tự biểu quyết xong, lại tự chê mình phạm vào hiến pháp !

        Hay là:
        Khi quyết đáp, cũng viện đủ lý do quyết đáp
        Khi huỷ đi, lại cười trừ: "Chưa hợp lòng dân !"

        Thực tế ở xã hội ta trong số năm qua, không biết bao nhiêu thứ kiểu thay đổi chủ trương pháp luật tạm bợ như thế. Ông đã chỉ thẳng, vạch ra những người làm pháp luật nửa mùa...đầy quan liêu, cửa quyền và giọng lưỡi kiểu gì cũng uốn được. Đó là điển hình của một bộ phận quan chức chúng ta hôm nay chăng?
               
        Cũng để nói về những thứ người đã lỗi thời, tôi xin phân tích sang bài " Ngô đồng " thì ta lại càng thấy rõ:

        Thất vọng với ngàn xưa hay thương xót ngô đồng
        Trót được tôn quá cao, đẩy mãi vào lịch sử
        Để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá
        Lưu luyến thưở vàng son xa lạ với đời thường !

        Giọng thơ trữ tình nhưng chua chát. Sự chỉ trích vẫn ngả về phía tầng lớp " mũ cao áo dài ", chứ không chất vấn thường dân. Bài thơ đã lấy "cây ngô đồng " làm biểu tượng: Thất vọng với ngàn xưa?... Hay thương xót ngô đồng?.../ - Bởi ảnh hình những "cây ngô đồng" đó , ngày nay chỉ còn là một thứ:

        Chậu cảnh rẻ tiền, bầu cây thô tháp
        Lá nhăn nhúm răng cưa, xoè rẻ quạt...

        Nhưng vì nó đã được tôn lên quá cao, sơn những lớp sơn bóng nhoáng mà đẩy mãi vào lịch sử, để đến nỗi hậu duệ giờ thoái hoá !? Thật mỉa mai, thế mà vẫn còn tự ru ngủ chính mình bằng những hư ảo. Cố bám vào lớp bóng vàng son, của những niềm vinh quang cũng được tô hào nhoáng lên kia... mà lưu luyến.
              
        Bài thơ mang giá trị nhân văn cao, ý nghĩa phủ định sâu sắc. Ông đứng hoà đồng vào tình cảm của lớp người tri thức mà phân tích và phê phán những ung nhọt trong xã hội đương thời.     
            
        Còn trong bài " Nheo mắt nhìn thế giới ",  mà cái tên đề cũng được lấy đặt cho tập thơ của Ông - Ở trên cao 3.000 mét Ông nhìn xuống:

        Nheo mắt vì rợn ngợp
        Nheo mắt vì bất cần

        Ông "rợn ngợp" vì cái mênh mông , vô tận của vũ trụ kia? hay vì cả thế giới đầy những sự kiện khổng lồ, kỳ tích, nhưng cũng bao nhiêu sự rối rắm của thời thế, con người ?
           
        Vì sao lại "bất cần" ? Ông bất cần vì đã chán cái thế thời còn quá nhiều giả tạo, đen bạc này chăng ? Cho nên tác giả mới viết:
                              
        Có thể đầy phấn khích
        Có thể đầy phân vân...
            
        Tôi nhớ trong một bức tranh lớn nổi tiếng của danh hoạ Pháp Henri Paul Gauguin (1848-1903), có một cái tên đề rất dài đại thể là: Chúng ta là ai? Đang ở đâu ? Và chúng ta sẽ đi đến đâu đây ? - Có nghĩa là, thế giới này đang đi về đâu?  Và chúng ta sẽ đi đến đâu ?...Nhân sinh quan của nhà thơ trong bài thơ này, có lẽ chính là ở câu hỏi đó ! Hơn thế, về một phương diện nhất định, nó đã và đang phủ nhận sự tồn tại như của thế thời mà chúng ta đang sống hôm nay .
              
         " Nheo mắt nhìn thế giới " là một bài thơ mở ra - Nó mở cái gì ? Nó mở ra một câu hỏi: Ta là ai ? Ta đang ở đâu ? Và ta sẽ đi đến đâu đây ?... Hoặc là gần như thế. Nhưng tác giả không mở to mắt, mà chỉ... "nheo mắt" nhìn. Bởi "bất cần" rồi mà ! Ta hãy nghe hai câu thơ cuối cùng, để thấy cả thái độ và tình cảm của Ông:

        Hay nhuốm màu khinh bạc
        Hay chan hoà bao dung ?!...
               
        "Khinh bạc" chỉ là đặt ra câu hỏi đó thôi, chứ bao trùm trong tác giả là một tấm lòng nhân bản, mà thực tế  luôn luôn là một sự phấn khích và bùng nổ ở trong Ông. "Khinh bạc", chẳng qua đó  chỉ là ý thức phủ nhận  về những cái cổ hủ, lỗi thời, nhưng lại đang chi phối cả cuộc sống, xã hội , con người.
           
        Sang bài “ Ngôn ngữ và chính trị” -  Ở đây tác giả dùng hai biểu tượng ngôn ngữ và chính trị, bộc lộ cái nhìn thời cuộc của nhà thơ.
             
        Khi Liên Xô còn vững, nước Nga trở thành "thành trì" trung tâm trong khối XHCN của thế giới ! Nhưng lúc Liên Xô bị sụp đổ, thì đến cả cái tiếng Nga cũng không ai muốn dùng. Thứ ngôn ngữ để chuyện trò, trao đổi giữa con người trong xã hội ấy... trở nên bị ghẻ lạnh, hắt hủi. Thứ tiếng của một dân tộc lớn, thế mà nay thế giới coi thường nó !? Ngay ở Việt Nam : Đã qua cả một thời từng tôn sùng "người anh cả" ấy ! Khi đó lúc nào cũng ca ngợi, nào là Liên Xô vĩ đại! Liên Xô ở trong lòng Việt Nam!... Ấy vậy mà,  khi Liên Xô thất thế rồi, chẳng ai buồn học cái thứ tiếng ấy nữa.  Thậm chí đến đài truyền hình cũng dùng "tiếng Nga bồi". Ông phải than lên rằng:

        Ngôn ngữ tội tình gì ?
        Mà dâu bể khó lường, mà giậu đổ bìm leo ?
        Hay cũng nhiễm thói đời, như đồng tiền đen bạc
        Lúc thắng thế vung vinh, lúc tủi phận bọt bèo ?!
            
        Ông cảm thấy chua chát. Ông đau cho dân tộc Nga, trong cái vòng "luân lửa của chính trị" này, như thói đời " Được làm vua, thua làm giặc, như đồng tiền đen bạc đó thôi !
              
        Giờ xin nói về bài thơ “Rượu của Nguyễn Cao Kỳ” - Hơn 30 năm sau chiến tranh, Nguyễn Cao Kỳ từ Mỹ trở về Việt Nam thăm quê, có tặng cho vị thiếu tướng công an một chai rượu. Vị thiếu tướng này mang ra cho anh em uống. Mọi người thì vui vẻ: Ồ, rượu ngon thì cứ uống ! Đâu cần cố chấp mãi chuyện xưa.
              
        Nhưng một người thì nhất quyết "không" !
              
        Đấy, câu chuyện nhà thơ diễn tả lại chỉ có thế. Bài thơ đặt ra trước chúng ta một câu hỏi: Chiến tranh qua lâu rồi, trong chúng ta những người ở hai chiến tuyến, có nên giữ thái độ hận thù và mặc cảm nữa hay không ? Một câu hỏi không phải dễ trả lời!
               
        Nhưng đọc lên ta thấy cũng phân vân: không thể trách những người bỏ qua tất cả, cứ uống tràn, nhưng cũng không thể trách anh chàng nhất định không chịu uống kia? Chỉ vì đó là chai rượu của một kẻ thù xưa - Tướng Nguyễn Cao Kỳ! Thành ra:
                        
        Bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót
               

        Thấm tháp trong lòng thơ ta thấy một nỗi đau dân tộc, nó như khoáy lại một vết thương, vẫn không sao lành lại được. Đọc xong bài thơ bản thân tôi cũng không biết nên như thế nào? Quên hết đi ư, mà uống:

        Vì sao không? Chẳng cố chấp quá ư?
        Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều cựu chiến binh cả chứ !
        Cũng bon đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử
        Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù !

        Nhưng rượu dù ngon, mà sao vẫn đắng? Thế đấy! Sự đời, chuyện đất nước, chuyện con người, ta  không thể không trăn trở:
                         
        Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm ?
        Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa,
        Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ,

        Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa....
             
        Thái độ của nhà thơ: Ông trung thành với hiện thực. Nghĩa là tác giả giữ thái độ khách quan, với ý nghĩ của những nhân vật trong sự việc mà mô tả. Ông chỉ đặt ra câu hỏi, chứ không ngả về thái độ phê phán ai, hay lên tiếng ủng hộ ai - Để cho chúng ta tự suy xét, tự tìm cách cư xử như thế nào cho đúng hơn!
               
        Nhà thơ đã thành công khi xây dựng thiên đời sử này.
             
        Tôi bình tiếp một bài thơ giễu đời ” Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông” - Bài thơ chế nhạo những kẻ hợm hĩnh ở đời. Đó là những kẻ ngu dốt, kệch cỡm, lại luôn luôn muốn lên mặt dậy đời. Mục đích của tác giả không có ý bôi xấu, hoặc chế giễu những người bị khuyết tật, như Ông đã viết:

        Không phải ngọng bẩm sinh
        Chúng đánh lưỡi, chúm môi... dần hoá ngọng 

        Ta có thể hiểu, đó là Ông muốn bài bác một lớp quan chức dốt nát thời nay, hợm đời như phường trưởng giả học làm sang.
             
        Sợ đời chê mình "dốt", nên luôn cố ý tỏ ra trịnh trọng, nào " đánh lưỡi, chúm môi...", nào đọc những bản diễn văn cho kêu, lên mặt dậy đời đạo lý, lẽ sống  và cứ thế dần dần chúng..."hoá ngọng"! Ngọng cũng chỉ là một biểu tượng , tác giả dùng để ám chỉ đó mà thôi. Có khác nào , Tú Xương cũng đã từng giễu cợt những phường như thế ở thời xưa:

        Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
        Đứa thì mua tước đứa mua quan
        Phen này ông quyết đi buôn lọng
        Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng 

        Đọc bài thơ của BV ta thấy cả sự nực cười và chua chát:

        Càng tới chỗ miếu đường linh thiêng
        Ngọng càng lên cao giọng!
             
         Miếu đường linh thiêng " ở đây có thể là những việc to tát,  quan trọng như " Quốc gia đại sự"... Những kẻ quan ngọng ấy  càng tỏ ra oai vệ, càng lên cao giọng - Thì chúng lại càng ngọng, ngọng đặc quánh lại. Người đời bây giờ biết nhiều loại "quan ngọng" như thế lắm!  Mà khi cái chất ngọng đã thành thâm căn, cố đế trong bọn chúng rồi, thì chúng càng phồng mang, trợn mắt tỏ vẻ hay ho? Bởi vậy:

        Người đời thích nhìn chữ nghĩa thẳng hàng
        Thì ngọng trợn mắt méo mồm đọc ngược !...
             
        Bài thơ vẫn mang giọng của dòng thơ trữ tình, tác giả chỉ pha chế thêm những ngôn ngữ có tính chất mỉa mai, trào lộng  chốn dân gian.  Ý  tứ cô đúc,  thấm tháp nỗi sâu cay gây cảm xúc cho người đọc. Nghĩ sâu trong thơ có thể làm ta cười  chảy nước mắt.
               
        Tôi nói sang bài " Người của thế kỷ trước ".
            
        Bài thơ nói về những gương mặt đại diện, đặc trưng cho một thế kỷ đã qua đi. Thế kỷ đó đã khép lại, song những con người cũ càng, thậm chí là đã quá "cũ rích" của thế kỷ đó vẫn đang ngật ngưỡng phán xét, điều hành và chi phối ở trong thế kỷ mới này:
                         
        Anh đầy khôn ngoan, đầy so đo, đầy tránh né,
        Anh sống đến hôm nay, dương dương tự đắc,
        Nhưng than ôi
        Anh vẫn là người của thế kỷ khác rồi !

             
         Hoặc là:

        Anh bình giá mọi điều bằng cái nhìn khinh bạc
        Anh đứng trên mọi điều để xét nét thời gian...

        Thế kỷ cũ đã qua cũng đầy dữ dằn, bão bùng, có đi  và có đến! Nhưng những con người đó vào thời đại mới này, bóng của họ chỉ còn là những ảo ảnh:

        Tôi ngồi uống với anh như uống cùng ảo ảnh
        Uống cùng bao nhiêu khát vọng không thành...

        Nhưng khốn nỗi "ảo ảnh" ấy vẫn đang cố tình bành trướng ngang nhiên, tỏ ra như là mẫu mực của thế kỷ này:

        Vẫn nói, vẫn cười, vẫn ăn, vẫn uống
        Vẫn cao ngạo, tự tin, điềm tĩnh
        Nhưng trên gương mặt anh đã có gì khuất lấp..
             
        Bài thơ vừa mang một giá trị hiện thực sâu sắc, còn bộc lộ tính nhân văn cao, trong cách nhìn mới! Phải chăng nó cũng nằm trong cái chủ đề tư tưởng chính của toàn bộ tập thơ " Nheo mắt nhìn thế giới " của Ông. Giọng thơ chỉ thủ thỉ tâm tình, nhưng thái độ trong thơ thì thật là quyết liệt và khách quan!
             
        Tuy  còn muốn phân tích một số bài khác cũng khá hay và sâu sắc như: Nhà hát lớn, Bài học từ cây, Phim về Lý Công Uẩn...Nhưng khổ báo có hạn. Để khép lại bài viết này, tôi chỉ xin bình thêm một bài thơ tình nữa của tập, đó là bài “Mưa cao nguyên” .
             
        Chỉ là một lời hứa thoáng qua của người chiến sỹ trong chiến tranh, vậy mà:
                         
        Một lời hứa chưa nên, khiến suốt đời dai dẳng...
             
        Cô thanh niên xung phong khi ấy cứ nhớ mãi... đến nỗi thành:

        Yêu hết sức thiêng liêng, hứa quá chừng sâu nặng !

        Thế là, cái lời hứa thoáng qua trên đường đi giết giặc của người chiến sỹ đã trở thành ý nghĩa, hy vọng của cả cuộc đời con gái, ăn sâu vào trái tim cô! Và:

        Bóng râm ngủ quên trong một câu đùa...
        Trong câu đùa để ngủ quên hạnh phúc
        Lời hứa hẹn yên hàn ngủ quên trong chiến tranh...

        Bài thơ thắc thỏm, vừa đáng yêu vừa gieo vào lòng ta một nỗi đau.. với tình yêu thiết tha của người thiếu nữ trong chiến tranh đã không được đền đáp ! Ngẫu nhiên từ câu "hứa đùa" hồn nhiên, có thể là cả lời hứa thật, nhưng chiến tranh đã phá vỡ những lời hứa ấy không thành sự thật. Những người con gái đó lại trở thành hình bóng  của những chinh phụ năm xưa.          
             
        Những giọt mưa, những trận mưa cao nguyên...ngày đêm, năm tháng tầm tã, mưa mãi trong cuộc đời mòn mỏi, ngóng trông của người thiếu nữ. Cứ day dứt, day dứt cứa vào ta chảy máu! Dẫu hoà bình đã lâu rồi, mà cái ngày ấy cũng như bao ngày tháng thường tình khác của cuộc chiến tranh xưa:

        Ngày nhẹ nắng. Trời mù sa lất phất.
        Mưa cao nguyên chợt bay rồi chợt tắt..

        .Đó là lỗi của người chiến sỹ đi qua buông câu "hứa đùa"? Hay bởi những người con gái đã ôm quá nặng vào lòng mình một tình cảm sâu sắc, thân thương quá ...mà phải chấp nhận bằng cả đời mất mát, âm thầm trong nỗi cô đơn? Nhưng không, đó chẳng qua cũng là kết cục tất yếu của chiến tranh! Những thân phận đáng yêu, đã hy sinh cả tuổi thanh xuân đẹp nhất cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, của đất nước, mà cuộc đời phải chấp nhận bẽ bàng !
              
        Bài thơ như những nốt nhạc réo rắt, buồn buồn gieo mãi và bay xa, vừa êm ái ru ta vừa trích sâu vào làm tan nát lòng ta…                                                                                        
                                                                            
                                                                                   PNT.
                                         (Đã đăng trên Tạp chí Diễn đàn số tháng 5/2009
                                            của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam)
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2009 12:36:43 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
        #94
          Nhatho_PhamNgocThai 30.06.2009 12:11:03 (permalink)
          .


                         BÀN VỀ THI PHÁP THƠ HÀN MẶC TỬ
                                 QUA "MÙA XUÂN CHÍN"


                                     ( Bài này được tác giả sửa lại để đăng trên
                               Tuần báo Văn nghệ của HNVVN trong những số tới )



                                                                       PHẠM NGỌC THÁI
                                                      
                " Mùa xuân chín " được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử ( đề mục Hương Thơm ). Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: "Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói". Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:
                         

          Trong làn nắng ửng khói mơ tan
          Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
               

          Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn còn mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm tình của thi nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
                        

          Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
          Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
               

          "...tà áo biếc" ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu "sột soạt". Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ thì hiu hiu, vi vút... gió to sẽ rít lên ào... ào...
              

          Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu "sột soạt" như thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo... reo... thôi. Hai tiếng "sột soạt" như tiếng của những tấm áo cánh mỏng , mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)!  Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì "gió trêu"; âm thanh "sột soạt"; còn giàn thiên lý lại được ví như "tà áo biếc"... Thành thử, thơ tả thực mà rất sống động.
              

          Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý và gió... hòa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành "bóng xuân sang". Sang đoạn thơ thứ hai:
                         

          Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
             

          "cỏ" gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đã hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- "xanh rợn" là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Còn "sóng cỏ xanh tươi" trong câu thơ HMT : thì màu xanh đã lả lướt để "gợn tới trời " chứ không " rợn" như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời... nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
                         

          Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
          - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
          Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...

               

          Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy... có kẻ lấy chồng, theo chồng - sẽ không còn sự vô tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói: "bỏ cuộc chơi"/- Nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lòng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót . Bệnh tật đã không cho  Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy... như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc... với Ông, cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / -  Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:
                        

          Hổn hển như lời của nước mây...
          Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
          Nghe ra ý vị và thơ ngây...

               

          Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây "hổn hển" đâu, chính là lòng thi nhân đang hổn hển!..
               

          Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà HMT đã  ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX  sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: Tương ứng cảm quan và Tương ứng trí năng!
              

          Về thuyết "Tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập "Những bông hoa ác" nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đã từng định nghĩa trong "Tương ứng", một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
                        

          Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
                                                                          những cột sinh linh

          Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
          Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
          ... Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.

               

          Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ... 
                

          Thuyết "Tương ứng trí năng" - Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết "Tương ứng trí năng" của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
               

          Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng: "Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire…"! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng "Tương ứng cảm quan" của Baudelaire.
               

          Trở lại với  Mùa Xuân Chín - Những câu thơ: "hổn hển như lời của nước mây", "tiếng ca vắt vẻo", "sột soạt gió trêu tà áo biếc", rồi cả đến câu thơ cuối cùng "sông trắng nắng chang chang"...đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ :Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
                         

          Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
          Đợi gió đông về để lả lơi...
              

          Hay là:
                         

          Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
          Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
               

          Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta còn thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng "trúc" ở đây, với hình ảnh "lá trúc" trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
                         

          Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

               
          Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
                        
          Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

          Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
          - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
          Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

               
          Sắc điệu "...trắng nắng chang chang?" vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuý là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
                
          Cũng đã nhiều nhà bình luận đã bàn về hình ảnh "chị ấy" trong bài thơ là ai? Người thì nói: "chị ấy" là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?...Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi ký "Nhớ Hàn Mặc Tử"  của anh Nguyễn Văn Xê, người đã chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh, cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, kể rằng: 
           
          -  Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau... mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh... Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
               
          Phải chăng người
          "chị ấy" trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, còn trắc ẩn cả tình làng và đây đó quấn quít đôi chút lòng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh tình qua cảm xúc... đã dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về  "khối tình đời" độc đáo và hoàn bích./.
           
                                                                                                       PNT.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2009 12:36:28 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
          #95
            Nhatho_PhamNgocThai 09.07.2009 12:30:18 (permalink)
            .


                      Trong số báo "Người Hà Nội" vừa ra hôm nay - Tôi có cho đăng một bài bình thơ
                của Bằng Việt! Xin ghi lại vào đây cùng vui với bạn đọc trên mạng internet này, ai quan tâm
                thì có thể tìm mua báo đọc.



                                    NGHĨ LẠI VỀ PAUXTỐPKY
             
                                                                  1.

             
                           Ðồi trung du phơ phất bóng thông già.
                           Trường sơ tán. Hồn trong chiều lặng gió
                           Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
                           Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu...

                        " Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu
                           Hay " Chuyến xe đêm " thầm thì mê đắm
                           Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
                           Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.

                            - " Có thể ngày mai ta cũng đi qua
                           Một cánh cửa nao lòng trong truyện " Tuyết "?
                           Có tiếng chuông rung và con mèo " Ackhip "
                           Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
                             Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!


                                                     2.

                           Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
                                          cuộc đời không phải thế!
                           Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
                           Bể mặn mòi , sôi sục biết bao nhiêu
                           Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều.

                           Ta thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
                           Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời.
                           Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
                           Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi...

                           Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng.
                           Nốt cao quá trong đời xao động quá!
                           Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
                           Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.

                           Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
                           Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
                           Anh qua cả màu không gian ngây ngất
                           Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao...

                           Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!


                                                     3.

                           Bây giờ, anh biết nói gì hơn?
                           Có thể, ngày mai thôi... Có thể...
                           " Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
                           Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm...

                           Pauxtôpxky là dĩ vãng trong em
                           Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại:
                           Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
                                              anh hiểu rằng không phải...
                           Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!

                           Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
                           Ta đã lớn. Và Pauxtôpxky đã chết!
                           ... Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện " Tuyết "
                           Dầu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!

             
                                                                    Bằng Việt
             

                

                                 Lời bình  Phạm Ngọc Thái:
                       " Nghĩ lại về Pauxtốpxky" thuộc trong những bài thơ tình hay nhất của đời thơ Bằng Việt (BV).  Anh đã làm bài thơ này vào thưở còn rất trẻ, có lẽ khi đó chỉ mới bước qua ngưỡng cửa đời sinh viên, ngoài tuổi đôi mươi. Mà cũng chỉ có tâm hồn một thanh niên trí thức đa cảm, lại sống vào giai đoạn xã hội - Ðất nước và con người của những năm trong thập kỉ sáu mươi - bảy mươi ấy, BV mới có thể viết được bài thơ: Hồn thơ say sưa, tình thơ trong trẻo và bay đến như thế! Mặc dù, hình như thơ anh viết về một mối tình thơ dại đã qua đi.
                  

                 Bài thơ được chia làm ba khúc. Tôi rất thích thú một câu thơ dài mà tác giả điệp lại đến hai lần:
                            Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, cuộc đời không phải thế!
                  

                 Khúc (1) - Tác giả để hồn thơ bay dưới những bóng thông già mà nhớ về tuổi đã qua:
                               Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
                              ... Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa
             
             
                 
                Tình yêu như những nốt nhạc rung đầu đời của nhà thơ với một thiếu nữ nào đó. Nó vừa thực lại vùa mơ hồ như ảo ảnh, khi qua đi để lại thoang thoảng của mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm. Nó lóng lánh như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu. Chập chờn như ánh nến hạnh phúc soi vào đôi lứa. Ðó chính là “ suối nhạc nhiệm màu " cứ thầm thì, thầm thì mê đắm mãi.
                  
                Nếu ta chưa đọc Pauxtôpxky -  Thì ta chưa hiểu về chuyện con mèo "Ackhip", tiếng chuông rung và những sự thần kỳ trong truyện "Tuyết"! Nhưng đâu có cần cứ phải đọc Pauxtôpxky mới hiểu được thơ cơ chứ? Chỉ cần nghe lời thơ và những âm hưởng của tình thơ, ta cũng có thể mơ hồ hiểu... trong sâu thẳm, cái mối tình thưở ban đầu mà nhà thơ gợi ra ấy đã đẹp, trong sáng, say mê, mơ mộng đến chừng nào. Thế cũng đủ cho ta phải yêu rồi:

                               Có thể ngày mai ta cũng đi qua
                               Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
                              Có tiếng chuông rung và con mèo "Ackhip"
                             ... Xa xôi sao... Thời thơ ấu sau lưng!
                 
               Sang khúc (2):
                              Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao
               
                 Câu thơ kết khúc ấy, phải chăng nó đã gói trọn bao niềm tâm tư, tình yêu và khát vọng, hạnh phúc cùng những đớn đau của nhà thơ? Nhưng cũng phải chăng như nhà thơ muốn nói: Tình yêu của anh và em đã không vượt được qua không gian, thời gian? Bởi vì:
                              Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
                
                 Biển cả cuộc đời thì đầy bão tố phũ phàng, mà tình yêu ấy dẫu khát khao, trong suốt như giọt nước ban mai rơi xuống tuổi thanh xuân, lại còn quá yếu đuối, mỏng manh. Biển thì mặn mòi sôi sục bao nhiêu, mà khi em đến bên anh: Lúc ấy sóng không yên, gió không lặng, tựa như đang cả triều dâng. Nhưng chính tuổi trẻ - Phải, tuổi trẻ đã vượt lên trên cả sự tan vỡ và thử thách đó. Chỉ có tuổi trẻ mới:

                             Thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
                            Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời

                Nhưng tôi thích đôi câu thơ mà tác giả đã ví: 
                                Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt đến
                                Dấu đen rầm khi đáy bóng đêm trôi... 

                 
                Cuộc sống là như thế! Khi khát vọng ước mơ đến trong ta, nó như cả một bàu trời cao xanh vời vợi và ánh hồng chan chứa nơi nơi. Lòng ta mở rộng đón chờ với bao niềm vui khó tả. Nhưng cái gì mà chẳng có mặt trái của nó: Ước vọng càng cao thì dữ dằn bão tố, bất hạnh cũng rình rập, muốn vùi dập ta vào trong bóng đêm trôi choán ngợp cả bàu trời. Hai câu thơ đã vạch lên trên đường chân trời của cuộc đời rằng, đấy là thử thách mà tuổi trẻ cần phải vượt qua! Không có con đường hạnh phúc nào đi đến toàn bằng phẳng, thênh thang. Trong cả tình yêu lứa đôi của anh và em... Hạnh phúc chúng ta phải trả giá! Và sự tan vỡ ban đầu ấy, phải chăng cũng là lẽ tất nhiên? Nếu không, thì đó cũng chính là cái nghiệm ban đầu, để rồi ta sẽ đi đến - Tình yêu và cuộc sống vẫn đang đón đợi ta ở phía xa kia! Nhà thơ lại ru mình và ru em:

                            Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
                            Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
                           Anh qua cả màu không gian ngây ngất
                            Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao 

                 Ðúng như vậy: Tình yêu như một vùng nắng mới, với cả màu không gian ngây ngất, trong những chiều của ngàn lá cây rung và những tiếng nói thầm của người yêu vẫn lao xao trong đó. Ðẹp - đẹp quá, nhà thơ ạ! Tôi đã nghe thấy tiếng nói thầm ấy, rung động và bay xa lắm. Nó vượt lên trên cả bão tố dữ dằn và sóng gió mịt mùng kia. Tiếng nói thầm đáng yêu, tưởng chừng có thể làm nứt vỡ trái tim ta!
               
                    Ðây là khúc thơ chính của bài: Giọng thơ say sưa, lời thơ đằm thắm. Thơ được dùng nhiều ngôn ngữ hình tượng, màu sắc sinh động. Trong thơ có nhạc, lắng càng sâu càng thấy hay. Ðôi khi anh sử dụng một cách nói rất thông thường, bên cạnh những câu thơ có ngôn ngữ thanh cao, để thơ khỏi rơi vào sự mượt mà, bóng bẩy. Thí dụ như:

                                 Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
                                Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn.

                 
                 Những câu thơ mộc mạc như thế, âu: cũng là những sự chấm phá cần thiết  tạo nên một sự gồ ghề, thô ráp nhất định - Như những nét trạm đơn giản, mà tôn tạo hình ảnh của các câu thơ khác cao lên.
                
                 Khúc cuối:
                                 Ðưa em đi... Tất cả thế xong rồi
                                     Ta đã lớn. Và Pauxtôpxky đã chết!
             
                 

                Nhà thơ đã kết thúc bài thơ một cách dữ dằn như thế đấy! Nhưng câu thơ không phải để nói về Pauxtôpxky nhà văn Nga quá cố đâu, mà là tình yêu trong sáng, lãng mạn, mộng mơ thưở đầu đời của anh và em đã không còn. Như tác giả viết:

                             Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm
               
                  Hay là: 
                            Em đã đến rồi đi, như một giấc chiêm bao!
                
                 Nhưng đọc thơ anh sau ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, tôi vẫn thấy như đang gặp một BV cứ nguyên như mơ mộng, nhẹ nhàng và bay bổng của thưở đã xa xưa ấy. Tôi không nói về BV của tuyên huấn, làm chính trị - Mà là một BV của nhà thơ, trong thơ, mới thật đáng yêu sao! Phải - Hồi đó, thưở ấy...anh đã khóc, khi tiễn mối tình thơ dại với người con gái ban đầu của cuộc đời anh:

                             Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
                                Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!

                 
                Về thi pháp nghệ thuật - Có thể nói " Nghĩ lại về Pauxtôpxky " là một bài thơ đã viết trong mối giao cảm, được hoà nhập bởi hai dòng thơ: Một của dòng thơ lãng mạn thuần tuý viết tràn theo cảm xúc, như thời "Thơ mới" Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ... vào những năm bốn mươi - Một nữa của dòng thơ tượng trưng cấu trúc đã xúc tích hơn, với những hình ảnh giàu tính triết lý... Mà nhờ đó Hàn Mặc Tử đã viết nên "Ðây thôn Vĩ Dạ" và "Mùa xuân chín".
                 
                  Ta hãy nghe xem tác giả cứ để cảm xúc mình chảy tràn ra, rơi lệ xuống cả trang thơ:
                           Pauxtôpxky là dĩ vãng trong em
                        Thành dĩ vãng hai ta. Bây giờ anh ngoảnh lại
                           Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu, anh hiểu rằng không phải...
                          Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời!

                 
                 Tôi nghĩ: Ðã đến lúc có thể gấp lại bài bình ở đây. Bởi - Thơ anh viết như thế cũng đã quá đủ rồi, còn cần gì nữa để tôi phải nói thêm.

                                                                                            PNT.
                                                                           ( Đăng báo Người Hà Nội số 28
                                                                            * Ra ngày Thứ sáu - 10/7/2009)
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2009 12:36:16 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
            #96
              Nhatho_PhamNgocThai 06.08.2009 12:00:41 (permalink)
              .


                    Bài bình thơ đăng trên Tuần báo Văn nghệ của HNVVN:

                     Đó là số báo Văn nghệ vừa ra hôm nay đã có mặt trên các sạp báo trong toàn quốc - Xin nói
                 đôi  điều về bài viết này: Thực ra khi tôi bình bài thơ "Hoa huệ" của nhà thơ Bế Kiến Quốc có một đoạn  phân tích sâu sắc hơn về thi pháp thơ tượng trưng, tôi có trích dẫn một bài thơ của nhà thơ Đức là Henrich Haine để so sánh. Nhưng có lẽ toà soạn báo e... nên bỏ phần đó, kể hơi tiếc - Vì như thế thì bài đăng sẽ bị kém đi đôi chút về sự hay và độ sâu sắc đối với một bài bình thơ! Biết làm thế nào được vì quyền của toà soạn báo mà?... Tôi cho đăng nguyên văn bài tôi bình ra đây, để có bạn nào mua báo xem thì có thể đối chiếu và bình phẩm thuận tiện hơn. Dĩ nhiên sau này khi cho in xuất bản cả tập bình thơ của mình, tôi sẽ giữ nguyên bài mình đã viết - Chắc chắn đó sẽ là bài bình chất lượng hơn!
                    Giờ thì mời các bạn đọc bài bình đó:


                                HOA HUỆ  -  MỘT BÀI THƠ TƯỢNG TRƯNG
                                                       
               
                                  Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                                  Sao bóng hoa trên tường lại đen?
               
                                  Em đừng nhìn đi đâu thế em
                                  Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                                  Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                                  Sao bóng hoa trên tường lại đen?

               
                                                        Bế Kiến Quốc
               
               
                               
              Lời bình -  Phạm Ngọc Thái
               

               Bài thơ đưa ta đến một cảm giác với bao mâu thuẫn của tình yêu:
                               Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                              Sao bóng hoa trên tường lại đen?

                   
              Màu hoa huệ trắng đặt trước một bức tường cũng trắng, như sự trắng trinh thơm ngát ở người con gái, mơ mộng và nên thơ. Nhưng: Sao bóng hoa trên tường lại đen? /-  Đó lại là hai mặt mang đầy kịch tính. Tôi nói “kịch tính” ở đây, bởi vì: Bông hoa nào, dù trắng trong và hương ngát bao nhiêu chăng nữa, nhưng khi bóng của nó hắt lên tường thì đều thành màu đen cả (nghĩa đen)!...Ý là, tình yêu đã mang đến cho ta niềm vui sướng, hạnh phúc vô biên - Ngược lại, tan vỡ cũng gây không ít những đau đớn và thất vọng. Cái mâu thuẫn ấy có mấy đôi trai gái mà không thường vấp phải? Nhà thơ Bế Kiến Quốc (BKQ) đã sử dụng hình tượng bóng đen đó…(nhưng theo nghĩa bóng) để nói lên nỗi lòng mình đang tan nát.
                   
              Henrich  Haine, một nhà thơ lớn nước Đức (1797-1856) trong bài thơ "Những hoa hồng tím nhạt", đã viết: Em có hiểu vì đâu? / Những hoa tím im lặng / Trêncánh đồng xanh mầu?.../Tình cảm đồng điệu từ những bông hoa tím được nhà thơ sử dụng, chỉ cốt  bộc lộ nỗi đau thầm nén của lòng người con trai… trên cánh đồng xanh mướt, tha thiết tình yêu  kia. Ông viết tiếp: Vì sao trên không trung / Chim sơn ca than khóc? / Vì sao đoá hoa thơm / Tỏa một mùi chết chóc? / Hình ảnh bông hoa được sử dụng thêm một lần nữa nhưng ở mức độ cao hơn, khốc liệt hơn -  Rằng, một đóa hoa thơm cũng mang nỗi khổ hạnh khi trái tim tình yêu người bị đớn đau, như lời của Nguyễn Du:                               

              Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
                      
              Việc sử dụng hình ảnh bông hoa để  nói về tình yêu của nhà thơ BKQ và Henrich Haine khác nhau là ở chỗ: Hình ảnh của nhà thơ Đức thông qua trạng thái ở bông hoa mà biểu đạt  nỗi xót xa về tình cảm , hay sự quặn thắt trong lòng người, nó nghiêng về  thơ tả thực. Nhưng bông hoa  trong bài thơ BKQ thì đã được xây dựng hẳn thành một biểu tượng cho tình yêu - Nên "Hoa huệ"  là một bài thơ mang phong cách của thể loại thơ tượng trưng!
               
              Anh viết bài thơ này từ năm 1969, khi còn là một sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Nghe nói những năm tháng ấy các sinh viên của trường anh thường lập ra những nhóm thơ, tìm tòi nhiều, cả thơ trong nước và thơ thế giới. Bài thơ đã ảnh hưởng trường phái thơ tượng trưng của văn học châu Âu. Tuy nhiên, đó là sự ảnh hưởng về phương pháp sử dụng hình tượng nghệ thuật thể hiện, tư duy thơ vẫn bắt nguồn từ tình cảm bản thân trong đời sống tình yêu lứa đôi, dồn nén của trái tim mà ra. Cho nên  bài thơ tuy viết theo dạng biểu tượng xúc tích nhưng tình cảm vẫn  tha thiết, đằm thắm, nồng nàn:
                             
              Em đừng nhìn đi đâu thế em
              Anh không biết vì sao, ai có lỗi...

                   
              Sau hai câu đầu đưa ra sự đối ngược giữa hình ảnh bông hoa trắng với cái bóng trên tường lại đen, tác giả bắt ngay vào diễn tả trạng thái riêng tư - Đó là sự trách cứ người yêu hờ hững chăng? Anh tiếc nuối hay anh phân bua về sự tan vỡ ấy?...Câu thơ:  Anh không biết vì sao, ai có lỗi? / - Ta thấy lòng nhà thơ vẫn còn rất  tha thiết với người con gái năm xưa! Dù mối tình đã tan, có thể không bao giờ còn hàn gắn lại được. Tuy có đôi chút yếu lòng nhưng thơ xúc động, không rơi vào bi lụy. Có vẻ trách đấy, mà đâu có trách!... Cảm hóa ta về một mối tình đẹp và trong sáng.
                   
              Tất cả chỉ có sáu câu . Hai câu kết tác giả trở lại với hình ảnh của bông hoa và cái bóng đen trên tường,  khóa lại bài thơ:
                             
              Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
              Sao bóng hoa trên tường lại đen?

                   
              Cái bóng đen của bông hoa in trên nền tường trắng chính là một bóng buồn… và câu hỏi: Sao bóng hoa trên tường lại đen? /-  mãi mãi còn day dứt, trăn trở trong trái tim người con trai?  Nhìn "bóng hoa đen" lòng anh lại càng xa xót, thêm đau về một kỷ niệm đã xa xưa..
                  
              Sự đối ngược giữa  hình ảnh bông hoa trắng và bóng đen ấy tự thân đã mang theo một  quan điểm triết lý về sự hợp tan, lành dữ trong trời đất. Đó cũng chính là ý nghĩa  tự nhiên của tình yêu - cuộc sống, vừa hạnh phúc mà lại vừa đau khổ!
                   
              Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã tạo nên một bức tranh "Hoa huệ" theo cách nghĩ, cách cảm của riêng mình nhưng không kém phần độc đáo.
               
                                                                                              PNT.
                                                                 (Tuần báo Văn nghệ số 32 - Ra ngày thứ bảy 8/8/2009)
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.08.2009 11:11:08 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
              #97
                Nhatho_PhamNgocThai 01.09.2009 13:25:21 (permalink)
                .


                  Sau khi tôi đăng bài bình thơ " Nghĩ lại về Pauxtốpxky" của Bằng Việt trên Tuần báo Người HàNội, số 28 ra ngày 10/7/2009 - Tôi có mời anh Tổng biên tập ra ngoài quán nhậu. Anh phấn khởi lắm vì bài bình ấy khá hay được bao nhiêu người khen báo, tất nhiên là tác giả bình nên tôi cũng rất vui.
                     Trong bữa lai rai ở quán anh Tổng biên tập có gợi ý:
                -  Ông chọn một bài thơ của Hữu Thỉnh ( Chủ tịch HNVVN ) mà bình, tôi sẽ cho đăng ngay!
                - Nghĩa là báo đặt bài? Tôi hỏi lại anh như vậy.
                -  Ừ, báo đặt.
                    Sau bữa nhậu vui vẻ ấy trở về tôi đã điện thoại lại Hữu Thỉnh:
                _ Bây giờ Tổng biên tập báo Người HàNội có nhã ý bảo tôi chọn một bài thơ của anh để bình đăng báo, ý anh thế nào?
                     Anh Hữu Thỉnh trả lời:
                - Thế à? Nhưng bài thơ dài đấy!...
                -  Thế này! Tôi bảo anh: "Anh cứ cho tôi vài ba cái tên đề bài thơ của anh, tôi sẽ chọn bài nào mà tôi thấy thích nhất trong số đó... rồi tôi sẽ viết bình cho anh".
                - Ô kê! Hữu Thỉnh trả lời.Nhưng bây giờ mình đang có khách, đến chiều mình sẽ điện thoại lại cho Ông?
                    Chiều đó anh Hữu Thỉnh đọc cho tôi mấy cái tên đề bài thơ để tôi chọn. Nào là: Nghe tiếng cuốc kêu, Xa vắng, Em... và Tuyết trắng! Tôi mở các tác phẩm thơ của anh ra đọc lại, thì bài thơ đáng bình nhất chính là bài "Nghe tiếng cuốc kêu" - Nhưng bài thơ lại quá dài, tới 72 câu. Tôi biết Hữu Thỉnh thích bài này!... song ngại vì đăng báo thì quá dài, khó đăng.
                    Tôi điện thoại lại cho  Tổng biên tập báo nói lại tinh thần bài thơ Nghe tiếng cuốc kêu ấy, thuyết phục anh ta : Trường hợp Hữu Thỉnh là đặc biệt, nếu báo nhất trí đăng thì tôi bình? Thực ra bài thơ bình được hay, sinh động nhưng lại xúc tích mà vẫn lột tả được toàn bộ bài thơ là rất khó!... Mới lại cỡ Hữu Thỉnh mà bình những bài thơ kia... chắc không làm cho Ông ta sướng đâu? Sau giây lát Tổng biên tập báo nhất trí.
                    Tôi điện thoại lại cho Hữu Thỉnh tinh thần ấy và bảo : Tôi sẽ bình cho anh bài " Nghe tiếng cuốc kêu"! Hữu Thỉnh khoái lắm, và có yêu cầu :
                -  Thái bình xong, trước khi đăng báo cho mình xem trước một chút?
                - Nhất trí! Tôi đồng ý với anh.....

                     Cũng phải mất hàng chục hôm, sửa đi sửa lại tôi mới viết xong bài bình này. Đó là một bài thơ mà Hữu Thỉnh đã sáng tác cách đây khoảng 20 năm về trước. Bài thơ bị chìm vào  trong quên lãng, mặc dù Hữu Thỉnh rất tâm huyết với bài thơ này, anh đã nói với tôi như vậy. Và tôi phát hiện ra rằng : Đó lại là một bài thơ cực kỳ quí giá của Hữu Thỉnh và có thể nó trở thành đỉnh điểm trong đời thơ của anh.
                    Tôi nói với Hữu Thỉnh:
                -  Nếu như bài thơ thực sự là một kiệt tác, thì Hữu Thỉnh sẽ là một thi nhân lớn!
                - Đúng thế! Hữu Thỉnh cũng đồng tình với nhận định của tôi.
                _  Nó sẽ trở thành một bài thơ khổng lồ của Hữu Thỉnh đấy! Tôi bình toang ra rồi, để rồi đây đương đại sẽ xác nhận cho anh!.. Tôi lại bảo.
                -  Và đó là công của PNT!... Hữu thỉnh vui vẻ nói với tôi như vậy.
                   Nếu như không có sự cố thì khoảng thứ tư, thứ năm tuần tới báo Người Hà Nội sẽ đăng bài bình đó. Tôi xin in bài thơ ở đây để mọi người xem trước, chờ khi báo đăng bài viết, tôi sẽ cho công bố bài bình đó luôn.
                       Toàn bộ bài thơ dài đó của Hữu Thỉnh như sau:

                        
                                Nghe tiếng cuốc kêu
                 
                 
                Những đám mây bay đi
                Tôi với người ở lại
                Cuốc kêu ngoài bến sông.

                Cuốc kêu vì bẫy hiểm
                Bèo leo nheo nước lên
                Tôi âm thầm gọi tên
                Bàn ghế và quần áo cũ
                Tuổi trẻ đột ngột về
                Ngơ ngác nhìn tôi
                Những cánh diều để chỏm
                Vui hơn điều đáng vui
                Bánh đa phồng giữa chợ
                Che bớt một phần buồn
                Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc
                Xe pháo mã những ngả đường xa lắc
                Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu.

                Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc
                Cha tôi nhào đất đắp tường
                Ông táo bằng đất
                Chiếc chén bằng đất
                Những người uống rượu lần lượt bỏ đi
                Cha tôi cầm chiếc chén lên
                Như cầm một phần đời mình
                Đã khô ra thành đất
                Cuốc kêu ngoài bãi xa.

                Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng
                Trên đất ước có người đến ở
                Họ bắt đầu như một chiếc rễ nâu
                Họ làm ra mọi thứ để nuôi nhau
                Mong con cái có ngày mở mặt
                Trời tối thì cậy ngọn đèn
                Ngọn đèn bấc thắp bằng dầu lạc
                Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất
                Cuốc kêu ngoài bến xa.

                 
                 
                 
                Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
                Đi theo một sợi tơ hồng
                Về với anh thành vợ thành chồng
                Tình yêu nhiều đứt nối
                Ta xin rừng một chiếc giường con
                Xin đất một chiếc ấm nhỏ
                Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
                Em níu giường níu chiếu đợi anh
                Em tránh những người con trai đẹp -  đợi anh
                Chỉ mong anh về
                Áo rách cũng thơm
                Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
                Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
                Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
                Nhưng không phải, em ơi, cuốc kêu không phải thế!

                *

                Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
                Tôi mất hai người anh
                Cả hai đều rất trẻ
                Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
                Mỗi lần sau đám tang
                Lòng ai cũng héo
                Dạ ai cũng sầu
                Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
                Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
                Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế!

                Giếng nước than: lắm kẻ chao chân…
                Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời…
                Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
                Tôi ngồi buồn như lá sen rách
                Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay.

                Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
                Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
                Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều.
                Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
                Bị hư danh gạt về một phía
                Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.
                Vừa bắt gặp nụ cười
                Thì lại nghe tiếng cuốc.


                                                       Hữu Thỉnh
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.09.2009 13:26:46 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                #98
                  Nhatho_PhamNgocThai 26.09.2009 11:56:43 (permalink)
                  .


                                  Lời bình của Phạm Ngọc Thái  
                     

                   Phùng Quán cũng có một bài “Nghe tiếng cuốc kêu” như thế này:

                                      Chắc có điều chi bi thương lắm
                                      Không bày giãi được nên phải kêu
                                      Đêm mất ngủ, nghe cuốc kêu đứt ruột
                                      Lòng những bàng hoàng muốn kêu theo.


                       Cái tiếng não nuột của con chim cuốc thường hay đánh động vào tâm khảm lòng người, như thể ở trong nó có một nỗi sầu thương ai oán phải trút lên tiếng kêu giữa đêm trường.

                       Bà Huyện Thanh Quan qua Đèo Ngang nghe thấy cái tiếng cuốc kêu ấy, lòng cũng quặn thắt lại nghĩ về bao cảnh phiền nhiễu chốn công đường -  Đó là việc quan, việc nước mà ngày ngày bà vẫn thường hay xử thế đỡ thay chồng, tức Ông Huyện:

                                   Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
                                      Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.


                        Hay là Nguyễn Trãi khi nghe tiếng cuốc tâm tình cũng đầy vương vấn ưu tư:

                                   Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
                                      Đâỳ sân mưa bụi nở hoa xoan…

                                                  ( Tức cảnh mùa xuân)

                       Bây giờ ta đến với bài thơ “Nghe tiếng cuốc kêu” của Hữu Thỉnh xem anh đã nói gì? Một bài thơ dài 72 câu, thông qua tiếng cuốc nhà thơ tự thán về sự phong trần trong trời đất. Không kể ba câu đầu, bài thơ được chia thành bảy đoạn, mỗi đoạn cách nhau gọi là một khúc. Như thế có cả thảy bảy khúc thơ, câu kết của mỗi khúc được khoá lại bằng “tiếng cuốc kêu”! Hay nói một cách khác, cái tiếng cuốc ở cuối mỗi khúc kia…như một câu hỏi vĩnh cửu: Tại sao?... Nó xiết mạnh vào trái tim ta thành nỗi đau đời, đau người không bao giờ dứt. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh cứ mở rộng ra hết lớp này, lớp khác rồi lại tụ vào điểm xiết trong suốt bài thơ của anh.

                       Ta hãy nghe ba câu mở đầu:
                               
                  Những đám mây bay đi
                  Tôi với người ở lại
                  Cuốc kêu ngoài bến sông


                  Gói trong lòng nó mối quan hệ con người cùng vũ trụ, sự tồn tại và thế giới. Gió mây bay hay như là thời gian với không gian vần vũ trong qui luật sinh tồn của người với người đó thôi…và trên những bến sông, bến đò, bãi chợ  ta vẫn thấy vẳng lên tiếng cuốc kêu! Tác giả đã điểm báo cho chúng ta, nó tiên nghiệm một cái gì đó sẽ xẩy ra? Lời thơ bay và mềm như bóng mây nhưng lại chứa đựng cả một khối thuốc nổ cuộc đời, để từng bước nhà thơ châm ngòi phát hoả xung quanh cái tiếng cuốc dằng dặc đêm dài thấm bao nỗi xót xa.
                   
                      “Cuốc kêu ngoài bến sông” – Ta có thể tưởng tượng tiếng của nó se sắt, rền rĩ… đồng thời cũng thật da diết không kém gì cảnh: Vẳng nghe tiếng ếch ngỡ ai gọi đò/ - Trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương. Đó là tiếng kêu từ thưở ta chưa sinh ra, từ thưở mới có trời và đất. Đó là tiếng cuốc của thiên và địa, mang cả hồn ta cùng cuộc sống ta.
                      
                      Tiếp vào khúc (1) - Tiếng con cuốc tru lên:

                  Cuốc kêu vì bẫy hiểm
                  Bèo leo nheo nước lên


                  Người với người sống với nhau vẫn còn nhiều cạm bẫy chăng?  Và con nước cũng giống như thời thế thế thời nhiều khi đảo điên dâng ngập bờ ngập bến,  những giống bèo leo nheo loang phủ choán cả mặt sông đời, hình ảnh thơ có ý nghĩa ẩn dụ. Hai câu thơ đó thốt ra sự xót xa và tâm trạng dằn vặt trong lòng Hữu Thỉnh.
                      
                  Cả ba khúc thơ đầu là những suy tư, diễn giải của nhà thơ về khởi nguồn của  tiếng cuốc đó:
                                     
                  Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc…
                  Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng…

                     
                  Từ cái thưở ông cha ta còn nhào đất đắp tường, lấy lá gianh, lá cọ, cây rơm, cái rạ lợp lên làm mái nhà che nắng mưa để ở. Cái bát, cái chén… ăn cơm, uống rượu cũng  được nặn ra bằng đất. Thay vì làm kiềng đun bằng sắt sau này, thời ấy nhà nông cũng chỉ biết nặn đất thành những ông đồ rau gọi là ông táo, cứ ba ông táo chụm vào làm bếp để nấu ăn. Cứ nghe tiếng cuốc anh lại nghĩ về người cha cả một đời lầm lụi, tình làng nghĩa xóm lần hồi một nắng hai sương, dãi dầm, đói khổ mà vẫn đùm bọc lấy nhau.  Cái chén bằng đất đó cha vẫn thường chén thù, chén tạc với bạn bè. Buồn tủi cũng nhiều nhưng  êm ấm, yêu thương.
                     
                  Rồi tác giả thốt lên: “Cuốc kêu ngoài bãi xa”! – Những kiếp người đã đi qua mà tiếng cuốc đâu có thôi kêu! Nó cứ âm vang mãi trên cái bãi xa ấy. Anh nói về cha tức là nói về tổ tiên, cội nguồn. Nhà thơ nghĩ lại những bậc sinh thành xưa đã cho mình cuộc sống hôm nay.
                     
                  Còn hình tượng:

                  Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng
                  Trên đất ước có người đến ở


                  Là tác giả muốn nói về sự sơ khai khi thôn xóm vẫn còn thưa thớt, chưa phát triển đông đúc sầm uất, thì cũng đã bắt đầu có tiếng cuốc kêu rồi! Tiếng cuốc ấy gắn liền với số phận người cha, những người uống rượu cùng cha lần lượt bỏ đi, lần lượt khuất núi:
                                    
                  Cha tôi cầm chiếc chén lên
                  Như cầm một phần đời mình
                  Đã khô ra thành đất.

                      
                  Lòng nhà thơ hoài cảm. Anh từng bao đêm thổn thức nghĩ về làng quê khi bắt đầu cuộc sống như chiếc rễ cây bám vào đất, làm lụng để nuôi nhau, chỉ mong con cái có ngày mở mặt – Cái mong muốn cũng giản đơn nhưng những kiếp đời thì lại rất mong manh:

                  Trời tối thì cậy ngọn đèn
                  Ngọn đèn bấc thắp bằng dầu lạc

                  Thế mà:
                                      Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất.
                     
                  Họ vẫn phải nhiều khi lâm vào cảnh đói khổ, bần hàn, cơm chẳng đủ no, áo không đủ ấm: Cuốc kêu ngoài bến xa/… Câu thơ lại được kết thúc xót xa như thế!
                     
                  Tiếng cuốc còn gọi anh về với cái tuổi hồn nhiên, đầm ấm và thân thiết biết bao:

                  Tuổi trẻ đột ngột về
                  Ngơ ngác nhìn tôi


                  Đó là những kỷ niệm ngọt ngào thưở thơ ấu xa xưa:

                  Những cánh diều để chỏm
                  Vui hơn điều đáng vui
                  Bánh đa phồng giữa chợ
                  Che bớt một phần buồn


                  Ý thơ cứ đan xen giữa quá khứ và hiện tại để nói lên tâm trạng của cuộc đời anh. Kỷ niệm về những cánh diều bay thời còn để chỏm, hay chiếc bánh đa phồng mẹ vẫn thường mua cho ta trong mỗi buổi chợ về…cứ đọng mãi những tình cảm ngọt ngào của mẹ mà xoa vợi bao nỗi đau lòng trong buổi đời  hoạn nạn hôm nay.

                    Khi ấy tiếng cuốc lại trở thành quen thuộc, thân thương quá! Nhưng con đường đời dài dặc đón chờ anh, đón chờ tuổi trẻ với bao dữ dằn, dông tố… trên những ngả đường xa lắc, gập ghềnh. Khúc thơ mang những thông điệp từ hồi ức trở về, như anh đã viết
                  :

                  Tôi âm thầm gọi tên
                  Bàn ghế và quần áo cũ…

                      
                  Qua ba khúc thơ đầu để anh dồn nén vào khúc thơ thứ tư – Khúc thơ này ta thấy cả sự xót xa  như máu của nhà thơ  rơi  xuống ...khi anh nói về tình nghĩa vợ chồng:

                  Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
                  Đi theo một sợi tơ hồng
                  Về với anh thành vợ thành chồng


                  Cái tổ ấm bình dị, đơn sơ:

                  Ta xin rừng một chiếc giường con
                  Xin đất một chiếc ấm nhỏ

                  Sợi tơ hồng ban đầu thật đẹp, dù không phải là không có bao ngãng trở như tác giả nói: Tình yêu nhiều đứt nối/ - Hay là: Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ - Nhưng họ vẫn:

                  Em níu giường níu chiếu đợi anh
                  Em tránh những người con trai đẹp - đợi anh
                  Chỉ mong anh về
                  Áo rách cũng thơm


                  Tưởng rằng họ sẽ mãi mãi chan chứa niềm tin yêu trong cuộc đời, mãi mãi đẹp như thế dù cuộc sống vẫn còn đạm bạc: Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc/ - Nhưng rồi đến đây tác giả bật kêu lên: “ Nhưng không phải, em ơi, cuốc kêu không phải thế”!    
                      
                  Tôi xin phân tích về câu thơ cuối khúc này – Nhà thơ không diễn giải gì thêm: Không phải là không phải thế nào? Anh cứ để cái tiếng cuốc kia ôm trọn những nỗi đau trong nó… mà bật ra từ trong trái tim anh. Tiếng cuốc ấy nó chứa một cái gì tan nát và đổ vỡ tận trong thẳm sâu của nhà thơ mà vọng mãi vào năm tháng. Tiếng cuốc đi theo tiến trình cả cuộc đời tác giả, nó tụ hồn, tụ máu… chứ không phải chỉ còn là tiếng kêu tự nhiên của con chim cuốc trong vũ trụ, trời đất nữa. Phải chăng trong cái tiếng cuốc đã chứa những tố chất lành dữ…của  kiếp sống con người? Như ở khúc (1) tác giả nói về những thử thách gian truân trên quãng đường đời:

                  Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc
                  Xe pháo mã những ngả đường xa lắc
                  Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu.

                      
                  Đây là một bài “thơ đời” thật chí lý, hình tượng sắc sảo, cấu tứ giỏi  và ý nghĩa viên mãn nhất của Hữu Thỉnh mà tôi đã được đọc. Trong bài “Thơ viết ở biển” của anh tuy đọc cũng sướng, có cái hay riêng… nhưng chưa viên mãn bằng bài thơ này.
                      
                  Bài thơ có thể chia thành hai phần, cách nhau bởi một “hoa thị” (*) - Bốn khúc trên thuộc về phần (I). Nếu phần (I) viết qua hồi ức của nhà thơ thì sang ba khúc sau của phần (II) thơ trở về thực tại, và cũng được bắt đầu bằng cái tiếng cuốc kêu đứt gan, đứt ruột trong trời đất ấy: Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé/ - Tác giả đưa ta vào hai dữ kiện. Một là chuyện của hai người anh trai chết từ rất trẻ! Rồi cùng lúc có tiếng cuốc kêu lại xẩy ra đám tang bên nhà hàng xóm. Đó là những dữ kiện đau lòng:

                  Lòng ai cũng héo
                  Dạ ai cũng sầu


                  Thực ra những sự kiện thương tâm ấy nó chỉ mang tính chất làm biểu tượng điển hình, để tác giả nói tiếp ra những trăn trở của nỗi lòng mình trong cuộc sống, đặt ra cách cư xử nên như thế nào của con người với nhau:

                  Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
                  Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ


                  Và lời than ứa ra  như tiếng nấc nghẹn từ trong tác giả:
                                      Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế!
                     
                  “Không phải thế” nghĩa là như thế nào? Nghĩa là con người với con người vẫn còn bao nhiêu điều xấu, bao nhiêu điều tệ hại. Trở lại với hai câu mở đầu khúc (1):

                  Cuốc kêu vì bẫy hiểm
                  Bèo leo nheo nước lên…


                  Cuộc sống vẫn đang vẩn lên bao bèo bọt đục ngầu kia!...  Ta đến với hai khúc thơ cuối cùng:

                  Giếng nước than lắm kẻ chao chân
                  Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời
                  Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi


                  Ý nói là cái giếng trong, nước ngọt là  nơi có nguồn nước trong lành cho tất cả mọi người cùng sống… nhưng bao kẻ đã lợi dụng tranh giành, vụ lợi không từ mọi thủ đoạn làm cho xã hội, cuộc sống bị ố hoen đi. Hay trong khu vườn tươi tốt của cộng đồng có biết bao phường cơ hội vẫn bon chen, như giống sên ốc mang tham vọng chỉ muốn “ngấp nghé lên trời”!... Nhưng rồi “hết mùa hoa” -  khi xã hội, cộng đồng cần sự chung tay đóng góp thì những kẻ đó lại trốn chạy tìm nơi khác. Nghĩ về cảnh đời như thế lòng nhà thơ sầu càng thêm sầu: “Tôi ngồi buồn như lá sen rách”.
                     
                  Phải chăng cái hệ tư tưởng cùng những ý thức không tốt lành đó tràn vào trong nếp  sống bởi xuất phát từ những căn nguyên:

                  Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
                  Bị hư danh gạt về một phía


                  Đó là những tư tưởng sống gấp, trục lợi, cầu vinh… mà không nghĩ xã hội còn cần những bàn tay chung nhau xây dựng cả cơ đồ, để cho nước non này, cuộc đời này tốt đẹp lên !? Có phải vì vậy nên cái tiếng cuốc mới cứ khắc khoải kêu hoài…
                      
                  Ta hãy đến với mấy câu thơ cuối:

                  Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười

                  Cái nụ cười ở đây là một hình tượng. Để có được một niềm vui, hạnh phúc nào đều thường phải trả giá không nhỏ, có khi phải đổi cả sự hy sinh và cay đắng như những câu thơ anh đã viết về sự rạn vỡ của tình vợ nghĩa chồng:

                  Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc?
                  Chúng ta từng vò võ đợi nhau

                  Và những mong muốn êm ấm, yên hàn  của cuộc sống bình dị ấy bị tan nát cũng chẳng khác nào sự phụt tắt của ngọn đèn vẫn thắp sáng trong đêm : “Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất”!...
                     
                  Nỗi đời, nỗi người âm ỉ đau trong lòng Hữu Thỉnh đã được xiết lại ở những câu thơ kết đó:
                                    
                  Vừa bắt gặp nụ cười
                  Thì lại nghe tiếng cuốc.

                      
                  Có thể cả cuộc đời vật lộn vẫn không bao giờ cập nổi bến bờ hạnh phúc! Thế mà: mới bắt gặp cái nụ cười của bờ hạnh phúc - thì ta đã giật thốt mình vì lại nghe thấy cái tiếng cuốc rền rĩ  kêu lên rồi!... Thật là tìm được hạnh phúc đã khó nhưng giữ gìn được hạnh phúc còn khó hơn. Sự đổ vỡ, sự tan nát luôn luôn rình rập để phá bỏ, để nhấn chìm niềm vui và tiếng cười trong cuộc đời ta. Lời kết ấy của nhà thơ không khỏi làm ta thảng thốt và xa xót lắm!
                     
                    “Nghe tiếng cuốc kêu” là một bài thơ sâu sắc, khúc triết. Những hình ảnh được sử dụng đều lấy từ trong đời sống dân dã mà vẫn mang tính khái quát, giàu tình ý đồng thời hàm chứa tính nhân bản của nỗi đau nơi nhân tình thế thái. Mới đọc thơ thì ngại vì dài và chưa thấy thú, nhưng đọc càng sâu thì lại càng thấy hay! Bài thơ sẽ có một giá trị không nhỏ trong chân dung thơ Hữu Thỉnh và có khả năng tồn tại.
                   
                                                                                       PNT.
                                                    (Sẽ đăng trên tuần báo Người Hà Nội số 40 hoặc 41
                                                         ra ngày 2 hoặc 9/10/2009)
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.09.2009 12:15:17 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                  #99
                    Nhatho_PhamNgocThai 24.10.2009 13:05:30 (permalink)
                    .


                        Có lẽ đã đến lúc phải tìm cách viết thêm một mảng bài khác nữa ngoài bình luận văn chương để chơi trên báo chí!... Thơ thì cũng đã tạm đủ rồi, thủng thỉnh viết thôi... vấn đề là xuất bản để làm chân dung và để lại cho đời. Hơn nữa, như Chế Lan Viên đã nói:
                              Cái tuổi năm mươi mong gì hương sắc lạ...

                    Có tuổi cái đầu cũng "muối" bám vào rồi bạn ạ!... Cảm xúc cũng bình bình... Thơ mà cố viết nhiều nhưng để ai xem?... Mảng bình luận văn chương, tư duy nhiều cũng mệt lắm đấy, lại chỉ có vài báo văn đăng, chen chúc nhau... lâu mới được đăng một bài, dù có cố công viết thật hay, thật sâu sắc chăng nữa. Cho nên, quan hệ phải thật chí thiết lắm... tôi mới viết - Còn không dù người làm thơ có là thiên tài cũng phải đành tạ lỗi với anh em thôi!... Mệt rồi, và lại già rồi... nghĩa là tôi viết cho ai ở cái đương đại này là phải tính toán lắm đấy! Hoặc là tình nghĩa mình cần phải trả hoặc là vì thân thiết quá... Bởi còn bao bài thơ hay của cố nhân xưa - Như Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, hoặc các bậc nhà thơ lớn trong "Thi nhân Việt Nam" muốn bình, vừa dễ đăng báo, vừa xuất bản tuyển bình sau này có giá trị hơn! Thế mà cũng có bình được đâu... Khi lực bất tòng tâm thì người sinh ra xấu tính mà...

                        Tôi bắt đầu thể nghiệm viết một mảng khác nữa: Hoặc về các vụ án ly kỳ, hoặc những câu chuyện lịch sử của thế giới - Đúng hơn là tôi tổng hợp...(chứ không phải là sáng tác), tìm tòi nguồn tư liệu, dùng một chút kinh nghiệm trong tay bút của mình... nghiên cứu chút đỉnh rồi soạn thảo thành một bài hay mà đăng báo. Nhiều người đọc, nhuận bút báo lại trả cao. Chủ yếu là báo An ninh Thế Giới, một bài vừa vừa họ cũng trả nhuận bút có tới bạc triêụ... Làm được cũng thú lắm đấy!

                        Nói sao làm vậy, vừa rồi tôi cũng đã làm thử một bài rồi, đã gửi báo An ninh... và đang chờ hồi âm - Nếu không đăng thì ta mới gửi chuyển sang báo khác. Loại bài này tuy chưa phải là các tiểu phẩm văn học đâu ( mặc dù cũng có tí chất văn học đấy), tôi cứ đăng cả vào đây để các đọc cho vui nhé!


                                   


                                         V ÁN ĐO DIN
                            ROMAN POLANSKI
                     




                                             ( Tôi đã định đăng vào đây cho bà con đọc trước - Song chợt nghĩ
                                       là không có lợi. Loại bài này dễ sài trên báo, nhuận bút lại cao... Giá như
                                       thể loại bình luận văn chương, có đăng trước đăng sau cũng không có gì
                                       đáng ngại. Thôi chờ vài bữa nữa, báo đăng rồi... tôi sẽ đăng lại cho bà con
                                       mình đọc nghe! )








                               Đạo diễn Roman Polanski








                       Tiếp đó sẽ là bài:

                    "MARILYN  MONROE - CUỘC TÌNH TAY BA & CÁI CHẾT"



                           





                        Nàng Marilyn Monroe.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2009 09:55:05 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Nhatho_PhamNgocThai 18.11.2009 12:26:31 (permalink)
                    .     

                                      Bài viết " Vụ án đạo diễn Roman Polanski" - Tôi đã cho đăng trên Tuần báo
                                Thế giới & Việt Nam - Bài toà soạn đổi tên như sau:



                                                   BẢN ÁN 32 TUỔI


                               Roman Polanski 76 tuổi,  là  một trong những đạo diễn danh giá nhất của điện ảnh thế giới. Đến Liên hoan phim Zurich (Thuỵ sĩ) để nhận giải thưởng Thành tựu trọn đời, ông bất ngờ bị cảnh sát nước này bắt giam vì một bản án chưa được thực hiện ở Mỹ từ hơn 30 năm trước.
                       
                       Năm 1977 công tố viên Los Angeles đã ra cáo trạng buộc ông vào tội hiếp dâm cô bé Samantha Gailey mới 13 tuổi (nay là bà Samantha Geimer), trong một buổi chụp hình thời trang tại nhà diễn viên điện ảnh Jack Nicholson, khi đó ông 43 tuổi.

                      Năm 1978 thẩm phán Laurence J. Rittenband (nay đã qua đời) lệnh cho Polanski phải ngồi tù 42 ngày để trải qua các xét nghiệm thần kinh... Được tạm tha vì đã nộp tiền cọc, nhưng trước ngày bị tuyên án thì ông đã lên máy bay trốn sang Anh, rồi  lập tức chạy sang Pháp - Là đất nước không có ký hiệp ước dẫn độ tội phạm với Mỹ. Kể từ đó ông không bao giờ trở về Mỹ nữa, vì sợ bị bắt và bỏ tù. Ông cũng không dám sang Anh hay các nước có thoả thuận dẫn độ với Hoa Kỳ.

                    Từ 31 năm nay cơ quan tư pháp Los Angeles đã nhiều lần tìm bắt nhưng bất thành. Lần này phía Mỹ nắm được tin nhà làm phim Polanski sẽ đi Zurich , Bộ Tư pháp Mỹ đã chuyển tới Thuỵ Sĩ lệnh bắt giam ông.

                        Người ta nói cuộc đời của người nghệ sĩ gốc Ba Lan này nhiều vinh quang nhưng cũng đầy bi kịch như các bộ phim u ám của ông.


                                       Vinh quang và cay đắng



                          Roman Polanski sinh tại Paris với tên khai sinh là Rajmund Roman Liebling năm 1933, được đưa về sống ở Ba Lan trước Thế chiến 2.  Ông thoát chết tại biệt khu Do thái ở Krakow nơi mà mẹ ông (người Ba Lan gốc Do Thái) bị phát xít Đức giết trong lò hơi ngạt ở một trại tập trung.

                       Sau chiến tranh, ông vào học ở Viện Điện ảnh Quốc gia Ba Lan và đã nổi tiếng ngay với phim đầu tay "Con dao dưới nước" năm 1962. Bộ phim ý phê phán xã hội Ba Lan hậu chiến, với hình tượng toàn những cảnh ngột thở trong một chiếc du thuyền...được giới phê bình đánh giá cao tại liên hoan phim Venice .
                     
                       Tại Ba Lan, phim thời trẻ của ông được xếp cùng dòng điện ảnh mang nặng tính bi quan của thế hệ hậu chiến. Sang Hollywood ông nhanh chóng trở thành một nghệ sĩ lớn với những thành công vượt bậc.

                       Tác phẩm gây tiếng vang lớn trong thập niên 60 của ông tại Hollywood là phim "Đứa con của Rosemary", một phụ nữ nằm mộng quan hệ với quỷ dữ và có mang. Phim ra năm 1968, trong phim không khí nặng nề, độc địa... nó còn tác động mạnh đến thể loại phim kinh dị mang mầu sắc tâm lý ở phương Tây sau này.

                      Nhưng một thảm kịch nữa đã xẩy ra với chính nhà làm phim vào ngay năm sau, khi vợ ông Sharon Tatte đang có bầu 8 tháng bị một nhóm tội phạm giết tàn bạo cùng 4 người khác trong vụ án làm rung động nước Mỹ. Những kẻ sát nhân đã nhận lệnh từ một lãnh tụ giáo phái Charles Manson.

                      Có bình luận rằng vụ giết Sharon Tate để chấm dứt trào lưu tinh thần của thập niên 1960, nhưng cũng có những lời giải thích là Manson muốn khai mào một cuộc chiến chủng tộc ở Mỹ.

                       Sau đó Charles Manson còn tiếp tục gây thêm một vụ án mạng nữa đã giết người giám đốc của một siêu thị là Leno LaBianca và vợ ông ta.
                     
                        Mất 5 tháng truy lùng, cảnh sát đã tóm gọn Charles Manson và đồng bọn.. Năm 1971 kết thúc phiên toà xử Manson với án tử hình giành cho hắn,  nhưng rồi được chuyển thành án chung thân do Mỹ bãi bỏ mức án tử hình.

                          Sau cái chết bi thảm của vợ năm 1969 Polanski bị khủng hoảng tinh thần, ông sang sống ở châu Âu và dựng phim Macbeth năm 1971, là kịch bản của Sêcxpia với cách diễn tả tác phẩm u tối và đầy áp bức.

                      Năm 1974 ông trở lại Hollywood để làm phim "Phố Tàu" (Chinatown), tác phẩm được trong giới đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp điện ảnh tại Mỹ của Polanski. Trong phim chính Polanski cũng đóng vai của một kẻ du thủ, du thực. Phim được đề cử Oscar và nhận giải cho kịch bản hay nhất.

                      Nhưng ba năm sau (1977) thì ông lại dính vào vụ xâm phạm tình dục tai tiếng ấy...để rồi phải chạy trốn sang Pháp, sống  với người vợ hiện nay cũng là một diễn viên Pháp Emmanuelle Seigner và hai con.

                       Những năm sau đó ông vẫn tiếp tục gặt hái được những thành công rực rỡ trong nền điện ảnh thế giới .
                     
                      Bên cạnh các phim như Bitter Moon (1997) hay Death and the Maiden (1994), phim Frantic (1988) với Harrison Ford trong vai chính và Ninth Gate (1999) với Johnny Depp là những phim nổi tiếng hơn cả của ông.

                         Gần đây nhất, phim The Pianist (Nghệ sĩ dương cầm), như nhắc lại một phần tiểu sử thế hệ bị tiêu diệt của người Do Thái ở Ba Lan, đã đoạt giải Cành Cọ Vàng  ở Cannes tháng 12/2002 cho Adrien Brody thủ vai chính, và giải Oscar cho đạo diễn  giỏi nhất 2003. Nhưng ông không dám đi dự lễ  mà để Harrison Ford, người đóng chính trong bộ phim Frantic của ông thay mặt lên sân khấu nhận giải.


                                                  Dù sao luật là .... luật

                     
                          Vụ đạo diễn Roman Polanski đột nhiên bị bắt tại Zurich đã gây sự chấn động trong nhiều giới tại châu Âu, đồng thời lại càng có dịp để người ta nhắc nhiều tới những bộ phim nổi tiếng và cả cuộc đời đầy bi kịch của ông.

                        Tin tức ở Pháp ngay ngày 28/9 đã cho hay các chính trị gia nước này đã lên tiếng bảo vệ đạo diễn Polanski.

                       Bộ trưởng Văn hoá Pháp Frederic Mitterand nói, ông bị sốc vì vụ Thuỵ Sĩ bắt nghệ sĩ là công dân Pháp, và ông cho hay Tổng thống Nicolas Sarkozy cũng rất quan tâm, đang theo sát sự kiện này. Tổng thống hy vọng vấn đề của ông Roman Polanski sẽ được giải quyết sớm để ông ấy có thể trở về gia đình. Ông Mitterand còn cho biết ông cùng Bộ trưởng ngoại giao Ba Lan Radoslaw Sikorski đang vận động cả chính giới Mỹ can thiệp. Nhiều nhân vật có tên tuổi trong giới văn nghệ sĩ ở châu Âu  như Monica Bellucci, Fanny Ardant, Robert Harris...đều lên tiếng ủng hộ Polanski. Ban tổ chức liên hoan phim Zurich ra tuyên bố: " Roman Polanski một trong những đạo diễn phim vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, lẽ ra đã được nhận giải thưởng thành tựu trọn đời tại Liên hoan phim Zurich ".             

                         Nhưng các công tố viên ở Mỹ thì lại luôn khẳng định, luật pháp sẽ không nghiêm minh nếu cho phép một người đàn ông vẫn ở ngoài vòng pháp luật, khi người này đã mang tội " cho uống thuốc mê hay ma tuý và hiếp dâm một cô bé 13 tuổi", kể cả việc đó đã qua từ hơn 30 năm trước. Mặc dù Roman Polanski cũng đã từng giải thích rằng: Ông không hiếp dâm (có lẽ thứ thuốc ông cho uống chỉ để kích thích tình dục). Rằng ông cứ tưởng cô Samantha Gailey khi đó đã nhiều tuổi hơn thế và cô ấy đã đồng ý cho ông… Rằng cô ta cũng rất biết làm tình trong chuyện yêu đương.

                        Tại châu Âu còn có tin Polanski cũng từng quan hệ với nữ diễn viên Nastassja Kinski đã đóng trong phim Tess của ông được đề cử Oscar năm 1977, khi cô ta mới 15 tuổi.           
                     
                          Như cây bút John Farr đã viết:
                    -         Dù sao luật là luật. Nhưng với những gì mà Polanski trải qua trong đời, tôi có cảm giác ông ấy vừa là nạn nhân vừa là "con thú ăn mồi sống"!

                       Ở Mỹ, tin tức vụ bắt giữ đạo diễn Roman Polanski tại Thuỵ Sĩ đã gây nhiều ý kiến tranh cãi phản ứng khác nhau: Có người nói tại sao lại để nội vụ kéo dài quá lâu, nhưng cũng có số lại cho rằng đã tới lúc hãy để yên cho nhà đạo diễn! Những người này nhấn mạnh là vụ án đã bị tỳ hà về phương diện hình thức.

                         Chính nạn nhân trong vụ là bà Samantha Geimer (tức cô bé 13 tuổi ngày trước), hiện có gia đình cùng ba con nói đã tha thứ cho Polanski và chính bà cũng kêu gọi hãy huỷ bỏ cáo trạng này. Bà chỉ yêu cầu là từ nay hãy quên hẳn chuyện cũ, bởi vì việc cứ tiếp tục đào xới mãi chi tiết của nó sẽ làm ảnh hưởng  tới chồng và các con bà.

                       Nhưng trên các trang blog không phải ai cũng rộng lượng như thế. Một Blogger đã viết: "Dù đó là một nhân vật nổi tiếng, nhưng lẽ công bằng có nghĩa là những người như Roman Polanski phải chết ở trong tù".

                         Các báo ở châu Âu ủng hộ ông thì nói vụ án năm 1978 có nhiều tình tiết sai phạm về thủ tục. Một số ý kiến ở Ba Lan thì gợi ý rằng: Vị quan toà ra lệnh bắt Polanski trong thập niên 1970 mà nay đã qua đời, từng có những tuyên bố bài ngoại và muốn "trừng trị" Polanski.

                        Theo báo từ Paris - Nhà làm phim Roman Polanski đã nói sẽ chiến đấu trong việc ông bị dẫn độ về Hoa Kỳ.

                      Luật sư của ông tại Thuỵ Sĩ là Georges Kiejman cũng đang phản đối lên toà và hết sức bảo vệ ông. Vị luật sư này đang cố gắng để Roman Polanski được thả tự do - đã nói thêm rằng, hiệp định dẫn độ giữa Mỹ và Thuỵ sĩ có những điều không rõ ràng.

                        Nói chung bên bị cáo muốn toà coi vụ việc hiện nay là không còn hiệu lực, nhưng quan toà tại Mỹ vẫn muốn phải dẫn độ Polanski về Los Angeles để khai báo trước khi ra phán quyết.

                    Tuy nhiên chiều hướng tình hình lại có vẻ xấu đi đối với Roman Polanski - Nhiều người cho rằng, đến Thụy Sỹ là một quyết định sai lầm và là điều không may với ông. Những phóng viên có cảm tình với vị đạo diễn tỏ ra bất bình với việc Thụy Sĩ đã mời Polanski qua tham dự Liên Hoan Phim, họ cho rằng thực chất mục đích là để giăng ra "cài bẫy" ông. Tuy các ủy viên công tố của Mỹ cho biết Roman Polanski luôn có tên trong danh sách truy nã của Interpol nhiều năm qua và họ không sai khi làm việc này.

                       Kể cả sự ủng hộ rất quyết liệt của ngài Bộ trưởng Văn hoá Pháp Frederic Mitterrand cũng không chắc đã tạo được hiệu quả!  Bởi Ngoại trưởng Mỹ - Bà Hillary Clinton hôm 30/9 đã tuyên bố, tòa án sẽ xử Roman Polanski theo đúng luật định. Bà khẳng định sẽ bỏ qua đề nghị của Paris khi yêu cầu bà can thiệp. Và, cho dù Bộ trưởng Frederic Mitterrand đã lên tiếng bảo vệ Roman Polanski đi chăng nữa, thì bà cũng không thể làm trái luật pháp Mỹ đã ban hành.

                         Một bất lợi nữa đối với ông Frederic Mitterrand là sau khi ông trực tiếp bày tỏ ý muốn bảo vệ đạo diễn Roman Polanski trước Chính phủ Pháp, như lý do mà ông đã nói: "Tôi là Bộ trưởng Văn hóa và tôi có nhiệm vụ lên tiếng bảo vệ cho những nghệ sĩ. Đây là việc phải làm khi người nghệ sỹ “vướng” vào những scandal hay phải đối diện với pháp luật - Ông Frederic Mitterrand còn nhấn mạnh - Ông Roman Polanski không những là một nghệ sỹ lớn mà còn là một công dân Pháp và ông ấy xứng đáng nhận được sự ủng hộ, nhất là với lòng trắc ẩn từ một người làm Bộ trưởng Văn hóa như tôi”.

                         Nhưng cũng trong tối 30.9, Chính phủ Pháp lại thông báo vụ Roman Polanski không thuộc quyền quyết định của Pháp và mọi việc tùy Tòa án Mỹ hành động. Điều này đã đặt ông Bộ trưởng Frederic Mitterrand vào tình huống khó xử.

                            Dù Roman Polanski được một quan chức "cỡ bự" đề xuất nộp tiền bảo lãnh để ông được tại ngoại, nhưng bị từ chối hôm 6/10. Hãng Reuters đưa tin, đại diện của Văn phòng chưởng lý Thụy Sĩ  Folco Galli nói: “Theo đánh giá của chúng tôi, nguy cơ Roman Polanski lại chạy trốn là rất cao. Tiền đóng thuế hay bất kỳ biện pháp kiểm soát nào khác đều không đảm bảo việc ông ta sẽ có mặt trong quá trình trao trả cho Mỹ. Như năm 1978, Roman đã bị giam tại Mỹ 42 ngày , nhưng khi được tạm tha để chờ  xét xử thì ông ấy lại bỏ trốn sang Pháp “.
                     
                       Cục Tư pháp Mỹ có 60 ngày để gửi yêu cầu dẫn độ Roman Polanski về Los Angeles .
                          Nếu phải dẫn độ về Mỹ và bị tuyên án có tội, Roman Polanski có thể phải ngồi bóc lịch tới 50 năm.

                      
                                                                                        PNT (tổng hợp)
                                         ( Đã đăng trên Tuần báo "Thế giới & Việt Nam"
                                                   số 157 ra ngày 14/11/2009)




                        Đạo diễn Roman Polanski và vợ
                      năm 1969 trước khi bà bị giết




                    Roman Polanski 






                    Samantha Geimer năm 13 tuổi và hiện nay
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2009 12:30:13 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Nhatho_PhamNgocThai 15.12.2009 11:25:27 (permalink)
                    .


                                BÌNH MỘT BÀI THƠ TÌNH DA DIẾT MÁU TIM:


                              CẢ MỘT TRỜI MƯA            
                                NGHIÊNG XUỐNG EM




                    Cả một trời mưa nghiêng xuống em
                    Tôi không thể đi theo mà che chở
                    Mà ngăn lạnh mưa và cồn cào gió
                    Cả một trời mưa - chỉ có riêng em...

                    Bàn tay tôi có thể hóa mặt trời?
                    Tâm hồn tôi có thể dăng thành mái?
                    Để chở che bóng người con gái
                    Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi.

                    Tôi muốn cùng em chia gió lạnh giữa trời
                    Được đưa cho em bàn tay thương nhớ
                    Bởi tôi biết có phút giây nào đó
                    Tôi yếu mềm đau đớn giữa mưa bay...

                    Và em sẽ đặt vào tôi những ngón tay
                    Nâng đỡ tôi vượt qua bão tố
                    Như hôm nay nghiêng trời mưa đổ
                    Tôi vô hình lặng lẽ bước bên em...


                                                            Phạm Đức



                                      Lời bình của PHẠM NGỌC THÁI

                        Một bài thơ tình, ở đó - ta thấy bóng dáng của nhà thơ đang run rẩy, thương nhớ một người con gái. Phạm Đức đang yêu! Nói đúng hơn, anh đang tha thiết muốn yêu... vào một ngày mưa đổ.

                                      Cả một trời mưa - chỉ có riêng em

                    Nhìn cảnh trời mưa, lòng anh cảm thấy xa xót với sự cô đơn của người con gái trong mưa! Phạm Đức nghĩ: Trời mưa gió thế mà không ai che chở cho em?... Cũng với tâm trạng ấy ở trong câu thơ thứ 8, anh viết:

                                         Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi...

                        Đó là vì anh nghĩ thế đấy chứ! Phạm Đức đang cô đơn hay người con gái kia cô đơn đây? Nhỡ, bên người con gái đó đã có một người khác che chở cho em rồi thì sao? Xiêu bạt giữa mưa rơi, nghĩa là xiêu bạt giữa cuộc đời. Nhưng dù gì đi nữa, khi đọc thơ vẫn làm cho ta cảm mến vì cái tình của anh thi sĩ. Đó là một câu thơ đẹp, thơ hay!

                                  Áo trắng bàng hoàng xiêu bạt giữa mưa rơi

                        Hình tượng thơ mang màu sắc của thơ mỹ học mà sống động lạ thường. Còn cảnh: Cả một trời mưa nghiêng xuống em/- Thì không phải chỉ có riêng mỗi trời mưa, mà cả lòng nhà thơ đang nghiêng xuống em đó!

                       Đó là cơn mưa gió cuộc đời - Và trong cơn mưa gió ấy, anh đang muốn chở che cho người con gái, như anh nói:

                                 Mà ngăn lạnh mưa và cồn cào gió

                        Nhà thơ khao khát được cùng em chia xẻ những buồn, vui trong cuộc sống. Như ở đoạn thơ hai:

                                      Bàn tay tôi có thể hóa mặt trời?       
                                      Tâm hồn tôi có thể dăng thành mái?
                                     
                                      Để chở che bóng người con gái...


                        Chính là lúc Phạm Đức đã yếu lòng:

                                  Bởi tôi biết có phút giây nào đó
                                      Tôi yếu mềm đau đớn gữa mưa bay


                        Nghĩa là cả trái tim yêu của anh đang run rẩy! Lòng anh chợt bàng hoàng, lo lắng: Không biết rồi tình yêu ấy có đến với anh không? Người con gái ấy có đến với anh không? Bởi chính tình yêu của em sẽ nâng đỡ anh vượt qua bão tố cuộc đời. Đến cuối bài, hình ảnh thơ trở về thực tại - Cái thực tại lúc nhà thơ đang cô đơn, đang đứng giữa trời mưa đổ cồn cào, lòng đầy thương nhớ. Trong thơ anh đang lặng lẽ đến bên nàng, mà không biết nàng có hay:

                                        Như hôm nay nghiêng trời mưa đổ
                                       Tôi vô hình lặng lẽ bước bên em...


                        Phạm Đức là một nhà thơ của "Đơn phương" (*)! Anh đơn phương suốt đời và... suốt đời yêu tha thiết, chung thủy, xót xa. Cũng không hiểu vì sao: Một con người đáng yêu đến nhường ấy, nhân hòa nhường ấy - Vậy mà, con người ấy vẫn ngày ngày bóng lạnh, cô đơn! Tôi cứ nghĩ: Chắc anh phải là người sẽ được nhiều phụ nữ cảm mến lắm. Chỉ có thể trách rằng: Có lẽ thượng đế đã không công bằng?

                       " Cả một trời mưa nghiêng xuống em" là một bài thơ giàu cảm xúc, da diết máu tim,
                    tình ý chân thành,  giọng điệu nhịp nhàng, làn điệu thơ bay... đọc lên dễ làm xao xuyến hồn người.

                                                                                                       PNT.

                    (*) "Đơn phương" - Là nhan đề một tập thơ của anh
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.12.2009 11:29:24 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Nhatho_PhamNgocThai 11.01.2010 11:54:30 (permalink)
                    .


                           Tôi chưa bao giờ viết truyện ngắn - Và truyện ngắn cũng không phải là khẩu khí của tôi. Hôm nay tôi thảo tay bút, viết thử một truyện đọc cho vui thôi! Hơn nữa đây cũng mới chỉ là bản thảo dập dạp thôi mà... cứ viết lên đọc để rồi ngẫm tiếp mà sửa. Bạn đọc thông cảm nghe!


                                                    NGƯỜI THIẾU PHỤ SÔNG HƯƠNG

                       Trong những ngày gần gũi rồi thân thiết, có những lần lặng đi chạnh nhớ đến người thân, em đã kể cho tôi nghe về quê hương em. Mảnh đất mà em đã được sinh ra và lớn lên ở đó, chính là Huế! Nơi có con sông Hương trong xanh, thơ mộng chảy qua. Nơi giờ đây ba má cùng vợ chồng người anh trai của em vẫn đang sinh sống. Sau ngày đất nước thống nhất em lấy chồng rồi theo chồng ra ngoài Hà Nội. Chồng em là người miền Bắc, trong những năm tháng đất nước có chiến tranh đã theo quân ngũ vào miền Nam giải phóng. Cuộc sống của em tưởng như sẽ mãi mãi êm ả trong một tổ ấm gia đình, cùng với người chồng tốt và một đứa con trai nhỏ. Hàng năm trong những ngày nghỉ phép, hai vợ chồng lại đưa con về Huế thăm ba má, anh chị và bà con làng xóm quê hương. Không ai có thể ngờ rằng có ngày em lại ly dị chồng. Khi thành phố kinh tế thị trường mở cửa, chẳng bao lâu cái gia đình nho nhỏ, cái tổ ấm vẫn từng thân thiết trong tình cảm và cuộc sống của em, cũng dần dần bị bung ra rồi tan vỡ.

                       Cách đây ít năm, tuy vẫn ở Hà Nội nhưng tôi đã buộc mình phải tránh gặp gỡ em. Giờ đây gặp lại lòng tôi không khỏi bàng hoàng, chếnh choáng. Nàng trông có già dặn hơn xưa và cũng đẫy đà hơn. Đôi mắt của nàng không phải chỉ trong xanh, tươi mát của một sớm mai toàn màu thiếu nữ như trước. Tôi vẫn từng thấy như thế, mặc dù ngay khi gặp em rồi quyến luyến... lúc đó em cũng đã có chồng và có con. Giờ đây, đôi mắt ấy thăm thẳm, dịu dàng, như đã trầm lặng xuống của một chiều hoàng hôn đẫm tình ân ái. Da dẻ nàng vẫn trắng mịn, thân thể có nở nang hơn để tôn tạo thêm dáng vẻ phúc hậu của một người đàn bà.

                       Đối với nàng, sự xuất hiện của tôi không phải là không gây nên những bất ngờ.
                    -   Em cứ nghĩ là anh sẽ không bao giờ còn đến? Sau giây lát ngạc nhiên đứng nhìn tôi, nàng đã nói với tôi như vậy để thay cho câu chào hỏi.
                    -   Trong tình cảm của anh, em vẫn là Sao như ngày xưa! "Sao " là tên gọi của nàng.
                    - Thật thế ư? Nàng bảo. Nhưng chẳng lẽ từ hồi đó đến nay anh vẫn...
                       Bỗng nhiên nàng ngừng lại. Tôi lắc đầu rồi điềm tĩnh trả lời nàng:
                    -     Anh vẫn chờ đợi em!

                       Nàng im lặng không nói gì thêm nữa. Ngày hôm đó với tôi thật tràn đầy hạnh phúc. Nàng tiếp đón tôi thật thân thiết, cởi mở và nàng cũng không tiếc những tình cảm trìu mến, âu yếm đối với tôi. Lòng tôi khoan khoái lắm. Nhất là giờ đây, sự quan hệ giữa tôi và nàng không còn phải lo mối ngăn cách nào nữa. Bởi vì nàng đã bỏ chồng, nghĩa là nàng hoàn toàn tự do, còn tôi vẫn cứ là trai tân.

                       Trong ngôi nhà riêng của nàng tôi đã ở đó suốt buổi, hai đứa chuyện trò với nhau đến tận chiều. Tôi đã cho rằng, số tôi thế là may! Luống tuổi rồi mà vẫn chưa vợ, sống lủi thủi một mình trong căn hộ tập thể. Đêm hôm một mình một bóng, ngổn ngang một đống toàn sách và bản thảo của cuộc đời anh nhà văn. Ông bà cụ nhà tôi đều đã qui tiên. Có ba đứa em vừa trai, vừa gái chúng đều đã có gia đình. Mải lo làm ăn sinh sống, chúng làm gì có thời gian nhiều để lo nghĩ cho ông anh đang phải sống độc thân. Mà có nghĩ đến thì liệu chúng có thể làm được cái gì cho tôi cơ chứ?

                       Phải, chỉ có nàng! Chỉ có nàng thôi!... Từ nay cuộc đời tôi sẽ không còn phải phiền muộn nữa. Nàng là hy vọng, yêu thương, là niềm vui sướng. Tôi sẽ được sống cuộc đời ngập tràn hạnh phúc. Tôi sẽ yêu nàng mãi mãi và nhất định sẽ viết được nhiều tác phẩm hay hơn nữa. Có thể tác phẩm của tôi, nhờ sự hưng phấn trong tình yêu đối với nàng mà còn nổi tiếng thế giới nữa ấy chứ! Cứ nghĩ vậy lòng tôi bàng hoàng, tưởng như mình đang bay lạc vào một thế giới thần tiên hoàn toàn mới mẻ.

                    -   Em nói với anh rằng: Quê em bên bờ con sông Hương xanh! Cuộc đời của chúng ta cũng thế em ạ!
                    -   Cũng thế! Nghĩa là như thế nào anh? Nàng hỏi lại.


                                                   
                     
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2010 12:31:54 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Nhatho_PhamNgocThai 02.02.2010 12:00:50 (permalink)
                    .


                    Em có biết không? Tình yêu và cuộc sống của chúng ta sẽ thanh thoát như thiên nhiên, đất trời. Dễ chịu chẳng khác nào chim muông, hoa lá... mãi mãi bên nhau, yêu nhau đến răng long đầu bạc.

                    - Nhưng em thích có vài chỉ vàng đeo ở ngón tay trỏ, có vòng cườm đeo ở cổ tay, có sợi dây chuyền vàng mặt ngọc vòng quanh cổ, và nhất định là phải có thêm cả đôi hoa tai nữa anh ạ!

                    -   Dù có đầy đủ tất cả như thế, nhưng chắc đâu đã là hạnh phúc hả em? Em đừng nên chỉ chạy theo cuộc sống phù phiếm đó!

                      Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi đã phản bác lại quan niệm về cuộc sống của nàng. Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, nói một câu gọn lỏn: "Em không phải là Phật!".

                       Tuy vậy những ngày sau đó nàng vẫn đi chơi với tôi thêm vài lần nữa, hoặc đi xem. Nàng vẫn cố gắng để biểu lộ những tình cảm ân ái đối với tôi. Nhưng nàng thường im lặng nhiều hơn, rồi tới một lần nàng nói thẳng... thái độ nàng có vẻ kiên quyết lắm:

                    -   Chúng mình phải chia tay nhau ở đây thôi anh ạ! Cách sống của anh và em khác xa nhau nhiều quá!
                      
                       Lần này thì thực sự nàng đã làm cho tôi xúc động, mặc dù ít lâu nay trong mơ hồ tôi cũng đã nhận ra vết rạn nứt. Tôi đã có ý thức chờ đợi nó. Nghe nàng nói vậy, lặng đi giây lát tôi mới chầm chậm nói với nàng:

                    - Chắc em có ý định đến với người đàn ông hôm trước?

                       Tôi chợt nhớ ra cái gã đàn ông, mà có bận đến thăm nàng tôi đã gặp. Gã có khuôn mặt hơi dài, nước da cũng hơi bềnh bệch. Đôi mắt của hắn nhỏ khoáy sắt lại như vừa ranh mãnh, vừa đắc ý.

                    -  Anh ta tên là gì nhỉ? Tôi hỏi vậy, nhưng rồi lại tự trả lời:

                    -  À, phải rồi. Nguyễn Mạnh Hồ! Đúng, Nguyễn Mạnh Hồ!...

                       Không biết có phải vì bị một cú xốc không mà tôi đã nói một thôi, một hồi như thế. Nàng kéo tôi vào sát người nàng... và giọng nàng vẫn tha thiết lắm:

                    -   Anh tha lỗi cho em!

                    -   Ồ không, em có lỗi gì đâu!

                       Lúc ấy tôi không biết mình ra sao nữa. Có lẽ tôi hơi hoảng hốt. Tôi vừa bị mất đi một cái gì lớn lắm, nhưng tôi biết là không thể làm được gì hơn nữa. Rồi tôi đã nói với nàng:

                    -     Anh biết là anh đã mất em! Nhưng anh vẫn yêu em. Anh sẽ yêu em suốt đời, Sao ạ!

                       Dường như nàng cảm được nỗi đau mà tôi đang phải đón nhận, nên từ lúc đó nàng cứ ghì chặt lấy tôi. Nàng xiết đôi môi nàng rẫy của nàng để hôn tôi, những giọt nước mắt của nàng chan chứa. Nàng đã khóc để vĩnh biệt một người tình xấu số như tôi!

                       Cho đến khi tôi rời khỏi nhà nàng, chung quanh tôi chỉ còn lại bóng đêm và sự cô đơn trống rỗng. Tôi lấy tay phủi mặt giọt sương bám trên áo, quay gót đi về phía căn phòng ảm đạm trong khu gác tập thể. Nó đang đợi tôi về bàu bạn cùng nó: "Tất cả, thế là hết!" - Tôi nghĩ vậy.

                                                                                                 *

                       Thời gian cứ thế trôi qua, nhưng hình ảnh cái gã trưởng phòng Công ty môi giới Nguyễn Mạnh Hồ ấy... cứ xoáy mãi vào trong tâm trí tôi. Phải, chính gã ta là kẻ đã cướp hạnh phúc tuột ra khỏi tay tôi. Hắn cũng chính là kẻ đã lôi "Sao" của tôi vào cái vòng nhảm nhí ấy. Sao cũng đã vào làm việc ở trong Công ty của hắn. Cứ nghĩ đến hắn, không hiểu sao tôi lại thấy rùng mình... ái ngại cho Sao.


                                                          




                                  
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.02.2010 11:50:50 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Nhatho_PhamNgocThai 23.02.2010 11:49:07 (permalink)
                    .


                    -      Mình lại ghen tức với hắn rồi?

                        Tôi cố xua đuổi ý nghĩ ấy đi, nhưng vẫn văng vẳng bên tai tôi cái giọng khoe khoang, hợm hĩnh tiền bạc của hắn.

                    -     Mỗi người có một cái tài thượng đế phú ban cho!

                        Rồi hắn chỉ vào tôi: "Anh - hay văn, hay chữ thì viết sách, viết báo kiếm cơm. Bọn tôi, tài bán buôn thì kiếm đô-la sài cho đỡ buồn.

                        Thật là, cái giọng nói cũng phù hợp với sự ăn vận của hắn. Hồ diện một bộ complê ly nếp thẳng bong, mái tóc thưa thoa bi-xăng-tin bóng mượt xoáy về phía trước, che vợi cái trán tẹt và hơi hói của hắn. Con người ấy toát lên toàn sự nhảm nhí, nông cạn. Thế mà nàng lại yêu?

                        Tôi nhớ, hồi trước có một lần trong cuộc gặp gỡ tay ba, nàng đã cố ý khoe hắn trước mặt tôi:
                    -     Anh Hồ giỏi lắm, một nhà kinh doanh có "tem" đấy!

                        Nói rồi Sao còn phá ra cười rất thoải mái. Thậm chí có lúc nàng còn tỏ ra nũng nịu, đằm thắm với hắn. Nàng tiếp tục phô trương cho gã:

                    -     Trong tương lai gần đây, anh Hồ vào diện đối tượng số một kế thừa chân giám đốc công ty!

                        Phù phiếm... thật là phù phiếm... cả gã Hồ và nàng. Nhưng rồi nghĩ đến những lúc nàng lao vào trong vòng tay của cái gã thô thiển như thế, tôi lại thấy đau.

                        "Sao của tôi thay đổi nhiều quá!" - Tôi nghĩ vậy. Những quan niệm hưởng lạc, sống gấp cuốn em đi như cuốn theo chiều gió. Những mốt sống ăn chơi, hưởng thụ cho phỉ chí, những cảnh đàn đúm hội hè, xa hoa...

                        "Lúc nào cũng phải đàng hoàng cho ra cậu, ra mợ!" - Em hay nói như vậy.

                        Sự ganh đua choáng ngợp nơi thị thành lôi kéo em, rồi em ngã vào lòng những tay đàn ông mà em cho là những trang thao lược của cái thời buổi thị trường này. Tâm tình của một cô gái Huế, người thiếu nữ của dòng sông Hương trong xanh năm xưa, chỉ còn là một cái bóng mờ đã cũ đối với em từ rất xa xăm. Có lẽ cũng chính vì những mâu thuẫn nẩy sinh đó, mà cảnh vợ chồng đang đoàn tụ đầm ấm của em ngày càng trở nên cách biệt, rồi tan vỡ.

                        Có lần em đã nói với tôi:
                    -   Anh ấy (tức là người chồng cũ của en), sống buồn đến chết!

                        Em còn nói:
                    -   Một anh chồng hiền thì có hiền, tốt thì có tốt... nhưng khô như cơm nguội!

                        Có vẻ như em muốn thanh minh với tôi rằng: Em tuy chẳng phải là cao xa, nhưng cũng không đến nỗi. Sống cứ phải tiếc rẻ, héo hon như thế? thật phí cả đời đàn bà con gái!

                        "Chắc hẳn đối với em"  - Tôi chạnh nghĩ, mình cũng chỉ là một gã buồn chán, tẻ ngắt và khô khốc? Như người chồng ấy của em thôi!

                        Nhưng không phải là không có những lúc em cũng nhận thấy cái cuộc sống xa hoa, bỗ bã kia rồi cũng nhàm chán, vô vị. Những lần với những tâm trạng buồn nản như vậy - Tôi cũng là người để cho em trút đổ những bực bội, cặn bã trong người. Nhưng rồi cảnh sống thèm khát lại cuốn em đi như một con thiêu thân. Càng lao vào em càng không thể gỡ ra được nữa.Em thấy thật khốn khổ: nếu như lại rơi vào cảnh sống, muốn tiêu pha lại cứ phải so đếm vì thiếu tiền! Cũng như em không thể chấp nhận hai chữ "đơn giản" hoặc "bình dị"!

                       Hạnh phúc là cái gì? Ở trong cảm nhận của em, chỉ còn là những khái niệm mơ hồ về vật chất. Thế là cái gã trưởng phòng công ty môi giới ấy, đã cướp trắng nàng trong tay tôi!

                       Thỉnh thoảng tôi cũng có đi ngang qua công ty, nơi em mới đến làm việc. Đôi lần tôi đã gặp em. Thật ra những lần ấy em tiếp tôi có phần lạnh nhạt, thờ ơ... như đối với một người chỉ quen biết sơ sơ. Tiếp tôi ít phút rồi em miễn cưỡng xin lỗi tôi bỏ vào trong cơ quan vì đang bận việc. Dần dần tôi đã ít đến, tuy vẫn không sao quên được hình ảnh của nàng. Tôi vùi đầu vào quên đi để viết tác phẩm, viết bài đăng báo. Tôi đã nghĩ: "Thôi, lần này vĩnh viễn xa em!".

                        Một năm, hai năm, rồi bốn hay năm năm gì đó trôi qua... Một hôm, vào một buổi sớm vô tình tôi gặp lại cái gã Nguyễn Mạnh Hồ ấy trên phố. Cái con người mà tôi ghét cay, ghét đắng. Cái con người, chỉ cần nhìn thấy tôi đã muốn quay đi không thèm giáp mặt. Tất nhiên, gã cũng chẳng thèm bận tâm đến tôi. Nhưng lần này trông thấy gã, tôi lại rất thân mật chào hỏi:

                    -     Chào anh Hồ! Hồi này anh Hồ vẫn mạnh khoẻ chứ?
                       Thực ra là tôi chỉ muốn qua gã, để biết ít tin tức về Sao của tôi! Nguyễn Manh Hồ phải đứng ngây ra đến một phút, vì sự đường đột của tôi.

                    -     À, tôi nhớ ra rồi! Ông nhà văn cũng có thời gian đi chơi phố cơ đấy? Hắn nói vậy.

                    -     Công ty môi giới của anh làm ăn vẫn phát đạt chứ? Tôi lại hỏi.


                                           

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2010 10:50:05 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    Thay đổi trang: << < 789 > >> | Trang 7 của 18 trang, bài viết từ 91 đến 105 trên tổng số 270 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9