TỤC NGỮ VÀ CA DAO VIỆT NAM
CA DAO Hoàng triều Bảo Đại tứ niên Đã ba cái lụt, lại liền cái keo (sâu keo) Xã dân đâu đấy túng nghèo Cho lên ngũ tỉnh phải theo đồn điền Ông Tây lắm bạc, nhiều tiền Bỏ ra sức giấy mộ liền cu ly.
CA DAO Sáu giờ còn ở kinh đô Chín giờ xe lửa đã vô cửa Hàn (1) Mười giờ bước xuống xà lan Bóp bụng mà chịu, nát gan trăm bề Bước lên tầu, tầu thổi súp-lê (2) Khoát khăn kéo lại, bảo em về nuôi con Đầu hè có buồng chuối non Để dành xáo, ghế cho con ăn dần Khoai từ, khoai choái, khoai nần Còn một vạt bắp trước sân chưa già Với hũ sắn lát trong nhà Để giành xáo, ghế cho qua tháng ngày. Bớ em ơi! Ráng mà nuôi con chim chuyền cho biết liệng, biết bay Mai sau anh có thác, hắn giữ cái ngày tiên linh. (3) (1). Cửa Hàn: tức là cửa Đà Nẵng ngày nay. (2). Súp-lê: còi tầu (tiếng Pháp: soufflet). (3). Ngày tiên linh: ngày giỗ tổ tiên.
CA DAO Con cò mà đậu cành tre Thằng Tây bắn súng cò què một chân Hôm sau ra chợ Đồng Xuân chú Khách mới hỏi: sao chân cò què? Cò rằng: cò đứng bụi tre Thằng Tây bắn súng, cò què một chân...
CA DAO Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn thấy phố xá nghênh ngang Kể từ ngày Tây lại đất Hàn Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau.
CA DAO Hạch triều Hàm Nghi Thi đời Đồng Khánh Bái mạnh (mệnh) toàn quyền Bà đầm ngồi trửa (giữa) Ông lớn ngồi bên Các ông lậy xuống, trông lên Vinh hoa, áo mũ, nhục quên mất rồi.
CA DAO Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó về Đập Đá, phố xá nghênh ngang Từ ngày Tây lại, sứ sang (*) Đi xâu, nộp thuế, làm đàng không ngơi. (*). Sứ: tức công sứ: viên quan cai trị người Pháp đứng đầu một tỉnh.
CA DAO Chém cha những đứa sang giầu Cậy thần, cậy thế cúi đầu nịnh Tây. Một nhà sinh đặng ba vua: Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài. (*) (*). Vua sống: Đồng Khánh, vua chết: Kiến Phúc, vua thua chạy dài: Hàm Nghi. Cả ba người này đều là anh em trong một nhà.
CA DAO Trời cao thăm thẳm, đất dày Bao giờ lính mộ sang Tây được về Vợ con thương nhớ ủ ê Biết rằng sang đấy có về được không?
CA DAO Nhờ ai cho gà đỏ đuôi Nhờ ai mà được cưỡi voi, ngồi thuyền Nhờ ai có bạc, có tiền Nhờ ai mà có nàng tiên đứng hầu Nhờ ai có ruộng, có trâu Nhờ ai mà có mâm thau, đũa ngà Nhờ ai có lụa, có là Vợ gọi bằng bà, con gọi cậu, cô Đến khi giặc Pháp tràn vô Quan nhỏ tếch mất, quan to chạy dài Ai ơi, có thế chăng ai?
CA DAO Đời mô cơ cực như ni Đồng Khánh ở giữa, Hàm Nghi hai đầu. (*) Người làm ruộng, kẻ làm thuê Đi buôn, đi bán mọi nghề kém thua. (*). Đồng Khánh ở giữa: tức kinh đô Huế, nơi giặc Pháp đã chiếm được. Hàm Nghi hai đầu: chỉ những vùng có phong trào Cần Vương từ Quảng Trị, Quảng Bình ra Bắc và từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận.
CA DAO Ai ơi! đi lính cho Tây Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi? Chuyện đâu có chuyện lạ đời Quan đi theo giặc bắt người lành ngay Nghìn năm nhớ mãi nhục này Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù. (*) (*). Câu này nhằm chửi Bùi Thức Kiên là tổng đốc Hà Nội năm 1873 đã thả bọn lính cờ vàng đi theo tên cướp nước Francis Garnier và bắt giam quân nghĩa dũng của Văn thân Hà Nội tự động lập ra để chống thực dân Pháp. Câu này được phổ biến thành ca dao chửi bọn Việt gian nói chung.
CA DAO Duy Tân niên hiệu vua ta Năm nay Quý Sửu mới là tất niên Dân tình nhiều nỗi truân chuyên Lúa chiêm thì xấu, thuế thêm nặng nề Người làm ruộng, kẻ làm thuê Đi buôn, đi bán mọi nghề kém thua.
CA DAO Mười giờ ông chánh về Tây Cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn. Bể Đông có lúc vơi đầy Mối thù đế quốc có ngày nào quên.
CA DAO Kể từ lính mộ ra đi Ở nhà nhiều nỗi sầu bi thất tình Sự này bởi tại triều đình Đêm nằm nghĩ lại phận mình gian nan.
CA DAO Rủ nhau ra tới cửa Hàn Thấy đang tập lính dư ngàn, dư trăm Thương chàng thiếp cũng phải ra thăm Chàng qua bên Tây địa biết mấy năm mới về? Tham chi bạc trắng thằng Tây Anh đi lính mộ bỏ bầy con thơ.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
Kiểu: