Truyện dịch : 451 độ F
Paloma 02.05.2008 15:26:11 (permalink)
0
Fahrenheit 451 by Ray Bradbury


 Paloma dịch từ cuốn Fahrenheit 451 - tác giả Ray Bradbury.
Xin chia sẻ cùng các bạn trên VN thư quán. Paloma không làm trong nghề dịch thuật, vì vậy rất mong được các bạn góp ý.
 
" Science fiction is what happened to magic when it passed through the hands of the alchemists and became future history."
-Ray Bradbury



 
Giới thiệu và tóm tắt.
 





Câu chuyện về anh lính hoả Guy Montag xuất hiện lần đầu tiên trong truyện ngắn "Người lính hoả" của Ray Bradbury do Galaxy Science Fiction xuất bản năm 1951. Hai năm sau câu chuyện được xây dựng mở rộng thêm và tác phẩm '451 độ F'(*) ra đời (1953). Cuốn tiểu thuyết này được xếp vào loại truyện khoa học viễn tưởng, đồng thời cũng là cuốn sách mang tính phê bình xã hội tầm cỡ hàng đầu, đi tiên phong trong việc cảnh báo và chống lại nguy cơ kiểm duyệt sách. 451 độ F sử dụng thể loại khoa học viễn tưởng- vốn rất được ưa chuộng lúc bấy giờ- làm phương tiện chuyển tải thông điệp của tác giả : Một chính phủ áp đặt hoặc giới hạn sự sáng tạo và tính tự do của con người sẽ phá hoại xã hội của mình vô phương cứu chữa. Đặc biệt, mô típ "xã hội hiện thực" khá phổ biến trong khoa học viễn tưởng - một xã hội chuyên chế trong tương lai với công nghệ hiện đại hòng mong có được trật tự và thống nhất đặt lên trên giá trị quyền con người - đã làm nên thành công của tác phẩm.

Ra đời vào những năm tháng của Thế Chiến II, 451 độ F lên án không chỉ riêng chủ nghĩa Bài tri thức của đảng Nazi tại Đức (đã thất trận), mà trực tiếp hơn là bầu không khí chính trị áp đặt lên giới trí thức của đầu những năm 50 - thời hoàng kim của chủ nghĩa McCarthy. Những tác phẩm phê bình xã hội có sức nặng viết ở dạng giả tưởng như 'Trại gia súc' của Orwell năm 1984 và Walden 2 của Skinner ra đời sau 451 độ F vài năm không phải do ngẫu nhiên. Những tác phẩm này bộc lộ sự e sợ thực sự đối với nguy cơ Hoa kỳ sẽ phát triển thành một xã hội chuyên chế và áp đặt trong thời kỳ hậu Thế chiến II.

Ở mức độ riêng tư, bản thân Bradbury sử dụng 451 độ F làm phương tiện để qua đó thể hiện sự phản đối với vấn đề mà ông cho là nạn lan tràn các nhà biên tập chuyên phá hỏng nguyên bản và sự sáng tạo của người viết thông qua những kiểm duyệt nghiêm ngặt của họ. Mỉa mai thay, tuy bản thân 451 độ F là một phương tiện lên án sự kiểm duyệt nhưng cũng thường xuyên bị chỉnh sửa từ ngữ cho đúng luật.

451 độ F, cuốn tiểu thuyết phổ biến nhất của Ray Bradbury đã được in lại rất nhiều lần kể từ năm 1953. Bài học rút ra được từ tác phẩm kinh điển của Mỹ này là tính nguy hiểm của việc kiểm duyệt và sự kiểm soát của chính phủ đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Và ngày nay , cuốn tiểu thuyết vẫn giữ nguyên giá trị hiện thực như những ngày đầu nó mới ra đời.

 
Truyện lấy bối cảnh là thế kỷ 23 -24, tại một thành phố của nước Mỹ tương lai.
 
Luật pháp không cho phép dân chúng đọc sách, vì qua thời gian, luật kiểm duyệt đã cấm hầu hết tất cả các cuốn sách vì cuốn nào cũng sẽ động chạm ít nhiều đến một tầng lớp, một nhóm người nào đó trong xã hội. Đồng thời sách bị coi là một hình thức giải trí phí phạm thời gian, và tạo cho con người những ảo tưởng và mơ ước rẻ tiền viển vông. Hình thức giải trí bằng TV chiếm lĩnh cuộc sống của con người. Họ sống giữa 4 bức tường là TV màn hình rộng, tham gia vào cuộc sống ảo trên TV đến mức coi đó như "gia đình" mình. Nếu không xem TV thì tai họ lại nhét chặt radio vỏ sò- một thiết bị thu sóng tí hon...Bất cứ ai bị phát hiện tàng trữ sách với bất cứ mục đích gì sẽ bị bắt và bị đốt nhà cùng với toàn bộ số sách trong đó. Lực lượng thay mặt chính phủ đi đốt nhà họ không ai khác chính là các Firemen (**) (vì trong tương lai nhà cửa đều có vỏ bọc chống cháy -->ko có hoả hoạn --> lực lượng cứu hoả bị biến tướng thành những người đi đốt nhà.) Và Montag là một trong những lính hoả này. Xã hội anh đang sống và phục vụ đó tồn tại trên một đống tro tàn của tri thức, và lẽ tất nhiên, nó trở nên cằn cỗi, vô cảm, phi nhân tính và hiện đại đến mức con người trở nên thừa thãi và sự tồn tại của họ giống như một sự vô nghĩa lý mỉa mai. Một xã hội không có gốc rễ, không có quá khứ hay tương lai. Chính điều đó đã đẩy xã hội này tới chỗ tất yếu bị diệt vong ở phần cuối câu chuyện.



Montag tình cờ gặp Clarisse, một cô gái sinh ra trong một gia đình trí thức cũ còn sót lại nhờ giấu giếm đọc sách. Và chính cô đã khiến con người nhân bản trong anh thức giấc. Anh nhận ra sự vô nghĩa trong cuộc sống của mình, và vì thế mà anh hiểu mình không hạnh phúc, không có tình yêu với người vợ đã 10 năm chung sống theo một thói quen vô nghĩa. Rồi lần lượt những sự kiện nối tiếp nhau xảy ra trong cuộc sống của anh khiến anh buộc phải tìm đến sách như một sự cứu rỗi cuối cùng và duy nhất, với hy vọng tìm được điều lấp đầy sự trống rỗng trong cuộc sống của anh. Rồi anh tìm kiếm thêm những người cùng chí hướng. Bọn họ chờ đợi thêm một cú huých của lịch sử, khi thành phố bị bom phá huỷ trong cuộc chiến tranh, để tận dụng cơ hội đó làm tái sinh một thành phố khác giàu có gốc rễ bắt nguồn từ tính nhân văn.

( *451 độ F là nhiệt độ mà tại đó giấy bắt cháy. 

** Từ "fireman" trong từ điển nghĩa là "lính cứu hoả". Nhưng trong truyện này buộc phải dịch thành "lính hoả". )


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2008 02:20:36 bởi Ct.Ly >
#1
    Paloma 02.05.2008 18:32:01 (permalink)
    0
    Phần 1
    Con rồng và Lò lửa




    Nhìn lửa cháy cũng là một thú tiêu khiển.


    Cảm giác khi nhìn những đám cháy luôn đặc biệt dễ chịu. Khi ấy, mọi vật bị lửa ăn dần, trở nên đen thui và biến dạng. Đeo đôi găng tay bọc mũi đồng, đứng cạnh chiếc xe giống hệt một con rồng khổng lồ đang khạc nọc dầu lửa lên khắp vạn vật, với mạch máu đập dồn trong đầu, và với đôi bàn tay của người nhạc trưởng tài ba đang điều khiển dàn nhạc chơi bản giao hưởng rừng rực lửa cháy, ánh sáng bao trùm mọi thứ và ngọn lửa thiêu rụi những thành quả mà thời gian đã vất vả tạo dựng, với chiếc mũ bảo hiểm mang số 451 trên mái đầu bình thản, với cặp mắt nhuốm màu lửa cam rừng rực phấn khích về việc mình sắp làm, anh kích ngòi nổ. Cả ngôi nhà nảy lên trong lửa, thiêu đốt bầu trời đêm trong ánh đỏ, vàng và đen. Anh bước đi trong đám tàn lửa mù mịt. Giống như chơi một trò cũ thường chơi, anh lấy que gảy đám thục quỳ trong lò lửa, khi ấy những trang sách như những cánh bồ câu chết rũ bung lên rồi rơi xuống khoảng sân và cổng ngôi nhà, những trang sách đỏ rực bị cuốn đi trong cơn gió tối sầm vì đám cháy.
    Montag cười, nhe hàm răng một cách dữ dằn, đúng như cách những kẻ bị kích động do màu đỏ của lửa vẫn thường cười.
    Anh biết khi quay lại trạm đốt, anh sẽ nháy mắt với mình trong gương - Anh, một nghệ sĩ đầy cảm hứng, một lính hỏa máu lạnh. Sau đó khi lên giường đi ngủ, anh sẽ nhận thấy các cơ mặt của mình giãn ra bởi một nụ cười dữ tợn. Nụ cười đó sẽ không bao giờ tắt, không thể nào biến mất, chừng nào trí nhớ của anh chưa bị nhoà đi vì giấc ngủ.
    Anh treo chiếc mũ bảo hiểm đen bóng lên và lau chùi nó. Anh mắc chiếc áo chống cháy gọn gàng trên giá. Anh khoan khoái dầm mình dưới vòi sen. Rồi sau đó, miệng huýt sáo, tay đút túi quần, anh đi qua tầng trên của trạm đốt, đu mình xuống ô trượt. Cuối đường trượt, anh rút tay khỏi túi và bám vào cây cột đồng. Tiếng rít chói tai báo hiệu đã tới điểm dừng, gót chân chỉ còn một inch là chạm sàn tầng dưới. Anh bước ra ngoài, đi dọc con phố đêm xuôi về phía ga tàu điện ngầm, nơi con tàu chạy bằng áp suất không khí đang trôi im lìm trong hệ thống ống ngầm. Rồi bước ra để đón nhận không khí ấm áp tràn ngập buồng phổi, theo thang cuốn đi lên mặt đất và ra khu ngoại ô.
    Vẫn huýt sáo, anh để thang cuốn nhẹ nhàng nâng mình lên, tắm trong không gian tĩnh lặng của đêm. Anh đi về phía góc đường, những ý nghĩ tản mạn chẳng tập trung vào điều gì cụ thể. Tuy vậy trước khi tới góc đường quen thuộc, bước chân của anh bỗng chậm lại như thể vì có một cơn gió bất ngờ thổi qua, như thể vì có ai đó gọi tên mình.

    Vài đêm trước đó, mỗi khi bước về nhà dưới ánh sáng lờ mờ của sao đêm, anh lại có một cảm giác mơ hồ về con đường nơi góc rẽ này . Cảm giác đó trở nên rõ rệt hơn ngay trước khi anh đến ngã rẽ, cảm giác có người đang đứng đó. Không gian chợt lắng xuống một cách kì lạ như thể vì có ai đang đứng đợi ai trong im lặng, và nhanh chóng tan biến vào bóng đêm ngay trước khi anh đến rồi đi xuyên qua nó. Khứu giác của anh nhận thấy mùi nước hoa thoảng nhẹ từ bàn tay, từ khuôn mặt người đó, hoặc cảm thấy hơi ấm rõ rệt nơi người đó vừa đứng khiến cho không khí tăng thêm 10 độ F trong giây lát. Thật không sao hiểu được, khi rẽ, anh lại chỉ thấy vỉa hè hẹp hoang vắng mờ mờ trong đêm. Có lẽ, có cái gì đó vừa lướt nhanh trước khi anh kịp nhìn hay lên tiếng hỏi.

    Nhưng đêm nay, anh đi rất chậm, gần như đứng hẳn lại. Tâm trí anh vượt lên trước bước chân để tới ngã rẽ, và tâm trí nghe thấy tiếng động rất khẽ. Là hơi thở ? Hay là không khí lắng lại bởi có người đang đứng im lặng ở đâu đó và đang chờ đợi ? Anh bước tới ngã rẽ.

    Đám lá thu bị gió xô thành những lớp sóng trên vỉa hè ngập ánh trăng, khiến hình ảnh một cô gái đang bước đi trên vỉa hè nom thật giống như cô đang giạt theo đám lá rụng bị gió cuốn trôi về phía trước. Cô khẽ cúi đầu nhìn xuống đôi chân đang đùa nghịch với đám lá. Khuôn mặt cô mỏng manh và trắng muốt, phản chiếu đâu đó là một vẻ háo hức khám phá không biết mệt mỏi thế giới xung quanh. Một vẻ ngỡ ngàng mơ hồ, một đôi mắt tím sẫm đầy vẻ hăm hở như muốn ngắm nhìn không bỏ sót bất cứ điều gì xảy ra trên đời. Chiếc váy trắng của cô khẽ lay động. Anh tưởng như mình đang nghe thấy tiếng đôi tay cô khẽ vung lên cô khi cô bước đi, và âm thanh đó nhỏ dần. Khi ngẩng lên, khuôn mặt cô thoáng xao động khi phát hiện ra chỉ tích tắc nữa là xô phải người đàn ông đang đứng giữa hè phố.


    Đám cây cối trên cao khẽ rùng mình làm những giọt mưa đọng thi nhau rơi xuống. Cô gái dừng bước và trông như sắp lùi lại vì sửng sốt. Nhưng cô chỉ đứng đó và nhìn Montag với đôi mắt long lanh và sống động đến mức anh tưởng như mình sắp thốt lên một câu gì đó thật hoa mỹ. Nhưng anh hiểu mình chỉ nên nói Xin chào. Trong khi cô gái còn đang nhìn như thôi miên hình rồng lửa trên cánh tay và hình phượng hoàng thêu trên ngực áo mình, anh nói tiếp:
    " Chắc cô là hàng xóm mới của chúng tôi ? "
    " Còn anh, hẳn là lính hỏa ?" Cô rời mắt khỏi mấy biểu tượng đó, giọng hơi lạc đi.
    " Lạ thật. Cô biết sao ?"
    " Tôi biết, dù có nhắm mắt lại"
    " Sao nhỉ ? Mùi dầu đốt à? Vợ tôi luôn phàn nàn vì thế mà." Anh cười to. " Không sao gột sạch hết được."
    " Đúng vậy". Cô sợ sệt nói.





    Anh bỗng cảm thấy cô gái này đang vẽ những vòng tròn xoáy quanh anh, khiến suy nghĩ của anh đảo lộn, làm anh run lên một cách bí hiểm, moi sạch các thứ trong túi của anh, dù rõ ràng cô vẫn đang đứng đó, bất động.
    "Dầu hoả với tôi chẳng khác gì nước hoa." Anh lên tiếng trước, vì không sao chịu được sự im lặng kéo dài.
    " Thật vậy à."
    " Tất nhiên. Sao lại không ?"
    Cô gái suy nghĩ một lát rồi nói : " Tôi cũng không biết nữa." Cô quay sang phía con đường về nhà. " Anh có phiền không nếu tôi đi cùng đường về nhà với anh? Tôi là Clarisse McClellan"
    " Clarisse. Guy Montag. Đi nào. Cô làm gì mà lang thang ngoài đường muộn thế này? Cô bao nhiêu tuổi rồi?"





    Họ bước đi trong đêm, không gian ấm áp và dễ chịu, lối đi ngập ánh trăng bàng bạc, hương mơ chín và dâu tây thoang thoảng đâu đây khiến anh nhìn quanh và nghĩ thật khó tin, vì tầm này đã khá muộn đâu phải mùa quả chín trong năm.
    Trên đường chỉ có anh và cô đang đi cạnh nhau, khuôn mặt cô ngời sáng như bông tuyết dưới ánh trăng. Và anh biết, cô đang nghĩ về câu anh hỏi, và đang tìm câu trả lời thật ưng ý.
    "Ồ, tôi 17 và tôi khá điên rồ. Chú tôi nói rằng 2 thứ đó luôn đi cùng nhau. Chú bảo nếu ai đó hỏi tuổi cháu, cháu nhớ nói " 17 và điên điên" nhé… Đêm nay rất đẹp để đi bộ đúng không nào? Tôi thích hít thở và ngắm nhìn mọi thứ. Có lần tôi đã thức suốt đêm để đi bộ và ngắm mặt trời mọc."

    Họ lại im lặng bước đi, và cuối cùng cô gái lên tiếng, vẻ lưỡng lự: " Anh biết không, tôi chẳng thấy sợ anh chút nào cả."
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2008 18:42:45 bởi Paloma >
    #2
      Paloma 02.05.2008 18:39:41 (permalink)
      0
      Anh ngạc nhiên : " Sao lại sợ tôi?"
      " Có nhiều người như vậy lắm. Ý tôi là họ sợ lính hỏa. Nhưng rút cục anh cũng chỉ là một người như mọi người..."

      Anh soi mình vào mắt cô gái, ngưng đọng trong hai giọt nước sáng long lanh đó, hình ảnh anh bé xíu, nước da ngăm nâu, từng đường nét đẹp, từng khoé miệng hiện lên rõ rệt trong đó, như thể đôi mắt cô là hai viên hổ phách kỳ diệu màu tím sẫm thâu tóm và nhốt chặt anh lại. Khuôn mặt cô gái, giờ đang hướng sang phía anh, thật mong manh như pha lê phản chiếc một thứ ánh sáng dịu dàng bất biến. Đó không phải là ánh sáng giả tạo của đèn điện, mà là - sao nhỉ? Mà là ánh sáng huyền ảo và dễ chịu kỳ lạ từ ngọn nến. Khi anh còn bé, một lần trong nhà mất điện, mẹ anh lần tìm và châm cây nến duy nhất còn sót lại. Và anh đã có một tiếng đồng hồ ngắn ngủi để khám phá xung quanh, khi khoảng sáng từ cây nến thu hẹp kích thước mênh mông của không gian và bao quanh hai mẹ con họ bằng một quầng sáng dễ chịu, và họ, đơn độc, lạ lẫm, cứ thầm mong sẽ không có điện lại quá sớm.

      Clarisse McClellan nói:
      " Anh không giận nếu tôi hỏi câu này chứ ? Anh làm nghề này bao lâu rồi?"
      " Từ khi tôi 20 tuổi, cách đây 10 năm rồi."
      " Anh đã bao giờ đọc cuốn sách nào trong số những cuốn mình đốt chưa?"
      Anh cười: " Vậy là phạm pháp."
      " Ồ , tất nhiên."
      " Nghề của tôi là một công việc hay ho. Thứ hai đốt Millay, thứ tư là Whitman, thứ sáu đến lượt Faulkner, đốt họ ra tro, rồi đốt nốt tro. Khẩu hiệu làm việc của chúng tôi đấy."

      Đi thêm một quãng nữa, cô gái nói : " Cách đây lâu lắm rồi, có phải những người như anh được gọi là lính cứu hoả? Và họ dập tắt các đám cháy thay vì đốt chúng lên? "
      " Không đúng vậy đâu. Các ngôi nhà đều được lắp thiết bị chống cháy, tin lời tôi đi."
      " Kì lạ thật. Có lần tôi nghe nói ngày xưa cách đây đã lâu lắm, các ngôi nhà thi thoảng vẫn gặp hoả hoạn, và thế là lính cứu hoả có mặt để dập lửa."
      Anh cười.
      Cô liếc nhìn anh rất nhanh: " Sao anh lại cười?"
      " Tôi không biết." Anh lại cười rồi dừng lại. " Thì sao nào?"
      " Anh cười tôi dù tôi chẳng có gì đáng cười, rồi anh trả lời ngay lập tức. Anh chẳng chịu ngừng lại để suy nghĩ về câu hỏi của tôi gì cả."
      Anh dừng bước. " Cô là một người lạ lùng." Anh nói và nhìn cô ." Hay là cô chẳng có chút tôn trọng nào với tôi?'
      " Tôi không có ý tỏ ra xúc phạm. Chỉ vì tôi rất thích quan sát người khác thôi. Chắc vậy."
      " Ồ, cái này có chút ý nghĩa nào với cô không ?" Anh vỗ vào số 451 khâu trên tay áo.
      " Có". Cô thì thầm. Cô bước nhanh hơn. " Anh đã bao giờ nhìn thấy ô tô phản lực chạy đua trên đại lộ theo hướng này chưa?"
      " Cô đang đổi chủ đề rồi."
      " Đôi khi tôi nghĩ rằng các tài xế chẳng biết cỏ là gì, hoa là gì, vì họ chẳng bao giờ kịp nhìn cả. Nếu anh đưa cho một tài xế một thứ màu xanh, anh ta sẽ bảo ồ cỏ đấy! Một thứ màu hồng! Ồ một bông hồng! Những gì màu trắng tất nhiên là nhà rồi! Màu nâu thì hẳn là bò. Có lần chú tôi lái xe chầm chậm trên đường cao tốc. Chú đi 40 dặm một giờ và người ta phạt chú ấy hai ngày giam. Buồn cười và đáng buồn nữa, phải không?"
      " Cô vẫn hay nghĩ ngợi nhiều thế sao." Montag ngập ngừng nói.
      "Tôi hiếm khi xem các chương trình trên TV tường hoặc đi tới các cuộc đua xe hay công viên giải trí. Vậy nên tôi có rất nhiều thời gian cho các ý nghĩ điên khùng. Anh đã bao giờ nhìn thấy những bảng dán quảng cáo dài 200 feet ngoài phố chưa? Anh có biết rằng có thời chúng chỉ dài có 20 feet thôi, nhưng vì các xe ô tô lao nhanh quá nên các người ta phải kéo dài bảng quảng cáo ra để quảng cáo cho hiệu quả."
      " Đúng là bây giờ tôi mới biết." Anh cười khan.
      " Đánh cược là tôi biết khối thứ anh không biết đấy. Sương đọng trên cỏ vào sáng sớm chẳng hạn."
      Đột nhiên anh không thể nhớ được mình có biết điều đó hay không, và nó khiến anh thấy khó chịu.
      Cô nhìn lên trời." Và nếu anh nhìn kỹ, sẽ thấy trên mặt trăng có hình người."
      Đã lâu rồi anh không ngắm trăng.

      Họ im lặng đi nốt quãng đường. Cô gái vẫn đắm chìm trong các ý nghĩ, còn anh chỉ thấy sự im lặng đó thật tù túng và ném vài cái liếc mắt về phía cô gái với vẻ kết tội. Khi họ đến cửa nhà cô gái, tất cả các đèn đều đang sáng trưng.

      " Cái gì vậy?" Montag hiếm khi thấy nhiều đèn như vậy trong một ngôi nhà.
      " Ồ, chỉ là bố mẹ và chú tôi đang ngồi nói chuyện thôi mà. Họ nói chuyện thường xuyên như đi bộ ấy, hơi ít hơn một chút thôi. Có một lần chú tôi bị bắt vì tội đi bộ, tôi kể chưa nhỉ? Chúng tôi đều là những người rất kì dị."
      " Nhưng cô đang nói về điều gì thế?"
      Cô gái cười khi nghe thấy câu đó. " Chúc ngủ ngon." Cô định bước đi, rồi dường như nhớ ra điều gì, cô quay lại, nhìn anh với vẻ băn khoăn và tò mò: " Anh có hạnh phúc không?"
      " Tôi làm sao cơ?" Anh kêu lên.
      Nhưng cô đã quay người và chạy đi trong ánh trăng. Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2008 02:20:58 bởi Ct.Ly >
      #3
        Paloma 02.05.2008 18:52:39 (permalink)
        0
        " Hạnh phúc. Vớ vẩn chết tiệt."
        Anh thôi cười.
        Anh đặt tay vào găng cảm ứng ở cửa, cánh cửa trượt ra.
        “ Tất nhiên là ta hạnh phúc rồi. Cô ta nghĩ gì trong đầu thế nhỉ. Ta không hạnh phúc ư?”. Anh hỏi những căn phòng im lìm. Anh đứng nhìn tấm lưới quạt thông gió trong phòng hành lang. Anh biết có gì được giấu đằng sau nó, và thứ đó dường như đang lén lút nhìn xuống nơi anh đứng. Anh bèn vội nhìn đi chỗ khác.
        Một cuộc gặp kì lạ vào một đêm kì lạ. Trong trí nhớ của anh, chưa từng có chuyện gì giống như vậy xảy ra, trừ lần có một buổi chiều cách đây một năm anh gặp một ông già trong công viên, và anh đã trò chuyện với ông.
        Montag lắc mạnh đầu như thể muốn cho các ý nghĩ hỗn độn trong đó văng hết ra ngoài. Anh nhìn lên bức tường trống, và trên đó khuôn mặt cô gái xuất hiện, vẻ xinh tươi và đáng yêu theo đúng như trí nhớ anh còn đọng lại. Cô có khuôn mặt với những đường nét nhỏ mỏng manh như dãy số của một chiếc đồng hồ lờ mờ sáng trong một căn phòng tối. Khi nửa đêm bạn thức giấc, chiếc đồng hồ đó chỉ cho bạn biết giờ, phút và giây trong sự im lặng mênh mông của bóng đêm, nơi đêm đang trôi nhanh vào vùng thăm thẳm, và cũng đang trôi về phía mặt trời ngày mới.
        " Chuyện gì thế nhỉ?" Nửa kia của con người Montag- một gã ngốc tự ti thường hay chạy đi chạy lại và lảm nhảm, khá độc lập về ý chí, thói quen và nhận thức- đang tự hỏi nửa còn lại. Anh lại liếc nhìn bức tường. Khuôn mặt cô gái thật giống một tấm gương soi. Không thể nào. Anh không biết liệu có được bao nhiêu người quanh anh có thể giống như cô, khiến anh muốn soi mình vào và ngắm nhìn mình được phản chiếu trong đó. Anh âm thầm rà soát trí nhớ, và anh thấy ở nơi anh làm việc, con người đơn giản chỉ hoạt động chân phương chẳng khác nào những chiếc đèn pin hay đèn điện khi chưa bị tắt công tắc. Thật hiếm có khi nào trên mặt họ biểu hiện cảm xúc để anh có thể nhìn thấy trong đó hình ảnh của chính anh, những suy nghĩ và rung động sâu thẳm của chính anh.
        Thật khó tin khi cô gái đó lại nắm giữ một thứ quyền năng đặc biệt có thể soi tỏ được mọi thứ. Cô giống như một khán giả say mê xem Múa rối dây, cô theo dõi từng cử động nhỏ của mi mắt, của bàn tay và ngón tay, thậm chí đoán trước một tích tắc từng cử động đó.
        Họ đã đi bộ cùng nhau bao lâu? Ba phút? Hay năm phút? Mà giờ đây có vẻ lâu đến thế. Hình ảnh cô trên sân khấu trước mặt anh bỗng trở nên lớn lao kì lạ. Và làm sao từ thân hình mảnh dẻ của cô lại tạo nên một cái bóng lớn lao nhường ấy trên bức tường kia? Anh cảm thấy nếu mắt mình mỏi, cô gái sẽ chớp mắt, và nếu các cơ mặt anh căng ra vì mỏi mệt, cô gái sẽ ngáp giùm anh mất.
        Anh tự nhủ. "Tại sao bây giờ mình lại nghĩ về chuyện này. Cô gái dường như đã đợi mình ở đó, trên phố của một đêm rất muộn..."

        Anh mở cửa phòng ngủ.
        Chẳng khác nào bước vào một căn phòng cẩm thạch lạnh lẽo trong lăng mộ khi mặt trăng đã tắt lịm. Bóng đêm tuyệt đối. Không một dấu hiệu nhỏ nào để biết có một thế giới tràn ngập ánh trăng bạc bên ngoài. Các cửa phòng đóng chặt như cửa căn nhà mồ khiến không một âm thanh nào từ thành phố bên ngoài có thể xâm nhập vào. Căn phòng không trống rỗng.
        Anh lắng tai nghe. Tiếng bầy muỗi vo ve trong vũ điệu không trung. Âm thanh điện tử bé xíu của con ong vò vẽ đang chui vào cái tổ ấm áp màu hồng đặc biệt của nó. Tiếng nhạc trong đêm rõ đến mức anh có thể khẽ hát theo.
        Anh cảm thấy nụ cười của mình vụt tắt, tan rã rồi co rúm lại như một đám da rão, như một cây nến đẹp cháy đã quá lâu đã đến lúc đổ sụp và tắt ngấm. Bóng tối. Anh không hạnh phúc. Anh không hạnh phúc. Anh tự nói điều đó với chính mình. Anh nhận ra sự thật đúng như nó vốn có. Anh sở hữu hạnh phúc theo cách người ta đeo một cái mặt nạ. Và cô gái đã mang theo nó về nhà, chẳng cách gì đến gõ cửa nhà cô mà đòi nó lại.
        Anh không bật đèn mà đứng trong bóng tối hình dung lại hình dáng căn phòng. Vợ anh nằm dài trên giường, không đắp chăn và lạnh ngắt, giống như một thi hài phơi bày trong hầm mộ, cặp mắt dán chặt lên trần nhà như những sợi thép vô hình bất động. Tai nàng nhét chặt chiếc radio vỏ sò bé xíu cỡ chiếc đê khâu, từ đó vọng ra cả một biển âm thanh, tiếng nhạc và tiếng nói và tiếng nhạc và lại tiếng nói thi nhau xô tới, xô tới tràn lên bờ tiềm thức của nàng. Căn phòng thực sự trống rỗng. Đêm nào các con sóng cũng xô tới và làm nàng chán chường tột cùng khi trời sáng. Trong suốt hai năm qua, không đêm nào là Mildred không bơi trong biển cả đó, để rồi năm thứ ba này nàng phải chìm nghỉm.

        Căn phòng lạnh lẽo khiến anh thấy khó thở. Anh không muốn mở cửa sổ, vì anh không muốn ánh trăng lọt vào phòng. Vậy là với trạng thái như người sắp chết vì thiếu không khí, anh lần mò tìm lối tiến lại chiếc giường đơn trống trải, và vì thế mà lạnh giá.
        Một giây trước khi đá phải một vật nằm trên sàn, anh đã kịp nhận ra đó là cái gì. Nó không giống như cảm giác lúc trước khi anh sắp đi vào ngã rẽ và suýt xô phải cô gái. Sự dao động của tiếng bước chân truyền về phía trước, chạm phải đồ vật trên lối đi liền mơ hồ dội lại. Anh đá phải nó. Một âm thanh mờ đục vang lên và tiếng đồ vật đó văng đi trong đêm.
        Anh đứng rất nghiêm trang, lắng nghe tiếng con người đang nằm trên chiếc giường tối om trong bóng đêm không hình thù. Hơi thở của nàng nhẹ đến mức không sao khuấy động nổi đến một đường viền của cuộc sống, một chiếc lá nhỏ, một chiếc lông vũ nhẹ hay một sợi tóc mỏng manh.

        Anh vẫn không muốn thấy ánh sáng từ bên ngoài. Anh lôi bật lửa ra, chạm vào hình con rồng chạm trên nắp, và bật lên.
        Trên khuôn mặt vợ anh, nơi trước kia là đôi mắt, giờ chuyển thành màu hai viên đá xám xịt, nhìn anh qua ánh lửa leo lét trên tay; hai viên đá nhợt nhạt chìm dưới làn nước trong nơi cuộc sống trần gian đã bỏ đi.
        " Mildred."
        Khuôn mặt nàng hệt như hòn đảo băng giá nơi có mưa rơi nhưng không sao nhận biết được mưa rơi, nơi có những bóng mây in xuống nhưng không sao nhận biết được những bóng mây in xuống. Chỉ có tiếng hát phát ra từ chiếc radio bé xíu trong đôi tai nút chặt của nàng, và cặp mắt nàng vô hồn như thuỷ tinh, và hơi thở yếu ớt đứt quãng đến rồi đi, và nàng cũng chẳng quan tâm xem nó đến hay đi, đi hay đến.
        Vật bị anh đá phải ban nãy giờ đang nằm cạnh gầm giường. Chiếc lọ thuỷ tinh đựng thuốc ngủ sáng nay vẫn còn ba mươi viên đang nằm lăn lóc, mất nắp và rỗng không trong ánh sáng lờ mờ.
        Anh đứng đó nghe bầu trời gầm rú. Một tiếng rách cực lớn như thể có hai bàn tay khổng lồ xé toạc một tấm vải đen dài vạn dặm. Montag như bị chẻ làm đôi. Anh thấy ngực mình như bị chém ngang và xẻ ra. Những chiếc máy bay ném bom bay qua, bay qua nữa. Một chiếc, một chiếc, một chiếc nữa, sáu chiếc, mười hai chiếc, một chiếc, một chiếc, một chiếc nữa, một chiếc nữa, một chiếc nữa, lại một chiếc nữa, tất cả đều gầm rú điên loạn quanh anh. Anh há miệng để tiếng rít đinh tai của chúng chui xuống rồi lên qua hai hàm răng trơ trọi. Ngôi nhà chao đảo. Ngọn lửa trên tay anh tắt ngấm. Những viên đá mặt trăng biến mất. Anh cảm thấy tay mình quờ quạng tìm điện thoại.
        Những chiếc máy bay biến mất. Anh cảm thấy môi mình mấp máy, lập bập va trên ống nói chiếc điện thoại. Một tiếng thì thầm kinh khủng ở đầu dây bên kia: " Viện cấp cứu nghe đây."

        Anh cảm thấy các vì sao bị tiếng ồn của máy bay nuốt chửng. Vào buổi sáng mai, chắc hẳn mặt đất sẽ bị lớp bụi kỳ dị của chúng bao phủ như một lớp tuyết trắng. Đứng run rẩy trong bóng tối, đầu anh đầy những ý nghĩ ngu ngốc, cặp môi run rẩy mấp máy mãi không thành tiếng.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2008 02:21:23 bởi Ct.Ly >
        #4
          Paloma 06.05.2008 18:39:13 (permalink)
          0
          ***

          Họ mang chiếc máy đó tới. Đúng ra là hai chiếc. Một chiếc trườn xuống dạ dày như một con rắn đen chui xuống chiếc giếng âm u để tìm thứ nước đọng màu thời gian. Thứ nước xanh lục được hút lên, sủi bọt và bị đẩy ngược lên đầu ống. Có phải con rắn đó đang uống bóng tối? Liệu có thể hút hết những chất độc đã tích tụ theo năm tháng? Nó cứ ăn và mò mẫm trong một sự im lặng ngột ngạt. Và nó có một CON MẮT. Một người kỹ thuật viên vận hành cỗ máy với vẻ vô cảm. Anh ta, bằng chiếc kính soi đặc biệt gắn trên đầu, liệu có thể nhìn vào tâm hồn con người mà anh ta đang rửa ruột? CON MẮT đã thấy những gì? Anh ta không nói. Anh ta nhìn nhưng không thể thấy những gì CON MẮT có thể thấy. Toàn bộ ca cấp cứu không khác gì nhiều với việc đào một cái rãnh trên sân. Người đàn bà nằm trên giường cũng chẳng khác gì một lớp địa tầng cẩm thạch cản trở việc đào bới. Dù sao cũng phải tiếp tục công việc của anh ta, xô sự buồn chán xuống, lấp đầy sự trống rỗng, nếu như một việc như vậy có thể làm được qua cái bụng rắn đang rung rung bơm hút.

          Chiếc máy còn lại, do một gã kỹ thuật viên khác mặc bộ áo liền quần nâu đỏ, và có bộ mặt vô cảm chẳng kém gì người thứ nhất vận hành. Cỗ máy này bơm ra hết chỗ máu trong người Mildred để thay bằng máu tươi và huyết thanh khác .

          "Phải làm sạch cả hai." Người kỹ thuật viên đứng cạnh người đàn bà bất động nói. " Rửa dạ dày mà không làm sạch máu thì cũng chẳng có tác dụng gì. Cứ để máu nhiễm độc như vậy thì thế nào chúng cũng dồn lên não, đau như búa bổ, bang bang, vài ngàn lần như thế là não sẽ đầu hàng ra đi luôn."
          " Thôi đi." Montag kêu lên.
          " Nói vậy thì có sao." Gã kỹ thuật viên nói.
          " Các anh xong chưa?"
          Họ đóng máy chặt lại. " Xong rồi." Sự tức giận của anh chẳng mảy may ảnh hưởng đến họ. Họ đứng đó giữa đám khói thuốc mù mịt mà không hề nheo mày chớp mắt dù chỉ một lần." 50 đô".
          " Trước hết sao các anh không cho tôi biết liệu cô ấy có ổn không đã?"
          " Tất nhiên sẽ ổn. Chúng tôi có tất cả các thiết bị chuyên dụng trong chiếc vali này. Tôi nói rồi, người hay máy móc cũng thế thôi, cứ lấy đồ cũ ra, thay đồ mới vào là xong."
          "Các anh không phải là bác sĩ. Tại sao họ không cử bác sĩ ở viện đến?"
          " Chết tiệt!" Điếu thuốc động đậy trên môi anh ta. "Những ca thế này chúng tôi làm chín, mười lần mỗi đêm. Nhiều lắm. Từ vài năm nay, có máy móc đặc biệt, và kính soi nữa, tất nhiên là đều còn mới. Anh cần gì bác sĩ trong ca này đâu, chỉ cần hai tay thợ lành nghề, làm trong nửa tiếng là xong gọn gàng. Đấy, nhìn xem." Họ tiến ra cửa. " Chúng tôi phải đi đây. Lại có một cú điện thoại khác gọi đến tai nghe. Cách đây mười nhà. Có ai đó vừa nhảy khỏi nóc căn hộ. Gọi lại cho chúng tôi nếu cần. Hãy để bà nhà yên tĩnh. Chúng tôi đã tiêm thuốc an thần. Tỉnh dậy bà ấy sẽ đói đấy. Lâu thế cơ mà."

          Và họ, những người đàn ông với điếu xì gà trên cặp môi thẳng băng, những người đàn ông với múi thịt xệ dưới mắt, họ xách mớ máy móc và dây ống, với thùng đựng thứ chất lỏng ghê người cùng cặn bã đen đặc của mớ hổ lốn không tên vừa hút khỏi cơ thể Mildred, họ đi ra khỏi cửa.

          Montag gieo mình xuống ghế và nhìn người đàn bà đang nằm đó. Mắt nàng vẫn nhắm nghiền. Và anh đưa tay ra ra để cảm thấy hơi thở ấm của nàng phả lên.

          Cuối cùng anh gọi " Mildred."

          Loài người bọn ta quá đông đúc - anh nghĩ- Có hàng tỉ người mà như vậy là quá nhiều. Không ai biết ai. Những kẻ lạ mặt đến và làm phiền anh. Những kẻ lạ đến và cắt rời trái tim anh. Kẻ lạ đến để lấy máu của anh ra khỏi cơ thể. Chúa ơi, những kẻ đó là ai chứ? Trước đây chưa bao giờ mình gặp họ.

          Nửa tiếng đồng hồ trôi qua.

          Dòng máu trong cơ thể người đàn bà này hoàn toàn mới và có vẻ đã tạo ra một điều mới khác ở nàng. Má nàng rất hồng và môi nàng trở nên tươi thắm, mềm mại và nhẹ nhõm lạ thường. Đó là máu của ai khác. Giá đó là da thịt, trí não và ký ức của người khác. Giá họ có thể đem tâm trí nàng đi tới tiệm giặt khô, lộn trái, giặt hơi rồi tẩy sạch, gấp gọn gàng lại và mang nó trả lại vào buổi sớm mai. Giá mà như thế...

          Anh đứng lên kéo rèm và mở cửa sổ đón không khí đêm ùa vào phòng. Đã hai giờ sáng. Mới chỉ cách đó một tiếng thôi sao? Từ lúc Clarisse McClellan còn đi cùng anh trên phố, rồi anh bước vào phòng? Đá phải chiếc lọ thuốc rỗng? Chỉ một tiếng, đủ để thế giơi tan rã và nảy nở lại với một hình thù mới không màu sắc?

          Tiếng cười vẳng qua khoảng sân nhuốm màu trăng bàng bạc từ căn nhà của Clarisse, cha mẹ và chú cô- những người hay mỉm cười lặng lẽ và hiền lành. Hơn tất thảy mọi điều, tiếng cười của họ thật thoải mái và chân thật, chẳng hề gượng gạo, cất lên từ ngôi nhà sáng ánh đèn vào khoảng muộn của đêm khi những ngôi nhà khác đã chìm trong bóng tối. Montag nghe thấy những giọng nói, nói, nói, cứ dệt đi dệt lại tấm lưới đầy mãnh lực của họ.

          Montag bước qua khung cửa, băng ngang qua sân mà thậm chí không hề nhận biết hành động của mình. Anh đứng trong các khoảng tối ngoài cửa ngôi nhà đang rộn ràng tiếng trò chuyện, nghĩ rằng có lẽ mình phải gõ cửa và lí nhí " Cho tôi vào. Tôi sẽ không nói gì đâu. Tôi chỉ cần nghe thôi. Các người đang nói cái gì thế ?"

          Nhưng anh vẫn đứng đó, lạnh lùng, mặt anh như đang đeo chiếc mặt nạ giá băng. Anh lắng nghe một giọng đàn ông ( người chú chăng?) nói rất phóng khoáng:
          " Ồ, Tóm lại, đây là thời kỳ của khăn giấy. Cứ xì mũi vào ai đó, nhét giấy vào mũi, giũ phẳng, với tờ khác, xì mũi, nhét, giũ. Người này rút giấy từ cái góc giấy nhô lên mà người khác để lại. Cháu làm thế nào để cổ vũ cho đội nhà khi cháu chẳng có kế hoạch mà cũng chẳng biết tên họ? Còn vụ đó, đi diễu trên cánh đồng mà họ lại đi mặc áo màu gì thế kia?"
          Montag quay lại nhà mình, để cửa sổ ngỏ, kiểm tra Mildred, cẩn thận kéo lại chăn đắp cho nàng, rồi nằm xuống để mặc cho ánh trăng rọi lên gò má và đôi mày nhíu lại của anh, và ánh trăng cứ thi nhau tuôn vào mắt anh như một dòng thác bạc.

          Một giọt mưa. Clarisse. Một giọt nữa. Mildred. Giọt thứ ba. ông chú. Giọt thứ tư. Đám cháy hồi tối. Một , Clarisse. Hai, Mildred. Ba, ông chú. Bốn, đám cháy.Một, Mildred, hai, Clarisse. Một, hai , ba , bốn, năm, Clarisse, Mildred, ông chú, cháy, thuốc ngủ, những gã đàn ông, khăn giấy, xì, nhét, giũ. Clarisse, Mildred, ông chú, đám lửa, thuốc ngủ, khăn, xì, nhét , giũ.Một, hai, ba, một, hai, ba! Mưa. Cơn bão. Ông chú đang cười. Sấm chớp đang giáng xuống phòng dưới. Cả thế giới đang sụp xuống. Núi lửa đang phun trào. Tất cả xoáy tròn và sập xuống trong tiếng gầm rít dữ dội và tuôn ào ạt lên không khí buổi sớm mai.

          " Không biết chuyện gì đang xảy ra nữa..." và giấc ngủ kéo đến khiến câu nói tan biến dần trên đầu lưỡi .

          ***
          9 giờ sáng, giường của Mildred trống không.
          Montag bật dậy, tim đập thình thịch, anh chạy xuống tầng và đứng sững lại ở cửa bếp.

          Bánh mì sấy từ lò nhảy bật ra, cánh tay con robot kim loại hình nhện kẹp nó lại rồi phết bơ lên.
          Mildred nhìn miếng bánh được chuyển vào đĩa của nàng. Hai tai nàng gắn hai tai nghe hình con ong đang kêu o o. Bất ngờ nàng nhìn lên, thấy anh, nàng liền gật gật đầu.

          " Em ổn chứ?"
          Nàng là chuyên gia nhìn miệng đoán lời trong suốt mười năm qua. Thì nàng vốn là một chuyên gia đeo radio vỏ sò kia mà.Nàng lại gật gật đầu. Nàng lách cách đặt miếng bánh lên trên một khoanh bánh mì khác.
          Montag ngồi xuống.
          Vợ anh nói, " Chẳng hiểu sao em lại đói thế."
          "Em...."
          "Em đói."
          Anh bắt đầu. "Đêm qua,"
          " Em ngủ không ngon giấc. Kinh khủng. Lạy chúa, em đói quá, đói không thể tả nổi."
          " Đêm qua..." Anh lại nói.
          Nàng nhìn miệng anh một cách hờ hững. " Đêm qua làm sao?"
          " Em không nhớ à?"
          " Gì vậy? Chúng ta có một bữa tiệc điên rồ hay gì nữa? Emđang lử lả cả người. Chúa ơi, em đói quá. Thế tối qua có ai?"
          " Vài gã."
          "Em cũng nghĩ thế." Nàng nhai bánh mì. " Đau bụng quá, mà em đói cứ như mọi thứ bị móc hết khỏi dạ dày. Hi vọng trông em không ngớ ngẩn trong bữa tiệc."
          " Không đâu." Anh trầm giọng.
          Chiếc lò tự động nướng cho anh một miếng bánh phết bơ. Anh miễn cưỡng cầm nó lên tay.
          " Anh không thấy bỏng thì phải." Vợ anh nói.

          ***

          Buổi chiều muộn, trời mưa và tất cả nhuốm một màu xám xịt. Anh đứng trong phòng phụ ngôi nhà mình, cài chiếc phù hiệu có hình con rồng lửa màu cam cuốn quanh miếng kim loại tròn. Anh nhìn lên lỗ thông khí của chiếc điều hoà một lúc lâu. Vợ anh đang ở trong phòng khách xem TV, ngừng lại một lúc để đọc lời thoại trên đó và ngẩng lên: " Này," nàng gọi " Anh đang nghĩ gì à."
          "Ừ, anh muốn nói chuyện với em." Anh ngừng lại một chút." Đêm qua em uống hết cả lọ thuốc ngủ."
          Nàng ngạc nhiên: " Không, em không làm thế."
          " Cái chai rỗng không."
          " Em không khi nào làm một việc như thế. Sao em lại có thể làm thế chứ?"
          " Có lẽ em đã lấy 2 viên rồi quên mất, uống thêm 2 viên nữa, rồi lại quên và uống tiếng 2 viên nữa, 2 viên nữa....Rồi đầu óc lơ mơ nên cứ uống cho đến khi hết cả 30, 40 viên."
          " Nào, " Nàng nói, " Em làm cái việc ngu ngốc ấy để làm gì cơ chứ?"
          "Anh không biết," Anh trả lời.
          Trông nàng có vẻ như chỉ mong anh đi khỏi nhà." Em không làm việc đó. Một tỉ năm cũng không."
          " Được thôi, nếu em đã nói thế."
          " Lời nói của phụ nữ chân chính đấy." Nàng trả lời và tiếp tục xem bản tin.
          " Tối nay có chương trình gì thế? " Anh mệt mỏi nói.

          Mắt nàng không rời màn hình để nhìn lên. " Ồ, 10 phút nữa có một vở kịch trên chương trình TV. Họ gửi vai diễn cho em vào sáng nay. Họ viết lời bị khuyết một phần - một ý tưởng mới.Khán giả tham gia chương trình - tức là em, sẽ lo phần còn thiếu. Khi đến phần đó, tất cả mọi người từ 3 bức tường sẽ nhìn vào em, và em sẽ đọc những dòng còn thiếu đó. Đây nhé, ví dụ người đàn ông sẽ hỏi, " Cô thấy tất cả những việc này thế nào, Helen?" Và anh ta sẽ nhìn vào em,đang ngồi đây hệt như giữa sân khấu trung tâm, thấy không? Và đến lượt em nói, em sẽ nói rằng..." Nàng ngừng lại rồi lướt ngón tay bên dưới một dòng chữ " Tôi nghĩ nó hay đấy. " Và thế là họ sẽ tiếp tục vở kịch cho đến khi anh ta nói " Bạn có đồng ý với Helen không?" và em nói " Chắc chắn đồng ý." Anh thấy có hay không, Guy? "

          Anh đứng trong hành lang, nhìn vợ.
          " Chắc chắn sẽ vui lắm đây." Vợ anh nói.
          " Vở kịch nói về cái gì ?"
          " Em nói với anh rồi. Những người trong đó là Ben, Helen và Ruth."
          " Ồ."
          " Hay thật mà. Thậm chí sẽ còn hay hơn nữa nếu mình chịu khó lắp thêm ti vi vào bức tường thứ tư. Chừng nào anh có thể nói với em rằng chúng ta có đủ tiền để khoét bức tường đi và lắp màn hình vào đó? Chỉ 2000 đô la thôi mà."
          " Một phần ba tiền lương hàng năm của anh đấy."
          " Chỉ 2000 thôi." Nàng lặp lại, " Em muốn mình được quyền nghĩ thi thoảng anh cũng quan tâm đến em mà. Nếu ta có nó, sẽ giống như căn phòng này không phải là của riêng vợ chồng mình, mà là của tất cả những con người kì diệu đó. Mình có thể làm vậy, cũng chẳng lấy gì làm nhiều nhặn "
          " Anh đã làm hết hơi vì cái số tiền chẳng nhiều nhặn gì đó để lắp ti vi vào bức tường thứ ba rồi. Mà mình mới lắp nó cách đây có hai tháng, em có nhớ không?"
          " Vậy câu trả lời cuối cùng của anh là thế đấy à?" Nàng ngồi nhìn anh một lúc lâu, " Thôi, tạm biệt nhé."
          " Tạm biệt." Anh nói. Anh dừng chân và quay đầu lại " Kết thúc kịch có hậu không?"
          " Em chưa đọc đến đó."
          Anh tiến lại, đọc trang cuối, gật đầu, gấp cuốn kịch, đưa nó lại cho nàng rồi bước ra khỏi nhà trong làn mưa rơi.

          ***

          Cơn mưa nhỏ dần và cô gái đang đi bộ giữa đường, đầu ngẩng cao và nước mưa bám trên khuôn mặt cô. Cô mỉm cười khi trông thấy Montag.
          " Chào anh."
          Anh chào cô rồi nói " Cô thế nào rồi?"
          " Tôi vẫn điên điên. Mưa thích thật. Tôi thích đi bộ trong mưa thế này."
          " Tôi không tin."
          " Vậy anh cố mà tin thì sẽ tin thôi."
          " Không có chuyện cố đâu."
          Cô liếm môi. "Mưa cũng có vị gì đó hay lắm."
          " Cô sao vậy, đi loăng quăng và thử làm những việc cô chưa biết mỗi thứ một lần à?"
          " Có khi là hai lần ấy chứ."
          Anh hỏi " Thế cô thấy thế nào?"
          " Tôi đoán đây là những bông Bồ công anh cuối cùng trong năm nay. Tôi tưởng bây giờ sẽ không tìm được bông nào trong sân nữa. Anh đã bao giờ nghe chuyện dính nó vào cằm chưa? Nhìn này."
          Cô chạm cằm vào bông hoa và cười to.
          " Tại sao?"
          "Nếu nó dính được vào cằm tôi, nghĩa là tôi đang yêu? Dính chưa vậy?"
          Anh chẳng biết làm gì ngoài việc nhìn cô gái.
          " Sao rồi?"
          " Vàng hết cằm rồi kìa."
          " Tốt! Anh thử đi."
          " Với tôi không ăn thua đâu."
          " Này." Trước khi anh kịp phản ứng, cô giúi bông Bồ công anh dưới cằm anh. Anh lùi lại và cô cười vang. " Để yên nào."
          Cô nhòm xuống cằm anh và cau mày " Ừm. Xấu hổ qúa. Anh chẳng yêu ai cả."
          " Có. Có chứ."
          " Nó không nói thế."
          " Có. Tôi yêu rất nhiều là khác chứ." Anh cố gắng thể hiện bộ mặt cho khớp với lời nói, nhưng chẳng có cảm xúc nào thể hiện ra nổi. " Tôi đang yêu."
          " Ồ, làm ơn bỏ bộ mặt ấy đi."
          " Bồ công anh này chỉ chuyên dùng cho cô thôi, chẳng có tác dụng gì với tôi cả." Anh nói.
          " Tất nhiên là vậy rồi. Ồ, tôi khiến anh phiền lòng mất thôi, tôi thấy điều đó trên mặt anh kìa. Tôi xin lỗi nhé, thực lòng đấy. " Cô chạm vào khuỷu tay anh.
          Anh nói nhanh " Ồ không không, không sao đâu."
          " Tôi không có ý làm thế, hãy nói anh tha lỗi cho tôi đi. Tôi không muốn làm anh giận."
          "Tôi không giận. Phiền lòng chút chút thì có."
          " Tôi phải đi gặp bác sĩ tâm lý bây giờ. Người ta bắt tôi phải đi. Tôi phải bịa chuyện. Tôi chẳng biết ông ta sẽ nghĩ gì về tôi. Ông ấy nói tôi là củ hành ngoan cố, khiến ông ấy cứ phải bóc hết lớp này đến lớp khác."
          " Theo tôi có lẽ cô cần bác sĩ tâm lý thật."
          "Anh không có ý đó mà, công nhận đi."
          Anh nín thở một giây, cuối cùng anh nói: " Đúng, tôi không có ý đó."
          " Bác sĩ tâm lý muốn biết tại sao tôi đi lang thang quanh các khu rừng, ngắm lũ chim và sưu tập bươm bướm. Hôm nào tôi sẽ cho anh xem bộ sưu tập của tôi.
          " Hay lắm."
          " Họ muốn biết tôi dùng thì giờ vào việc gì. Tôi nói với họ có lúc tôi chỉ ngồi và nghĩ. Nhưng tôi sẽ không nói tôi nghĩ gì đâu. Các ý nghĩ cứ chạy thật nhanh. Và tôi sẽ nói với họ đôi lúc tôi ngả đầu ra sau, thế này này, để mưa chui vào mồm. Ngon như rượu. Anh thử bao giờ chưa?"
          " Chưa.Tôi..."
          " Anh tha lỗi cho tôi rồi, phải không?"
          " Ừ. " Anh nghĩ về điều đó ." Đúng vậy. Chúa mới biết tại sao. Cô thật lạ lùng, luôn thích chọc tức người khác và rồi người khác rất dễ tha thứ cho cô. Cô nói cô 17 tuổi à?"
          "Vâng, tháng sau."
          " Lạ thật. Kì cục thật. Vợ tôi 30 rồi nhưng hình như cô còn lớn hơn cô ấy vài lần. Tôi không sao tin nổi chuyện này."
          " Anh cũng thật đặc biệt, ngài Montag ạ. Đôi khi tôi quên mất anh là lính hỏa. Giờ thì, tôi làm anh cáu tiếp được không?"
          " Thử xem nào."
          " Bắt đầu thế nào nhỉ? Làm thế nào mà anh lại làm cái nghề đó? Anh bắt đầu công việc thế nào và sao bỗng dưng anh lại nghĩ đến việc làm nghề đó nhỉ. Anh không giống mọi người. Tôi thấy vài người lính hoả rồi, tôi biết chứ. Khi tôi nói, anh nhìn tôi. Khi tôi nói về trăng, anh liền nhìn trăng, đêm qua ấy. Những người khác chẳng bao giờ làm thế. Họ sẽ bỏ đi và mặc kệ tôi nói một mình, hoặc doạ dẫm tôi. Chẳng ai có thời gian cho bất cứ người nào khác ngoài bản thân họ. Anh là một trong số rất ít người ngồi nghe tôi nói. Thế nên tôi nghĩ thật lạ là anh lại làm nghề đó, có gì đó không đúng thì phải."

          Anh cảm thấy cơ thể mình như tự chia làm hai nửa, một nửa nóng còn nửa kia thì lạnh, một nửa rất mềm mại nửa kia thì cứng đờ, một nửa run rẩy còn nữa kia lại không. Hai nửa thay phiên nhau nghiền nát nửa còn lại.

          " Tốt nhất cô chạy đi gặp bác sĩ luôn đi."

          Và cô chạy đi, còn anh đứng đó dưới trời mưa. Phải một lúc lâu sau, anh mới cất bước.
          Và rồi ,rất chậm chạp, anh bước đi, anh bắt đầu ngửa cổ hứng cơn mưa, một lát sau, anh bắt đầu hé miệng ...
          #5
            Paloma 06.05.2008 18:59:27 (permalink)
            0
            Con chó săn robot  nằm không ra thức cũng chẳng ra ngủ, không biết nên gọi nó là một sinh vật sống hay một cỗ máy. Nó cất tiếng gầm gừ nho nhỏ, và có thể nhìn thấy lờ mờ chiếc cũi của nó nằm trong một góc tối của trạm. Ánh sáng mờ đục của buổi sớm, ánh trăng từ bầu trời bị đóng khung lại bên khuôn cửa sổ luồn vào và chạm tới đây đó những bộ phận bằng đồng và thép trên người con quái vật tạo nên những đốm sáng rung rinh nhè nhẹ. Ánh sáng nhảy nhót trên lớp thuỷ tinh màu hồng ngọc, trên những sợi lông mao cạnh lỗ mũi rung rung của con vật, trên tám chiếc chân như chân nhện với những bộ móng vuốt ló ra khỏi phần đệm cao su.
            Montag trượt xuống chiếc cột đồng. Anh ra ngoài để ngắm nhìn thành phố với những đám mây đã bị quét sạch. Anh châm một điếu thuốc, quay lại rồi cúi xuống nhìn con chó. Trông nó giống như một con ong to tướng bay về tổ từ một cánh đồng nào đó nơi mật ngọt chứa đầy chất độc hoang dại, đầy sự điên cuồng và cả những cơn ác mộng. Cơ thể nó nhồi nhét quá nhiều thứ mật ngọt đó , và giờ nó đang nằm yên, tự ru những cơn lầm lạc ngủ say.
            " Chào mày." Montag khẽ nói, và như thường lệ say sưa nhìn con vật máy không biết nên gọi tên ra sao này.
            Những đêm dài khi mọi thứ nhoà đi vì bóng đêm mênh mông, những người đàn ông bám những chiếc cột đồng trượt xuống tầng dưới và đặt lại chế độ cho hệ thống khứu giác của con robot chó săn, rồi thả lũ chuột, đôi khi là gà hoặc mèo chạy lung tung trong trạm đốt rồi ngồi xem và đánh cược con nào sẽ bị con chó săn tóm được trước tiên. Những con vật được thả ra. Chỉ ba giây sau trò chơi sẽ kết thúc. Lũ chuột, mèo, gà sẽ bị tóm khi chưa chạy được nửa đường, bị kẹp giữa các móng vuốt. Trong khi đó từ mũi của con robot chó săn sẽ có một chiếc kim thép rỗng dài bốn inch vươn ra đâm xuống người các con vật để tiêm vào một lượng lớn móc phin hoặc procaine. Con mồi sau đó sẽ bị quẳng vào lò. Lượt chơi tiếp theo lại bắt đầu.
            Hầu hết những đêm diễn ra trò chơi đó, Montag thường ngồi ở tầng trên. Cách đây hai năm có lần anh cá cược với những tay chơi cừ nhất, và mất cả tháng lương rồi phải lo đối mặt với cơn giận dữ điên cuồng của vợ. Nhưng giờ đây hàng đêm anh nằm trên giường ngủ, quay mặt vào tường và nghe những tràng cười rú lên từ bên dưới, nghe tiếng chân chuột chạy lon ton như tiếng đàn piano, tiếng chuột chít chít như tiếng đàn violin, và sự lặng u ám của con robot chó săn khi nó lao vọt ra như một con bướm đêm trong ánh sáng lạnh lẽo, săn mồi, giữ chặt và tiêm vào con mồi rồi trở lại chỗ cũ nằm chết dí như thể bị tắt công tắc điện vậy.
            Montag chạm tay vào chiếc rọ mõm.
            Con chó săn liền gầm gừ.
            Montag nhảy lùi lại.
            Con robot chó săn nhổm người dậy trong chiếc cũi và tức khắc hai bóng đèn neon xanh nơi mắt nó khởi động và nhìn anh trừng trừng. Nó lại gầm gừ vẻ nghi ngờ, tạo nên một mớ âm thanh pha trộn giữa tiếng xì xèo, tiếng va đập kim loại, tiếng bánh răng chạy, nghe khàn khàn và cũ kỹ.
            " Thôi thôi, anh bạn." Montag nói, tim đập mạnh.
            Anh nhìn thấy cái kim bạc giơ lên không trung và thò ra cỡ một inch, rồi thụt vào, thò ra thụt vào. Tiếng gầm gừ bị nén lại trong họng con robot chó săn và nó đứng nhìn anh.
            Montag lùi lại. Từ trong cũi con robot chó săn tiến lên một bước. Montag bám một tay vào chiếc cột đồng. Chiếc cột nhận cảm ứng và hoạt động, lôi ngược anh trượt lên qua trần nhà. Anh bước xuống sàn tầng trên . Anh vẫn rất run và khuôn mặt tái mét. Bên dưới, con robot chó săn lại nằm xuống trên tám cái chân kinh khủng của nó và tiếp tục thở khò khè, đôi mắt đa diện của nó im lìm.
            Montag đứng đó cạnh ô trượt, chờ cho cơn sợ hãi qua đi. Sau lưng anh, bốn người đàn ông đang ngồi chơi bài bên chiếc bàn có đèn xanh chiếu sáng. Họ nhìn anh chằm chằm nhưng không nói năng gì. Cuối cùng một người đội mũ đội trưởng với biểu tượng Phượng hoàng bèn tò mò hỏi vọng sang:
            " Montag?..."
            " Nó không thích tôi," Montag nói.
            " Cái gì? Con robot chó săn à?" Viên đội trưởng nhìn các quân bài. " Quên nó đi. Nó làm gì có cảm giác thích hay không thích. Nó chỉ là một cỗ máy được lập trình thôi. Giống như lập trình bài học đạn đạo ấy. Chúng ta đặt quỹ đạo cho nó. Nó sẽ tuân theo hoàn toàn. Nó tự ngắm, tự tìm đến đích và găm trúng bia. Nó chỉ toàn dây điện, ắc quy và điện tử thôi mà.”
            Montag nuốt khan. " Các mạch điện tử bên trong nó có thể được đặt ở bất kì chế độ nào, có rất nhiều axit animo, sulphur, chất alkaline. Đúng vậy không?
            " Điều đó ai cũng biết."
            “Mọi cân bằng và phần trăm hoá học trong tất cả chúng ta đều được ghi lại trong file chủ dưới nhà. Rất dễ dàng nếu ai đó muốn cài đặt một liên kết với bộ nhớ của con robot chó săn, có lẽ là dùng đến chút axit animo. Việc đó có thể coi như lời giải thích cho vụ con robot chó săn định tấn công tôi vừa xong."
            " Khỉ thật." Viên đội trưởng nói.
            "Nó khó chịu với tôi, nhưng chưa đến mức giận dữ. Trong bộ nhớ nó mới chỉ được cài đặt gầm gừ lên khi tôi chạm vào nó thôi."
            " Ai lại làm việc đó nhỉ.? Viên đội trưởng hỏi." Anh làm gì có thù oán gì với ai ở đây, Guy."
            " Tôi cũng nghĩ vậy."
            " Mai kỹ thuật viên của chúng ta phải kiểm tra lại con robot chó săn mới được."
            " Đây không phải lần đầu nó doạ tôi. Tháng trước xảy ra hai lần rồi."
            "Đừng lo, chúng ta sẽ xử lý vụ này ổn thoả."

            Nhưng Montag không đi, anh vẫn đứng đó nghĩ ngợi về tấm lưới quạt thông gió ở nhà và thứ anh giấu đằng sau tấm lưới. Hay là ai đó ở trạm đã biết về chiếc quạt thông gió, liệu có phải họ đã "nói" cho con robot chó săn biết không?
            Viên đội trưởng đi tới ô trượt và ném về phía Montag một cái nhìn dò hỏi.
            "Tôi đang băn khoăn," Montag nói " đêm đêm con chó săn nghĩ gì ở bên dưới.Có phải nó đang dần trở thành con vật sống giữa chúng ta không? Tôi thấy lạnh cả người."


            " Nó không nghĩ những thứ mà chúng ta không thích đâu."
            " Buồn nhỉ, bởi vì ta chỉ cài đặt cho nó săn tìm và giết chóc. Nếu đó là tất cả những gì nó có thì thật đáng xấu hổ."
            Beatty khịt mũi " Khỉ thật, tất cả những gì nó có là một ngón đòn lành nghề, một cú nhảy trúng phóc mục tiêu và không trật bao giờ."
            " Thế nên tôi mới không muốn làm con mồi tiếp theo của nó."
            " Tại sao? Anh có cảm giác tội lỗi vì việc gì à?"
            Montag nhìn nhanh sang chỗ khác.
            Beatty đứng đó nhìn anh với cặp mắt chăm chú, miệng hé và bắt đầu cười, nụ cười như vô hình.
            ***

            Một hai ba bốn năm sáu bảy ngày. Mỗi lần anh ra khỏi nhà đều thấy Clarisse ở đâu đó, đi lang thang mọi nơi. Một lần anh nhìn thấy cô đang rung cây óc chó, lần khác anh lại gặp cô đang ngồi dưới sân đan một chiếc áo len xanh, ba bốn lần gì đó anh thấy một bó hoa nở muộn để ở cổng nhà mình, hoặc một nắm hạt dẻ đựng trong chiếc túi nhỏ, hoặc những chiếc lá thu được ghim lại gọn gàng trên một ở giấy trắng đóng lên cánh cửa. Hàng ngày cô gái đi bộ cùng anh đến ngã rẽ. Hôm thì trời mưa, hôm sau đó trời quang mây tạnh, ngày tiếp theo gió thổi mạnh và ngày tiếp theo nữa rất yên tĩnh, sau hôm đó lại là một ngày hè nóng như thiêu và mặt Clarisse bị cháy nắng vì ánh mặt trời chiều.
            “Sao vậy nhỉ?" Một lần anh hỏi cô ở lối vào ga tàu điện ngầm. "Tôi cảm giác như đã quen cô tới vài năm rồi."
            " Bởi vì tôi quý anh," cô trả lời, " và tôi không cần anh cho tôi gì cả. Và vì chúng ta hiểu nhau."
            " Cô khiến tôi thấy mình thật già, thật giống như tôi là cha của cô vậy."
            " Thế thì anh giải thích xem, tại sao anh không có những đứa con gái như tôi một khi anh yêu trẻ con như thế?"
            "Tôi không biết."
            " Anh đùa đấy à."
            " Ý tôi là..." Anh dừng lại và lắc đầu. " Vợ tôi, ồ, cô ấy... cô ấy không bao giờ muốn có con cả."
            Cô gái không cười nữa." Tôi xin lỗi, tôi cứ tưởng hỏi thế sẽ làm anh vui. Tôi ngốc quá."
            " Không, không, đó là một câu hỏi hay. Đã lâu rồi chẳng có mấy ai quan tâm người khác đến mức hỏi những câu như vây. Câu hỏi hay lắm."
            " Nói chuyện gì khác nhé. Đã bao giờ anh thử ngửi những chiếc lá cũ chưa? Chẳng phải chúng giống hệt mùi quế đó sao. Đây này, anh ngửi thử xem."
            " Tại sao, ừ nhỉ, chúng có gì đó giống mùi quế."
            Cô nhìn anh với đôi mắt trong veo tím sẫm. " Lúc nào anh có vẻ ngạc nhiên vì mọi thứ."
            " Chỉ vì tôi không có thời gian để ý đến mọi thứ thôi. .."
            " Anh đã nhìn những bảng quảng cáo mà có lần tôi kể chưa?"
            Anh phì cười: " Tôi nghĩ là rồi."
            "Dạo này anh cười nghe hay hơn rồi đó."
            " Thật thế à?"
            "Nghe thoải mái hơn."
            Anh cảm thấy thật dễ chịu và thoải mái. " Sao cô không đi học? Ngày nào tôi cũng thấy cô đi lang thang."
            " Ồ, người ta không buồn nếu thiếu tôi đâu.Họ gọi tôi là kẻ không hoà đồng với xã hội. Tôi không hoà nhập được, tôi lập dị. Thực ra tôi là người rất hoà đồng đấy chứ. Nó tuỳ thuộc xem anh quan niệm thế nào là xã hội, phải không nào? Với tôi hoà đồng nghĩa là nói chuyện với anh về mọi thứ giống như thế này. " Cô nghịch mấy hạt dẻ rụng trên sân, " hoặc nói chuyện xem thế giới này kì diệu ra sao. Hoà nhập với mọi người rất vui, nhưng tôi không tin hoà đồng với xã hội nghĩa là dồn một đống người lại với nhau và không để cho họ tự do nói, phải không? Một tiếng xem TV ở lớp học, một tiếng chơi bóng rổ hay bóng chuyền hay chạy, một tiếng đọc lịch sử hay vẽ tranh, và thêm nhiều môn thể thao, nhưng anh biết không? Chúng tôi chẳng bao giờ đặt câu hỏi, hoặc ít nhất là chẳng ai muốn đặt. Học sinh chỉ đưa ra câu trả lời, và rồi ngồi đó hơn bốn tiếng đồng hồ để nhìn thầy giáo, hệt như đang xem phim. Với tôi như vậy nghĩa là chẳng hay ho chút nào. Một mớ lằng nhằng những phễu và vòi, đổ nước vào đổ nước ra và bảo đó là cách làm rượu trong khi không phải vậy. Họ quần chúng tôi nhừ tử cả ngày khiến đến tối chỉ muốn lên giường đi ngủ. Chúng tôi phải đâm đầu đến Công viên giải trí lúc nhúc những người, đập vỡ những ô cửa kính, đâm xe ôtô vào những quả bi sắt. Hoặc ra ngoài phố đua xe, cố căng mắt mà nhìn những cột đèn.Thôi thà cứ để họ nói về tôi như vậy. Tôi chẳng có bạn bè, chứng minh thêm cho việc tôi không bình thường. Nhưng những người tôi biết đều thích gào rú và nhảy nhót điên loạn hoặc đi đánh nhau với người khác. Anh có để ý việc ngày nay người ta coi việc xúc phạm nhau là bình thường ra sao không?
            " Nghe cô nói năng như bà già ấy."
            "Đôi khi tôi rất cổ lỗ. Tôi sợ những kẻ cùng tuổi với tôi. Chúng giết chóc lẫn nhau. Có lẽ nào ngày xưa con người cũng như thế? Chú tôi bảo rằng không đâu. Sáu người bạn của tôi đã bị bắn chết chỉ trong có một năm. Mười người khác thì chết vì tai nạn xe cộ. Tôi sợ bọn họ và họ không thích tôi vì tôi tỏ vẻ sợ sệt. Chú tôi nói cha của chú vẫn biết có một thời bọn trẻ không giết chóc lẫn nhau như vậy. Nhưng điều đó đã từ lâu lắm rồi và cuộc sống thời đó cũng khác hẳn bây giờ, họ tin vào trách nhiệm. Anh biết không, tôi là người có trách nhiệm. Tôi sẵn sàng thể hiện nó ra khi cần. Đã nhiều năm nay rồi, tôi tự tay làm việc nhà, bằng hai bàn tay này đây."
            " Nhưng trên hết, tôi thích ngắm nhìn mọi người. Đôi khi tôi đi tàu cả ngày để quan sát và nghe người ta nói. Tôi muốn nhìn thấy và biết được họ là ai và họ muốn gì và họ đang đi đâu. Đôi khi tôi đến công viên và lái xe đi dọc thành phố vào lúc nửa đêm khi cảnh sát không để ý xem xe có bảo hiểm chưa. Cứ có đủ 10000 bảo hiểm là ai cũng được lái xe. Lúc thì tôi đánh hơi khắp xung quanh và nghe ngóng ở ga điện ngầm, hoặc nghe lỏm các câu chuyện ở đài phun soda, và anh biết gì không?"
            " Biết gì cơ?"
            " Mọi người chẳng bao giờ nói chuyện gì với nhau cả."
            "Phải có chứ."
            "Không, không một lời. Họ đọc tên rất nhiều loại xe, quần áo hoặc bể bơi và chuyện của ai cũng giống ai. Phần lớn thời gian họ nghe những máy kể chuyện cười tự động, và chúng kể những câu chuyện giống hệt nhau, hoặc họ nhìn các tấm màn hình treo tường phát ca nhạc và các dải màu chạy lên chạy xuống. Và ở viện bảo tàng, tất cả đều trừu tượng. Chú tôi nói có một thời khác hẳn với bây giờ. Khi ấy các bức tranh vẽ về mọi vật và về con người.”
            " Chú cô nói, chú cô nói, chú cô nói, vẫn là chú cô nói. Hẳn chú ấy là một người đặc biệt."
            "Tất nhiên. Chắc chắn là như thế. Ồ tôi phải đi rồi, tạm biệt anh, Montag.
            "Tạm biệt"
            "Tạm biệt"

            ***

            -------------------------------------------------------------------------------------
            Chú thích: Robot chó săn trong truyện là công cụ của lính hoả và cảnh sát hỗ trợ việc truy tìm và phát hiện những người cất giấu sách
            #6
              Paloma 06.05.2008 19:17:06 (permalink)
              0
              ***

              Một hai ba bốn năm sáu bảy ngày: Trạm đốt.
              "Montag, trông anh bám vào chiếc cột đó cứ như con chim đậu trên cây."

              Ngày thứ ba:
              "Montag. Tôi thấy anh vào từ cửa sau. Con robot chó săn lại làm phiền anh à?"
              " Không, không."

              Ngày thứ tư:
              "Montag, thật buồn cười. Nghe tin gì sáng nay không. Một gã lính hoả ở Seatle cố tình đặt cài cấu tạo hoá học của hắn ta vào con robot chó săn và thả nó ra. Anh thử nói xem hắn chọn kiểu tự sát gì vậy?"

              Năm, sáu, bảy ngày.

              Và rồi Clarisse biến mất, anh ko biết chiều hôm đó có chuyện gì xảy ra, nhưng ko sao tìm thấy cô gái ở bất cứ đâu. Khoảng sân trống rỗng, dãy phố trống rỗng, ngó trên cây cối cũng không thấy cô gái đâu , và ban đầu anh còn chưa hiểu rằng anh đang nhớ cô hoặc thậm chí đang đi tìm cô. Thực tế là vào lúc anh tới ga điện ngầm, có gì đó trong anh bị khuấy đảo mạnh mẽ khiến anh muốn khuỵu xuống. Có gì đó khiến công việc hàng ngày của anh bị gián đoạn. Thật ra chỉ là một công việc đơn giản lên sẵn vài ngày trước đó. Anh định quay lại chỗ đi bộ, chờ đợi cô xuất hiện. Anh gần như tin chắc nếu mình quay lại con đường cũ, làm mọi việc như cũ, thì mọi việc sẽ tốt đẹp trở lại. Nhưng đã muộn, con tàu đã đến ga rồi dừng lại cắt đứt dòng duy nghĩ của anh.

              Những quân bài giơ lên hạ xuống, những cánh tay lấp loáng, những cái chớp mắt , những khoảng thời gian tù đọng trong trạm đốt, "...1h35, sáng thứ năm, mồng 4 tháng 11, 1h36, 1h37 phút sáng..."Tiếng đều đều của những quân bài ném xuống chiếc bàn, mọi tiếng ồn lọt đến chỗ Montag, chui vào sau cặp mắt nhắm chặt - cái rào cản anh dựng lên tạm thời, anh có thể cảm thấy trạm đốt đầy những tia sáng lấp lánh, ánh sáng phản chiếu từ các đồ kim loại và sự im lặng, của màu cây cột đồng, màu những đồng xu trên bàn ánh vàng và ánh bạc. Anh cũng có thể nhắm mắt mà vẫn nhìn thấy những người đàn ông đi ngang qua chiếc bàn và nhìn những quân bài rồi thở dài, chờ đợi. "...1h45..." Tiếng chiếc đồng hồ buồn thảm điểm giờ lạnh lẽo trong một buổi sáng lạnh lẽo của một năm còn lạnh lẽo hơn.

              "Chuyện gì vậy, Montag?"

              Montag mở mắt.
              Một chiếc đài kêu xì xèo đâu đó. " …có thẻ bị tuyên chiến bất cứ lúc nào. Đất nước này sẵn sàng đứng lên để tự vệ..."

              Trạm đốt rung lên như tiếng động cơ của những chiếc máy bay phản lực đang hú hét gieo một nốt nhạc đơn vào nền trời buổi sáng.

              Montag chớp mắt. Beatty đang đứng nhìn anh như nhìn pho tượng trong viện bảo tàng. Rất nhanh, Beatty đi đến phía anh, chạm vào người anh và lia mắt sục sạo tìm cái cảm giác mặc cảm vì tội lỗi của anh. Tội lỗi. Tội lỗi gì vậy?

              " Chơi bài nào, Montag."

              Montag nhìn những người đàn ông khuôn mặt cháy nắng vì hàng ngàn ngọn lửa thực và hàng vạn ngọn lửa ảo, bởi công việc của họ khiến má họ đỏ sậm và mắt họ rực lên như người sốt. Họ nhìn chằm chặp vào bộ kích cháy platin. Họ và những mái tóc đen như than, lông mày đen như bồ hóng và cặp má xanh như những vệt tàn tro vì cạo râu quá sát. Montag bắt đầu mở miệng. Chưa bao giờ anh lại thấy một lính hoả mà lại không có mái tóc đen, cặp mày đen, bộ mặt dữ dằn và quai hàm màu thép xanh dù đã cạo râu mà trông như chưa cạo. Những người đàn ông đó là hình ảnh phản chiếu của chính anh. Hay tất cả những người như anh được chọn vì hình thức phù hợp với nghề này? Màu sắc của than cháy và tro tàn bao quanh họ, và thứ mùi đặc trưng không giấu vào đâu được của lửa phun từ các ống dẫn. Đội trưởng Beatty đứng đó, nhô lên khỏi đám khỏi thuốc mù mịt. Anh ta mở một bao thuốc mới, ném gói giấy bóng vào lò làm nó cháy xèo lên.

              Montag nhìn những quân bài trên tay." Tôi...Tôi đang nghĩ về đám cháy tuần trước, về người đàn ông bị chúng ta đốt sạch cả thư viện sách . Sau đó chuyện gì xảy ra với ông ta?"
              " Hắn gào thét điên cuồng, nên bị đưa vào trại tâm thần."
              " Ông ta đâu có điên."
              Beatty lẳng lặng sắp xếp lại các quân bài." Bất cứ ai cho rằng mình có thể nhạo báng chính phủ và chúng ta đều điên hết."
              "Tôi đã cố hình dung," Montag nói, "xem cảm giác sẽ thế nào nếu nhà chúng ta và sách vở bị lính hoả thiêu rụi."
              " Chúng ta không có sách."
              " Nhưng nếu chúng ta có?"
              Beatty từ từ chớp mắt." Anh có à?"

              "Không." Montag nhìn đăm đăm vào bức tường sau lưng mọi người nơi có bản đánh máy danh sách hàng triệu cuốn sách cấm. Những cái tên đó nhảy nhót trong ngọn lửa, cháy rụi khi bao năm tháng trôi qua, quãng thời gian mà bên dưới lưỡi hái và vòi rồng của người lính hoả chỉ phun toàn dầu đốt thay vì nước.
              " Không."
              Nhưng trong trí óc của anh, một cơn gió bắt đầu bay qua cuốn theo hình ảnh về tấm lưới thông gió trong căn nhà của anh, và dần dần làm anh ớn lạnh. Và rồi trong đầu anh lại hiện lên hình ảnh mình đứng trong công viên rợp cây, nói chuyện với một ông già rất già, và cơn gió trong công viên cũng thật lạnh lẽo.
              Montag lưỡng lự. "Nghề này..., nghề này vẫn luôn thế sao. Lính hoả, nghề của chúng ta? Ý tôi là, ờ, ngày xửa ngày xưa..."
              " Ngày xửa ngày xưa? Cách nói ở đâu ra thế ?"
              Đồ ngu, Montag tự rủa, mình sẽ tự tố cáo mình mất. Lần đốt nhà gần đây nhất, trong một trang truyện cổ tích, anh liếc thấy dòng chữ đó. " Ý tôi là," anh nói, "vào cái thời xa xưa, khi nhà cửa còn chưa được chống cháy..." Đột nhiên hình như một giọng nói trẻ trung cất lên từ cổ họng anh. Anh mở miệng và chính là Clarisse đang nói. " Có phải lính hoả ngăn chặn đám cháy thay vì châm chúng lên và giữ cho lửa cháy đến khi tàn, có phải vậy không?"

              " Vui nhỉ!" Stoneman và Black lôi ra các cuốn nội quy, trong đó có cả phần tóm tắt quá trình lịch sử của ngành lính hoả Hoa Kỳ. Họ đặt các cuốn sách ở chỗ Montag có thể đọc được, dù anh chẳng lạ gì chúng nữa.

              Được thành lập năm 1790, để đốt các sách tiếng anh gây kích động tại các khu kiều dân. Lính hoả đầu tiên: Benjamin Franklin.
              Nội quy:
              1. Nhanh chóng hành động khi có chuông báo động.
              2. Nhanh chóng đốt lửa.
              3. Thiêu hết mọi thứ.
              4. Báo cáo về chạm đốt ngay lập tức.
              5. Sẵn sàng cho các đợt báo động khác.

              Ai nấy đều nhìn Montag. Anh không hề nhúc nhích.
              Chuông báo động kêu vang.

              Chiếc chuông trên trần nhà rung bần bật cả trăm lần. Ngay lập tức bốn chiếc ghế trống trơn. Các quân bài rơi lả tả như những bông tuyết. Chiếc cột đồng rung lên. Những người đàn ông đã rời khỏi phòng.

              Montag vẫn ngồi trên ghế. Bên dưới, con rồng màu cam ho hắng thức giấc.

              Montag trượt xuống theo chiếc cột như người trong cơn mộng du.

              Con robot chó săn nhảy bật dậy trong cũi, cặp mắt nó xanh lè như lưỡi lửa.
              " Montag, cậu quên mũ bảo hiểm."

              Anh giật nó khỏi bức tường sau lưng, chạy, lao lên lên xe. Và họ khởi hành. Gió đêm giật giũ hoà trong tiếng còi hụ chói tai và tiếng ầm vang nhức óc.

              ***

              Đó là một căn nhà ba tầng ọp ẹp nằm trong khu nhà cổ của thành phố, đáng ra đã sụp từ cả thế kỷ trước, nhưng cũng giống như mọi ngôi nhà khác nó được bọc thêm một lớp nhựa chống cháy từ cách đây nhiều năm, và lớp vỏ bảo vệ đó dường như là thứ duy nhất giữ được nó đứng lại.

              " Đến nơi rồi."

              Chiếc hoả xa đỗ xịch lại. Beatty, Stoneman và Black chạy lên vỉa hè, bỗng dưng trông họ có vẻ gì đó thật đáng ghê tởm và phì nộn trong những tấm áo chống cháy căng phồng. Montag theo sau họ.

              Họ phá cửa trước và chộp lấy một người đàn bà, dù bà ta không hề chạy trốn. Bà chỉ đứng đó, loạng choạng lắc lư, cặp mắt nhìn đăm đăm vào khoảng trống trên bức tường, như thể bà bị đánh một cú chí tử vào đầu. Lưỡi bà run lên trong miệng và cặp mắt như đang tìm kiếm điều gì đó trong trí nhớ, và rồi bà nhớ ra thứ đang tìm kiếm, và lưỡi bà bật lên thành những lời sau:
              " Hãy cư xử cho ra con người, ngài Riddley. Ngày hôm nay chúng ta thắp lên ngọn nến ở nước Anh và sáng danh Chúa, tôi tin rằng nó sẽ không bao giờ tắt."

              " Đủ rồi!" Beatty nói. "Chúng đâu?"

              Anh ta dửng dưng tát người đàn bà và lặp lại câu hỏi. Cặp mắt bà già xoáy vào mặt Beatty " Ông đã đến đây rồi thì hẳn biết chúng ở đâu."
              Stoneman chìa ra tấm thẻ điện thoại đã gọi báo động đến trạm đốt với lời tố cáo ở mặt sau:
              " Có lí do để nghi ngờ tầng thượng số 11. Elm , trong thành phố. E.B."
              " Đó hẳn là bà Blake, hàng xóm của tôi. " Bà già nói khi đọc những dòng chữ.
              " Thôi được, các cậu, tìm chúng đi."

              Tiếp theo họ leo lên một nơi tối tăm ẩm mốc và vung những chiếc rìu bổ xuống cánh cửa, cuối cùng khoá bật ra, họ lao vào đó như những cậu bé đang nô giỡn và gào thét " Ê ê". Sách tuôn xuống đầu Montag như thể anh đang đứng giữa vòi phun nước. Thật khó chịu. Mỗi lần làm việc này lại thấy giống hệt như sắp sửa dập tắt một cây nến vậy. Cảnh sát sẽ đi trước và dán băng dính vào miệng nạn nhân, rồi trói họ lại tống vào chiếc xe bọ hung của cảnh sát. Thế là lính hoả bọn anh chỉ việc đến xử lý một ngôi nhà trống không. Anh không phải làm đau ai, chỉ làm đau đồ vật. Và vì đồ vật không biết đau, vì chúng không có cảm giác, nên chúng không kêu gào hay rên rỉ giống như bà già chắc cũng sắp gào thét này, và chẳng có gì chế nhạo lương tâm anh nữa. Đơn giản anh chỉ dọn sạch mọi thứ. Về chủ yếu, đó là công việc canh chừng sao cho mọi thứ nằm về đúng vị trí của nó. Và làm nhanh chóng với dầu lửa. Ai mang diêm nhỉ.

              Nhưng giờ đây, đêm nay, có gì đó đã trượt ra khỏi lối mòn quen thuộc. Người đàn bà này đang phá vỡ mọi lề lối. Những người đàn ông nói cười, đùa cợt thật ầm ĩ để trùm át đi sự buộc tội câm lặng và khủng khiếp của bà. Bà khiến căn phòng trống gầm lên lời buộc tội và rắc một lớp bụi tinh xảo về ý thức tội lỗi vào lỗ mũi của bọn họ. Điều họ đang làm là không đúng cũng chẳng có ích cho ai. Montag cảm thấy vô cùng khó chịu. Bà không nên đứng đó, trên cao và cao hơn tất thảy như vậy.
              Sách rơi xuống vai, xuống cánh tay và xuống cả bộ mặt ngẩng lên của anh. Một cuốn sách nhỏ, giống như một con bồ câu trắng đang run rẩy đập đôi cánh nhỏ trong tay anh. Dưới ánh sáng mờ ảo lung linh, một trang sách mở ra trông như một chiếc lông trắng muốt, những từ ngữ in trên đó tinh xảo kỳ lạ. Trong cơn cuống cuồng vội vã, Montag chỉ có một tích tắc để đọc một dòng, nhưng nó khắc vào óc anh ngay lập tức như thể được đóng dấu bằng sắt nung. " Thời gian chìm sâu trong giấc ngủ của ánh tà dương..." Anh buông rơi cuốn sách. Lập tức, một cuốn khác lại rơi lên cánh tay anh.

              " Montag, lên đây."

              Bàn tay anh xiết chặt lại, vơ lấy cuốn sách áp vào ngực với sự sùng kính điên cuồng, một cơn điên cuồng vô thức. Những người đàn ông bên trên đang lấy xẻng hất tung đống tạp chí vào không gian bụi bặm. Chúng rơi xuống như những con chim trúng đạn và bà già đứng bên dưới, giống như một cô gái nhỏ đứng giữa những xác chim chết ngổn ngang.

              Montag chẳng làm gì cả, chỉ bàn tay anh đã làm tất thảy, bàn tay anh với lý trí của riêng nó, với lương tâm và một nỗi tò mò trên mỗi ngón tay run rẩy, đã trở thành bàn tay ăn trộm. Giờ nó đang giúi cuốn sách luồn qua cánh tay áo, chui vào nách và yên vị ở đó, và khi xoè ra bàn tay hoàn toàn sạch trơn với sự tài hoa của một ảo thuật gia. Nhìn xem! Vô tội nhé! Nhìn xem!

              Anh run lẩy bẩy khi nhìn chằm chằm vào bàn tay trắng trơn đó. Anh đưa nó ra xa rồi nhìn như thể mình viễn thị, rồi lại đưa vào sát mắt như thể mình bị mù.

              "Montag!"
              Anh giật mình nhìn quanh.

              " Còn đứng đó làm gì thế, đồ đần !"

              Những cuốn sách nằm đắp đống như lũ cá bị phơi khô. Những gã đàn ông nhảy nhót, trượt chân và ngã đè lên chúng. Những dòng tên sách mở to cặp mắt vàng rực rỡ lần cuối, rồi lịm dần và tắt hẳn.

              " Dầu hoả."
              Họ bơm thứ chất lỏng lạnh giá từ các thùng đánh số 451 đeo trên vai. Họ phun lên từng quyển sách, bơm ra khắp căn phòng.

              Họ chạy xuống tầng dưới, Montag lảo đảo theo sau trong mùi dầu nồng nặc.
              " Này bà, đi thôi!"

              Người đàn bà quỳ giữa đống sách, vuốt ve những tấm bìa cứng bọc da thuộc, lần đọc những tựa sách mạ vàng bằng đầu ngón tay bằng trong khi đôi mắt vẫn không thôi kết tội Montag.

              " Các người không bao giờ có được những cuốn sách của ta."
              " Bà biết luật pháp rồi, " Beatty nói, " Ý thức của bà để đâu rồi hả? Những quyển sách này chẳng có chút tư tưởng chính thống nào cả. Bà đã giam mình ở đây từng ấy năm với cái tháp Babel ngu ngốc này. Ra khỏi đó thôi. Lũ người trong các cuốn sách có phải người sống đâu. Nào nhanh chân lên."
              Bà lắc đầu.
              "Cả căn nhà sắp nổ tung rồi đấy" Beatty lại nói.
              Mọi người lóng ngóng bước ra cửa, họ quay lại liếc nhìn Montag. Anh vẫn đang đứng cạnh bà già, và lên tiếng phản đối.
              " Các anh không định để bà ấy lại đây đấy chứ?"
              " Bà ta không chịu đi."
              " Vậy thì bắt bà ta phải đi."
              Beatty giơ bàn tay cầm nút kích nổ lên. " Chúng ta phải quay lại Trạm ngay. Với lại, những kẻ cuồng sách luôn muốn tự sát; trò quen thuộc của họ mà."
              Montag nắm lấy khuỷu tay của bà già. " Hãy đi với chúng tôi."
              " Không, " bà nói, " Dù sao, cũng cảm ơn anh."
              " Xin bà..."
              " Anh đi đi."
              " Ba!Bốn!"
              " Lối này." Montag kéo tay bà ta.
              Người đàn bà lặng lẽ đáp, " Tôi muốn ở đây."
              " Năm! Sáu!.."
              " Ông không cần đếm làm gì, " bà nói. Bà nhẹ nhàng xoè các ngón tay. Trong lòng bàn tay bà có một vật nhỏ bé.
              Một bao diêm làm bếp bình thường.
              Nhìn thấy nó, lập tức đám người xô nhau chạy khỏi căn phòng. Đội trưởng Beatty, vốn đầy phẩm giá, chầm chậm lùi lại rồi ra ngoài theo cửa trước, mặt anh ta đỏ bừng và bóng nhẫy như bị cả ngàn ngọn lửa và sự kích động thiêu đốt. Chúa ơi, Montag nghĩ, sự thật đấy! Chuông báo động luôn reo vào ban đêm. Không bao giờ vào ban ngày! Vì ban đêm ngọn lửa đẹp hơn ư? Lộng lẫy hơn, cho xem một màn diễn hay hơn? Khuôn mặt Beatty giờ nom hoảng sợ hơn bao giờ hết. Bàn tay người đàn bà giật que diêm ra. Hơi dầu đốt nồng nặc quanh bà. Montag cảm thấy cuốn sách đập dồn dập cạnh ngực anh như thể một trái tim sống.
              "Đi đi," bà già nói và Montag thấy mình lùi dần và lùi mãi ra phía cửa, sau Beatty, qua các bậc thang, qua sân, nơi những vệt dầu trông hệt như những vệt nhớt trên đường đi của một con sên ghê tởm.

              Ở hành lang, người đàn bà đứng đó và bất động, bà cân nhắc và đánh giá tội trạng của bọn họ bằng ánh mắt và bằng sự im lặng của mình.

              Beatty nhấn ngón tay để bật lửa châm vào dầu.

              Anh ta chậm hơn rồi. Montag thở dốc.

              Người đàn bà đã vẩy tay, và cùng toàn bộ sự khinh miệt bọn họ, bà đánh que diêm vào vỏ.

              Mọi người chạy túa xuống phố.

              ***
              #7
                hopeful 23.05.2008 21:56:20 (permalink)
                0
                truyện này bạn lấy nguồn ở đâu vậy?
                Thú vị lắm!
                #8
                  Paloma 03.06.2008 14:23:15 (permalink)
                  0
                  thanks Hopeful, truyện này của một người mang bên Sing về nhờ mình dịch để làm tài liệu học.
                   
                  Sorry dạo này mình bận quá chưa có lúc nào post nốt truyện, vì trước khi post mình thường có thói quen đọc đi đọc lại rồi sửa. Nếu mọi người quan tâm muốn đọc hết thì vào blog mình xem nốt vậy. Khi rảnh hơn mình sẽ post toàn bộ truyện lên.
                   
                  Blog: http://blog.360.yahoo.com/blog-N._3m7gheqoywpdOr0bkrVIz3aG.?p=357 
                  À trong blog có Nhật ký công chúa 5 mình đang dịch sắp xong nữa, hehe vì học sinh của mình thích đọc trước nên cứ xúi cô dịch
                  #9
                    trinhdinh 28.09.2014 06:33:22 (permalink)
                    0
                    Chị ơi làm ơn post bài tiếp đi chị, please! Em không vô Blog của chị được.
                     
                    #10
                      tnvtrang132 09.01.2020 07:33:00 (permalink)
                      0
                      Nếu bạn nào muốn đọc tiếp truyện thì có thể check thử file pdf ở link dưới đây nha. Mình hiện đang đọc cả hai bản dịch này song song với bản gốc bằng tiếng anh và theo mình thấy thì truyện Paloma dịch vẫn hay hơn. Truyện ở link bên dưới được dịch khá sát nghĩa và vì vậy lời văn cũng không được bay bổng như của bạn dịch trên nhưng nếu ai nóng lòng muốn đọc  các phần sau thì có thể tham khảo thử.
                      https://sachvui.com/sachvui-686868666888/ebooks/2018/pdf/Sachvui.Com-451-do-f-ray-bradbury.pdf
                      #11
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9