Chiêu Hồn Nước - Phạm Tất Đắc
Sóng Bạch Đằng 06.05.2008 03:10:16 (permalink)



.
 
CHIÊU HỒN NƯỚC




Hăm lăm triệu trẻ già trai gái
Bốn nghìn năm con cái Hồng Bàng
Cũng cửa nhà cũng giang san
Thế mà nước mất nhà tan hỡi trời!

Nghĩ lắm lúc đang cười hoá khóc,
Muốn ra tay ngang dọc dọc ngang
Vạch trời thét một tiếng vang,
Cho thân tan với giang san nước nhà!

Đồng bào hỡi con nhà Đại Việt,
Có thân mà chẳng biết liệu đời,
Tháng ngày lần lữa đợi thời,
Ngẩn ngơ ỷ lại ở người, ai thương?

Nay sóng gió bốn phương càng dữ
Tính nết xưa còn giữ được sao?
Đổng bào chút giọt máu đào,
Thương ôi! Tội nghiệp đời nào xót đây?

Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn,
Mà xót thương đến chốn nhị Nùng,
Xưa kia cũng lắm anh hùng,
Dọc ngang trời đất vẫy vùng bể khơi.

Xưa kia cũng lắm người hào kiệt,
Trong một tay nắm hết sơn hà,
Nghìn thu gương vẫn không nhoà,
Mở mày mở mặt con nhà Lạc Long.

Non sông vẫn non sông gấm vóc,
Cỏ cây xem vẫn mọc tốt tươi,
Người xem cũng đáng con người,
Cũng tai, cũng mắt như đời khác chi!

Cảnh như thế, tình thì như thế,
Sống mà chi, sống để mà chi?
Dân Việt khổ oan tình thê thảm,
Đời người đến thế cỏn gì nước non!

Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ,
Trông non sông lã chã giòng châu,
Một mình cảnh vắng đêm thâu,
Muốn đem máu đỏ nhuộm màu giang san.

Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt,
Tiếng quốc kêu đầy mặt anh hùng,
Nghiến răng nuốt cái thẹn thùng,
Mà chiêu hồn cũ lại  cùng non sông.

Hồn hỡi hồn! Con Hồng Cháu Lạc,
Mấy lâu nay đói khát lầm than,
Mấy lây thịt nát xương tan,
Mấy lâu nát thịt thâm gan vì hồn!

Trông bốn bể bồn chồn da ngọc
Xem năm châu khôn khóc nên lời,
Đêm khuya cảnh vắng im trời
Khôn thiêng chăng hỡi, hồn ơi hãy về,

Hồn về hồn cố cho nhờ
Anh em Hồng Lạc, cõi bờ Việt Nam
Còn chi sung sướng vẻ vang,
Bằng đem da ngựa chiến tràng bọc thây.

Hồn trở về làm theo ý muốn,
Chớ rụt rè sớm muộn sao nên
Lẽ thường thành bại đôi bên,
Chớ đắn đo quá mà quên việc mình,

Hồn trở về hy sinh quyền lợi,
Mà tận tâm đối với nước non,
Dù mà thịt nát xương mòn,
Cái bầu nhiệt huyết phải còn say sưa!

Hồn trở về hồn mơ hồn mộng,
Nên hồn thành ra giống ngựa trâu
Hồn về hồn kịp đổi mau,
Tự do hành động mặc dầu dọc ngang!

Hổn trở về rèn gan đúc trí,
Chớ có thêm mỹ vị cao lương,
Tháng ngày dưa muối rau tương,
Đêm khuya cảnh vắng vấn vương nỗi nhà

Hồn thiên chăng hỡi, hồn ơi hồn vế!

Hồn trở về đừng mê mẩn nữa,
Mà thôi đừng lần lữa đêm nay,
Xưa nay những kẻ tỉnh say,
Hồn mê có nghĩ việc hay bao giờ!

Hồn về đây thăm dò nước cũ,
Thử nghĩ xem tiên tổ ta xưa,
Trung Hoa đã phục nước rồi,
Kìa như Nhật Bản có tài hay không?

Sao các nước anh hùng như thế,
Nước Nam ta bi sỉ vô cùng,
Để cho nhơ nhuốc non sông,
Để cho xấu hổ Tiên Rồng giống ta.

Đêm tịch mịch canh trường man mác,
Ve kêu sầu dế hát thâu canh,
Trời cao đất thẳm một mình,
Hỡi hồn non nước giải trình trước sau.

Hồn hỡi hồn! Hồn hề hồn hỡi!
Hề hề hề! Hồn hỡi hồn ơi!
Hồn về hồn có cho nhờ
Giống nòi Hồng Lạc, cõi bờ Việt Nam!

Hồn trở về bặm gan mà chịu,
Cảnh biệt ly tình hiểu đôi đường,
Trượng phu lòng nhớ bốn phương,
Lẽ đâu hồn chẳng vấn vương nỗi nhà?

Hồn trở về nguyệt hoa chi nữa,
Mà thoi đưa lần lữa qua ngày,
Mặc đời say tỉnh, tỉnh say,
Hồn mê hồn nghĩ việc hay bao giờ!

Hồn hỡi hồn giang san là thế,
Giống Lạc Hồng tôi kể hồn hay:
Kể từ hồn lạc đến nay,
Đêm đêm khóc lóc ngày ngày than than,

Cũng có kẻ trên ngàn nhỏ máu,
Cũng có người nương náu phương xa,
Có người bỏ cửa bỏ nhà,
Có người lo nghĩ tuyết sa mái đầu.

Cũng có người làm thân trâu ngựa,
Cũng có người đầy tớ con đòi,
Cũng thằng buôn bán giống nòi,
Khôn thiên chăng hỡi! Hồn coi cho tường!

Có mồm nói khôn đường mà nói,
Có chân tay người trói chân tay,
Mập mờ không biết dở hay,
Ù ù cạc cạc công này việc kia.

Hồn hỡi hồn đêm khuya canh vắng,
Hồn nghe hồn có đắng cay không?
Tôi đây cùng giọt máu hồng,
Cũng xương cũng thịt con Rồng cháu Tiên.

Trông thấy cảnh mà điên mà dại,
Trông thấy tình mà dại mà điên,
Mà sao không thể ngồi yên,
Ba câu cạn ruột tôi biên mời hồn.

Bài viết xong tai nghe miệng đọc,
Miệng đọc xong giọt ngọc nhỏ sa,
In nghìn tờ đưa ra công chúng,
Công chúng xem mong bụng đổi dần...

Đổi rồi thức kẻ xa gần,
Ráng mau nên TRẢ NỢ NẦN NON SÔNG!


PHẠM TẤT ĐẮC
1909-1935





nguồn: Người Việt Quốc Gia
http://www.nationalistvietnameseforum.com/Nationalist%20Vietnamese%20Forum/Pages/Article%2066.htm




:: Bài thơ đưa vào TV ::
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.09.2011 20:17:51 bởi Viet duong nhan >
#1
    Sóng Bạch Đằng 06.05.2008 23:57:58 (permalink)
     
     
    Bạch đằng giang phú
    Trương Hán Siêu
     









    Khách hữu:
    Quải hãn mạn chi phong phàm,
    Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
    Triều kiết huyền hề Nguyên Tương,
    Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
    Cửu Giang Ngũ Hồ,
    Tam Ngô Bách Việt.
    Nhân tích sở chí,
    Mi bất kinh duyệt,
    Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách,
    Nhi tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
    Nãi cử tiếp hề trung lưu, tòng tử trường chi viễn du.
    Thiệp đại than khẩu, tố đông triều đầu, để Bạch Đằng giang, thị phiếm thị phù.
    Tiếp kình ba ư vô tế, trám diêu vĩ chi tương mâu.
    Thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu.
    Chử địch ngạn lô, sắt sắt sưu sưu.
    Chiết kích trầm giang, khô cốt doanh khâu.
    Thảm nhiên bất lạc, trữ lập ngưng mâu.
    Niệm hào kiệt chi dĩ vãng, thán tông tích chi không lưu.
    Giang biên phụ lão vị ngã hà cầu?
    Hoặc phò lê trượng, hoặc trạo cô chu,
    Tiếp dư nhi ngôn viết:
    Thử trọng hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa, dữ tích thì Ngô chủ phá Lưu Hoằng Tháo chi cố châu dã.
    Đương kì:
    Trục lô thiên lý, tinh kì ỷ ni.
    Tì hưu lục quân, binh nhận phong khởi, thư hùng vị quyết, nam bắc đối lũy.
    Nhật nguyệt hôn hề vô quang, thiên địa lẫm hề tướng hủy.
    Bỉ tất liệt chi thế cương, Lưu Cung chi kế quỷ.
    Tự vị đầu tiên, khả tảo nam kỉ.
    Kí nhi : hoàng thiên trợ thuận, hung đồ phi mi.
    Mạnh Đức Xích Bích chi sư, đàm tiếu phi hôi.
    Phục Kiên Hợp Phì chi trận, tu du tống tử.
    Chí kim giang lưu, chung bất tuyết sỉ.
    Tái tạo chi công, thiên cổ xưng mĩ.
    Tuy nhiên:
    Tự hữu vũ trụ, cố hữu giang sơn.
    Tín thiên tiệm chi thiết hiểm, lại nhân kiệt dĩ điện an.
    Mạnh Tân chi hội, ưng dương nhược lã.
    Duy thủy chi chiến, quốc sĩ như hàn.
    Duy thử giang nhi đại tiệp, do đại vương chi tặc nhàn.
    Anh phong khả tưởng, khẩu bi bất san.
    Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
    Lâm giang lưu hề hậu nhan.
    Hành thả ca viết: "đại giang hề cổn cổn, hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận. nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu mẫn."khách tòng nhi canh ca viết: "nhị thánh hề thùy minh, tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
    Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
    Tín tri:
    Bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ý đức chi mạc kinh.




    ******************

    Bản dịch:

    Khách có kẻ: Chèo bể bơi trăng, buồm mây giang, gió. Sớm ngọn Tương kia, chiều hang Vũ nọ. Vùng vẫy Giang, Hồ: tiêu dao Ngô, Sở. Ði cho biết đây, đi cho biết đó. Chằm Vân-mộng chứa ở trong kho tư-tưởng, đã biết bao nhiêu, mà cái trí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở!
    Mới học thói Tử-trương: bốn bể ngao du. Qua cửa Ðại-than sang bến Ðông-triều, đến sông Bạch-Ðằng, đứng đỉnh phiến-chu. Trắng xóa sông kềnh muôn dặm, xanh rì dặng ác một màu. Nước trời lộn sắc, phong cảnh vừa thu. Ngàn lau quạnh cõi, bến lách đìu-hiu. Giáo gậy đầu sông, cốt khô đầy gò. Ngậm ngùi đứng lắng ngắm cuộc sống phù du. Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, mà đây dấu vết hãy còn lưu.
    Kia kìa, bến sông, phu lão người đâu. Lượng trong bụng ta, chứng có sở cầu. Hoặc gậy trống trước, hoặc thuyền bơi sau. Vái tạ mà thưa rằng: Đây là chỗ chiến địa vua Trần bắt giặc Nguyên, và là nơi cố-châu của vua Ngô phá quân Lưu đây.
    Đương khi: muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ. Gươm tuốt sáng lòe, cờ bay đỏ khí! Tướng Bắc quân Nam đôi bên đối lũy. Đã nổi gió mà bay mây, lại kinh thiên mà động địa. Kìa quân Nam-Hán nó mưu sâu, nọ Hồ-Nguyên có sức khỏe. Nó bảo rằng: phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
    May sao: Trời giúp quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích-bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp-phù thuở nọ. Ấy cái nhục tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta lưu danh thiên cổ.
    Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang-san. Trời đặt ra nơi hiểm-trở, người tính lấy cuộc tồn-an. Hội này bằng hội Mạnh-tân, như vương-sự họ Lã; trận nào bằng trận Dung-thủy, như quốc sĩ họ Hàn. Kìa trận Bạch-Đằng này mà đại-thắng, bởi chưng Đại-vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, bia miệng hao mòn. Nhớ ai sa giọt lệ, hổ mình với nước non!
    Rồi vừa đi vừa hát rằng:
    Sông Đằng một dải dài ghê!
    Cuồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
    Trời Nam sinh kẻ anh hùng.
    Tăm kềnh yên lặng, non sông vững-vàng
    Khách vừa đi vừa hát rằng:
    Vua Trần hai vị Thánh-quân.
    Sông kia còn dấu tẩy trần giáp-binh
    Nghìn xưa gẫm cuộc thăng-bình.
    Tài đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.

     
    http://ebook4you.org/diendan/b_7841_ch-t1331.html?s=d0b304d95aa7c1cf2e1839e7677dbe6c&amp;




     
    Trương Hán Siêu, tác giả bài Phú sông Bạch đằng nổi tiếng là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông), từng giữ các chức Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Tả gián nghị đại phu, Tham tri chính sự. Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy. Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIV nảy sinh cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo mà Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán đạo Phật, mở đường cho Nho giáo tiến lên.

    Bạch Đằng Giang phú là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
      Bản dịch Bạch Đằng Giang Phú

        Khách có kẻ:
        Giương buồm giong gió chơi vơi,
        Lướt bể chơi trăng mải miết.
        Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
        Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
        Cửu Giang, Ngũ Hồ,
        Tam Ngô, Bách Việt.
        Nơi có người đi,
        Đâu mà chẳng biết.
        Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
        Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
        Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
        Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.


        Qua cửa Đại Than,
        Ngược bến Đông Triều,
        Đến sông Bạch Đằng,
        Thuyền bơi một chiều.
        Bát ngát sóng kình muôn dặm,
        Thướt tha đuôi trĩ một màu.
        Nước trời một sắc,
        Phong cảnh ba thu.
        Bờ lau san sát,
        Bến lách đìu hiu
        Sông chìm giáo gãy,
        Gò đầy xương khô.
        Buồn vì cảnh thảm,
        Đứng lặng giờ lâu.
        Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
        Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

        Bên sông bô lão hỏi,
        Hỏi ý ta sở cầu.
        Có kẻ lê gậy chống trước,
        Có người thuyền nhẹ bơi sau.
        Vái ta mà thưa rằng:
        “Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
        Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”.

        Đương khi ấy:
        Thuyền tàu muôn đội,
        Tinh kì phấp phới.
        Hùng hổ sáu quân,
        Giáo gươm sáng chói.
        Trận đánh được thua chửa phân,
        Chiến luỹ bắc nam chống đối.
        Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
        Bầu trời đất chừ sắp đổi.

        Kìa:
        Tất Liệt thế cường,
        Lưu Cung chước dối.
        Những tưởng gieo roi một lần,
        Quét sạch Nam bang bốn cõi.

        Thế nhưng:
        Trời cũng chiều người,
        Hung đồ hết lối
        Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
        Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
        Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
        Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
        Tái tạo công lao,
        Nghìn xưa ca ngợi.

        Tuy nhiên:
        Từ có vũ trụ,
        Đã có giang san.
        Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
        Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc trị an.
        Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
        Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
        Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
        Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
        Tiếng thơm còn mãi,
        Bia miệng không mòn.

        Đến chơi sông chừ ủ mặt,
        Nhớ người xưa chừ lệ chan.

        Rồi vừa đi vừa ca rằng:
        “Sông Đằng một dải dài ghê,
        Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
        Những phường bất nghĩa tiêu vong,
        Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”

        Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
        “Anh minh hai vị thánh quân,
        Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
        Giặc tan muôn thuở thanh bình,
        Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”


    http://www.icouple.sg/blog/reading/8/comment-page-1/
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2008 00:29:06 bởi Sóng Bạch Đằng >
    #2
      Sóng Bạch Đằng 09.05.2008 01:56:01 (permalink)
      .
      Bình Mông Hùng Ca (1)
      Lê Ngọc Hồ

      Chim Việt Cành Nam 
      http://chimviet.free.fr/





       I. Non sông Việt Thanh Bình trước Mông cổ xâm lăng.

      Thái bình hát khúc Âu ca
      Tinh anh nếp sống văn hoa tính tình
      Tiếng tiêu nhẹ, chèo lan trên sóng nước
      Đại Việt trời Nam vui cảnh thái hòa,
      Tằm dâu đẹp, vườn trái, lúa đơm hoa.
      Vẳng tiếng sáo diều đêm thôn im lắng,
      Tiếng hát ví mùa trăng con ngõ vắng.
      Giọt đàn bầu ve vuốt gái thôn trang,
      Hội trăng rằm nao nức tuổi trai làng.
      Vườn học sĩ, hoa thơ cười trăng sáng,
      Biển văn tự, sóng thi lai láng.
      Lê văn Hưu trang quốc sử khởi đầu,
      Lập trang điền, một quốc sách dân giàu.
      Câu gấm vóc thêu Hàn thuyên văn tế,
      Một chính sách kết hiếu hòa giao tế.
      Thái Thượng hoàng một học giả uyên thâm,
      Rời Thiên trường đi khắp nước viếng thăm.
      Những cảnh đẹp non sông sao gấm vóc,
      Đất nước mộng lũng đồng bằng vựa thóc.
      Trăng Hạ long, hồ Ba bể hoàng hôn,
      Động chùa Hương, "nàng Tô thị" Lạng sơn:
      " Cổ tự thê lương thu ái ngoại,
      Ngự thuyền tiêu sắc mộ chung sơ.
      Thủy minh sơn tỉnh bạch điểu quá,
      Phong định vân nhàn hồng thu sơ."



      Trần Nhân Tôn  (Lạng sơn vãn cảnh)

      (Nét chữ cụ Trần Dương)

      " Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ,
      Thuyền ngư lẽo đẽo, tiếng chuông đưa.
      Nước quang, non tỉnh con cò liệng,
      Gió tạnh, mây im, lá đỏ thưa."
                          (Ngô Tất Tố phiên dịch)

      Tịch Dương
      Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
      Bán vô bán hữu tịch dương biên.
      Mục đồng nghịch lý ngưu qui tận,
      Bạch lộ song song phi hạ điền.
      Trần Nhân Tông


      (Nét chữ cụ Trần Dương)

                Chiều
      Thôn sau, xóm trước khói mờ,
      Nửa không nửa có bóng mơ chiều tà.
      Chăn trâu tiếng địch về xa,
      Sóng đôi cò trắng bay qua cánh đồng.
                                 (Lê Ngọc Hồ dịch) 

      Thơ một túi, thửa một bầu rượu cúc,
      Một rương sách, một đàn tranh, sáo trúc.
      Đẹp giang san, vượng khí đất mạch lành,
      Non khí thiêng, đất hội tụ tinh anh.
      Từ trường đổ, từ cao nguyên Tây tạng,
      Thế đất đẹp, mạch nước nguồn lai láng.
      Lòng chân thành, Ngài cảm tạ tổ tiẻn,
      Bao công lao dựng nước những quốc hiền.
      Nước quá đẹp... nhưng cũng đày sóng gió!
      Một báu vật bao kẻ thù nhòm ngó.
      Ngài thở dài: một đế quốc đang lên,
      Quân kỵ Mông vượt vạn dặm như tên...

      ***
      II. Sẳn sàng chiến đấu
      Hùng thay! một thuở bình Mông, 
       Lừng danh nòi giống Lạc Hồng oai phong.
      Toàn dân nghe chăng:
      Đoàn gió ngựa quân Mông ngoài biên ải,
      Loa vang vang báo động khắp sơn hà:
      Loài hung thần !  quân xâm lấn đang qua!
      Sông Hồng réo mặt đó bừng tức giận,
      Nước Nam hải, triều dâng tình căm phẩn.
      Hoàng liên sơn, cao chất ngất khí thù, (3)
      Sóng Bạch đằng, sôi uất ánh trăng lu.
      Rừng tre nứa nghiến răng thề quyết chiến,
      Cỏ, cây, lá, ý chống thù thể hiện.
      Khắp xóm làng trai trẻ nguyện xung phong,
      Từ thôn trang đến thành thị một lòng.
      Các bô lão, vót tre làm tên nỏ,
      Các phụ nữ áo may xong trấn thủ.
      Các trẻ em làm liên lạc đưa tin,
      Các bà già đi tùng xóm quyên tiền.
      Toàn dân ý quyết hy sinh chiến đãu,
      Thề bảo vệ toàn San Hà yêu dấu.
       
      ***

      Hung tàn kỵ mã quân Mông
      Cỏ không dám mọc, chó gà không dám kêu
      Quân Mông cổ đoàn kỵ binh bách thắng.
      Từ Trung Á đến Âu châu im lặng.
      Vó ngựa Mông, cỏ không mọc đồng hoang,
      Vắng tiếng gà, chó không sủa bàng hoàng.
      Hùng chiến mã, hàng hàng giơ cao vó.
      Loài ngựa rừng cao cẳng, hí vang lừng,
      Gió dựng bàn phi nước đại thật hung.
      Lính kỵ mã, thân đồng đen bóng loáng,
      Ánh đoản kiếm chói ngời loe nắng sáng.
      Mặt xạm chì khắc khổ nét hung tàn,
      Tiến không lùi lưng bảo vệ không cần.
      Trên chiến mã đêm ngày áo da mốc thếch,
      Không biết mệt, chân cột đồng, mắt xếch.
      Ít dục tình, không hưỡng thụ, hành quân,
      Không tình thương như loài quỉ phi nhân. (4)
      Lính nửa triệu, do Thoát Hoan thế tử,
      Làm nguyên soái chỉ huy toàn quân lữ.
      Ô mã Nhi cùng với tướng Toa Đô,
      Được tướng phong giúp thế tử khuông phò.
      Đi hùng hổ mạnh tiến vào biên giới,
      Quân, dân Việt đã súng chờ, gươm đợi...


      ***


      III.Danh tướng đời Trần


        Trần Hưng Đạo

      Xưa nay chốn sử hoàn cầu,
      Một danh Tướng quá đẹp câu khải hoàn.
      Dọc ngang Âu Á dặm ngàn,
      Ngựa Mông run vó đất Nam kiên cường.
      Còn tươi cỏ Việt biên cương,
      Đại vương Hưng Đạo tấm gương ngàn đời.
      Lung linh ngọn nến chơi vơi,
      Nửa đêm đọc sử bồi hồi dòng xưa.
      Đất người nắng xóm chiều mưa,
      Dẫu thân vất vả tim thừa niềm tin.
      Quật cường truyền thống giử gìn,
      Máu anh hùng đã vào tim những ngày.
      Dòng tình lại chợt ngất ngây,
      Nghe Bình Mông hịch rằng đây sử vàng.
      Khí thiêng sông núi tinh hoa,
      Võ, văn hội tụ, lược thao, anh hùng.
      Lục thao tam lược gồm tài,
      Dưới tướng bao nhiêu hào kiệt.
      Một thiên tài , hề dũng liệt!
      Một văn tài hề lừng danh,
      Thơm thơm hề giống Việt.
      Quốc phụ hề quân sư,
      Từng lời vàng để lại.
      Tình Vạn Kiếp ngàn sau trăng dõi,
      Sóng Bạch Đằng vọng mãi gươm thề.
      Trần hưng Đạo con An Vương Trần Liễu,
      Quên thù nhà, đền ân nước, trung thành
      Bé: tài thơ, bày bát trận tinh anh. (5)
      Soạn Binh pháp, một thiên tài chiến lược,
      Văn rực rỡ, một hịch vàng thưở trước.
      Rất linh uy, giặc không dám gọi tên,
      Lục-đầu sông nơi trí sỉ đại hiền...
      (20 tháng 8 ngày hội đền Vạn kiếp,
      Dân ghi nhớ đại anh hùng trung liệt.
      Đêm hoa đăng, sông Vạn kiếp hàng năm,
      Khách tứ phương vui hơn hội trăng rằm.)
      Tôn Thượng phụ, các vua Trần trọng kính
      Trên bảy mươi Ngài lìa đời thọ bịnh...
      Dưới trướng Ngài các tướng giỏi theo phò,
      Võ kiêm văn: Phạm ngũ Lão khôi ngô
      Ngồi đan sọt, giáo đâm vào không biết!
      Thơ khẩu khí, ngâm dài trang anh kiệt...
      Một tướng tài Trần quang Khải lừng danh,
      Thắng, khao quân thơ "Đoạt sáo" lời vàng...
      Trần quốc Toản trái cam cầm bóp vỡ,
      Vì quá tức giận xâm lăng Mông cổ.
      Trần khánh Dư, một võ tướng văn tài,
      Đời nhà Trần tướng có một không hai.
      Thái bình hát những bài thơ lộng lẫy
      Thời chinh chiến điều quân hô sấm dậy

      ***
      Thế giới danh vang, phục tướng tài,
      Vũ công, văn nghiệp có không hai.
      Ngàn xưa sông núi thiêng hùng khí
      Gương sáng ngàn sau một chí trai.
      Hàng năm hoa đuốc cánh hồng,
      Đèn thuyền sóng nước khúc sông thưở nào.
      Đền thờ Vạn kiếp vươn cao,
      Khách hành hương mau ra vào hương yêu.
      Đại vương nghĩa cả, chí siêu,
      Cứu dân, cứu nước đến điều kiên trinh.
      Còn non, còn nước, còn tình,
      Lục - đầu bến cũ bóng hình chưa phai
      Sông Hồng triều sóng dặm dài,
      Hai mươi tháng tám nhớ hoài muôn sau.
      Bình Mông một thưở công đầu,
      Hương lòng mãi thắp dâng màu suy tôn.


      IV. Quyết chiến
      Ba quân quyết thệ cờ hồng
      Đồng lòng chiến đấu, Diên Hồng ý dân
      Giặc Mông cổ từng bao phen bách thắng,
      Trước chiến tranh, cần suy nghĩ minh quân.
      Vì nước nhà, vì sách lược, thương dân
      Tìm mưu trí, những nhân tài trong nước,
      "Tâu bệ hạ! Nếu đầu thần chưa rớt!
      Xin đừng lo, ta quyết chống giặt Tàu"
      Chí cương cường Trần thủ Độ lời tâu,
      Trần hưng Đạo: "xin chém đầu thần trước!
      Tâu thánh thượng nếu muốn hàng lui bước".
      Khắp kinh kỳ rộn rịp hội Diên Hồng
      Chiến hay hòa rung động khắp Thăng Long
      Chí buất khuất bùng lên sôi mạch máu,
      Không lưỡng lự chỉ một đường chiến đấu.
      Khắp xóm làng cả nước vang tiếng loa,
      Lệnh trưng cầu dân ý được ban ra.
      Già đến trẻ về hội đình tấp nập,
      Vang tiếng mõ mau mau về họp gấp.
      Các cụ già, chòm râu trắng phất phơ,
      Các trai làng gân bắp thịt dựng cờ.
      Ba hồi trống đáng vang rền khai mạc,
      Cụ tiên chỉ rung rnng hàm râu bạc.
      Giọng vang vang đọc chiếu chỉ Thượng hoàng,
      Hỏi ý dân quyết chiến đấu hay hàng.
      Vụa đọc hết các cụ già đứng dậy,
      Cụ già nhất yếu chân run lẩy bẩy
      Cũng phều phào "Đánh" nhất định không hòa,
      Toàn hội trường hô "Đánh" lớn hơn loa.
      Một ý chí, một lời thề cắt máu,
      Quyết đánh mãi! còn một người cũng đấu!

      ***
       
      V. Sát Đát
      Sông thao ngoài bến Việt trì,
      Anh hùng "Sát Đát" tiếc gì núi sông.
      Cậy sức mạnh! Quân nhà Nguyên xâm lấn,
      Ta động binh quyết chống giặc dài lâu,
      Trần thái Tông chiến thắng Đông bộ đầu.
      Thua, mỏi mệt quân Mông thành giặc Phật,
      Non nước Việt trong khí hùng cao ngất.
      Giặc trả thù ta cả nước đề phòng.
      Nước anh hùng của muôn thưở Bình Mông.
      Quân tài bạo sai Sài Thung hống hách
      Nước Văn học, ta hiếu hoà, dám trách!...
      Sông Bình Ố than họp tất cả vua quan,
      Hưng đạo Vương Tổng thống lảnh đầu quân.
      Trước cường địch, ta sẳn sàng nghênh chiến,
      Lòng yêu nước, tình thương nòi thể hiện.
      Lệnh Đại Vương họp tất cả vương hầu.

      Tổng duyệt binh, tại bến Đông bộ đầu.
      Trần quốc Tuấn uy hùng trong giáp sắt,
      Hông bảo kiếm, chói ngời loe nắng gắt.
      Đại chiến thuyền đỏ rực mắt giao long,
      Làn gió thần, mở khép áo bào hồng.
      Ngàn chiến hạm! cưỡi hung hăng sóng bạc,
      Quân hò réo ầm ầm hơn nước thác!
      Ngọn trường thương lấp lánh cả vòm trời,
      Sáu ngọn sông sợ sệt nước chơi vơi.
      Đoàn hổ tướng vòng tay ra đón lệnh:
      "Đền ân nước, toàn quân hết sức đánh!
      Tiếng "xin thề" bùng nổ sấm âm vang.
      Lệnh điểm binh hai chục vạn hàng hàng.
      Hô "Sát Đát" núi kề sông đá lở! (7)
      Thích "Sát Đát cánh tay trần rực rỡ
      Cã rừng tay, bổng chốc vụt giơ cao,
      Làm cuồng phong, làm mây chuyển, sóng gào.
      Từng quân chiến đã sẵn sàng sức mạnh. (8)
      Từng người lính lòng xôn xao quyết đánh,
      Cồng chiêng vang lễ hùng tế dâng cờ
      Hồi trống đồng ban nghiêm lệnh quân cơ.

      ***
      VI. Trận Biên ải
      Vó ngựa hề cất cao,
      Lấp lánh hề ngọn giáo
      Bão tên đổ ào ào
      Cánh tay hề thô bạo
      Bờm ngựa hề dựng đứng,
      Ngựa thở hề mây mờ.
      Tráng sĩ hề đứng sững,
      Lưỡi sắc hề đao to.
      Dù cho bách thắng nơi nao,
      Non sông Việt chớ đụng vào mà thua.
      Nắm chặt kiếm, ghì truờng thương nghênh chiến,
      Quân Việt nam hăng khí thế diệt thù,
      Ải Nam quan ghi chiến tích ngàn thu.
      Loa trống trận vang hừng trên trận địa,
      Bao mãnh thú chạy dài bay mất vía.
      Tay cầm khiên gân guốc nổi như thừng,
      Hô xung phong hổ gầm tiếng vang lừng.
      Nắng cháy đố trên vai bờ áo giáp,
      Tay ghì chặt giây cương, thân cúi rạp.
      Hàng nối hàng biển ngựa ngập cánh đồng,
      Sắc đen nâu loài chiến mã quân Mông
      Rừng gươm ánh trong nắng trời nháng lửa,
      Bay hùng dũng rực cờ vàng một nữa.
      Thấp mây bay giáo chọc thủng vút cao,
      Khí thế hùng dâng lượng biển sóng trào.
      Loé áo giáp gồ lên mu ngực thép,
      Luôn chân giậm ngựa câu sùi bọt mép.
      Ráng mây hồng máu thắm đỏ mặt trời,
      Mây vội bay sợ chiến trận chơi vơi.
      Tiếng ngựa hí, tiếng tù và, tiếng thét,
      Hú man rợ, tiếng kêu la, tiếng hét...
      Nứa sắc dài, xé nát vó ngựa Mông,
      Ngọn trường thương tắm đẵm máu giặc hồng.
      Thế nước mạnh, giặc luôn luôn tăng phái,
      Núi Kỳ cấp nơi bất phân thắng bại.
      Ý thế đông giặc chiến thuật biển người,
      Để bảo toàn ta rút giữ miền xuôi.
      Giặt đốt phá, cướp, giết người tàn bạo,
      Ta nhất trí, dân thương quân chiến đãu.


      ***

      VII. Xôn xao tiếng hịch

      Hịch vàng hề kích thích,
      Hai mươi vạn quân Nam.
      Quyết tâm hề chống địch
      Bảo vệ hề giang san
      Hịch vàng muôn cánh tay thề,
      Quyết tâm chiến đấu giữ quê, diệt thù.

      ...
      Ta đây,
      Ngày thì quên ăn,
      Đêm thì quên ngủ.
      Ruột đau như cắt,
      Nước mắt đầm đìa.
      Chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt, lột da của quân giặc.
      Dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ,
      Xác này gói trong da ngựa thì cũng đành lòng
                 (Lời Hịch của Đức Trần Hưng Đạo, dịch Trần trọng Kim)


      Im phăng phắc sóng hàng quân biển lính,
      Từng lời uống xoáy vào hồn tiếng hịch.
      Gân xôn xao mà gan óc nao nao,
      Thớ thịt rung tim dồn dập máu ra vào.
      Hơi thở lẹ, nổi da gà xúc động,
      Nghiến răng lại: Thù không còn một mống.


      ***

      VIII. Rút khỏi Thăng Long
      Quân địch hề giầy xéo,
      Lên gấm vóc giang san.
      Lo bảo toàn dân Nam,
      Điều binh hề khéo léo.
      Thủ đô hề mây mờ,
      Địch tràn vô xông xáo!
      Thăng long vắng bóng cờ,
      Quân thù hề thô bạo.
      Thăng long mờ mịt thức mây
      Giặc tràn cướp phá, thành gầy tang thương.
      Giặc Mông cổ dồn quân: Thăng long mất,
      Chúng giết hết những cánh tay "Sát Đát".
      Ta hộ vệ xa giá xuống Thiên - trường, (Nam định )
      Nghi binh, rồi quay trở lại Hải dương.
      Đánh bọc hậu chiến mưu loài Mông cổ,
       
      IX. Chiến thắng Hàm tử
      Con cò bay lả bay la,
      Bay qua Hàm tử bay về Thăng long.
      Xôn xao sóng nước sông Hồng,
      Tin mừng thắng trận muôn lòng tung hô
      Quân quân oai dũng tế cờ,
      Nghiêng bầu rượu thắng, lời thơ trầm hùng.


      ***
      Hàm tử quan!
      Hàm tử quan
      Thắng trận đầu
      Cứu giang san
      Ngựa Mông sút vó
       "Cầm hồ Hàm tử quan"
      Nước Việt còn đó
      Lạc Hồng muôn năm!
      Đẹp thay một thưở dâng cờ,
      Tin đưa thắng trận còn ngờ chiêm bao.
      Tiếng ngựa hí, tiếng thét vang xung kích,
      Một trường kiếm suốt qua người tướng địch
      Máu đỏ dòng như kích thích say men,
      Biển quân ta tràn sóng ngập phủ lên.
      Thuyền của giặc không có còn lính giặc,
      Bến Hàm Tử Giặc lền bền trôi xác.
      Lá cờ vàng tung tóe máu quân Mông,
      Chiêu văn Vương chuôi kiếm bạc thành hồng
      Chiến thuật giỏi quân xung phong phục kích
      Trần nhật Duật phá tan tành quân địch. 


      ***

      X. Giải phóng Thăng Long
       
      Ta gan hề cướp giáo!
      Lũ giặc hề xâm lăng,
      Giết loài quân tàn bạo!
      Phất phới lá cờ vàng
      Thăng long hề yêu dấu
      Thăng long một thưở rồng vàng
      Chốn thiêng nước Việt thành vàng dân Nam.
      Thừa thắng lên ta giải thoát Thăng long,
      Chiến thuyền ta vang réo sóng sông Hồng.
      Chương dương độ tướng Trần quang Khải,
      Chiến thuyền giặc tan tành lui tháo chạy.
      Bỏ cả thành Thoát Hoan phải chạy dài,
      Việt cờ vàng ngạo nghễ nắng ban mai.
      Thành xưa đó, uy linh hùng xưa đó,
      Mây thiêng phủ, sóng cờ vàng lộng gió.
      Muôn quân reo hùng khí lễ dâng cờ,
      Ngàn sao trời nghiêng nghiêng xuống thành đô.
      Trần quang Khải ngâm bài thơ cảm khái:
      "Đoạt sáo Chương -dương độ,
      Cầm hồ Hàm tử quan.
      Thái bình nghi nỗ lực,
      Vạn cổ thử giang san."
      (Nét chữ cụ Trần Dương)
      Chương - dương cướp giáo giặc,
      Hàm - tử bắt quân thù.
      Thái bình nên gắng sức,
      Non nước ấy nghìn thu
      (Trần trọng Kim dịch)
      Thăng long quí, thành vàng nay lấy lại.
      Vang vọng tiếng quân ca:
      Thăng long nay lại về ta,
      Ngoại ô năm cánh đóa hoa mai vàng.
      Quân hò chiến thắng vang vang,
      Tình kỳ rợp đất hàng hàng tiến quân.
      XI. Chiến thắng Tây kết
      Tây kết hề Tây kết,
      Quân thù lui chối chết.
      Một nước Việt vàng son
      Muôn thế hệ vẫn còn.
      Về Tây kết Toa đô sai thám thính,
      Bỏ Thiên trường vì lo sợ quân ta,
      Khi biết tin Thoát hoan đã chạy xa.
      Lo sợ quá thành án binh bất động,
      Trần hưng Đạo muốn dụng tâm bắt sống.
      Chặn các đường không cho giặc thông tin,
      Dẫn đại quân quá phấn khởi tiến binh.
      Ta đóng trại chặn các nơi hiểm yếu,
      Giặc quá sợ nên giặc đành phải liệu.
      Bỏ chiến thuyền chúng chạy bộ tháo lui,
      Ta quyết tâm bắt phá giặc từng người.
      Quân cung mã quyết chặn đường phục kích,
      Rừng tên độc mưa liên miên phía địch.
      Vọng tiếng loa vào vách đá vang vang,
      Các đỉnh non toàn lộng gió cờ vàng.
      Thân bách chiến Toa đô đày tên độc,
      Đội xung kích quân ta ào đổ dốc.
      Cả chiến trường đẫm máu lá, cỏ, cây
      Óc, tủy văng tung toé cả cành gầy.
      Toa Đô chết, Ô mã Nhi chạy thoát,
      Thương dũng liệt, lấy áo bào phủ xác.
      Để nêu gương, vua mến đức trung trinh
      Thu chiến thuyền, bắt ba vạn tù binh.


      XII. Đại thắng Vạn kiếp

      Đại thắng hề Vạn Kiếp
      Lạc Hồng hề anh liệt
      Hùng cứ hề trời Nam
      Quả cảm nòi giống Việt


      Chiến trường Vạn Kiếp ra tay
      Loài quân bách thắng có ngày tan hoang.
      Toa Đô chết, Ô mã Nhi tháo chạy,
      Những tin dữ làm Thoát Hoan lạnh gáy.
      Hưng đạo Vương sai phục kích chặn đường,
      Sai hai con đường đi đến Hãi-dương.
      Ngăn chặn địch về châu Tư minh lối rút,
      Dò động tĩnh địch từng giây, từng phút.
      Thoát Hoan lui đến Vạn Kiếp đại binh,
      Thắng trong tay, ta biết hết địch tình.
      Phá một trận, giặc chết còn phân nửa,
      Quân Nguyễn Khoái tiến nhanh hơn gió lửa.
      Chui ống  đồng Thoát Hoan thoát cho nhanh.
      Nửa triệu quân trong sáu tháng tan tành
      Đại Vinh thắng chói ngòi trang chiến sử,
      Khắp cả nước từ vua, quan, lê thứ.
      Khải hoàn ca vang chiến thắng vàng son,
      Việt giang san ngàn thế hệ trường tồn.
      Quá rạng rỡ quốc hồn,
      Quá linh thiêng quốc sách.
      Dòng sông chảy réo sôi vui chiến thắng,
      Nghiêng kính cẩn núi Ba Vì im lặng.
      Nước sông Thao, réo rắt nhạc hòa âm,
      Tiếng hoan hô ầm sấm động sông Gầm.
      Trường sơn gió bay tin mừng cả thể,
      Nước Nam Hải triều dâng lên của lễ.
      Đêm hoa đăng thắp sáng vạn tinh cầu,

      Rượu tràn thơ ngâm sãng khoái từng câu.
      Người tráng sĩ trong tiếng cười ngạo nghễ.
      Vỗ dốc kiếm, hò khúc ca thế hệ 
      Một mùa hè mà hoa nở mùa xuân,
      Xông hương trầm thơm ngọn giáo bao lần.
      Đua mở hội một ngày hè đại thắng,
      Dân phấn khởi rượu khao quân suốt tháng
      Nước non thiêng khởi sắc giống Tiên rồng,
      Sen ngạt ngào từng thớ đất Thăng long.
      Mây ngũ sắc phủ màu cờ thắng trận
      Vó Mông cổ chỉ chùn chân một bận
      Quá bàng hoàng thế giới kính nghiêng mình.


      ***

      XIII. Chiến thắng Vân Đồn
      Đánh lắm hề thua dữ,
      Còn đánh hề còn thua.
      Lê thứ, quân, quan, vua,
      Kết đoán hề có đủ.
      Đình đánh Nhật, quân Nguyên sang phục hận,
      Thêm ba trăm chiến hạm để tăng cường,
      Ba trăm ngàn lính chiến đủ quân lương.
      A bát Xích, Ô mã Nhi, Lỗ Xích,
      Trương văn Hổ lại cộng thêm Phàn Tiếp.
      Phù thủy cao tay tên tiến sỉ Nguyễn Nhan, (9)
      Mượn chiêu bài Trần ích Tắc Việt gian... (10)
      Sôi ánh thép quân ta còn đợi lệnh,
      Tướng, sĩ tốt, quyết lo tròn sứ mệnh
      Vân đồn hề quân ta,
      Chuyễn bại hề thành thắng
      Loa quân Mông câm lặng.
      Giáo ta hề nở hoa.
      Hùng thay một trận Vân Đồn,
      Quân lương Mông cổ không còn một cân.
      Máu thù ướt giáo kiếm đàu,
      Quân ta chiến thắng khởi đàu đợt hai
      Quân ta đánh bậc giặc ngoài.
      Lương sắp cạn, Ô mã Nhi đi lấy,
      Trần khánh Dư đi đón đánh chận đường,
      Ta bị thua, giặc vận tải quân lương.
      Tướng quyết đánh để đái công chuộc tội,
      Cho đi trước, ta cướp lương đoạn hậu...
      Lửa cháy bùng trên những cánh buồm nâu,
      Khói mịt mù đen hắc ín một màu.
      Dòng sông lửa chảy dài nung mấy dặm,
      Những mảng lửa lềnh bềnh loang máu đậm.
      Những thuyền lương cháy lửa gạo ra tro,
      Cá, tép, tôm, chết trong lò nướng khổng lồ.
      Mùi khét lẹt, bay tung trời tro bụi,
      Đầy thuyền đắm ngẹt sông đầu mũi chui.

      ***

      XIV. Chiến thắng Bạch Đằng


      Trường giang sóng nước đi về,
      Nước xuôi Nam hải gươm thề vang vang.



      Bạch đằng hề sóng dữ,
      Một thưở hề Nam quân.
      Sông vàng hề lịch sử,
      Đại thắng hề giặc tan.

      Tiếng ca hề nhắn nhủ:
      Giặc ngoài ghi khắc lời ta,
      Xâm lăng cướp nước đừng qua Bạch Đằng.

      Sóng Bạch Đằng lô xô tràn lớp lớp,
      Ngày thiêng liêng hùng dũng tiếng quân reo,
      Chiến thuyền Nam một sớm thả buông neo.
      Trần nguyên soái duyệt hải quân nước Việt,
      Trời xanh biếc, nước trường giang xanh biếc.
      Vạn quân reo sóng thức dậy nhấp nhô,
      Lá rung mình nhựa kích động vùng hô.
      Hàng hàng quân phăng phắc,
      Hàng hàng giáo, đao, cung.
      Từng tay đồng chữ khắc,
      Ánh loé mu khiên đồng.
      Sấm ầm vang "Sát Đát"
      Chiến thuyền Nam rừng giáo xếp dài hàng.
      Nét oai phong lưng gió uốn cờ vàng.
      Đoàn thủy  quái của hải quân Đại  Việt,
      Những thủy mã, bầy kình ngư bạc thép.
      Những chiến thuyền dữ tợn nét giao long,
      Cựa, chân vàng, thân xanh biếc, mắt hồng
      Mủi nhọn hoắt những chiếc thuyền xung kíck,
      Mạnh, nhanh, gọn một đoàn thuyền  dụ  địch
      Đoàn thủy long uốn khúc giải  sông vòng,
      Thuyền chỉ huy súng lớn mũi bọc đồng.
      Rừng cờ phướn réo lời qua tiếng  gió,
      Nét lớn đỏ một chữ NAM rực rỡ.
      Mủi đại thuyền Trần nguyên soái uy nghi
      Mây nín khe sóng gió nói thầm thì
      Thanh trường kiếm chỉ dòng sông lịch sử
      " Ta gươm thệ không phá xong Mông cổ
      Quyết không về trên bến nước Sông Rừng"(II)
      Tiếng xin thề như sấm núi vang lừng.
      Ngàn đoản kiếm vụt sát trên sóng nước,
      Đoàn quân hỏ quyết không hề lui  bước.
      Tướng điều quân xong nhiệm vụ thì hành,
      Ngọn cọc dài bịt sắt cắm cho nhanh
      Xuống sông trước lúc thủy triều như biển cả,
      Quân mai phục đã sẵn sàng tất cả.
      Tướng nhà Trần khiêu chiến với quân Mông,
      Ô mã Nhi tức giận hét xung phong.
      Xua thuyền chiến quyết quyết đuổi theo bắt sống.
      Bỗng hô "sát" tiếng bùng vang sấm động.
      Đại hải quân Trần hưng Đạo tăng cường,
      Đại giang thuyền, đoàn xung kích trường thương.
      Giặc quay chạy, nước thủy triều rút xuống,
      Thuyền địch vướng rừng cọc dài luống cuống.
      Vỡ tan tành, địch thất bại ê chề,
      Những chiến thuyền trôi tan tác lá tre.
      Sông máu địch tràn dòng loang sóng biếc.
      Bị bắt hết Ô mã Nhi, Phàn Tiếp
      Bốn trăm thuyền lớn ta bắt tịch thu,
      Tích Lệ, cơ ngục bao nhiêu quân bị cầm tù.
      Cùng khí giới, quân nhu vô số kể,
      Đại chiến thắng, lưu truyền muôn thế hệ.
      Dòng sóng thần sôi réo khúc ca vang
      Khúc khải hoàn âm nhịp sóng Bạch Đằng.
      Thiêng hồn nước thêm một lần oanh liệt.
      Núi Con Voi phủ phục bái nghiêng mình,
      Sông Chảy suy tôn đại thắng hùng binh.
      Vui nhảy nhót nước lao dòng sông Mã,
      Chậm lưu lượng vì vui mừng sông Cả.
      Lòng nao nao tin chiến thắng Hồng Hà,
      Vừa hoan ca, vừa ngây ngất sông Đà.
      Thác sông nước mau hội về sông Đuống,
      Cùng vạn kiếp suy tôn VƯƠNG thần tượng.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.05.2008 02:20:37 bởi Sóng Bạch Đằng >
      #3
        Sóng Bạch Đằng 13.05.2008 04:43:59 (permalink)








        Đoạt sáo chương dương độ
        Trần Quang Khải

        (*)
        Đoạt sáo chương dương độ
        Cầm Hồ hàm tử quan
        Thái bình tu nỗ lực
        Vạn cổ thử giang san
               Trần Quang Khải



        Bến chương dương đoạt giáo
        Cửa Hàm tử ngăn Hồ
        Thái bình quân gắng sức
        Đất nước vững ngàn thu

                bản dịch của Maiuyển và Chuvươngmiện

         
        (*) nét chữ phonglữthảo


        http://chimviet.free.fr/index2.htm
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2008 04:46:27 bởi Sóng Bạch Đằng >
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9