ÁNH SÁNG CÔNG LÝ
I. Nhận định:
Hai bị cáo Phan Văn Khánh và Phan Công Dân tại cơ quan điều tra đều nhận tội và trình bày tỉ mỉ hành động phạm pháp cụ thể của chúng đồng thời nêu lên vai trò cầm đầu của Phan Nhật Tân.
Phan Nhật Tân tại cơ quan điều tra không chỉ phủ nhận là không phạm tội mà còn lập luận rằng lời khai của chị Loan cũng như lời cung của Khánh và Dân đều là những điều vu khống và kêu oan cho rằng y là “con cừu non rơi giữa bầy sói”.
Cụ thể Tân bào chữa rằng: (BL. 186-187)
1. Việc cứu vớt chị Loan chết đuối là giả tạo nhằm mục đích trả thù y. Chị Loan thực hiện mưu đồ này để lấy tiền cho chồng vượt biên.
2. Theo Tân, y không thể tham gia được vào vụ án xảy ra ngày 3-5-1980 tại Bến Tre vì từ 1 đến 5-5-1980 y đang ở thành phố Hồ Chí Minh, có vợ y là chị Thanh biết.
Thực tế, y có đi Trà Vinh bằng ghe máy với Khánh và Dân, nhưng vào đầu tháng 4-1980. Khánh và Dân khai Tân đã tham gia vào vụ án là không đúng vì thời gian đi Trà Vinh của y không phù hợp thời gian xảy ra vụ án (BL.186-187-151).
Để kết luận về tội trạng của ba bị cáo có nhiều hành động liên quan mật thiết với nhau, những điểm cơ bản sau đây cần được xác minh:
a) Trong vụ án thực tế có nạn nhân hay là điều bịa đặt:
Trước tiên nạn nhân bị vứt xuống biển còn sống sót là chị Bạch Loan. Chị đã nói lên tỉ mỉ rõ ràng hành động của Tân, Khánh và Dân. Chị được nhiều người vớt lên giữa biển cả, cách đất liền 10km. Những người vớt này là ông Võ Văn Năm (BL.77-78-79), anh Lê Văn Đẹp (BL.88), anh Bùi Văn Hòa, anh Phạm Văn Thiện (BL.71-72) và ông Trần Văn Nhiệm. Tất cả đều cư ngụ tại ấp 7, xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre. Theo ông Năm và anh Đẹp, chị Loan không nói với họ tên của chị cũng như tên của những kẻ sát hại gia đình chị. Trạng thái của chị Loan khi được vớt lên là trần truồng chỉ còn mặc một quần lót, mệt nhọc. Sau nhiều giờ đấu tranh với cái chết giữa biển cả cụ thể từ 9 giờ đêm đến 3 giờ sáng hôm sau không thể là điều bịa đặt.
Các điểm trên chứng tỏ ông Năm anh Đẹp không hề quen biết chị Loan, Tân, Khánh và Dân nên càng chứng minh việc cứu vớt chị Loan ở biển cả không phải là một dàn cảnh để vu cáo.
Nạn nhân thứ hai còn tông tích là em Võ Quốc Nguyên, con của chị Loan.
Xác của em được một ghe mang hiệu Mai Hoàng, Mỹ Tho đi cào về phát hiện trôi dạt vào cửa sông Ba Lai. Ghe này cột xác lôi về Vàm Vũng và báo cáo với chánh quyền (BL.40). Theo biên bản, em này độ 9 tuổi (lúc lập biên bản là 9 tuổi nhưng sự thật là 7 tuổi) mặc một áo ấm (len) dài tay màu đỏ sậm hơi nâu, bên trong mặc một áo trắng mỏng có sọc, bên ngực áo có thêu một cánh buồm và mặc một quần thun dài màu xanh lá cây, phù hợp với lời trình bày của chị Loan khi mặc áo cho con dưới ghe máy.
Xác của em bé ấy được chôn tại cồn gọi là Vàm Vũng, không có làng mạc, thuộc ấp Thới Bình, xã Thới Thuận, cách bờ sông Ba Lai 5 km.
Biên bản ngày 8-8-1980 khai quật mộ của em có mặt đầy đủ chánh quyền địa phương, có mặt của chị Loan chứng kiến thì tử thi mặc hai áo, áo thứ nhất là áo lạnh đỏ sậm (gọi là áo len) dài tay và được giữ nguyên vẹn trong người, áo thứ hai là áo mặc trong bằng vải trắng tetoron bên ngực áo có thêu một cánh buồm. Tử thi mặc một quần màu xanh lá cây (BL.34).
Tử thi ấy đúng là con của chị Loan. Sự kiện ấy cũng không thể là dàn cảnh.
Tại phiên tòa bào chữa có nêu vấn đề báo cáo khám nghiệm tử thi ngày 8-5-1980 (BL.44) nêu một số đặc điểm như quần áo trẻ con là không khác mấy về đặc điểm so với biên bản khai quật tử thi ngày 8-8-1980 (BL.34). Như vậy tính khách quan của biên bản chưa được phản ánh.
Báo cáo ngày 8-5-1980 là do chánh quyền địa phương ông Phong đại diện Ủy ban, ông Quang đại diện xã đội trưởng, ông Lai trưởng trạm công an ghi nhận những đặc điểm của tử thi.
Biên bản khai quật mồ ngày 8-8-1980 cũng có những người trên đồng thời có cán bộ phòng Cảnh sát hình sự và thêm một cán bộ xã, lại có mặt của chị Loan, cũng nêu một số đặc điểm về quần áo.
Hai biên bản trên ghi những điều cụ thể, mang đầy đủ tính chất khách quan và cho phép nhận định tử thi ấy là con của chị Loan.
Ngoài ra theo lời khai của anh Lê Văn Yên (BL.90) ngày 8-5-1980 anh đi câu cá đuối ở Ba Lai, có ghé vào chòi dựng ở giữa biển. Một người trong chòi cho anh biết mới có 4 xác người chết trôi qua đây: 2 xác người trôi trước, 2 xác người trôi sau, trong đó có 2 em một em mặc áo lạnh đỏ, chừng 9-10 tuổi, một người phụ nữ độ trên 28 tuổi, một người đàn ông khoảng ba bốn chục tuổi. Những xác ấy trôi theo dòng nước lên, thuộc địa phận An Thới Thuận, Bình Đại, Bến Tre.
Những chứng cứ trên xác nhận thêm lời khai của chị Loan và lời cung của Khánh và Dân đúng sự thật.
b) Về thời gian xảy ra vụ án:
Theo lời khai của chị Loan và lời cung của Khánh và Dân, Tân và đồng bọn thực hiện giết bảy người bằng cách xô họ xuống biển xảy ra vào ngày 3-5-1980.
Tân khai rằng từ ngày 1-5-1980 đến 5-5-1980, y vẫn ở thành phố Hồ Chí Minh tại nhà ở của y và chị Thanh 159A/6 Phạm Thế Hiển.
Chị Trần Thị Ngọc Thanh khai (BL.67): “Từ ngày 1-5-1980 đến ngày 5-5-1980 Tân ở Bến Tre nói là về thăm ông bà già. Mãi đến tối ngày 5-5-1980 mới có mặt ở nhà chị”.
Chị Thanh là vợ của Tân không có lý do gì khai sai để hại chồng.
Hơn nữa trong thơ gởi cho chị Thanh (BL.121) Tân viết:
“Vừa rồi anh bị con vợ thằng Bích tố là dụ cả gia đình nó đi vượt biên rồi xô xuống biển chiếm tài sản. Nhưng không có chứng cớ gì hết, anh không nhận gì hết, hỏi ngày 1-5 và 2, 3-5 anh ở đâu, anh khai ở nhà với em mà em nói về quê thì là trật rồi... Anh viết thơ báo một số việc cho ông (ông Hiên) rồi. Con Chi về dưới chắc chưa giải quyết xong... Vậy em phải đích thân về quê, cố cho ông tạo 4 người chúng, lấy người thân, chứng ngày 1-5-1980 là đi Trà Vinh mua đồ có ghé về lúc 3-4 giờ chiều mà không thấy chở ai hết chỉ có mấy cây tầm vông và 3 bình dầu vì thằng Khánh đã nhật có đi Trà Vinh rồi... Họ không có bằng chứng gì hết mình tạo được nhân chứng là thắng... (BL.122). Nếu có bị bắt hỏi coi chừng những thằng tù nằm kế mình là nội tuyến đó thì mình phải diễn kịch kêu oan tợn.”
Hơn nữa ngày 15-7-1980 hồi 10 giờ, khi xét hỏi Tân trong phòng làm việc của công an, thấy Phan Văn Khánh đi ngang qua. Khi xác định đúng là Khánh thì Tân thét lên một câu: “Tao không nhận gì đâu”, cố ý để cho Khánh nghe. (BL.182)
Việc Khánh đã khai (BL.171) như sau: “Đứa con gái của Tân tên là Chi xuống gia đình tôi (Khánh) báo cho ba tôi và mọi người trong gia đình việc Tân bị sợ Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giam”... chứng tỏ con của Tân đã thực hiện lời dặn của Tân trong thơ thông cung.
c) Về phương tiện mà Tân đã sử dụng để chở vợ chồng chị Bạch Loan, các con và cháu ra biển rồi xô họ xuống biển:
Phương tiện ấy là chiếc ghe máy của ông Hiên (cha của Tân và Khánh) mang hiệu Tân Lập có ảnh kèm theo. (BL.35-41)
Khánh và Dân công nhận bọn chúng và Tân đã sử dụng ghe máy ấy để phạm pháp. Tân cũng công nhận có đi trên chiếc ghe ấy (BL.151) nhưng không phải là ngày 3-5-1980.
Chị Loan đã khai nhiều lần chiếc ghe chở chị và gia đình chị ra biển mang hiệu Tân Lập, giữa hai chữ Tân và Lập có hình mặt trăng. Nếu chị Loan không đi trên chiếc ghe máy ấy, chị không thể biết được đặc điểm này.
Từ các đặc điểm phân tích trên, Tòa án khẳng định ngày 3-5-1980 chiếc ghe máy Tân Lập của ông Hiên (cha các bị cáo Tân, Khánh và ông nội của Dân) có chở gia đình chị Loan 7 người ra biển. Bảy người ấy bị xô xuống biển, đã chết 6 người, chỉ còn một người sống sót là chị Bạch Loan, đồng thời Tân không có mặt tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 3-5-1980.
II. Về tội trạng của các bị cáo
1. Đối với Phan Văn Khánh và Phan Công Dân :
Mặc dầu Khánh và Dân đã phản cung không nhận tội tại phiên tòa nhưng lời cung của chúng tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của chị Bạch Loan, nạn nhân còn sống sót, trên nhiều điểm.
Những hiện tượng sau đây không liên quan trực tiếp đến hành động giết người cướp của được nhân chứng và bị cáo cư trú ở những địa điểm khác nhau, diễn tả lại như sau chứng tỏ những người ấy là chị Loan, Khánh và Dân trong thời gian nào đó, tại địa điểm nào đó, đều có mặt mới có thể biết được như:
a) Việc Khánh mời anh Bích hút thuốc (BL.49-157).
b) Việc anh Bích khi còn ở trên ghe máy, đưa cho Tân một cục tiền gói bằng giấy báo nói là 14... (BL.50-164-173).
c) Việc các con chị Loan ăn bánh ngọt, kẹo mời Tân và Khánh cùng ăn. (BL.50-157)
d) Việc ghe máy phải chui qua dưới một cầu nhỏ bắc ngang qua lạch phải lên bờ dỡ cầu mới qua được. (BL.50-60-168-175)
e) Việc Khánh hỏi bâng quơ chị Loan và cô Cúc có liên hệ với Cộng sản không để tạo sơ hở của nạn nhân. (BL.60-157)
f) Việc chị Loan bị Tân đánh túi bụi. (BL061-158)
g) Việc Khánh mua tầm vông để trên ghe và trên đường đi có ghé bỏ lên bờ. (BL.51-151-175-177)
h) Việc chị Loan bị xô xuống biển kế tiếp là đứa con rơi theo. (BL.53-163-170)
i) Việc tuần tự xô người xuống biển, ai trước, ai sau.
Từ các điểm trên, Tòa án có đầy đủ cơ sở kết luận các lời cung của Khánh và Dân nhận tội giết người cướp của tại cơ quan điều tra là phù hợp với thực tế và đồng thời chứng minh tội trạng của chúng.
2. Đối với Phan Nhật Tân:
Tân chối không có hành động phạm pháp mặc dầu y bị chị Loan tố giác và bị Khánh và Dân khai tại cơ quan điều tra là tên cầm đầu trong vụ lừa đảo người vượt biên để giết họ và cướp của.
Để bào chữa, Tân khai ở cơ quan điều tra như ở phiên tòa một cách chung chung quanh ba điểm sau đây:
a) Chị Loan đóng kịch mướn cho những người có oán thù đối với gia đình y, vì cha chú của Tân trước đây làm công an đã giết một số phần tử cách mạng năm 1945-1946 ở Bến Tre. Thông qua chị Loan, họ trả thù bằng cách vu oan giá họa cho y.
Lập luận này là vô lý và nếu có việc oán thù thì những người thù của cha chú y suốt 34 năm qua đã có thừa điều kiện và thời gian để trả thù đối với cha chú y vẫn sống tại An Thuận, Thạnh Phú, Bến Tre chớ không chờ Tân, không trực tiếp gây thù oán, tập kết ra miền Bắc rồi trở về miền Nam đã 5 năm mới thực hiện ý đồ ấy bằng cách thuê chị Loan từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống Bến Tre dàn cảnh ly kỳ như vậy.
b) Cũng theo Tân, ở cơ quan, Khánh và Dân (em ruột và cháu ruột của y) vu cáo y bởi vì anh em ruột do tranh giành quyền lợi có thể giết hại lẫn nhau.
Lời bào chữa này không có cơ sở thực tế. Bản thân Tân không hề nêu được một mâu thuẫn nào giữa y với Khánh, Dân. Ngược lại quan hệ của bọn chúng với nhau đến khi xảy ra vụ án vẫn là mật thiết. Bằng chứng là theo sự nhìn nhận của Tân, Khánh và Dân đã đón đưa y bằng ghe máy tháng 4-1980. Ông Hiên cha của Tân và Khánh cũng không đề cập đến một mâu thuẫn nào giữa Tân, Khánh và Dân.
c) Tân còn nại thêm rằng khi giết người phải có mục đích. Gia đình anh Bích nghèo, giữa lúc anh Bích và y không có oán thù nên không có lý do gì để giết.
Căn cứ lời cung của Khánh và Dân thì Tân đã nói với chúng: “Xô gia đình anh Bích xuống biển để cướp hết tài sản của họ mang theo” (BL.168). Vậy mục đích giết người ở đây là cướp của thông thường không đòi hỏi phải có oán thù trước.
Hơn nữa, Khánh còn khai (BL.164) sau khi xô người xuống biển, Tân và Khánh đã lục soát tất cả các túi xách và túi áo của anh Bích: “không thấy tiền và vàng nào cả” sắc mặt tên Tân buồn bã và thốt lên một câu sửng sốt: “Thế này thì chết rồi”.
Điểm này là đủ để trả lời lý lẽ ngụy biện của Tân về sự giàu nghèo của anh Bích. Nó có nghĩa trước khi gây án, Tân đinh ninh anh Bích có mang theo tiền và vàng.
Trước những lời bào chữa vu vơ ấy, lại có những sự kiện cụ thể chứng minh vai trò của Tân trong vụ án:
- Khánh ở Cửu Long, Dân ở Bến Tre không hề quen biết anh Võ Bích ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trái lại, Tân nhận có quan hệ với anh Võ Bích, đã đến nhà 6 lần. Trước khi xảy ra vụ án, Tân dẫn anh Bích xuống nhà Khánh và Khánh tả anh Võ Bích dưới dáng “người đàn ông ta, cao, đen, độ 50 tuổi” đã được Tân dẫn xuống nhà Khánh chơi cùng với hai cô gái trước đây (BL.162). Tuy ông Hiên không gặp ba người này nhưng vẫn đề cập đến hiện tượng ấy (BL.73), chị Huỳnh Thị Dồi (vợ của Khánh) cũng xác nhận điểm này (BL.95).
Như vậy có nghĩa là trước khi xảy ra vụ án, Tân đã dẫn anh Võ Bích xuống nhà Khánh để chuẩn bị cho việc gọi là vượt biên; giết họ rồi cướp của, đúng với lời khai của chị Bạch Loan (BL.85). Bản thân chị Bạch Loan chỉ gặp Khánh một lần ngày xảy ra án mạng. Không thể có việc giữa những người không quen biết nhau như chị Loan với Khánh và Dân lại đồng ý với nhau để vu cáo Tân (anh ruột của Khánh và bác của Dân).
- Sau khi xảy ra vụ án, theo Khánh thì Tân hứa cho y tiền vì không thấy Tân gửi tiền xuống, Khánh có lên nhà Tân tại 112/2 Lê Hữu Từ, Phú Nhuận hỏi. Tân nói chưa có tiền, chỉ đưa cho y một đồng hồ Seiko còn mới và một hóa đơn mua đồng hồ (BL.37). Điểm này chứng tỏ giữa Tân và Khánh không có mâu thuẫn gì.
- Tân về Bến Tre và Trà Vinh nhiều lần.
Lợi dụng sự kiện ấy, Tân phủ nhận sự có mặt của y trên chuyến ghe máy ngày 3-5-1980.
Tuy vậy y lại nhận một số hiện tượng sau đây:
- Có quan hệ với anh Bích và đến nhà anh 6 lần để nhờ anh Bích chạy chọt cho y được nhập hộ khẩu mặc dầu y khai không biết anh Bích để tránh né.
- Có đi Trà Vinh vào đầu tháng 4-1980 bằng ghe nhà để kiếm người cháu tên Nam về ăn giỗ.
Hôm đó Tân không nói ngày trong chuyến ghe đi Trà Vinh (BL.151).
- Y có mua 3 can dầu ở chợ Trà Vinh 60 lít, mỗi lít 8đ bằng 480đ, thuê xe xích lô chở xuống ghe.
- Có mua 1kg thịt bò nhờ một nhà quen của Khánh xào ăn cùng với rượu (nhà Tư Nỉ, BL.151).
- Khánh có mua một số cây tầm vông để trên ghe có lưới đóng đáy.
- Khởi sự về nhà (ông Hiên) lúc 16 giờ có cho người quá giang về An Thuận, Thạnh Phú (4-5 người, trong đó có 1 đàn bà, 4 đàn ông).
- Về đến nhà lúc 7 giờ tối, có ghé ghe để Khánh bỏ tầm vông xuống.
Tuy ông Hiên – người cho Tân, Khánh và Dân mượn ghe máy đi Trà Vinh – không nói ngày, không đi theo ghe nên không biết những gì xảy ra hôm ấy nhưng ông đã cung cấp một tình tiết cần được lưu ý là ngày ấy Dân có mang theo một cassete để sửa chữa và khi ghe về, chiếc cassete đã được sửa chữa. (BL.74)
Còn chị Loan chỉ đi theo ghe máy từ Trà Vinh ra biển đã nêu một sự kiện là trên ghe có chở lưới đóng đáy và tầm vông (mà chị gọi là tre) và trên đường đi ghe ấy có ngừng lại một lúc. (Ngừng lại tại nhà Khánh để bỏ tầm vông lên) (BL.51)
Riêng Khánh và Dân, hai can phạm, công nhận tại cơ quan điều tra ngày thực hiện việc giết người cướp của, Tân có:
- Chở 3 ban dầu bằng xe xích lô xuống ghe.
- Mua thịt bò mang xào ở nhà người quen của Khánh.
- Khánh có mua 10 cây tầm vông để trên ghe có chở lưới đóng đáy.
- Trên đường đi ra biển, ghe có dừng lại nhà Khánh để cất tầm vông lên bờ.
- Dân có sửa cassette.
Do đó ngày đi Trà Vinh lần này đúng là ngày gây án và ngày ấy có những sự kiện phù hợp với các sự kiện do Tân khai nhận.
Nếu không phải là một chuyến đi thì không thể có nhiều chi tiết trùng hợp như vậy được.
Ngoài ra ông Hiên – cha của Tân và Khánh – còn khai thêm (BL.74): “Cách đây 2-3 tháng vào một buổi trưa, Dân có nói cho tôi hay là Tân và Khánh (tức bác Hai và ba nó) chở một chuyến người vượt biên mà nó chưa muốn chở, đồng thời Dân nói “Con không chịu đi”.
Về chuyến đi Trà Vinh của Tân, Khánh và Dân, ông Hiên còn khai thời gian mà Tân và Dân về đến như sau (BL.74): “Tân, Dân, Khánh có đi Trà Vinh, không rõ đi làm gì. Khi đi thấy Dân có mang theo chiếc cassette và sau đó Tân về Sài Gòn”.
Lời khai này khác với lời cung của Tân ở chỗ Tân khai y đi Trà Vinh buổi sáng và trở về 7 giờ tối cùng ngày. (BL.151)
Cũng về thời gian, Tân không khai cụ thể, lập lờ, nhưng chị Thanh, vợ của y (BL.67) khai dứt khoát: “Từ ngày 1 đến 5-5-1980 Tân ở Bến Tre nói về thăm ông già...” (BL.67), và “Từ 5-5-1980 Tân không về Bến Tre”. (BL.66)
Vì những tình tiết trùng hợp như vậy và điểm thời gian về chuyến ghe này đi Trà Vinh là hết sức quan trọng, là một chứng cớ rõ ràng đủ bác bỏ các lý lẽ chung chung của Tân và cũng đủ để chứng minh sự có mặt của y trong vụ án, nên sau khi bị bắt, sau khi trót khai các tình tiết ấy, Tân cố tình liên hệ với chị Thanh, ông Hiên (BL.121-122-123) bằng thơ thông cung trong đó có những đoạn như sau: “Hỏi ngày 1, 2, 3 tháng 5 anh ở đâu, anh khai ở nhà với em mà em nói về quê là trật rồi... Anh đã viết thơ báo một số việc cho ông rồi, em phải đích thân về quê cố cho ông tạo người chứng... Ngày 1-5-1980 là đi Trà Vinh mua đồ có quá giang ghe về lúc 3-4 giờ chiều... vì thằng Khánh đã nhận đi Trà Vinh rồi.”
Nó giải thích vì sao Tân trước nhiều chứng cứ vẫn “đóng kịch kêu oan tợn” như y đã viết cho chị Thanh.
Những điểm trên cho phép Tòa án nhận định chuyến ghe máy đi Trà Vinh là vào ngày 3-5-1980 và chính trong chuyến đi này Tân, Khánh và Dân đã thực hiện việc giết người hết gia đình chị Bạch Loan để cướp của.
Những sự kiện khách quan được xác nhận như sau:
- Anh Võ Bích và gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh không quan hệ với Khánh và Dân ở Cửu Long, chỉ có quen với Tân và chính Tân đã dẫn anh Bích đến nhà Khánh.
- Ông Hiên, cha của Tân và Khánh có cho Tân, Khánh và Dân mượn chiếc ghe máy Tân Lập đi Trà Vinh ngày hôm trước và ngày hôm sau mới trở về.
- Chị Bạch Loan và gia đình có đi trên chiếc ghe Tân Lập từ Trà Vinh ra biển. Gia đình chị Loan đều chết, chỉ vớt được xác của đứa con và chị Bạch Loan được vớt giữa biển cả cách đất liền 10km, đang sống và tố giác Tân và đồng bọn.
- Khánh được Tân cho một đồng hồ Seiko (tang vật) là những chứng cớ cụ thể chứng minh sự liên quan của ba bị cáo với vụ án.
Cộng tất cả những điểm phân tích trên, Tòa án kết luận Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân đã phạm tội cố ý giết người để cướp của.
Tội được quy định và trừng phạt theo điều 8-5 Sắc luật 03-SL/76 ngày 15/3/1976.
III. Về tính chất vụ án:
Vụ án mang tính chất dã man tàn bạo cao độ của những kẻ hết sức gian manh, xảo quyệt, giết người cướp của với nhiều thủ đoạn được tính toán chi li.
Lợi dụng tâm trạng của một số người yếu đuối về tinh thần trước những khó khăn vật chất tất yếu của đất nước còn phải gánh nặng những vết thương chiến tranh kéo dài 30 năm, trước hậu quả tai nạn của chế độ thực dân mới trên các mặt, không thanh toán một sớm một chiều nên phân vân, dao động, mất phương hướng trước tình thế phức tạp, muốn bỏ xứ trốn ra nước ngoài. Tân vừa mãn hạn tù được tha, liền khai thác tâm trạng ấy, liên hệ với anh Võ Bích đang sống yên với vợ và 4 con, xúi giục anh vượt biên, tạo điều kiện đưa họ ra biển để giết rồi cướp của.
Bước đầu y chứng minh cho anh Võ Bích là y có phương tiện đưa anh và gia đình ra biển có cả tàu lớn của y đến rước, để lừa dối anh Võ Bích, y chỉ bừa vào tàu đánh các quốc doanh cho là của y (BL.86). Mắc mưu Tân, anh Bích nhẹ nhàng đấu tranh với vợ (chị Loan), lôi cuốn chị bằng tình cảm mẹ con, đưa gia đình vào cạm bẫy của Tân. Từ lừa dối này đến thủ đoạn khác, Tân lôi kéo được anh Bích và gia đình xuống ghe máy của y để đưa họ ra biển được tàu lớn đón. Bằng thủ đoạn hứa cho tiền, Tân dẫn em ruột y là Khánh, cháu ruột y là Dân vào con đường phạm tội làm nổi lên thú tính của bọn chúng trong hành động giết người. Thủ đoạn bỉ ổi lừa dối những nạn nhân của bọn chúng đến cùng được chị Loan phản ánh như sau: “Trên ghe ra biển, Khánh ôm chầm lấy chồng của chị và nói: Thôi tụi mình bây giờ “sống chết có nhau”, chiếc tàu lớn ngoài kia là của tôi từ hồi nào mà bây giờ vô quốc doanh rồi... Mỗi khi tàu về là vợ tôi khóc”. Còn Tân thì nói: “Định đưa các con tôi theo nhưng vợ tôi biết nên bỏ chúng lại nhà. Vậy khi qua bên ấy, anh chị phải cho tôi một đứa cháu nuôi.” Liền lúc đó Tân kêu đứa con nhỏ nhất của tôi lại vừa hôn, vừa nựng nịu tỏ vẻ thương yêu lắm.
Chúng làm như vậy để rồi vài giờ sau xô cha mẹ rồi đến con xuống biển một cách man rợ.
Chị Loan viết: “Trời ơi, sao có kẻ tàn ác thế! Vợ chồng tôi đang sống yên vui và êm ấm, sao tên Phan Nhật Tân đành lòng vào dụ dỗ chồng tôi nói đi vượt biên rồi đem ra cửa biển Trà Vinh thảy xuống biển hết thảy 7 mạng người, khiến cho tôi rối loạn tơi bời, khi mê lúc tỉnh, muốn điên lên khi nhớ đến con thơ vô tội, nhớ từ nét mặt nụ cười, nhớ khi con ôm cặp đi học về. Tất cả các người trên quả đất này đều có gia đình, có vợ, có chồng, có con, đều biết nỗi đau khổ của tôi đến ngần nào rồi. Tôi đau khổ quá, trời ơi đau khổ quá sức. Chồng tôi đâu, con tôi đâu, cháu tôi đâu?... Sao nỡ đành lòng giết trẻ thơ vô tội? Chúng có biết gì đâu. Năm phút trước chúng còn cười vui hớn hở, còn làm trò cho bác Tân coi mà năm phút sau lại nỡ đành lòng nào ôm con tôi mà quăng xuống biển, miệng còn kêu tiếng “Mẹ, mẹ” rồi chìm sâu trong biển lạnh. Hỡi chính quyền các cấp, hãy sớm đưa vụ này ra ánh sáng để ngăn chặn lũ tàn ác sống trên xác chết của người dân hiền lành, nhẹ dạ.”
Lời kêu thiết tha trên đây của người vợ, người mẹ đánh giá sâu sắc và đầy đủ tính chất vô cùng nghiêm trọng của vụ án, đòi hỏi đường lối xử lý phải nghiêm khắc, luật pháp phải trả lời, đáp ứng được yêu cầu chính đáng của nạn nhân.
Vì vậy đối với Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân phải tuyên một mức hình phạt tương xứng với tội trạng và tác hại hết sức lớn lao do chúng gây ra.
IV. Về tượng hình.
1. Đối với Phan Nhật Tân:
Phan Nhật Tân giữ vai trò cầm đầu, đề xướng ra kế hoạch giết người cướp của đồng thời là tên thủ ác tích cực khi thực hiện kế hoạch.
Hành động của Tân giết nhiều người một lúc sau đó cướp tài sản của họ mang tính chất tàn bạo cao độ.
Y không còn bản chất con người, không còn khả năng cải tạo.
Một mức án cao nhất mới có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa chúng.
2. Đối với Phan Văn Khánh:
Phan Văn Khánh cũng là tên thủ ác. Y đã cùng Tân xô xuống biển chị Loan, cô Cúc và một đứa con của chị Loan.
Trước hành động phạm pháp, Khánh đã được Tân báo trước và đồng ý thực hiện.
Tuy Khánh là một ngư dân bình thường, nhưng tội trạng của Khánh là quá dã man, hết sức nghiêm trọng, chứng tỏ Khánh không còn bản chất con người nữa.
Mức án cao nhất là cần thiết đối với y.
3. Đối với Phan Công Dân:
Phan Công Dân có tham gia vào vụ giết người cướp của. Y lái ghe máy đưa các nạn nhân ra biển, tạo điều kiện cho Tân và Khánh (bác và cha y) thực hiện tội ác. Hành động phạm tội của Dân cũng nghiêm trọng.
Nhưng xét trong vụ án, Dân bị Tân lôi kéo. Mặc dầu Tân có bàn bạc trước với Dân và Dân hiểu được tính chất nguy hiểm của hành vi và tác hại sẽ gây ra, nhưng đã có lần y tâm sự với ông Hiên (ông nội y) là không chịu đi đưa người vượt biên theo chủ trương của Tân.
Vì Dân còn có khả năng cải tạo được. Một án tù giam có thời hạn (18 năm) cũng để giáo dục y và ngăn ngừa chung.
V. Về mặt Dân sự:
1. Chị Loan, vợ của anh Võ Bích và mẹ của 4 đứa trẻ đã bị giết và bị cướp của, yêu cầu Tòa án nhân dân đặc biệt xét xử đúng mức các bị cáo để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân và không yêu cầu bồi thường.
2. Ông Đào Hữu Đỉnh, cha của cô Đào Thị Cúc bị giết yêu cầu Tòa án xét xử đúng mức và không yêu cầu bồi thường.
Tòa án không xét về mặt Dân sự.
VI. Về tang vật:
Những tài sản của chị Loan phải được giao trả cho chị.
Chiếc ghe máy, phương tiện dùng để phạm pháp, đáng lý phải được tịch thu nhưng xét chiếc ghe máy là phương tiện sanh sống của người chủ. Hơn nữa ông Hiên không biết là các con ông đã dùng chiếc ghe ấy để phạm pháp. Xét nên chiếu cố đến các tình tiết ấy để trả chiếc ghe máy cho ông Hiên.
***
Sau phần nhận định, Tòa Kết luận:
- Phiên tòa xử vụ án sắp kết thúc, mời chị Lê Thị Bạch Loan lên trước tòa.
Tôi hoang mang bước lên, Tòa hỏi:
- Chị Loan muốn nói lời cuối cùng gì không?
Tôi đáp ngay:
- Thưa quý Tòa, thưa ban lãnh đạo chính quyền các cấp, giờ phút này xác thân chồng con tôi đã chìm sâu dưới lòng biển lạnh. Kính xin quý Tòa là những người nhiều kinh nghiệm hãy xử sao cho đúng với pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp lòng nhân đạo của chính quyền cách mạng, thuận với tình người trong cách đối xử với một phụ nữ gặp tai nạn đang phải sống bơ vơ trên cõi đời. Về phần mình, giờ phút này trước mắt tôi là cả một tương lai đen tối. Tôi không đòi hỏi điều gì cho riêng bản thân, khi nào còn đủ nghị lực thì tôi ráng sống, khi nào cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa gì nữa thì tôi sẽ tự hủy diệt thân mình.
Tòa án hỏi:
- Về hình sự thì ý chị như thế nào?
- Thưa quý Tòa, lúc lênh đênh trên biển cả, tôi có một lời phát nguyệt cầu xin Đức Phật Quán Thế Âm cho tôi sống để cứu các sinh linh khác khỏi phải chết oan như gia đình tôi. Nay tôi đã làm tròn lời khấn nguyện là đưa những kẻ thủ ác ra trước công lý. Việc còn lại là của quý Tòa, những người cầm cân nảy mực. Tôi không có ý định đòi mạng vì cho dù một người hay bao nhiêu người nữa trong số họ chết đi thì cũng không thể nào bù đắp được những mất mát lớn lao của tôi, không thể mang trả lại chồng, con và cháu cho tôi.
Mọi người tham dự phiên tòa vỗ tay.
Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử kết luận cả ba bị can Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân đều can tội cố ý giết người và cướp tài sản riêng của công dân.
Chánh án Nguyễn Thành Vĩnh đã nghiêm khắc tuyên án tử hình đối với Tân và Khánh, còn Dân lãnh án 18 năm tù giam, thời hạn thụ hình kể từ ngày tạm giam. (Trích sao Bản án hình)
Kết thúc vụ án, tôi an lòng mình đã thực hiện đúng theo lời khấn nguyện, tuy đôi lúc không khỏi băn khoăn ray rứt về việc góp phần đưa hai mạng người chịu án tử hình. Bằng hữu cũng như quý thầy đều an ủi và khuyên giải rằng việc tôi làm không có gì sai trái. Sau khi thủ phạm bị tử hình, tôi đã tiến hành lễ tụng kinh cầu siêu cho họ.
Mấy hôm sau ngày phiên tòa kết thúc, khi tôi đang ở nhà thì có hai người tự giới thiệu là người của Sở ngoại vụ muốn gặp tôi. Các anh nói rằng có một nhà báo nước ngoài biết được câu chuyện bi thương của tôi nên muốn tìm hiểu thêm. Trên đường đi tới khách sạnh Caravelle, một anh mặc đồ công an lãnh nhiệm vụ thông dịch nói chuyện vui vẻ, nhân tiện hỏi han về lý do tại sao tôi thoát chết. Khi tôi trả lời tôi tin tưởng đó là do Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn đã giúp tôi thì anh dặn dò: “Khi gặp nhà báo chị nên nói đã tự lực cứu mình chứ người phương Tây không tin vào phép lạ đâu”. Tôi lặng thinh không trả lời. Anh Công an thứ hai cũng nói với tôi: “Chúng tôi cũng lấy làm lạ về việc một người phụ nữ trông có vẻ yếu ớt như chị lại chứng kiến cảnh chồng con chết thảm thương trước mắt, giờ này đáng lẽ điên loạn rồi, chứ đâu phải vẫn tỉnh táo rồi còn cộng tác với Nhà nước một cách tích cực như thế này?”
Chờ gặp tôi là một nhà báo của Cộng hòa Dân chủ Đức, qua người thông dịch anh cho biết sau khi tình cờ biết được câu chuyện thương tâm của tôi, anh muốn tìm hiểu để viết thành truyện và dựng một phim tư liệu. Anh đã đến nhà giam gặp Dân phỏng vấn và nay yêu cầu được gặp tôi tìm hiểu cặn kẽ hơn.
Sau khi nghe tôi thuật ngọn ngành câu chuyện, anh nhà báo nhận xét rằng bản thân anh là người nhái mà cũng không thể bơi vượt quãng đường biển 80 cây số giữa đêm tối trong suốt bảy tiếng đồng hồ, huống chi tôi lại là một phụ nữ mảnh mai yếu đuối với hai bàn tay trắng, không có phao an toàn hay một mảnh ván nhỏ bảo vệ!
(Theo biên bản của công an, nơi tôi bị ném xuống cách đất liền 10 cây số ở vùng biển Ba Động thuộc tỉnh Trà Vinh, còn nơi vớt lên là vùng biển Ba Tri của tỉnh Bến Tre cũng cách đất liền khoảng 10 cây số. Khoảng cách hai nơi này là 100 cây số, do vậy coi như trong đêm đó tôi đã bơi qua đoạn đường biển khoảng 80 cây số.)
Anh nhà báo nhấn mạnh rằng đây là chuyện khó tin vì sức người không làm được. Tôi đồng ý với nhận định của anh và nói rằng tôi tin đó chính là phép lạ. Anh công an lặng thinh không dịch câu này nên tôi đánh liều gom hết chút vốn liếng tiếng Anh của mình để nói trực tiếp với nhà báo: “Tôi tin Phật, tôi đã cầu nguyện và chính Bồ Tát Quán Thế Âm đã cứu tôi”.
Tôi không biết liệu anh nhà báo nước ngoài có tin điều tôi nói hay không nhưng riêng mình thì tôi không bao giờ hoài nghi điều này.
Tôi xin được nhận ông Năm, ân nhân đã cứu mạng tôi, làm cha nuôi. Ông cũng hết lòng thương yêu tôi như con gái, các con ông kêu tôi bằng chị Hai. Tôi luôn tìm cách thu xếp xuống thăm gia đình cha nuôi, ngược lại mỗi dịp lên thành phố ông đều ghé thăm tôi, lần nào cũng cất công mang theo quà Ba Tri cho con gái. Khi ông qua đời vào tháng 9 năm 1998 (Mậu Dần), tôi vội vàng xuống phụ lo ma chay và xin được chịu tang như cha ruột của mình. Ngày đưa linh cửu ra mộ phần, một lần nữa tôi thì thầm cám ơn ông đã cứu mạng tôi trong đêm kinh hoàng gần hai chục năm về trước. Cho đến nay tôi vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với gia đình ông như trước.
Mẹ tôi thì kể từ năm 1995 đã không còn ở dưới quê Long Xuyên mà lên Long Thành ở tại một cái cốc nhỏ, hàng ngày tụng kinh gõ mõ cho đến ngày bà qua đời vào tháng Chạp năm Mậu Dần 1998.
Sau ngày Tân bị bắt, tôi đi làm việc trở lại tại Sở Điện lực. Ngày đầu tiên đi làm, mọi người vui vẻ chào đón khiến tôi thấy lòng ấm áp. Khi nghe tôi kể lể ngọn ngành câu chuyện đã qua, mọi người đều xúc động và rất nhiều người rơi lệ. Tôi tiếp tục làm việc tại đây cho tới ngày nghỉ hưu vào đầu năm 1996.
Mọi người trong gia đình khuyên tôi nên bán ngôi nhà của vợ chồng để nhanh chóng quên đi những ám ảnh nhưng tôi vẫn không nỡ. Vì vậy tôi vẫn ở lại ngôi nhà cũ, ra vào với những kỷ niệm, hình bóng chồng con còn in dấu khắp nơi. Mãi đến năm 2000 tôi mới bán nhà, về vùng Cát Lái mua đất cất ngôi nhà nhỏ gần chùa Thường Chiếu – chùa của em tôi – để tiện việc lui tới tu tập hàng ngày.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:23:25 bởi lishiyuan >