TỤC NGỮ VÀ CA DAO VIỆT NAM
CA DAO Ruộng hoang người ta khẩn còn thành Huống chi ruộng thuộc sao đành bỏ hoang. Tằm vương tơ, nhện cũng vương tơ Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm.
CA DAO Vai mang túi bạc kè kè Nói quấy nói quá người nghe ầm ầm Trong lưng chẳng có một đồng Lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe.
CA DAO Hạt tiêu nó bé nó cay Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền. Khi vui thì vỗ tay vào Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
CA DAO Của mình thì giữ bo bo Của người thì thả cho bò nó ăn. Hèn mà làm bạn với sang Chỗ ngồi chỗ đứng có ngang bao giờ.
CA DAO Xuềnh xoàng đánh bạn xuềnh xoàng Trẻ vui bạn trẻ, già choang bạn già. Hơn nhau tấm áo tấm quần Thả ra bóc trần ai cũng như ai.
CA DAO Tham vàng bỏ đống gạch đầy Vàng thì ăn hết, gạch xây lên thành. Trống chùa ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng?!
CA DAO Thua thì thua mẹ, thua cha Cá sinh một lứa ai mà thua ai. Thương ai thương cả đường đi Ghét ai ghét cả tông ty, họ hàng.
CA DAO Vịt chê lúa lép không ăn Chuột chê nhà trống ra nằm bụi tre. Vên vên cứng, dành dành cũng cứng Mù u tròn, trái nhãn cũng tròn Vàng thau tuy trộn một bồn Anh là tay thợ lựa, lòn phải ra.
CA DAO B. CA DAO THỜI KỲ BỊ THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC Giặc Tây đánh đến Cần Giờ (1) Biểu (bảo) đừng thương nhớ, đợi chờ uổng công. Chớ tham đồng bạc con cò Bỏ cha bỏ mẹ đi phò Lang sa. (2) (1). Cửa Cần Giờ: ở Gia Định quân Pháp qua Cần Giờ tiến vào chiếm Gia Định. (2). Đồng bạc con cò: cũng gọi là đồng bạc trắng.
CA DAO Trèo lên chuông Bụt múa cờ Tưởng làm nên danh phận, ai ngờ thú Tây. Vạn Niên là Vạn Niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân. (*) (*). Câu này nói về việc vua Tự Đức xây thành Vạn Niên cơ tức Khiêm Lãng làm cho binh lính và thợ thuyền nhiều người phải bỏ mạng. Năm 1866 binh lính và thợ thuyền ở đây đã nổi dậy làm cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của anh em Đoàn Hữu Trưng nhưng cuộc khởi nghĩa này đã thất bại.
CA DAO Thằng Tây nó ở bên Tây Bởi vua chúa Nguyễn rước thầy đem sang Cho nhà, cho cửa tan hoang Cho thiếp ngậm đắng, cho chàng nuốt cay Cha đời mấy đứa theo Tây! Mồ ông, mả tổ voi giầy biết chưa? (*) (*). Đây là lời nhân dân kể tội triều đình nhà Nguyễn. Vua nhà Nguyễn lúc bấy giờ là Nguyễn Gia Long (Nguyễn Ánh) đã cầu viện thực dân Pháp để diệt nhà Nguyễn Tây Sơn và gây nên cái họa mở đường cho quân đội thực dân Pháp xâm lược nước ta.
CA DAO Gáo vàng đem múc giếng Tây Khôn ngoan cho lắm, tớ thầy người ta. Khi đi cửa Hội còn không (*) Khi về cửa Hội đồn trong, điếm ngoài. (*). Cửa Hội: thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, ý nói quân Pháp đã xâm chiếm mất cửa Hội rồi.
CA DAO Tiếc quả hồng ngâm đem cho chuột vọc Tiếc người ngọc đem cho ngâu vầy Tiếc của nước Nam ta xây dựng, để cho Tây tung hoành.
CA DAO Trời ơi! trông xuống mà coi Nước Nam cơ khổ, "con trời" hai ông: Hàm Nghi chính thực vua trung Còn như Đồng Khánh là ông vua xằng.
CA DAO Hoàng triều Bảo Đại trị ngôi Bốn năm chưa trót, chúng tôi khố trần Năm Mão thì lụt bảy lần Bước sang năm tỵ dần dần lụt to Hai năm thì hỏng bốn mùa Lấy gì cơm áo mà no mà lành?
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 7 bạn đọc.
Kiểu: