TRÊN ĐỈNH TRÙNG DƯƠNG - Lê Thị Bạch Loan
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 22 bài trong đề mục
lishiyuan 06.05.2008 13:09:15 (permalink)
0
Tựa sách : TRÊN ĐỈNH TRÙNG DƯƠNG
Thể loại : Hồi ký
Tác giả : Lê Thị Bạch Loan
Người đánh máy : Lê Thị Duyên

--------------------
TRÊN ĐỈNH TRÙNG DƯƠNG
(Hồi ký)
Lê Thị Bạch Loan


Trên đỉnh trùng dương dậy ba đào
Trùng trùng điệp điệp nỗi thương đau
Đại Bi Oai Lực Quan Âm cứu
Thoát hiểm đường tơ thật nhiệm mầu


VÀI DÒNG TÂM HUYẾT

Tôi kể lại đây câu chuyện thật của đời mình, một cuộc đời đau khổ với nỗi bất hạnh lớn lao phủ chụp lên số phận mà nỗi đau tồn tại mãi trong lòng tôi từ hơn 20 năm qua. Tôi một mình một bóng cam chịu sự cô đơn với tất cả niềm thương nỗi nhớ dành cho những người thân yêu đã vĩnh viễn ra đi, cũng như mãi mãi buồn đau tiếc nuối hạnh phúc đã mất của mình.
Từ khi còn là một đứa trẻ sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, cho tới lúc trưởng thành ra đời làm việc, sau đó xây dựng gia đình rồi sanh con, tôi luôn sống một cách mực thước giản dị, hòa thuận với mọi người, không ganh đua tính toán. Như mọi phụ nữ bình thường khác, tôi yêu chồng thương con, chú tâm vào việc kiếm sống, chăm sóc cho gia đình, lo toan cho tổ ấm nhỏ bé được tiện nghi đầy đủ. Tôi coi tất cả những điều ấy là lẽ sống của mình.
Rồi chỉ trong một ngày, bỗng nhiên tôi mất tất cả: chồng con, tiền bạc, việc làm, sức khỏe, còn bản thân lâm vào cảnh khốn khổ gian nan ngoài sự tưởng tượng.
Trong một chuyến vượt biên, gia đình tôi bị bọn nhẫn tâm hãm hại bằng cách quăng từng người xuống biển khơi sóng gió ba đào. Chồng tôi cùng bốn con và đứa cháu gái chìm sâu dưới lòng biển lạnh. Duy nhất chỉ mình tôi sống sót, nhờ được ngư dân vớt lên lúc bốn giờ sáng hôm sau.
Gần chín tiếng đồng hồ lặn hụp trong đêm tối giữa biển khơi mịt mù tăm tối, đã có lúc tôi tuyệt vọng muốn buông xuôi. Nhưng rồi ý nghĩ về việc ngày hôm sau có thể một gia đình khác cũng sẽ rơi vào thảm cảnh như chúng tôi khiến tôi không chịu đầu hàng số phận.
Tôi đã thành tâm khấn nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm độ trì cho tôi và rồi quả nhiên tôi đã được cứu sống, một điều mà tôi vẫn hằng tin tưởng là phép lạ. Bởi vì cho đến nay chưa có cơ sở khoa học nào giải thích được vì sao tôi sống sót sau chín tiếng đồng hồ lênh đênh trên biển cả, vượt qua chặng đường 80 cây số giữa sóng gió ngoài khơi. Và giờ đây tôi tiếp tục sống với một tâm trí ổn định, một tinh thần vững vàng. Đó là lý do khiến tôi một lòng khẳng định đã được Bồ Tát Quán Thế Âm cứu độ, vì tôi luôn luôn thành tâm khấn niệm danh hiệu Ngài từ lúc bước chân ra đi cũng như lúc tai nạn xảy ra.
Trở về thành phố sau hơn nửa tháng bị tạm giữ điều tra, tôi đã bền chí quyết tâm theo đuổi việc tìm ra bọn thủ ác sát hại gia đình tôi. Thiên bất dung gian, chẳng bao lâu cả bọn đều bị sa lưới pháp luật và nhận chịu hình phạt của công lý.
Hoàn thành xong tâm nguyện ấy, tôi vẫn còn hoang mang chưa định hướng được cuộc đời, bởi những gì trước đây là lẽ sống của tôi nay không còn nữa. Chính trong tâm trạng đó mà tôi quay về với giáo lý của đạo Phật nhờ vậy tìm lại được sự bình an trong thân tâm. Tôi học hỏi theo sự hướng dẫn của các bậc chân tu, tập sống theo giáo lý vi diệu của đạo Phật, nương theo bạn đạo mà tu dưỡng thân mình.
Tôi cầu mong đến lúc đầy đủ phước duyên gặp gỡ, tôi sẽ được dịp chiêm bái Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện rõ ràng trên vầng mây bạc, đó là điều tôi luôn tin tưởng trong phần cuối cuộc đời.
Từ nhiều năm nay tôi học cách giữ tâm từ bi hỷ xả, bớt đi tham, sân, si vốn là ba con rắn độc thường lôi cuốn người đời trôi theo mộng ảo thảm sầu. Tôi ước mong sao mỗi người trong chúng ta đều nỗ lực dẹp bỏ được ba điều ấy để sống một cuộc đời yên lành và hạnh phúc.
Mùa Vu Lan năm Nhâm Ngọ 2002
Lê Thị Bạch Loan



[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/38598/3FC5865863BE43CAACE8D64C55C303F2.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2008 13:07:15 bởi lishiyuan >
Attached Image(s)
#1
    lishiyuan 06.05.2008 13:38:38 (permalink)
    0
    THỜI THƠ ẤU

    Tôi ra đời vào ngày 23-3-1938 (Mậu Dần) trong một gia đình trung lưu sinh sống tại làng Long Kiến thuộc tỉnh Long Xuyên.
    Hai bên nội ngoại tôi đều thuộc gia đình lễ giáo và rất nghiêm trong việc giáo dục con cháu. Ông nội tôi theo Nho học, giữ nề nếp gia phong gia kỷ. Khi nhỏ được gia đình cho học nghề thợ bạc nhưng ông không chịu hành nghề mà chuyển sang học về Đông y rồi chuyên chữa bệnh bốc thuốc giúp người.
    Cha tôi tên Lê Trường Phổ, sinh năm 1914, gia đình khá giả nên được đi học trường Tây đến cấp Tú tài. Ông có tinh thần yêu nước nên không ra làm việc với nhà nước thuộc địa mà về quê sinh sống. Cha mẹ tôi vừa làm ruộng vừa cho thuê đất cấy rẻ nên cảnh nhà cũng khá sung túc. Mẹ tôi tên Huỳnh Thị Hoàng, nhỏ hơn cha tôi một tuổi, ăn chay trường và hàng ngày tụng kinh Pháp Hoa, kinh Di Đà với niềm tin mãnh liệt rằng sau này sẽ được về cõi Phật. Mẹ tôi thường xuyên lui tới chùa Vĩnh Thạnh ở Long Xuyên để thăm viếng sư bà Diệu Bì, một bậc cao tăng được mọi người trong vùng kính trọng. Việc gì quan trọng trong nhà mẹ tôi đều hỏi ý kiến của sư bà.
    Dì tôi kể lại khi mẹ tôi có thai, sư bà Diệu Bì ân cần căn dặn lúc chuyển dạ phải đốt ba cây pháo đại. Ông ngoại tôi nghe theo mua pháo để sẵn, nhưng khi mẹ tôi chuyển dạ đau đớn suốt bốn năm ngày vẫn chưa sanh được nên trong nhà tập trung lo chăm sóc bà quên mất chuyện đốt pháo. Tới ngày thứ năm, bà ngoại chợt nhớ bèn hối người nhà đem pháo ra đốt. Không biết do trùng hợp ngẫu nhiên hay linh ứng mà ngay sau khi ba tiếng pháo nổ “Đùng! Đùng! Đùng!” vang dội, tôi cất tiếng khóc chào đời trong sự vui mừng của cả gia đình. Ngay từ nhỏ tôi đã được mẹ cho quy y với sư bà tại chùa Vĩnh Thạnh được đặt pháp danh là Huệ Trí.
    Cha mẹ tôi có 4 người con, tôi là con gái lớn cũng là con gái duy nhất, kế tới chú ba Lê Trường Nhã, trước là sĩ quan chế độ cũ, sau thời gian đi học tập cải tạo đã định cư bên Mỹ theo diện HO. Chú tư Lê Trường Chiến xuất gia từ nhỏ, hiện tu tại thiền viện Thường Chiếu thuộc huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai. Riêng chú út Lê Trường Thắng sống chung với cha mẹ tôi, lo việc phụng dưỡng song thân và coi sóc nhà cửa ruộng nương, hương hỏa.
    Cuộc đời tôi ít khi phải lao động tay chân nặng nhọc nhưng ngược lại thường lận đận lao đao, lao tâm khổ trí. Ngay từ hồi còn đi học cũng đã không được suôn sẽ, từ trường Việt chuyển qua học trường Pháp nên phải học lại một lớp. Sau đó từ chương trình Pháp đổi sang chương trình Việt, thêm một lần phải sụt lớp, trầy trật mãi tôi mới học xong chương trình bậc trung học.
    Tôi sống với cha mẹ tại Long Xuyên cho đến khi học xong lớp đệ thất (tương đương lớp 6 hiện nay). Tôi chuyển lên Sài Gòn học lớp đệ lục, ở tại nhà dì Út là em của mẹ, được một năm lại qua sống nhờ nhà người chị họ. Thời gian sau tôi ở nhà người cậu tại đường Bùi Chu. Lúc bấy giờ cậu tôi làm chủ nhiệm tờ báo Chuông Mai. Tôi đi học tại trường tư thục Nguyễn Bá Tòng cho đến khi đậu Tú tài. Tôi tiếp tục học thêm ngoại ngữ rồi vào làm thư ký tại phòng hành chánh trường tư thục Đạt Đức.
    Đến năm 1969 tôi may mắn xin được vào làm thư ký tại Sở Điện lực (nay là công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh). Lúc đầu tôi làm việc tại trụ sở chính đặt ở số 72 đường Hai Bà Trưng, sau đó được chuyển qua làm tại số 12 đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), phụ trách bộ phận ký hợp đồng thuê bao với khách hàng cho tới ngày nghỉ hưu.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2008 13:09:13 bởi lishiyuan >
    #2
      lishiyuan 06.05.2008 16:06:13 (permalink)
      0
      NHỮNG NGÀY HẠNH PHÚC

      Năm 27 tuổi tôi quen người bạn trai đầu tiên và cũng là chồng tôi sau này. Anh tên Võ Bích, con út trong một gia đình gốc người miền Trung. Cha mất sớm chỉ còn mẹ tần tảo nuôi năm đứa con ở đất Sài Gòn, nhưng dù hoàn cảnh khó khăn mẹ anh vẫn lo cho con học hành tới nơi tới chốn. Sau khi ra trường, anh xin vào làm việc tại Sở Ngoại Kiều. Tôi gặp anh Bích trong những dịp tới Sở Ngoại Kiều tìm em trai tôi là Lê Trường Nhã cũng làm việc tại đây. Sau gần hai năm tìm hiểu, năm 1970 chúng tôi đồng ý tiến tới hôn nhân.
      Chồng tôi là người hiền lành và rất cưng chiều vợ. Hạnh phúc gia đình càng đậm đà khi chúng tôi có con gái đầu lòng là Võ Anh Thư sinh năm 1971. Lúc đó các em tôi còn độc thân, trong nhà không có trẻ con nên Anh Thư được cả gia đình hết mực cưng chiều. Chồng tôi rất vui mừng, cứ lăng xăng giành lấy việc chăm sóc con. Anh tìm mua một cái nồi đựng sáu bình sữa có thể vừa hấp khử trùng vừa hâm nóng sữa, lúc bấy giờ được xem là đồ dùng xa xỉ. Mỗi buổi sáng anh tự tay súc bình, pha sữa cho con, cất vào tủ lạnh xong rồi mới chịu đi làm. Ở nhà tôi chỉ việc canh đúng ba tiếng đồng hồ hâm nóng sữa lại cho bé bú. Con tôi mau lớn và bụ bẫm dễ thương, biết nói rất sớm. Khi có dịp đi đâu chồng tôi luôn giành phần nặng, tay xách nách mang để cho vợ con thong thả vui chơi.
      Năm 1972 tôi sinh thêm một bé gái là Võ Trang Anh, rồi năm sau có thêm đứa con trai đặt tên Võ Quốc Nguyên.
      Sau mấy năm ky cóp dành dụm, đầu tháng 4 năm 1975 vợ chồng tôi mua được căn nhà trên đường Trần Phú. Ngôi nhà gồm tầng trệt và hai tầng lầu rất khang trang, chúng tôi vừa dọn về nhà mới thì Sài Gòn giải phóng. Gia đình tôi ở trên lầu, nhường tầng trệt cho vợ chồng người bạn là anh Tính và chị Cẩm cùng hai đứa con của họ ở nhờ một thời gian. Cuối năm 1975 chúng tôi chịu cái tang lớn khi mẹ chồng tôi qua đời.
      Những ngày đầu mới giải phóng, cuộc sống vô cùng khó khăn. Năm 1976 vợ chồng tôi lại có thêm đứa con là Võ Trang Thanh, gặp lúc gia đình sa sút, nên con gái út phải chịu nhiều thiệt thòi hơn các anh chị. Cuối năm này tôi chịu thêm đại tang là cha tôi bị bệnh nặng và qua đời tại Long Xuyên.
      Sau ngày giải phóng cơ quan chồng tôi bị giải thể, chồng tôi nay làm việc này mai làm việc nọ, ai kêu đâu làm đó, thu nhập thất thường không đủ nuôi vợ con. Với bốn đứa con còn nhỏ dại, ăn chưa no lo chưa tới, chúng tôi sống lây lất qua ngày, thiếu cá thịt, phải ăn cơm độn với bo bo. Có giai đoạn chồng tôi hàng ngày phải đạp xe lên Bà Quẹo cùng với người bạn thử trồng nấm rơm, nhưng do chưa có kinh nghiệm nên thất bại.
      Chúng tôi phải bán đồ đạc lần hồi để ăn, riết rồi trong nhà chẳng còn gì quý giá. Chồng tôi vô cùng buồn rầu và chán nản, mọi chi tiêu trong nhà trông cậy vào đồng lương nhà nước ít ỏi ở Sở Điện Lực của tôi. Tôi thường phải mua chịu các thứ nhu yếu phẩm, đến khi lãnh lương mới trả bớt rồi lại tiếp tục mua thiếu, cứ như thế mà đắp đổi qua ngày. Tôi nhớ hồi đó sáng nào cũng phải dậy thật sớm lo nhồi bột, cán mỏng, xắt sợi đem luộc, bữa khác thì chế biến món bo bo hầm dừa để sẵn cho các con ăn trong ngày rồi mới đi làm, chỉ đem theo một ít để dành ăn trưa.
      Anh Thư mới bốn năm tuổi, tuy còn nhỏ xíu nhưng vì cha mẹ vắng nhà nên cũng theo cô bác ra sắp hàng ở tổ lương thực hoặc tại nhà ông tổ trưởng để chờ lãnh bánh mì hoặc bột mì. Anh Thư nhỏ quá nên ôm mấy ổ bánh mì rớt lên rớt xuống, về sau tôi phải may cái túi bằng bao bột mì có dây rút để con mang trên vai cho tiện. Mấy đứa con nhỏ lúc thúc chơi với nhau, tự ăn, tự tắm rửa rồi tự ngủ.
      Nhiều buổi chiều đi làm về tôi đau lòng nhìn mấy đứa con ngồi xúm xít ở nhà bếp bên nồi cá kho, bốc cơm nguội ăn mà mặt mày tay chân dính đầy lọ nghẹ. Bữa khác tôi đạp xe về thấy nhà cửa tối thui. Mấy đứa con nằm chèo queo, đứa ngủ trên giường, đứa lăn dưới đất, bụng dạ lép kẹp, áo quần xốc xếch, mặt mày lem luốc, tôi đứt từng đoạn ruột. Tôi đánh thức các con, vừa nhìn thấy mẹ cả mấy đứa reo mừng lồm cồm bò dậy, tay dụi mắt, miệng nhoẻn cười chạy tới ôm mẹ đòi ăn. Lại có bữa các con đứng đón mẹ trước cửa nhà, mặt mày tươi tắn, tóc tai gọn gàng, quần áo tuy nhăn nhíu vì chưa ủi nhưng rất sạch sẽ. Tôi vừa ngừng xe thì các con đã níu tay mẹ ríu rít khoe: “Tụi con tắm hết rồi, lại còn giặt đồ cho mẹ nữa”. Tôi ôm con nựng nịu mới thấy đứa thì mình mẩy còn dính đầy xà bông, đứa thì cổ còn dày hai ba lớp đất, có đứa lỗ tai đầy bọt xà bông, thấy mà thương!
      Khoảng cuối năm 1979 tôi ra miền Bắc thăm nuôi cậu em kế đang học tập ở Hà Nam Ninh. Tôi dự tính chỉ đi khoảng một tuần nhưng lúc bấy giờ đang nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc, xăng dầu khan hiếm nên xe đò, xe lửa rất ít. Tôi phải sắp hàng chầu chực từ giữa khuya để mua vé tàu xe, nhưng rủi ro cứ đến lượt mình thì hết vé! Rốt cuộc tôi kẹt lại miền Bắc gần một tháng mới về tới Sài Gòn.
      Về đến nhà, chồng tôi và các con hết sức mừng rỡ vì chưa bao giờ tôi xa gia đình lâu như vậy. Tôi ngồi nghỉ trên giường mà mấy đứa con cứ xúm xít xung quanh. Đứa đứng phía sau vòng tay ôm cổ mẹ, đứa ngồi kế bên níu lấy cánh tay, hai đứa nhỏ nhất giành nhau ngồi trong lòng tôi như sợ mẹ lại bỏ đi nữa.
      Sau bữa cơm tối, chồng tôi kể lại trong thời gian tôi đi vắng anh có quen với một người bạn mới tên Tân trong lần uống cà phê ở gần nhà. Tôi nghe chồng nói nhưng cũng không chú ý nhiều vì đang mải chơi đùa với các con. Ngờ đâu đó chính là hung thần gieo tai họa cho gia đình tôi sau này.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2008 13:12:45 bởi lishiyuan >
      #3
        lishiyuan 06.05.2008 16:11:33 (permalink)
        0
        BƯỚC ĐƯỜNG ĐỊNH MỆNH

        Một buổi chiều tháng 2 năm 1980 tôi đi làm về thì thấy nhà có khách. Chồng tôi đang nói chuyện to nhỏ với một người đàn ông lạ, tôi khẽ gật đầu chào rồi vào thay đồ lo cơm nước như thường lệ. Đêm hôm đó anh Bích kể cho tôi nghe về người khách lạ ban chiều:
        - Đây là người quen mà hôm trước anh có nói với em.
        Tôi thắc mắc :
        - Ông ta là ai?
        - Anh ấy tên Phan Nhật Tân, bí danh Hai Tân, sinh năm 1933 tại Thạnh Phú – Bến Tre, là cán bộ nòng cốt thoát ly gia đình đi theo cách mạng từ nhỏ. Sau Hiệp định Genève anh tập kết ra Bắc, có vợ ở Hà Nội và bốn đứa con. Anh tốt nghiệp kỹ sư điện ở Liên Xô, sau ngày giải phóng được điều về miền Nam làm Giám đốc Sở Thuộc Da thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1976, trong kỳ đổi tiền lần thứ hai vì khai đổi quá nhiều tiền nên bị bắt, vừa mới được trả tự do. Anh ta rất bất mãn Nhà nước và đang chuẩn bị vượt biên. Tàu của ảnh lớn lắm nên có thể cho gia đình mình cùng đi mà không tốn hao chi cả.
        Tôi phản đối ngay:
        - Em không đi đâu, các con còn nhỏ quá sợ không chịu đựng nổi sóng gió. Tuy ở đây cực khổ nhưng ai sao mình vậy, miễn gia đình bình yên là được rồi!
        Chồng tôi làm thinh nhưng lộ vẻ không vui. Vài ngày sau anh giở lại chuyện cũ, phiền trách rằng trước ngày giải phóng anh đề nghị di tản nhưng tôi không chịu, do đó mà giờ đây anh phải chịu cảnh thất nghiệp. Nay dịp may đưa tới, tôi lại không chịu đi, tình trạng này kéo dài triền miên rồi biết lấy gì mà nuôi con? Hơn nữa nghe nói con của những người trước đây làm việc cho chế độ cũ sẽ không được thi vào đại học, như vậy tương lai của các con sẽ ra sao?
        Nghe vậy tôi cũng chột dạ nhưng sợ nguy hiểm cho các con nên vẫn không đồng ý. Chồng tôi năn nỉ không được bèn bực tức nói: “Không đi ở lại chết đói hết cả nhà!”. Nói xong anh giận dữ bỏ xuống nhà dưới, xách dao chém lung tung vào bụi tre trước sân cho hả giận. Kể từ bữa đó anh không nói chuyện với tôi nữa, phần mình tôi vẫn không thay đổi ý kiến.
        Cách một tháng sau, vào buổi tối trước khi đi ngủ, chồng tôi nhắc lại câu chuyện cũ, thấy tôi tiếp tục phản đối anh xẵng giọng:
        - Chỗ bạn bè cùng hoàn cảnh, người ta thông cảm và thật lòng giúp đỡ mà em lại khăng khăng không chịu đi. Bộ em tưởng dễ tìm được chỗ đồng ý cho đi không tốn tiền lắm sao? Giờ đây tôi làm cật lực vẫn không đủ sống, con cái khổ sở, tương lai mờ mịt. Đồ đạc trong nhà phải lần lượt bán đi để chi tiêu, rồi đây liệu còn gì để bán mà sống qua ngày? Em là mẹ mà không có trách nhiệm, không biết xót cho con! Thôi thì em cứ ở lại một mình, để tôi dắt bốn đứa con đi.
        Thâm tâm tôi không muốn ra đi vì nghĩ rằng mình ở đây còn có cha mẹ, có anh em. Ra nước ngoài lỡ chồng thay lòng đổi dạ, có vợ bé vợ mọn thì tôi thân cô thế yếu biết xoay trở làm sao? Sống ở đây có gia đình họ hàng đùm bọc thương yêu, tuy có vất cả nhưng an tâm hơn.
        Lại một tháng nữa trôi qua, một bữa vào khoảng năm giờ chiều ông Phan Nhật Tân đến nhà nhưng gặp lúc chồng tôi đi vắng. Tôi vừa đi làm về tới nghe các con khoe bác Tân cho tiền mua kẹo, tôi cảm thấy hơi bực bội trong lòng nhưng vẫn lịch sự mời ông ngồi chơi chờ chồng tôi rồi xuống bếp lo cơm chiều. Một lát sau tôi quay trở ra, ông Tân đứng dậy nói:
        - Thôi để tôi đi công việc, lát nữa sẽ trở lại.
        Tôi tiễn ông xuống nhà dưới thì gặp chị Cẩm, chị chào ông Tân rồi vui vẻ khoe với tôi hai tấm hình người bà con ở Canada mới gửi về (sau này chị là nhân chứng trong vụ án xét xử ông Tân).
        Khoảng trung tuần tháng 4 năm 1980, một buổi chiều đi làm về tôi lại gặp ông Tân đang ngồi nói chuyện với chồng tôi. Tôi không ưa ông ta nên chỉ lặng lẽ gật đầu chào và đi thẳng vô bếp để lo cơm nước. Ông ta ra về lúc nào tôi cũng không hay. Tôi có cảm giác ông ta cũng tránh mặt tôi, mãi cho đến giờ sắp xuất phát chuyến vượt biên định mệnh ở Trà Vinh ông ta vẫn cố tình tránh không nhìn thẳng vào tôi.
        Tuần lễ sau, chồng tôi nói một cách dứt khoát :
        - Anh và anh Tân đã chuẩn bị xong cho chuyến đi rồi. Khi nào anh ấy báo tin là lên đường ngay. Phần em tính sao cho anh biết ý kiến? Nhưng anh báo trước dù em không đi anh cũng nhất quyết đưa tụi nhỏ đi hết.
        Tôi không trả lời, lòng buồn vô hạn vì biết lần này khó mà cưỡng lại ý định cương quyết của chồng. Tôi cố giữ thái độ bình thường nhưng trong lòng vô cùng bối rối! Các con còn nhỏ dại mà phải đương đầu với sóng gió ba đào, lỡ có chuyện gì tôi làm sao sống nổi? Tôi phác họa trong đầu kế hoạch đưa con đi trốn, nhưng rồi lại lo sợ rằng một mình tôi ở lại liệu có kham nổi việc nuôi dạy đàn con hay không? Còn nếu để cho các con theo cha không có mẹ bên cạnh, liệu tôi có yên lòng được không?
        Sau mấy đêm suy nghĩ nát óc, cuối cùng tôi đành chấp nhận giải pháp của chồng, nhưng trong lòng van vái chuyến đi không thành để chồng tôi ở tù một lần cho biết sợ. Phần mình tôi không ngại vì dù bị đổ bể thì tôi có con nhỏ nên Nhà nước cũng sẽ cho về. Nghĩ vậy nên tôi bực bội nói với chồng:
        - Anh cứ đòi đi hoài, rủi bị bắt ở tù mới biết sợ!
        Thấy tôi đồng ý anh hết sức phấn khởi nên không để tâm đến vẻ giận dỗi của tôi mà vui vẻ nói:
        - Nếu đi được sang Pháp anh sẽ nhờ người bà con bạn dì lo cho các con vào trường để được học hành đến nơi đến chốn.
        Rồi anh hào hứng hoạch định tương lai, tôi ngồi nghe mà lòng bâng khuâng khó tả, một nỗi lo lắng mơ hồ xâm chiếm tâm trí.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2008 13:36:06 bởi lishiyuan >
        #4
          lishiyuan 06.05.2008 16:16:25 (permalink)
          0
          TRƯỚC LÚC LÊN ĐƯỜNG

          Một tuần trước khi đi bỗng nhiên cả gia đình tôi đều xuống sắc. Mặt mày anh Bích gầy tóp lại và da sạm đi, tôi thì hốc hác bơ phờ, mắt thâm quầng, còn bé Anh Thư bị cảm nặng nóng sốt mê man. Anh Bích phải chạy tìm mua thuốc thật mạnh cho con uống mau khỏi để đủ sức khỏe lên đường.
          Thêm một chuyện khiến tôi hoang mang: khi gói ghém đồ đạc sẵn sàng cho chuyến đi, tôi soạn một chiếc quần đen còn mới để mặc lúc lên đường, nhưng không ngờ khi lấy ra mới thấy đã bị chuột cắn lủng một lỗ. Cho rằng đây là điềm gở nên tôi đổi ý nhất định không chịu đi. Anh Bích năn nỉ đủ điều hồi lâu tôi lại xiêu lòng!
          Hai ngày trước khi khởi hành, anh Bích báo cho tôi biết để chuẩn bị mọi thứ lần cuối cùng. Biết rồi sẽ đến ngày này nhưng tôi vẫn cảm thấy bất ngờ và vô cùng hoang mang! Tâm trạng rối bời, tôi suy tính nát óc không biết có nên đi hay không? Đi thì các con còn nhỏ quá lại chưa quen sóng gió biển khơi, hơn nữa tôi lại còn mẹ già đã gần đất xa trời. Nhưng nếu không đi thì nơi xứ lạ quê người các con thơ dại ai chăm nom dạy dỗ? Liệu tôi có chịu đựng được nỗi đoạn trường xa cách chồng con hay không? Trước đó chồng tôi đã viết thư về Long Xuyên báo tin cho mẹ tôi hay. Không ngờ sau đó đột nhiên bà nằm mơ thấy chồng tôi mặc áo tang trắng đứng trước cửa nhà nhìn vào, nét mặt trông rất buồn. Mẹ tôi tức tốc lặn lội lên Sài Gòn. Mấy đứa nhỏ trông thấy bà ngoại vui mừng reo lên:
          - A! Ngoại lên, ngoại lên rồi!
          Tôi mừng rỡ chạy ra đón mẹ vào, mời bà ngồi nghỉ cho đỡ mệt rồi tắm rửa ăn cơm. Sau bữa cơm chiều, mẹ con tôi vào phòng riêng nói chuyện. Mẹ tôi hỏi:
          - Thằng Bích đâu sao má không thấy?
          - Dạ ảnh đến nhà người bạn gởi đồ đạc. Má lên đúng lúc quá, ngày mai tụi con đi rồi! Con không muốn đi, nhưng chẳng qua các con còn nhỏ quá, con không yên lòng để tụi nó ra đi mà không có con! Anh Bích là đàn ông làm sao cáng đáng hết được nên con đành ép lòng thuận theo ý của anh.
          Mẹ tôi kể lại giấc mơ khiến cho tôi càng lo lắng hơn. Mẹ tôi buồn rầu nói:
          - Má lo lắm, chiều hôm qua sư bà ở chùa Vĩnh Thanh lên chơi, má kể chuyện của con rồi hỏi thăm chuyến đi có êm xuôi không? Sư bà nói rằng các con đi lần này coi chừng bị lường gạt nên má vội vàng lên báo tin cho con hay. Vợ chồng bây tính lại đi, mấy cháu còn nhỏ làm sao chịu nổi sóng gió hả con? Vả lại nhà cửa như vầy mà bỏ hết để ra đi thì uổng quá...
          - Thật tình con không muốn đi, nhưng anh Bích cự nự với con hoài. Ảnh đổ thừa hồi giải phóng con cản trở không chịu đi nên đến giờ này phải chịu khổ sở nghèo nàn. Lần này nếu con không đi ảnh cũng sẽ dẫn mấy đứa nhỏ đi hết!
          Hai mẹ con đang bàn luận thì chồng tôi về, mẹ tôi ráng thuyết phục anh Bích suy nghĩ lại nhưng anh nói đã lỡ hẹn với người ta rồi, giờ có muốn không đi cũng không được. Mẹ tôi nước mắt ngắn nước mắt dài hết sức can ngăn, chồng tôi trả lời lễ phép nhưng cương quyết không đổi ý! Mẹ tôi đành buồn rầu ngồi nhìn tôi sắp xếp đồ đạc.
          Tới giờ khởi hành chúng tôi đánh thức các con. Bé Anh Thư đang ngủ ngon phụng phịu không chịu dậy và nói: “Thôi con không đi đâu”. Tôi phải nói gạt con về chơi nhà ngoại. Anh Thư ngồi dậy nhưng vẫn lắc đầu: “Con không về ngoại đâu, con ở nhà học thi”. Riêng Trang Thanh nghe vậy thì lồm cồm thức dậy chạy xuống nhà dưới, miệng hát líu lo, mặt mày vui vẻ lắm. Vậy là vợ chồng con cái đeo tay nải ra đi.
          Mẹ tôi âu sầu, bịn rịn lủi thủi theo sau chúng tôi một đoạn đường. Tôi chia tay mẹ mà lòng đau như cắt, đến tận giờ này khi hồi tưởng lại tôi vẫn còn xúc động, nhớ như in cảnh tượng ngày hôm đó và không sao cầm được nước mắt.
          #5
            lishiyuan 06.05.2008 16:19:38 (permalink)
            0
            BÃO TỐ CUỘC ĐỜI

            Đúng bốn giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1980 (nhằm ngày 19 tháng 3 năm Canh Thân) vợ chồng chúng tôi cùng bốn con và đứa cháu gái của chồng tên Đào Thị Cúc, 27 tuổi, rời Thành phố Hồ Chí Minh ra bến xe về Trà Vinh. Lúc bấy giờ việc đi lại còn khó khăn, gia đình tôi đông người không mua được vé suốt nên phải đi xe chuyền tới ba chặng. Đến lần đổi chuyến xe chót để tới Trà Vinh, bỗng nhiên chồng tôi bị đau bụng quằn quại, mồ hôi đầm đìa, tay chân bủn rủn đứng không nổi. Tôi bối rốn, có cảm giác như đây là điềm cản ngăn không cho đi. Chúng tôi phải kêu xe ngừng lại khoảng 20 phút cho tới khi chồng tôi hết cơn đau mới đi tiếp. Mấy đứa con tôi vừa đói vừa buồn ngủ, tôi phải xoay trở dỗ đứa này chăm sóc đứa kia thật vất vả. Mãi đến gần 4 giờ chiều hôm đó chúng tôi mới đến Trà Vinh. Chồng tôi lo lắng nói:
            - Anh hẹn với anh Tân lúc 1 giờ, bây giờ trễ quá rồi không biết họ còn chờ không? Thôi mấy mẹ con và cháu Cúc tới chỗ xe sinh tố kia nghỉ chân uống nước, chờ anh đi tìm gặp báo tin mình đã xuống tới.
            Anh Bích vội vã đi liền, một lúc sau anh quay lại đưa chúng tôi đi tiếp. Quá mệt mỏi lẫn hồi hộp, tôi nắm tay các con đi theo chồng, không nhớ rõ đi đâu, chỉ nhớ sau khi đi lòng vòng một hồi, ngang qua một ngôi chùa thì quẹo tay phải và nhìn thấy đằng xa có một con sông. Từ bờ sông một người đàn ông đang đi về phía chúng tôi. Hóa ra đó là Tân, ông ta tươi cười chào chúng tôi và nói:
            - Anh chị tới trễ làm tôi đợi quá.
            Đỡ chiếc giỏ xách trên tay bé Anh Thư, ông nói đùa:
            - Cháu xách gì mà nặng dữ vậy? Đưa bác xách cho.
            Mọi người im lặng đi về mé sông nơi có chiếc ghe dài chừng 20 mét đậu sát bờ. Vừa bước xuống ghe, một người đàn ông ngoài bốn mươi với vẻ mặt thân thiện lăng xăng xách mấy cái giỏ của chúng tôi để vào giữa ghe. Ông ta cho biết mình tên Khánh. Nhìn lên mui chiếc ghe máy tôi thấy một cậu thanh niên đang ngồi, Tân giới thiệu cậu ta là tài công tên Dân, con của ông Khánh. Chờ tất cả ngồi yên trên ghe, ông Tân tháo dây neo rồi nhảy phóc lên lấy cây sào chỏi đưa ghe ra khỏi bến, miệng nói bâng quơ:
            - Anh chị tới trễ quá làm ông cụ tôi trông.
            Tôi nghĩ có lẽ ông ta nói vậy để tránh sự tò mò của người dân xung quanh. Ghe bắt đầu nổ máy chạy chầm chậm. Tôi trải tấm đệm cũ sắp xếp chỗ ngồi trong khoang ghe, thu xếp các giỏ xách cất vào bên trong.
            Lúc này tôi cảm thấy tinh thần thư thái, bớt căng thẳng lo sợ, tôi và cháu Cúc dựa lưng vào thành ghe nghỉ ngơi. Quan sát chung quanh tôi thấy chiếc ghe đang chạy trong con rạch hẹp chỉ đủ cho hai chiếc ghe lách nhau qua lại. Các con tôi tò mò nhìn bên trên bên dưới, phía trong phía ngoài, chỉ trỏ cười nói líu lo vì từ nhỏ tới giờ chưa từng được đi ghe xuồng. Lần đầu tiên được đi trên sông nước, chúng thích thú nhìn ngắm cảnh vật lạ mắt chung quanh, những nụ cười hồn nhiên ngây thơ của các con làm lòng tôi cảm thấy vui lây. Chồng tôi cũng âu yếm nhìn các con và cười nói:
            - Cũng vì tụi nó mà tôi phải lặn lội vất vả như thế này.
            Tôi cảm động nhìn vẻ sung sướng hài lòng trên gương mặt chồng, lòng thấy thương anh vô hạn, nhưng chung quanh đang có người lạ nên tôi không tiện bày tỏ tình cảm mà chỉ mỉm cười im lặng lo chăm sóc các con.
            Ghe chạy được khoảng một tiếng đồng hồ, anh Bích lấy ra một gói gọc bằng giấy báo đưa cho ông Tân và nói:
            - Đây là 14...
            Tôi không nghe rõ những lời sau đó vì tôi ngồi xa và anh Bích nói nhỏ nhưng tôi đoán đó là tiền thù lao cho ông Tân. Ông Tân cầm gói tiền bỏ vào túi quần rồi tiếp tục trò chuyện. Chừng mười lăm phút sau ghe quẹo trái qua con rạch nhỏ, gần đầu con rạch có một chiếc cầu ván bắc ngang làm mui ghe không qua lọt nên phải dừng lại. Ông Tân nhảy lên bờ tháo gỡ nhịp chính giữa cầu cho ghe đi qua. Đi tiếp khoảng hai mươi phút thì đến cuối con rạch và tiến ra sông lớn, ông Tân cho biết đây là sông Cổ Chiên. Từ cửa sông nhìn bao quát ra vùng biển rộng mênh mông phía trước mặt, những gợn sóng lăn tăn phản chiếu tia nắng chiều khiến mặt biển lấp lánh như một chiếc thảm kim cương. Xa xa hiện rõ hòn cù lao có hình dáng khum khum như một con rùa khổng lồ, ông Tân giải thích đó là cù lao Long Hòa. Ghe chậm rãi hướng về nơi này, mọi người trên ghe im lặng thanh thản ngắm nhìn trời nước bao la. Ông Khánh lấy thuốc lá mời anh Bích, dù không hút thuốc chồng tôi vẫn lịch sự cầm theo phép xã giao. Khánh hỏi tôi:
            - Mấy cháu đã ăn uống gì chưa chị?
            Tôi trả lời:
            - Dạ chưa, trước lúc xuống ghe tôi tính mua cơm cho các cháu ăn nhưng không kịp.
            Ông Tân xen vào:
            - Chút nữa lên tàu lớn rồi sẽ nấu ăn luôn thể.
            Khánh vào trong hầm ghe lấy mấy ổ bánh mì và ra phía sau múc một lon nước đưa cho các con tôi. Lúc đó chồng tôi và ông Tân vẫn đang tiếp tục trò chuyện. Ghe chạy từ Vàm Cổ Chiên ra biển Ba Động, sóng bắt đầu nhồi lên nhồi xuống. Tân cười nói: “Tới cửa biển Ba Động rồi, tàu đang nhảy sóng đó”. Tôi kêu mấy đứa con đến ngồi gần và ôm chặt vì sợ chúng té. Tôi yên tâm mọi việc đều tốt đẹp suôn sẻ, chờ lát nữa sẽ lên tàu lớn nên vào lục giỏ xách lấy bánh ngọt và một gói kẹo cho các con ăn. Mấy đứa con tôi đem bánh đến mời ông Tân: “Con mời bác ăn”. Tôi cũng mời Khánh dùng bánh, sau đó chia phần cho các con và cháu gái, bỏ ít kẹo bánh trong túi ny lông đưa cho Dân đang ngồi trên mui và mời:
            - Cháu ăn đi.
            Lúc đó tôi mới để ý nhìn kỹ thấy Dân còn rất trẻ, mới ngoài 20 tuổi, nét mặt buồn buồn đăm chiêu như suy nghĩ chuyện gì. Khi tôi đưa gói bánh, Dân không nhận mà lãnh đạm từ chối, tôi kèo nài:
            - Cứ ăn mấy cái cho vui.
            Sau khi chia đầy đủ bánh kẹo cho mọi người, còn dư ít kẹo, tôi đưa hết cho con gái út Trang Thanh. Lúc này Trang Anh và Quốc Nguyên đang nằm trước mui ghe, Anh Thư nằm phía dưới chân. Khánh và anh Bích ngồi gần nhau trên thành ghe đang thì thầm trò chuyện, còn Tân ngồi đối diện bên kia. Tôi và cháu Cúc vẫn ngồi ngay cửa hầm ghe. Tôi nhìn thấy Tân choàng tay vỗ vỗ lên vai anh Bích thân mật nói:
            - Thôi, tụi mình bây giờ sống chết có nhau.
            Các con tôi vừa ăn bánh kẹo vừa nhìn lên trời, chỉ trỏ cười nói rất vui vẻ. Riêng Cúc suốt lộ trình vẫn giữ vẻ mặt buôn buồn, ít nói, có vẻ mệt mỏi không quan tâm đến cảnh vật chung quanh, sau đó ngoẻo đầu vào bẹ ghe ngủ thiêm thiếp. Chồng tôi cười chỉ vào đứa cháu và nói với Tân:
            - Cháu tôi nó mệt rồi kìa, lớn như vậy mà đi đâu cũng không bận tâm thắc mắc gì cả. Tôi đưa nó đi mà má nó có hay biết gì đâu! Gia đình chị tôi nghèo lại đông con, tôi dẫn cháu theo qua đó để nó làm có tiền gửi về giúp cha mẹ.
            Đang nói chuyện vui vẻ, tự nhiên mọi người lặng đi một hồi, chợt Khánh quay về phía tôi nói:
            - Chiếc tàu lớn ngoài khơi kia là của tụi tôi trước đây, chuyên dùng để đánh cá. Cách mạng vô tiếp thu tàu sung công vô quốc doanh, từ ngày đó tới nay mỗi khi ngó thấy tàu về bến là vợ tôi khóc hoài.
            Tân xen vào câu chuyện:
            - Tôi ấp ủ hoài bão lớn, đã tính chuyện gì thì chắc như đinh đóng cột, theo đuổi đến cùng và không bao giờ thay đổi. Chuyến đi này tôi định mang theo cô vợ bé nhưng cô ta miệng mồm lách chách lắm, không được kín đáo bằng bà vợ lớn nên cuối cùng tôi không mang theo.
            Trước đó ông Tân có nói sẽ mang cả vợ con cùng đi chuyến này, nhưng cuối cùng khi lên ghe thì chỉ có gia đình tôi. Có lẽ ông ta sợ anh Bích nghi ngờ nên lên tiếng trước để trấn an. Nhưng vợ chồng tôi vẫn vô tâm thản nhiên ngồi im lặng nghe. Ông ta nói tiếp:
            - Tôi cũng định đem các con theo, nhưng sợ vợ tôi hay được lại làm um xùm lên thì lỡ việc nên đành bỏ chúng ở lại hết. Nếu qua được bên ấy anh chị cho tôi xin một đứa con của anh chị để nuôi cho có người hủ hỉ sớm hôm.
            Nói xong ông ta ngoắc bé Trang Thanh lại gần:
            - Tới đây cháu, lại đây bác biểu.
            Trang Thanh tay cầm cục kẹo rụt rè đến bên cạnh, ông ôm nó vào lòng rất trìu mến khiến tôi cũng xúc động và thấy vui vui trong lòng. Bỗng nhiên ông ta hỏi chồng tôi:
            - Anh có biết bơi không?
            Anh Bích trả lời không biết, ông quay sang tôi hỏi tiếp:
            - Còn chị chắc biết lội chứ?
            - Tôi cũng biết chút đỉnh.
            Ông thản nhiên nói:
            - Cho dù biết lội nhưng té xuống biển này thì cũng chết, biển ba đào mà.
            Sóng bắt đầu êm, chiếc ghe lướt trên mặt nước mênh mông của con sông lớn dưới bầu trời chiều yên tĩnh. Ông Tân nhận xét:
            - Hôm nay trời “độ” mình, tôi từng đi biển nhiều lần nhưng chưa bao giờ gặp lúc trời yên như thế này.
            Tôi bâng khuâng ngắm cảnh hoàng hôn từ từ buông xuống. Khi quay nhìn lại sau lưng tôi thấy ghe này mang tên Tân Lập, giữa hai chữ Tân và Lập có hình mặt trăng. Tôi quay ra phía trước quan sát chiếc ghe. Phía trái mũi ghe thiếu một tấm ván lót, kế bên là khoang để lưới, cạnh đó là khoang để tấm đệm mà tôi đã ngồi lúc đầu lên ghe, dưới tấm đệm phía trái cũng thiếu một miếng ván lót sàn.
            Cù lao phía trước mặt ngày càng rõ dần, chiếc ghe được lái vòng ra phía sau cù lao, lúc đó Tân nói với vợ chồng tôi:
            - Chúng tôi ghé vào đây đón vợ con Khánh đi luôn, anh chị lui tạm vào trong để tránh sự chú ý của mọi người.
            Chúng tôi làm theo yêu cầu của ông ta, cửa hầm vừa đóng lại thì tiếng máy tàu cũng tắt. Khoảng mười phút sau máy nổ trở lại và ghe tiếp tục lướt trên sông. Ông Tân gõ vào cửa hầm báo hiệu cho vợ chồng tôi ra ngoài. Ông ta đứng trên mui nhìn chồng tôi nói:
            - Hẹn anh chị lúc 1 giờ mà vì anh chị đến trễ quá, vợ con Khánh đợi lâu không thấy nên đã đi ghe nhà ra tàu lớn rồi.
            Lúc bước ra, tình cờ tôi đưa mắt nhìn nơi chất mấy cây tre mà khi nãy Khánh nói rằng mới mua ở chợ Trà Vinh. Mấy cây tre không còn ở chỗ cũ nhưng tôi không thắc mắc về chi tiết này. Ghe chạy độ mười lăm phút, cách nhà Khánh khoảng 100 mét thì đến chỗ hai luồng nước dường như phân chia ranh giới. Tân cho biết đã ra đến cửa biển. Sóng lớn bắt đầu vỗ vào thành làm nước bắn tung tóe lên ghe. Trời sụp tối rất nhanh, gió thổi mạnh dần, hơi lạnh bắt đầu thấm vào người. Tôi vào hầm mở giỏ xách lấy áo lạnh mặc cho các con rồi bế mấy đứa nhỏ ngồi sát vào tôi và Cúc.
            Lúc này Khánh và Dân ngồi trên mui ghe, chồng tôi đứng phía dưới, Tân bảo chồng tôi thay cái áo trắng ra, mặc giống như dân đánh các để lỡ gặp tàu công an biên phòng không bị nghi ngờ. Tân nói với anh Bích:
            - Anh nên đứng tựa lưng vào mui ghe mới nhìn được bao quát cảnh biển cả trời nước bao la.
            Lúc đó mới khoảng sáu bảy giờ chiều mà trời đã tối sẫm, tên Tân bảo tôi:
            - Gần ra đến tàu lớn rồi, chị và mấy cháu vào hầm ghe một lát đi.
            Các con đang nằm thiu thiu ngủ, tôi và Cúc vào hầm sắp xếp bên trong vì hầm ghe lúc này tối om, tôi sợ đưa các con vào ngay không khéo té vào dàn máy phía trước rất nguy hiểm. Sau đó mẹ con tôi và cháu Cúc vào hầm ghe, tôi ôm con gái út Trang Thanh vào lòng, Quốc Nguyên ngồi bên cạnh, cúc ngồi đối diện cùng với Anh Thư và Trang Anh ngồi sát bên nhau.
            Anh Bích sau khi bồng con đưa cho tôi xong lại quay ra ngồi bên Khánh đối diện với Tân trò chuyện. Dây cua roa trên dàn máy ghe kêu rất lớn, sợ mấy đứa con ngủ gục lăn vô đó nên tôi ngồi choàng tay giữ các con thật chặt. Trong hầm ghe tối đen như mực, ngồi kế bên cũng không thấy mặt nhau. Tôi bắt đầu thấm mệt nên không nghĩ ngợi gì nữa và thiếp ngủ.
            Tôi chợp mắt không biết bao lâu cho tới khi nghe tiếng hét to:
            - Chị này ra đây tui hỏi thăm chút coi.
            Tiếng nói có vẻ dữ dằn kỳ lạ khiến tôi bàng hoàng và mất bình tĩnh. Sau phút định thần, tôi ngờ ngợ đoán ra đó là giọng của Khánh. Tôi e ngại mở hé cửa hầm hơi ló đầu ra hỏi:
            - Anh nói gì?
            Khánh đứng trước cửa mui lớn tiếng hỏi:
            - Chị đi đâu? Có liên hệ với cộng sản không? Chắc chắn mấy người liên hệ với Cộng sản mà.
            Tôi vô cùng hoang mang, nghĩ rằng có lẽ bị hải tặc đón đường nên lo sợ trả lời:
            - Ai hỏi gì kỳ vậy?
            Giọng của Khánh lại vang lên, lần này nhắm vào cháu Cúc:
            - Còn cô này lớn như vậy mà đi đâu? Mấy người có mang theo súng ống hay khí giới gì không? Đưa đây cho tôi.
            Tôi và Cúc đều cùng trả lời là không mang theo gì cả. Lúc đó Khánh mới nói với tôi:
            - Thôi chị ra đây coi chồng chị đang bị say sóng nằm dài phía trước kìa.
            Tôi vội hỏi lại ai bị say sóng vì đang rất phân vân. Tôi nghi ngờ ghe bị cướp biển nên muốn kéo dài thời gian để cố gắng xác định giọng nói đó có đúng là của Khánh hay không, bởi tôi mới tiếp xúc lần đầu nên chưa phân biệt rõ lắm. Khánh trả lời:
            - Thì thằng Bích chớ ai.
            Lần này tôi khẳng định đúng là người ở trên ghe chớ không ai xa lạ nên mới biết tên chồng mình. Tuy yên tâm không phải bị cướp nhưng tôi vẫn bán tín bán nghi không hiểu đã xảy ra chuyện gì mà mấy người này hỏi lạ lùng quá. Tôi nhẹ nhàng đặt con gái út đang nằm ngủ trong lòng sang một bên rồi đứng dậy bước ra. Bên ngoài trời cũng tối đen như mực, tôi chỉ nhìn thấy bóng người nhưng không phân biệt được rõ. Họ bận toàn đồ đen nên chỉ có thể đoán qua giọng nói.
            Hai tay tôi bám vào thành mui, thoáng nhìn thấy một bóng trắng mờ mờ trên khoang tàu, tưởng chồng mình đang nằm tôi lom khom dợm bước tới nhưng không ngờ đó chỉ là chiếc áo của anh Bích.
            Thình lình Khánh lấy tay đánh mạnh và dùng hết sức đẩy tôi xuống biển. May mắn lúc đó hai tay tôi vẫn còn bám ở thành mui, theo phản xạ tôi lại càng bám chặt thêm nên không rơi xuống biển. Tức khắc Khánh xô mạnh tôi té xuống sàn ghe còn Tân dúi đầu tôi xuống sàn đánh đá túi bụi. Trong cơn hoảng sợ tôi không thể chống cự cũng không kịp kêu la, bên tai nghe rõ tiếng kêu cứu của đứa cháu gái đang bị lôi ra đánh đập. Các con tôi nghe ồn ào cũng thức giấc, hốt hoảng vì bóng đêm và những tiếng kêu la nên sợ hãi gào thét kêu mẹ thảm thiết.
            Tôi kinh hoàng hiểu rằng có lẽ chồng mình đã bị bọn người này ám hại! Không còn biết đau đớn là gì nữa, tôi cố gắng chồm lên quờ quạng chạy về phía các con nhưng lại bị đạp chúi nhủi xuống. Nhìn thấy một tên đang lôi tay cháu Cúc đánh đạp túi bụi, tôi thét lên:
            - Các ông làm gì kỳ vậy? Buông nó ra, gia đình tôi không có tài sản gì quý giá đâu. Tất cả những gì chúng tôi đem theo mấy ông cứ lấy hết, xin buông tha cho chúng tôi.
            Tôi dứt lời chúng càng đánh nhiều hơn, Tân đứng đạp một chân lên người tôi, hai tay vặn cổ tôi ra phía sau. Tôi đau đớn nổ đom đóm mắt, rướn người lên rồi nằm vật ra không còn sức vùng vẫy kháng cự, tai nghe văng vẳng tiếng khóc la thất thanh của các con. Chúng xúm nhau khiêng tôi quăng xuống biển. Nghe tiếng kêu khóc thảm thiết gọi mẹ của lũ trẻ, tâm trí chập chờn nửa tỉnh nửa mê của tôi cảm nhận được các con mình sắp bị hại. Vì vậy khi toàn thân vừa rơi ầm xuống biển cả, tôi quậy đạp tay chân lung tung để vọt lên khỏi mặt nước theo bản năng tự vệ.
            Ngay lúc đó tôi thoáng nhìn thấy một tên đang bồng một đứa con của tôi quăng xuống biển. Tôi cuống quýt lao tới vừa kịp ôm được con. Đứa con tội nghiệp trồi đầu lên, tóc che phủ kín mặt, tay quờ quạng bám vào cổ tôi và nức nở kêu “Mẹ”. Tôi nhận ra đó là Anh Thư, con gái lớn của mình. Nhưng đột nhiên đôi tay bé bỏng rời khỏi cổ tôi rồi cả thân mình cháu chìm nhanh xuống.
            Tôi sợ hãi tột độ, chưa kịp phản ứng thì lại thấy một bóng khác rơi ầm xuống gần đó. Đau đớn vì không thể cứu đứa con lớn vừa bị ném xuống đáy biển mà phải lo cứu đứa nhỏ hơn, tôi điên cuồng bơi về phía đứa con vừa bị quăng xuống. Sức xoáy của chân vịt tàu phối hợp với sóng biển đẩy con trôi dạt về phía tôi. Tôi nhào tới nhưng không kịp, thân hình bé nhỏ chỉ chạm vào chân tôi rồi chìm dần xuống biển. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng, buột miệng thét lên: “Hết rồi, hết rồi”.
            Ngay tức khắc lại một tiếng “ầm” vang lên giữa biển đen, nước bắn tung tóe. Một lần nữa tôi lại nhoài về phía có tiếng động, nhưng không biết nước mắt hay nước biển đã làm mọi thứ nhòe đi khiến tôi không nhìn thấy gì nữa. Thêm hai tiếng “ầm”, “ầm” khủng khiếp vang lên, tôi đau đớn hiểu rằng cứ sau mỗi lần như vậy là số phận của một đứa con tôi đã kết thúc bi thảm dưới những bàn tay tàn bạo của bọn sát nhân không còn tính người.
            Chiếc ghe máy chạy xa dần, tôi tiếp tục quờ quạng điên cuồng trong đêm tối như mực nhưng không tìm thấy được một đứa con nào cả và cũng không bám víu được vật gì để làm nơi nương tựa!!!
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2008 13:42:36 bởi lishiyuan >
            #6
              lishiyuan 07.05.2008 13:02:04 (permalink)
              0
              ĐÊM DÀI VÔ TẬN

              Tôi lênh đênh một mình trong đêm tối đen như mực giữa biển cả với biết bao ý nghĩ ngổn ngang hãi hùng! Trên đầu tôi là bầu trời mù mịt không một vì sao, phía dưới là cả một biển nước mênh mông vớ những lượn sóng to ghê rợn ồ ạt chung quanh. Tôi vốn bơi không giỏi, hồi còn nhỏ dưới quê cũng từng ôm bẹ chuối tập lội ở mấy con rạch hoặc dọc theo bờ sông, nhưng chỉ dám chọn những nơi nước cạn để khi đứng dậy chân còn chạm đất chứ không hề dám bơi ra những chỗ sâu.
              Giờ đây một thân một mình chơi vơi ngoài khơi mịt mùng không bến không bờ, tôi bàng hoàng kinh hãi với những gì vừa xảy ra, lại vừa cảm thấy vô cùng cô độc giữa đêm tối thăm thẳm không biết phương nào để định hướng. Tôi bơi theo bản năng sinh tồn, hai tay cứ quạt nước hướng về phía trước mà không biết mình trôi về đâu!
              Trong cơn tuyệt vọng khôn cùng tôi chợt nhớ đến những câu kệ mẹ tôi thường tụng niệm trong kinh Phổ môn hay bài Sám cầu an :
              Gió đông đi biển chìm thuyền
              Niệm danh Bồ tát sóng tan hết liền

              Những đợt sóng dồn dập xô vào người, tôi nương theo sóng, cố ngước đầu hít lấy chút không khí quý báu rồi tiếp tục bơi trong nỗi hãi hùng vô vọng.
              Không còn biết bám víu vào đâu, tôi bắt đầu thầm khấn nguyện : “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp con”. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một chiếc tàu lớn đang tiến tới rất gần. Mừng rỡ, tôi lấy hết sức lực hét lên: “Bớ người ta! Cứu tôi với”. Nhưng than ôi, chiếc tàu thản nhiên nhẹ nhàng lướt trên mặt biển, không nghe tiếng máy nổ và cũng không thấy một bóng người. Chiếc tàu khuất xa dần, tôi cuống quýt cố bơi theo và gào to hơn:
              - Bớ người ta! Cứu tôi với!
              Bỗng dưng tôi lại chợt nghĩ không chừng đó chính là tàu của bọn sát nhân, lỡ mà chúng nghe được tiếng kêu sẽ quay lại tìm cách giết mình! Thế là lập tức tôi vội vã bơi về hướng ngược lại và lặn hụp giữa đêm đen u tịch, không tìm được điểm tựa nào để bấu víu. Bóng tối kinh hoàng, không gian như vô tận, nỗi thất vọng ê chề bao trùm tâm trí.
              Tôi tiếp tục chiến đấu, chống chỏi với các lượn sóng bạc đầu trắng xóa như những con quái vật đang hung dữ chồm tới chực vồ lấy tôi mà không biết thời gian trôi qua đã bao lâu. Mỗi khi cảm thấy quá tuyệt vọng tôi lại niệm Phật: “Nam mô cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu con”. Thình lình tôi chợt thấy một rừng cây mờ mờ ảo ảo hiện ra trước mặt, nhiều thân cây to cao vút như cột đèn, có cây chìa ra nhiều cành nhỏ trụi lá. Màn sương mờ ảo che phủ những cành cây, tôi thầm nghĩ: “Có lẽ đây là những cây chà của ngư dân dùng để bắt cá”. Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi vội vàng bơi nhanh đến gần với mong muốn sẽ vớ được một cây nào gần nhất để ôm thật chặt, hy vọng chờ đến sáng hôm sau có người cứu mình. Nhưng lạ thay dù rõ ràng nhìn thấy rất nhiều cây sát bên nhưng tôi cố sức mãi vẫn không níu được cây nào. Mỗi lần tôi tưởng như mình sắp chạm được vào một cành cây thì bỗng nhiên nó lại trôi ra xa, lần lượt hết cây này tới cây khác. Tôi kinh ngạc trước hiện tượng này vì tâm trí tôi lúc bấy giờ vẫn còn tỉnh táo.
              Rồi bỗng nhiên cả rừng cây biến mất. Tôi ngơ ngác nhận thấy mình đang lênh đênh trên biển, lòng hoang mang không hiểu có phải đang bị rơi vào ảo ảnh hay không? Bao nhiêu hy vọng tắt ngấm, tôi lại cố sức chống chỏi với nỗi mệt mỏi khủng khiếp để giữ cho đừng bị chìm. Trời càng về khuya sóng càng hung tợn vây bủa bốn bề, tôi cố gắng chịu đựng những con sóng dữ ầm ầm quật vào người, nhồi tôi văng bên này dạt sang bên kia, có lúc tưởng chừng như vô phương chống đỡ!
              Tôi chỉ còn biết chí tâm cầu nguyện: “Nam mô cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp con”. Chợt tôi nhìn thấy ở đằng xa một luồng ánh sáng vàng rực rỡ chiếu từ trên cao xuống mặt biển. Và phía tận cùng ánh sáng là một bãi cát trắng phau có hàng cây dương tựa như bãi biển ở Vũng Tàu. Nghĩ rằng luồng ánh sáng chói lòa đó là ngọn đèn hải đăng vậy có lẽ gần vào đến bờ, tôi lại được tăng thêm niềm tin và sức mạnh giúp vượt qua mọi trở ngại. Vừa bơi tôi vừa suy nghĩ nếu vô được tới bờ sẽ nằm im tới sáng chờ người tới cứu, chứ giữa đêm khuya thế này mà đi lạng quạng, lỡ công an tưởng lầm là kẻ gian sẽ gặp lôi thôi! Lòng phấn khởi tôi mạnh mẽ vượt qua những đợt sóng ngược chiều dữ tợn đang chực hất ngược tôi ra xa. Tôi lăn xả vào những con sóng với niềm tin đó là sinh lộ, bằng mọi cách tôi phải cố vào đến bờ để thoát khỏi tay tử thần biển cả. Những lượn sóng ào áo quái ác nhận tôi chìm xuống, tôi không chịu khuất phục mà tìm cách trồi lên, dù ngộp nước sặc sụa tôi vẫn hăng hái lội ngược vào bờ. Lúc đó tôi hết thấy mệt cũng không còn sợ hãi mà ra sức bơi với tâm nguyện tha thiết và thành khẩn cầu xin Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp mình. Một lúc khá lâu tôi vẫn chưa tới được vùng ánh sáng đó thì bỗng nhiên mọi vật chợt biến mất hệt như rừng cây trước đây. Chung quanh tôi lúc bấy giờ toàn là trời nước và bóng đêm!
              Nỗi thất vọng nặng nề như nhận chìm tôi xuống biển sâu. Thân thể tôi đau đớn rã rời vì phải liên tục vận động suốt mấy giờ đồng hồ. Nhưng tôi vẫn còn đủ sáng suốt tính toán phải tìm cái gì làm điểm tựa để dưỡng sức vì biết rằng không thể cứ bơi hoài giờ này sang giờ khác. Tôi chợt nhớ ngày xưa ở dưới quê, mỗi lần giặt giũ khi nhúng ống quần xuống nước thì nó phùng lên. Tôi bèn nghĩ cách cởi chiếc quần đang mặc ra, cột hai ống lại vắt khô rồi ụp xuống nước cho nó phùng lên để ôm đỡ vài phút. Tuy nhiên tôi không thể nào thực hiện được ý định này vì cứ vừa xoắn quần định vắt nước thì sóng đã xô tôi chìm xuống. Sau nhiều lần không thành công, tôi cởi luôn chiếc áo ra cuộn chung với quần cho người nhẹ bớt, đồng thời nghĩ rằng sẽ ráng giữ bộ đồ trong tay để trước khi chết còn mặc vào cho đỡ thê thảm, dù biết rằng chết là hết.
              Tôi lại nhớ người ta hay nói khi gặp nạn ngoài biển thường được cá Ông cứu, tôi bèn thử đạp chân nhiều lần xem may ra có đụng vào vật gì không? Nhưng dưới chân tôi là một vực sâu không đáy!
              Sau nhiều giờ vật lộn với biển cả sóng gió, thấy sức mình yếu dần tôi lại nghĩ ra một cách để có thể dưỡng sức trong chốc lát. Một tay tôi cầm bộ đồ gối lên đầu, tay kia quạt nước, hai chân vắt chéo vào nhau, người duỗi thẳng thả nổi, miệng không ngớt niệm: “Nam mô cứu khổ cứ nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp con”. Có lúc tôi gần như thiếp đi, chân tay không còn hoạt động theo ý muốn, không rõ thời gian trôi qua bao lâu cho đến khi một lượn sóng ập lên người, tôi bị sặc nước và lập tức tỉnh lại ngay.
              Lúc bấy giờ trăng đã lên, tôi lại tiếp tục bơi. Trời về khuya các con sóng không vỗ theo một chiều nữa mà dường như sóng từ tam phương tứ hướng cùng nhập lại cuốn tôi vào giữa khiến nhiều lúc tôi không thở đươc. Những cơn gió ập đến lạnh buốt da thịt, tôi ôm bộ đồ che trước ngực giống như đang đắp mền để đỡ lạnh.
              Đêm càng về khuya sóng càng to, tôi không đủ sức lội ngược con sóng nữa. Thân thể tôi rã rời đau nhức, đầu óc choáng váng, cảm thấy sức đã cùng lực đã kiệt, tôi tuyệt vọng nghĩ:
              - Thôi đành buông tay đầu hàng số phận!
              Vả lại chồng con cũng đều đã chết, tôi còn gì để mà nấn níu trên cõi đời? Rõ ràng nếu may mắn được sống sót thì cuộc đời còn lại của tôi mãi mãi sẽ là chuỗi ngày đau khổ triền miên. Ý nghĩ đó giúp tôi trở nên bình tĩnh, không còn sợ hãi, không thấy luyến tiếc điều gì nữa. Tôi nhắm mắt buông xuôi, thanh thản chấp nhận cái chết.
              Nhưng tôi chợt nhớ đến bọn sát nhân, tôi nghĩ mình cần phải sống! Bao nhiêu mệt nhọc tan biến, tôi thành tâm tha thiết cầu nguyện: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, xin cho con được sống để có thể cứu nhiều người khỏi bị chết oan như gia đình của con”.
              Vừa dứt lời nguyện, đột nhiên một lượn sóng thật to ào đến phủ chụp lên toàn thân nhận chìm tôi vào lòng biển lạnh. Theo phản xạ tôi cố hết sức tàn ngoi lên lần cuối cùng. Ngay lúc đó tôi nhìn thấy lờ mờ bóng một chiếc tàu nhỏ cách tôi khá xa. Ngạc nhiên tột độ, tôi mừng rỡ la lớn:
              - Bớ người ta! Cứu tôi với!
              Một lần nữa niềm hy vọng được sống sót giúp tôi có thêm sức mạnh, tôi vội vã bơi thật nhanh về hướng chiếc tàu tưởng chừng như có một phép màu đang nâng tôi lên. Trong giờ phút đó, tôi có niềm tin chắc chắn rằng mình sẽ được cứu sống.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2008 13:44:13 bởi lishiyuan >
              #7
                lishiyuan 07.05.2008 13:09:55 (permalink)
                0
                PHÚT MẦU NHIỆM

                Nhìn thấy chiếc ghe quay vòng tròn rồi từ từ tiến dần về phía mình, tôi bèn ráng sức hét thật lớn:
                - Cứu tôi với!
                Chiếc ghe hướng mũi về phía tôi, mừng rỡ tôi gào to hơn:
                - Cứu tôi với!
                Bỗng có tiếng hú vọng lại như trả lời, rồi chiếc ghe lướt sóng thẳng về phía tôi. Tôi vui sướng ra sức bơi mà không còn thấy mệt mỏi đau đớn gì nữa. Khi khoảng cách đã khá gần, một người đàn ông trên ghe cầm sợi dây thừng quăng về phía tôi. Tôi nhoài người chụp được sợi dây rồi níu chắc bằng cả hai tay, những người đứng trên ghe kéo tôi lại gần rồi kéo lên cao. Vừa ra khỏi mặt nước thân mình tôi đung đưa đụng vào thành ghe, mỗi cái va chạm khiến tôi có cảm giác như bị chiếc roi quất vào người róc đi da thịt. Tôi đau đớn hét lên một tiếng buông tay rơi nhào xuống biển.
                Bóng người lố nhố trên ghe lao xao một hồi rồi mới quăng dây xuống. Tôi đưa tay níu sợi dây và lần này cắn răng chịu đựng cơn đau kinh hồn để thoát khỏi vùng biển kinh hoàng mà tôi những tưởng sẽ là nấm mồ lạnh lẽo chôn xác mình.
                Khó khăn lắm tôi mới bám được vào thành ghe, mọi người thâu ngắn dần sợi dây cho đến khi cả người tôi lọt hẳn lên mặt sàn. Nhìn thấy một phụ nữ trần trụi da dẻ nhợt nhạt nằm phủ phục, tay ôm chặt bộ áo quần, trên người chỉ còn độc nhứt chiếc quần lót, mái tóc dài rối bời xõa tung rũ rượi che kín mặt mày, đám thanh niên trẻ ngại ngùng lui ra xa. Chỉ còn một ông già khoảng 60 tuổi đứng nhìn tôi đầy vẻ ngạc nhiên. Một điều khó coi nữa là không hiểu tại sao tuy chưa tới ngày mà bỗng nhiên trong lúc chơi vơi giữa biển khơi tôi lại bị hành kinh khiến chiếc quần lót của tôi bị nhuộm đỏ. Một hồi sau, khi đã định thần người đàn ông đứng tuổi chạy vào hầm ghe lấy một cái quần bà ba và chiếc áo mưa cũ bằng ny lông rách lỗ chỗ đưa cho tôi mặc tạm. Tôi cố gắng gượng dậy, đến lúc đó người tôi bỗng như mất hết sức lực và ngã quỵ xuống, phải khó khăn lắm mới mặc được bộ đồ vào người. Một thanh niên nói:
                - Chị vào bên trong nghỉ đi. Chỗ này là khoang để cá.
                Tôi đứng dậy nhưng lại ngã xoài xuống sàn ghe, toàn thân rã rời. Mọi người thấy vậy bèn chạy tới, mỗi người một tay đỡ tôi lên và dìu vào trong. Tôi nằm yên không nhúc nhích, cổ họng đau cứng không thể thốt lên lời nào nhưng tinh thần đã tỉnh táo. Mấy thanh niên lục tục nấu nước pha trà cho tôi uống rồi xúm lại hỏi han:
                - Cô lội bao lâu rồi mà còn tỉnh táo, tiếng kêu nghe lanh lảnh như tiếng con nít giỡn vậy?
                Ông già – mọi người gọi là ông Năm – nói:
                - Kể ra mạng cô lớn lắm đó, bởi vì ghe tôi chưa bao giờ đi qua chỗ này. May mắn nhứt là vùng này có cá mập, hễ nghe mùi máu tanh là chúng xuất hiện. Vậy mà cũng lạ, không hiểu sao cô lại được bình yên vô sự! Nhưng tại sao cô lại ra nông nỗi như vậy?
                Tôi ngập ngừng không dám nói thật chuyện vượt biên vì sợ gặp khó khăn sau này nên bịa chuyện:
                - Dạ, bạn của chồng cháu có một chiếc tàu đánh cá quốc doanh nên rủ gia đình cháu cùng đi ra biển chơi một bữa cho biết. Ai dè ổng lại sanh tâm giết chết cả nhà cháu rồi đem quăng xuống biển.
                Rồi tôi chợt nhớ đến lời Tân bảo chiều mai sẽ đón một gia đình khác đưa ra tàu lớn, nghĩa là số phận của họ cũng sẽ giống như gia đình tôi. Tôi bồn chồn lo lắng nói với bác Năm:
                - Bác ơi, xin bác làm ơn đưa giùm cháu vào đất liền ngay bây giờ. Cháu cần về Vĩnh Bình để báo cho công an biên phòng Trà Vinh bắt bọn hung thủ ngay, nếu không chiều nay sẽ lại có những người khác bị giết hại như gia đình cháu.
                Ông Năm suy nghĩ một hồi rồi quyết định cuốn lưới quay vào bờ và cho biết:
                - Mình đang ở vùng biển Ba Tri, tôi sẽ đưa cô về công an biên phòng Bãi Ngao. Anh em biên phòng ở đây tương đối dễ dãi hơn nơi khác. Tới đó rồi cô muốn báo cáo sao tùy ý.
                Tôi vui mừng:
                - Cám ơn bác lắm. Bác làm ơn đưa cháu đến đó.
                Tôi yên tâm nằm nghỉ trên sàn tàu, một lát sau bụng tôi đau thắt từng cơn rồi bắt đầu bị tiêu chảy. Dù đang hết sức mệt mỏi tôi cũng phải gượng dậy lấy bộ quần áo đem giặt cho sáng mai kịp khô để mặt khi lên bờ.
                Sau này ông Năm kể lại chiếc ghe đánh cá của ông có sáu người gồm ông và năm thanh niên thường xuyên đi đánh cá ở vùng này. Đêm đó ông chọn nơi khuất gió bỏ neo để ngủ, khoảng ba giờ sáng bỗng nhiên chiếc ghe chuyển động chòng chành. Ông Năm nghĩ rằng có lẽ nơi này mới nổi cồn nên ghe bị mắc cạn bèn sai lấy sào dò nhưng không thấy đụng đất. Mọi người đi ngủ chiếc ghe lại tiếp tục lắc lư. Ông Năm bèn đánh thức mấy thanh niên dậy và nhổ neo đi nơi khác, khoảng một tiếng đồng hồ mới bỏ neo lại và tiếp tục ngủ. Được một lúc, ông Năm nghe có tiếng con nít cười đùa ồn ào. Ông ngạc nhiên tự hỏi sao giờ này giữa biển khơi lại có tiếng trẻ con đùa giỡn nên bước ra ngoài nhưng vẫn không thấy động tĩnh chi cả. Ông cẩn thận đi vòng quanh quan sát thấy mọi người đều đang ngủ say, nhìn ra biển cũng không có dấu hiệu gì lạ. Trở vô khoang ghe nằm, lại nghe rõ ràng tiếng trẻ con cười đùa. Mấy lần như vậy ông vừa bực mình vừa lấy làm lạ kêu hết mọi người:
                - Dậy mau! Dậy mau đi bây. Chắc là có ai gặp nạn quanh đây.
                Mọi người nghe vậy bèn nhổ neo nhưng hỏi đi hỏi lại ông có nghe thật không bởi họ có nghe gì đâu? Ghe chạy chầm chậm, mọi người chia nhau nhìn khắp các hướng và lắng nghe xem có tiếng kêu cứu ở đâu không nhưng chỉ có tiếng gió và sóng biển xào xạc. Riêng ông Năm vẫn cảm giác như có tiếng cười giỡn văng vẳng đâu đây. Đang đứng trên tàu đột nhiên ông hú lên một tiếng thật lớn. Đó chính là lúc tôi nghe được tiếng hú nên mới kêu cứu!
                Mọi người còn nói rằng lúc mới kéo lên nhìn thấy tôi nhợt nhạt chẳng khác gì “ma da”. Vì vậy, khi tôi hét lên, mấy cậu thanh niên sợ quá quăng luôn sợi dây khiến tôi bị rớt xuống biển. Họ xúm lại quan sát kỹ coi có phải là người không rồi mới quyết định vớt tôi lên. Lúc đó tôi ốm yếu mà người lại nhớt nhợt nên có cậu thanh niên còn tưởng tôi là người cá!
                Khoảng một giờ trưa hôm sau chiếc ghe vào tới đất liền. Nhà ông Năm ở tại xã Tân Thủy, huyện Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre. Ông Năm đi trước, tôi lủi thủi theo sau, đầu bù tóc rối, quần áo thùng thình lại rách tả tơi, mặt mày hốc hác. Tôi đi đến đâu dân địa phương xúm theo coi đến đó, có lẽ họ nghĩ tôi là một người bị bệnh tâm thần!
                Tôi đau lòng khôn tả, không ngờ đời mình lại có lúc phải thất thểu giữa một nơi hoàn toàn xa lạ với áo quần tả tơi và bộ dạng chẳng khác gì người điên. Lòng tôi đau đớn ê chề khi nghĩ đến thảm cảnh hiện nay của mình.
                Ông Năm dẫn tôi về nhà của ông. Tôi ngồi trên bộ vạt tre, chung quanh mọi người chen chúc đứng nhìn chật cả nhà. Tôi hối thúc:
                - Bác ơi! Làm ơn đưa cháu đến công an biên phòng ngay sợ không kịp.
                - Cô yên tâm, để tôi nhờ đứa cháu chạy báo công an. Nó đi mau hơn tôi.
                Ông Năm kêu vợ nấu cơm, những người hiếu kỳ bu quanh tò mò hỏi han mọi sự rồi quay qua chuyện trò bàn tán. Mỗi người đưa ra một nhận xét:
                - Mạng chị lớn lắm nên mới lội cả đêm ngoài biển mà không chết đó.
                - Ngộ thiệt, cho dù dân chài lưới lội giỏi cũng chết chớ nói gì đờn bà!
                - Chắc nhờ có “Ông” đỡ mới sống sót được!
                Một người phụ nữ thương tình mang đến cho tôi cái áo, ông Năm giục:
                - Thôi, cô đi tắm đi.
                Trong lúc tôi tắm thì người của chính quyền địa phương đến. Nghe ông Năm kể chuyện cứu sống tôi họ đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Tắm xong tôi mặc chiếc áo của chị phụ nữ mới cho nên có phần tươm tất hơn (tôi vẫn còn giữ kỹ chiếc áo này cho đến nay để kỷ niệm) nhưng bước đi vẫn còn yếu, đôi lúc tôi tưởng chừng như đôi chân không còn dính vào người mình nữa. Tôi tới bên cái bàn giữa nhà nơi có mấy anh công an địa phương và hai người công an biên phòng ngồi chờ sẵn. Họ nhìn tôi tỏ vẻ thương cảm, tôi vội vàng báo:
                - Mấy chú ơi, xin hãy báo ngay cho công an biên phòng ở cửa biển chặn bắt chiếc ghe chở người vượt biên chiều nay ở khu vực từ sông Cổ Chiên đổ ra cù lao Long Hòa đến cửa biển Ba Động. Chính nơi đó chúng đã giết cả mọi người trong gia đình tôi rồi quăng thây xuống biển.
                Trời đã ngả về chiều, nếu đúng như lời Tân nói thì giờ này có lẽ các gia đình khác cũng đang chuẩn bị xuống ghe. Tôi xốn xang căng thẳng, chỉ e rằng trễ một chút sẽ không còn kịp nữa. Hai người công an biên phòng thấy nét mặt tôi còn đầy vẻ kinh hoàng và nói giọng khẩn thiết nên tuy chưa rõ đầu đuôi câu chuyện, còn bán tín bán nghi, nhưng hiểu rằng yếu tố thời gian rất nghiêm trọng, sự chậm trễ có thể làm mất mạng người nên lập tức chia nhau đi thông báo cho các trạm biên phòng.
                Mấy người công an địa phương bắt đầu làm việc với tôi, hỏi han lý lịch bản thân và chồng con. Tôi nói dối tên mình là Lê Thị Ân, làm nghề buôn bán. Về lý do của chuyến đi, sau một hồi cân nhắc tôi quyết định không khai sự thật mà chỉ nói:
                - Một người bạn của chồng tôi có chiếc tàu đánh cá quốc doanh nên rủ gia đình tôi theo tàu ra biển chơi, đánh cá ăn một bữa cho biết. Không ngờ cả nhà tôi bị họ giết ở ngoài khơi.
                Họ nghi ngờ hỏi:
                - Chị nói nghe vô lý quá, đi ăn cá mà sao phải ra tuốt ngoài biển? Lúc đó mọi người trong gia đình chị ăn mặc ra sao?
                - Chồng tôi mặc áo sơ mi trắng quần tây, tất cả bốn đứa con – ba gái một trai – đều mặc áo lạnh ở ngoài. Đứa con trai mặc áo nỉ đỏ sậm và quần thun màu xanh lá cây.
                Thấy tôi còn rất mệt nên họ không hỏi thêm mà kiếu từ ra về. Bà Năm lui cui dọn cơm ra bàn rồi nắm tay tôi nói:
                - Thôi cô ăn miếng cơm cho khỏe.
                Nhìn ra ngoài trời đã sụp tối, tôi chạnh lòng nhớ tới mới chiều hôm qua vẫn còn đủ vợ chồng con cái và cả đứa cháu, thế mà giờ đây chỉ còn mình tôi đơn độc nơi này. Tôi bàng hoàng nghĩ rằng đây không phải là sự thật mà chỉ là một cơn ác mộng, hy vọng rằng rồi đây mình sẽ thức dậy trong căn nhà ấm cúng trước đây và lại nhìn thấy các con bé bỏng mừng rỡ quây quần bên cha mẹ. Thế nhưng chính tôi đã nhìn thấy những đứa con chết trước mắt mình, giờ đây chỉ còn biết cầu mong chồng và cháu gái cũng đang trôi dạt đâu đó như tôi. Nhưng nhớ tới cảnh lênh đênh kinh hoàng của mình đêm qua, tôi lại thấy hy vọng đó quả là mong manh! Hình ảnh những đứa con bé bỏng bị bọn ác nhân nhẫn tâm ném xuống biển giữa đêm đen hiện ra trước mắt, tai tôi còn nghe rõ tiếng con gọi mẹ bi thương khiến tim tôi như muốn vỡ tung, không kìm nén được nữa, tôi gục xuống òa khóc nức nở.
                Bà Năm thương xót an ủi tôi:
                - Thôi cháu ơi, chuyện đã dĩ lỡ rồi, giờ cháu phải ráng ăn miếng cơm cho có sức. Không chừng lát nữa mấy ông công an trở lại đưa cháu về đồn để điều tra nữa đó.
                Tôi vận dụng hết nghị lực kiềm chế nỗi đau xé ruột xé gian, gượng lau nước mắt miễn cưỡng đến bàn ăn. Tôi ăn uống thật khó khăn bởi ngoài tâm trạng buồn khổ thì những hạt cơm cùng thức ăn trôi qua cuống họng cũng làm tôi đau đớn. Cổ tôi lúc đó sưng tấy, bầm tím và trầy xước do bị Tân bóp cổ. Tôi cố nuốt cho xong chén cơm, vừa buông đũa thì quả nhiên công an biên phòng lại đên, họ cho biết:
                - Chúng tôi đã thông báo cho công an biên phòng toàn khu vực rồi. Bây giờ chị khỏe chưa, mời chị theo chúng tôi về đồn.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:04:03 bởi lishiyuan >
                #8
                  lishiyuan 07.05.2008 13:12:00 (permalink)
                  0
                  NHỮNG NGÀY ĐEN TỐI

                  Sau khi cám ơn và từ giã ông bà Năm, ân nhân đã đưa tôi về với cuộc sống, tôi nặng nề bước theo mấy người công an. Những người hàng xóm lúc này vẫn xúm xít nhưng không còn nhìn tôi với cặp mắt tò mò ngạc nhiên nữa mà nhuốm đầy vẻ thương cảm. Toàn thân tôi rã rời đau đớn, mỗi bước đi như đạp trên gai chông. Được một khoảng ngắn tôi khuỵu xuống không đủ sức đứng lên nữa. Hai người phụ nữ tách đám đông chạy đến đỡ tôi dậy kêu lên:
                  - Chị ấy không đi nổi nữa rồi!
                  Hai người công an biên phòng quay lại tỏ vẻ lo âu cho tình trạng sức khỏe của tôi, hỏi tôi có đi nổi không rồi không chờ trả lời họ nhờ hai người phụ nữ dìu tôi đi tiếp. Tựa vào hai người này tôi lại gắng gượng lê bước. Theo sau chúng tôi vẫn là đám đông hiếu kỳ không ngớt chỉ trỏ bàn tán, công an phải yêu cầu họ giãn ra để tránh đường.
                  Từ nhà ông Năm đến đồn công an Bãi Ngao thuộc huyện Ba Tri chừng năm trăm mét. Lúc đó đã vào khoảng năm giờ chiều ngày 5-5-1980, tôi được đưa đến ở tạm trong một căn phòng giống như nhà kho vì chứa đủ thứ đồ đạc chồng chất lộn xộn lỉnh kỉnh. Góc phòng có một cái chõng tre, anh công an lấy chiếc chiếu trải ra rồi nói:
                  - Chị nằm đây nghỉ tạm một chút.
                  Anh công an vừa ra khỏi, tôi nặng nề buông người xuống cái chõng. Thân mình vừa chạm vào các thanh tre trơn láng mà lại có cảm giác đau xé thịt như nằm trên bàn chông, tôi chìm sâu vào giấc ngủ mê mệt.
                  Trong cơn ác mộng rời rạc và hoảng loạn, tôi mơ hồ cảm thấy có ai đang lay dậy. Mở mắt ra, tôi nhạc nhiên thấy mình đang nằm trong mùng, một thanh niên đứng bên ngoài cúi xuống nhìn. Sau khi định thần tôi chợt nhớ lại mọi chuyện và nhận ra đó là người công an nhưng toàn thân cứng đờ không sao ngồi dậy nổi. Anh công an giở mùng đỡ tôi dậy và nói:
                  - Chị ngủ say suốt đêm qua, bây giờ đã trưa rồi, chị ráng dậy rửa mặt cho khỏe rồi đi ăn cơm.
                  Tôi cảm động nhìn anh công an và thều thào nói:
                  - Làm ơn cho tôi xin miếng nước.
                  Anh công an với tay lấy ca nước bên cạnh đưa kề bên miệng tôi, dòng nước mát trôi qua cổ họng đau rát nóng bỏng giúp tôi cảm thấy dễ chịu đôi chút. Người tôi bừng bừng như lên cơn sốt, mỗi cử động nhỏ đều làm cho toàn thân đau nhức, xoay trở hết sức khó khăn, đầu óc tối tăm không nghĩ ngợi gì được. Tôi từ chối ăn cơm, nhờ anh công an đỡ cho nằm xuống rồi thiếp ngay. Tới bữa ăn chiều người công an đánh thức dậy, tôi cũng chỉ xin miếng nước chứ không thiết đến việc ăn uống và lại tiếp tục trải qua một đêm nữa trong giấc ngủ nặng nề đầy mộng mị.
                  Mãi tới chiều hôm sau (6-5-1980) tôi mới tỉnh táo phần nào và được đưa qua phòng làm việc. Một anh công an nói:
                  - Bây giờ chị khỏe rồi, chúng tôi cần biết rõ sự việc, chị cứ thong thả tường thuật lại đầy đủ mọi điều.
                  Nói xong người công an đi ra, trên bàn để sẵn một xấp giấy, viết, ly nước và cây đèn dầu vì lúc đó trời đã tối. Lần nay tôi khai thật tên tuổi nghề nghiệp của mình, lý lịch chồng con cùng cháu gái, nhưng lý do xảy ra tai nạn thì vẫn giữ như lời khai ban đầu. Viết xong tời khai tôi trở về phòng tạm giam. Sáng hôm sau anh công an cầm tờ khai qua phòng tạm giam hỏi tôi:
                  - Tại sao lần này chị khai lý lịch gia đình chị khác hoàn toàn với lúc đầu vậy?
                  Tôi phân trần:
                  - Lúc ở nhà bác Năm đông người quá, nếu tôi khai thật tên tuổi chồng con, rủi mọi người đồn ra ngoài lỡ thủ phạm hay được trốn mất thì sao? Còn ở đây là cơ quan công an, tôi tin tưởng các anh sẽ giữ kín tin tức cho tôi được an toàn và thủ phạm cũng sẽ không biết.
                  Nghe tôi trình bày anh công an thấy hợp lý nên không gặng hỏi thêm. Trong thời gian chờ đợi công an lấy cung, tôi hỏi xin mấy tờ giấy để viết thư cho đứa em dâu:
                  “Chi !
                  Gia đình chị gặp nạn, các cháu và anh Bích đều đã chết chỉ còn mình chị sống sót. Công an sẽ đưa chị về Bến Tre, hiện giờ chị rất yếu, đi đứng không nổi nên có lẽ sẽ được cho nằm tại bệnh xá. Em có thăm thì xuống Công an Bến Tre và tìm chị ở bệnh xá.
                  Vài dòng báo tin cho em hay.
                  Bạch Loan”
                  Tôi viết tất cả ba lá thư. Trong lúc ngồi viết những dòng chữ ấy, tôi đau đớn nhớ đến cảnh tượng các con kêu cứu thảm thiết, ruột gan như bị cắt rời từng đoạn. Tôi cố kiềm chế xúc động, nuốt nước mắt vào trong và tự nhủ phải hết sức vững vàng để bắt đầu một cuộc đấu tranh mới tự bảo vệ mình và đòi lại công lý.
                  Khoảng năm giờ chiều, một anh công an đến cho biết anh nhận nhiệm vụ sáng sớm mai chuyển tôi về Công an tỉnh Bến Tre. Anh lấy xe đạp đưa tôi về nhà. Tôi ngồi trên yên sau cố cắn răng chịu đựng cơn đau mỗi khi xe dằn xốc. Đến trước một căn nhà lá nhỏ, phía trước kê chiếc sạp tre, anh công an nói với một ông cụ đang ngồi trong nhà:
                  - Ba ơi, chị này vượt biên nhưng cả gia đình đã bị chết chỉ còn một mình chị sống sót. Con được giao nhiệm vụ sáng mai giải chị giao cho Công an Bến Tre. Xin Ba cho chị ở tạm đến sáng.
                  Tôi lảo đảo bước tới ngồi xuống chõng tre, anh công an dắt xe đạp vào trong nhà. Ông cụ nhìn tôi thương cảm:
                  - Đi làm chi cho khổ thân vậy cháu?
                  Đêm đó tôi ngủ tạm trên chiếc chõng tre, tờ mờ sáng ngày 8-5-1980 anh công an đưa tôi ra bến xe. Nhân lúc anh đi mua vé, tôi lê bước tới dãy người ngồi xếp hàng chờ mua vé xe về thành phố, đến gần một phụ nữ có vẻ là người đi buôn, dúi vào tay chị một bức thư và nói nhỏ:
                  Chị ơi, gia đình tôi đi vượt biên bị chết hết chỉ còn mình tôi, bây giờ công an đưa tôi từ Ba Tri về Bến Tre. Chị làm ơn gửi bưu điện giùm lá thư này đến gia đình tôi theo địa chỉ ghi sẵn. Cám ơn chị rất nhiều.
                  Người phụ nữ ái ngại nhìn quanh và vội vã nhét thư vào túi áo. Tôi chào chị và tìm thêm một người nữa để gởi thư thứ hai rồi mệt nhọc về lại chỗ ngồi. Lát sau anh công an đến và đưa tôi lên xe. Vừa ngồi lên xe, một người phụ nữ tới nhét một bao hàng dưới ghế ngồi của tôi, nói nhỏ:
                  - Chị làm ơn giữ giùm tôi gói hàng này.
                  Tôi gật đầu và nắm tay cô gửi thêm lá thư cuối cùng. Giải quyết xong ba lá thư, tôi mệt mỏi ngồi dựa vô thành xe nhắm mắt im lặng suốt cả chuyến đi.
                  Đến Bến Tre, anh công an đưa tôi về cơ quan Công an tỉnh, kêu tôi ngồi chờ ở phòng ngoài để anh vào bàn giao hồ sơ giấy tờ. Cả người tôi đau như dần, ngồi lâu chịu không nổi đành phải nằm gục xuống ghế. Một lúc sau anh công an ra về nhưng cũng chẳng thấy ai hỏi han gì đến tôi, phần mình tôi cứ nằm lịm ở chiếc ghế ngủ chập chờn. Đúng 11 giờ trưa hai người công an mới đến lay tôi dậy, đỡ vào phòng làm việc và bắt đầu lấy cung. Sau khi nghe tôi khai – giống như lời khai ban đầu – họ nhận xét:
                  - Chuyện vô lý! Ai đời rủ nhau ra biển ăn cá rồi giết người!
                  Tuy nói vậy nhưng vì chưa rõ sự thể ra sao nên họ không chờ tôi trả lời mà giải liền đến Ban Chấn pháp Bến Tre, nơi giam giữ những người vượt biên. Trong phòng đông nghẹt, tôi đang dựa người vào cánh cửa tần ngần nhìn quanh, bỗng có tiếng gọi:
                  - Ủa, Loan! Sao bà cũng vô đây?
                  Tôi đưa mắt tìm kiếm, thấy một phụ nữ mặt quen quen nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Tôi ngần ngại không dám trả lời nên quay đi tìm một chỗ trống để ngả lưng. Tâm trạng tôi lúc đó thật hụt hẫng, không ngờ rằng lại có lúc phải sa vào chốn tù tội. Tôi nằm thu mình cảm thấy lạc lõng đơn độc hơn bao giờ hết.
                  Người phụ nữ lúc nãy vội vã đến bên tôi, hóa ra đó là chị Lệ, một đồng nghiệp trong ngành điện làm việc ở chi nhánh khác, thỉnh thoảng vẫn liên hệ công tác nên chị nhận ra tôi ngay. Tôi thành thật kể chuyện của mình. Cùng chung cảnh ngộ lại thấy tôi tang thương tiều tụy nên chị Lệ hết lòng chăm sóc tôi.
                  Lúc bấy giờ trông tôi chẳng khác gì một xác chết biết cử động, tác tai rũ rượi, áo quần xốc xếch, suốt ngày nằm vùi. Thêm nỗi khổ là dù nằm ở tư thế nào tôi cũng thấy đau đớn, các vết thương sưng tấy tím bầm hành hạ tôi vô kể. Mọi người trong phòng giam nhìn thấy thảm trạng của tôi đều xúc động thương cảm, ân cần chăm sóc. Tới giờ ăn, chị Lệ kiên nhẫn xúc từng muỗng cơm cho tôi nhưng mỗi lần nuốt chẳng khác gì gai góc đâm vào cổ họng. Người tôi nóng hừng hực, càng lúc càng thấy rã rời. Sáng hôm sau tôi được chuyển lên bệnh xá, cô y tá hỏi:
                  - Chị bị bịnh gì?
                  - Tôi bị đánh bầm dập cả người.
                  Cô ghi tên tuổi, lấy dầu khuynh diệp thoa lên những chỗ bầm tím trên người tôi rồi nói:
                  - Thôi xong rồi, chị về trại đi chứ ở đây không có thuốc uống.
                  Thế là tôi lại lê lết đi về trại. Hai ngày ở tại phòng giam, tới mỗi bữa cơm tôi đều khóc vùi, mọi người trong phòng giam xúm lại an ủi, chia xẻ. Sau đó tôi được chuyển đến một phòng khác. Nơi này có vẻ tù túng chật hẹp hơn, vách phòng đan bằng tre, chỉ có một cửa ra vào. Bên trong là một dãy giường cũng bằng tre, mọi người chen chúc nằm ngồi, đối diện là một phòng giam giống hệt căn phòng này nhưng dành cho đàn ông. Mỗi buổi sáng trại mở cửa cho mọi người ra ngoài làm vệ sinh, buổi trưa đem cơm, thức ăn chỉ có canh với vài con ruốc lõng bõng.
                  Ở đây tôi không quen biết ai, chỗ nằm lại chật hẹp, không nệm không chiếu, tôi tiếp tục cắn răng chịu đựng nỗi đau cùng cực cả thể xác lẫn tinh thần.
                  Thư tôi nhờ gửi vào ngày mùng 8-5-1980 thì đến 12-5-1980 gia đình tôi nhận được qua bưu điện. Lúc đó vào khoảng 6 giờ chiều, Chi – em dâu tôi – nhận được tin dữ đã khóc sướt mướt.
                  Sáng hôm sau em cấp tốc cho người về Long Xuyên đón mẹ tôi lên Sài Gòn. Cả nhà bàn tính, lo mua đồ tiếp tế để bốn giờ sáng hôm sau xuống Bến Tre thăm tôi ngay. Sáng 14-5-1980 Chi và một người bạn của tôi là chị Tư lên đường xuống Bến Tre.
                  Một điều lạ lùng mà sau này tôi được nghe kể lại là ngay trong đêm 13-5 – em ruột Chi – nằm chiêm bao thấy chồng tôi trở về, người cởi trần mà lại ướt sũng. Anh ôm lấy Việt khóc và nói:
                  - Anh chết rồi, em đi kiếm một người tên Hùng để lo việc tìm bắt thủ phạm giết anh.
                  Khi ngủ dậy Việt kể lại giấc mơ cho cả nhà nghe. Gia đình bán tín bán nghi, bàn bạc rất lâu rồi quyết định chia nhau đi gặp hết thảy những bạn bè quen biết của vợ chồng tôi để tìm người tên Hùng. Mẹ và hai người dì ruột của tôi là dì Bảy và dì Tám lặn lội hỏi thăm cùng khắp nhưng không gặp được người nào tên Hùng cả.
                  Mấy ngày sau mẹ tôi trở về nhà cũ của vợ chồng tôi hỏi thăm cầu may một người hàng xóm là ông Tư ở nhà kế bên. Không ngờ ông Tư cho biết ông có một người con trai tên Hùng đang ở tại Thạnh Phú – Bến Tre. Mẹ tôi nói rằng muốn nhờ Hùng giúp đỡ chuyện cần kíp nên ông Tư hứa sẽ đánh điện cho Hùng lên thành phố gấp.
                  Về phần Chi và bạn tôi xuống đến Bến Tre, theo lời tôi dặn trong thư họ kiếm khắp các bệnh xá nhưng không gặp nên tìm đến Ban Chấp pháp tỉnh Bến Tre.
                  Lúc 10 giờ sáng ngày 16-5-1980, Công an Bến Tre gọi tôi lên Phòng điều tra. Một người công an nghiêm giọng hỏi:
                  - Chị còn bà con gì nữa không? Nhà có mấy anh chị em? Lúc đi chị có báo với họ hay không?
                  Tôi trả lời:
                  - Tôi còn mấy đứa em nhưng không ở chung nhà.
                  Anh ta chỉ vào mấy bộ đồ để sẵn ở ghế và hỏi:
                  - Chị nhìn xem mấy bộ đồ này là của ai?
                  Tôi quay nhìn và ngạc nhiên tự hỏi sao quần áo mình lại nằm ở đây vì đã quên bẵng những lá thư gửi về báo tin cho gia đình. Anh công an gằn giọng:
                  - Bây giờ chị hãy khai thật đi, có phải chị vượt biên hay không?
                  Tôi buột miệng:
                  - Không.
                  Nghe câu trả lời của tôi, anh công an nổi giận:
                  - Chị khai vô lý như vậy làm sao chúng tôi làm việc được! Làm gì có chuyện bạn bè rủ nhau ra biển ăn cá rồi khi không thảy mấy đứa nhỏ xuống biển? Chị phải khai thật mọi việc đi.
                  Đột nhiên một cảm giác chán nản tràn ngập lòng tôi. Thật ra tôi chẳng còn gì để mất nữa, điều duy nhất tôi cần làm – mà cũng là lý do thúc đẩy tôi chiến đấu để sống còn trong cơn tuyệt vọng giữa biển khơi – là báo tin kịp thời ngăn chặn việc lừa đảo giết người thì tôi đã làm rồi. Không còn biết sợ hãi, tôi trừng mắt như tóe lửa nhìn anh công an thách thức:
                  - Tôi khai vậy đó, mấy ông có tin thì tin còn muốn giết thì giết. Tôi không sợ đâu.
                  Nói xong tôi bật khóc nức nở, anh công an ngồi im lặng hồi lâu rồi hạ giọng bảo tôi đi rửa mặt. Khi tôi trở vào, anh nói khẽ:
                  - Chị cầm mấy bộ đồ này về trại đi.
                  Tôi như người mất hồn, hờ hững cầm lấy áo quần và thất thểu quay về trại. Đi được một đoạn tôi bỗng cảm giác như có người thân quanh quẩn đây đây bèn quay người hướng ra cổng thì bất chợt nhìn thấy Chi. Có lẽ đã thấy tôi từ trước nên khi tôi quay lại Chi mừng rỡ vẫy tay ra hiệu. Vừa lúc đó có tiếng anh công an la to:
                  - Chị này đi đi, không được đứng đó.
                  Tôi cố gắng mỉm cười cho Chi an lòng rồi đi thẳng về trại. Mấy người trong trại xúm lại hỏi han:
                  - Họ hỏi gì vậy?
                  Tôi trả lời:
                  - Tôi có người nhà gửi quần áo xuống.
                  - Sao chỉ có hai bộ vậy?
                  - Tôi cũng không biết nữa.
                  Một lát sau, anh công an mở cửa trại gọi tôi ra nhận giỏ đồ thăm nuôi. Tôi cảm thấy phấn chấn vì biết gia đình đã nhận được tin tức của mình.
                  Tôi bị giữ ở Ban Chấp pháp Bến Tre khoảng mười ngày. Thời gian đó công an kêu lên làm việc nhiều lần nhưng tôi vẫn một mực giữ lời khai cũ, họ không khai thác được gì nên vẫn giữ tôi lại.
                  Một buổi sáng tôi được gọi lên Phòng điều tra. Hai người công an làm việc với tôi vào ngày đầu tiên khi tôi vừa được giải đến Bến Tre nói :
                  - Chúng tôi nhận được điện tín gửi từ Bình Đại báo cáo bên đó có vớt được xác một bé trai khoảng chín tuổi mặc một áo vải sọc ô vuông bên trong có thêu cánh buồm trên ngực áo, bên ngoài là áo lạnh màu đỏ sậm, quần màu xanh lá cây, hoàn toàn khớp với lời khai trong hồ sơ của chị. Địa phương đã làm thủ tục chôn cất xong.
                  Đó chính là con trai Quốc Nguyên của tôi! Nghe tin vớt được xác con, tôi ngồi ngây ra như tượng, tâm trạng phức tạp buồn vui lẫn lộn. Buồn vì vết thương rỉ máu chưa lành lại bị khoét sâu thêm, nhưng cũng có đôi chút an ủi là dù sao đứa con bé bỏng cũng không phải chịu cảnh lạnh lẽo ở dưới đáy biển sâu.
                  Người công an hôm trước đã có lần to tiếng với tôi ôn tồn nói:
                  - Sở dĩ chúng tôi tạm giữ chị ở đây là để tìm hiểu chính xác đầu đuôi sự việc. Bây giờ trước mắt đã có chứng cứ xác minh điều chị khai là đúng sự thật, yêu cầu chị phải khai rõ hơn nữa, chứ chị khăng khăng giữ lời khai cũ thì chúng tôi không thể làm việc được.
                  Một người khác nói thêm:
                  - Nếu chị khai sự thật chúng tôi sẽ thả chị ra, chứ nói vô lý quá thì không thể cho về được. Chúng tôi không làm gì chị đâu, chị có vượt biên đi nữa thì cũng không có gì quá nghiêm trọng mà phải sợ.
                  Thế là tôi đồng ý khai toàn bộ sự thật về việc gia đình tôi vượt biên, xuất phát lúc nào, tại đâu và đã gặp chuyện gì. Những người công an im lặng nghe và tỏ ra thương cảm hoàn cảnh của tôi. Lập biên bản xong họ cho tôi về trại. Sáng hôm sau tôi được gọi lên lần nữa, anh công an bảo:
                  - Chị lấy quần áo và đồ dùng theo tôi qua trại khác. Sau khi xét lời khai của chị, chúng tôi quyết định giải quyết cho chị được hưởng chế độ tạm giữ thong thả hơn.
                  Tôi được đưa đến một căn phòng khác ít người hơn. Tại đây tôi gặp một cô gái tên Liên đã bị giam nơi này khoảng một tuần về tội vượt biên.
                  Sáng ngày 22-5-1980 tôi nhận được lệnh trả tự do. Khi tôi vào lấy quần áo, Liên sốt sắng viết một lá thư đưa cho tôi và dặn dò:
                  - Chị ghé nhà người bà con của em ở gần đây, gia đình em sẽ giúp chị tiền xe về Sài Gòn.
                  Tôi lên văn phòng công an, họ báo:
                  - Chị được trả tự do.
                  Tôi hỏi:
                  - Các anh không truy tìm thủ phạm nữa hay sao? Nếu sau này tôi tìm được bằng chứng đầy đủ rồi trở xuống đây thì khi đó tôi phải báo với ai?
                  Mấy người công an trả lời lấy lệ vì có lẽ họ cũng không quan tâm lắm về sự việc này. Được trả tự do nhưng tôi không hề thấy vui mừng mà ngược lại hết sức thất vọng. Tôi buồn bã rời khỏi nơi giam cầm, hỏi thăm tìm đến nhà người bà con của Liên. Mọi người trong gia đình này thăm hỏi chuyện trò, đối đãi với tôi hết sức ân cần, giữ lại ăn cơm trưa rồi biếu tôi 50 đồng làm lộ phí về Thành phố Hồ Chí Minh.
                  Tới Sài Gòn, tôi không về thẳng nhà mình mà ghé qua nhà Chi trên đường Lý Thái Tổ, quận 3. Lúc đó khoảng 5 giờ chiều, tôi vừa bước vào nhà thì gặp Chi. Chị em ôm nhau khóc ròng, tôi vội vã hỏi cầu may:
                  - Anh Hai có về đây không?
                  Câu trả lời của Chi dập tắt tia hy vọng mong manh của tôi:
                  - Dạ không, không có tin tức gì của anh Hai với cháu Cúc hết.
                  Một lát sau các chị chồng tôi hay tin vội chạy đến, mọi người vừa hỏi chuyện vừa khóc cho đến tám giờ tối. Sau đó tôi trở về nhà cũ. Nhìn căn nhà tối om lặng ngắt tôi ngần ngại không dám vô nhà. Phần khác tôi cũng lo sợ không hiểu Tân có theo dõi rình rập để diệt đầu mối hay không nên quyết định xin ngủ tạm nhà ông bà Tư, đến sáng hôm sau mới trở về nhà mình.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:07:06 bởi lishiyuan >
                  #9
                    lishiyuan 07.05.2008 13:14:55 (permalink)
                    0
                    VÔ THƯỜNG

                    Tôi nhớ trước đây có đọc một câu chuyện trong đạo Phật:
                    “Một vị sa môn đi khất thực cùng người thị giả, đến một xóm vắng thầy sa môn nói với đệ tử: “Thầy khát nước, con vào xóm xin cho thầy ly nước”. Thị giả đến trước ngôi nhà khá giả, một người con gái xinh đẹp đem ly nước ra cho ông. Thị giả nhìn thấy cô gái đem lòng say mê, quên cả người thầy đang chờ mình đem nước về. Ông ở lại và cưới cô gái, sống trong cảnh nhà cao cửa rộng, ruộng nương cò bay thẳng cánh, trâu bò đầy chuồng và sanh được bốn đứa con. Vợ chồng sống hạnh phúc, yên ấm được mười năm.
                    Một hôm bỗng dưng cuồng phong giông gió nổi lên ầm ầm, nước dâng ngập lụt cuốn phăng trâu bò nhà cửa. Ông một tay dắt vợ, một tay dắt ba đứa con, còn một đứa cõng trên lưng, cả gia đình hối hả tìm cách vượt qua dòng nước lũ cuồn cuộn chảy xiết thì thình lình đứa con trên lưng bị rơi xuống nước. Theo phản xạ ông buông tay nắm ba đứa con để chụp đứa nhỏ bị rơi nhưng không kịp mà cả ba đứa con lớn cũng bị dòng lũ cuồn cuộn cuốn trôi. Nhìn lại chỉ còn người vợ đang chới với, ông cố gắng bơi ngược dòng những mong cứu được vợ hiền nhưng dòng nước quái ác đã nhận chìm bà. Ông lội vào bờ, nằm sóng xoài trên bãi cát, mệt mỏi đau khổ và khóc than vì chỉ trong chớp mắt đã mất tất cả tài sản cùng vợ đẹp con ngoan. Bỗng ông nghe văng vẳng tiếng người thầy gọi:
                    - Đã nửa canh giờ rồi sao chưa đem nước về cho thầy?
                    Chợt tỉnh dậy thì thấy chỉ còn lại có một mình nằm bơ vơ trên bãi cát, đó là 12 năm sau, người đạo sư mới biết rằng sự vô thường là thế: bữa nay còn đó ngày mai mất rồi”.
                    Lúc ngồi trên xe trở về thành phố tôi miên man suy nghĩ về số phận bất hạnh của mình. Mới hôm nào đây tôi còn là một người hạnh phúc với cuộc sống êm ấm giữa chồng và bốn đứa con. Vậy mà giờ đây chỉ còn một mình bơ vơ thất thểu, thân tàn ma dại trên đường trở về nhà. Trong đầu óc tôi hiện lên rõ ràng tựa như những hình ảnh trong một phim kinh dị, cảnh từng đứa con tôi bị ném xuống biển trong tiếng thét kinh hoàng xé lòng tôi.
                    Tôi không bao giờ ngờ bốn giờ sáng của cái ngày định mệnh oan nghiệt đó, cả nhà tôi lên đường tưởng đâu sẽ đến chốn thiên đàng hạnh phúc, nào ngờ bốn giờ sáng hôm sau khi tôi được vớt lên chỉ còn trơ trọi một mình, trên người một manh áo cũng không còn, tựa như giấc mơ của thầy thị giả. Có lúc tôi hoang mang không biết đây là thực hay mộng, tha thiết cầu mong một phép lạ xảy ra để khi về đến nhà, tôi gặp lại chồng con vẫn còn đó đang chờ đợi tôi như lần trước đây tôi đi xa trở về.
                    Khi suy tưởng quay về với thực tại phũ phàng, tôi để mặc cho những dòng nước mắt tuôn chảy như suối trào và trái tim tan nát của mình như thắt lại.
                    Buổi sáng đầu tiên thức dậy trong căn nhà vắng tanh hiu quạnh, tôi như người mất hồn thơ thẩn tới lui một mình, nhìn đâu cũng thấy toàn hình ảnh và kỷ niệm của chồng con.
                    Đây là bụi tre còn hằn những vết dao của chồng tôi hôm anh nổi giận vì tôi không chịu nghe lời anh vượt biên, kia là chiếc ghế anh ngồi vui vẻ bàn tính tương lai cho các con ăn học bên trời Tây. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mà Trang Thanh, con gái út bốn tuổi mỗi khi ăn cơm xong hay leo lên đứng hát:
                    Cháu lên ba, cháu đi mẫu giáo,
                    Cô thương cháu vì cháu không khóc nhè
                    Không khóc nhè để mẹ lên nương rẫy,
                    Ba vào nhà máy, ông bà vui cấy cày...
                    Là lá la la... là là lá la la.
                    Trang Thanh chưa đến trường nhưng rất thích học, không biết chữ mà mỗi khi chị Hai học bài thì chịu khó lắng nghe rồi bắt chước đọc theo rành rọt. Mỗi khi tôi đi làm về Trang Thanh cứ quanh quẩn bám theo mẹ và đòi:
                    - Mẹ cho con đi học mẫu giáo.
                    Vừa làm việc nhà, tôi ậm ừ cho qua chuyện:
                    - Ừ, để hết năm nay mẹ cho đi học mẫu giáo.
                    Hai đứa lớn Anh Thư, Trang Anh học rất khá, luôn được bằng khen của trường. (Sau khi các con tôi mất rồi, cuối năm đó nhà trường còn gởi giấy khen về nhà.)
                    Đi lần xuống nhà bếp tôi tưởng như nhìn thấy Anh Thư đang ngồi chăm chú lột từng tép tỏi phụ mẹ pha nước mắm. Anh Thư mới chín tuổi nhưng rất thích làm bếp giúp mẹ. Mỗi sáng trước khi đi làm tôi căn dặn: “Nhớ đừng làm bếp mà bị phỏng lửa nghe con”. Một buổi chiều về tôi thấy trong tủ thiếu một quả trứng, hỏi ra mới biết Anh Thư thích nấu ăn nên định chiên trứng gà, bất chợt nghe tiếng ba về nên lật đật đem đổ vô thùng rác! Tôi lại nhớ trước lúc đi vượt biên không lâu Anh Thư hỏi xin mẹ mua cái nón xếp đội đi học cho mát, tôi đã hứa nhưng chưa kịp mua cho con.
                    Tôi trải qua nhiều đêm thức trắng, những kỷ niệm cũ liên tục trở về khiến tôi buồn não lòng và thương nhớ chồng con da diết. Oan nghiệt làm sao chỉ trong một ngày mà gia đình tôi hoàn toàn tan nát. Giờ đây tôi chỉ còn một mục đích sống duy nhất là truy tìm cho ra thủ phạm đã giết hại chồng con mình, để bọn họ không còn lập lại tội ác này thêm nữa đối với những người nhẹ dạ dễ tin.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:09:54 bởi lishiyuan >
                    #10
                      lishiyuan 07.05.2008 13:17:18 (permalink)
                      0
                      THIÊN BẤT DUNG GIAN

                      Một ngày trước khi tôi về thành phố Hồ Chí Minh thì Hùng – con trai của ông bà Tư – từ Thạnh Phú (Bến Tre) được tin cha nhắn đã có mặt tại Sài Gòn. Ông bà Tư kể sơ lược cho Hùng chuyện gia đình tôi và hỏi con có quen người kỹ sư tên Tân không? Đầu tiên Hùng cho biết không quen ai tên này, nhưng sau đó anh chợt nhớ đến một sự kiện.
                      Nguyên ở Thạnh Phú có hai máy đèn cũ bị hư đã lâu, từng giao cho nhiều người sửa nhưng không được nên phải đem lên Sài Gòn nhờ một kỹ sư điện rất giỏi tên Tân mới sửa được. Người dân xã Thạnh Phú bèn làm bữa tiệc đãi Tân để tạ ơn. Sự kiện này khá nhiều người nhớ vì mới xảy ra gần đây.
                      Hùng dự định sáng ngày 21-5 sẽ trở về Thạnh Phú để hỏi thăm địa chỉ ông Tân. Nhưng hôm đó bỗng nhiên chiếc xe máy của Hùng trở chúng, đạp mãi không nổ nên anh phải ở lại thành phố hai ngày để sửa xe. Nhờ vậy mà tôi được gặp Hùng, khi nói chuyện với tôi Hùng chợt nhớ ra:
                      - Sáng mai con sẽ ra xa cảng miền tây tìm ông tài xế đã chở hai cái máy dưới Thạnh Phú lên thành phố để hỏi thăm địa chỉ kỹ sư Tân.
                      Sáng 23-5 Hùng ra xa cảng, may mắn lúc đó gặp xe dưới Thạnh Phú vừa lên tới. Hùng mời người tài xế uống nước rồi hỏi thăm:
                      - Mới đây dưới Thạnh Phú có hai máy đèn hư, nghe đồn có nhờ ông kỹ sư nào sửa giỏi lắm. Cháu cũng có mấy cái máy bị hư, nhờ bác cho xin địa chỉ để cháu tìm gặp nhờ ổng sửa giùm.
                      Người tài xế vui vẻ lục trong sổ địa chỉ cho Hùng: “Phan Nhật Tân đường Lê Hữu Từ, Phường 9, Quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh”. Hùng rất vui mừng nhưng chưa về nhà mà cẩn thận tìm đến địa chỉ trên, ghé vào một quá cà phê gần đó hỏi thăm cô chủ quán:
                      - Cô ơi, nhà này có phải của ông Tân hay đi chiếc xe Honda đen không?
                      Cô chủ quán sốt sắng cho biết:
                      - Đúng rồi, cô đứng trước nhà là vợ ổng tên Quế dạy học cấp II đó.
                      Hùng vội vã về nhà báo tin:
                      - Con kiếm được nhà ông Tân rồi nhưng chỉ có bà vợ ở nhà. Chiều nay con sẽ trở lên lần nữa.
                      Hùng ăn cơm trưa xong lại đi đến khoảng 4 giờ chiều mới về kể lại:
                      - Con quanh quẩn chung quanh nhà nhìn vào, thấy có chiếc xe Honda màu đen nhưng không thấy mặt ông ta. Con chạy về cho thím hay. Bây giờ tính sao, có làm đơn thưa hay không?
                      Mọi người trong gia đình e ngại tôi sẽ bị lôi thôi nên xúm lại can ngăn. Nhưng ý tôi đã quyết. Tôi viết đơn tố cáo, thuật rõ mọi chi tiết rồi đi xích lô tới Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh trên đường Trần Hưng Đạo. Hùng và Việt – em của Chi – lấy xe Honda chạy theo sau tôi. Đến nơi đã hơn 6 giờ tối, hết giờ làm việc. Tôi vào Phòng trực ban đưa đơn và trình bày mọi chuyện cho người trực phiên hôm đó. Nghe tôi kể xong người công an nói:
                      - Chị thưa thủ phạm giết người ngoài biển khơi, ở một nơi cách biển Ba Động không biết bao xa, lại cách đây gần một tháng. Trước hết chúng tôi cần phải đều tra sự việc xem có chính xác hay không, chứ đâu phải chỉ qua lời thưa của chị mà bắt người được.
                      Anh quan sát tôi một hồi rồi nói với vẻ nghi ngờ:
                      - Chị ốm yếu như vậy làm sao bơi suốt sáu bảy tiếng đồng hồ ở ngoài biển để chờ được cứu, nghe thật khó tin!
                      Tôi cũng biết rằng không dễ dàng thuyết phục được bất kỳ ai tin được câu chuyện có vẻ huyền hoặc của mình. Nhưng tôi vẫn nài nỉ xin anh công an hãy tin tưởng tôi mà bắt ngay tên Tân để tránh cho những gia đình khác khỏi bị gạt như gia đình tôi. Tôi cam đoan nếu sai sự thật tôi sẽ hoàn toàn chịu tội trước pháp luật.
                      Có lẽ do sự thành khẩn của tôi cũng như dựa vào trực giác nghề nghiệp của mình, sau một hồi đắn đo suy nghĩ, anh công an điện thoại trình bày sự việc lên cấp trên và đề nghị xin lệnh bắt khẩn cấp. Không ngờ cấp trên của anh đồng ý ngay. Anh mau mắn cho lệnh điều xe rồi cùng với hai người công an khác đi cùng tôi đến địa chỉ của Tân.
                      Chiếc xe của công an chạy về phía Phú Nhuận, Hùng và Việt chạy xe gắn máy theo sau. Đầu tiên anh công an đến liên hệ với địa phương nơi Tân ở. Người công an khu vực đưa hai anh công an của Thành phố đến gọi cửa nhà. Người ra mở cửa là vợ của Tân. Anh công an hỏi:
                      - Anh Tân có nhà không chị?
                      - Dạ có, các anh cần gặp chồng tôi có chuyện gì? Để tôi gọi nhà tôi xuống.
                      Mọi người vào nhà, Tân từ trên lầu đi xuống. Vợ ông nói:
                      - Có công an đến gặp anh nè.
                      Tân đang mặc bộ đồ ngủ trong nhà, bước xuống tiếp chuyện với vẻ bình thản. Anh công an Sở trình bày sự việc, vợ Tân ngạc nhiên:
                      - Chắc các ông lầm rồi, nhà tôi không có làm chuyện đó.
                      Tân cũng nói với vẻ thản nhiên:
                      - Làm gì có chuyện tôi giết người, chắc các ông lầm với ai rồi.
                      - Chúng tôi được lệnh bắt ông Phan Nhật Tân tại địa chỉ này. Bây giờ ông vui lòng cho chúng tôi xét nhà.
                      Công an làm thủ tục xét nhà, Tân và vợ một mực không nhận tội và nhất định cho là công an bắt lầm người. Hai người công an bố trí cho Tân ngồi một góc rồi ra ngoài yêu cầu tôi đứng nhìn vào để nhận diện hung thủ:
                      - Có phải người này đã giết gia đình chị không?
                      Tôi khẳng định:
                      - Chính anh ta! Đó là người đã giết gia đình tôi.
                      Công an đưa tôi lên ngồi trên xe còn họ vào trong nhà còng tay Tân. Tân vẫn giữ nét mặt bình tĩnh còn vợ anh ta vẫn cho rằng đây là một sự lầm lẫn nên đi theo trình bày và yêu cầu điều gì đó. Một người công an dắt Tân ra xe, một người khác mở cửa xe để tôi bất ngờ xuất hiện trước mặt Tân. Tôi và Tân chạm mặt nhau, tôi uất hận nhìn anh ta:
                      - Ông Tân có nhớ tôi là ai không?
                      Tân thản nhiên trả lời:
                      - Không! Tôi không quen biết chị.
                      Tân bị đưa lên một xe khác chở về Sở Công an Thành phố. Về đến trụ sở, công an đưa tôi và Tân mỗi người vào một phòng riêng để lấy lời khai. Hai người công an làm việc với tôi, một người hỏi một người ghi biên bản. Tôi khai báo chi tiết mọi việc cho đến gần 4 giờ sáng mới xong và được cho ra về. Hôm đó là ngày 23 tháng 5 năm 1980.
                      Lúc mới về thành phố, phần mang mặc cảm về việc bỏ cơ quan đi vượt biên, phần phải lo theo vụ án nên tôi không quay lại Sợ Điện lực Thành phố. Tuy nhiên Ban lãnh đạo đơn vị hay tin đã chủ động đến thăm viếng an ủi và hứa sẵn sàng nhận tôi lại. Nhưng tôi đề nghị nếu Ban lãnh đạo có lòng tốt chấp nhận cho tôi được làm việc thì xin cho phép tôi được nghỉ thêm vài tháng.
                      Yêu cầu của tôi cũng được chấp thuận, có lẽ lúc đó cơ quan thương cảm hoàn cảnh tôi, nghĩ rằng tôi cần ổn định tinh thần chứ họ không hay biết chuyện tôi đeo đuổi vụ kiện.
                      Trong thời gian Tân bị giam, thỉnh thoảng tôi được gọi lên để bổ sung những chi tiết mà công an còn nghi vấn. Đến một đêm, không hiểu sao tôi trằn trọc không ngủ được, lòng dạ nóng như lửa đốt. Tôi nghĩ ngợi miên man đến vụ kiện, có phần sốt ruột vì ngày qua ngày mà chưa thấy có kết quả gì. Đến gần sáng tôi quyết định ngồi dậy đến bàn viết tờ đơn khiếu nại gửi lên Sở Công an Thành phố một lần nữa.
                      Tôi trình bày nỗi đau của một người mẹ xót con, người vợ thương tiếc chồng, nỗi uất ức cùng hoàn cảnh bơ vơ của tôi hiện nay và thiết tha cầu mong chính quyền soi xét công bằng vụ án của tôi.
                      Sáng sớm tôi đến Sở Công an đưa đơn, chừng đó tôi mới hay tin là sau gần hai tuần điều tra, Tân vẫn không nhận tội. Ông ta còn đặt điều vu khống tôi nhận tiền của những người có thù oán với gia đình ông ta, vì cha và chú của ông vốn là công an thời chống Pháp đã giết một số phần tử phản cách mạng vào năm 1945 ở Bến Tre. Vì vậy nên tôi dựng chuyện tố cáo hại Tân và dùng tiền này lo cho chồng vượt biên.
                      Sở Công an vừa có lệnh trả tự do Tân đúng vào ngày tôi đến đưa tờ đơn khiếu nại. Thế là nơi đây tạm ngưng thi hành lệnh thả và quyết định tiến hành điều tra vụ án căn cứ trên tờ đơn khiếu nại mới của tôi.
                      Sau thời gian Công an tiếp nhận nghiên cứu hồ sơ vụ án, một ngày cuối tháng 6 năm 1980, tôi được mời lên gặp anh công an trưởng nhóm chuyên án tên Hùng. Anh yêu cầu tôi cùng đi về các địa phương nơi xảy ra vụ án tìm bắt Dân và Khánh. Trên đường đi anh điềm đạm nói với tôi:
                      - Cả tuần lễ nay không đêm nào tôi ngủ yên vì cứ đắn đo cân nhắc. Tôi xin lệnh điều xe và yêu cầu được cấp nhiên liệu để đi truy tìm chứng tích cho vụ án. Đang lúc khó khăn, xăng dầu rất hiếm nhưng cấp trên vì tin tưởng mà đồng ý duyệt cho tôi đi công tác chuyến này. Nếu không có kết quả tôi sẽ bị phê bình và mất uy tín với anh em. Tôi lo lắng đến mất ăn mất ngủ, còn anh em trong đội thì đánh cuộc là tôi đi chuyến này sẽ không thu được kết quả gì đâu. Vì vậy xin chị cố gắng cung cấp thông tin thật chính xác để giúp tôi.
                      Tôi vô cùng xúc động trước tinh thần trách nhiệm của anh. Đoàn công tác có ba người gồm tài xế, anh Hùng và một người công an khác tên Hưng. Tôi và người chị chồng cùng đi trên xe trực chỉ xuống tỉnh Bến Tre.
                      Qua chuyến đi này tôi cảm thấy khâm phục cách làm việc của công an trong việc xử lý mọi chuyện hết sức nhanh gọn và bí mật. Chúng tôi phải đến nhiều nơi và chuyến đi nào cũng khởi hành lúc đêm tối. Đến mỗi nơi anh Hùng trình giấy, nói vắn tắt yêu cầu và công an nơi đó lập tức cử người đi theo hỗ trợ.
                      Tại Công an tỉnh Bến Tre, sau khi nghe trình bày sự việc, cơ quan này cử hai người đại diện đi theo đoàn chúng tôi. Xế chiều chúng tôi tới Thạnh Phú, sau khi ăn cơm chiều, anh Trưởng đoàn liên hệ công an địa phương nói rằng cần phương tiện để ra khơi có việc, không nói rõ là việc gì.
                      Đúng 6 giờ 40 tàu đến làng Bến Trại để làm việc với đồn biên phòng, bổ sung thêm hai người công an nơi đây cùng đi tiếp đến công an địa phương nơi Dân ở. Tại đây địa phương lại cử hai người hướng dẫn chúng tôi đến nhà Dân.
                      Công an bao vây quanh nhà Dân, nhưng trong nhà không có ai ngoài ngọn đèn dầu leo lét. Thế là mọi người tức tốc lên tàu chạy ra bến, cặp theo mấy chiếc ghe đang đậu. Anh Công An địa phương rọi đèn kiểm tra từng chiếc nhưng không thấy Dân và ghe của hắn nên phải tiếp tục cho tàu chạy ra xa hơn, truy tìm suốt mấy tiếng đồng hồ vẫn không có kết quả. Cuối cùng khi gần đến vùng biển Trà Vinh, mấy người công an địa phương nhận ra chiếc ghe của Dân. Tàu công an áp sát dần, các anh nhảy qua chia nhau vây kín, rọi đèn pin bên trong nhưng không thấy ai. Một anh công an khám phá ra trên mui có một người đang nằm trùm mền, anh nhảy lên tốc mền thì bắt gặp một người thanh niên đầu tóc rối bù định phóng xuống biển nhưng liền bị khống chế. Một anh công an hỏi:
                      - Anh tên gì?
                      - Tôi tên Dân.
                      Anh rọi đèn pin vào mặt hắn và hỏi tôi:
                      - Có phải tên này không?
                      - Đúng nó rồi.
                      Người công an còng tay Dân đưa qua tàu công an và cử người ở lại điều khiển ghe của Dân đi theo tàu.
                      Tàu lại tiếp tục chạy trong địa phận tỉnh Cửu Long (lúc ấy chưa chia tỉnh), đến nhà Khánh lúc hơn 1 giờ sáng. Khánh không có mặt ở nhà. Người dân địa phương hướng dẫn công an về nhà ông Hiên, ba của Khánh. Ba giờ sáng, nhóm điều tra bắt được Khánh đang ở tại nhà cha mình, bịt mắt đưa xuống tàu.
                      Tàu trở vào bờ là gần sáu giờ sáng, lúc đó chợ đã nhóm họp rộn rịp. Công an tạm thời đưa Dân và Khánh về trại giam ở sân bay, mọi người đi ăn sáng xong trở lại sân bay dưa cả hai phạm nhân về Phòng Chấp pháp Bến Tre. Hai cha con bị bịt mắt, còng tay, có một người công an ngồi ở giữa canh chừng. Tôi và chị chồng ngồi phía trước.
                      Về đến Công an Bến Tre, tình cờ tôi gặp lại mấy người công an hỏi cung tôi lúc trước. Họ tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi bền chí đeo đuổi mục đích và đã bắt được thủ phạm. Hôm đó là ngày 21-6-1980. Khánh và Dân được đưa về Sở Công an Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó cả ba người Tân, Khánh, Dân bị giải về giam tại Chí Hòa.
                      Khi bắt được Khánh và Dân, anh công an trưởng đoàn hết sức phấn khởi và cho biết hy vọng sẽ tìm ra manh mối vụ án. Tôi cũng vui miệng nói:
                      - Tại sao mấy anh bắt chúng trễ vậy, rủi họ trốn hết rồi sao?
                      Mấy người công an cười nói:
                      - Dù chúng có trốn ra nước ngoài thì chúng tôi cũng truy tìm và xin nước đó cho phép dẫn độ về.
                      Đầu tháng 8-1980, nhóm công an lại trở xuống Bến Tre, tìm đến chỗ chôn con tôi để thu thập thêm chứng cứ. Công an biên phòng hướng dẫn cả nhóm đến mộ con trai tôi, mời luôn những người đã vớt xác cháu cùng đến.
                      Những ngư dân kể lại chuyện gặp xác con trai tôi nổi lên ở khu vực cửa sông Ba Lai, tấp vào hàng đáy đang lưới cá. Người trên tàu lấy cây sào đẩy xác con tôi ra xa khỏi dàn lưới nhưng rồi nó lại trôi ngược trở vào. Mọi người nói rằng thông thường khi đi biển gặp xác chết họ thường đẩy cho trôi đi nơi khác, bởi nếu vớt lên thì phải bỏ buổi đánh cá trở về. Ngoài việc lo thủ tục trình báo công an còn phải giải quyết lo chôn xác, vừa tốn công tốn của lại gặp phiền phức do công an phải điều tra, tới lui khai báo rắc rối nên người ta rất ngán ngại.
                      Riêng trường hợp xác con tôi họ cho là điềm lạ nên mới vớt lên đưa về mời công an đến chứng kiến, lập biên bản rồi chôn cất. Người ngư dân nói rằng khi mới vớt lên Quốc Nguyên trông rất đẹp. Lúc bấy giờ đang thời buổi khó khăn, con tôi lại là xác chết vô thừa nhận nên người ta chôn Quốc Nguyên vội vàng, sơ sài đến độ không có được một manh chiếu rách bó thân. Nơi chôn Quốc Nguyên là cồn Vàm Vũng, một vùng hoang vu không người ở thuộc xã Thới Bình, ấp Thới Thuận, cách bờ sông Ba Lai 5 cây số.
                      Tôi vô cùng đau xót cho con, Quốc Nguyên vẫn còn lưu lại được nắm xương tàn nơi đây, chứ còn những đứa con khác, cả chồng và cháu gái tôi thì giờ này không biết đang nằm lạnh lẽo nơi nào!
                      Những ngư dân vừa kể chuyện vừa đào xới cho tới khi gặp bộ xương nhỏ, thịt da đã tan rã nhưng bộ quần áo mặc trên người còn y nguyên. Sau khi tôi xác nhận đúng quần áo của con mình, công an lập biên bản có chữ ký của các nhân chứng rồi lấp đất lại và đứng nghiêm bắn ba phát súng chào. Mọi người trở về đồn công an Vàm Vũng Luông rất trễ, ăn vội bữa cơm chiều vào lúc chín giờ tối rồi lên đường về đến Bình Đại là đã 12 giờ khuya. Anh công an buộc lòng phải bắn súng gọi phà, về đến Ban Chấp pháp Bến Tre thì trời hửng sáng.
                      Trong thời gian điều tra vụ án, Sở Công an Thành phố thường gọi tôi và một vài nhân chứng lên để bổ túc lời khai. Trong số đó có chị Cẩm được mời đến để nhận diện và xác nhận Tân thường lui tới nhà tôi lúc tôi đi làm vắng nhà. Một người đàn ông ở Thạnh Phú có biết ông Tân qua bữa tiệc đãi sau khi ông Tân sửa thành công hai máy đèn cũng được mời đến nhận diện.
                      Riêng chị Cẩm được mời đứng đối diện với khoảng 15 tội nhân xếp thành hàng ngang, công an yêu cầu chị nhận diện xem ai trong số những người đó trước đây đã thường đến nhà tôi. Chị Cẩm đến ngay trước Tân nói không do dự:
                      - Đây! Ông này đây!
                      Tân nhìn chị nói từ tốn:
                      - Chị suy nghĩ cho kỹ, chị cũng có chồng con cha mẹ, tôi cũng có vợ con cha mẹ, chị đừng nói oan cho tôi mà mang tội.
                      Công an hỏi:
                      - Chị xác nhận lại lần nữa có đúng ông này không?
                      - Tôi xác nhận là đúng.
                      Công an mời tiếp người đàn ông ở Thạnh Phú, người này cũng chỉ vào ông Tân và nói:
                      - Tôi xác nhận đúng là ông này.
                      Lần này Tân im lặng. Tới phiên tôi, tôi đi thẳng tới trước mặt Tân và hỏi:
                      - Ông Tân! Chồng con tôi đâu rồi?
                      Tân hằn hộc chỉ mặt tôi:
                      - Chị đừng đặt điều, tôi có làm gì đâu mà vu oan cho tôi vậy!
                      Sau này tôi được biết trong quá trình điều tra công an gặp rất nhiều khó khăn vì Tân một mực không nhận tội dù hai đồng phạm đã chịu khai sự thật. Cuối cùng công an phải cài người vào ở tù chung phòng với Tân một thời gian, tâm sự qua lại tạo sự tin cậy rồi sắp xếp cho người đó được tha về. Tân mắc bẫy, viết thư nhờ đem về cho cha và vợ, dặn dò người nhà khai báo theo gợi ý của Tân. Công an có được bức thư làm bằng chứng để kết thúc vụ án.
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:13:15 bởi lishiyuan >
                      #11
                        lishiyuan 07.05.2008 13:32:00 (permalink)
                        0
                        TẠO NGHIỆP

                        Trong quá trình điều tra, Khánh và Dân đã khai nhận hết tội lỗi và kể lại toàn bộ sự việc như sau:
                        - Khánh vốn là em ruột của Tân, còn Dân là con trai của Khánh. Buổi chiều ngày 2-5-1980, Tân đến gặp Khánh nhờ vả:
                        - Ngày mai mày lấy ghe chở giùm tao một chuyến hàng lên thị xã Trà Vinh.
                        Khánh hỏi:
                        - Hàng gì?
                        - Thì máy móc của một nhà máy nhờ tao sửa chữa. Tiền bạc họ trả rộng rãi lắm, tụi bây phụ giúp tao sẽ được trả công xứng đáng.
                        - Đồng ý.
                        Khánh nhận lời vì việc chở một chuyến hàng không có gì khó khăn, trong nhà có sẵn ghe của ông Hiên, cha của Tân và Khánh, còn tài công chính là Dân.
                        Sáng hôm sau, ngày 3-5-1980, cả Tân, Khánh và Dân đi ghe đến Trà Vinh. Gần đến thị xã, Tân nhìn Khánh và Dân với dáng điệu suy tư nghĩ ngợi. Tân lấy thuốc ra mời Khánh hút rồi đột nhiên nói:
                        - Thú thật với mày hôm nay không phải chở hàng gì đâu.
                        Tân ngập ngừng giây lát như để xem xét phản ứng của Khánh, Khánh ngạc nhiên:
                        - Vậy chớ anh Hai dùng ghe chở gì?
                        - Chở người đi vượt biên! Tao có móc nối một số người ở Thành phố Hồ Chí Minh, hôm trước đã có đưa họ xuống nhà mày rồi.
                        Khánh ngơ ngác:
                        - Ai vậy, tôi không nhớ?
                        - Thì hôm trước tao dẫn xuống nhà ba người, một nam hai nữ ở lại đêm tại nhà mày đó.
                        Khánh chợt nhớ mấy tháng trước, Tân có dẫn về nhà mình một ông cao to da ngăm đen trạc 50 tuổi tên là Bích và hai người đàn bà độ 30 tuổi được Dân đón bằng ghe tại thị xã Trà Vinh. Đêm ấy gia đình nấu cháo vịt đãi khách. Họ ngủ lại rồi sáng hôm sau Tân đưa ra bãi Ràng để trở về thành phố.
                        - Ờ, tôi nhớ rồi.
                        - Hôm nay tao hẹn với gia đình của ông Bích. Ông này trước giải phóng làm việc ở Sở Ngoại Kiều, có nhà lầu hai tầng đầy đủ tiện nghi. Sau năm 75 ông ta nghỉ làm, tao đến nhà chơi biết ý ông ta muốn vượt biên. Tay này dè dặt lắm, gia sản chắc còn nhiều. Tao mất gần ba tháng trời mới tạo được lòng tin, cuối cùng hai bên thỏa thuận chuyện vượt biên. Tao hẹn hai giờ trưa nay mình đón cả gia đình họ ở chợ Trà Vinh.
                        - Anh nói sao nghe lạ vậy? Đi vượt biên gì mà đơn giản như ăn cơm bữa, không chuẩn bị trước gì hết! Ngay đến tôi với thằng Dân đây cũng chưa nói gì cho vợ con biết. Thôi đi anh Hai ơi.
                        - Sự thật là... không phải chở đi vượt biên.
                        Khánh thắc mắc:
                        - Ý anh muốn nói gì tôi không hiểu?
                        Tân nói giọng cứng rắn:
                        - Thế này nè, tao nói với họ là đi ghe nhỏ ra tàu lớn đậu chờ sẵn ngoài khơi. Chừng ra đến đó sẽ xô họ xuống biển rồi lấy tài sản của họ mang theo.
                        Khánh chưng hửng, lắc đầu lia lịa:
                        - Thôi đi anh ơi, làm chuyện gì mà thất đức quá vậy.
                        Tân thuyết phục:
                        - Mình chở họ ra biển Ba Động rồi quăng xuống, ban đêm trời tối om ai mà hay biết. Cho dù họ có bơi giỏi cũng không chịu nổi sóng biển Ba Động, mà nếu không chết vì sóng đánh cũng chết vì cá mập ăn, không để lại chứng tích gì đâu. Tao không đưa ra điều kiện gì về tiền bạc, nên chắc chắn họ mang theo hết của cải trong người, đám này giàu lắm. Tụi bây suy nghĩ xem, đang lúc mọi người đổ xô đi vượt biên, muốn phất lên thì chỉ có dịp may này. Mình làm trót lọt cú này rồi làm tiếp vụ khác. Tao đã dự trù kế hoạch từ lâu, tụi bây giúp tao chuyến này, có gì tao chịu hết, đừng sợ. Xong việc tao không để tụi bây thiệt thòi đâu.
                        Khánh và Dân nghe những lời ngon ngọt của Tân chưa biết xử trí ra sao, nửa muốn làm liều nửa lại lo sợ. Hiểu tâm lý đó, Tân trình bày cặn kẽ những toan tính sắp xếp của mình cho thấy công việc thật dễ dàng đơn giản. Cuối cùng Khánh buông xuôi:
                        - Thôi lỡ chuyến này tôi giúp anh, nhưng có chuyện gì xảy ra anh chịu hết đó nhe.
                        - Ờ tao chịu hết cho.
                        Tân lộ vẻ vui mừng vì đã thuyết phục được Khánh. Thấy Dân lộ vẻ đăm chiêu ra chiều hơi bất mãn, Tân nhỏ nhẹ:
                        - Dân à, mày cũng giúp bác một tay. Thời buổi này muốn phất lên chỉ có dịp này thôi, làm xong một cú có được ít vàng bạc thì xoay sở chuyện khác.
                        Dân không trả lời, bầu không khí trở nên im lặng nặng nề, Tân thận trọng thăm dò:
                        - Sao, tụi bây đồng ý giúp tao chuyến này chứ?
                        Cuối cùng họ ưng chịu. Ghe đến chợ thị xã Trà Vinh. Thấy chưa đến giờ hẹn, Khánh buộc dây neo vào cột trên bờ, dặn dò Tân:
                        - Tôi lên chợ kiếm mua mấy cây tầm vông. Anh ở lại coi chừng ghe. Thằng Dân cũng lên chợ để bỏ sửa cái máy cassette.
                        - Ờ, tụi bây cứ đi. Tân đáp.
                        Sau đó câu chuyện diễn ra trùng hợp với lời khai của tôi trước Tòa. Về những việc xảy ra sau khi đã thủ tiêu toàn bộ bảy người của gia đình tôi, Khánh kể:
                        Khánh và Tân vào hầm lục soát túi xách của chúng tôi để tìm vàng bạc. Trong túi áo chồng tôi chỉ có 130 đồng (chưa được một chỉ vàng). Tìm thêm hồi lâu không thấy có gì quý giá ngoài quần áo trẻ con, Tân sửng sốt:
                        - Thế này thì chết rồi!
                        Thấy Khánh có ý định lấy quần áo của chúng tôi đem về cho vợ con, Tân cản lại vì sợ lộ và quyết định vứt bỏ tang vật xuống biển. Trên đường về Tân dặn dò Khánh và Dân không được nhậu nhẹt say sưa sợ ăn nói lung tung sẽ đổ bể. Tân đưa hết số tiền 130 đồng của chồng tôi cho Khánh và nói rằng ngày 5-5 sẽ trở về thành phố. Tân hứa đúng một tuần sau sẽ trở xuống chia tiền cho hai người.
                        Nhưng đợi hoài không thấy Tân gửi tiền xuống, ngày 20-5 Khánh lên Sài Gòn, đến gặp Tân tại nhà thì Tân nói rằng chưa có tiền rồi đưa cho Khánh một đồng hồ đeo tay hiệu Seiko còn mới và hứa hẹn sẽ mang quần áo cho Dân. Sau hôm đó họ không gặp lại nhau cho đến ngày bị bắt.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:15:14 bởi lishiyuan >
                        #12
                          lishiyuan 07.05.2008 13:37:31 (permalink)
                          0
                          NHÂN QUẢ BÁO ỨNG

                          Buổi sáng ngày 15-5-1981 khi tôi bước vào Phòng xử án tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ở số 131 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Quận 1) thì nơi đây đã đông nghẹt. Mọi người đổ dồn nhìn hết về phía tôi khi tôi đến ngồi nơi chiếc ghế dành cho mình. Tôi hết sức hồi hộp, đầu óc căng thẳng, phải tập trung tinh thần niệm Phật Quan Âm một lúc mới trấn tĩnh được.
                          Thành phần phiên tòa gồm có ông Nguyễn Thành Vĩnh (Chánh án), ông Nguyễn Vĩnh Thanh (Hội thẩm chuyên môn), ông Nguyễn Văn Tùng (Hội thẩm nhân dân) và ông Trần Luân (Công tố ủy viên). Ông Phạm Thanh Công, cán bộ Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh làm thư ký phiên tòa và bà Đào Mộng Thu được chỉ định làm Bào chữa viên.
                          Tòa án bắt đầu làm việc:
                          - Hôm nay xét xử công khai sơ chung thẩm vụ án Phan Nhật Tân và đồng bọn can tội: “Cố ý giết người, cướp tài sản riêng công dân”. Mời bà Lê Thị Bạch Loan lên trước tòa.
                          Tôi kể lại trước tòa chi tiết từ việc tôi không muốn đi nhưng chồng tôi tự ý tiếp xúc với Tân do đó tôi không nắm rõ mọi việc. Tôi chỉ biết rằng gia đình tôi được cho đi không tốn tiền qua lời chồng kể. Chồng tôi nói rằng ông Tân đặt điều kiện khi ra đến nước ngoài chồng tôi phải đùm bọc ông ta vì ông không quen biết ai ở xứ lạ quê người. Chúng tôi cũng được Tân báo hôm lên đường có thêm hai gia đình khác nữa, nhưng cuối cùng hôm đó chỉ có gia đình tôi. Rồi tôi kể tuần tự sự việc từ lúc khởi hành đến lúc ba tên thủ phạm đánh đập và lần lượt quăng chúng tôi xuống biển.
                          Khi thuật đến đoạn này, tôi vô cùng đau khổ. Trong một khoảnh khắc, tôi như nhìn thấy rõ ràng hình ảnh các con bị ném xuống biển từng đứa một và không sao kiềm giữ được nỗi bi thương. Tôi xúc động bật khóc và uất hận kêu lên:
                          - Trời ơi, hai tay tôi đã ôm được các con, nhưng lại bất lực không cứu được các con yêu của tôi!
                          Phòng xử án lặng đi, mọi người xúc động trước hoàn cảnh thương tâm, tôi nghe rõ có tiếng sụt sùi trước hàng ghế phía sau.
                          Lúc tôi nói trước Tòa, Tân ngồi im, nhưng sau đó khi Tòa thẩm vấn thì ông ta phủ nhận mọi chuyện và một mực kêu oan. Tân khai trước Tòa rằng không biết tôi là ai và giải thích lòng vòng về khoảng thời gian xảy ra vụ án. Ông ta khai rằng ở nhà với vợ, ngày ngày nghe đài, đọc chuyện Tam Quốc chứ không hề có mặt tại Bến Tre. Mặc dù vậy, khi Tòa yêu cầu trả lời về việc cả gia đình tôi đã bị giết chết hết, ông ta nói:
                          - Có chứng cớ gì mà nói rằng họ chết hết? Biết đâu người chồng đã vượt biên và đang định cư ở nước ngoài?
                          Tòa xác nhận:
                          - Gia đình đó chết hết rồi.
                          Tân ngoan cố cãi lại:
                          - Sao không đợi thêm một thời gian coi họ có gửi thơ về hay không? Nếu họ gửi thơ về thì sao?
                          Tòa cho biết:
                          - Ngư dân đã vớt được xác đứa con chị Loan.
                          - Đứa trẻ nào chết trôi trên biển cũng đều là con chị Loan hay sao? Nếu đó thật là con chị Loan thì kết quả giảo nghiệm đâu? Hình ảnh chứng từ đâu? Không có bằng cớ gì cả làm sao kết tội tôi?
                          Ông Công tố viên đưa ra một báo cáo ngày 8-5-1980 ghi nhận những đặc điểm của tử thi do chính quyền địa phương xã Thới Thuận lập hôm vớt được xác con tôi; một biên bản khai quật tử thi ngày 8-8-1980 của Phòng Cảnh sát hình sự cũng nêu những đặc điểm về quần áo khớp với báo cáo trước và cuối cùng là biên bản lời khai của tôi tại Bến Tre. Ông kết luận: “Cả ba biên bản trên ghi nhận những điều cụ thể, mang đầy đủ tính chất khách quan và cho phép nhận định tử thi ấy là con của chị Loan”.
                          Tên Tân làm thinh. Tòa lại đưa ra bằng chứng bức thư Tân gửi về nhà dặn vợ phải khai những ngày đó Tân đang ở tại thành phố, lại còn ghi tỉ mỉ buổi sáng mấy giờ tập thể thao, lúc nào đọc sách, nghe đài và dặn vợ đừng khai như trước đây nữa. Ngoài ra Tòa lại đọc bức thư Tân gửi cho cha yêu cầu phải khai như thế nào để tạo bằng chứng ngoại phạm cho mình. Cuối cùng Tòa kết luận:
                          - Nếu quả thật vô tội thì tại sao anh phải làm như vậy?
                          Tân cứng họng không trả lời được.
                          Ngoài ra, khi ông Chánh án nói:
                          - Tên Phan Nhật Tân lợi dụng đêm tối sát hại gia đình chị Loan.
                          Tên Tân bèn cãi lại:
                          - Đêm đó trời sáng chứ không tối.
                          Chánh án nói:
                          - Vậy lúc đó anh có mặt ở đó phải không?
                          Tân sực nhớ mình lỡ lời nên im lặng còn toàn bộ những người tham dự phiên tòa đều bật cười lớn.
                          Đến phần thẩm vấn hai đồng phạm là Khánh và Dân. Ra trước Tòa, cả hai phản cung nói rằng do bị công an đánh đau quá nên khai nhận chứ sự thật không phải như vậy. Cả Tân, Khánh và Dân ngồi một hàng trên băng ghế dài, mỗi khi Khánh hay Dân khai hoặc nói điều gì sơ hở thì Tân bèn khều chân. Nhiều lần như vậy khiến Tòa phải cảnh cáo Tân và yêu cầu đổi chỗ ngồi, tách riêng ba tên ra. Tân tuy đuối lý nhưng một mực không nhận tội. Khánh và Dân vốn là dân quê, trình độ thấp nên tuy phủ nhận tội trạng nhưng Tòa đặt nhiều câu hỏi lui tới, ngược xuôi thì chúng lúng túng ngay và khai ra sự thật.
                          Tòa xử buổi sáng chưa xong nên phải kéo dài đến chiều. Tòa tiếp tục thẩm vấn ba bị cáo, kiểm tra các tài liệu hồ sơ, nghe lời khai của các nhân chúng và những người bị thiệt hại, nghe kết luận của ông Công tố ủy viên và nghe lời bào chữa của bào chữa viên cho các bị cáo. Sau khi nghị bàn, Tòa đưa ra nhận định về vụ án như sau:
                          (Trích nguyên văn biên bản của TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐẶC BIỆT)
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:18:16 bởi lishiyuan >
                          #13
                            lishiyuan 07.05.2008 13:41:22 (permalink)
                            0
                            ÁNH SÁNG CÔNG LÝ

                            I. Nhận định:
                            Hai bị cáo Phan Văn Khánh và Phan Công Dân tại cơ quan điều tra đều nhận tội và trình bày tỉ mỉ hành động phạm pháp cụ thể của chúng đồng thời nêu lên vai trò cầm đầu của Phan Nhật Tân.
                            Phan Nhật Tân tại cơ quan điều tra không chỉ phủ nhận là không phạm tội mà còn lập luận rằng lời khai của chị Loan cũng như lời cung của Khánh và Dân đều là những điều vu khống và kêu oan cho rằng y là “con cừu non rơi giữa bầy sói”.
                            Cụ thể Tân bào chữa rằng: (BL. 186-187)
                            1. Việc cứu vớt chị Loan chết đuối là giả tạo nhằm mục đích trả thù y. Chị Loan thực hiện mưu đồ này để lấy tiền cho chồng vượt biên.
                            2. Theo Tân, y không thể tham gia được vào vụ án xảy ra ngày 3-5-1980 tại Bến Tre vì từ 1 đến 5-5-1980 y đang ở thành phố Hồ Chí Minh, có vợ y là chị Thanh biết.
                            Thực tế, y có đi Trà Vinh bằng ghe máy với Khánh và Dân, nhưng vào đầu tháng 4-1980. Khánh và Dân khai Tân đã tham gia vào vụ án là không đúng vì thời gian đi Trà Vinh của y không phù hợp thời gian xảy ra vụ án (BL.186-187-151).
                            Để kết luận về tội trạng của ba bị cáo có nhiều hành động liên quan mật thiết với nhau, những điểm cơ bản sau đây cần được xác minh:
                            a) Trong vụ án thực tế có nạn nhân hay là điều bịa đặt:
                            Trước tiên nạn nhân bị vứt xuống biển còn sống sót là chị Bạch Loan. Chị đã nói lên tỉ mỉ rõ ràng hành động của Tân, Khánh và Dân. Chị được nhiều người vớt lên giữa biển cả, cách đất liền 10km. Những người vớt này là ông Võ Văn Năm (BL.77-78-79), anh Lê Văn Đẹp (BL.88), anh Bùi Văn Hòa, anh Phạm Văn Thiện (BL.71-72) và ông Trần Văn Nhiệm. Tất cả đều cư ngụ tại ấp 7, xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre. Theo ông Năm và anh Đẹp, chị Loan không nói với họ tên của chị cũng như tên của những kẻ sát hại gia đình chị. Trạng thái của chị Loan khi được vớt lên là trần truồng chỉ còn mặc một quần lót, mệt nhọc. Sau nhiều giờ đấu tranh với cái chết giữa biển cả cụ thể từ 9 giờ đêm đến 3 giờ sáng hôm sau không thể là điều bịa đặt.
                            Các điểm trên chứng tỏ ông Năm anh Đẹp không hề quen biết chị Loan, Tân, Khánh và Dân nên càng chứng minh việc cứu vớt chị Loan ở biển cả không phải là một dàn cảnh để vu cáo.
                            Nạn nhân thứ hai còn tông tích là em Võ Quốc Nguyên, con của chị Loan.
                            Xác của em được một ghe mang hiệu Mai Hoàng, Mỹ Tho đi cào về phát hiện trôi dạt vào cửa sông Ba Lai. Ghe này cột xác lôi về Vàm Vũng và báo cáo với chánh quyền (BL.40). Theo biên bản, em này độ 9 tuổi (lúc lập biên bản là 9 tuổi nhưng sự thật là 7 tuổi) mặc một áo ấm (len) dài tay màu đỏ sậm hơi nâu, bên trong mặc một áo trắng mỏng có sọc, bên ngực áo có thêu một cánh buồm và mặc một quần thun dài màu xanh lá cây, phù hợp với lời trình bày của chị Loan khi mặc áo cho con dưới ghe máy.
                            Xác của em bé ấy được chôn tại cồn gọi là Vàm Vũng, không có làng mạc, thuộc ấp Thới Bình, xã Thới Thuận, cách bờ sông Ba Lai 5 km.
                            Biên bản ngày 8-8-1980 khai quật mộ của em có mặt đầy đủ chánh quyền địa phương, có mặt của chị Loan chứng kiến thì tử thi mặc hai áo, áo thứ nhất là áo lạnh đỏ sậm (gọi là áo len) dài tay và được giữ nguyên vẹn trong người, áo thứ hai là áo mặc trong bằng vải trắng tetoron bên ngực áo có thêu một cánh buồm. Tử thi mặc một quần màu xanh lá cây (BL.34).
                            Tử thi ấy đúng là con của chị Loan. Sự kiện ấy cũng không thể là dàn cảnh.
                            Tại phiên tòa bào chữa có nêu vấn đề báo cáo khám nghiệm tử thi ngày 8-5-1980 (BL.44) nêu một số đặc điểm như quần áo trẻ con là không khác mấy về đặc điểm so với biên bản khai quật tử thi ngày 8-8-1980 (BL.34). Như vậy tính khách quan của biên bản chưa được phản ánh.
                            Báo cáo ngày 8-5-1980 là do chánh quyền địa phương ông Phong đại diện Ủy ban, ông Quang đại diện xã đội trưởng, ông Lai trưởng trạm công an ghi nhận những đặc điểm của tử thi.
                            Biên bản khai quật mồ ngày 8-8-1980 cũng có những người trên đồng thời có cán bộ phòng Cảnh sát hình sự và thêm một cán bộ xã, lại có mặt của chị Loan, cũng nêu một số đặc điểm về quần áo.
                            Hai biên bản trên ghi những điều cụ thể, mang đầy đủ tính chất khách quan và cho phép nhận định tử thi ấy là con của chị Loan.
                            Ngoài ra theo lời khai của anh Lê Văn Yên (BL.90) ngày 8-5-1980 anh đi câu cá đuối ở Ba Lai, có ghé vào chòi dựng ở giữa biển. Một người trong chòi cho anh biết mới có 4 xác người chết trôi qua đây: 2 xác người trôi trước, 2 xác người trôi sau, trong đó có 2 em một em mặc áo lạnh đỏ, chừng 9-10 tuổi, một người phụ nữ độ trên 28 tuổi, một người đàn ông khoảng ba bốn chục tuổi. Những xác ấy trôi theo dòng nước lên, thuộc địa phận An Thới Thuận, Bình Đại, Bến Tre.
                            Những chứng cứ trên xác nhận thêm lời khai của chị Loan và lời cung của Khánh và Dân đúng sự thật.
                            b) Về thời gian xảy ra vụ án:
                            Theo lời khai của chị Loan và lời cung của Khánh và Dân, Tân và đồng bọn thực hiện giết bảy người bằng cách xô họ xuống biển xảy ra vào ngày 3-5-1980.
                            Tân khai rằng từ ngày 1-5-1980 đến 5-5-1980, y vẫn ở thành phố Hồ Chí Minh tại nhà ở của y và chị Thanh 159A/6 Phạm Thế Hiển.
                            Chị Trần Thị Ngọc Thanh khai (BL.67): “Từ ngày 1-5-1980 đến ngày 5-5-1980 Tân ở Bến Tre nói là về thăm ông bà già. Mãi đến tối ngày 5-5-1980 mới có mặt ở nhà chị”.
                            Chị Thanh là vợ của Tân không có lý do gì khai sai để hại chồng.
                            Hơn nữa trong thơ gởi cho chị Thanh (BL.121) Tân viết:
                            “Vừa rồi anh bị con vợ thằng Bích tố là dụ cả gia đình nó đi vượt biên rồi xô xuống biển chiếm tài sản. Nhưng không có chứng cớ gì hết, anh không nhận gì hết, hỏi ngày 1-5 và 2, 3-5 anh ở đâu, anh khai ở nhà với em mà em nói về quê thì là trật rồi... Anh viết thơ báo một số việc cho ông (ông Hiên) rồi. Con Chi về dưới chắc chưa giải quyết xong... Vậy em phải đích thân về quê, cố cho ông tạo 4 người chúng, lấy người thân, chứng ngày 1-5-1980 là đi Trà Vinh mua đồ có ghé về lúc 3-4 giờ chiều mà không thấy chở ai hết chỉ có mấy cây tầm vông và 3 bình dầu vì thằng Khánh đã nhật có đi Trà Vinh rồi... Họ không có bằng chứng gì hết mình tạo được nhân chứng là thắng... (BL.122). Nếu có bị bắt hỏi coi chừng những thằng tù nằm kế mình là nội tuyến đó thì mình phải diễn kịch kêu oan tợn.”
                            Hơn nữa ngày 15-7-1980 hồi 10 giờ, khi xét hỏi Tân trong phòng làm việc của công an, thấy Phan Văn Khánh đi ngang qua. Khi xác định đúng là Khánh thì Tân thét lên một câu: “Tao không nhận gì đâu”, cố ý để cho Khánh nghe. (BL.182)
                            Việc Khánh đã khai (BL.171) như sau: “Đứa con gái của Tân tên là Chi xuống gia đình tôi (Khánh) báo cho ba tôi và mọi người trong gia đình việc Tân bị sợ Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giam”... chứng tỏ con của Tân đã thực hiện lời dặn của Tân trong thơ thông cung.
                            c) Về phương tiện mà Tân đã sử dụng để chở vợ chồng chị Bạch Loan, các con và cháu ra biển rồi xô họ xuống biển:
                            Phương tiện ấy là chiếc ghe máy của ông Hiên (cha của Tân và Khánh) mang hiệu Tân Lập có ảnh kèm theo. (BL.35-41)
                            Khánh và Dân công nhận bọn chúng và Tân đã sử dụng ghe máy ấy để phạm pháp. Tân cũng công nhận có đi trên chiếc ghe ấy (BL.151) nhưng không phải là ngày 3-5-1980.
                            Chị Loan đã khai nhiều lần chiếc ghe chở chị và gia đình chị ra biển mang hiệu Tân Lập, giữa hai chữ Tân và Lập có hình mặt trăng. Nếu chị Loan không đi trên chiếc ghe máy ấy, chị không thể biết được đặc điểm này.
                            Từ các đặc điểm phân tích trên, Tòa án khẳng định ngày 3-5-1980 chiếc ghe máy Tân Lập của ông Hiên (cha các bị cáo Tân, Khánh và ông nội của Dân) có chở gia đình chị Loan 7 người ra biển. Bảy người ấy bị xô xuống biển, đã chết 6 người, chỉ còn một người sống sót là chị Bạch Loan, đồng thời Tân không có mặt tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 3-5-1980.
                            II. Về tội trạng của các bị cáo
                            1. Đối với Phan Văn Khánh và Phan Công Dân :
                            Mặc dầu Khánh và Dân đã phản cung không nhận tội tại phiên tòa nhưng lời cung của chúng tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của chị Bạch Loan, nạn nhân còn sống sót, trên nhiều điểm.
                            Những hiện tượng sau đây không liên quan trực tiếp đến hành động giết người cướp của được nhân chứng và bị cáo cư trú ở những địa điểm khác nhau, diễn tả lại như sau chứng tỏ những người ấy là chị Loan, Khánh và Dân trong thời gian nào đó, tại địa điểm nào đó, đều có mặt mới có thể biết được như:
                            a) Việc Khánh mời anh Bích hút thuốc (BL.49-157).
                            b) Việc anh Bích khi còn ở trên ghe máy, đưa cho Tân một cục tiền gói bằng giấy báo nói là 14... (BL.50-164-173).
                            c) Việc các con chị Loan ăn bánh ngọt, kẹo mời Tân và Khánh cùng ăn. (BL.50-157)
                            d) Việc ghe máy phải chui qua dưới một cầu nhỏ bắc ngang qua lạch phải lên bờ dỡ cầu mới qua được. (BL.50-60-168-175)
                            e) Việc Khánh hỏi bâng quơ chị Loan và cô Cúc có liên hệ với Cộng sản không để tạo sơ hở của nạn nhân. (BL.60-157)
                            f) Việc chị Loan bị Tân đánh túi bụi. (BL061-158)
                            g) Việc Khánh mua tầm vông để trên ghe và trên đường đi có ghé bỏ lên bờ. (BL.51-151-175-177)
                            h) Việc chị Loan bị xô xuống biển kế tiếp là đứa con rơi theo. (BL.53-163-170)
                            i) Việc tuần tự xô người xuống biển, ai trước, ai sau.
                            Từ các điểm trên, Tòa án có đầy đủ cơ sở kết luận các lời cung của Khánh và Dân nhận tội giết người cướp của tại cơ quan điều tra là phù hợp với thực tế và đồng thời chứng minh tội trạng của chúng.
                            2. Đối với Phan Nhật Tân:
                            Tân chối không có hành động phạm pháp mặc dầu y bị chị Loan tố giác và bị Khánh và Dân khai tại cơ quan điều tra là tên cầm đầu trong vụ lừa đảo người vượt biên để giết họ và cướp của.
                            Để bào chữa, Tân khai ở cơ quan điều tra như ở phiên tòa một cách chung chung quanh ba điểm sau đây:
                            a) Chị Loan đóng kịch mướn cho những người có oán thù đối với gia đình y, vì cha chú của Tân trước đây làm công an đã giết một số phần tử cách mạng năm 1945-1946 ở Bến Tre. Thông qua chị Loan, họ trả thù bằng cách vu oan giá họa cho y.
                            Lập luận này là vô lý và nếu có việc oán thù thì những người thù của cha chú y suốt 34 năm qua đã có thừa điều kiện và thời gian để trả thù đối với cha chú y vẫn sống tại An Thuận, Thạnh Phú, Bến Tre chớ không chờ Tân, không trực tiếp gây thù oán, tập kết ra miền Bắc rồi trở về miền Nam đã 5 năm mới thực hiện ý đồ ấy bằng cách thuê chị Loan từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống Bến Tre dàn cảnh ly kỳ như vậy.
                            b) Cũng theo Tân, ở cơ quan, Khánh và Dân (em ruột và cháu ruột của y) vu cáo y bởi vì anh em ruột do tranh giành quyền lợi có thể giết hại lẫn nhau.
                            Lời bào chữa này không có cơ sở thực tế. Bản thân Tân không hề nêu được một mâu thuẫn nào giữa y với Khánh, Dân. Ngược lại quan hệ của bọn chúng với nhau đến khi xảy ra vụ án vẫn là mật thiết. Bằng chứng là theo sự nhìn nhận của Tân, Khánh và Dân đã đón đưa y bằng ghe máy tháng 4-1980. Ông Hiên cha của Tân và Khánh cũng không đề cập đến một mâu thuẫn nào giữa Tân, Khánh và Dân.
                            c) Tân còn nại thêm rằng khi giết người phải có mục đích. Gia đình anh Bích nghèo, giữa lúc anh Bích và y không có oán thù nên không có lý do gì để giết.
                            Căn cứ lời cung của Khánh và Dân thì Tân đã nói với chúng: “Xô gia đình anh Bích xuống biển để cướp hết tài sản của họ mang theo” (BL.168). Vậy mục đích giết người ở đây là cướp của thông thường không đòi hỏi phải có oán thù trước.
                            Hơn nữa, Khánh còn khai (BL.164) sau khi xô người xuống biển, Tân và Khánh đã lục soát tất cả các túi xách và túi áo của anh Bích: “không thấy tiền và vàng nào cả” sắc mặt tên Tân buồn bã và thốt lên một câu sửng sốt: “Thế này thì chết rồi”.
                            Điểm này là đủ để trả lời lý lẽ ngụy biện của Tân về sự giàu nghèo của anh Bích. Nó có nghĩa trước khi gây án, Tân đinh ninh anh Bích có mang theo tiền và vàng.
                            Trước những lời bào chữa vu vơ ấy, lại có những sự kiện cụ thể chứng minh vai trò của Tân trong vụ án:
                            - Khánh ở Cửu Long, Dân ở Bến Tre không hề quen biết anh Võ Bích ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trái lại, Tân nhận có quan hệ với anh Võ Bích, đã đến nhà 6 lần. Trước khi xảy ra vụ án, Tân dẫn anh Bích xuống nhà Khánh và Khánh tả anh Võ Bích dưới dáng “người đàn ông ta, cao, đen, độ 50 tuổi” đã được Tân dẫn xuống nhà Khánh chơi cùng với hai cô gái trước đây (BL.162). Tuy ông Hiên không gặp ba người này nhưng vẫn đề cập đến hiện tượng ấy (BL.73), chị Huỳnh Thị Dồi (vợ của Khánh) cũng xác nhận điểm này (BL.95).
                            Như vậy có nghĩa là trước khi xảy ra vụ án, Tân đã dẫn anh Võ Bích xuống nhà Khánh để chuẩn bị cho việc gọi là vượt biên; giết họ rồi cướp của, đúng với lời khai của chị Bạch Loan (BL.85). Bản thân chị Bạch Loan chỉ gặp Khánh một lần ngày xảy ra án mạng. Không thể có việc giữa những người không quen biết nhau như chị Loan với Khánh và Dân lại đồng ý với nhau để vu cáo Tân (anh ruột của Khánh và bác của Dân).
                            - Sau khi xảy ra vụ án, theo Khánh thì Tân hứa cho y tiền vì không thấy Tân gửi tiền xuống, Khánh có lên nhà Tân tại 112/2 Lê Hữu Từ, Phú Nhuận hỏi. Tân nói chưa có tiền, chỉ đưa cho y một đồng hồ Seiko còn mới và một hóa đơn mua đồng hồ (BL.37). Điểm này chứng tỏ giữa Tân và Khánh không có mâu thuẫn gì.
                            - Tân về Bến Tre và Trà Vinh nhiều lần.
                            Lợi dụng sự kiện ấy, Tân phủ nhận sự có mặt của y trên chuyến ghe máy ngày 3-5-1980.
                            Tuy vậy y lại nhận một số hiện tượng sau đây:
                            - Có quan hệ với anh Bích và đến nhà anh 6 lần để nhờ anh Bích chạy chọt cho y được nhập hộ khẩu mặc dầu y khai không biết anh Bích để tránh né.
                            - Có đi Trà Vinh vào đầu tháng 4-1980 bằng ghe nhà để kiếm người cháu tên Nam về ăn giỗ.
                            Hôm đó Tân không nói ngày trong chuyến ghe đi Trà Vinh (BL.151).
                            - Y có mua 3 can dầu ở chợ Trà Vinh 60 lít, mỗi lít 8đ bằng 480đ, thuê xe xích lô chở xuống ghe.
                            - Có mua 1kg thịt bò nhờ một nhà quen của Khánh xào ăn cùng với rượu (nhà Tư Nỉ, BL.151).
                            - Khánh có mua một số cây tầm vông để trên ghe có lưới đóng đáy.
                            - Khởi sự về nhà (ông Hiên) lúc 16 giờ có cho người quá giang về An Thuận, Thạnh Phú (4-5 người, trong đó có 1 đàn bà, 4 đàn ông).
                            - Về đến nhà lúc 7 giờ tối, có ghé ghe để Khánh bỏ tầm vông xuống.
                            Tuy ông Hiên – người cho Tân, Khánh và Dân mượn ghe máy đi Trà Vinh – không nói ngày, không đi theo ghe nên không biết những gì xảy ra hôm ấy nhưng ông đã cung cấp một tình tiết cần được lưu ý là ngày ấy Dân có mang theo một cassete để sửa chữa và khi ghe về, chiếc cassete đã được sửa chữa. (BL.74)
                            Còn chị Loan chỉ đi theo ghe máy từ Trà Vinh ra biển đã nêu một sự kiện là trên ghe có chở lưới đóng đáy và tầm vông (mà chị gọi là tre) và trên đường đi ghe ấy có ngừng lại một lúc. (Ngừng lại tại nhà Khánh để bỏ tầm vông lên) (BL.51)
                            Riêng Khánh và Dân, hai can phạm, công nhận tại cơ quan điều tra ngày thực hiện việc giết người cướp của, Tân có:
                            - Chở 3 ban dầu bằng xe xích lô xuống ghe.
                            - Mua thịt bò mang xào ở nhà người quen của Khánh.
                            - Khánh có mua 10 cây tầm vông để trên ghe có chở lưới đóng đáy.
                            - Trên đường đi ra biển, ghe có dừng lại nhà Khánh để cất tầm vông lên bờ.
                            - Dân có sửa cassette.
                            Do đó ngày đi Trà Vinh lần này đúng là ngày gây án và ngày ấy có những sự kiện phù hợp với các sự kiện do Tân khai nhận.
                            Nếu không phải là một chuyến đi thì không thể có nhiều chi tiết trùng hợp như vậy được.
                            Ngoài ra ông Hiên – cha của Tân và Khánh – còn khai thêm (BL.74): “Cách đây 2-3 tháng vào một buổi trưa, Dân có nói cho tôi hay là Tân và Khánh (tức bác Hai và ba nó) chở một chuyến người vượt biên mà nó chưa muốn chở, đồng thời Dân nói “Con không chịu đi”.
                            Về chuyến đi Trà Vinh của Tân, Khánh và Dân, ông Hiên còn khai thời gian mà Tân và Dân về đến như sau (BL.74): “Tân, Dân, Khánh có đi Trà Vinh, không rõ đi làm gì. Khi đi thấy Dân có mang theo chiếc cassette và sau đó Tân về Sài Gòn”.
                            Lời khai này khác với lời cung của Tân ở chỗ Tân khai y đi Trà Vinh buổi sáng và trở về 7 giờ tối cùng ngày. (BL.151)
                            Cũng về thời gian, Tân không khai cụ thể, lập lờ, nhưng chị Thanh, vợ của y (BL.67) khai dứt khoát: “Từ ngày 1 đến 5-5-1980 Tân ở Bến Tre nói về thăm ông già...” (BL.67), và “Từ 5-5-1980 Tân không về Bến Tre”. (BL.66)
                            Vì những tình tiết trùng hợp như vậy và điểm thời gian về chuyến ghe này đi Trà Vinh là hết sức quan trọng, là một chứng cớ rõ ràng đủ bác bỏ các lý lẽ chung chung của Tân và cũng đủ để chứng minh sự có mặt của y trong vụ án, nên sau khi bị bắt, sau khi trót khai các tình tiết ấy, Tân cố tình liên hệ với chị Thanh, ông Hiên (BL.121-122-123) bằng thơ thông cung trong đó có những đoạn như sau: “Hỏi ngày 1, 2, 3 tháng 5 anh ở đâu, anh khai ở nhà với em mà em nói về quê là trật rồi... Anh đã viết thơ báo một số việc cho ông rồi, em phải đích thân về quê cố cho ông tạo người chứng... Ngày 1-5-1980 là đi Trà Vinh mua đồ có quá giang ghe về lúc 3-4 giờ chiều... vì thằng Khánh đã nhận đi Trà Vinh rồi.”
                            Nó giải thích vì sao Tân trước nhiều chứng cứ vẫn “đóng kịch kêu oan tợn” như y đã viết cho chị Thanh.
                            Những điểm trên cho phép Tòa án nhận định chuyến ghe máy đi Trà Vinh là vào ngày 3-5-1980 và chính trong chuyến đi này Tân, Khánh và Dân đã thực hiện việc giết người hết gia đình chị Bạch Loan để cướp của.
                            Những sự kiện khách quan được xác nhận như sau:
                            - Anh Võ Bích và gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh không quan hệ với Khánh và Dân ở Cửu Long, chỉ có quen với Tân và chính Tân đã dẫn anh Bích đến nhà Khánh.
                            - Ông Hiên, cha của Tân và Khánh có cho Tân, Khánh và Dân mượn chiếc ghe máy Tân Lập đi Trà Vinh ngày hôm trước và ngày hôm sau mới trở về.
                            - Chị Bạch Loan và gia đình có đi trên chiếc ghe Tân Lập từ Trà Vinh ra biển. Gia đình chị Loan đều chết, chỉ vớt được xác của đứa con và chị Bạch Loan được vớt giữa biển cả cách đất liền 10km, đang sống và tố giác Tân và đồng bọn.
                            - Khánh được Tân cho một đồng hồ Seiko (tang vật) là những chứng cớ cụ thể chứng minh sự liên quan của ba bị cáo với vụ án.
                            Cộng tất cả những điểm phân tích trên, Tòa án kết luận Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân đã phạm tội cố ý giết người để cướp của.
                            Tội được quy định và trừng phạt theo điều 8-5 Sắc luật 03-SL/76 ngày 15/3/1976.

                            III. Về tính chất vụ án:
                            Vụ án mang tính chất dã man tàn bạo cao độ của những kẻ hết sức gian manh, xảo quyệt, giết người cướp của với nhiều thủ đoạn được tính toán chi li.
                            Lợi dụng tâm trạng của một số người yếu đuối về tinh thần trước những khó khăn vật chất tất yếu của đất nước còn phải gánh nặng những vết thương chiến tranh kéo dài 30 năm, trước hậu quả tai nạn của chế độ thực dân mới trên các mặt, không thanh toán một sớm một chiều nên phân vân, dao động, mất phương hướng trước tình thế phức tạp, muốn bỏ xứ trốn ra nước ngoài. Tân vừa mãn hạn tù được tha, liền khai thác tâm trạng ấy, liên hệ với anh Võ Bích đang sống yên với vợ và 4 con, xúi giục anh vượt biên, tạo điều kiện đưa họ ra biển để giết rồi cướp của.
                            Bước đầu y chứng minh cho anh Võ Bích là y có phương tiện đưa anh và gia đình ra biển có cả tàu lớn của y đến rước, để lừa dối anh Võ Bích, y chỉ bừa vào tàu đánh các quốc doanh cho là của y (BL.86). Mắc mưu Tân, anh Bích nhẹ nhàng đấu tranh với vợ (chị Loan), lôi cuốn chị bằng tình cảm mẹ con, đưa gia đình vào cạm bẫy của Tân. Từ lừa dối này đến thủ đoạn khác, Tân lôi kéo được anh Bích và gia đình xuống ghe máy của y để đưa họ ra biển được tàu lớn đón. Bằng thủ đoạn hứa cho tiền, Tân dẫn em ruột y là Khánh, cháu ruột y là Dân vào con đường phạm tội làm nổi lên thú tính của bọn chúng trong hành động giết người. Thủ đoạn bỉ ổi lừa dối những nạn nhân của bọn chúng đến cùng được chị Loan phản ánh như sau: “Trên ghe ra biển, Khánh ôm chầm lấy chồng của chị và nói: Thôi tụi mình bây giờ “sống chết có nhau”, chiếc tàu lớn ngoài kia là của tôi từ hồi nào mà bây giờ vô quốc doanh rồi... Mỗi khi tàu về là vợ tôi khóc”. Còn Tân thì nói: “Định đưa các con tôi theo nhưng vợ tôi biết nên bỏ chúng lại nhà. Vậy khi qua bên ấy, anh chị phải cho tôi một đứa cháu nuôi.” Liền lúc đó Tân kêu đứa con nhỏ nhất của tôi lại vừa hôn, vừa nựng nịu tỏ vẻ thương yêu lắm.
                            Chúng làm như vậy để rồi vài giờ sau xô cha mẹ rồi đến con xuống biển một cách man rợ.
                            Chị Loan viết: “Trời ơi, sao có kẻ tàn ác thế! Vợ chồng tôi đang sống yên vui và êm ấm, sao tên Phan Nhật Tân đành lòng vào dụ dỗ chồng tôi nói đi vượt biên rồi đem ra cửa biển Trà Vinh thảy xuống biển hết thảy 7 mạng người, khiến cho tôi rối loạn tơi bời, khi mê lúc tỉnh, muốn điên lên khi nhớ đến con thơ vô tội, nhớ từ nét mặt nụ cười, nhớ khi con ôm cặp đi học về. Tất cả các người trên quả đất này đều có gia đình, có vợ, có chồng, có con, đều biết nỗi đau khổ của tôi đến ngần nào rồi. Tôi đau khổ quá, trời ơi đau khổ quá sức. Chồng tôi đâu, con tôi đâu, cháu tôi đâu?... Sao nỡ đành lòng giết trẻ thơ vô tội? Chúng có biết gì đâu. Năm phút trước chúng còn cười vui hớn hở, còn làm trò cho bác Tân coi mà năm phút sau lại nỡ đành lòng nào ôm con tôi mà quăng xuống biển, miệng còn kêu tiếng “Mẹ, mẹ” rồi chìm sâu trong biển lạnh. Hỡi chính quyền các cấp, hãy sớm đưa vụ này ra ánh sáng để ngăn chặn lũ tàn ác sống trên xác chết của người dân hiền lành, nhẹ dạ.”
                            Lời kêu thiết tha trên đây của người vợ, người mẹ đánh giá sâu sắc và đầy đủ tính chất vô cùng nghiêm trọng của vụ án, đòi hỏi đường lối xử lý phải nghiêm khắc, luật pháp phải trả lời, đáp ứng được yêu cầu chính đáng của nạn nhân.
                            Vì vậy đối với Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân phải tuyên một mức hình phạt tương xứng với tội trạng và tác hại hết sức lớn lao do chúng gây ra.

                            IV. Về tượng hình.
                            1. Đối với Phan Nhật Tân:
                            Phan Nhật Tân giữ vai trò cầm đầu, đề xướng ra kế hoạch giết người cướp của đồng thời là tên thủ ác tích cực khi thực hiện kế hoạch.
                            Hành động của Tân giết nhiều người một lúc sau đó cướp tài sản của họ mang tính chất tàn bạo cao độ.
                            Y không còn bản chất con người, không còn khả năng cải tạo.
                            Một mức án cao nhất mới có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa chúng.
                            2. Đối với Phan Văn Khánh:
                            Phan Văn Khánh cũng là tên thủ ác. Y đã cùng Tân xô xuống biển chị Loan, cô Cúc và một đứa con của chị Loan.
                            Trước hành động phạm pháp, Khánh đã được Tân báo trước và đồng ý thực hiện.
                            Tuy Khánh là một ngư dân bình thường, nhưng tội trạng của Khánh là quá dã man, hết sức nghiêm trọng, chứng tỏ Khánh không còn bản chất con người nữa.
                            Mức án cao nhất là cần thiết đối với y.
                            3. Đối với Phan Công Dân:
                            Phan Công Dân có tham gia vào vụ giết người cướp của. Y lái ghe máy đưa các nạn nhân ra biển, tạo điều kiện cho Tân và Khánh (bác và cha y) thực hiện tội ác. Hành động phạm tội của Dân cũng nghiêm trọng.
                            Nhưng xét trong vụ án, Dân bị Tân lôi kéo. Mặc dầu Tân có bàn bạc trước với Dân và Dân hiểu được tính chất nguy hiểm của hành vi và tác hại sẽ gây ra, nhưng đã có lần y tâm sự với ông Hiên (ông nội y) là không chịu đi đưa người vượt biên theo chủ trương của Tân.
                            Vì Dân còn có khả năng cải tạo được. Một án tù giam có thời hạn (18 năm) cũng để giáo dục y và ngăn ngừa chung.

                            V. Về mặt Dân sự:
                            1. Chị Loan, vợ của anh Võ Bích và mẹ của 4 đứa trẻ đã bị giết và bị cướp của, yêu cầu Tòa án nhân dân đặc biệt xét xử đúng mức các bị cáo để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân và không yêu cầu bồi thường.
                            2. Ông Đào Hữu Đỉnh, cha của cô Đào Thị Cúc bị giết yêu cầu Tòa án xét xử đúng mức và không yêu cầu bồi thường.
                            Tòa án không xét về mặt Dân sự.

                            VI. Về tang vật:
                            Những tài sản của chị Loan phải được giao trả cho chị.
                            Chiếc ghe máy, phương tiện dùng để phạm pháp, đáng lý phải được tịch thu nhưng xét chiếc ghe máy là phương tiện sanh sống của người chủ. Hơn nữa ông Hiên không biết là các con ông đã dùng chiếc ghe ấy để phạm pháp. Xét nên chiếu cố đến các tình tiết ấy để trả chiếc ghe máy cho ông Hiên.
                            ***
                            Sau phần nhận định, Tòa Kết luận:
                            - Phiên tòa xử vụ án sắp kết thúc, mời chị Lê Thị Bạch Loan lên trước tòa.
                            Tôi hoang mang bước lên, Tòa hỏi:
                            - Chị Loan muốn nói lời cuối cùng gì không?
                            Tôi đáp ngay:
                            - Thưa quý Tòa, thưa ban lãnh đạo chính quyền các cấp, giờ phút này xác thân chồng con tôi đã chìm sâu dưới lòng biển lạnh. Kính xin quý Tòa là những người nhiều kinh nghiệm hãy xử sao cho đúng với pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp lòng nhân đạo của chính quyền cách mạng, thuận với tình người trong cách đối xử với một phụ nữ gặp tai nạn đang phải sống bơ vơ trên cõi đời. Về phần mình, giờ phút này trước mắt tôi là cả một tương lai đen tối. Tôi không đòi hỏi điều gì cho riêng bản thân, khi nào còn đủ nghị lực thì tôi ráng sống, khi nào cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa gì nữa thì tôi sẽ tự hủy diệt thân mình.
                            Tòa án hỏi:
                            - Về hình sự thì ý chị như thế nào?
                            - Thưa quý Tòa, lúc lênh đênh trên biển cả, tôi có một lời phát nguyệt cầu xin Đức Phật Quán Thế Âm cho tôi sống để cứu các sinh linh khác khỏi phải chết oan như gia đình tôi. Nay tôi đã làm tròn lời khấn nguyện là đưa những kẻ thủ ác ra trước công lý. Việc còn lại là của quý Tòa, những người cầm cân nảy mực. Tôi không có ý định đòi mạng vì cho dù một người hay bao nhiêu người nữa trong số họ chết đi thì cũng không thể nào bù đắp được những mất mát lớn lao của tôi, không thể mang trả lại chồng, con và cháu cho tôi.
                            Mọi người tham dự phiên tòa vỗ tay.
                            Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử kết luận cả ba bị can Phan Nhật Tân, Phan Văn Khánh và Phan Công Dân đều can tội cố ý giết người và cướp tài sản riêng của công dân.
                            Chánh án Nguyễn Thành Vĩnh đã nghiêm khắc tuyên án tử hình đối với Tân và Khánh, còn Dân lãnh án 18 năm tù giam, thời hạn thụ hình kể từ ngày tạm giam. (Trích sao Bản án hình)
                            Kết thúc vụ án, tôi an lòng mình đã thực hiện đúng theo lời khấn nguyện, tuy đôi lúc không khỏi băn khoăn ray rứt về việc góp phần đưa hai mạng người chịu án tử hình. Bằng hữu cũng như quý thầy đều an ủi và khuyên giải rằng việc tôi làm không có gì sai trái. Sau khi thủ phạm bị tử hình, tôi đã tiến hành lễ tụng kinh cầu siêu cho họ.
                            Mấy hôm sau ngày phiên tòa kết thúc, khi tôi đang ở nhà thì có hai người tự giới thiệu là người của Sở ngoại vụ muốn gặp tôi. Các anh nói rằng có một nhà báo nước ngoài biết được câu chuyện bi thương của tôi nên muốn tìm hiểu thêm. Trên đường đi tới khách sạnh Caravelle, một anh mặc đồ công an lãnh nhiệm vụ thông dịch nói chuyện vui vẻ, nhân tiện hỏi han về lý do tại sao tôi thoát chết. Khi tôi trả lời tôi tin tưởng đó là do Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn đã giúp tôi thì anh dặn dò: “Khi gặp nhà báo chị nên nói đã tự lực cứu mình chứ người phương Tây không tin vào phép lạ đâu”. Tôi lặng thinh không trả lời. Anh Công an thứ hai cũng nói với tôi: “Chúng tôi cũng lấy làm lạ về việc một người phụ nữ trông có vẻ yếu ớt như chị lại chứng kiến cảnh chồng con chết thảm thương trước mắt, giờ này đáng lẽ điên loạn rồi, chứ đâu phải vẫn tỉnh táo rồi còn cộng tác với Nhà nước một cách tích cực như thế này?”
                            Chờ gặp tôi là một nhà báo của Cộng hòa Dân chủ Đức, qua người thông dịch anh cho biết sau khi tình cờ biết được câu chuyện thương tâm của tôi, anh muốn tìm hiểu để viết thành truyện và dựng một phim tư liệu. Anh đã đến nhà giam gặp Dân phỏng vấn và nay yêu cầu được gặp tôi tìm hiểu cặn kẽ hơn.
                            Sau khi nghe tôi thuật ngọn ngành câu chuyện, anh nhà báo nhận xét rằng bản thân anh là người nhái mà cũng không thể bơi vượt quãng đường biển 80 cây số giữa đêm tối trong suốt bảy tiếng đồng hồ, huống chi tôi lại là một phụ nữ mảnh mai yếu đuối với hai bàn tay trắng, không có phao an toàn hay một mảnh ván nhỏ bảo vệ!
                            (Theo biên bản của công an, nơi tôi bị ném xuống cách đất liền 10 cây số ở vùng biển Ba Động thuộc tỉnh Trà Vinh, còn nơi vớt lên là vùng biển Ba Tri của tỉnh Bến Tre cũng cách đất liền khoảng 10 cây số. Khoảng cách hai nơi này là 100 cây số, do vậy coi như trong đêm đó tôi đã bơi qua đoạn đường biển khoảng 80 cây số.)
                            Anh nhà báo nhấn mạnh rằng đây là chuyện khó tin vì sức người không làm được. Tôi đồng ý với nhận định của anh và nói rằng tôi tin đó chính là phép lạ. Anh công an lặng thinh không dịch câu này nên tôi đánh liều gom hết chút vốn liếng tiếng Anh của mình để nói trực tiếp với nhà báo: “Tôi tin Phật, tôi đã cầu nguyện và chính Bồ Tát Quán Thế Âm đã cứu tôi”.
                            Tôi không biết liệu anh nhà báo nước ngoài có tin điều tôi nói hay không nhưng riêng mình thì tôi không bao giờ hoài nghi điều này.
                            Tôi xin được nhận ông Năm, ân nhân đã cứu mạng tôi, làm cha nuôi. Ông cũng hết lòng thương yêu tôi như con gái, các con ông kêu tôi bằng chị Hai. Tôi luôn tìm cách thu xếp xuống thăm gia đình cha nuôi, ngược lại mỗi dịp lên thành phố ông đều ghé thăm tôi, lần nào cũng cất công mang theo quà Ba Tri cho con gái. Khi ông qua đời vào tháng 9 năm 1998 (Mậu Dần), tôi vội vàng xuống phụ lo ma chay và xin được chịu tang như cha ruột của mình. Ngày đưa linh cửu ra mộ phần, một lần nữa tôi thì thầm cám ơn ông đã cứu mạng tôi trong đêm kinh hoàng gần hai chục năm về trước. Cho đến nay tôi vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với gia đình ông như trước.
                            Mẹ tôi thì kể từ năm 1995 đã không còn ở dưới quê Long Xuyên mà lên Long Thành ở tại một cái cốc nhỏ, hàng ngày tụng kinh gõ mõ cho đến ngày bà qua đời vào tháng Chạp năm Mậu Dần 1998.
                            Sau ngày Tân bị bắt, tôi đi làm việc trở lại tại Sở Điện lực. Ngày đầu tiên đi làm, mọi người vui vẻ chào đón khiến tôi thấy lòng ấm áp. Khi nghe tôi kể lể ngọn ngành câu chuyện đã qua, mọi người đều xúc động và rất nhiều người rơi lệ. Tôi tiếp tục làm việc tại đây cho tới ngày nghỉ hưu vào đầu năm 1996.
                            Mọi người trong gia đình khuyên tôi nên bán ngôi nhà của vợ chồng để nhanh chóng quên đi những ám ảnh nhưng tôi vẫn không nỡ. Vì vậy tôi vẫn ở lại ngôi nhà cũ, ra vào với những kỷ niệm, hình bóng chồng con còn in dấu khắp nơi. Mãi đến năm 2000 tôi mới bán nhà, về vùng Cát Lái mua đất cất ngôi nhà nhỏ gần chùa Thường Chiếu – chùa của em tôi – để tiện việc lui tới tu tập hàng ngày.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:23:25 bởi lishiyuan >
                            #14
                              lishiyuan 07.05.2008 13:44:56 (permalink)
                              0
                              NƯƠNG TỰA MINH SƯ

                              Trong thời gian công an điều tra vụ án, tôi về nhà lòng ray rứt vương vấn mãi về thân xác của đứa con bé bỏng đang nằm cô độc ở bãi cát hoang vắng không làng mạc. Xót xa hơn nữa là xác con chôn không hòm không chiếu, lại gần sát mé biển rất dễ bị sóng cuốn trôi đi. Tôi quyết ý trở lại Hàm Vũng cải táng cho con. Đầu tiên tôi định sẽ đem chôn con lên gò đất con hơn, nhưng nghĩ lại nơi đó xa xôi quá khó khăn cho việc thăm viếng sau này. Lúc bấy giờ Sài Gòn đang triển khai việc giải tỏa các nghĩa trang trong thành phố nên không thể nghĩ đến việc tìm đất chôn, cuối cùng tôi quyết định đem xác con về thiêu rồi gửi hũ cốt tại chùa. Tôi đi đặt tấm một bia và đến Sở Công an trình bày ý định xin cải táng con và hoàn cảnh khó khăn hiện nay của mình. Anh công an phụ trách vụ án hoàn toàn thông cảm và hứa giúp đỡ tôi thực hiện nguyện vọng của mình. Anh bàn:
                              - Đúng rồi, chị nên đem cháu về đây cho đỡ hiu quạnh. Tuy nhiên, chuyển bằng hòm quách có phần bất tiện, chị nên đem theo vật gì gọn gàng đựng xác của cháu. Chúng tôi sẽ cấp giấy tờ và cử người theo chị xuống đó để giúp đỡ cho việc lấy xác cháu dễ dàng.
                              Tôi hết sức mừng rỡ và vô cùng cảm động về sự giúp đỡ nhiệt tình của công an. Tôi về nhà chuẩn bị bao ny lông, một va ly nhỏ đựng xác và bánh kẹo để cúng. Sáng hôm sau xe của công an đến đón tôi xuống Bến Tre. Tôi thuê chỗ trọ, chờ suốt cả hai tuần lễ mà không có tàu nên phải trở về thành phố.
                              Tôi phải xin một giấy giới thiệu khác của Sở Công an Thành phố để trở xuống Bến Tre, lần này đi cùng với vợ chồng người chị chồng (cha mẹ của cháu Cúc). Chúng tôi đến trụ sở Công an Bến Tre, trình giấy giới thiệu của Sở Công an Thành phố và được phép ở lại nơi này một đêm.
                              Giữa khuya một người công an đưa chúng tôi đi tàu đến Bình Đại, lên bờ đi bộ mười cây số tới trụ sở Công an Bình Đại là đã xế chiều. Mọi người ăn cơm chiều, nghỉ ngơi chợp mắt một chút chờ tới khuya xuống tàu đến Vàm Vũng vừa lúc trời rạng sáng. Tại đây công an biên phòng cử thêm mấy người cùng đi đến chỗ chôn con tôi. Chúng tôi bày bánh kẹo nhang đèn cúng kiến xong thì bắt đầu việc cải táng. Ngày hôm đó vừa đúng 100 ngày con tôi qua đời.
                              Nhìn những gì còn lại của con, lòng tôi đau như ngàn mũi kim châm. Tôi hết sức kiềm chế những giọt nước mắt tuôn lã chã cố gắng nhìn cho rõ, thu nhặt hết sức kỹ lưỡng để không bỏ sót chút gì. Tôi cẩn thận lượm từng đốt lóng tay, từng khúc xương nhỏ của con, phủi sạch cát cho vào bao ny lông gói kỹ lại và cho vào va ly, còn quần áo thì đem ra biển giặt sạch. Trước đó mọi người đều nói rằng xác mới chôn sẽ rất hôi, thế nhưng trong thực tế khi đào lên không hề có mùi hôi.
                              Đến trưa chúng tôi trở về làng ăn cơm xong lên đường về Bình Đại. Công an địa phương nơi đây nhiệt tình cho xe đưa chúng tôi về thành phố. Tôi mang xác con đến An Dưỡng Địa Phú Lâm là lò thiêu của chùa Huệ Nghiêm. Thầy Nguyên Bình trong Ban quản trị lò thiêu thắc mắc:
                              - Cháu còn nhỏ mà chết đâu xa xôi tận miệt dưới?
                              Tôi kể sơ lược câu chuyện của mình, anh rể tôi nhận xét:
                              - Sao kỳ quá, tôi xách va ly từ dưới đó lên đây nhẹ hẫng. Vậy mà bây giờ tự nhiên sao nó nặng quá chừng!
                              Tất cả chúng tôi cùng đứng trước lò thiêu, tôi nhìn lửa cháy bừng chung quanh chiếc va ly mà ngậm ngùi khóc:
                              - Hồi còn sống, con thường nói sau này mẹ chết Nguyên không đem thiêu đâu vì nóng lắm. Thế mà giờ đây mẹ lại đem con đi thiêu!
                              Sáng hôm sau tôi đến nhận tro cho vào hũ cốt đưa vào tháp Bao Đồng của chùa Huệ Nghiêm. Thầy Nguyên Bình nói với tôi:
                              - Cô ơi! Tôi có kể chuyện cô cho Thượng tọa Thích Bửu Huệ nghe. Cô lên gặp Thượng tọa một chút.
                              Thượng Tọa Thích Bửu Huệ trụ trì chùa Huệ Nghiêm vốn là Phó viện trưởng Viện Đại học Phật học Huệ Nghiêm. Khi tôi lên chào, Thượng tọa hiền lành nhìn tôi với cặp mắt thương cảm và ân cần hỏi:
                              - Con có chụp hình lúc cải táng cháu bé không? Con hãy kể lại cho thầy nghe đầu đuôi sự việc ra sao?
                              Vết thương chưa lành sẹo lại thêm một lần rỉ máu, tôi nghẹn ngào kể lại chuyện mình. Thượng tọa chăm chú lắng nghe và xúc động rơi nước mắt. Khi tôi kể xong, Thượng tọa nói:
                              - Câu chuyện của con thật hy hữu, thầy chưa từng nghe câu chuyện nào đau thương đến như thế.
                              Thượng tọa Thích Bửu Huệ sẵn lòng thu nhận tôi làm đệ tử và cải pháp danh tôi là Huệ Trí. Đây là một cơ duyên lớn lao cho tôi, vì lúc bấy giờ tôi hoàn toàn suy sụp tinh thần, chỉ tâm niệm một điều, hoàn thành cho xong lời khấn nguyện giữa biển khơi rồi sau đó sẽ tự hủy mình.
                              Nhưng không ngờ trong giây phút đen tối của cuộc đời, tôi lại được gặp minh sư, nhờ đó mà đã chuyển hóa đời sống nội tâm rất nhiều. Năm đó Thượng tọa đã gần 70, từ trước đến nay từng thu nhận hàng ngàn đệ tử nhưng riêng đối với tôi Thầy có một sự quan tâm đặc biệt và nói rằng:
                              - Con là đệ tử sau cùng và là người mà Thầy tự coi có bổn phận chăm lo nhiều nhất. Bao nhiêu công đức tu tập của Thầy xin chia xẻ phân nửa cho con và phát nguyện cầu Bồ Tát Quán Thế Âm phù hộ cho con.
                              Một tình cờ trùng hợp mà tôi không giải thích được, đó là chỉ hai tháng sau ngày phát nguyện thì Thượng tọa Thích Bửu Huệ bị tai biến mạch máu não và kể từ đó bị bán thân bất toại.
                              Tôi vẫn thường xuyên lui tới nghe Thầy giảng đạo, nương theo sự hướng dẫn của bật thiện tri thức. Trả lời cho thắc mắc của tôi: “Vì sao tôi suốt đời luôn sống trong sự bình dị, cố gắng tu thân giữ mình mà nay lại gặp nạn kiếp lớn lao như thế này?”, Thầy đã phân tích rằng:
                              - “Nếu đây là nghiệp chướng con mang vào thân thì có lẽ giờ này con không giữ được sự minh mẫn mà đã trở thành một người điên loạn, chịu sự cười chê xa lánh của thiên hạ. Sau nạn kiếp khủng khiếp như vậy mà con vẫn được bình an sáng suốt, có thể nói đó là một ơn phước mà con được nhận để làm sáng danh Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm.”
                              Tôi đến với Thầy không mang mục đích cầu xin điều gì, bỗng nhiên được một vị chân tu thành tâm phát nguyện cầu an cho mình. Đó là một ơn rất lớn. Tôi tin tưởng rằng sự thành tâm không vị ngã mà lợi tha đó luôn luôn được mười phương chư Phật chứng giám.
                              Những lời dạy bảo của Thầy khiến tôi được bình tâm, không còn quá não lòng bi ai than trách cho số phận mình. Sau một thời gian tu tập, giữ gìn thân, khẩu, ý, theo lời dạy của Thầy, tôi cảm thấy tĩnh tâm, ổn định tư tưởng. Thầy cũng dặn dò tôi:
                              - “Sau khi vượt qua bao nhiêu đau khổ đoạn trường, cuộc đời con giờ đây như hạt kim cương chiếu sáng lấp lánh. Con phải luôn luôn kiên trì giữ mình, sống cuộc đời đức độ để đừng cho góc cạnh nào của viên kim cương ấy bị mờ đục.”
                              Năm 1985, Hòa Thượng Thích Bửu Huệ viên tịch để lại biết bao tiếc thương cho chúng đệ tử đã từng được Thầy dìu dắt đi trên con đường tìm tới Chân Thiện Mỹ, thế thế thường hành Bồ tát đạo.
                              Sau khi Thầy Bửu Huệ viên tịch, tôi tìm đến chùa Trúc Lâm bạch cùng Hòa thượng Thanh Từ xin được nương tựa đạo tràng của người. Hòa thượng Thanh Từ vốn là anh em đồng môn với thầy Bửu Huệ nên sẵn lòng thu nhận tôi, cho giữ nguyên pháp danh và chỉ đặt thêm chữ Chơn, vì vậy pháp danh của tôi là Chơn Huệ Trí.
                              Cho tới ngày nghỉ hưu, do ít có điều kiện lên Đà Lạt để được Hòa Thượng chỉ dạy nên tôi thường đi chùa Ấn Quang và chùa Xá Lợi gần nhà, nghe Hòa thượng Thích Trí Quảng thuyết pháp. Sau đó tôi xin y chỉ với Hòa thượng Thích Trí Quảng, được Thầy đặt pháp danh là Hoa Trí vào năm 1996.
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2008 13:25:08 bởi lishiyuan >
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 22 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9