Động đình hồ ngoại sử (từ chương 21)
CDDLT 22.12.2004 17:44:47 (permalink)
HỒI THỨ 21

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

(Chinh phụ ngâm khúc)



Trần Tự-Sơn, Đào Kỳ, Đô Dương… đến chỗ trú của anh hùng Lĩnh Nam ở cửa Đông thành thì không thấy một người nào ở đây nữa. Chủ nhà cho biết khi trước đó mấy giờ, Phương-Dung trở về, đốc xuất mọi người vượt thành ra ngoài. Nàng để lại một bức thư. Đào Kỳ lấy bóc ra, trong thư vỏn vẹn có mấy chữ:

Trần đại ca nên mang Khất đại phu, Chu sư bá, Đô đại ca và Đào tam lang đi Lạc-dương cứu nhũ mẫu, nhất là phải áp bức Mã Thái-hậu đưa thuốc giải để cứu Tiên-yên nữ hiệp. Mọi việc ở đây tiểu muội xin lo liệu hết.

Khất đại phu nói:

– Con bé Phương-Dung ước tính như vậy là phải. Về võ công, lão với Đào tiểu hữu đủ sức đấu với các võ sĩ cấm quân Lạc-dương. Về lý thì Lĩnh-nam vương với Hàn Thái-hậu tình nghĩa mẹ con thâm trọng, thì nên đích thân đi. Còn Đô, Chu thì thuộc đường lối trong thành. Thôi chúng ta lên đường.

Nguyên sau khi cứu Trần Tự-Sơn ra khỏi nhà ngục, Khất đại phu, Đô Dương, Chu Bá đánh nhau một trận trời long đất lở với cấm quân, thoát đến điện Vị-ương. Phương-Dung nảy ra ý cho Trần Tự-Sơn giáp mặt với Quang-Vũ, gọi là ân đoạn nghĩa tuyệt, để Vương có thể nhất tâm, nhất trí lo phục hồi Lĩnh Nam. Vì hơn ai hết, Phương-Dung biết Tự-Sơn là người tình cảm. Giữa Vương với Quang-Vũ không phải một ngày, đôi tháng mà tuyệt tình được. Nay nếu đưa Vương ra ngoài thành cầm quân, Vương không thể thẳng tay với Quang-Vũ, thì chi bằng trong lúc Vương đang phẫn hận, để Vương gặp Quang-Vũ tuyệt tình với y, thì mới mong Vương dứt khoát với Hán.

Sau khi Tự-Sơn kể hết những xấu xa bỉ ổi của Quang-Vũ trước mặt quần thần, Vương gọi tên tục Cảnh-Thủy hoàng đế là Lưu Huyền, gọi tên tục Quang-Vũ là Lưu Tú. Đô Dương mạ lỵ Quang-Vũ bằng lời lẽ nặng nề, như vậy Tự-Sơn không còn liên hệ với Hán nữa. Trong khi Đô Dương kinh nghiệm về quân tình nhà Hán. Chàng lại cầm quân lâu, nên đưa ra ý định khi rời thành Trường-an, phải đánh Quang-Vũ một trận trời long đất lở, để y biết mặt anh hùng Lĩnh Nam. Phương-Dung ước tính rằng Trần Tự-Sơn với Quang-Vũ tình nghĩa quá thâm trọng, không dễ gì một ngày trở mặt với nhau được. Lại nữa, các quan văn võ triều Hán đều không ít thì nhiều liên hệ với Vương, mà bảo Vương dùng quân Thục đánh nhau với họ, không thể nào được. Vậy muốn thực hiện trận đánh, Phưong-Dung tìm cách cho Tự-Sơn vắng mặt. Trận đánh Trường-an là trận then chốt, sau trận này, anh hùng Lĩnh Nam rời Trung-nguyên, trở về đánh đuổi quân Hán phục quốc.

Phương-Dung cùng Tiên-yên nữ-hiệp, Trần Công-Minh vượt thành, gặp quân Thục đang đi tuần. Viên lữ-trưởng nhận ra Phương-Dung vội đón về doanh trại.

Trong doanh trại Thục, anh hùng Thiên-sơn, Lĩnh Nam tụ tập đông đủ. Họ thấy Phương-Dung trở về với một số người lạ mặt thì ngơ ngác không hiểu. Đầu tiên Mai-động ngũ hùng Nguyễn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đến trước mặt Tiên-yên nữ hiệp, Trần Công-Minh, Đặng Đường-Hoàn phủ phục xuống hành lễ, vấn an sư bá, sư thúc. Các tướng Thục biết ba người này địa vị không nhỏ. Họ lại thấy Cao Cảnh-Sơn cùng hai con đến trước mặt Cao Cảnh-Minh thụp xuống làm lễ kêu bằng sư thúc, thì biết đây là những cao nhân mới từ Lĩnh Nam tới.

Bỗng Tiên-yên nữ hiệp kêu lên một tiếng, ái chà rồi loạng choạng muốn ngã. Phương-Dung đỡ bà dậy, mặt bà khi xanh, khi đỏ, mồ hôi vã ra, tay chân lạnh toát. Nàng đưa bà vào trong trướng đặt lên giường. Hơi thở của bà rất yếu, chỉ còn thoi thóp. Tuy nhiên bà là người cương cường can đảm, dù đau đến chết bà cũng không lên tiếng, song độc tố Huyền-âm của Trần Lữ hành hạ, khiến người bà run lập cập, mặt tái nhợt, tỏ ra đau đớn vô cùng. Các anh hùng Lĩnh Nam đều lắc đầu nhìn bà ngao ngán không biết làm sao.

Đêm hôm trước Khất đại-phu đã nói, trúng chưởng này không có thuốc nào chữa được. Khi bất cứ ai bị trúng nọc độc Huyền-âm thì cứ cách ngày lên cơn một lần, cho đến khi nào trong người kiệt lực không còn sức chống bệnh nữa, sẽ chết như ngọn đèn hết dầu. Phương-Dung kể chuyện cho mọi người nghe, Tạ Thanh-Minh với Trần Lữ bị Đào Kỳ dùng nội công đẩy chất độc Huyền-âm trở lại người, bọn chúng cũng chịu chết mà không có thuốc giải. Bây giờ chỉ hy vọng Khất đại-phu, Trần Tự-Sơn, Đào Kỳ áp chế Mã Thái-hậu đoạt thuốc giải kịp thời cứu bà mà thôi.

Một lát Tiên-yên nữ hiệp mệt quá ngủ thiếp đi. Hoàng Thiều-Hoa ra lệnh đánh trống, họp các tướng. Bên Thục cao nhất là Thái-tử Công-tôn Tư, bởi chàng lãnh chức Đại Tư-mã quyền chưởng quản toàn bộ quân sĩ trong tay. Tuy nhiên về vai vế trong phái Thiên-sơn, trên chàng còn có Tề-vương Tạ Phong, Lũng-tây vương Triệu Khuôn, Phiêu-kỵ đại-tướng quân Nhiệm Mãng, là vai sư phụ, sư thúc, nên chàng để họ ngồi hai bên, sau đó tới tám đại-tướng Thục và năm đại-tướng Hán mới hàng, theo thứ tự ngồi xuống. Phía Lĩnh Nam Hoàng Thiều-Hoa là Vương-phi Lĩnh-nam vương cầm quyền Đại tướng-quân ngồi cao nhất. Nàng để các vị Trần Công-Minh, Đặng Đường-Hoàn, Cao Cảnh-Minh, Cao Cảnh-Sơn, Đinh Công-Thắng, Lương Hồng-Châu ngồi ngang hàng. Còn các anh hùng khác theo thứ tự ngồi xuống. Thấp nhất là Tây-vu Thiên-ưng Lục-tướng, Tây-vu Lục-hầu tướng.

Đây là lần hội họp đông đủ anh hùng nhất kể từ khi rời Lĩnh Nam. Lục Sún thấy mình được ngồi ngang hàng với các vị sư bá, sư thúc Việt, lại thấy mình được trọng vọng như các đại tướng Thục, chúng vênh mặt, ưỡn ngực lên, ngồi nghiêm chỉnh đạo mạo chưa từng thấy!

Thái-tử Công-tôn Tư lên tiếng:

– Thưa các vị anh hùng Lĩnh Nam. Nhờ ân đức của Lĩnh-nam lão tiên, Thiên-sơn lão tiên mà chúng ta đang từ thế đối nghịch, trở thành anh em. Đúng như các vị ước tính, các vị chỉ trở tay một cái mà đã trả hết thành trì đã mất về cho chúng tôi. Chúng tôi còn được thêm đất Hán-trung. Ba đạo quân của chúng ta tới Trường-an đúng như dự liệu. Ta lại chiếm được vùng Phù-phong, thu được năm chục ngàn quân Hán đầu hàng. Bây giờ, trước mắt, chúng ta sẽ đánh chiếm Trường-an, Vị-nam, Lâm-đồng và Đồng-quan.

Anh hùng Lĩnh Nam và các tướng sĩ vỗ tay rung động doanh trướng.

Phương-Dung tiếp:

– Theo các nơi báo cáo thì đạo Kinh-châu và Trường-sa vương Công-tôn Thiệu cùng Trưng Nhị đã chiếm xong chín quận Kinh-châu, hai quận cuối cùng là Trường-sa, Linh-lăng đã thuộc về Lĩnh Nam, đại quân đạo Kinh-châu đang trên đường về đánh Nam-dương chĩa thẳng vào Lạc-dương. Vậy chúng ta cần đánh một trận long trời lở đất, cho quân Hán rúng động mất hết tinh thần, song hiện Quang-Vũ có mặt tại đây cùng với Tần-vương, Hoài-nam vương và các đại tướng-quân danh tiếng Ngô Hán, Đặng Vũ, muốn thắng Hán trong một trận, chúng ta phải chấp nhận hy sinh.

Phưong-Dung thuật hết mọi chuyện đi cứu Trần Tự-Sơn, từ việc Giao-Chi thuyết được Đô Dương về hàng, đến việc gặp Tiên-yên nữ hiệp đánh nhau với Mã Viện trong đêm. Đến chỗ Tiên-yên, Đào Kỳ vào Trường-lạc cung dọa Quang-Vũ té đái vãi phân ra quần, anh hùng Việt, Thục đều vỗ tay cười vang dội cả hội trường. Rồi nàng thuật tiếp việc cứu Trần Tự-Sơn đến việc Tự-Sơn chửi Quang-Vũ. Đào Kỳ đánh bại hết cao thủ trước điện Vị-ương. Hiện Tự-Sơn, Khất đại-phu, Đào Kỳ, Đô Dương, Chu Bá đang trên đường đi Lạc-dương cứu Hàn Tú-Anh.

Nguyễn Giao-Chi nói:

– Đạo Kinh-châu có Tương-dương cửu hùng vô địch thiên hạ, thì Sầm Bành, Cảnh Yểm, Tế Tuân đã bị giết, đạo Hán-trung có Phùng Dị, Lưu Thương, Lai Háp cả ba cũng bị giết, cộng là sáu, như vậy từ nay cái tên Tương-dương cửu hùng, Côn-dương ngũ hổ không còn nữa.

Sún Rỗ hỏi:

– Bây giờ chúng ta đánh Trường-an phải không?

Sún Lé hỏi Công-tôn Tư:

– Sư huynh để chúng tôi đột nhập Trường-an cho chim ưng ăn thịt Quang-Vũ, khỏi mất công đánh.

Phương-Dung lắc đầu:

– Không! Chúng ta không bắt Quang-Vũ, cũng không giết hắn.

Sún Lé bất phục:

– Quang-Vũ là chúa tướng Hán, bắt y, Hán như rắn mất đầu. Chúng ta tiến về Lạc-dương, chia đôi thiên hạ với Thục, sư bá Công-tôn Thuật làm Hoàng-đế một nửa Trung-nguyên, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa làm Hoàng-đế một nửa còn lại, bọn em làm Thiên-ưng đại tướng-quân.

Các tướng sĩ nghe Sún Lé đều cười ồ lên, nhưng họ nhận thấy Sún Lé rất chí lý.

Phưong-Dung nói:

– Em biết một mà không biết hai, chúng ta hiện chưa đủ lương thực, quân sĩ chiếm Trung-nguyên, chúng ta hãy chiếm Quan-trung, giao cho Thục để làm tiêu tan chí khí Quang-Vũ mà thôi. Để sau đó Thục chỉnh bị quân mã rồi mới mưu đồ chiếm Trung-nguyên, chúng ta đánh Quang-Vũ mở đường cho y chạy, vì hiện y đang bị quần thần coi thường, trong cung mẫu tử bất hòa, giết y đi ắt Hoài-nam vương lên thay, Hán sẽ có ông vua hiệp nghĩa, dân chúng qui phục, chúng ta không đánh được.

Sún Cao hỏi Công-tôn Tư:

– Công-tôn sư huynh, đất Trường-an có phải đất Tần không?

Thái-tử Công-tôn Tư có tài vương bá, chàng liếc mắt một cái nhận biết từng loại người một ngay, từ hôm đi cùng Lục Sún từ Hán-trung ra đây, chàng nhận thấy Lục Sún là những đứa trẻ thông minh, biết phân biệt chính tà, vì vậy chúng dám cãi lệnh Trưng Nhị tha Công-tôn Thiệu, mở đầu cho việc hòa hợp Lĩnh Nam với Thục, y nghe Sún Cao hỏi vậy liền đáp với một giọng ôn tồn:

– Đúng đấy, phía Bắc Trường-an là Hàm-dương, kinh đô cũ của nhà Tần.

Sún Cao tiếp:

– Quang-Vũ là người, chúng ta cũng là người, Quang-Vũ muốn làm vua cả Trung-nguyên, Lĩnh Nam, Thục tại sao chúng ta không làm vua Trung-nguyên được ? Theo ý em mình đánh Trường-an, bắt Quang-Vũ giết đi, cắt đất Trường-an phong cho Tần-vương Điền Sầm, không lẽ Công-tôn sư bá phong cho Điền sư thúc chức Tần-vương mà không được cai trị đất Tần ư ?

Sún Đen tiếp:

– Vậy thì phải cắt đất Lạc-dương phong cho Tạ sư thúc, vì sư thúc được phong Tề-vương.

Sún Lùn tiếp:

– Thế từ Thiên-thủy về phía Tây cắt phong cho sư thúc Triệu Khuôn, vì sư thúc được phong vùng Lũng-tây vương.

Đến đó nó reo lên sung sướng:

– Đúng rồi, sư huynh Công-tôn Thiệu được phong làm Trường-sa vương, hiện giờ đã trấn thủ Trường-sa rồi.

Sún Lé nói với Thiều-Hoa:

– Vậy mình cứ thế mà làm, chúng ta chỉ giơ tay ắt giết được Quang-Vũ, giết tên bất hiếu. Diệt nhà Hán, cắt Trung-nguyên làm hai, Thục một nửa, Lĩnh Nam một nửa. Em đề nghị thế này: Sư bá Lại Thế-Cường làm Nhật-nam vương, sư bá Đào Thế-Kiệt làm Cửu-chân vương, sư-tỷ Trưng Trắc làm Giao-chỉ vương, Sư-bá Nam-hải làm Nam-hải vương, sư-tỷ Trưng Nhị làm Tượng-quận vương, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa làm Quế-lâm vương, Nghiêm đại-ca làm Hoàng-đế. Những đất đai cắt được ở Trung Nguyên, phong cho các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ khác.

Công-tôn Tư hỏi:

– Thế Lục Sún muốn được phong gì nào ?

Lục Sún đang thao thao bất tuyệt, nghe Công-tôn Tư hỏi vậy thì ngẩn người ra, Sún Hô nói:

– Chúng em trở về Tây-vu làm Thiên-ưng Tây-vu lục tướng rồi đi từ Nam tới Bắc, từ Đông sang Tây, xử tử tất cả những tên lừa thầy phản bạn, bất hiếu, bất nghĩa.

Hoàng Thiều-Hoa hiểu nhiều tâm lý trẻ, nàng không muốn quát Lục Sún im lặng như Hồ Đề, Phương-Dung, vì nếu quát chúng chỗ đông người, chúng làm việc khó lường được, như thả Công-tôn Thiệu, nàng ôn tồn nói:

– Nếu thế chị sẽ phong cho các em trấn thủ thành Bạch-đế, mỗi ngày đọc một ngàn tờ phúc trình.

Lục Sún nghe đọc một ngàn tờ phúc trình thì ớn da gà, vì chúng nó không biết chữ, chúng tiu nghỉu ngồi im.

Công-tôn Tư bàn:

– Quang-Vũ mang theo hai chục vạn quân, cộng với mười vạn quân Trường-an là 30 vạn, y mất 5 vạn ở Phù-thành về hàng Thục, như vậy hai bên quân số bằng nhau, vậy chúng ta phải làm thế nào ?

Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh nói:

– Hiện ở Trường-an chỉ có bốn đại tướng giỏi, một là Hoài-nam vương, hai làTần-vương, ba là Ngô Hán, bốn là Mã Viện. Cần đánh gấp nếu không Quang-Vũ gọi các tướng trấn thủ Vị-nam, Lâm-đồng, Đồng-quan về cứu thì khó khăn lắm.

Hoàng Thiều Hoa nói với Công Tôn Tư:

– Chúng ta để Phương-Dung điều động quân mã.

Công-tôn Tư hai tay nâng ấn kiếm trao cho Phương-Dung, Phương-Dung thăng trướng nói:

– Bây giờ chúng ta cần đuổi Quang-Vũ khỏi Trường-an, vậy nỗ lực chính đánh Trường-an, nỗ lực phụ đánh Vị-nam, Lâm-đồng, Đồng-quan. Bàn về quân ngang nhau, nhưng về tướng chúng ta hơn quân địch gấp bội. Bên Hán có các cao thủ Hoài-nam vương, Ngô Lương, Ngũ-phương thần-kiếm, Tương-dương lục hùng hiện đều ở cả Trường-an, chúng ta chỉ có Tần-vương, Tề-vương, Lũng-tây vương và tôi địch lại họ. Chỉ ngặt một điều phía bên họ những mười ba người, ta có bốn người, ta lợi dụng họ tập trung một chỗ mình phân tán đi đánh các nơi khác không có cao thủ trước, các nơi khác mất Trường-an lâm nguy.

Đoạn nàng cầm binh phù đứng dâïy nói với Triệu Khuôn:

– Lũng-tây vương trí dũng vẹn toàn, lĩnh năm vạn quân đánh Vị-nam, tại Vị-nam Hán có năm vạn quân, nhưng không có tướng giỏi, hẳn Quang-Vũ ra lệnh cố thủ không đánh, vậy Triệu vương-gia thống lĩnh các tướng Hán, mới qui phục Vương Hữu-Bằng, Lý Thái-Hiền, Chu Á-Dũng, Ngô Triệu, Phan Đức, cùng chư vị anh hùng Lĩnh Nam Nguyễn Giao-Chi, Trần Quốc, Mai-động ngũ-hùng, đội Giao-long Mai-động, nội đêm nay lên đường, làm sao trưa mai lấy được thành. Sau khi lấy thành, chất củi, cỏ, đốt cho khói lên mịt mù làm loạn lòng quân Trường-an Vương Hữu-Bằng hỏi:

– Đào quân-sư, xin Quân-sư xét lại, thành Vị-nam hiểm trở có sông lớn chảy qua, quân trong thành bằng chúng tôi, làm sao chúng tôi chiếm ngay trong một ngày?

Triệu Khuôn cười:

– Trấn-bắc tướng quân Đô-đình hầu lầm rồi, chính vì có sông Vị-nam chảy qua mà chúng ta vào được thành.

Ông chỉ Giao-Chi, Giao-long nữ nói:

– Dù cá Kình cũng thua các vị này, chỗ chứa lưong thảo của thành Vị-nam đặt bên nhánh sông nhỏ, chúng ta cùng đợi Kình-ngư Lĩnh Nam lặn theo sông, đốt cháy lương thảo, giết quân canh, mở cổng. Giữa đêm chúng ta tràn vào lấy thành như trở bàn tay, chúng ta đánh úp, chớ có công thành đâu mà cần đông quân.

Vương Hữu-Bằng chợt hiểu ra, gật đầu cười.

Phương-Dung nói:

– Sau khi chiếm Vị-nam, Triệu-vương chiếm hết các thành phụ dung như: Cao, Lặng, cho một đội cung nỏ phục sẵn trên đường từ Hàm-dương về Trường-an, để quân đóng ở Hàm-dương không về cứu được Trường-an.

Phương-Dung lại lấy binh phù đưa cho Phiêu-kị đại tướng quân Nhiệm Mãng:

– Xin Phiêu-kị đại tướng-quân cùng với tướng Điền Nhung, có sư thúc Lương Hồng-Châu, Đặng Đường-Hoàn trợ giúp, mang ba vạn quân phục trên đường từ Hàm-dương về Trường-an, để ngăn quân Hàm-dương cứu Trường-an. Ngày mai nếu thấy khói bốc lên từ Vị-nam, cũng cho quân đốt lửa lên làm nghi binh, hầu làm loạn lòng Quang-Vũ.

Sau đó nàng cầm binh phù đưa cho Tạ Phong:

– Tề-vương lĩnh các tướng Nhiệm Đăng, Ngụy Đảng, Lữ Vi cùng các anh hùng Lĩnh Nam sư thúc Đinh Công-Thắng, Trần Công-Minh, đem năm vạn quân đánh Lâm-đồng. Khi thấy khói bốc lên ở Vị-nam, cũng đốt lửa làm như chiếm được Lâm-đồng, làm loạn lòng Quang-Vũ.

Đoạn Phương-Dung nói với Công-tôn Tư:

– Trong thành Trường-an, Tần-vương Lưu Nghi mới bị mất tín nhiệm qua vụ Tạ Thanh-Minh, người của Xích Mi trà trộn vào, Mã Viện bị nghi ngờ, chỉ còn Hoài-nam vương với Ngô Hán. Tôi nghĩ Ngô Hán sẽ ở nhà giữ thành, Hoài-nam vương cầm quân, y là người mưu lược, khi chúng ta tiến đánh Quang-Vũ thế nào y cũng cho hai đạo Kỵ-binh đột xuất ra cửa Bắc và Nam đánh vào hông ta, vậy phiền sư bá Cao Cảnh-Minh và Cao Cảnh-Sơn xuất lĩnh hai đội nỏ thần phục ngoài cửa thành, hễ thấy giặc ra dùng thần tiễn bắn lui, mục đích không cho giặc cứu ứng lẫn nhau, sau khi giặc lui, đánh quặt trở lại cửa Tây.

Phương-Dung biết trận này thành hay bại, nhờ lực lượng Tây-vu của Hồ Đề, đám đệ tử Tây-vu là những người chân thật, tính tình giản dị, họ được huấn luyện về phản Hán phục Việt, cho nên đối với họ cứ đem chính nghĩa ra, bảo họ lăn vào chỗ chết họ cũng cam tâm, nàng hỏi:

– Trong khi sư tỷ Hồ Đề không có ở đây, ai là chúa tướng Tây-vu ?

Sún Lé nói:

– Luật lệ ở Tây-vu, khi sư tỷ Hồ Đề vắng mặt người nào lớn tuổi nhất coi như thống lĩnh, ở đây Vi Đại-Khê lão gia làm thống lĩnh.

Phương-Dung gật đầu nói:

– Trận đánh Trường-an là trận lớn nhất, mà chúng ta phải tham dự, song thắng hay bại đều do anh hùng Tây-vu.

Các anh hùng Tây-vu nhìn nhau, mắt đầy hãnh diện, từ hôm theo quân sang Trung-nguyên, họ không còn bị gọi là mọi là mán là Nam-man nữa, họ được ngồi cạnh bậc vương như Trần Tự-Sơn được sống với tiên ông như Khất đại-phu, tự ái của họ thoả mãn, bây giờ Phương-Dung lại bảo thắng hay bại là do họ, họ tự nhận thấy vai trò quan trọng.

Phương-Dung hỏi Hồ Hác:

– Sư đệ mới về Lĩnh Nam trở sang, sư đệ kiểm lại đội Thần-tượng chưa ?

Hồ Hác đáp:

– Dạ! tất cả có hai trăm thớt, chia thành hai tốt, tổng cộng tám lượng, mỗi lượng hai mươi lăm.

Phương Dung hỏi Lục-phong Quận-chúa:

– Các sư muội! Khí hậu lạnh thế này, Thần-phong có dùng được không ?

Hoàng-phong quận-chúa đáp:

– Thưa được, không có gì trở ngại.

Phương-Dung ghé qua tai dặn kỹ càng Lục Sún với Lục-hầu tướng những gì phải làm.

Công-tôn Tư viết chiến thư gửi Quang-Vũ, thách thức y ngày mai ra trước cửa Tây thành quyết chiến một trận, sứ giả đi một lúc trở về trình chiến-thư, quả nhiên trên chiến-thư Hoài-nam vương phê chữ Lai nhật Thìn thời quyết chiến, nghĩa là ngày mai giờ Thìn quyết chiến.

Sáng hôm sau giờ Dần, Phương-Dung thăng trướng nói:

– Tề-vương Tạ Phong chỉ huy Hầu Đơn, Quế-Hoa đi bên phải, có Sún Rỗ, Sún Đen, Hắc-Phong trợ giúp, Tần-vương Điền Sầm đi bên trái với Sử Hùng, Quỳnh-Hoa, Sún Lùn, Sún Hô và Hoàng-Phong trợ giúp. Trung-ương Thái-tử Công-tôn Tư, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa hỗ trợ, có Sún Lé, Sún Cao, Bạch, Xích, Thanh, Hồng-Phong sư muội. Bắc-bình vương Công-tôn Khôi làm Đốc-quân trung-ương, còn Vi lão gia dẫn Tây-vu lục hầu-tướng lĩnh nhiệm vụ đột nhập Trường-an, phóng hỏa khắp nơi.

Giờ Mão quân Thục tiến tới thành Trường-an dàn thành trận thế, trong thành phát pháo, đạo quân thứ nhất xuất hiện, Mã Viện cùng Tương-dương lục-hùng, đối diện cánh trái Thục, một lát đội quân nữa xuất hiện. Do Ngô Lương dẫn đầu cùng Ngũ-phương thần-kiếm đối diện cánh phải của Thục.

Tiếp theo pháo nổ ran, Hoài-nam vương cùng các quan văn võ yểm trợ Quang-Vũ ra trước trận. Hoài-nam vương quan sát trận thế một lúc, rồi nói với Quang-Vũ:

– Thựïc đáng lo ngại, bên Thục binh hùng, tướng mạnh, sao hiện diện ở đây chỉ có bảy tám vạn là cùng, vậy chúng đi đâu ? Thần lo cho Vị-nam, Lâm-đồng, Hàm-dương quá. Còn Nghiêm Sơn, Đào Kỳ, Khất đại-phu, Đô Dương, Chu Bá… và hầu hết các tướng Thục sao không thấy?

Hoài-nam vương là người văn võ kiêm toàn, đánh dư trăm trận, kinh nghiệm nhiều, nhưng ông không hiểu rằng Phương-Dung xuất thân đệ tử phái Long-biên, kiếm pháp cực kỳ phức tạp, những chiêu thức phần lớn là hư, rất ít thực, nhưng đối phương không để ý thì hư thành thực ngay. Hư hư thực thực vốn là sở trường của nàng, nàng biết rõ Hoài-nam vương nên phân tán binh đi các nơi, chỉ để một ít ở Trường-an hầu làm kế nghi binh. Như vậy đạo quân chính ở Trường-an lại biến thành hư, còn các đạo Vị-nam, Hàm-dương, Lâm-đồng mới thực. Nàng ước tính rằng, nếu đem tất cả quân mã đánh Trường-an, ba nơi kia sẽ đưa quân về đây cứu viện, mình tứ bề thọ địch, vì vậy nàng cho gửi chiến-thư, dàn quân làm như đánh Trường-an, trong khi đó đánh úp các nơi. Các nơi kia mất, Trường-an lâm nguy, cho nên vừa mới xuất trận Hoài-nam vương đã cảm thấy nghi ngờ rồi, đạo dùng binh, tối kỵ nghi ngờ, đã nghi ngờ thì không thể thắng nổi.

Hoài-nam vương cầm roi ngựa chỉ sang Thục:

– Công-tôn Tư đâu, mau ra đây yết kiến Thánh-hoàng.

Bên trận Thục, Công-tôn Tư đi song song với Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung phía sau có Sún Lé, Sún Cao, Bạch, Xích, Thanh, Hồng-Phong, so với bên Hán quả là quá ít.

Công-tôn Tư gò ngựa quát:

– Ta là Thái-tử Công-tôn Tư đây, Lưu Tú có điều gì muốn nói với ta thì nói đi ?

Quang-Vũ nói:

– Cha ngươi trước kia được Tiên-đế giao cho quản lĩnh sáu quận, khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, cha ngươi đã không biết đem tấc lòng diệt bạo trừ gian, lại hùng cứ một phương, thế là đạo lý gì vậy? Bây giờ ngươi mang quân phạm Trường-an, tội không nhỏ, ta đây dòng dõi chính thống, phất cờ giết Vương Mãng, thống nhất sơn hà, mệnh trời ở trong tay nhà Hán. Vậy ngươi mau bảo cha ngươi qùi gối xưng thần, cái chức vị phong hầu đã không mất mà lại được tiếng trung thần.

Công-tôn Tư vận khí vào đơn-điền nói thật lớn:

– Các tướng sĩ Hán, Thục hãy nghe đây. Trước đây bạo Tần tàn hại trăm họ, đánh mất con nai, quần hùng thi nhau mà đuổi. Cuối cùng còn Hạng Võ với Lưu Bang. Lưu Bang được tam-kiệt Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín phù trợ mà thành đại nghiệp, chứ có tài gì đâu. Thế rồi khi nghiệp đã thành, Lưu Bang bỏ tù Tiêu Hà, đuổi Trương Lương đi tu, còn Hàn Tín bị giết ba họ, việc làm khiến trời sầu đất thảm. Bởi vậy sau này bị con cháu Vương Mãng cướp ngôi, anh hùng sĩ dân không trung thành với Hán nữa, đó là lẽ đương nhiên không chối cãi được.

Đoạn Công-tôn Tư chỉ vào Hoàng Thiều-Hoa:

– Tổ tiên ngươi sát hại công thần, nghĩa sĩ thiên hạ. Còn mi thì sao ? Đây Lĩnh-nam vương-phi, ta để Vương-phi đối thoại với ngươi.

Từ sau trận Hoàng Thiều-Hoa cỡi ngựa từ từ đi ra, Quang-Vũ và các quan Hán từng nghe Vương-phi đẹp như tiên nữ, võ công hơn đời, nay tận mắt thấy nàng cỡi ngựa tiến ra, đều không khỏi choáng váng cả người. Quang-Vũ suýt xoa nghĩ thầm: Gái Việt đẹp thực, thảo nào xưa kia Ngô Phù-Sai chẳng mất nước vì Tây-Thi với Trịnh Đán, ta đã thấy Tường-Qui đẹp nhu mì như một bông hoa lan, cũng đã thấy cái đẹp mơn mởn của Phương-Dung, bây giờ không ngờ Hoàng Thiều-Hoa còn đẹp gấp bội.

Quang-Vũ vẫy Mã Viện đến gần nói:

– Mã quốc-cửu! Ngươi hãy điều khiển Tương-dương cửu-hùng, bằng mọi gía xông vào trận bắt Hoàng Thiều-Hoa cho trẫm, người đẹp thế kia dù trẫm có đổi giang sơn lấy nàng cũng không tiếc.

Mã Viện biết Quang-Vũ từ lâu, được Quang-Vũ tín nhiệm, mấy hôm nay xảy ra việc Mã bị trúng kế Trưng Nhị mất phân nửa Ích-châu với chín quận Kinh-châu, theo luật nhà Hán phải tội chém cả nhà, nhưng Quang-Vũ nể Mã Viện là cháu Thái-hậu không truy cứu tội, tiếp theo vụ Trần Lữ muốn hành thích Quang-Vũ, rồi Nghiêm Sơn, Đào Kỳ tố giác Mã Thái-hậu định hại mẹ đẻ Quang-Vũ là Hàn Tú-Anh, những việc đó làm cho Mã Viện lo lắng không ít.

Bây giờ Quang-Vũ gọi Mã Viện để thố lộ tâm sự, Mã Viện nắm ngay được việc lập công, y nghĩ: Nếu bắt được Thiều-Hoa, công tuy nhỏ nhưng được lòng Quang-Vũ, thì muốn gì chẳng được.Y vội cung kính tâu với Quang Vũ:

– Thần xin hết sức bắt y thị dâng Hoàng-thượng. Hoàng-thượng muốn bắt sống Hoàng Thiều-Hoa, bên Thục chỉ ngại có Trần Đại-Sinh, Đào Kỳ, Phật-Nguyệt và Phương-Dung, bây giờ bọn chúng không có mặt ở đây, vậy chúng ta chia nhau làm như sau. Hai người cầm chân Phương-Dung, hai người đánh vào phía phải cầm chân Công-tôn Khôi, hai người đánh vào phía trái cầm chân Công-tôn Tư, một người bắt sống Hoàng Thiều-Hoa.

Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ lắc đầu:

– Kim chỉ của Hoàng-thượng thì chúng ta phải làm sao cho được, nhưng e rằng phải hy sinh nhiều quân-sĩ, tướng-quân thử nhìn xem: Trận Thục nghiêm minh như thế kia, chúng ta làm sao xông vào bắt Thiều-Hoa cho nổi ? Đầu tiên, cánh phải, cánh trái tấn công chọc sâu trận Thục, rồi cắt ngang ở giữa. Bấy giờ cho đội Thiết-kị xung vào, chúng ta đi với đội này, gần tới nơi thi hành kế hoạch của tướng-quân mới xong.

Hoàng Thiều-Hoa gò ngựa đứng trước trận, gió xuân thổi nhẹ nhàng, y phục nàng bay phơi phới, tướng sĩ Thục, Hán im lặng phăng phắc, để nhìn một Tiên-nữ giáng trần, Thiều-Hoa hướng Quang-Vũ xá ba cái rồi nói:

– Tiểu muội Hoàng Thiều-Hoa, xin vấn an đại-ca Lưu Tú, trước trận tiểu-muội không hành đại lễ được, mong đại-ca thứ lỗi.

Quang-Vũ ngẩn ngơ một lúc mới lên tiếng:

– Trước đây trẫm nghe nhị đệ thành hôn với một đệ nhất giai nhân Lĩnh Nam, trẫm có gửi quà mừng đám cưới, tiếc rằng từ hồi ấy đến giờ, huynh đệ ngàn trùng xa cách, không thì giờ gặp nhau, vì vậy mãi đến hôm nay trẫm mới gặp được nhị muội, tại sao nhị muội lại theo Thục đánh ta? Nhị muội là Vương-phi của triều Hán mà!

Hoàng Thiều-Hoa là đệ tử của Đào-hầu, nổi danh nghĩa khí, ghét kẻ giả nhân, giả nghĩa, nàng thấy Quang-Vũ lờ việc bắt giam Trần Tự-Sơn, nàng nói lớn:

– Phu quân của tôi một ngựa một gươm, cứu Hoàng-thượng. Một đêm đánh hai mươi trận, bị thương mười lăm lần, rồi giúp Hoàng-thượng phất cờ trung hưng, khắp thiên hạ ai ai cũng nói, không có phu quân tôi thì không có nhà Đông-Hán. Sau Ngô Hán, Đặng Vũ, Mã Viện, Sầm Đành, Phùng Dị đem toàn bộ Trung-nguyên đánh Thục bị thất bại, phu-quân tôi cử anh hùng Lĩnh Nam về giúp Hoàng-thượng, chúng tôi vào Thành-đô, Hoàng-thượng tưởng dẹp được Thục rồi, bắt giam phu-quân tôi, khi mới khởi binh phu-quân tôi nói rằng: Sau khi thành đại nghiệp, đại ca chỉ xin một thanh gươm, một con ngựa tiêu dao thắng cảnh. Thế mà đại ca cũng không cho, phu-quân tôi đã nói rằng: Kết nghĩa lầm với một người vô nghĩa bất nhân nhất thiên hạ.

Nàng ngưng một lát rồi nói tiếp:

– Con quạ là giống vật dơ bẩn, còn không nỡ bỏ mẹ bỏ cha, đại ca thân làm Hoàng-Đế, thế mà mẹ ở Lĩnh Nam bị con ác phụ họ Mã sai nhiều cao thủ đi giết hại, đại ca không cho bảo vệ mẹ mình thì thôi còn không nhìn đến bà. Như vậy đại ca đòi cai trị thiên hạ ư ? Vì thế ta mang quân đánh giết kẻ bất nghĩa, bất hiếu, những phường đó không xứng đáng để phu-quân ta gọi là đại ca nữa.

Quang-Vũ hỏi:

– Theo như Vương-phi ta phải làm thế nào để nối lại tình xưa với Lĩnh-nam vương ?

Sún Lé đứng sau lưng Hoàng Thiều-Hoa nó xen vào, hô lớn:

– Dễ lắm, điều thứ nhất bắt con ác phụ họ Mã chặt đầu, giết ba họ nó. Sau đó mang Hàn Thái-hậu về phụng dưỡng.

Sún Cao tiếp:

– Thứ nhì, ra chiếu chỉ đại xá thiên hạ, nhận lỗi với Trần đại-ca, rút quân khỏi Trường-an.

Sún Rỗ thêm vào:

– Chia ba thiên hạ với Lĩnh Nam và Thục

Quang-Vũ hỏi:

– Nếu ta không thuận thì sao ?

Thiều-Hoa cầm roi chỉ sang Hán, ra lệnh cho Sún Lé, Sún Cao. Quang-Vũ cùng các tướng nhìn lên trời thấy hai đoàn Thần-ưng bay lượn thành vòng tròn. Sún Lé cầm cờ phất một cái, toán đầu hai mươi lăm thần ưng tách khỏi đàn, rồi toán thứ nhì, thứ ba, thứ tư … đâm bổ xuống trận Hoài-nam vương, Lưu Quang đã nghe nói về đoàn Thần-ưng, y cùng các tướng cầm gươm thủ sẵn, bảo vệ Quang-Vũ, đoàn Thần-ưng bay xuống cách đầu người năm sáu trượng thì kêu lớn rồi lộn trở lên, chúng đồng ị xuống. Sau khi bốn toán Thần-ưng vọt lên thì từ trên Quang-Vũ xuống dưới các tướng Hán đều bị phân chim dính đầy người, trông thực thảm thiết.

Nhưng đã hết đâu, đoàn Thần-ưng của Sún Cao tiếp tục, rồi đến đoàn của Sún Đen, Sún Hô, Sún Lùn, Sún Rỗ.

Khi các đoàn thần ưng ị xong, Bắc-bình vương Công-tôn Khôi nói với Quang-Vũ:

– Lưu Tú, ngươi ăn ở bất nhân, nên chim trời cho ngươi ăn phân.

Công-tôn Tư chỉ tay một cái, quân tướng Thục ào sang tấn công vào trận Hán, binh Thục từ lúc được anh hùng Lĩnh Nam giúp sức, tinh thần hăng say, đoàn Thiết-kỵ xung vào trận Hán tấn công, Công-tôn Tư cầm cờ, đứng lên mình ngựa chỉ huy, hô lớn:

– Ai bắt được Quang-Vũ ta sẽ cho làm Chúa Trường-an.

Các Sún được tướng Thục bảo vệ, chúng nó đứng lên mình ngựa cầm cờ phất, chỉ huy đội Thần-ưng, từng đàn một hai mươi lăm Thần-ưng, từ trên trời lao xuống vun vút tấn công vào Quang-Vũ và các tướng Hán. Chỉ riêng có Ngũ-phương Thần-kiếm không bị tấn công, vì Lục Sún biết họ là bạn của Phương-Dung và Đào Kỳ. Tại trung quân có Quang-Vũ, đích thân Sún Lé chỉ huy tấn công, Thần Ưng lao xuống đánh, Hoài-nam vương dùng kiếm bảo vệ Quang-Vũ như thành đồng vách sắt, Thần-ưng lao xuống bốn đợt mà không tấn công được lần nào. Phương-Dung bảo Sún Lé:

– Em cho Thần-ưng tẻ ra một vài cặp, đánh từ phía sau, phía trước lại, như vậy Lưu Quang không bảo vệ nổi.

Sún Lé huýt sáo, bốn cặp Thần-ưng chia làm hai phía trước sau tấn công Quang-Vũ. Trong khi một đoàn trăm Thần-ưng từ trời vun vút bay xuống, quả nhiên hai Thần-ưng lao vào tấn công ngựa Quang-Vũ và Lưu Quang, ngưa ré lên một tiếng, vật hai người ngã lăn ra, Lưu Quang ôm Quang Vũ nhảy lên cao, hai tướng đứng cạnh nhường ngựa cho chúa, Lưu Quang sơ hở một chút, bị Thần-ưng cào mặt Quang-Vũ, các tướng xúm bảo vệ hai người, Thần-ưng bị đánh dạt bay lên trời.

Trong khi đó hai cánh trái phải, trận chiến đánh kịch liệt, Mã Viện cho Tương-dương lục-hùng chia làm ba tấn công như đã định, nhưng quân tướng Thục thiện chiến đánh bật lại, Lưu Quang lấy hỏa pháo đốt lên, cửa Bắc, cửa Nam thành Trường-an mở rộng, hai đợït Thiết-kị từ trong thành vọt ra ngoài khí thế như thác đổ.

Hai đoàn Thiết-kị Hán, mỗi đoàn đông đến hơn ba vạn, dũng khí hùng mạnh, vừa ra khỏi cửa thành cả hai đoàn đánh quật lại cửa Tây, Phương-Dung đứng trên cây cao đốc chiến, nàng đã đặt tại không phận cửa Nam, Bắc mỗi nơi năm chục Thần-ưng, Thần-ưng tuần tiễu thường trực, khi thấy Thiết-kị trong thành tiến ra ngoài, chúng lao xuống tấn công làm hiệu. Phương-Dung cầm cờ vàng phất lên, tại cửa Nam Cao Cảnh-Sơn đợi chờ Thiết-kị ra hết, đánh quật về Tây, ông mới thả một trăm thớt voi đi hai bên, ở giữa mười xe chở nỏ thần, nỏ thần do đại tướng-quân Cao Nỗ chế ra từ thời Âu-Lạc, mỗi phát bắn hàng trăm mũi tên. Sau khi thắng Đồ Thư, Cao-cảnh hầu, Cao Nỗ chữa lại, nỏ bắn xa hai trăm trượng (400 mét ngày nay). Có loại bắn tên, loại ngắn bằng gang tay, có loại bắn tên bằng cổ tay, dài hai ba thước. Nỏ đặt trên một xe, phía trước xe có cái giá bằng rơm bảo vệ cho xạ thủ, hai bên xe nỏ có giáp sĩ hộ tống.

Đoàn Thiết-kị hô lên, cùng nhào vào tấn công, Cảnh-Sơn phất cờ, loạt đầu mười xe nỏ đều bắn liên châu. Hơn nghìn Thiết-kị đổ xuống, tướng chỉ huy đoàn Thiết-kị kinh hoảng trước thế trận nguy hiểm, y ra lệnh tử chiến, các xe chở nỏ vừa bắn, vừa tiến. Đoàn Thần-tượng dàn hai bên hộ vệ theo xe tràn tới làm chiến mã Hán quân hỗn loạn, chỉ một lát đoàn kỵ mã bị hao hụt quá nửa, viên tướng chỉ huy định cho lệnh chạy vào thành. Cảnh-Sơn cho Thần-tượng xung vào trận, binh tướng Hán thấy voi to lớn xung sát, kinh hoảng bỏ cửa thành Bắc chạy về phía cửa Đông.

Tại cửa Nam Cao Cảnh-Minh thấy Thiết-kị tràn ra, ông rút tên bắn liền mười mũi, ba viên tướng đi đầu dùng vũ khí gạt, nhưng ông bắn liên châu, chúng đều trúng tên. Đoàn voi dàn hai bên bảo vệ các xe chở nỏ thần, cứ mỗi loạt bắn ra hàng ngàn Thiết-kỵ ngã ngựa, viên tướng chỉ huy thấy nguy cơ, không dám tiến, ra lệnh lui vào trong thành.

Quân Hán trên mặt thành bắn xuống yểm trợ đội Thiết-kị xe chở nỏ ở ngoài tầm tên. Trong khi đó nỏ thần có tầm bắn xa hơn Cao Cảnh-Minh bảo Cao Cảnh-Anh, Hùng, Hào, Kiệt bắn lên mặt thành, họ là những tay cung thủ thượng thặng, cứ mỗi mũi tên, quân trên mặt thành rơi xuống.

Các xe chở nỏ được đẩy sát cửa thành, hai đội Thần-tượng đi theo hộ tống định tràn vào, tướng giữ cửa thành là Tần-vương Lưu Nghi với Đặng Vũ, hai người đứng trên địch lầu cho lệnh đóng cửa thành, đội Thần-nỏ lui ra chờ đợi.

Cao Cảnh-Sơn đứng nhìn mặt trận phía Tây thành, quân Thục núng thế, ông bảo Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Khê:

– Bố với năm xe Thần-nỏ trấn ở đây, con đem bớt năm xe nỏ đánh vào hông địch.

Phía mặt trận Thục, chỉ huy cánh trái là Sử Hùng với Quế-Hoa, được Sún Lùn, Sún Hô, Hoàng-Phong yểm trợ, ba lần xung phong chọc thủng phòng tuyến, giết người ngổn ngang, nhưng lớp này chết lớp khác tiến lên thay thế.

Sử Hùng đứng trên con ngựa, chỉ huy các đội Thiết-kị xung phong, thấy quân Hán không núng, y nói vọng xuống:

– Các sư-đệ Sún Lùn, Sún Hô mau ra tay !

Sún Lùn phất cờ một cái, đoàn Thần-ưng đang bay lượn trên không, tách ra từng đội hai mươi lăm con một nhào xuống tấn công vào hậu quân địch, hậu quân náo loạn hẳn lên, mặt trận Hán đã rúng động, Mã Viện thấy vậy rút kiếm quát lên:

– Ai lui ta chém !

Trước sức tấn công vũ bão của Thần-ưng, một tùy tướng lui lại hai bước Mã Viện vung kiếm chặt đầu, quân sĩ thấy vậy kinh hoảng lớp lớp tiến lên, hàng ngũ Thục lại lui trở về.

Sún Hô phất cờ cho đoàn Thần-ưng nhào ngay xuống đội hình phía trước của quân Hán, từng đội, từng đội tấn công, hàng ngũ quân Hán rối loạn gần vỡ.

Mã Viện nói với Tương-dương lục-hùng:

– Không ngờ đoàn Thần-ưng hung dữ quá, càng giết chết chúng càng lao xuống, hãy bỏ kế hoạch bắt Hoàng Thiều Hoa, Mã Vũ, Tang Cung, Lưu Hán đánh sang phải, Phùng Tuấn, Đoàn Chí, Lưu Long đánh sang trái. Chúng ta cần bắt cho được hai thằng nhóc chỉ huy đội Thần-ưng mới mong sống còn.

Hai bên giao chiến, quân sĩ chết hàng hàng lớp lớp, quân Hán bị các tướng đứng sau canh chừng, người nào lui thì chém, quân Thục có Thần-ưng yểm trợ, họ tiến lên không ngừng.

Trận Hán chuyển động, Tương-dương lục-hùng bỏ trận tiến ra trước, phóng chưởng đánh bạt quân Thục lại.

Sử Hùng nói với Hoàng-Phong:

– Hoàng sư-muội, cho Thần-phong xuất trận.

Hoàng-Phong cầm tù và thổi lên, năm cái xe phía sau trận hàng triệu Thần-phong bay lên mù trời, nhào xuống tấn công Tương-dương lục-hùng. Lục-hùng kinh khiếp, múa tít vũ khí bảo vệ thân mình, Thần-phong vẫn lọt được vào trận tấn công ngựa. Ngựa nhảy lồng lên, quật bọn họ xuống. Họ nhảy xuống đất, vận dụng vũ khí múa tít bảo vệ thân mình, quân sĩ thì ôm đầu chạy trở lại, quân Thục do đó tiến lên, thành ra Lục-hùng bị vây vào giữa trận.

Bên cánh phải trận Thục, Ngô Lương cùng Ngũ-phương thần-kiếm đốc quân tiến lên, Hầu Đơn đốc quân phía trước, Quế-Hoa đứng đốc quân phía sau, cứ đợt nào bị chết, trống chỗ, nàng cho đội khác tiến lên, trám vào liền.

Ngũ-phương thần-kiếm dàn hàng năm tiến trước trận, kiếm khoa lên, quân Thục ngã xuống, Hầu Đơn hô lớn:

– Các sư đệ Sún Rỗ, Sún Đen đâu, xuất trận thôi!

Sún Rỗ phất cờ, đoàn Thần-ưng đang bay trên cao, chia làm bốn, ba toán lao vào giữa trận tấn công Ngô Lương, một toán tấn công vào hậu đội, Sún Đen cho đoàn Thần-ưng của nó tấn công vào tiền đội, quân Hán náo loạn lui trở lại.

Ngô Lương mải chống trả với Thần-ưng, ngước nhìn thấy Thần-ưng không tấn công Ngũ-phương thần-kiếm, y ngạc nhiên:

– Không lẽ bọn này phản Hán rồi sao ?

Ngũ-phương thần-kiếm cũng thấy thế, bọn họ vung kiếm tấn công về phía trước, Sún Đen đứng trên mình ngựa rồi nói lớn:

– Ngũ Phương đại ca! Năm vị đại ca có ơn với Lĩnh Nam, bọn tiểu đệ không muốn tấn công các đại ca. Các đại ca lui lại ngay, Thần-ưng thì có thể sai tấn công người này, không tấn công người kia, chứ đoàn Hắc Phong chúng ngu lắm, muốn bảo nó đừng tấn công các vị đại ca thì không được đâu.

Ngũ-phương thần-kiếm không nghe, múa kiếm tiến lên hàng ngũ Thục rối loạn, phía Thục không có tướng nào khả dĩ đối đầu được với họ, họ đi đến đâu đầu rơi, người đổ đến đó, quân Hán nhờ thế tiến lên, quân Thục phải lui lại.

Hắc Phong công-chúa thấy nguy cơ cầm tù-và thổi, đội ong-bầu đen thui bay rợp bầu trời tiến lên, nhào xuống tấn công Ngũ-phương thần-kiếm và đội hình quân Hán, Ngũ-phương thần-kiếm đã biết lợi hại của đoàn Thần-phong, múa tít kiếm như những quả cầu bạc che kín thân hình không hề gì. Nhưng quân Hán bị tấn công hàng ngũ rối loạn lùi lại phía sau, quân Thục lại tiến lên đuổi theo.

Ngô Lương đứng đốc chiến phía sau cũng bị đoàn ong bầu tấn công, y múa đao tự bảo vệ, vì sơ hở Thần-phong lọt trong vòng đao quang, đốt trúng trán, y nhức đến chảy nước mắt, đao chậm lại một chút, đoàn Hắc-phong nhào vào đốt người, ngựa y, quân sĩ kinh hoảng dùng áo đập đàn ong cứu y, Hắc-Phong công-chúa thổi tù-và thúc Thần-phong tiến lên, quân Hán kinh hoàng lui tới gần chân thành.

Tại trung ương chủ lực Hán tới mấy trăm viên tướng, do chính Quang-Vũ với Hoài-nam vương đốc chiến, các tướng tiến lên gặp phải sức chống cự của đoàn đệ tử phái Thiên-sơn gồm hơn ngàn người võ công can đảm tuyệt vời. Phòng tuyến Thục vững như thành đồng vách sắt.

Về điều binh, thiết kế thì Phương-Dung đứng vào hàng thứ nhất thời bấy giờ, nhưng việc xung phong hãm trận, đốc chiến ứng phó với tình hình, nàng còn thua cả Hoàng Thiều-Hoa. Phía trước trung quân Công-tôn Tư đốc chiến, phía sau Công-tôn Khôi chỉ huy đội trừ bị, hai chú cháu học cùng sách vở, cùng chiến đấu bên cạnh nhau lâu ngày, phối hợp rất nhịp nhàng. Hoàng Thiều-Hoa đứng trên bành con voi lớn, phía trước có Sún Lé, phía sau có Sún Cao, cạnh nàng Phương Dung đứng trên lưng ngựa ô, cầm kiếm phòng thủ, Tứ Phong Công-chúa Bạch, Xích, Thanh, Hồng gò ngựa chờ lệnh.

Xung sát một lúc, Quang-Vũ cầm dùi đánh trống thúc quân tiến lên, binh tướng Hán ào ào xô về trước, đoàn đệ tử Thiên-sơn dũng mãnh như thế cũng phải lùi lại, Công-tôn Tư nói với Thiều Hoa:

– Xin Sư-tỷ cho các Sún yểm trợ.

Thấy Công-tôn Tư cầu cứu, nàng bảo Sún Lé, Sún Cao

– Các sư đệ ra tay đi thôi.

Trên trời hai đoàn Thần-ưng trực thuộc Sún Lé, Sún Cao vẫn bay lượn vòng vòng, trông rất đẹp mắt. Sún Lé nghe Thiều-Hoa ra lệnh cầm cờ phất lên, đoàn Thần-ưng một trăm con, tẻ ra một đội hai mươi lăm con lao xuống tấn công vào trung quân. Tiếp theo đội thứ nhì, thứ ba, rồi thứ tư, trung quân náo loạn lên.

Sún Cao hỏi Thiều-Hoa:

– Thằng Quang Vũ khả ố quá, để em cho nó một bài học.

Thiều Hoa hỏi:

– Em định làm gì nó ?

Sún Cao cười:

– Em trói nó lại cho bõ ghét.

Nó phất cờ hai ba cái, năm Thần-ưng rất lớn bay đến trước bành voi, nó mở cái túi vải trên lưng ra, Thiều-Hoa nhìn thấy mà nổi da gà, trong đó có hai con trăn lớn và hàng chục con rắn nhỏ. Sún Cao chỉ chỏ huýt sáo dặn Thần-ưng, rồi cho hai con trăn quấn vào lưng hai Thần-ưng lớn nhất, mười mấy con rắn nhỏ cho quấn vào ba Thần-ưng còn lại. Nó hú một tiếng cả năm Thần-ưng bay bổng lên cao, nó cầm cờ phất đoàn Thần-ưng trực thuộc lao xuống tấn công một lúc vào giữa chỗ Quang-Vũ đứng đánh trống. Các tướng Hán xúm vào dùng vũ khí chống trả với Thần-ưng, nhưng khác với mỗi đợt tấn công thông thường, Thần-ưng lao xuống từng đội hai mươi lăm con, tấn công một lát rồi bay lên, nhường chỗ cho đội khác. Lần này lao xuống cả trăm, tấn công liên miên, đang lúc các tướng Hán mãi chống cự với làn sóng Thần-ưng, thì năm Thần-ưng chở trăn, rắn tà tà hạ mình xuống thấp. Sún Cao cầm tù-và thổi lên tu tu ba hồi, hai con trăn buông mình rơi xuống cùng với đoàn rắn nhỏ đúng vào chỗ Quang-Vũ đang đánh trống thúc quân, bị hai con trăn lớn quấn chặt lấy chân, tay, ngã lăn xuống mình ngựa, Hoài-nam vương kinh hoàng nhảy xuống ngựa cứu Quang-Vũ, thì một vật nhỏ chui vào cổ, rồi lưng ông cảm thấy đau, ông thò tay vào lấy vật đó ra, thì là một con rắn lục. Con rắn co thân lại đớp một miếng nữa vào tay ông.

Ông hoảng kinh buông ra, hai ba con nữa chui vào ống quần, ông hốt hoảng hốt lấy tay đập rắn, nhưng con rắn nhỏ rất tinh khôn, đã chạy ra chỗ khác mất. Giữa lúc đó trên trời Thần-ưng lao xuống chụp đầu ông, hai chân cấu thịt, mỏ mổ vào mắt, ông phất tay giết Thần-ưng, thì nó đã bay bổng lên trời mất.

Tuy Quang-Vũ với Hoài-nam vương bị trăn quấn, rắn cắn, Thần-ưng cấu, nhưng nhờ các tướng giữ vững phòng tuyến nên quân Thục vẫn không chọc nổi thủng được, Phương-Dung quay lại nói:

– Bạch-Phong cho tấn công vào phía trái, Xích-Phong tấn công vào phía phải, Thanh-Phong cho tấn công vào tiền quân, Hồng-Phong cho tấn công vào hậu quân.

Lục Phong công-chúa cầm tù-và thổi lên, phía sau trận Thục hàng chục cái xe chở tổ ong, xuất phát mấy triệu Thần-phong bay lên mù trời. Chúng chia làm bốn toán, nhào xuống tấn công, quân tướng Hán náo loạn, lui trở lại đến mấy trượng, quân Thục đuổi theo, dần dần quân Hán bị dồn đến chân thành

Từ trong thành hai đội Thiết-kị xông ra, do Tần-vương suất lĩnh tiến lên thay thế đội quân đang chiến đấu mệt mỏi. Giữa lúc đó quân Hán la hoảng, họ nhìn về phía Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng khói bốc lên nghi ngút.

Hoàng Thiều-Hoa cho bắc loa gọi khắp nơi:

– Các dũng sĩ Thục nghe đây: Chúng ta đã lấy được Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng rồi, hãy tiến lên lấy Trường-an.

Quân Thục reo hò tiến lên, Quang-Vũ, Hoài-nam vương đã được cứu, hai con trăn bị giết chết, còn mười con rắn nhỏ không biết chạy đâu. Trời đã về chiều quân sĩ hai bên cùng mệt mỏi, người chết thây phơi khắp một vùng, Hoàng Thiều-Hoa hỏi Phưong-Dung:

– Hai bên chết nhiều quá rồi, nên thu quân chăng?

Phương-Dung nói nhỏ vào tai Thiều-Hoa:

– Binh sĩ chết nhiều hay ít, mình cũng đành chấp nhận, phải đánh một trận cho Quang-Vũ kinh hồn khiếp vía mới thôi.

Thiều-Hoa hiểu ý Phương-Dung, phất cờ tiến lên nữa, Bắc-bình vương Công-tôn Khôi nói với Phương-Dung:

– Tôi chỉ còn một đợt quân này nữa là hết, xin quân sư định liệu.

Phương-Dung chỉ thành Trường-an nói:

– Chúng ta giơ tay một cái lấy được Trường-an, xin vương gia cứ cho tiến lên.

Vừa lúc đó Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Khê dẫn đội Thần-nỏ đến bắn vào sườn cánh quân của Mã Viện, quân Viện cũng dùng cung bắn lại, nhưng tên do người bắn, tầm xa chỉ bằng nữa tên do Nỏ thần bắn, vì vậy khi năm xe nỏ tiến đến đâu quân Viện lui tới đó, phút chốc đã lui đến chỗ trung quân của Quang-Vũ.

Mã Viện nói với Hoài-nam vương:

– Vương-gia chúng ta phải liều mạng xông vào trận địch bắt tướng thì mới hy vọng sống qua ngày hôm nay. Bên Thục, Lĩnh Nam nhiều cao thủ, nhưng chúng phân nhau đi lấy Hàm-dương, Lâm-đồng và Vị-nam, ở đây chỉ có Phương-Dung, Công-tôn Khôi, Công-tôn Tư mà thôi. Bây giờ chúng ta có Tương-dương Lục-hùng và Ngũ-phương Thần-kiếm, nếu tất cả cùng xông vào trận địch, bắt Chúa-tướng, mới mong thoát nạn.

Hoài-nam vương nói:

– Trong các tướng địch ở đây, thì Hoàng Thiều-Hoa là chúa, võ công thị tuy cao, nhưng không hơn mấy người kia. Vậy phải bắt thị trước, bây giờ thế này: Mã Vũ, Tang Cung cầm chân Tạ Phong, Lưu Hân, Phùng Tuấn cầm chân Điền Sầm, Đoàn Chí, Lưu Long với Mã Viện xông vào bắt Hoàng Thiều-Hoa, Ngũ-phương Thần-kiếm cản Phương-Dung, Công-tôn Khôi, Công-tôn Tư, tôi tiếp ứng:

Mã Viện là người xảo quyệt hiến kế:

– Bọn Thục và Lĩnh Nam tự thị hiệp nghĩa xuất thân, vậy bây giờ ta cho thu quân, đội Thần-ưng, Thần-phong được gọi trở về, giữa lúc đó ta bất thần xung vào trận thì thành công.

Hoài-nam vương ra lệnh đánh chiêng thu quân, quân Hán dừng lại không tiến nữa, Công-tôn Tư cũng cho lệnh thu quân, Lục Phong Nữ dùng tù-và thu Thần-phong trở về trận, Lục Sún cho Thần-ưng bay lượn trên cao tuần hành, quân sĩ hai bên cùng lui lại.

Tương-dương Lục-hùng tiến lên hàng đầu, bất thình lình Mã Viện hô lớn:

– Tiến lên !

Tương-dương Lục-hùng dùng kinh công lao vút vào trận Thục, các tướng Thục cản lại, Lục-hùng là những người võ công kinh nhân, chưởng phong như vũ bão, các tướng Thục đều bật lui

Công-tôn Tư phất cờ, quân sĩ Thục trùng trùng điệp điệp vây Tương-dương lục-hùng vào giữa, quân đông mặc quân đông, Lục-hùng xung vào được trung quân, Phương-Dung nhận ra ý đồ của lục-hùng nói lớn:

– Hoàng sư-tỷ mau lui lại!

Lục Phong Nữ, Lục Sún cùng Hoàng Thiều-Hoa lùi lại hậu trận, Lưu Phong, Mã Viện, Đoàn Chí ngang tay, Phương-Dung rút kiếm ánh quang lóe lên, Mã Viện, Lưu Long bị chụp trong vòng kiếm quang. Nhưng hai người đều là đệ nhất cao thủ đương thời, một phải, một trái tấn công Phương-Dung, phía phải Hoàng, Bạch, Hắc kiếm đồng tấn công vào Công-tôn Tư, Công-tôn Tư tuy võ công cao, nhưng còn thấp hơn bất cứ người nào trong Ngũ-phương thần-kiếm, Công-tôn Tư thấy vậy, hô các tướng xúm vào vây ba người, còn chàng vẫn đứng điều khiển quân sĩ tiến lên giữ vững phòng tuyến.

Hoài-nam vương rút kiếm nhảy vào tấn công Phương-Dung, Đoàn Chí, Lưu Long rảnh tay, xung vào trung quân chỗ Hoàng Thiều-Hoa đứng chỉ huy.

Lục Phong nữ là những cô gái Mường, võ công bình thường, ngoài bản lĩnh điều khiển Thần-phong ra, các cô không biết gì hơn, Lục Sún võ công càng tầm thường hơn nữa.

Thấy hai người hung hãn quá, Sún Lé hô:

– Tung Thần-xà tấn công chúng.

Trong Lục Sún, Sún Cao đã dùng Thần-xà tấn công Quang-Vũ, nó chỉ còn tay không, Ngũ Sún cũng mở túi ra, tung trăn tấn công ba người, Lưu Long tấn công Thiều-Hoa, Thiều-Hoa đứng trên bành voi vung chưởng đánh xuống, chưởng của nàng là chưởng Cửu-chân chạm vào chưởng Lưu Long làm chưởng của y bị mất tăm, Hoàng Thiều-Hoa võ công cao, song nàng chỉ mới ở tuổi hai mươi bốn, hai mươi lăm công lực chưa được làm bao. Trong khi đó Đoàn Chí, Lưu Long đã đến tuổi bốn mươi lăm, bốn mươi sáu, công lực cao thâm khôn lường, Mã Viện thấy Thiều Hoa để hở phía sau, y vọt người lên tấn công vào lưng nàng, Thiều-Hoa hoảng hốt quay lại đỡ chưởng của y, thì Đoàn Chí, Lưu Long đồng vọt lên chụp nàng, Đoàn Chí vác Thiều-Hoa, Mã Viện, Lưu Long mở đường máu chạy về trận Hán.

Lục Sún tung trăn quấn Tang Cung, Lưu Hân ngã xuống ngựa, bị binh tướng Thục bắt sống, bên kia Hoài-nam vương bỏ Phương Dung chạy đến bảo vệ Đoàn Chí.

Phương Dung thấy vậy nghĩ:

– Nếu mình cứu Hoàng sư tỷ, cũng không địch lại bốn đại cao thủ, chi bằng mình vào trận bắt Quang Vũ là hơn.

Nàng hú lên một tiếng, con ngựa ô vọt về phía trận Hán, nó lao vào hàng quân, Phương-Dung đứng trên lưng ngựa, kiếm lia, đầu rơi, phút chốc nàng đã tới gần Quang-Vũ, Hoài-nam vương kinh hoảng, rút kiếm tấn công Phương-Dung, Phương-Dung xử dụng chiêu: Chiêu dương mộ nhật, một chiêu thức có tới 360 chiêu hư bao trùm, Quang-Vũ, Lưu Quang, Lưu Quang cảm thấy tay đau nhói, kiếm văng khỏi tay, Quang-Vũ phi ngựa bỏ chạy, Phương-Dung hô lên một tiếng, con ngựa ô vọt theo sát nút. Các tướng Hán reo hò cản Phương-Dung, nhưng ngựa ô đi tới đâu nàng vung gươm tới đó, đầu rơi, máu chảy, Quang-Vũ chạy đến cửa thành, thì ngựa Phương-Dung theo bén gót, y kinh hoàng thúc ngựa chạy vào trong, ngựa ô cũng vọt theo, Phương-Dung móc tay vào túi được nén vàng, nàng búng đến véo một cái, nén vàng trúng chân ngựa Quang-Vũ, ngựa đau quá ngã chúi về trước, vật y ngã lăn ra, Phương-Dung vọt khỏi mình ngựa, xuống đất dí kiếm vào cổ định nhắc y lên mình ngựa ô ra khỏi thành. Thình lình bốn mũi tên từ hai phía bắn vào nàng, nàng vung kiếm lên gạt, kiếm chạm vào tên, nàng cảm thấy cánh tay tê rần. Trong khoảnh khắc đó Quang-Vũ nhóm người dậy định chạy, nàng lia một kiếm ngang đầu, y kinh hoàng ngã chúi đầu về phía Phương-Dung. Trong đầu óc y thoáng nghĩ được một lối thoát: phụ nữ thì sợ người ta đụng vào chỗ kín, y húc đầu vào háng nàng. Thời bấy giờ dù Hán, dù Việt trong lúc giao tranh thà người ta chịu chết, chứ không bao giờ dùng đến chiêu thức hạ lưu này. Quang-Vũ trong khi thấy cái chết bên mình, lao đầu húc vào háng Phương-Dung, nàng hoảng hốt định xoạt chân định nhảy lên tránh thì y đã chui đầu qua quần nàng ra phía sau.

Nếu Phương-Dung là đàn ông, chỉ kẹp hai chân lại thì bắt sống được y. Nhưng nàng là gái, luống cuống một chút, y đã ra sau lẩn vào trong đám đông quân sĩ.

Phương-Dung vội lên ngựa ô chạy ra ngoài, bên ngoài thành đội Thần-nỏ đi đầu đang bắn vào quân Hán, quân Thục đi phía sau đuổi quân Hán đến cổng thành, cổng thành đóng lại.

Trong thành khói lửa bốc lên mịt mờ khắp nơi, đoàn Thần-hầu đột nhập vào cử Đông từ lâu, Tây-vu lục-hầu tướng chia làm bốn đội đốt phá bốn cửa thành, còn lại hai đội đốt phá cung thất.

Công-tôn Tư thúc quân đánh vào trong, quân tướng Hán liều mạng quyết chiến, quân Thục trùng trùng điệp điệp vào trong thành, đội Thần-tượng, Thần-nỏ đi đến đâu quân Hán tan đến đó, hai bên giao chiến đến nửa đêm, quân Hán theo cửa Bắc ra khỏi thành.

Công-tôn Tư cho lệnh thu quân, quân Thục chiến thắng trở về, Công-tôn Khôi kiểm điểm lại quân, mã: Thục chết mất mười vạn quân, hơn ngàn dũng tướng. Chinh-di đại tướng-quân Tang Cung, Phấn-uy đại tướng-quân Lưu Hân bị Lục Sún dùng trăn bắt sống, trong lúc Lục Sún khủng hoảng tinh thần vì Thiều Hoa bị bắt, chúng cho Thần-ung ăn thịt hai tướng, Công-tôn Tư tiếc than khôn cùng:

– Các em cho Thần-ưng ăn thịt hai đại cao thủ thực uổng, vì đất Trung-nguyên, cao thủ bằng hai người này, không quá hai chục người, giá để hai người chúng ta đổi lấy Hoàng sư-tỷ.

Một lát có tin báo: Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng đã chiếm được, Lũng-tây vương Triệu Khuôn, Phiêu-kị đại tướng-quân Nhiệm Mãng dẫn quân đắc thắng trở về.

Các tướng Thục và anh hùng Lĩnh Nam đều kinh hoàng về trận đánh vừa qua. Họ cho rằng đây là trận đánh lớn nhất, sau trận đánh giữa Hàn Tín với Hạng Võ ở Cai-hạ, trong trận này Sở có mười vạn quân, Hán có mười lăm vạn, kết quả mười vạn quân Sở tan rã, mười vạn quân Hán bị chết và bị thương. Trận đánh Trường-an kinh khủng ở chỗ, quân sĩ hai bên đều tinh nhuệ. Chúa tuớng võ công cao và đầy mưu trí.

Bên Lĩnh Nam Hoàng Thiều-Hoa bị bắt, trong khi bên Hán hai đại tướng-quân bị giết chết, Quang-Vũ chạy bán sống bán chết mới thoát thân.

Lũng-tây vương Triệu Khuôn nói:

– Quang-Vũ hy sinh hai đại tướng đã từng theo y chinh chiến hai chục năm nay. Để đổi lấy Lĩnh-nam vương-phi, chắc y không hại Vương-phi đâu, mà chỉ muốn trao đổi điều kiện gì với ta mà thôi.


#1
    CDDLT 22.12.2004 17:46:33 (permalink)
    HỒI THỨ 22

    Động đình hồ ngoại sử



    Trận đánh Trường-an kinh hồn động phách do Phương-Dung thiết kế, Điền Sầm, Tạ Phong, Công-tôn Khôi, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng, Công-tôn Tư và các anh hùng Lĩnh Nam chỉ huy, toàn thắng. Hán thiệt trên hai chục vạn quân, hàng mấy ngàn chiến tướng kinh nghiệm tử trận, khi thiết kế trận đánh, anh hùng Thiên-sơn, Lĩnh Nam chỉ muốn đánh chiếm Hàm-dương, Vị-nam, bức Quang-Vũ bỏ Trường-an, rút quân về giữ Lạc-dương, quần hùng đợi chiếm xong Hàm-dương, Vị-nam kéo quân về uy hiếp Trường-an. Trận Trường-an trong kế hoạch chỉ cầm chân lực lượng Hán, không ngờ lần đầu tiên đội thần nỏ Âu-Lạc xuất hiện, có Thần-tượng hộ tống đạt thắng lợi ngoài sự tưởng tượng, Công-tôn Tư ước tính trong bảy vạn Thiết-kị Hán có tới năm vạn bị Thần-nỏ bắn chết, hầu hết các chiến tướng chết vì tên. Còn đoàn Thần-hầu, Phương-Dung dặn Lục Hầu tướng giả leo lên thành đe dọa quân Hán. Không ngờ chúng được Thần-phong yểm trợ. Lọt vào thành, Lục Hầu tướng cùng hơn sáu trăm Thần Hầu tràn ngập Hoàng-cung khiến bọn Ngự-tiền thị-vệ không còn đủ sức bảo vệ cung quyến vợ con các vương, hầu, chúng phóng hỏa khắp nơi. Vì vậy lực lượng Thiên-sơn có mười vạn mà đánh hai mươi vạn quân Hán bỏ thành Trường-an chạy.

    Đám anh hùng Tây-vu phần nhiều là trẻ con, tính Thiều-Hoa thích con nít, nàng săn sóc chúng như con đẻ, lại hay chuyện trò với chúng. Chúng tuy gọi nàng là sư-tỷ, nhưng tình cảm chúng coi nàng như mẹ, khi thấy nàng bị bắt, chúng đánh xả láng cứu nàng, Lục Sún cỡi trên sáu con voi đi đầu, phía sau Lục Phong Quận-chúa, Tây-vu Lục-hầu tướng reo hò xua Thần-phong, Thần-hầu đuổi theo.

    Mặc dầu Phương-Dung cho đánh chiêng thu quân, chúng vẫn xua Thần-ưng, Thần-phong đuổi theo quân Hán, Công-tôn Tư sợ chúng có gì sơ xuất, đốc thúc Tạ Phong, Điền Sầm đem một đoàn Thiết-kị tiếp ứng, bên Hán đi đoạn hậu là Tần-vương Lưu Nghi, khi rời Trường-an trên trăm dặm, ngựa đói lè lưỡi, sĩ tốt mệt mỏi, ông cho đóng quân kiểm điểm binh mã: năm vạn Kị-binh, còn hơn vạn, vợ con tướng sĩ, của cải đều lọt vào tay Thục, Bộ-binh tan rã hoàn toàn. Cũng may vừa lúc đó, một huyện-lệnh nghe xa giá Quang-Vũ tới, sai xuất kho nuôi quân. Quân sĩ đốt bếp nấu nướng, chưa kịp ăn, bỗng chúng la hoảng chỉ lên trời, Tần-vương nhìn theo. Một đoàn Thần-ưng bay lượn vòng vòng.

    Tần-vương chưa kịp phản ứng, thì hơn trăm thớt voi xuất hiện, quân sĩ kinh hoàng bỏ cả ngựa chạy vào thôn xóm, giữa lúc đó Phương-Dung đuổi tới, gọi Lục Sún trở về gấp, chúng đành líu ríu tuân lệnh.

    Còn Phương-Dung trước chiến thắng vĩ đại, song nàng buồn muốn khóc, nàng tả xung hữu đột để bắt Quang Vũ đổi lấy Thiều Hoa, nhưng bị thất bại. Trở về trướng, nàng ôm đầu xúc động mạnh, từ ngày Đào Kỳ đi theo tiếng gọi phục-quốc, lúc nào nàng cũng thành công, lần thứ nhất bị thất bại, nàng bồi hồi, nước mắt những muốn chảy ra, nhưng nghĩ lại:

    – Tiền cổ đến giờ, Hán cũng như Việt ta là nữ tướng đầu tiên đánh những trận long trời lở đất rồi đây muôn nghìn năm sau còn truyền tụng, nếu ta khóc thì còn gì nữ kiệt Lĩnh Nam nữa.

    Vì vậy nàng không khóc, nàng đứng dậy đi thăm Tiên-yên nữ hiệp, bà đang ngồi nghiến răng vận công, trấn tỉnh cơn đau nhức, Phương-Dung đứng nhìn, không biết giải quyết sao.

    Tối hôm đó Phương-Dung nhận được tin quân báo:

    – Có sứ giả Trưng Nhị tới.

    Phương-Dung truyền đón vào thì ra Sa-Giang, Vương Sa-Giang thấy Công-tôn Tư, quì mọp xuống làm lễ.

    – Thần Sa-Giang xin tham kiến Thái-tử.

    Công-tôn Tư không cho quì, cầm tay nàng bảo ngồi xuống bên cạnh, chàng nhìn Sa-Giang nói:

    – Chắc Trưng Nhị cô nương giúp Thục tiếp thu được thành trì phía Đông rồi phải không ?

    Sa-Giang nheo mắt cười, nàng vốn dĩ là một người giỏi âm nhạc, cử chỉ nhu hòa, tư thái phiêu hốt, bây giờ nheo mắt coi thật duyên dáng, Vương Sa-Giang hỏi:

    – Sao sư-huynh biết rõ như thế ?

    Công-tôn Tư cười:

    – Gì mà ta không hiểu, này nhé, sư muội là võ tướng lại là tiên nga của âm nhạc. Người giỏi âm nhạc bao giờ cũng nhạy cảm, buồn vui không dấu nổi được ai, sư muội được Trưng cô nương sai đi, mặt tươi như hoa hải-đường, ta chắc mọi sự phải tốt đẹp lắm.

    Sa-Giang đưa thư cho Phương-Dung, rồi nàng thuật lại mọi truyện.


    Đoạn này thuật:

    Trong khi trận Trường An diễn ra, thì cánh quân của Trưng Nhị, Hồ Đề, Trần Năng giúp Công-tôn Thiệu chiếm Kinh-châu.

    Sau khi họp với anh hùng Lĩnh Nam ở Dương-bình quan, Trưng Nhị cùng mọi người trở về bản doanh Đặng Vũ ở Quảng-an, Đặng Vũ nóng lòng về việc tiến quân vào Thành-đô để làm chúa Ích-châu, y đón Trưng Nhị vào trướng hỏi:

    – Tình hình thế nào? Chúng ta tiến vào Thành-đô được chưa?

    Trưng Nhị thản nhiên cười:

    – Tôi mừng cho tướng quân, Công-tôn Thuật cho sứ giả đến Tả tướng-quân Lĩnh-nam vương xin giả hàng, y cầu được ở lại Ích-châu, giữ gìn mồ mả tổ tiên, Nghiêm đại-ca tâu với Kiến-Vũ hoàng-đế, lệnh cho ngừng tiến quân.

    Đặng Vũ nghe nói mặt buồn rầu rầu, y chỉ vào một người giới thiệu:

    – Đây Phục-ba tướng-quân Mã Viện, phó nguyên-soái của tôi mới từ Kinh-châu đến.

    Đặng Vũ theo Quang-Vũ từ khi khởi binh, y từng đánh trăm trận, công lao chỉ thua có Nghiêm Sơn, vì vậy Quang-Vũ cho y giữ chức Đại tư-mã, cai quản binh mã toàn quốc. Y được cử làm Nguyên-soái đánh Thục thống lĩnh binh mã Kinh-châu, Giang-đông, vì Quang-Vũ hứa rằng ai vào Thành-đô trước sẽ được phong làm chúa Ích-châu, bây giờ nghe Công-tôn Thuật đầu hàng, y buồn không tả được.

    Trưng Nhị tiếp:

    – Kiến-Vũ thiên-tử ngự ra Trường-an, ban thưởng tướng sĩ có công, ngài truyền bãi quân, Lĩnh-nam vương bảo tấu cho Đặng Đại tư-mã được phong tước Triệu-công, Thiên-tử chuẩn tấu, ban chỉ cho Đặng tư-mã kéo quân về bảo vệ Lạc-dương, trong lúc ngài xuất chinh ở Trường-an. Thiên-tử muốn cử một người trấn thủ Lương-châu, Vương tâu xin cho Mã tướng-quân vào chức đó, vì Lương-châu nơi biên địa phía Tây, coi như hàng rào bảo vệ Lạc-dương, tướng-quân với Thiên-tử là chỗ thâm tình sâu xa chốn hậu cung tình thân gần bằng Vương-gia với Thiên-tử. Nếu tướng-quân trấn thủ Lương-châu, một giải từ Lương-châu tới Trường-an, Lạc-dương được bảo vệ.

    Lại Thế-Cường tiếp:

    – Tướng quân có biết tại sao Vương-gia lại bảo tấu cho Ngô Hán làm chúa Ích-châu, mà không bảo tấu cho tướng-quân không ?

    Mã Viện vỗ tay nói:

    – Tôi hiểu! Tôi hiểu! Vương-gia sợ cho Ngô Hán trấn thủ Ích-châu, lỡ ra y thay lòng đổi dạ thực nguy cho Hán, vì vậy phải để tôi trấn thủ Lương-châu, hầu phòng Ngô Hán có gì, tôi từ Lương-châu chặn đầu y trước.

    Hồ Đề cười:

    – Tướng quân xứng đáng người thâm tình của thái-hậu vậỵ

    Trưng Nhị móc binh phù của Nghiêm Sơn, trao cho Mã Viện:

    – Đây lệnh của Vương-gia, tướng-quân tạm giao quyền chỉ huy cho tôi, khẩn cấp về Trường-an phục lệnh Thiên-tử nhận sắc phong. Khi tướng quân đến Lương-châu rồi, tôi mới trao quyền cho Ngô Hán.

    Mã Viện mừng quá:

    – Vương-gia thật cẩn thận và tin tưởng tôi, ngài đợi tôi tới Lương-châu rồi mới chịu để cho Ngô Hán trấn thủ Ích-châu, nhưng nghĩ cho kỹ các tướng trong triều, Hoàng-thượng với Vương-gia là nghĩa huynh đệ, Vương-gia cẩn thận như vậy mới phải.

    Trưng Nhị đưa binh phù cho Đặng Vũ.

    – Xin Đại tư-mã lên đường đi Lạc-dương ngay, Thiên-tử xuất chinh cần có người tim gan trấn thủ đế đô.

    Đặng Vũ vội vã lên đường.

    Mã Viện đánh trống họp các tướng sĩ, tuyên bố việc chinh phạt Thục hoàn toàn thành công, y về triều kiến Thiên-tử, y sẽ tấu cùng ngài ban thưởng các tướng, còn y được đi trấn nhậm Lương-châu.

    Phật-Nguyệt hỏi Mã Viện:

    – Phục-ba tướng-quân! Tướng quân một mình tới Lương-châu, liệu có giữ được đất này không? Lòng người khó dò, tại sao tướng quân không mang theo tướng sĩ, tham-quân thân tín ? Tại đây hết chinh chiến rồi, tướng quân mang theo bao nhiêu người chẳng được.

    Mã Viện gật đầu tán thành:

    – Cô nương nói chí phải.

    Y tuyên bố việc về Trường-an yết kiến Hoàng-đế, y muốn một số tướng sĩ theo y đi Lương-châu, các tướng sĩ thân tín tình nguyện đi theo.

    Trưng Nhị cho mời Tương-dương cửu-hùng là :

    Phiêu-kị Đại tướng-quân Sầm Bành

    Kiến-oai Đại tướng-quân Cảnh Yểm

    Bô-lỗ Đại tướng-quân Mã Vũ

    Chinh-lỗ Đại tướng-quân Tế Tuân

    Chinh-di Đại tướng-quân Tang Cung

    Phấn-uy Đại tướng-quân Lưu Hân.

    Hổ-uy Đại tướng-quân Phùng Tuấn

    Long-nhượng Đại tướng-quân Đoàn Chí

    Chinh-viễn Đại tướng-quân Lưu Long.

    Song chỉ có bảy tướng hiện diện, vắng mặt Sầm Bành, Tế Tuân, Trưng Nhị biết hai người tuân chỉ Mã thái-hậu thám thính anh hùng Lĩnh Nam, Tế Tuân đã bị Trần Năng dùng Lĩnh-nam chỉ giết, Sầm Bành bị Đào Kỳ đánh nát thây, sợ các tướng nghi ngờ, nàng nói:

    – Sầm, Tề tướng-quân, nhận mật chỉ thái-hậu làm một việc khẩn, sẽ về sau.

    Nàng tiếp:

    – Lĩnh-nam vương tâu Thiên-tử phong cho các tướng tước hầu cử làm Thứ-sử, vậy các tướng về Trường-an cùng với Phục-ba tướng-quân ngay.

    Đợi cho bọn Đặng Vũ, Mã Viện, Tương-dương thất hùng đi rồi, Trưng Nhị cho mời anh hùng Thiên-sơn vào trướng nghị sự.

    Trưng Nhị lệnh cho hai mươi lăm tướng Thục, giả làm tướng Hán từ Hán-trung tới, thay thế cho các tướng theo Mã Viện đi.

    Công-tôn Thiệu tước phong Trường-sa vương, am hiểu tình hình Kinh-châu bàn:

    – Đất Kinh-châu gồm có chín quận, gần với chúng ta nhất là Kinh-châu, Tương-dương, Nam-quận, sau đó tiến về phía Đông là Di-lăng, nếu chiếm được bốn quận này, hai quận phía Đông và năm quận phía Nam như rắn mất đầu, chúng ta chỉ cần truyền một hịch là lấy được.

    Trưng Nhị hỏi:

    – Bao nhiêu quân Kinh-châu, Mã Viện đã đem theo hết, vì vậy chúng ta dùng binh phù của Vương-gia truyền cho các thái-thú rằng đã bình xong Thục, quân sĩ ca khúc khải hoàn. Tất cả Thái-thú không ngờ, ra ngoài thành đón, chúng ta bất thần chiếm thành dễ như trở bàn tay, song có điều chúng ta chỉ có năm ngày để làm mà thôi, vì Phương Dung đã ước hẹn các đạo quân Hán-trung, Lĩnh Nam rằng chúng ta vẫn dùng cờ Hán, đúng mười lăm ngày đổi cờ Thục, hôm nay đã là ngày thứ mười.

    Lại Thế-Cường, lo xa, khôn ngoan ông bàn:

    – Vậy bây giờ chúng ta truyền lệnh khẩn cấp đến các quận, huyện trên đường về Kinh-châu, cùng các châu, quận Kinh-sở rằng chinh Thục đã xong, Lĩnh-nam vương cho quân hồi hương khẩn cấp để binh sĩ được đoàn tụ gia đìng trong dịp đầu xuân, cần nhất điều quân sao cho cùng về tới bốn nơi: Kinh-châu, Tương-dương, Nam-quận và Di-lăng một lúc.

    Công-tôn Thiệu bàn:

    – Phàm dùng binh phải lo bảo vệ hậu quân cho vững, cần một người trấn thủ miền Đông Ích-châu để chúng ta tiến quân, điều này phi Vương hiền-đệ không xong.

    Vương Nguyên khẳng khái nhận lời.

    Trưng Nhị truyền lệnh:

    – Trường-sa vương và Trấn-đông tướng quân Vũ Chu, quân Hán đã biết mặt, không thể xuất hiện, nên giả trang đi lẫn trong quân, sư bá Lại Thế-Cường có Vũ tướng-quân theo giúp tiến đánh Tương-dương, sư-thúc Trần Năng tiến đánh Nam-quận có Trường-sa vương giúp sức, còn lại Hồ Đề, An-viễn tướng-quân Hoài An, đô-đốc Phạm Sự và tôi đánh Kinh-châu, Phật Nguyệt cùng với Hổ-uy tướng quân Viên Kiệt đánh Di-lăng, chúng ta cùng giả ca khúc khải hoàn trở về. Tất cả các đạo tới nơi vào lúc chập choạng tối, các thái-thú ra đón không phòng bị, ta cho quân tiến vào thành, khi vào thành rồi bất thình lình bắt giam thái-thú, chiếm giữ thành, nếu thái-thú nào chịu đầu hàng thì tha, ai không chịu đầu hàng trả về Hán, chọc giận Hán-đế. Sau khi chiếm bốn quận rồi, tiến về phía Nam chiếm sáu quận còn lại.

    Ngày hôm đó Trưng Nhị rút quân, quân sĩ nghe hết chiến tranh được trở về đồn trú tại quê hương là Kinh-châu, reo hò mừng rỡ, họ chuẩn bị gỡ lều trại, thu dọn vật dụng, lương thảo rất mau.

    Trưng Nhị truyền giao thành lại cho quân địa phương trấn đóng, nhưng thực ra các đạo quân đó đều là quân Thục, giả mặc theo quân Hán nói rằng thừa lệnh Ngô Hán, tới tiếp nhận thành trì.

    Trưng Nhị cho quân kị đi đường bộ, còn bộ-binh do thủy quân chuyên chở xuôi Trường-giang về phía Đông, thuyền đi mau như ngựa, chiều hôm sau về tới biên giới Kinh-châu, bây giờ Trưng Nhị mới cho chỉnh đốn lại hàng ngũ, chia làm bốn đạo, tiến về bốn quận.

    Thứ-sử Kinh-châu, thái-thú ba quận Nam-quận, Tương-dương và Di-lăng nhận được binh phù của Tả tướng-quân nói rằng việc chinh phạt Thục hoàn tất. Phục-ba tướng quân Mã Viện cử đi trấn thủ Lương-châu, Phiêu-kị Đại tướng-quân Ngô Hán được cử trấn thủ Ích-châu, lệnh còn nói rằng: Thứ-sử, Thái-thú phải ra ngoài thành tiếp đón ủy lạo, khao thưởng đoàn quân viễn chinh trở về, binh phù còn nói rõ rằng quân các đạo trở về đến địa phận các nơi đúng vào ngày nào, giờ nào.

    Từ lúc Mã Viện được lệnh mang tất cả quân mã Kinh-châu và chín quận trực thuộc Tây-chinh, trên từ Thứ-sử cho đến các Thái-thú, Huyện-lệnh, Huyện-úy đều lo sợ, ngày đêm tuyển binh huấn luyện, bổ xung số tử vong ở chiến trường, một mặt lo đốc thúc các nơi thu dụng lương thảo gửi ra mặt trận. Dân chúng khốn khổ vì phải nộp thuế nuôi quân, người đau khổ vì con em chinh chiến xa xôi, không biết ngày nào về, bây giờ nghe đoàn quân trở về là mừng lắm, chuẩn bị lễ khao quân thực hậu. Thứ-sử và các Thái-thú đều nghe nói có rất nhiều nữ tướng, võ công cực cao, dung nhan xinh đẹp từ Lĩnh Nam theo tòng chinh cũng trở về với quân Kinh-châu, họ cũng muốn ra đón xem mặt cho biết.

    Họ không ngờ khi quân tới, họ ra tận ngoài thành tiếp đón, quân tướng vào trong thành rồi, chỉ một chiêu họ bị các nữ tướng bắt sống, quân sĩ tràn ra bốn mặt chiếm thành mau chóng, một mũi tên, một giọt máu không đổ, Thục chiếm được bốn thành dễ dàng, sau khi chiếm bốn quận bấy giờ Trưng Nhị mới cho kéo cờ Thục lên, các quân Vũ-lăng, Quế-dương và Nam-dương thấy các quận phía Bắc mất, đường liên lạc với Trung-nguyên bị cắt đứt, quân sĩ trong tay không còn, vì Mã Viện đã dốc quân chinh Tây hết, các Thái-thú đều đầu hàng, Thục cử Trường-sa vương Công-tôn Thiệu làm trấn thủ Kinh-châu.

    Còn lại hai quận Trường-sa, Linh-lăng, hai Thái-thú không chịu đầu hàng, chỉnh đốn binh mã nghinh chiến.

    Công-tôn Thiệu mời Trưng Nhị, anh hùng Lĩnh Nam họp bàn cách tiến đánh hai quận này, Thiệu hỏi:

    – Thái-thú Trường-sa là Mã Anh, em ruột Mã Viện, trong tay có ba vạn binh, y tài kiêm văn võ như Mã Viện, lại là cháu của Thái-hậu, mẹ Hán Quang-Vũ, nên y không chịu đầu hàng, còn chỉnh đốn binh mã đánh lại Kinh-châu nữa.

    Lại Thế-Cường hỏi:

    – Mã Anh có được lòng tướng sĩ không ?

    Công-tôn Thiệu nói thực:

    – Y cũng như Mã Viện có tài dùng binh, biết an ủi sĩ tốt, được lòng dân chúng, bên trong lại được Thái-hậu và Quang-Vũ tin cẩn, uy thế của y rất mạnh.

    Hồ Đề thắc mắc:

    – Thành Trường-sa địa thế ra sao ?

    Thành Trường-sa dài hơn mười dặm, hào sâu, rộng, lũy rất cao, tuy nhiên ở vùng đồng bằng không hiểm trở mấy, trong thành có Tượng-quận tam-anh võ công tuyệt vời.

    Phật-Nguyệt hỏi Vũ Chu:

    – Vũ tướng-quân, võ công của Tượng-quân tam-anh so với tướng-quân như thế nào ?

    Vũ Chu lắc đầu:

    – Tôi chưa đấu với họ, nên không rõ, nghe đâu họ là người đất Tượng-quận, võ đạo, hiệp nghĩa nổi tiếng, người cầm đầu là Hàn Bạch, nội công thâm sâu không biết đâu mà lường, người thứ nhì là Vương Hồng chưởng lực hùng hậu, người thứ ba là Chu Thanh kiếm thuật thần thông. Hàn Bạch giữ chức Đô-úy, Vương Hồng giữ chức Đô-sát còn Chu Thanh giữ chức Trấn Viễn tướng-quân.

    Công-tôn Thiệu hỏi Trưng Nhị:

    – Trưng cô nương! tôi nghe anh hùng Lĩnh Nam dù Quế-Lâm, dù Nam-hải, dù Giao-chỉ cũng đều nuốt hận vong quốc, vậy sao Tượng-quận tam-anh lại theo Hán ?

    Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

    – Trước đây tôi nghe danh Tượng-qận tam-anh, khí vũ hiên ngang, muốn phục hồi Lĩnh Nam, nhiều lần định gửi thư làm quen, nhưng chưa kịp thực hiện, không hiểu sao họ đi theo Mã Anh ? Đại-ca Trần Tự-Sơn có lần kể rằng Tượng-quận tam anh giết chết Thái-thú Tượng-quận, họ là người nghĩa hiệp, tiếng tăm tới tận Cửu-chân.

    Lê Chân góp ý:

    – Biết đâu họ chẳng giúp Mã Anh cũng như chúng ta giúp Trần Đại-ca, chúng ta cần tìm hiểu mới được, hiện Tượng-quận chúng ta chưa liên lạc được với các anh hùng, để cùng mưu đại sự, nếu kéo họ về với chúng ta thì tốt biết mấy.

    Trưng Nhị đồng ý gật đầu:

    – Đối với những đấng anh hùng, chúng ta nên dùng đại nghĩa khích họ, hơn là lôi kéo, thuyết phục.

    Công-tôn Thiệu đứng lên nói:

    – Thưa các anh hùng Lĩnh Nam, tại hạ được phong làm Trường-sa vương, thì bất cứ giá nào cũng phải chiếm cho được thành nầy, dù chiếm được hay không tại hạ cũng xin đa tạ các vị trước. Phái Thiên-sơn chúng tôi từ trên xuống dưới, không bao giờ quên ơn hào kiệt Lĩnh Nam.

    Trưng Nhị không thấy Công-tôn Thiệu không nhân danh Thục-đế Trường-sa vương tạ ơn, mà lại nhân danh phái Thiên-sơn, biết Thiệu muốn dùng tình võ lâm đối với mình, thì cảm động đáp:

    – Chúng tôi hứa giúp Công-tôn sư huynh chiếm Trường-sa, bây giờ chúng ta phải tiến quân tới Trường-sa đã.

    Trưng Nhị truyền lệnh cho quân lên đường, sau khi vượt Trường-giang thì vào hồ Động-đình, nàng truyền lệnh đóng quân tại phía Nam hồ, quân mã hạ trại.

    Nàng truyền lệnh:

    – Trước hết sư bá Lại Thế-Cường làm chánh tướng, Trấn-đông tướng quân Vũ Chu làm phó tướng dẫn ba vạn Bộ-binh, một vạn Kị-binh theo đường bộ đến chiếm Bình-giang uy hiếp phía đông Trường-sa, đô-đốc Phạm Sự dẫn toàn bộ Thủy-quân rời hồ Động-đình vào Tương-giang trấn đóng tại Ích-châu làm tiền đạo.

    Phật-Nguyệt nói với Trưng Nhị:

    – Sư-tỷ! Sư-tỷ có nhớ hồ Động-đình là nơi phát tích ra hai vị quốc mẫu của chúng ta không ? Chúng ta phải dạo chơi hồ Động-đình thưởng lãm thắng cảnh, di tích lịch sử của Lĩnh-Nam nhà mình, trước đây đất Lĩnh Nam, Bắc tới hồ Động-đình, vậy sau này đòi lại Lĩnh Nam chúng ta có đòi hai quận Trường-sa và Linh-lăng hay không ?

    Trưng Nhị cũng như tất cả thanh niên nam nữ thời bấy giờ, được cha mẹ nhắc nhở hằng ngày về mối hận vong quốc. Thường luôn nói về nguồn gốc của giống giòng Việt, rằng Lĩnh Nam là quê hương, hầu như người nào cũng thuộc nằm lòng:

    Chúng ta là con Rồng cháu Tiên, xưa vua Đế Minh cháu ba đời vua Thần Nông đi tuần thú Phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục.

    Vua Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu Xích Qủi. Bờ cõi nước Xích Quỉ Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua vào năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch), lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, Sùng Lãm nối ngôi gọi là vua Lạc Long, vua Lạc Long lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một trăm con... …

    Trưng Nhị cương quyết:

    – Chúng ta được biết theo truyền thuyết địa giới Lĩnh Nam là như thế, các đời vua Hùng và vua An Dương, sử sách còn ghi thêm Trường-sa, Linh-lăng đều thuộc về Văn-Lang. Đòi được Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm, đất nước mình cũng bằng Trung-nguyên, dù dân mình ít, đất mình rộng, ở không hết cũng phải đòi, chúng ta có thể thừa thắng chiếm hết giang sơn người Hán., nhưng chiếm rồi phải lo đối phó với sự chống đối của dân chúng thì chiếm làm gì ?

    Sau khi an dinh hạ trại xong, Trưng Nhị nói với Công-tôn Thiệu.

    – Công-tôn sư huynh! Hồ Động-đình là nơi phát tích ra quốc mẫu đất Lĩnh Nam, vì vậy chúng tôi xin sư huynh cho mượn một con thuyền lớn, hành hương đất xưa của Quốc Mẫu.

    Công-tôn Thiệu cười:

    – Trưng cô nương là quân sư, nói rằng chỉ có dưới tại hạ, nhưng thực ra quyền trong tay quân sư, quân sư muốn điều động sĩ tốt thì mặc ý, việc gì phải khách sáo ?

    Đám hào kiệt Lĩnh-Nam cũng đòi đi cả, Trưng Nhị sai lấy một chiếc thuyền hai tầng rất lớn, có thủy thủ chèo, trên thuyền mang theo rượu thịt hoa quả.

    Vương Sa-Giang hỏi:

    – Sư tỷ! Em không phải là gái Lĩnh Nam, sư tỷ cho em đi theo được không ?

    Trưng Nhị biết Sa-Giang giỏi âm nhạc, cô thích các cuộc du ngoạn trên sông nước, ngắm cảnh hùng vĩ của tạo hoá, nàng vẫn có cảm tình với cô thiếu nữ nhu mì, lãng mạn này.

    Trưng Nhị vuốt tóc nàng:

    – Cuộc du ngoạn này mà có thêm Vĩnh-Hoa thì kết thành bộ ba mới thực là tuyệt, nhưng thôi, em với Lê Chân tấu nhạc cũng đủ rồi.

    Hôm ấy là đêm 14 tháng giêng trời đang tiết xuân, gió hồ thổi còn thấy lạnh. Nhưng quần hùng Lĩnh Nam được du ngoạn một thắng cảnh ghi lại mối tình của Quốc Tổ và Quốc Mẫu, lòng họ đều lâng lâng như gió xuân trên mặt hồ, trăng xuân rọi xuống hồ long lanh như một tấm thảm bạc, nối tiếp đến chân trời. Xa xa là dãy núi Tam-sơn và Quân-sơn.

    Trong các anh hùng Lĩnh Nam thì hầu hết là nữ, chỉ mình Lại Thế-Cường là nam, bên cạnh ông còn Tây-vu tam hổ-tướng, tam báo-tướng, Ngao-sơn Vi Đại-Lâm, Vi Đại-Sơn, tất cả tám người, họ là người sắc dân Mường, uống rượu như uống nước. Nên ông cùng họ quây quần uống rượu, họ ít nói, hiền lành, tính tình chân thực, từ hôm sang Trung-nguyên đến giờ, Ngao-sơn tứ lão không được xuất trận, bởi các ông chỉ huy đội chó sói, chuyên tuần phòng và bắt gian tế, hai ông được đối xử ngang hàng với những danh nhân như: Khất đại-phu, Đặng Thi-Sách, Trưng Nhị, bởi vậy hai ông không buồn rầu, tự an ủi với nhiệm vụ khiêm tốn của mình.

    Thuyền vượt sóng đi về phía Bắc, bỗng có tiếng hát véo von:

    Trúc xinh, trúc mọc bờ ao,
    Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
    Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
    Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

    Tiếp theo tiếng sáo vi vu bay bổng lên không trung, tiếng hát nhẹ nhàng như hương thơm hoa lan, hoa huệ, len lỏi theo gió xuân làm ấm lòng mọi người, tiếng sáo khi bổng khi trầm, như tỏa vào mặt hồ cùng với sóng róc rách đánh nhịp, khi cao lên tận mây xanh hòa với ánh trăng.

    Khúc hát hết, mọi người nhìn lại thì là Sa-Giang đứng dựa cột buồm, tay cầm ống tiêu, nàng mặc bộ quần áo trắng, trong đêm trông nổi hẳn lên. Dưới trăng xiêm áo bay phất phới, mọi người nhìn nàng ngây ngất như nhìn tiên nga đứng bên động Thiên-thai.

    Hồ Đề nhìn Sa-Giang nói:

    – Người ta đồn trong chuyến du ngoạn Thành-đô, Đào hiền đệ đã bị tiếng ca, giọng hát, tiếng tiêu, sắc đẹp mê hồn của sư muội, làm hồn phách bay phơi phới, có đúng thế không? Ta thấy sư muội hát bài ca bằng tiếng Việt, thì biết rằng người dạy sư muội là Đào hiền đệ.

    Quả thật Sa-Giang đang mơ màng nghĩ lại những đêm bên cạnh Đào Kỳ, hai người như hoa, như nước, tình yêu chan chứa. Nhưng Đào Kỳ vẫn giữ một lòng trung thành với Phương-Dung, duy trì tình trạng trong sạch giữa hai người. Những ngày đó, nàng thấy mê man đi trong nhịp yêu đương, nhưng nay Đào Kỳ một nơi, nàng một nơi, mà hai người có ở bên nhau chăng nữa, thì chàng cũng như hoa trong gương, bóng chim dưới nước mà thôi. Thấy thì thấy đấy, nhưng đưa tay nắm lấy muôn ngàn lần vẫn không được. Lê Chân là đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc, nàng lấy túi vải trên lưng xuống một cái đàn bầu, lên dây và bật lên những tiếng dài ngân vang. Sa-Giang mang đàn tỳ bà hòa theo, Phật-Nguyệt nhận ra đó là bản Động Đình ca của Trương Chi. Tiếng đàn bầu, đàn tỳ-bà hòa nhịp kéo dài, lẫn vào với tiếng sóng nước, khiến cho anh hùng Lĩnh Nam tưởng như mới năm nào Quốc Tổ đến đây cầu hôn vói Quốc mẫu, hai người đã đi du ngoạn trên bờ hồ này. Tiếng nhạc dứt, thuyền vẫn đi về phương Bắc, Sa-Giang cất tiếng ca:

    Đêm qua ra đứng bờ ao,
    Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ,
    Buồn trông con nhện dăng tơ.
    Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ nhớ ai ?
    Nhớ ai dạ những bồi hồi,
    Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.
    Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
    Nhớ ai, ai nhớ ? Bây giờ nhớ ai.
    Anh ơi "chua" "ngọt" đã từng,
    Non xanh đất đỏ xin đừng xa nhau.

    Tiếng ngâm theo điệu sa mạc của nàng cao vút lên từng mây, giọng đầy buồn, nhớ, thương, miệng ca, tay nàng vuốt nhẹ trên phím tỳ bà, Phật-Nguyệt nói:

    – Đào hiền-đệ quả là con người tài hoa, chỉ mấy ngày gần nhau mà y đã dạy Sa Giang được biết bao nhiêu câu hát tiếng Việt.

    Lê Chân chỉ vào một dãy núi xa xa nói:

    – Kìa là núi Tam-sơn, trong đó có một động lớn, tương truyền ngày xưa Quốc-Tổ với Quốc-Mẫu thành hôn rồi vào ở với nhau cả năm trời, chúng ta thử đến xem sao.

    Trưng Nhị ra lệnh thuyền đi vào phía Tam-sơn, hồ bấy giờ hẹp lạ, tuy nói là Tam-sơn nhưng thực ra chỉ là ba ngọn đồi nhỏ, thủy thủ cho thuyền ghé vào cạnh sườn núi.

    Phật Nguyệt kinh công cao nhất, nàng cầm sợi giây, nhún chân vọt người lên cao, lơ lửng trên không, đá gió một cái người bay vọt lên bờ, thân pháp đẹp không thể tưởng tượng được, nàng cần giây kéo mạnh, con thuyền ghé sát bờ, nàng cột đầu giây vào một gốc cây, thủy thủ đem ván bắc cầu, mọi người cùng lên. Trăng đã lên đến đỉnh đầu, ánh sáng tỏa xuống núi Tam-sơn đầy hoa mùa xuân. Mọi người theo sườn núi, leo lên đỉnh, họ là những người võ công cực cao, chỉ một lát đã tới, quả thực trên đỉng có cái hang đá, hang khá lớn, Lại Thế-Cường tiến vào hang đầu tiên, mọi người theo ông ngắm nhìn.

    Phật-Nguyệt nói:

    – Đây là động Tam-sơ, ngày xưa Quốc Tổ Kinh-Dương Vương, gặp Quốc Mẫu Long-Nữ ở chỗ này, không ngờ cuộc gặp gỡ đó nảy sinh ra chúng mình biết bao nhiêu mà kể.

    Lê Chân tiếp:

    – Cũng như mỗi chúng mình bây giờ là một, sau này phục quốc rồi có chồng, có con, ngàn năm sau giòng giống mỗi người sẽ tới hàng triệu, chúng du ngoạn hồ Động-đình, tới Tam-sơn ngoạn cảnh mà nói rằng: Thời Lĩnh-Nam tổ-mẫu Lê Chân trên đường phục quốc đã dừng bước ở chỗ này.

    Lê Chân rút dao ngắn vận công, khắc lên tấm đá bằng phẳng trên vách:

    Anh hùng Lĩnh-Nam trên đường phục quốc, dừng lại đây ngày 14 tháng giêng năm Đinh Dậu, giờ Dậu.

    Laị Thế Cường, Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Lê Chân, Phật Nguyệt, Vĩ Đại Lâm, Vĩ Đại Sơn, Thục Nữ Trung Sa Giang, Tây Vu Tam Hổ Tướng: Hoàng Hổ, Hắc Hổ, Bạch Hổ, Tây Vu Tam Bảo Tướng, Hoàng Báo, Hắc Báo, Bạch Báo.

    Vương Sa-Giang chỉ ra giữa khu đất bằng phẳng:

    – Kìa, giữa sân có pho tượng bằng đá, không biết ai tạc và tạc tượng ai thế kìa ?

    Trưng Nhị cùng mọi người chạy ra nhìn, giữa sân một bệ đá bằng phẳng, trên bệ là pho tượng, lớn như một người tầm thước, tượng bằng đồng hay đá màu đen, trong tư thức ngồi dưỡng thần luyện công, ánh trăng chiếu vào pho tượng, màu đen phản chiếu óng ánh.

    Lại Thế-Cường ngắm nghía nói:

    – Dường như người ta tạc tượng một người ngồi luyện công thì phải, song tư thức rất đặc biệt, hai bàn tay chắp lại để trước ngực.

    Hồ Đề là người tinh nghịch bậc nhất, nàng nhún chân nhảy vọt lên cao, đáp xuống bệ đá, rồi tiến lại gõ tay lên đầu nhẵn bóng của pho tượng, nàng nói vọng xuống :

    – Kỳ lạ không? Đêm xuân lạnh thế này mà sao đầu pho tượng ấm quá và mềm như nhung vậy.

    Thuận tay nàng gõ xuống đầu pho tượng ba cái, bỗng nàng rụt tay lại kêu lên một tiếng đau đớn:

    – Ôi! Đau quá!

    Nguyên nàng gõ cái thứ nhất êm như gõ vào đầu người, đến cái thứ nhì thì hơi cứng, đến cái thứ ba thì tay tê chồn. Thấy kỳ lạ nàng vận sức vào tay ấn xuống đầu pho tượng một cái, một luồng kình lực nhu hòa bật tay nàng lên, Hồ Đề cả kinh vận sức đứng vững, nhưng không tự chủ được, sức từ đầu pho tượng hất nàng bay vọt lên cao. Ở trên cao nàng phóng chưởng đánh xuống đỉnh đầu pho tượng, chưởng lực của nàng khá hùng hậu, trúng vào đầu pho tượng đánh binh một cái, người nàng lại bay lên cao hơn nữa kèm theo tiếng kêu:

    – Chết!

    Trưng Nhị gần Hồ Đề đã lâu, biết tính nàng can đảm, gan dạ, dù nguy hiểm đến đâu cũng không sợ hãi, dù đau đớn đến đâu cũng không kêu. Bây giờ chỉ sờ vào đầu pho tượng mà kêu đau, người vọt lên cao, thì phải có cái gì quái đản lắm, rồi từ trên cao nàng phóng chưởng xuống, với chưởng lực của nàng dù đánh vào vật gì thì cũng chỉ bật lên một chút. Nay tại sao nàng bật lên cao như bị ai nắm lấy tung lên trời vậy? Trên đời này chỉ có Khất đại-phu, Đào Kỳ mới cô công lực liệng một người lên cao như vậy.

    Hồ Đề rơi xuống phía ngoài phiến đá, ngã xuống đất cái bịch, Phật Nguyệt vọt tới bồng nàng xuống hỏi:

    – Sao ? Sao ? Cái gì vậy.

    Vì với bản lĩnh của Hồ Đề, khi rơi xuống đất đâu đến nỗi không đứng được, mà ngã lăn ra ?

    Hồ Đề nhăn nhó, hai tay xoa vào nhau nói:

    – Không phải tượng đá đâu, mà là quỉ, con quỉ này ghê gớm lắm. Tôi mới sờ vào đầu bị nó hất ngược lên cao, từ trên cao tôi đánh xuống một chưởng, bị nó dùng kình lực hất lần thứ hai, cánh tay tôi tê dại.

    Trong đầu óc Phật Nguyệt hiện ra biết bao nhiêu vấn đề:

    – Nhìn tư thế Hồ Đề bị hất lên cao, thì rõ ràng bị người có nội công thượng thừa đánh, nhưng trên đời này làm gì có người đạt tới mức chỉ sờ vào mà bị hất lên như vậy? Dù Khất đại-phu, Đào hiền-đệ, muốn hất một người lên cao, cũng phải đứng dậy, vận hết sức mình, chứ đâu chỉ ngồi bất động mà phát kình lực huyền diệu đến thế ? Người này là ai, đêm xuân lên phiến đá giữa chốn hoang sơ ngồi luyện công ?

    Lại Thế-Cường nhiều kinh nghiệm giang hồ, ông vẫy tay cho mọi người đứng im, rồi tiến lại quan sát, ông lắng tai nghe xem nếu có tiếng hô hấp thì là người, còn không thì là tượng. Nhưng tuyệt nhiên ông không nghe tiếng hô hấp, cũng không thấy ngực nhô lên thụp xuống, vậy là tượng rồi, là tượng thì tại sao có thể dùng nội công thượng thừa hất Hồ Đề lên cao như vậy?

    Ông nhảy lên phiến đá, dùng tay phất qua phất lại trên đầu pho tượng, thấy như không có phản ứng gì. Ông ông đưa tay sờ vào đầu pho tượng thì cảm thấy một luồng điện cực kỳ mãnh liệt, nhu hòa truyền vào thân thể ông. Ông trấn tỉnh vận khí kìm lại, nhưng vẫn bị luồng điện đó hất vọt lên không. Ở trên không ông đá gió một cái người bắn ngược trở lại đáp xuống an toàn.

    Trưng Nhị hỏi:

    – Sư-bá, cái gì vậy ?

    Lại Thế-Cường lắc đầu:

    – Ta cũng không biết rõ ràng người hay tượng nữa ?

    Ông bảo Trần Năng:

    – Cháu xuất thân từ phái Tản Viên, được Khất đại-phu truyền nội công thượng thừa, vậy cháu thử sờ vào đầu pho tượng xem sao ?

    Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao.

    Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao.

    Trưng Nhị thấy Hồ Đề, Lại Thế-Cường đều bị hất ngược lên, nhưng không cao bằng nửa Trần Năng, Trần Năng bị hất cao lên ba trượng là ít, nàng tà tà rơi xuống đất, nàng nói:

    – Người chứ không phải tượng, vì có hơi nóng, người này nội công cao hơn sư phụ và Đào sư-thúc nhiều, có lẽ y không có ác ý với chúng ta nên kình lực phát ra nhu hòa, nội công cương nhu hợp nhất, chính đại quang minh chứ không phải tà môn.

    Phật-Nguyệt tính ôn tồn, bước đến trước pho tượng chắp tay:

    – Chúng tôi tất cả đều thuộc võ lâm Lĩnh Nam, nhân đi hành hương Động-đình tìm di tích Quốc Tổ, lầm lộn tôn-giá với pho tượng có đôi chút mạo phạm, mong tôn-giá đại xá cho.

    Pho tượng cũng không đụng đậy, dưới ánh trăng da đen bóng của pho tượng phản chiếu óng ánh.

    Trưng Nhị nghi hoặc hỏi Trần Năng:

    – Sư thúc! Sư thúc có thấy hơi nóng từ pho tượng thật không ?

    – Thực! Tôi sờ vào thấy ấm áp và dễ chịu lắm, da đầu mềm mại như nhung vậy.

    Lê Chân là người nóng nảy, nàng lấy đá lửa đánh lên, rồi tìm cây khô bó thành đuốc, soi sát vào pho tượng, bất giác mọi người cùng ồ lên một lượt, vì đúng là một người, nhưng mũi hơi cao, bụng phệ, lưng choàng một tấm vải màu vàng, da đen bóng như tượng đồng.

    Lê Chân nói:

    – Tại sao lại có người đen đến như thế này ?

    Trưng Nhị đọc sách nhiều, nàng đáp:

    – Tôi nghe phía Tây-nam Trung-nguyên có một xứ tên là Tây-trúc, người ở đây hiền hậu, đời sống văn minh như Trung-nguyên, nước da của họ đen bóng như tượng đồng thoa mỡ, người này chắc thuộc xứ Tây-trúc đây ? Thôi chúng ta đi, không nên quấy phá cuộc luyện công của người.

    Ngao Sơn Vi Đại-Lâm bàn :

    – Người này nước da đen bóng, người không ra người, quỉ không ra quỉ, vậy lão để cho con Thần-ngao lên đánh hơi, hễ là người chân chính hay ma quỉ thì biết ngay.

    Hồ Đề chợt nhớ ra, đàn Thần-ngao của Tây-vu rất giỏi trong việc phân loại người, gian tế hoặc tà môn, chúng sẽ sủa ầm lên, còn người chính phái thì nó vẫy đuôi mừng. Đi đâu mỗi người trong Ngao-sơn tứ lão đều mang theo một Thần-ngao sai khiến, Vị Đại-Lâm chỉ vào pho tượng huýt sáo, con Thần-ngao nhảy vọt lên bệ, mọi người im lặng quam sát, nó đi quanh pho tượng ngửi một lúc, rồi nằm phục xuống bên cạnh, đuôi vẫy liên tiếp. Cử chỉ này nó muốn tỏ ra quì lạy, nó chỉ làm việc đó với Hồ Đề và Ngao-sơn tứ lão mà thôi, bây giờ nó cũng làm với pho tượng.

    Vi Đại-Lâm đến trước pho tượng quì xuống lạy tám lạy, rồi ông khấn một loạt tiếng Mường.

    Mọi người cùng nhìn Hồ Đề, nàng giải thích:

    – Thông thường ở Tây-vu thần linh giáng nhập vào người nào, thì Thần-ngao cũng cúi đầu tuân phục, hành lễ như vậy. Vi Đại-Lâm thấy Thần-ngao quì gối hành lễ, thì biết rằng người này là Thần-nhân.

    Lại Thế-Cường là người cao niên nhất, ông chắp tay hướng người Tây-trúc vái chào:

    – Chúng tôi người Lĩnh Nam qua dây vô tình gặp tôn-giá, quấy nhiễu tôn-giá, thật đắc tội, mong tôn-giá lượng thứ cho.

    Cả bọn lại theo sườn núi đi trở xuống, họ không ngớt bàn truyện Tây-trúc, Trần Năng nói:

    – Người này nội công cao hơn Sư-phụ với Đào sư-thúc nhiều, không hiểu họ thuộc võ lâm Trung-nguyên hay võ lâm Tây-trúc, chúng ta nói năng bàn tán mà tuyệt nhiên người đó không động đậy. Trấn nhiếp tâm thần như vậy, quả thật hiếm có trên đời.

    Cả bọn theo tấm ván cầu xuống thuyền, Phật-Nguyệt đi đầu tiên, bỗng nàng kêu lên một tiếng :

    – Ái chà!

    Rồi nhảy lùi trở lại, mọi người nhìn theo tay nàng chỉ, thấy pho tượng Tây-trúc đang ngồi giữa sàn chiến thuyền. Trưng Nhị kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì lúc cả bọn xuống núi thì tượng đồng vẫn còn ngồi đó, thế mà thoáng một cái đã xuống thuyền từ hồi nào ? Trên thuyền đầy thủy thủ mà tượng đồng xuống không ai phát giác ra.

    Trưng Nhị biết người này võ công kinh công tuyệt trần, nhưng không có ác ý, nàng chắp tay nói:

    – Tôn giá quá bộ tới đây chơi, chúng tôi chậm chân về trễ không tiếp đãi chu đáo, mong tôn giá thứ lỗi.

    Người Tây-trúc đứng dậy, chắp tay xá mọi người, ông nói chậm chạp:

    – Các vị thí chủ với bần tăng vốn có tiền duyên, cộng nghiệp thì phải gặp nhau, đã là tiền duyên đâu cần phải đón, lễ nghi ?

    Lời nói ôn nhu, ngụ ý cao xa, huyền bí, khiến Trưng Nhị thêm kính trọng, nàng mời ông vào khoang thuyền, truyền pha trà đãi khách, Trưng Nhị chắp tay:

    – Chẳng hay tôn giá quí tánh cao danh là gì ?

    Người Tây Trúc chắp tay nói:

    – Bần tăng đi tu thì cái tên cái họ đều bỏ hết, khi mặc áo Như Lai vào nhà Như Lai chỉ còn pháp-danh mà thôi, bần tăng pháp danh Tăng Giả Nan Đà, bần tăng mới từ Tây-trúc qua Trung-thổ hoằng dương đạo pháp của Đức Thế Tôn, bần tăng mới học viết chữ Hán, nói năng còn ngượng ngập.

    Tất cả đều ngạc nhiên, vì thời bấy giờ là năm thứ ba mươi chín sau Tây lịch, đạo Phật chưa truyền qua Trung-thổ cũng như Lĩnh Nam. Người nổi tiếng kiến văn quảng bác như Trưng Nhị mà cũng chưa nghe qua.

    Trưng Nhị hỏi:

    – Tăng Giả Nan Đà tiên-sinh, tiểu nữ chưa từng nghe trên thế gian này có một tôn-giáo của Đức Thế Tôn, mong tiên sinh thuyết giảng cho. Đạo của Đức Thế Tôn gọi là gì ?

    – Tiếng bình dân gọi là đạo Phật.

    Phật-Nguyệt liếc nhìn Tăng Giả Nan Đà, tự nhiên trong tâm nàng mở rộng ra một cách kỳ lạ, nàng chắp tay hướng về ông lạy ba lạy:

    – Sư phụ! Sư phụ, nói giữa chúng con có tiền duyên, có cộng nghiêp. Vậy thế nào là tiền duyên, thế nào là cộng nghiệp?

    Tăng Giả Nan Đà nói:

    – Thí chủ ngồi xuống!

    Phật-Nguyệt ngồi xuống ván thuyền, xếp chân bàn tròn như Tăng Giả Nan Đà, hai tay chắp lại trước ngực.

    – Được rồi, thí chủ nhắm mắt lại.

    Phật Nguyệt nhắm mắt lại.

    – Bây giờ thí chủ buông lỏng cơ thể, cố quên đi mọi vật xung quanh, từ hình dáng đến mầu sắc sự vật, rồi bỏ ra ngoài âm thanh của chúng ta.

    Ông nói đến đâu Phật-Nguyệt làm theo đến đó, tự nhiên trước mắt hiện lên một vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, có chim ca hót líu lo, trong đó có đủ mọi người quen biết, từ sư phụ Nguyễn Phan cho đến Khất đại-phu, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Công-tôn Thuật v.v..., không thiếu một ai, nàng nhìn về phía xa xa một người khoác áo vải trên lưng giống như Tăng Giả Nan Đà, ông ngồi trên bệ đá tham thiền, tư thái ung dung nhàn hạ, nàng đến trước mặt ông quì xuống lạy:

    – Sư phụ! Sư phụ! Thương xót đệ tử, giảng cho con ý nghĩa cao sâu của Đức Thế Tôn.

    Tăng Giả Nan Đà vẫy tay nói:

    – A Di Đà Phật. Thiện tai! Thiện tai!, người đã xin ta như vậy là đã có duyên với nhau, kiếp sau dù thế nào chăng nữa cũng lại tái ngộ.

    Bất thình lình Tăng Giả Nan Đà quát một tiếng, Phật-Nguyệt tỉnh giấc, mở mắt ra, thở phào một cái, nàng đứng dậy nói:

    – Đệ tử hiểu rồi, Sư phụ! Có phải lúc ở trên núi Tam-sơn, sư phụ đã dùng phép này để trấn nhiếp tâm hồn, khiến cho bao nhiêu người đánh vào không làm cho sư phụ chuyển động, có phải thế không ? Phép này gọi là phép gì mà huyền diệu như vậy?

    Tăng Giả Nan Đà đáp:

    – Đó là phép Thiền của nhà Phật, thiền là pháp môn tối cao để đi vào Vô Thượng Bồ Đề, tức thoát khỏi cảnh luân hồi. Pháp môn này lấy yếu chỉ từ kinh Kim Cương, Lăng Gìa, nếu có thiện duyên bần tăng sẽ giảng cho thí chủ nghe.

    Trần Năng hỏi:

    – Sư phụ! Lúc ở trên núi, tiểu nữ chỉ vận khí, đụng vào đầu sư phụ, mà bị kình lực hất đến bay vọt lên cao. Dường như sư phụ không biết dùng cách hất lên, mà chỉ do chân khí tự động phản ứng mà thôi.

    Tăng Giả Nan Đà đáp:

    – Phu nhân ngộ tính thật cao, bần tăng có ba phép Thiền, một Thiền Tuệ đi đến giác ngộ, vào được Vô Thượng Bồ Đề Đắc quả, hai Thiền Lực làm cho sức khỏe con người tăng lên gấp bội, giống như cô nương luyện nội lực vậy. Ba Thiền Y, người mới tập sẽ chữa được bệnh mình, người luyện tới mức cao có thể dùng chân khí của mình trị bệnh cho người. Bần tăng biết luyện cho thân thể khỏe mạnh, chứ không biết cách xử dụng hất người lên cao.

    Trưng Nhị thông minh tuyệt đỉnh, nàng nghĩ ra một điều:

    – Chúng ta luyện nội lực, nội công cao có thể dùng khí lực tấn công người, vì chúng ta ở trong thế giới chém giết, tàn hại nhau. Còn đại-sư không bao giờ nghĩ tới, tưởng tới, dùng chân khí mà đánh người, vì đại-sư ở trong thế giới từ bi bác ái, chỉ luyện công tự giải thoát, nếu chúng ta học được pháp môn Thiền của đại-sư rồi áp dụng vào nội công, chiêu thức sẽ trở thành anh hùng vô địch trong thiên hạ. Tiếc rằng Khất đại-phu và Đào tam-lang không có ở đây, bằng không họ có thể hợp Thiền với đại sư, với nội công Văn-Lang làm một. Nàng nói:

    – Đại-sư đệ tử dám thỉnh nguyện đại sư thuyết giảng cho bọn ngu tối chúng tôi những lẽ huyền vi của đạo Phật.

    Tăng Giả Nan Đà chắp tay đáp lễ:

    – A Di Đà Phật, phúc đức quá, các vị với bần tăng có cộng nghiệp với nhau từ tiền kiếp, hôm nay bần tăng xin thuyết về nguồn gốc đạo Phật. Trước hết đạo Phật không có chỗ khởi đầu, cũng không có chỗ cuối cùng, để hiểu rõ hơn, các vị hãy nghe về lịch sử Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là Giáo-chủ của thế giới chúng ta ở, trong đạo Phật gọi thế giới này là thế giới Ta Bà.

    Hồ Đề là người thực tế, nàng hỏi:

    – Bạch đại-sư, thế giới Ta Bà gồm có Trung-nguyên, Lĩnh Nam, Tây-trúc hay có nhiều xứ khác nữa ?

    – Hồ cô-nương hỏi thực phải, Trung-nguyên, Tây-trúc, Lĩnh Nam v.v..., thuộc về mặt đất, mặt đất nằm trong thế giới Ta Bà, trên mặt đất này có đến mấy trăm nước khác nhau mà cô nương chưa biết đó thôi, nào là: Trung-nguyên, Tây-trúc, Lão-qua, Hồ-tôn, Cao-ly, Mông-cổ, tất cả các xứ đó cô nương có thể dùng ngựa dùng xe, dùng chân đi tới, mặt đất chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới Ta Bà, thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất khác, mà cô nương không thể dùng chân, dùng xe, dùng thuyền đi tới được.

    Vi Đại-Lâm hỏi:

    – Mặt trăng, mặt trời, có thuộc về thế giới Ta Bà không?

    – Có chứ, mặt trời là một khối lửa, cháy trong thế giới Ta Bà, cứ mỗi 365 ngày 11 giờ, 98% của giờ, mặt trời đi hết một vòng trở lại chỗ cũ, vòng của mặt trời cách xa mặt đất không đều, nên chúng ta có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, còn mặt trăng là một khối đất giống như chúng ta, trên đó không có người ở.

    Sa-Giang hỏi:

    – Như vậy trong thế gian có nhiều thế giới, thế giới Ta Bà là một, trong thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất?

    Tăng Giả Nan Đà gật đầu:

    – Đúng thế, thế giới Ta Bà dịch sang tiếng Hán là: Nhẫn, đại nhẫn, kham nhẫn trong thế giới Ta Bà nhà tu phải kham nhẫn, chịu sự nhẫn nhục, vì thế giới có đủ sự trược ác mà chúng sinh phải chịu. Trong thế giới Ta Bà có năm giới chúng sinh ở với nhau: Địa ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Thiên và Nhân, đạo Phật nói tới cõi Liên-hoa có hai chục tầng thế giới, cõi Ta Bà ở tầng thứ mười ba, gồm nhiều thế giới nhỏ, trong mỗi thế giới nhỏ có ba cõi Dục giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, chia làm bốn Châu: Thánh-thần châu, Tây-ngưu hoa châu, Nam-thiện bô châu, Bặc-cư lư-châu và một núi Tu-di, tổng cộng thế giới Ta Bà có một ngàn triệu thế giới nhỏ.

    Phật Nguyệt thở dài:

    – Thưa đại sư, đúng như đại-sư nói, chúng ta ở thế giới Ta-Bà này khổ quá, mới sinh ra đã khóc oe oe. Bệnh tật, đói khổ, thương nhớ, bệnh giết người, thiên tai giết người, người giết người, có thế giới nào mà ta không khổ như thế giới Ta Bà không? Khi lên đó không cần chém giết nhau nữa, người người thương nhau.

    Nan Đà đáp:

    –Có, thế giới đó là thế giới Tịnh-độ.

    – Ở như vậy thành Tiên rồi còn gì nữa, thỉnh đại-sư nói về thế giới đó, dạy bọn đệ tử có thể đến được.

    Nan Đà vẫn cười tủm tỉm:

    – Tịnh nghĩa là sạch, đó là cõi đất tinh sạch, Quốc Độ Nghiêm Tịnh do Phật cai quản, nơi trú ngụ của hàng thánh giả: La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Ấy là cõi không nhiễm nhơ bẩn Ngũ Trược, trong kinh Phật gọi là Phật-địa, Phật-giới, Phật-quốc, Phật-độ, Tịnh-sát, Thanh-tịnh-độ, Tịnh-điều-quốc-độ. Trong thập phương phế giới nhà Phật có nhiều cõi Tịnh-độ và cũng có nhiều giới Uế-độ, Trược-độ như chúng ta, thế giới cực lạc nghĩa là sung sướng vô cùng, thế giới này là của Phật A Di Đà tức là thế giới Tịnh-độ, còn thế giới Ta-bà là của Phật Thích Ca Mâu Ni.

    Hồ Đề gật đầu:

    – Nghe đại sư nói về thế giới Tịnh-độ đệ tử thấy thèm quá, vậy có cách nào về thế giới ấy không ? Đại-sư giúp đệ tử về thế giới Tịnh-độ đó đi.

    – Bần tăng không giúp được cô nương, bần tăng cũng không giúp được ai cả.

    Hồ Đề không chịu:

    – Tại sao?

    Nan Đà đáp:

    – Muốn vãng sinh về thế giới đó, thì tự mình làm lấy, chứ không nhờ người khác giúp cho mà được, tự mình là tại sao? Là phải theo Pháp môn tịnh độ tông. Đó là một môn phái dạy niệm Phật được vãng sinh tịnh độ, tức sau khi chết, đức Phật A Di Đà đón chúng ta về thế giới đó. Chúng ta đầu thai làm hài nhi, lớn lên, sinh sống.

    Trăng xuân chiếu xuống mặt hồ Động-đình lung linh như muôn ngàn ánh vàng, tiếng Tăng Giả Nan Đà thao thao bất tuyệt, giọng ngài sang sảng khiến anh hùng Lĩnh Nam say mê, không còn biết gì nữa, đám thủy thủ cũng kính cẩn chắp tay ngồi nghe.

    Trời gần sáng Tăng Giả Nan Đà kết luận:

    – Trung thổ có đạo Nho, đạo Nho nói phần xác, đạo Phật nói phần hồn, đạo nho dạy cách ăn ở lúc sống, đạo Phật dạy làm sao thoát khỏi cảnh luân hồi, sinh tử.

    Tăng Giả Nan Đà thuyết thao thao bất tuyệt, mỗi câu, mỗi lời nói của ngài, đều khiến mọi người cảm thấy sảng khóai tâm hồn, người ngây ngất, muốn bay lên cao.

    Trưng Nhị chắp tay nói:

    – Hòa Thượng đã dạy giữa người với chúng con có tiền duyên, vậy xin người dời gót ngọc sang kia hồ Động-đình với chúng con, không biết có được không ?

    Tăng Giả Nan Đà cười tủm tỉm gật đầu.

    – Được chứ! Được chứ! Bần tăng xin theo chư vị, để chúng ta đàm đạo Phật pháp.

    Quần hùng gặp Tăng Giả Nan Đà, người nào cũng cảm thấy hào hứng, nhẹ nhàng lâng lâng như gặp buổi trời xuân bình minh.

    Phật Nguyệt sai dọn riêng một lều cho ngài ở. Trần Năng kể cho Công-tôn Thiệu nghe về cuộc gặp gỡ kỳ lạ đêm qua, Công-tôn Thiệu vội vàng đến tham kiến Tăng Giả Nan Đà, truyền binh sĩ phụ trách hàng ngày cơm chay cúng dường. Thiệu dặn các tướng để ngài tự do muốn ra vào doanh trại, thuyết pháp cho tướng, sĩ mặc ý, ngài cần gì phải lễ phép cung ứng đầy đủ.

    Công-tôn Thiệu bàn về cuộc tiến binh đánh Trường-sa, Linh-lăng, Phật-Nguyệt bảo Trưng Nhị:

    – Sư tỷ! Bây giờ tôi với Trần Năng vào thành thám thính tình hình, Tượng-quận tam anh xem sự thể ra sao, trước khi tiến binh.

    Trưng Nhị gật đầu đồng ý.

    Phật-Nguyệt, Trần Năng hóa trang thành hai thiếu nữ vùng Trường-sa, lấy ngựa hướng thành tiến tới.

    Từ xa hai người thấy binh sĩ đi lại trên thành, tuần phòng nghiêm ngặt, cửa thành vẫn mở giáp sĩ đi lại bên ngoài. Hai người đã quen với lối tổ chức, kiểm soát của quân Hán, thản nhiên đi tới, lính canh thấy hai thiếu nữ xinh đẹp, lưng đeo bảo kiếm, cỡi ngựa khoan thai vào thành, cho là tiểu thư con nhà quan nào đó, nên không hỏi han gì cả. Hai người cứ nhắm giữa thành đi vào, trong thành dân chúng tấp nập rất đông, nhà cửa xây bằng gạch hoặc bằng gỗ san sát nối nhau. Trai thanh gái lịch thản nhiên như không biết chiến tranh tới gần, hai người đi cửa Bắc đến cửa Nam rồi vòng sang cửa Đông rồi cửa Tây.

    Trần Năng bàn:

    – Nếu bây giờ chúng ta vào quán ăn uống thì bị Tế-Tác Hán phát giác ngay, vì vậy chúng ta kiếm một ngôi đền, miếu nào ẩn thân tối hãy hành sự thì hơn.

    Phật-Nguyệt đồng ý đến một ngôi miếu bỏ hoang ở góc thành, miếu thờ vua Văn-Vương đời Chu. Trên bệ có ngôi tượng Văn-Vương ngồi giữa, hai bên có tượng Chu-Công, Khương Thái-công, Phật-Nguyệt lấy cơm nắm muối vừng của Trần Năng ăn, rồi cả hai nhắm mắt dưỡng thần, Phật-Nguyệt nhớ lại tư thức ngồi thở hít của Tăng Giả Nan Đà dạy, đầu tiên tập trung tinh thần, nhắm mắt bỏ ra ngoài những hình ảnh trong tư tưởng rồi tự trầm lại, không suy nghĩ nữa đến lúc đó nàng đã tự mình biến đi.

    Nàng nhớ Tăng Giả Nan Đà đã giảng:

    – Hãy bỏ ra ngoài những âm thanh, nghe mà không phân biệt đó là vong tỵ, tức mất đi cái mũi, không nói là vong thiệt, tức mất đi cái lưỡi, bỏ ra ngoài những hình ảnh trước mắt là vong nhãn, tức là mất đi cả con mắt. Khi đã không nói, không nghe, không thấy, thì cái thân cũng biến đi mất đó là vong thân thân biến đi rồi trầm lặng không nghĩ, đó là vong ý. Trong Kinh Kim Cương gọi là: Vô, nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, tức là nhập đạo đi vào tới cái vô cùng của Bát Nhã Ba La Mật vậy.

    Phật Nguyệt làm thử một lát không còn biết gì nữa, nàng trầm đi như vậy không biết bao nhiêu lần, thì Trần Năng vỗ vào lưng.

    – Sư-tỷ! Ngủ vậy đủ rồi, chúng ta thám thính phủ Mã Anh đi.

    Phật-Nguyệt tỉnh dậy, người khoan khoái nhẹ nhàng không bút nào tả xiết. Đầu óc minh mẫn sáng suốt, như vừa uống xong chung nước trà thơm tho, nàng nghĩ thầm:

    – Tư thức thở hít, vận khí, dưỡng thần mà Tăng Giả Nan Đà dạy ta được gọi là phép thiền tuệ. Thiền Tuệ là pháp môn của nhà Phật thật huyền diệu, ta mới ngồi dưỡng thần một lúc mà đã vậy, nếu ngày nào ta cũng ngồi chỉ vài năm, con người trở thành thanh thản, không lo, không sợ, không buồn, không giận, có khác gì tiên không ?

    Nàng cùng Trần Năng hướng dinh Thái-thú đi tới, trước dinh vệ sĩ canh gác nghiêm mật, hai người nhảy qua hàng rào vào trong, rồi nhảy lên mái nhà, theo mái nhà truyền đến lầu cao có đèn sáng trưng từ trong nhà chiếu ra.

    Hai người bám cửa sổ, lấy ngón tay nhúng vào miệng cho ướt, để vào cửa sổ giấy, giấy nhũn ra thành lỗ nhỏ, hai người ghé mắt nhìn vào trong. Một người ngồi giữa tướng mạo hùng vĩ giống Mã Viện như đúc, trẻ hơn một chút, chắc là Mã Anh, bên cạnh là ba người tuổi gần năm mươi, một người to béo, cao lớn, một người lùn tịt và một người cao nghệu.

    Trần Năng nghĩ:

    – Công-tôn Thiệu bảo rằng Tượng-quận tam anh ở vai sư thúc của Mã Viện, người to lớn kia chắc là Hàn Bạch, người cao nghệu kia chắc là Vương Hồng, còn người lùn tịt chắc là Chu Thanh.


    #2
      CDDLT 22.12.2004 17:48:33 (permalink)
      HỒI THỨ 23

      Nhớ xưa kia, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang,
      Cũng một giấc mơ màng trong vũ trụ.

      (Tản Đà, Đời đáng chán)



      Người thứ tư ngồi đối diện với Mã Anh là Việt-kị hiệu-úy Trương Linh. Phật-Nguyệt nhớ lại hôm đến Trường-an, y có lời lẽ chống đối Nghiêm Sơn, sau khi đấu chưởng với Trưng Nhị, Khất đại-phu nhắc Trưng Nhị đánh bại y. Không biết y tới đây từ lúc nào, để làm gì ?

      Trương Linh nói:

      – Thái-hậu cho rất nhiều cao thủ xuống Quế-lâm truy lùng tin tức y thị mà không thấy. Không ngờ trong lúc đó y thị lại bỏ Quế-lâm lên Linh-lăng, có thể nay mai tới Trường-sa. Vì vậy Thái-hậu mậët sai tôi tới đây truyền lệnh cho Quốc-cữu, bằng mọi giá phải tìm ra y thị mang về nộp. Thái-hậu hứa thăng Mã tướng-quân lên chức Thứ-sử bất cứ vùng nào Quốc-cữu muốn.

      Mã Anh đáp :

      – Ân chỉ của Thái-hậu, dĩ nhiên tôi phải làm cho hết sức, có điều Trường-sa đang bị quân Thục từ Kinh-châu đánh xuống. Đại quân gần mười vạn người, hiện đã tới hồ Động-đình, ngày mai chắc chắn sẽ có cuộc giao tranh lớn. Tôi phải chống giặc, khó mà chu toàn chỉ dụ của Thái-hậu.

      Trương Linh gật đầu :

      – Tôi hiểu cái khó khăn của Quốc-cữu, nhưng nếu mất Trường-sa chưa chắc Quốc-cữu đã bị tội, còn không thi hành ân chỉ của Thái-hậu e rằng chúng ta không còn chỗ đội nón.

      Mã Anh tỉnh ngộ:

      – Hiệu-úy nói đúng, tôi cho Tế-tác đi khắp nơi trong vùng Trường-sa, Linh-lăng nghe ngóng tin tức y thị, nếu gặp y thị phải bắt bằng được, mang về Lạc-dương để Thái-hậu phát lạc. Tôi nghĩ có lẽ y thị đến Trường-sa hơn là Linh-lăng, vậy muốn bắt y thị phải giữ Trường-sa bằng mọi giá trong một thời gian nữa, nhưng Trường-sa quân mình ít quân giặc đông, khó giữ lâu được.

      Trương Linh bàn:

      – Tốt hơn hết, chúng ta cố thủ, không xuất trận, với lương tiền trong kho, ít ra cũng còn đủ cho quân ăn 6 tháng. Bấy giờ viện-quân tới, Quốc-cữu còn lo gì nữa ?

      Hàn Bạch lên tiếng :

      – Quân Thục mới đến, còn mệt mỏi, đêm nay chúng ta bất thần xuất thành cướp trại, tất thắng lợi.

      Trương Linh lắc đầu:

      – Hàn tướng-quân chớ nên khinh địch, Công-tôn Thiệu là một trong những người trí dũng song toàn, một tay cầm quân vùng Kinh-châu. Kiến-Vũ thiên-tử cách chức, giam Nghiêm Sơn, sai sứ giả truyền lệnh trễ có mười lăm ngày, mà y đã cùng với Trưng Nhị đánh lừa Phục-ba tướng-quân, nắm lấy quyền, dùng binh phù chiếm tất cả thành Thục bị mất, và chỉ một ngày lấy mất bảy quận Kinh-châu. Trường-sa, Linh-lăng ở xa, chứ nếu ở gần thì đã mắc lừa rồi. Bên cạnh y còn có đám anh hùng Lĩnh Nam như Trưng Nhị mưu trí tuyệt vời, võ công cao hơn tôi. Phật-Nguyệt kiếm thuật thần thông, đến Hoài-nam vương còn bị bại, nay chúng ở xa tới, tất đề phòng nghiêm mật, chúng ta cướp trại chưa chắc đã thành công.

      Vương Hồng gật đầu :

      – Được, vậy chúng ta đóng cửa thành, không giao chiến. Đợi ít ngày, giặc không đề phòng, chúng ta tiến quân đến Nam hồ Động-đình, đốt lương thảo. Giặc từ xa đến, quân đông nếu lương thảo tuyệt, lòng quân loạn, ta chỉ đánh một trận thì thành công.

      Trương Linh nói:

      – Trong thời gian đó chúng ta phải dò tin tức y thị.

      Mã Anh cầm lấy tờ chỉ dụ của Thái-hậu kính cẩn khép lại, mở tráp cho vào trong, khóa cẩn thận rồi nói :

      – Mời Hiệu-úy sang phòng bên cạnh, tôi xin được khoản đãi Hiệu-úy một bữa no say, sáng mai chúng ta cùng nhau dò la tin tức.

      Bọn Mã Anh, Trương Linh đi rồi, Phật-Nguyệt nhảy vào trong phòng. Nàng lấy cái tráp của Mã Anh, định nhảy ra ngoài, nhưng tính tình tinh nghịch, nàng cầm bút viết lên tờ giấy mấy chữ :

      Quần hùng Lĩnh Nam bái kiến Tượng-quận tam anh

      Sau đó, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Hai người chờ trời sáng lên ngựa trở về dinh Thục.

      Trần Năng kể cho Trưng Nhị nghe chi tiết mọi truyện, rồi đưa tờ mật chỉ của Thái-hậu cho nàng coi.

      Trưng Nhị nói:

      – Không biết đây là việc gì mà Thái-hậu đứng ra lo liệu? Có lẽ việc riêng của Thái-hậu, chứ nếu là việc công, chính Hán Quang-Vũ phải làm chứ ?

      Nàng cầm chỉ dụ mở ra đọc, ngoài bao thư có hàng chữ Cháu là Mã Anh, Thái-thú Trường-sa khai khán. Bên trong có bức thư, nét chữ không lấy gì làm đẹp lắm, có lẽ là thủ bút của Thái-hậu :

      Kể từ khi cô về Lạc-dương không được gặp cháu nữa. Nhưng lòng cô lúc nào cũng nghĩ tới cháu. Hiện nay Mã Viện đang cầm đại quân đánh vào Ích-châu, nếu Mã Viện bắt được Công-tôn Thuật, cô sẽ nói với Thiên-tử phong cho tước Công, làm chúa Ích-châu, đời đời hưởng lộc.

      Bấy giờ cô cũng nói với Thiên-tử, cất nhắc cháu lên làm Thứ-sử Kinh-châu, sở dĩ cô cất nhắc cháu làm Thứ-sử Kinh-châu vì mong cháu làm cho cô việc ấy. Trong thiên hạ hiện giờ chỉ có cháu giúp được mà thôi. Cô bỏ ra nhiều vàng bạc châu báu, đi tìm tông tích y thị, gần đây cô khám phá ra y thị hiện ẩn náu ở Quế-lâm. Cháu có biết y thị là ai không? Thì ra y thị là nhũ mẫu Nghiêm Sơn, không biết y thị có nói chuyện kia với Nghiêm Sơn không? Cô chắc là không, vì nếu y thị nói với Nghiêm Sơn thì Nghiêm đã tâu với Kiến-Vũ, cô cháu ta đâu có còn sống tới ngày nay và y thị đâu có còn ở Quế-lâm, cho nên cô phải hạ thủ trước. Cô gửi mật chiếu đi khắp nơi, dò la tin tức Nghiêm Sơn, may ra cô tìm ra Nghiêm Sơn chuyên quyền, muốn lập nước Lĩnh Nam để làm vua, vì vậy cô dùng vàng ngọc mua chuộc đại thần, họ cực lực phản đối việc tái lập Lĩnh Nam. Đó là cái mối để cô chia rẽ giữa Nghiêm Sơn và Quang-Vũ.

      Hiện Quang-Vũ nghe lời cô cùng quần thần bắt giam Nghiêm Sơn, tước binh quyền của y, trước sau gì rồi cũng giết y, còn cô thì biết y thị từ Quế-lâm lên Trường-sa, còn cháu ngày đêm phục ở lăng mộ tiên-vương hầu bắt sống y thị cho cô. Cô sẽ thưởng cho cháu như lời hứa, cháu phải nhất tâm nhất dạ mà làm. Thư bất tận ngôn.

      Trưng Nhị đọc xong nói với Trần Năng, Phật-Nguyệt :

      – Thì ra Mã Thái-hậu không phải là mẹ đẻ Quang-Vũ. Theo như lời Nghiêm đại-ca nói với Khất đại-phu, do sư thúc Trần Năng kể, thì Trường-sa vương lấy một người tỳ thiếp Hàn Tú-Anh, sinh ra hai người con là Lưu Diễn và Lưu Tú. Thái-phi không bằng lòng trong phủ Trường-sa Định-vương có người con hát làm Vương-phi, cũng không muốn cháu mình sau này lên nối ngôi cha làm Trường-sa Định-vương, tôn con hát lên làm Thái-phi. Bà cho người giết chết Hàn Tú-Anh, cướp lấy hai đứa con mang về cho Mã Vương-phi nuôi, dối là con đẻ. Không ngờ Hàn Tú-Anh được thân phụ Nghiêm Sơn cứu thoát, đem về làm vú nuôi Nghiêm. Bấy giờ Mã Thái-hậu tuy bề ngoài là mẹ ruột Quang-Vũ, nhưng vẫn lo Hàn Tú-Anh xuất hiện, bà cho người đi dò tung tích biết được Tú-Anh là mẹ nuôi Nghiêm Sơn, vì vậy bà hại Nghiêm đại-ca trước, bây giờ bà biết Tú-Anh đang trên đường lên Trường-sa vội truyền mật chỉ cho Mã Anh giết Tú-Anh.

      Phật-Nguyệt cười :

      – Tên Mã Anh ăn tiệc xong, trở lại trướng, thấy mất bức mật chỉ, lại thấy mấy chữ trên bàn, thì nhất định hồn phách bay lên mây.

      Trưng Nhị mời tất cả anh hùng Lĩnh-Nam lên chiến thuyền du ngoạn đêm trước họp, nàng trình bày chi tiết, nội vụ, nguồn gốc Nghiêm Sơn cho đến bức mật chiếu của Mã Thái-hậu.

      Trần Năng bàn :

      – Mã Thái-hậu không phải là mẹ đẻ của Hán Quang-Vũ, trước đây chánh-phi Trường-sa Định-vương giết Hàn Tú-Anh chứ không phải Mã Thái-hậu. Chánh-phi Trường-sa vương bắt Lưu Diễn và Quang-Vũ giao cho Mã Thái-hậu nuôi. Quang-Vũ lớn lên tưởng Mã Thái-hậu là mẹ mình, có ngờ đâu mẹ mình đang ở Lĩnh Nam, y cũng không ngờ Nghiêm Sơn cứu y là do mẹ mình đứng trong bóng tối thúc đẩy. Bây giờ mẹ ruột Quang-Vũ đã bị Mã Thái-hậu truy lùng giết cho tuyệt hậu hoạn, vậy chúng ta phải chia lực lượng ở đây ra làm hai : Một là đánh Trường-sa, hai là tìm cách cứu Hàn Tú-Anh đưa về Lạc-dương, làm rối loạn triều đình Quang-Vũ. Chúng ta cứ đưa Tú-Anh về cho Phương-Dung hay Vĩnh-Hoa, hai người này chắc có nhiều mưu kế hơn.

      Lại Thế-Cường ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

      – Bây giờ ta cần phải biết Hàn Tú-Anh ở đâu, mới có thể cứu bà. Hôm trước Phương-Dung nhờ Trưng Trắc về Quế-lâm tìm bà, không biết Trưng Trắc đã gặp chưa? Không chừng bà lên Trường-sa là do Trưng Trắc mời đi cũng nên, vì nếu đi bằng đường Độ-khẩu qua Thành-đô đường đất khó khăn quá, nếu quả Trưng Trắc đi với bà thì chả cần tìm đâu xa, chắc chắn họ sẽ đến bản doanh tìm chúng ta.

      Lê Chân đồng ý:

      – Lỡ Trưng sư-tỷ chưa tìm được bà, mà bà đi rồi mới nguy. Trưng sư-tỷ là người cẩn thận, nếu tìm bà ở Quế-lâm không gặp, sẽ hỏi bà đi đâu. Người nhà thể nào cũng chẳng nói bà đi Trường-sa, Trưng sư-tỷ chắc sẽ theo lên đây tìm bà, may mắn đi giữa đường gặp bà thì tạm yên. Còn chẳng may đi giữa đường không gặp bà, mà Mã Anh cho người tìm hại bà mới là cái nguy.

      Trưng Nhị ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

      – Vấn đề như thế này, nếu bà đi Trường-sa do Trưng Trắc đưa đi, thì không dễ gì Mã Anh hại được bà, còn trường hợp bà đi một mình ta phải tìm hiểu lý do tại sao bà đi Trường-sa. Ta thử đặt mình vào trường hợp bà xem tại sao bà đi Trường-sa?

      Mọi người cúi đầu suy nghĩ, trong chiến thuyền im lặng, không một tiếng động. Bên ngoài gió thổi vi vu, sóng hồ Động-đình vỗ dào dạt, quần hùng Lĩnh Nam chau mày, nhưng không tìm được lý do Hàn Tú-Anh đi Trường-sa.

      Trần Năng bàn:

      – Hay chúng ta trở lại thám thính xem sao, chứ không lẽ ngồi chờ bà Hàn Tú-Anh bị Mã Thái-hậu giết ?

      Vương Sa-Giang bỗng lên tiếng :

      – Em có thể góp ý kiến được không ?

      Trưng Nhị nhíu mày nghĩ:

      – Hàn Tú-Anh là ca-kỹ, Sa-Giang tuy không phải là ca-kỹ, nhưng có cái hồn giống nhau, có thể nàng hiểu Tú-Anh hơn.

      Nghĩ vậy nàng nói:

      – Sư muội cứ nói.

      Sa-Giang cười :

      – Tú-Anh là tỳ thiếp của Trường-sa vương, nguyên không phải vì tham công danh. Em nghe nói Trường-sa vương giả khách viễn phương, nghe tiếng nàng tìm đến. Thế rồi trai tài gái sắc gặp nhau, sau khi họ đã có hai con. Trường-sa vương mới cho biết thân thế của mình. Như vậy hai người lấy nhau vì tình yêu, tình yêu của họ bị đứt đoạn, vì thành kiến xã hội, một người là vương tước nhà Hán, một người là ca-kỹ. Rồi nàng bị đoạt mất con, bị ám hại, còn Trường-sa Định-vương bị Vương Mãng giết chết. Hai người coi như Chưa trọn cuộc tình, tơ duyên còn vướng mắc, sao có thể khuây khỏa được ? Khi đã không quên dĩ vãng, họ phải tìm lại kỷ niệm xưa. Vậy Tú-Anh trở lại Trường-sa không phải thăm bà con, vì bà con Tú-Anh không ở đây. Bà trở lại thăm con ư ? Bà biết rằng con bà là Quang-Vũ, con nuôi bà là Nghiêm Sơn đều không ở Trường-sa. Vậy bà trở lại Trường-sa chỉ để thăm lại chốn cũ mà thôi, chốn cũ của bà là gì ? Phải chăng là căn nhà hai người sống vụng trộm với nhau hoặc tìm đến tế mộ Trường-sa vương. Vậy ta cứ cho người phục ở những nơi đó, thế nào cũng gặp lại bà.

      Phật-Nguyệt vỗ tay :

      – Chúng ta bằng này người, mà không ai bằng Sa-Giang, quả thật những người ở cùng hoàn cảnh mới hiểu nhau. Đoạn trường ai mới qua cầu mới hay. Vì Sa-Giang giỏi âm luật, tính tình lãng mạn, mới hiểu được Tú-Anh.

      Trưng Nhị trở lại trại quân gặp Công-tôn Thiệu, nàng hỏi:

      – Vương gia! Trước đây Vương-gia đã ở Trường-sa, vậy Vương-gia có biết ba đệ nhất thắng cảnh không ?

      Công-tôn Thiệu ngạc nhiên :

      – Cô nương muốn nói thắng cảnh nào ?

      Trưng Nhị cười:

      – Một là kỹ-viện, xưa kia có một kỹ-nữ tuyệt sắc tên gọi là Hàn Tú-Anh, khiến Trường-sa Định-vương cha Quang-Vũ mê man, giả làm văn nhân đến gặp hoa khôi.

      Công-tôn Thiệu nhíu mày cười:

      – Kỹ-viện đó bị Thái-phi, mẹ Trường-sa Định-vương đốt cháy từ lâu rồi, còn Tú-Anh sống hay chết không ai biết tin tức ra sao. Trước đây khi tôi còn trấn ở Trường-sa dò hỏi tin tức tìm nàng, nhưng tuyệt không ai biết gì cả, thực đáng tiếc.

      Hồ Đề tính hay đùa, nàng hỏi:

      – Công-tôn vương-gia, tại sao Vương-gia lại nói đáng tiếc ? Phải chăng Vương-gia cũng là một khách đa tình, say mê nàng, nhưng nàng bị Trường-sa vương nhà Hán cướp mất. Khi Vương-gia được phong Trường-sa vương Thục, tìm nàng để nhặt cái phấn hương thừa?

      Sa-Giang cũng nói:

      – Sư bá! Sư bá đã thấy sư-tỷ Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung, bà Tú-Anh, vậy sư bá bảo ai đẹp hơn ?

      Công Tôn Thiệu bị hai người hỏi dồn, bối rối:

      – Không! Tôi nghe tiếng nàng đẹp, chứ không hề thấy mặt nàng, còn Hoàng vương-phi với Đào phu-nhân quả thật trên đời tôi chưa thấy ai đẹp hơn.

      Trưng Nhị hỏi:

      – Còn ngôi nhà Trường-sa Định-vương với Hàn Tú-Anh ẩn náu chắc Vương-gia biết chứ ?

      Công-tôn Thiệu gật đầu:

      – Ngôi nhà ở ngoài thành, nằm về phía nam thôn Đào-gia, nay vẫn còn. Cô nương muốn coi sau khi đánh thành tôi sẽ đưa cô nương đi, ngôi nhà kiến trúc bằng đá rất đẹp. Tương truyền Định-vương nhà Hán phái hơn ba ngàn quân vào núi, kiếm những phiến đá đẹp đẽo thành phiến, đem về làm nhà cho nàng ở, gọi là Ngọc-động, danh sĩ đương thời Từ Thẩm, làm một bài từ, ca tụng Ngọc-động và Tú-Anh như sau :

      Phương Thảo thanh thanh,
      Ngọc Động long lanh.
      Dáng người quần hồng, mặt buồn thê lương,
      Nàng cất tiếng hát, ngàn chim họa theo,
      Nào khách anh hùng, nào đế, nào vương,
      Hãy bỏ ngai vàng bệ ngọc về đây …
      Về đây để được quì dưới gót chân nàng.

      (Lược dịch bài từ Mỹ nhân Trường Sa của Từ Thẩm)

      Trưng Nhị lại hỏi:

      – Sau khi Trường-sa Định-vương chết, thì thi thể táng ở đâu ?

      Công-tôn Thiệu đáp:

      – Sau khi y chết có sáu võ lâm cao thủ tên Hợp-phố Lục-hiệp trộm xác đem về chôn ở Vương-sơn phía Đông Nam Trường-sa khoảng ba mươi dặm. Quang-Vũ trùng hưng, muốn cải táng, thầy địa lý bảo đó là ngôi mộ kết phát, y để nguyên, cho xây lăng rất đẹp. Vì Trường-sa có lăng mộ Trường-sa Định-vương, Quang-Vũ mới để em con cô tên Mã Anh làm Thái-thú, hầu trông coi. Chúng ta đánh Trường-sa chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các nơi khác.

      Trưng Nhị tường thuật cho Công-tôn Thiệu nghe những điều Phật-Nguyệt, Trần Năng dọ thám được trong thành Trường-sa, nàng dấu hẳn vụ Hàn Tú-Anh, nàng nói:

      – Vì vậy tôi cho Tế-tác đột nhập thành Trường-sa chờ đợi, nếu Mã Anh cất quân đốt lương ta, tôi sẽ tương kế tựu kế, chiếm thành. Bây giờ Vương-gia có thể cho quân xuất trại, dạo chơi, nhưng đêm phải dọn trại, chuẩn bị áo giáp sẵn, khi quân trong thành khởi sự cướp lương, ta đánh úp lấy thành ngay. Một mặt tôi cho các anh hùng Lĩnh Nam đột nhập Trường-sa, khi khởi sự thì ra tay.

      Trưng Nhị trở về thuyền riêng sắp đặt:

      – Bây giờ sư-thúc Trần Năng cùng với sư-tỷ Phật Nguyệt đến phục ở Đào-gia thôn, còn tôi với Hồ Đề đến phục ở lăng Trường-sa Định-vương, mọi việc ở nhà do sư-bá Lại Thế-Cường trông coi, chúng ta mang theo Thần-ưng để liên lạc.

      Sa-Giang níu áo Trưng Nhị:

      – Sư-tỷ! Sư-tỷ cho em đi với.

      Trưng Nhị tuy mưu trí tuyệt vời, nhưng lại nhiều cảm tình, ngay từ hôm đầu tiên mới gặp Sa-Giang, nàng đã có cảm tình với cô gái Tứ-xuyên nhu mì, lãng mạn này. Nàng biết Sa-Giang yêu Đào Kỳ bằng tất cả mối tình nồng thắm, nhưng Đào Kỳ lại trung thành với Phương-Dung, từ võ công cho đến nhan sắc, trí thông minh, bất cứ phương diện nào Sa-Giang cũng không bằng Phương-Dung. Vì vậy mối tình của nàng tuyệt vọng, để muôn nghìn năm sau là mối vạn cổ sầu. Trưng Nhị thương tình vuốt tóc nàng:

      – Em muốn đi, ta đâu có thể chối từ ?

      Ba người lấy ngựa hướng về phía Nam, dọc đường họ gặp những toán dân chúng sợ chiến tranh, bỏ thành Trường-sa gồng gánh về phương Nam. Hồ Đề mang theo năm Thần-ưng, nàng đặt cho chúng tên Ngũ-ưng, nàng tự tay chăm sóc từ nhỏ, đi đâu chúng cũng bay theo, ba người chậm chạp ruổi ngựa về hướng Vương-sơn, trong khi đó Ngũ-ưng bay lượn trên đầu.

      Trong ba người, Trưng Nhị, Hồ Đề nói tiếng Hán giọng Quế-lâm, còn Sa-Giang nói giọng Tứ-xuyên, ba người thủng thẳng đi, không nói nhiều. Họ giả trang giống như những thiếu nữ vùng Giang-hạ, vì vậy không ai để ý đến họ.

      Bỗng Sa-Giang nói khẽ :

      – Phải cẩn thận, đừng quay lại, phía sau chúng ta có năm kị mã đang phi tới, tốc độ nhanh vô cùng.

      Trong ba người, võ công Trưng Nhị cao nhất, nàng không nghe thấy gì, thế Sa-Giang lại nghe thấy, nàng còn phân biệt được tốc độ của ngựa nữa, thật là tuyệt.

      Hồ Đề hỏi:

      – Sa muội! Trưng sư-tỷ võ công cao hơn sư muội nhiều, tại sao sư-tỷ chưa nghe thấy tiếng ngựa phi, mà sư muội đã nghe thấy ?

      Sa-Giang đáp:

      – Em thấy gió từ sau thổi lại, phớt qua tai rất đều, có những điểm gió như cái đũa, từng đợt từng đợt bật vào đầu, vào tai thì biết do tốc độ mau. Tốc độ mạnh như vậy mà không nghe tiếng kêu, chỉ có thể một con vật nào to lớn từ xa đang lao tới, đúng là ngựa, em mới đoán phỏng chừng.

      Hồ Đề chợt hiểu, Sa-Giang giỏi âm nhạc, nàng thính tai hơn bất cứ ai. Ba người đang nói chuyện, đã thấy tiếng lộp cộp gần, rồi năm kị mã phóng đi như bay.

      Sa-Giang kêu lên:

      – Khúc-giang ngũ-hiệp !

      Hồ Đề hỏi:

      – Họ là ai vậy ? Sao sư muội biết họ ?

      Sa-Giang đáp:

      – Nguyên năm năm trở về đây, sau khi Ngỗi Thuần đầu hàng, thân phụ em phẫn chí, bỏ đi giang hồ. Phụ thân em cùng em giả đi làm người hát dạo, phiêu bạt khắp nơi, em được nghe biết nhiều về anh hùng thiên hạ. Năm kị mã vừa rồi quê ở Khúc-giang, họ là năm anh em ruột đồng môn, hành hiệp khắp nơi, em gặp họ một lần ở Kinh-châu hồi tháng năm, năm trước, sở trường của họ là những chưởng pháp, quyền pháp, vũ khí họ dùng là roi da, võ công họ rất cao.

      Hồ Đề hỏi Trưng Nhị:

      – Sư-tỷ, Khúc-giang ở vùng nào vậy ?

      – Khúc-giang là một con sông ở quận Nam-hải, chạy giữa ba dãy núi Thạch-sơn, Đào-sơn, Thanh-vân-sơn. Khi Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang quân đánh Âu Lạc, vua An-Dương hạ lệnh rút khỏi vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, các đạo quân đều tuân theo. Riêng có Phương-chính hầu Trần Tự Minh không tuân lệnh, ngài xuất lĩnh đệ tử kháng chiến chống giặc, sau khi Đồ Thư chiếm quận này trao cho viên quan là Triệu Đà trấn thủ, Đồ Thư chết rồi vua An-Dương cũng không nghĩ đến chiếm lại ba quận phía Bắc. Vì vậy Triệu Đà nhân Trung-nguyên có loạn, lập nước Nam-Việt, Khúc-giang hầu cùng đệ tử chiếm một vùng, không thần phục. Đã nhiều lần mang quân vào đánh đều bị thất bại, Triệu Đà đành để cho Khúc-giang hầu tự trị như một nước riêng biệt.

      Hồ Đề chợt nhớ ra điều gì hỏi:

      – Em nghe nói Khất đại-phu, sư-bá Nam-hải đều là giòng dõi Phương-chính hầu. Như vậy Khất đại-phu với Khúc-giang ngũ-hiệp có tình máu mủ ?

      Trưng Nhị gật đầu tiếp:

      – Khúc-giang hầu, đời đời cha truyền con nối làm chủ vùng Khúc-giang. Cho đến khi nhà Hán dứt họ Triệu, Phục-ba tướng-quân nhà Hán là Lộ Bác-Đức mang quân đánh Khúc-giang, Khúc-giang hầu thấy tình thế không ổn, đầu hàng rút về còn phái Khúc-giang mà thôi. Phái Khúc-giang truyền đến đời thứ tám là Trần Phương-Đức. Nhân Thái-thú Nam-hải tàn ác, người giết chết y rồi cùng vợ, con tông tộc chạy xuống Giao-Chỉ lập nghiệp, tới Giao-Chỉ người gác kiếm qui ẩn, không dính líu đến võ thuật nữa. Em trai của người tên Trần Đại-Sinh, tức Khất đại-phu theo học phái Tản-viên, các con của người như Trần Thị Phương-Châu, Trần Thị Phương-Chi, Trần Công-Minh và Trần Quốc-Hương theo học phái Sài-sơn, trở thành bốn vị Thái-bảo sau này.

      Trưng Nhị nghĩ rồi tiếp:

      – Vì vậy võ công của sư bá Nam-hải là võ công của phái Sài-sơn chứ không phải của phái Khúc-giang. Phái Khúc-giang võ đạo rất cao, người nào cũng đầy khí phách. Còn Khúc-giang ngũ-hiệp là nhân vật như thế nào thì ta không rõ, như vậy họ ngang vai với sư bá Nam-hải.

      Hồ Đề hỏi Sa-Giang:

      – Võ công của thân phụ em so với Khúc-giang ngũ-hiệp như thế nào ?

      Sa-Giang lắc đầu:

      – Em không rõ, vì hai bên không đấu với nhau, nghe đâu Mã Viện đã đấu chưởng với một trong Ngũ-hiệp, chỉ một chưởng làm Mã phun máu miệng.

      Trưng Nhị a lên một tiếng nói :

      – Chưởng lực Mã Viện cao hơn ta nhiều, thế mà y chịu một chưởng đã phun máu miệng, thì chưởng lực của Khúc-giang ngũ-hiệp phải cao lắm. Hôm hội quân ở Quế-lâm, Minh Giang đến hành lễ với sư bá Nam-hải gọi bằng sư thúc, Minh Giang là đệ tử của Khúc-giang nhất-hiệp.

      Hồ Đề nói:

      – Khất đại-phu thường nói: Khúc-giang ngũ-hiệp tuy phải gọi người bằng chú, song võ công cao ngang với ngài. Còn Nghiêm đại-ca, người thuộc vai anh Khúc-giang ngũ-hiệp. Khi Thục An-Dương khám phá ra mình bị mắc mưu Triệu Đà, ngài bèn xuống chiếu chỉ nhường ngôi cho con trai sư đệ Phương-chính hầu Trần Tự-Minh là Trần Tự-Anh kế tiếp sự nghiệp ngài, phục hồi Lĩnh Nam, trong chiếu chỉ ngài dặn rõ:

      Nếu một năm không phục được nước thì mười năm, hai mươi năm. Đòi này không phục được thì đời con, đời con không làm được thì đời cháu, miễn đừng bao giờ quên phục quốc là được.

      Trưng Nhị nói:

      – Như vậy Nghiêm đại-ca phải gọi Khất đại-phu bằng chú, người ở vai sư huynh của sư bá Nam-hải, Tiên-yên. Trong lần hội mặt ở Cối-giang người xuất trình gia phả, xuất trình chiếu của An Dương-Vương, nên trên từ Thái sư-thúc Khất đại-phu, Đào-hầu, Đinh-hầu cho tới tôi đều kính cẩn quì gối nghe chiếu chỉ An-Dương-Vương. Kể từ đấy anh hùng Lĩnh Nam nhất nhất tuân theo lệnh Nghiêm đại-ca, coi Nghiêm đại-ca như Hoàng-đế Lĩnh Nam, đáng lẽ tôi phải gọi Nghiêm đại-ca bằng sư-thúc, song gọi đại-ca đã quen rồi, không sửa được nữa.

      Sa-Giang móc trong túi ra một tấm bản đồ vẽ trên lụa đưa cho Trưng Nhị :

      – Sư-tỷ, đây là bản đồ lăng mộ của Trường-sa Định-vương, sư bá đưa cho em để chúng ta biết đường mà đi.

      Trưng Nhị mở tấm bản đồ, đối chiếu với cảnh bên ngoài, nàng chỉ vào một dãy núi nhỏ:

      – Theo bản đồ này, kia là Vương-sơn, lăng mộ Trường-sa Định-vương ở Vương-sơn. Vì là lăng mộ của cha đẻ Quang-Vũ, chắc chắn có quân lính canh phòng. Chúng ta tìm một thôn xóm nào nghỉ chân, tối hãy thám thính.

      Chiều hôm đó, ba người tới Vương-sơn, tìm một nhà nông xin tá túc, chủ nhà là cặp vợ chồng già, không có con, họ thấy ba thiếu nữ xinh đẹp, cưỡi ngựa, trang phục sang trọng, nét nghi ngờ hiện ra trên mặt, Sa-Giang móc một nén bạc đưa cho lão già nói:

      – Thưa hai bác, chúng cháu từ Kinh-châu đi Linh-lăng thăm bà con, xin hai bác cho chúng cháu tá túc một đêm.

      Lão già cầm lấy nén bạc nói:

      – Ba vị cô nương thanh quí thế này, mà ở trong nhà lụp xụp, thực tội nghiệp. Nhà lão chỉ có ba gian, vậy nhường hai gian cho ba vị cô nương, không biết ba vị cô nương ăn uống gì không ?

      Sa-Giang đáp:

      – Chúng cháu mang lương khô theo, không dám phiền hai bác.

      Ăn cơm chiều xong, ba người ra bờ suối nhìn hoa. Bây giờ tiết tháng hai, hoa nở đầy trời, khí hậu mát dịu, ba người cùng ngắm hoa, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Tuy họ phải ở trong hoàn cảnh phải làm những chuyện nghiêng trời lệch đất, nhưng bản chất dù sao cũng là những thiếu nữ đương xuân, cho nên trong chốc lát, họ mơ màng thả hồn theo thiên nhiên. Trưng Nhị đọc sách, nhiều tình cảm dễ hòa mình với thiên nhiên. Hồ Đề gốc thiếu nữ ở rừng núi từ thuở nhỏ, thiên nhiên là khung cảnh thích hợp với nàng. Còn Sa-Giang tuy con nhà võ nhưng nàng thích âm nhạc, tính tình lãng mạn, trước cảnh chín vạn hoa trời nở, nàng ngây ngất không ít.

      Ba người ngồi ngắm hoa, mỗi nguời đuổi theo một ý nghĩa riêng biệt, Sa-Giang hỏi Trưng Nhị:

      – Sư-tỷ! Sư-tỷ! Nghĩ gì về ông bà chủ nhân này ?

      Trưng Nhị lắc đầu:

      – Chị không chú ý cho lắm.

      Sa-Giang thở dài:

      – Trưng sư-tỷ! Em muốn nói một câu, nhưng phải xin lỗi trước, sư-tỷ không chấp em mới dám.

      Một tay Trưng Nhị cầm tay Sa-Giang, một tay nâng cằm nàng lên, nói:

      – Từ hôm gặp em, chị đã thấy như quen biết tự bao giờ, đúng như Đại-sư Tăng Giả Nan Đà nói: Chúng mình có tiền duyên với nhau từ kiếp trước. Cho nên chị nghĩ, nếu chị là con trai, chị sẽ bắt em về làm vợ, vì vậy chị nhắc lại: Chúng ta đối xử với nhau như ruột thịt, em có ý kiến gì cứ nói.

      Sa Giang cảm động:

      – Em thấy dường như tất cả sách vở của Trung-nguyên, chị đều đọc hết, hiểu hết, ứng dụng linh động. Võ công chị thuộc loại tuyệt cao, hơn nữa mưu trí không ai bì kịp. Nhưng chị ít tiếp xúc với đời nhiều nên thiếu tinh tế nhỏ nhặt, những tinh tế đó, đối với chị không cần thiết, song đôi khi nó dễ đưa đến nguy hiểm cho chị và cho đại cuộc.

      Trưng Nhị nhận thấy lời Sa-Giang là đúng, về bất cứ mặt gì nàng cũng hơn cô bé này. Duy có một điều, những kinh nghiệm, những xảo trá trên đời nàng kém Sa-Giang, kinh nghiệm của Trưng Nhị do ở sách vở, còn những gì Sa-Giang có do gần mười năm theo phụ thân phiêu bạt khắp nơi thu thập được.

      Sa Giang tiếp:

      – Khi vào nhà cặp vợ chồng nhà quê, em thấy có gì khác lạ, ông nói giọng Trường-sa, bà nói giọng Nam-hải. Bởi vậy em biết họ không phải người vùng này, chẳng qua họ tới đây mưu đồ việc gì khác lạ mà thôi.

      Hồ Đề chợt hiểu:

      – Chị biết rồi, họ gốc người ở nơi khác đến đây mưu đồ việc gì, nên giả làm nông phu, vì nếu họ làm lái buôn họ có thể nói giọng Nam-hải, Trường-sa, đây gốc nông dân chỉ có thể là người Trường-sa mà thôi. Thế nhưng lão bà nói giọng Nam-hải, mười tiếng có đến bảy tám tiếng Việt nhà mình.

      Sa-Giang nói:

      – Bước chân của lão rất vững, đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng đều, cử động tự nhiên. Tỏ ra còn trẻ có nội công thượng thừa. Tuy ông hóa trang bằng chòm râu, mái tóc bạc và tô cho lớp da dăn deo, còn lão bà thì yểu điệu tha thướt, không lên tiếng, dáng đi vững chắc, mắt sáng. Nhất là khi bà mở cửa cho chúng ta, tay áo co lại, để hở ra cánh tay trắng muốt, mịn màng, em tưởng sư-tỷ lịch lãm nhiều, chắc để ý đến điều đó. Không ngờ từ nãy đến giờ, không thấy sư-tỷ đề cập đến, em mới quyết rằng sư-tỷ không chú ý !

      Trưng Nhị toát mồ hôi:

      – Quả thực chị thiếu thận trọng, thiếu lịch lãm giang hồ, vậy chúng ta phải dè dặt mới được. Hai người này giả làm nông dân ở đây, chắc cũng liên quan đến lăng mộ Trường-sa Định-vương.

      Sa-Giang tiếp:

      – Chúng ta đề phòng, từ nước uống cho đến những việc nhỏ như đi, đứng nhất thiết không được sơ hở. Tối hôm nay chúng ta sẽ thám thính lăng mộ Trường-sa Định-vương.

      Ba người trở về, mở cửa căn nhà bước vào, lão chủ nhà pha trà ra bát mời ba người uống, lão hỏi:

      – Chẳng hay ba vị cô nương quí tính phương danh là gì ? Và sao lại qua đây trong lúc Trường-sa sắp có giặc ?

      Trưng Nhị chỉ Hồ Đề đáp:

      – Hồ sư muội đây người Lĩnh Nam với tôi, chúng tôi là con Lạc-hầu, cha mẹ gửi chúng tôi sang Kinh-châu học, còn đây Trang sư-muội người Thành-đô, chúng tôi cùng theo học một thầy. Nay nhân vì Kinh-châu có loạn, chúng tôi tạm lánh về Lĩnh Nam ít lâu, chẳng hay hai bác quí tính là gì ?

      Lão già nói:

      – Tôi họ Vương, tên Anh, còn đây tiện nội họ Chu tên Nghi-Gia, chúng tôi là nông dân vùng này, vợ chồng chúng tôi có hai con trai đều bị gọi đi lính, thành ra chúng tôi sống cô quạnh một mình

      Chu Nghi-Gia hỏi Trang Sa-Giang:

      – Trang cô nương ở Thành-đô ra Kinh-châu học đã lâu chưa ? Cô nương học về khoa gì ?

      Sa-Giang đáp:

      – Cháu ra Kinh-châu học từ năm trước, bấy giờ Kinh-châu thuộc đất Thục, sau Kinh-châu thuộc Hán, rồi mới đây lại thuộc Thục. Cháu học về âm nhạc, sư phụ của cháu là Trường-giang lão-sư.

      Sa-Giang lưu lạc bên cạnh cha lâu ngày, nàng nói dối rất dễ dàng. Nàng biết Nghi-Gia nghi ngờ nàng không phải từ Thục ra Kinh-châu học, mới hỏi học lâu chưa, vì giữa Thành-đô và Kinh-châu thường bị gián đoạn vì chiến tranh. Bây giờ nàng nói rõ ràng từng chi tiết, Nghi-Gia mới hết ngờ.

      Ba nàng lấy cớ mệt, từ biệt đi ngủ, Sa-Giang với Trưng Nhị lên giường nằm, còn Hồ Đề nhảy lên xà nhà, dựa vào kèo nhà mà ngủ. Nguyên Hồ Đề sống ở rừng lâu năm, nàng thường leo lên cây ngủ như loài khỉ, bây giờ trước cặp vợ chồng nông thôn, nhiều nghi ngờ, nàng lên xà nhà quan sát động tĩnh.

      Nhờ ở trên cao, nàng nhìn sang phòng vợ chồng Vương Anh rất rõ ràng. Hai người đang nằm trên giường, họ ghé tai vào nhau bàn chuyện, nàng lắng tai nghe, nhưng không phân biệt được hai người nói gì. Một lát sau Vương Anh bò dậy, nhẹ nhàng đến cạnh phòng nàng ghé mắt nhìn vào, lắng tai nghe ngóng một lúc, rồi vẫy tay gọi vợ ra ngoài sân.

      Hồ Đề truyền theo xà nhà, đưa tay lên mái tranh giật một cái, mái tranh hở ra lỗ nhỏ, nàng chui khỏi nóc nhà, từ nóc nhà nàng truyền sang cây lớn phía sau, tuột xuống đất bám sát vợ chồng Vương Anh.

      Vợ chồng Vương Anh đến bờ suối ngừng lại, Chu Nghi-Gia lên tiếng:

      – Sư-ca thử đoán xem ba cô gái này là ai ? Họ có phải người du học thực hay không ?

      – Tôi thấy Hồ cô nương bàn tay lớn, nước da đen, chắc không phải người cầm bút. Trưng cô-nương nói năng ôn nhu, văn hoa tất đọc sách nhiều, còn Trang cô-nương thì đúng người đất Thục, như vậy có thể tin rằng họ du học.

      – Sư ca quên mất một điều, giữa lúc chiến tranh thế này, mà ba cô gái dám ra ngoài, thực quái lạ, không hiểu họ có biết võ công không ?

      – Thí dụ họ là người nào chăng nữa, chúng ta cũng mặc họ, ngày mai họ sẽ ra đi, việc ta, ta cứ tiếp tục.

      Hai người nhắm hướng Vương-sơn phóng mình vào đêm tối, thoáng một cái đã biến mất, đủ tỏ kinh công của họ thuộc loại cao siêu. Hồ Đề hú lên một tiếng gọi Ngũ-ưng, lập tức năm con chim Ưng bay lượn trên đầu nàng, rồi đậu xuống các cành cây cạnh nhà, Hồ Đề huýt sáo ra lệnh, lập tức cả năm con bay vút lên cao, hướng theo vợ chồng Vương Anh, Hồ Đề trở về phòng đã thấy Trưng Nhị, Sa-Giang thức giấc, nàng thuật cho hai người nghe về hành động của vợ chồng Vương Anh.

      Trưng Nhị bàn:

      – Chắc chắn vợ chồng Vương Anh có liên quan đến lăng Trường-sa Định-vương, vậy chúng ta cùng đi thám thính xem sao ?

      Ba người nhắm hướng Vương-sơn tiến tới, xa xa trong bóng trăng Hồ Đề thấy Ngũ-ưng bay lượn trên trời, nhờ thế nàng biết rõ vị trí của vợ chồng Vương Anh ở phía Tây lăng Trường-sa Định-vương. Hồ Đề nói:

      – Vợ chồng Vương Anh ở phía Tây của lăng, vậy chúng ta đột nhập vào phía Nam cho khỏi đụng chạm nhau.

      Ba người dùng khinh công lên núi Vương-sơn, xa xa đã thấy lăng mộ hiện ra dưới ánh trăng. Hồ Đề giả tiếng cú, hú lên mấy tiếng, Ngũ-ưng bay lại trước nàng đáp xuống, nàng huýt sáo với Ngũ-ưng. Ngũ-ưng bay lên cao liền, năm con bay năm nơi khác nhau.

      Sa-Giang hỏi:

      – Có phải sư tỷ sai Ngũ-ưng canh chừng bốn phía lăng và vợ chồng Vương Anh không ?

      Hồ Đề gật đầu nói :

      – Trong lăng không có ai, nếu có Ngũ-ưng đã báo cáo cho chúng ta biết rồi, bây giờ ta tìm chỗ ẩn xem sao.

      Ba người cùng ẩn vào một bụi hoa lớn gần mặt chính lăng, Hồ Đề luôn luôn nhìn trên trời quan sát Ngũ-ưng.

      Hồ Đề giảng cho Sa-Giang

      – Sư muội chú ý nghe: bốn Thần-ưng bay lượn bốn phía lăng, dù chỉ con chồn, con cáo xuất hiện, chúng cũng sẽ báo cho mình biết ngay. Còn con Thần-ưng kia nó cứ bay lượn trên đầu chỗ ẩn của vợ chồng Vương Anh, dù họ di chuyển một chút cũng không qua mắt Thần-ưng.

      Bỗng Sa-Giang bịt miệng Hồ Đề:

      – Coi chừng có nhiều tiếng ngựa ở phía Bắc tới.

      Chỉ nháy mắt sau, quả nhiên Thần-ưng canh chừng phía Bắc lăng từ trên cao bổ nhào xuống, rồi bay vụt lên. Chúng kêu lên năm tiếng liền rồi cứ bay lượn phía Bắc lăng.

      Hồ Đề nói nhỏ:

      – Đúng như sư muội nói, họ có năm người tới, Thần-ưng đang bay trên đầu họ.

      Chỉ lát sau có người đi lên, không thấy ngựa. Có lẽ họ đã dấu ngựa dưới chân núi, năm người đi quanh lăng một vòng, Trưng Nhị nhận ra đó là Khúc-giang ngũ-hùng, họ ra hiệu cho nhau rồi ẩn thân vào các bụi cây, cũng may họ không ẩn vào chỗ bọn Hồ Đề.

      Sa-Giang nói nhỏ:

      – Trong lăng có tới ba phe ẩn náu, không biết còn bao nhiêu phe phái nữa ở đây ?

      Trong lòng Trưng Nhị nảy ra nghi vấn :

      – Vợ chồng một khách giang hồ giả làm người nhà quê trong vùng. Đêm đêm phục ở lăng mộ để mưu cầu điều gì ? Khúc-giang ngũ-hùng từ Nam-hải lên đây, cũng ẩn nấp chờ đợi cái gì? Không biết hai phe này có liên hệ với nhau không ? Họ mai phục vì tư lợi, hay vì trận đánh Trường-sa ? Hay vì Hàn Tú-Anh như nàng với Sa-Giang, Hồ Đề ?

      Một lát sau có tiêng Thần-ưng ở phía Đông kêu lên, Hồ Đề nhìn theo nói:

      – Có nhiều người sắp tới nữa có lẽ gần mười người.

      Quả nhiên lát sau có chín người ngựa cùng lên đồi. Họ gồm ba nữ sáu nam, họ mang theo nhiều thứ trên lưng ngựa, sáu người nam gỡ những vật mang theo, đến bày trước chính lăng: Heo, dê, gà, hoa quả, vàng hương, rượu. Họ đốt đuốc lên sáng rực, rồi chia nhau đứng làm hai hàng, ba thiếu nữ thì hai mặc quần áo xanh, còn một mặc quần áo trắng. Trưng Nhị suýt kêu thành tiếng, vì thiếu nữ mặc áo trắng tuổi 19, 20, đẹp tuyệt thế, Trưng Nhị đã thấy vẻ đẹp của Chu Tường-Quy, Hoàng Thiều-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, ba người đẹp ngang nhau. Tường-Quy nhu mì, ủy mị, mềm mại như phong lan, Phương-Dung sắc sảo tươi như hoa hải-đường, còng Hoàng Thiều-Hoa thì vẻ đẹp trang nhã có sức hút người rất mạnh. Nay nàng thấy vẻ đẹp của thiếu nữ này, thoang thoảng như bông hoa dưới nước, thấp thoáng như người trong sương, vẻ đẹp như có như không, thực huyền ảo, nhất là trong đêm xuân, dưới ánh đuốc, ánh trăng. Thiếu nữ đến trước lăng, đốt hương lên rồi quì xuống, hai vai nàng rung động mãnh liệt, dường như đang khóc.

      Trưng Nhị cảm thấy kỳ lạ:

      – Thiếu nữ trẻ đẹp này là ai ? Nếu là con cháu Trường-sa vương thì sao không đường hoàng đến ban ngày tế lăng, mà phải đến ban đêm ? Bảo nàng là Hàn Tú-Anh thì không đúng, vì bà là mẹ Quang-Vũ, năm nay Quang-Vũ cũng gần 30 tuổi rồi, bà ít ra cũng phải 50 tuổi mới đúng. Còn thiếu nữ này tuổi khoảng 20 là cùng. Vậy thì Trường-sa Định-vương chết, nàng còn nhỏ lắm, chắc không phải Phi-tần của ông. Vậy nàng là ai ?

      Thiếu nữ mở cái túi, lấy ra một cây đàn cầm. Nàng so phím vuốt tay trên dây, tiếng đàn ai oán não nùng trong đêm tối, nàng cất tiếng ca, tiếng nàng cao vút như muốn bay vào không gian. Sa-Giang biết đó là bài Sở-từ của Khuất Nguyên tên Ly Tao.

      Ly Tao, là một thiên Sở-từ của Khuất Nguyên, ông người thời Chiến-quốc, thuộc tôn thất nước Sở. Ông trợ giúp Sở Hoài-Vương về nội trị, sau bị gian thần dèm pha, không được dùng. Ông phẫn chí làm bài Ly Tao, tình cảm nồng nàn, giọng văn thanh nhã. Bởi vậy sau này khi phê bình văn học, người ta thường ví với Ly Tao: nào tao nhã, thanh tao, rừng tao và tao nhân mặc khách. Bài Sở-từ Ly Tao không được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, cho đến nay chỉ còn bản phổ nhạc của Từ Thẩm, Vương Hoài và Lý Kế-Xuyên.

      Trên đồi vắng, dưới ánh trăng, ánh đuốc chập chờn, tiếng đàn, tiếng ca, bi ai, khiến cho người cứng rắn như Hồ Đề cũng cảm thấy bải hoải chân tay.

      Thiếu nữ ca hết bài Ly Tao, lại ca đến một bài trữ tình thê lương. Sa Giang nhận ra đó là bài Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư-mã Tương-Như. Ba người bị ru hồn vào tiếng đàn, tiếng hát, thì cả bốn Thần-ưng đều reo lên trên không.

      Thiếu nữ áo trắng dơ tay vẫy nhẹ nhẹ. Hai thiếu nữ áo xanh, cùng sáu người cầm đuốc quì xuống. Nàng lướt tay trên phím đàn. Hai thiếu nữ áo xanh cất tiếng ca một lượt:

      Ao ao lộc ninh
      Thực dã chi bình,
      Ngã hữu gia tân.
      Cổ cầm suy sinh,
      Suy sinh cổ quảng
      Thừa khương thi tương,
      Nhân chi hiếu ngã,
      Thị ngã chu hàng.

      Hồ Đề ngơ ngác hỏi khẽ Sa-Giang:

      – Bản nhạc này là bản gì, mà sao chị nghe quen quá?

      Sa Giang ghé vào tai nàng nói:

      – Đó là bài ca Lộc Minh trong Kinh thi để tiếc các bậc vua chúa thời xưa.

      Hồ Đề nhớ ra hồi trước đây, mỗi khi tế vua An-Dương-Vương ở Tây-vu. Các nhạc công thường tấu bản này.

      Kinh thi là một trong Ngũ-kinh: Thư, Thi, Dịch, Lễ và Xuân-Thu. Bốn bộ đầu do Khổng Tử san định, tuyển chép lại. Bộ kinh Xuân-thu thì chính ngài là tác giả. Ngũ kinh là sách căn bản giáo dục của Nho-gia. Kinh thi là bộ chép các bài ca dân dã cuối Tây-Chu (1066-770 trước Tây lịch 500 năm). Cương thổ nhà Chu bấy giờ gồm các tỉnh Thiểm-tây, Sơn-tây, Hà-nam, Hà-bắc, Sơn-đông và Hồ-bắc ngày nay. Vua nhà Chu cắt đất phong cho 800 chư hầu. Hàng năm nhà vua gửi quan đến các địa phương, ghi chép bài ca dân gian về nghiên cứu. Cho rằng các bài ca đó, là phản ảnh đời sống dân chúng. Vua nhà Chu xét nội dung các bài Thi để quyết định thăng thưởng, trách phạt chư hầu. Đến đời Khổng Tử còn trên 3000 bài. Ngài tước bỏ hết, còn lại 305 bài. Ngài chia ra: Quốc phong là bài ca dân gian của từng nước một như Chu-Nam, Thiện-Nam, Tề-Phong, Trịnh-Phong v.v... Những bản nhạc như: Quan thư, Đào yêu, Yến yêu, Hùng Trĩ, Tĩnh Nhữ đã trình bày ở các hồi trước, đều là những bài ca trong Quốc Phong. Bài Lộc minh trên đây thuộc phần Tiểu nhã. Nhà nghiên cứu Chu-Hy đời Tống viết trong bài tựa Kinh thi rằng: Tiểu nhã là những bài nhạc tấu trong bữa tiệc. Còn đại nhã để tế các vị vua.

      Lúc mà Trưng Nhị với Hồ Đề nấp ở lăng Trường-sa vương là năm 39 sau Tây lịch. Các nhạc gia Trung-nguyên chưa sáng tác ra được nhiều bản mới, quanh quẩn lại chỉ hát những khúc trong Kinh thi. Thảng hoặc có những đại nhạc gia tài ba như Tống Ngọc, Tư-mã Tương-Như, Chiêu Quân sáng tác mấy khúc còn lưu truyền. Tại Lĩnh Nam thì Trương Chi đỉnh lập ra hẳn một lối sáng tác. Khảo trong hơn 300 cuốn phổ về các danh nhân từ thời Trưng Vương về trước, thấy nói đến các bản sau đây của Trương Chi: Động Đình Ca kể lại mối tình ông với Mỵ Nương. Bản Phù Đổng Thiên Vương ca tụng ngài đánh giặc Ân. Bản Lô hoa tình khúc nghĩa là khúc hát trữ tình dưới bụi lau, ca tụng mối tình của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Còn ba bài Xuân giang dạ vũ nghĩa là mưa trên sông mùa Xuân, Trung thu tý dạ ca bài hát giữa đêm thu, Đoạn trường mang mang nghĩa là mối hận đứt ruột ra. Xét về lời lẽ, thì tác giả không thể là Trương Chi được vì lời ca óng chuốt, nặng ảnh hưởng của thơ Đường. Có hai vấn đề đặt ra: Hoặc ba bản đó không phải của Trương Chi. Hoặc nguyên của Trương Chi rồi người sau sửa đổi lời, nên có lẫn ảnh hưởng của thơ Đường. Tỷ dụ câu:

      Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
      Phương thảo thê thê Anh vũ châu.

      Thì câu trên lấy trong bài Khuê Oán của Lý Bạch nghĩa là: Ngày xuân ngưng trang điểm, lên lầu buồn nhớ. Câu cuối lấy trong bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu nghĩa là: Bãi xa Anh Vũ xa đầy cỏ non.

      Hồ Đề ít đọc sách, nghe thiếu nữ áo trắng đàn, hai thiếu nữ áo xanh hát bài Lộc Minh trong Tiểu-nhã, nàng không biết là phải. Đoạn trên nghĩa rằng:

      Con nai kêu oang oác,
      Nó đừng gậm bèo hoang,
      Khách đến đầy nhà ta.
      Tấu đàn, tiêu mời khách,
      Âm thanh tiêu, đàn hòa hợp,

      Lễ vật dâng lên thành kính
      Bằng hữu đều thương mến,
      Dạy ta đạo lý, đáng kính.

      Tiếng đàn, tiếng ca bi hùng vang lên trong đêm vắng.

      Hồ Đề hỏi nhỏ:

      – Có rất nhiều người, theo bốn hướng lên đây.

      Một lát sau, quả nhiên bốn phía đều có người lên trên núi. Họ tiến tới bao vây thiếu nữ áo trắng và đám người tế lăng.

      Hai thiếu nữ áo xanh một người đeo trường kiếm, một người đeo cây nhuyễn tiên. Hai người liếc mắt nhìn bốn phía, thấy tình hình bất lợi. Thiếu nữ đeo kiếm nói:

      – Sư tỷ! Phải cẩn thận. Có nhiều người tiến vào lăng.

      Thiếu nữ áo trắng vừa đàn, vừa ca, những giọt lệ chảy xuống hai má, dưới ánh sáng của sáu ngọn đuốc, trông càng tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo. Đám người mới tới vũ khí sáng choang, khí thế hùng mạnh. Trưng Nhị nhận ra người cầm đầu là Việt-kị hiệu-úy Trương Linh. Trương Linh vẫy tay cho thủ hạ vây kín bọn người tế lăng. Bọn người tế lăng như coi thường đám người của Trương Linh. Sáu người đàn ông vẫn cầm đuốc đứng như pho tượng. Hai thiếu nữ chống kiếm đứng cạnh thiếu nữ áo trắng, thản nhiên như không có gì xảy ra.

      Thiếu nữ áo trắng vừa đàn vừa ca. Giọng nàng bi thiết, tiếng đàn não nùng, khiến người nghe như nát tim, vỡ phổi.

      Tiếng ca vừa dứt, thì thiếu nữ áo xanh đeo kiếm hỏi Trương Linh:

      – Các ngươi là ai? Đêm khuya lên lăng mộ Tiên-đế làm gì?

      Trưng Nhị lấy cùi chỏ sẽ thúc Hồ Đề, Sa-Giang ý nói:

      – Thiếu nữ này dùng chữ Tiên-đế chắc chắn là con cháu Trường-sa Định-vương đây.

      Trương Linh đáp:

      – Tôi là Việt kị hiệu-úy, họ Trương tên Linh. Vâng chỉ dụ Thái-hậu tới đây bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế.

      Thiếu nữ áo trắng vẫn không lên tiếng, nàng đưa mắt liếc nhìn Trương Linh hơi cau mày một chút.

      Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm chậm chạp nói:

      – Người là Việt-kị hiệu-úy, tức Thống-lĩnh thị-vệ, cấm-quân. Ngươi không ở Lạc-dương, đến đây làm gì? Việc bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế là nhiệm vụ của Thái-thú Trường-sa, đâu phải của người?

      Trương Linh đáp:

      – Tôi vâng mật chỉ của Thái-hậu tới đây.

      Thiếu nữ áo xanh đeo roi chỉ vào thiếu nữ áo trắng:

      – Vậy ngươi hãy quì xuống ra mắt sư tỷ ta đi.

      Trương Linh hỏi:

      – Các vị là ai?

      Thiếu nữ áo trắng cau mặt:

      – Ta là ai, không đến cái thứ như ngươi được quyền hỏi bằng giọng hỗn láo như vậy.

      Trương Linh đáp:

      – Ta được mật chỉ của Thái-hậu, tới đây bắt bất cứ ai vào lăng này. Dù hoàng-thân quốc thích.

      Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm nhìn Trương Linh hỏi:

      – Ta hỏi Trương tướng-quân điều này: Đương thời Tiên-đế có đức, hậu nhân mới kính trọng, kính trọng mới tế lăng. Như xưa kia Văn-Vương ân đức trải khắp thiên hạ, trăm họ đều nhớ ngày kị mà tế mộ, sao gọi là gian nhân?

      Trương Linh ngẩn người người ra một lúc rồi nói:

      – Thái-hậu chỉ dụ, có nhiều gian nhân, muốn lợi dụng đêm tối, định phạm lăng Tiên-đế, ăn cắp bảo vật, sai ta phục quanh núi này bắt. Vậy các người hãy theo ta về Lạc-dương để Thái-hậu phát lạc.

      Thiếu nữ áo xanh đứng cạnh lên tiếng:

      – Trương hiệu-úy! Ngươi là thần tử nhà Đại-Hán, người núp ở đây đây từ nãy đến giờ, chắc ngươi đoán ra chúng ta là ai rồi? Đã biết chúng ta là ai mà không dập dầu làm lễ, một tội đáng chém đầu. Đã không dập đầu làm lễ, còn nói lời vô lễ, hai tội đáng chém đầu. Ngươi muốn làm phản phải không? Quân này to gan lớn mật thật.

      Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói như vậy, y ngẩn người ra tự hỏi:

      – Thái-hậu sai ta đến Trường-sa bắt Hàn Tú-Anh. Nhưng ta xem ra trong ba thiếu nữ, đều không phải Hàn Tú-Anh, vì Hàn Tú-Anh không thể trẻ như thế này được. Không chừng con cháu Tiên-đế cũng nên. Như vậy thì hỏng bét. Vạn nhất là Công-chúa, Quận-chúa thì nguy.

      Y gặng hỏi:

      – Tôi vâng chỉ dụ Thái-hậu đến đây bảo vệ lăng mộ Tiên-đế, cho nên thấy người lạ đột nhập vào lăng, phải tra hỏi. Vàng thau lẫn lộn, khó phân biệt chân giả. Vậy chẳng hay các vị là ai? Các vị là con cháu di thần của Tiên-đế hay thuộc chi nào của nhà Đại-Hán mà đến đây tế mộ?

      Thiếu nữ áo trắng thủy chung không lên tiếng, nàng quì gối, ôm lấy chiếc lư hương bằng đồng trong lăng mà khóc. Tiếng khóc của nàng trong, nhẹ nhàng, nức nớ, nghẹn ngào, làm thiếu nữ áo xanh với Trương Linh phải tạm ngừng tranh luận. Thiếu nữ áo trắng lại lấy cây đàn ra dạo lên những tiếng thanh thoát. Trưng Nhị nhận ra bài Đại Phong. Hồi nàng đi Trường-an, đã thấy nhạc quân tấu lên trước khi Quang-Vũ thiết triều.

      Nguyên hồi Cao Tổ nhà Hán, Lưu Bang, sau khi thắng Sở Bá Vương Hạng Võ, trở về cố hương. Trong lúc hứng chí vì đại nghiệp đã thành, làm bài ca Đại Phong. Từ đó, nhạc quan nhà Hán phổ nhạc, khi thiết triều tấu lên, tỏ uy vũ:

      Đại phong khởi hề! Vân phi dương.
      Uy gia hải nội hề! Qui cố hương.
      An dắc mãnh sĩ hề! Thư tứ phương.

      (Gió lớn dấy lên, mây bay lên trời.
      Oai của ta bao trùm khắp nước, nay trở về quê cũ.
      Ta thu phục mãnh sĩ, chiếm được bốn phương).

      Giọng thiếu nữ áo trắng cao vút, trong mà nhẹ, hòa lẫn với tiếng dàn vang vang trong đêm vắng.

      Dứt bản Đại Phong, thiếu nữ áo trắng, thắp lên tuần hương nữa, lạy 8 lạy rồi sửa lại quần áo.

      Thiếu nữ áo xanh đeo nhuyễn tiên bấy giờ mới lên tiếng:

      – Trương tướng quân, luật lệ của bản triều do Tiêu thừa-tướng soạn ra: Bắt gian phi phải có chứng cớ. Người vâng chỉ Thái-hậu giữ lăng, bắt gian thì gặp gian tế người mới có quyền bắt, đây người gây sự với thần dân vì nhớ ân đức tiên-vương đến tế lăng, đó là tội đáng tru di tam tộc. Còn người thấy chúng ta, biết chúng ta không phải gian tế, mà còn gây sự là hai tội. Được, ta sẽ tâu lên Thiên-tử, người có đến mười cái đầu cũng cụt. Còn chúng ta là ai, ngươi không xứng đáng hỏi đến.

      Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói, y mới cảm thấy lạnh gáy: Thái-hậu sai y đi bắt Hàn Tú-Anh. Trong lúc chủ quan, y đã phạm vào một tội trọng đối với luật nhà Hán. Nhìn cung cách, y cũng biết thiếu nữ áo trắng giòng dõi của Trường-sa Định-vương, nếu không phải Công-chúa, cũng Quận-chúa gì đây.

      Bấy giờ thiếu nữ áo trắng mới lên tiếng:

      – Lan-Anh sư muội, ngươi nói cho tướng quân biết ta là ai đi.

      Thiếu nữ đeo kiếm nói:

      – Trương Linh, đây là Công-chúa Vĩnh-Hòa, trưởng nữ của Cảnh-Thủy Hoàng-đế. Còn ta là Quận-chúa của Tấn-công. Ta họ Lý, khuê danh Lan-Anh..

      Nàng lại chỉ thiếu nữ đeo nhuyễn tiên:

      – Đây là Quận-chúa Chu Thúy-Phượng, trưởng nữ của Ngụy-công Chu Huy.

      Trương Linh nghe Lý Lan-Anh nói, hồn phách bay lên mây.

      Nguyên con thứ của Hán Cảnh-Đế tên Phát được phong Trường-sa Định-vương. Truyền đến đời thứ tư tức cha đẻ của Quang-Vũ. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Trường-sa Định-vương đời thứ năm bị hại. Người anh của ông tên Huyền khởi binh ở Quan-trung, xưng hiệu Cảnh-Thủy Hoàng-đế (23 sau Tây Lịch) phong cho hai cháu Lưu Diễn, Lưu Tú (Quang-Vũ) làm tước Vương. Sau khi giết Vương Mãng, ông phong cho ba sư đệ Phan Sùng làm Sở-vương, Chu Huy làm Ngụy-công, Lý Điệt làm Tần-công. Sau Phan Sùng cầm quân trong tay, làm phản, giết Lưu Huyền. Hai sư đệ Lý Huy, Chu Điệt cũng bị giết. Vì Phan Sùng là người râu, tóc đỏ hoe nên người đời gọi là Xích-mi.

      Lưu Diễn nhân đó cầm quân đánh Xích Mi, lấy cớ cháu kế nghiệp bác. Diễn chết, con còn nhỏ. Nghiêm Sơn cùng các tướng tôn em là Lưu Tú lên thay. Cảnh-Thủy Hoàng-đế không có con trai, chỉ có một con gái. Để lấy lòng sĩ dân, Quang-Vũ phong cho con gái Lưu Huyền làm Vĩnh-Hòa Công-chúa, con gái Lý Điệt và Chu Huy làm Quận-chúa, ban cho một cây Thượng-phương kiếm, được quyền trên trảm hôn quân, dưới trảm gian thần, mà không phải tấu.

      Trương Linh thấy mình đã phạm tội nặng. Nếu có quì xuống kêu van, chắc cũng không toàn mạng. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Y phải giết chết ba người rồi tìm cách bắt Hàn Tú-Anh. Nếu việc bại lộ, đã có Thái-hậu che chở.

      Nghĩ vậy, y quát lớn:

      – Bọn gian tế thực lớn mật, giám mạo xưng Công-chúa, Quận-chúa. Bây đâu, bắt lấy chúng cho ta.

      Lý Lan-Anh rút kiếm ra quát lớn:

      – Phản rồi! Phản rồi!

      Bọn võ sĩ theo Trương Linh cũng rút binh khí nhảy vào bắt sáu thanh niên cầm đuốc. Sáu thanh niên rút binh khí chống trả.


      #3
        CDDLT 22.12.2004 17:50:20 (permalink)
        HỒI THỨ 24

        Hận tình chưa trả cho ai,
        Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

        (Đoạn trường Tân Thanh)



        Sáu võ sĩ theo hầu Công-chúa Vĩnh-Hòa buông đuốc rút binh khí chiến đấu. Họ là những võ sĩ bản lĩnh cao. Nhưng chỉ có sáu người trong khi phía Trương Linh tới trên trăm người. Nên một lát sau, sáu người yếu thế dần.

        Lý Lan Anh thấy vậy rút kiếm quát lớn:

        – Ngừng tay!

        Cả hai bên đều lui lại.

        Lý Lan Anh đưa kiếm ra nói:

        – Đây, Thượng phương bảo kiếm của thiên tử ban cho chúng ta. Từ xưa thấy kiếm như thấy Thiên tử. Các ngươi mau quì xuống nghe chiếu chỉ. Đám võ sĩ nhìn Trương Linh, lòng nghi hoặc.

        Trương Linh hoảng sợ, quát lên:

        – Các người phải bắt cho được ba nữ tặc nầy. Đó là chỉ dụ của Thái hậu. Nếu ba tên nữ tặc chạy trốn, tất cả đều mất đầu.

        Khi rời Lạc Dương đi Trường Sa, Trương Linh đã lực lấy một trăm vệ sĩ trong hoàng cung, đều võ nghệ cao cường, chân tay thân tín của y. Cho nên nay gặp hoàn cảnh hiểm nguy. Họ vẫn trung thành, nghe lệnh.

        Đám vệ sĩ hoàng cung lại nhảy vào tấn công. Sáu võ sĩ hộ vệ Vĩnh Hòa, chiến đấu rất can trường. Song họ ít người, không chống cự được.

        Người cầm đầu kêu lớn lên:

        – Bọn phản tặc làm lộng, xin Công chúa tạm dời gót. Bọn hạ thần cương quyết lấy cái chết báo ơn Công chúa.

        Y vừa dứt lời, đã bị đánh ngã. Bọn vệ sĩ hoàng cung bắt sống năm người còn lại. Chúng cùng nhìn Trương Linh hỏi ý kiến. Trương Linh chỉ Vĩnh Hòa quát:

        – Hãy bắt ba nữ tặc ngay.

        Bọn vệ sĩ nhảy vào bắt Vĩnh Hòa, Lý Lan Anh và Chu Thúy Phượng trói lại.

        Bấy giờ Trương Linh mới nói với đám vệ sĩ:

        – Các vị huynh đệ nghe nay: chúng ta vâng chỉ dụ của Thái Hậu bắt khâm phạm. Không ngờ gặp bọn này. Nếu để cho chúng đi, thì lỡ việc của Thái Hậu, tất Thái hậu sẽ cắt đầu chúng ta. Vậy anh em nghĩ sao?

        Bây giờ đám thị vệ vệ mới biết ba thiếu nữ là Công chúa, quận chúa thật. Họ biết ba người này có Thượng Phương bảo kiếm, cho phép được tiền trảm hậu tấu. Nếu thả họ ra lỡ việc thái hậu khó an toàn mạng. Còn bắt họ, sẽ bị khép vào tội rất nặng. Tất cả đồng nhìn Trương Linh để hỏi ý kiến.

        Một người hỏi:

        – Trương tướng quân bảo rằng nay là ba tên khâm phạm, chúng tôi mới ra sức bắt. Bắt rồi tướng quân mới công nhận họ là Công chúa, Quận chúa. Thế thì tội ở tướng quân, chứ không phải tội ở chúng tôi.

        Y quay lại nói với anh em:

        – Các vị huynh đệ, sự thể đã ra thế này, chúng ta cứ thả công chúa ra rồi tùy lượng công chúa tha hay không cũng không cần. Bất quá chúng ta mất mạng. Còn nghe theo Tướng quân, có thể đưa đến họa diệt tộc.

        Đám thị vệ ngơ ngác nhìn nhau tìm quyết định chung.

        Trương Linh hoảng sợ, quát lớn:

        – Các ngươi dám trái chỉ dụ của thái hậu ư? Đây ta đọc chỉ dụ của Thái Hậu cho các ngươi nghe.

        Y móc trong túi ta một cuộn giấy, mở ra đọc lớn:

        "Nay chỉ dụ cho Việt kị Hiệu úy Trương Linh tức tốc lên đường đi Trường Sa canh gác lăng Tiên đế. Bất cứ ai tới tế, hay khóc tại lăng đều phải bắt về Lạc Dương phục lệnh. Các quan văn võ địa phương từ thái sứ trở xuống đều phải tuân lệnh đều động của Trương tướng quân."

        Bên dưới ấn son đóng đỏ chói. Các thị vệ hoàng cung truyền nhau đọc. Bây giờ Trương Linh mới nói:

        – Nếu chúng ta thả ba người này ra, lỡ việc của Thái hậu, sẽ bị giết. Còn giải họ về Lạc Dương, Hoàng thượng sẽ giết chúng ta. Chi bằng chúng ta giết họ, bịt miệng, như vậy là thượng sách.

        Đám vệ sĩ nhìn nhau tần ngần rồi đồng gật đầu. Trương Linh chỉ một vệ sĩ nói:

        – Lưu đội trưởng. Ngươi cùng anh em chém chin đứa này ngay. Sau đó lấy củi chất thành đống. Chúng ta đốt chín cái thây ma cháy thành than, phi tang.

        Tên đội trưởng họ Lưu rút dao ra, vung lên hướng vào cổ Công chúa Vĩnh Hòa chém xuống. Cả trăm thị vệ hoàng cung đều nhắm mắt lại, không dám nhìn nhát dao chặt đầu con người sắc nước hương trời. Bỗng choang một tiếng. Tia lửa tóe ra ngay cổ Công chúa, thanh đao trên tay Lưu đội trưởng bay lên không, cắm phập vào một cây gần đó. Cán dao còn rung rinh không ngớt.

        Trương Linh hỏi:

        – Cái gì vậy?

        Lưu đội trưởng mặt nhợt nhạt:

        – Không biết nữa, có lẽ y thị có tà thuật.

        Trương Linh bảo một tên vệ sĩ khác:

        – Ôn Bình, ngươi thử xem.

        Ôn Bình cầm đao, hướng vào cổ Vĩnh Hòa bổ xuống. Khi đao sắp tới cổ Vĩnh Hòa lại "choang" một tiếng, tóe lửa, đao của hắn bay vọt lên cắm vào cành cây. Kỳ diệu ở chỗ hai thanh đao cùng cắm vào một chỗ, nhưng mũi chụm vào nhau, mà chuôi chĩa về hai hướng khác nhau.

        Trương Linh ngạc nhiên đến đờ người ra. Y đứng nhìn công chúa Vĩnh Hòa suy nghĩ xem tại sao lại có hiện tượng đó.

        Dưới bụi hoa Trưng Nhị nhìn rất rõ. Khi tên đội trưởng họ Lưu cũng như Ôn Bình cung đao chém Công Chúa Vĩnh Hòa, thì một người núp trong góc cây gần đó, tay cầm sợi giây, vận kình lực vào, khiến sợi giây như con rắn, vươn cổ về phía trước, "mổ" đúng vào thanh đao. Đao bị kình lực hất bắn lên trên không, tuyệt ở chỗ sợi giây đi chậm mà kình lực mạnh kinh người.

        Trưng Nhị ngạc nhiên:

        – Ta tưởng trên đời này chỉ có thái sư thúc Khất Đại Phu và Đào hiền đệ có thể làm được như vậy mà thôi. Không hiểu người này đến đây tự bao giờ, mà Thần Ưng của Hồ Đề cũng không khám phá ra.

        Hồ Đề nói sẽ vào tai Trưng Nhị:

        – Có nhiều người lên núi Vương Sơn, chắc chắn là quân Hán, chúng ta rút lui hay cứ đứng đây ?

        Trưng Nhị ghé tai Hồ Đề nói nhỏ:

        – Su muội hãy rút khỏi núi ngay, dùng Thần Ưng đưa tin cho Phật Nguyệt và Trần Năng, mang đội Thần Hổ, Thần Báo đến đây. Nhớ bao vây núi thật kỹ, không cho một người chạy thoát.

        Hồ Đề lui ra, men mép rừng, nhảy vọt lên cây, truyền theo cành đi như 1 con khỉ.

        Nguyên Hồ Đề sống ở sơn cước từ nhỏ, nàng huấn luyện Thần Hầu đã quen, nàng cũng truyền cành cây đi như loài khỉ được.

        Về phần Trương Linh y vẫn chưa khám phá ra kỳ nhân núp sau bụi cây, dùng kình lực biến sợi giây biến thành ám khí vừa nhu vừa hòa vừa cương mãng đánh bay đao của hai tên bộ hạ.

        Y cho rằng công chúa Vĩnh Hòa có phép tắc gì, y rút kiếm chém vào quân chúa Chu Thúy Phượng, kình lực cực mạnh, đến "véo" một tiếng, lưng y hướng về phía kỳ nhân phóng dây cứu công chúa Vĩnh Hòa. Trưng Nhị hoảng hốt, nàng định ra tay, nếu không Chu Thúy Phượng phải chết. Không ngờ sợi dây từ bụi cây vọt lên cao, uốn vòng qua người Trương Linh, đầu sợi dây lại "mổ" đụng vào lưỡi kiếm của y "choang" một tiếng, lưỡi kiếm của y bay lên cắm vào cùng một chỗ với hai lưỡi đao, lần này Trương Linh cảm thấy có một kình lực nhu hòa vòng qua đầu mình, y không rõ đối phương làm thế nào mà có thể đánh bay vũ khí của mình.

        Y quay lại nhìn phía sau, quát lớn:

        – Cao nhân phương nào ? Xin xuất hiện tương kiến, tại sao lại ẩn ẩn náu náu như vậy ?

        Vẫn không có tiếng trả lời, y nhìn về phía phát ra kình lực, thấy một bụi cây, y đoán người phóng kình lực cứu Chu Thúy Phượng núp ở đó, y nhảy vèo đến, tay rút kiếm xuất chiêu chém xuống.

        Trưng Nhị súyt bật cười, vì người phóng dây ngồi ở bụi cây phía sau, mà Trương Linh lại phóng kiếm vào bụi cây có một trong Khúc Giang Ngũ Hiệp ẩn náu.

        Trương Linh đâm kiếm thứ nhất, không thấy gì, y đâm kiếm thứ nhì cũng không thấy gì, khi y thu kiếm về thì kiếm y như bị đóng vào cây cột, y cố gắng nhổ không ra, biết gặp điều bất ổn, y buông kiếm, rút trong bọc ra 5 mũi phi trùy, phóng vào bụi cây, phi trùy trúng vào, thì một bàn tay vung lên, bắt cả 5 mũi, một người đứng úy Tướng Quân, này kiếm và phi trùy đây, người cầm lấy đi.

        Bấy giờ Trương Linh mới nhìn kỹ đối phương, đây là người tướng mạo hùng vĩ, cao hơn y một cái đầu, tuổi khoảng 45, 46, Trương Linh nhìn nét mặt ôn nhu, tiêu sái của người đó, trong lòng bớt sợ một chút, y nghĩ thầm:

        – Người này tuổi cũng chưa già, tại sao công lực lại cao đến dường này, hai ngón tay y kẹp thanh kiếm mà ta cố vùng vẫy cũng không ra, không lẽ trên đời có người công lực cao đến dường này ư ?

        Trương Linh hỏi:

        –Tôn giả là ai ? đêm khya giá lâm lăng mộ này có chuyện gì ?

        Người đó đáp bằng giọng ôn nhu:

        – Tại hạ Trần Ngũ Gia, người đất Lĩnh Nam.

        Câu này khiến Trưng Nhị suýt bật thành tiếng, vì tất cả anh hùng Lĩnh Nam, trong đại hội Tây Hồ quyết định rằng từ nay khi giao đấu với ai thì bao giờ cũng giới thiệu tên mình rồi thêm vào câu "người Lĩnh Nam", như vậy Khúc Giang Ngũ Hiệp chắc cũng mưu phục quốc như nàng.

        Trong đại hội trên con thuyền của Tang Cối Giang bàn kế hoạch khởi nghĩa, Khúc Giang Ngũ Hiệp không về kịp, cho người đưa thư nói rằng: Anh hùng Lĩnh Nam quyết định gì, Khúc Giang Ngũ Hiệp sẵn sàng tuân theo, có lần nàng hỏi về nguồn gốc Khúc Giang Ngũ Hiệp, Khúc Đại Phu trả lời rằng: Khúc Giang Ngũ Hiệp quê ở Khúc Giang, thuộc Nam Hải, họ là cháu chín đời Tể Tướng Âu Lạc Phương chính hầu Trần Tự Minh, võ công cực cao, người nào cũng võ công cao ngang với Khất Đại Phu, Khất Đại Phu cũng giòng dõi Phương Chính Hầu, so vai vế ông ở vai thúc phụ. Khúc Giang ngũ Hiệp là sư phụ của Minh Giang, hiệu là Phấn Oai Đại Tướng Quân, chỉ huy đạo quân Quế Lâm.

        Trương Linh nghe tới Trần Ngũ Gia thất kinh:

        – Tiên sinh có phải đệ ngũ nhân trong Khúc Giang Ngũ Hiệp không ?

        Trần Ngũ Gia đáp:

        – Không dám, tại hạ người thứ năm.

        Trương Linh đã có vẻ xuống nước:

        – Hôm nay tiểu tướng được diện kiến đệ ngũ tiên sinh trong Khúc Giang, thực vạn hạnh. Thảo nào người dùng kình lực đánh bay đao kiếm của bọn tiểu tướng.

        Trần Ngũ Gia lắc đầu:

        – Bắt ám khí, giữ kiếm của tướng quân là tại hạ, còn người dùng kình lực nhu hòa bay kiếm đao của các vị là một cao nhân khác, muôn ngàn lần anh em tại hạ không bằng.

        Trần Ngũ Gia vỗ tay một cái, bốn người còn lại trong Khúc Giang Ngũ Hiệp đồng xuất hiện.

        Trần Ngũ Gia giới thiệu:

        – Đây bốn vị sư huynh của tại hạ.

        Bỗng Ôn đội trưởng lùi lại chỉ Trần Tứ Gia

        – Ngươi! Ngươi là phản tặc.

        Y nói với Trương Linh:

        – Trương tướng quân! Đây là tên khâm phạm ghê gớm của triều đình.

        Trương Linh hỏi:

        – Sao ngươi biết ?

        Gã họ Ôn đáp:

        – Hôm trước thái hậu sai tiểu nhân mang một tên thị vệ là Trương Minh Đức xử tử, thì tên này từ đâu xuất hiện, giết hơn ba chục thị vệ, cứu tên Trương Minh Đức đi mất, thái hậu, hoàng thượng rất căm hận y.

        Trương Linh nghe danh Khúc Giang Ngũ Hiệp từ lâu, võ công của y so với một trong ngũ hiệp, ví như con đom đóm với mặt trăng mặt trời, muôn ngàn lần y không dám so sánh. Bây giờ nghe gã họ Ôn nói vậy, y lâm hoàn cảnh khó xử, gặp khâm phạm mà không bắt, tội không nhỏ, mà muốn động thủ với Khúc Giang ngũ hiệp chỉ có nước chết, y hỏi gã họ Ôn:

        – Ngươi trông lầm đấy chứ ?

        Gã họ Ôn chưa đáp, Trần Tứ Gia đáp:

        – Gã họ Ôn nói đúng, chính tay ta giết chết 29 tên thị vệ, cứu tên Trương Minh Đức. Trương Minh Đức là một tên thị vệ nhỏ bé, y có cô vợ người Việt tên Chu Tường Qui xinh đẹp bị Quang Vũ cưỡng đoạt, Mã Thái Hậu đổ lên đầu y tội phản nghịch, rồi đem chém để diệt khẩu, nên ta phải ra tay cứu y.

        Trương Linh lùi lại bốn bước, y có ý khoa trương lực lượng cho Khúc Giang Ngũ Hiệp tránh đi chỗ khác :

        – Anh em thị vệ nghe đây, chúng ta bắt ba nữ tặc này trước đã, rồi mới bắt khâm phạm sau. Này Khúc Giang Ngũ Hiệp! Các vị mau rời khỏi nơi đây, chúng ta không muốn đấu với ngươi ở lăng mộ tiên đế, sợ ô uế.

        Trần Tứ Gia cười khẩy:

        – Ngươi có biết đây là đâu không?

        Trương Linh nói lớn:

        – Đây thuộc lĩnh địa Trường Sa.

        Tứ Gia gật đầu:

        – Trường Sa thuộc Lĩnh Nam, ta là người Việt, ta đứng trên đất tổ tiên ta, các ngươi bọn Hán bốn chân, phải rời khỏi nơi đây tức khắc

        Trương Linh không muốn tranh hơn thua với Khúc Giang ngũ hiệp, y bảo bộ hạ:

        – Hãy bắt 3 nữ phạm này trước, rồi mới nói chuyện khác sau.

        Khúc Giang ngũ hiệp đứng im lặng, không nói gì, một lát sau Trần Nhất Gia nói:

        – Trương tướng quân, Vĩnh Hòa Công Chúa với anh em tại hạ có chút ân nghĩa, anh em tại hạ dám lớn gan xin tướng quân cho anh em tại hạ đón Công Chúa đi được không?

        Trương Linh lắc đầu:

        – Khúc Giang ngũ hiệp là con dân nhà Hán, phải tuân theo phép nước, tại hạ được chỉ dụ của thái hậu bắt những người này vễ kinh phục mệnh, không thể tuân theo ngũ hiệp được.

        Quận Chúa Lý Lan Anh chỉ mặt Trương Linh nói:

        – Các ngươi là phản tặc, tội đáng chu di, các ngươi phạm tội, còn muốn giết người diệt khẩu. Trần Ngũ sư thúc, đệ tử dám xin sư thúc giết tên Trương Linh dùm tiểu nữ.

        Trần ngũ Gia thản nhiên nói với Trương Linh:

        – Trương tướng quân! Nếu thật sự tướng quân tuân chỉ thái hậu, khi về Lạc Dương đối chất sẽ rõ trắng đen, Lý quận chúa là đệ tử của đại sư huynh tôi, vì vậy một là chúng tôi phải duy trì công đạo, hai là phải bảo vệ đệ tử.

        Ông vừa dứt câu, người lạng đi một cái hai tay biến thành trảo chụp Trương Linh, Trương Linh hoảng kinh, vận sức phóng chưởng đánh vào ngực ông. Bùng một tiếng, người ông chỉ hơi rung động hai tay ông túm được y, rắc, rắc hai tiếng cánh tay y bị bẻ quẹo ra phía sau. Ông định quăng y cho đám vệ sĩ của công chúa Vĩnh Hòa trói lại, thì có tiếng quát lớn:

        – Tha Trương tướng quân ra ngay, không thôi chúng tôi buông tên, chết cùng chết cả.

        Xung quanh núi Vương Sơn xuất hiện không biết là bao nhiêu cung thủ, trong tư thế tên đặt lên cung chờ buông.

        Trưng Nhị đã được Hồ Đề báo cho biết trước có quân Hán lên núi, nên nàng không ngạc nhiên.

        Người cầm đầu đám cung thủ Hán không mặc quần áo theo quân binh, mà lại mặc theo lối Lĩnh Nam.

        Trưng Nhị nghĩ:

        – Ta nghe nói trong thành Trường Sa có ba đại cao thủ là Tượng Quân Tam Anh, chắc ba người này đây, người cao lớn kia là Hàn Bạch, người cao lớn lênh khênh kia chắc là Vương Hồng, còn người lùn kia chắc là Chu Thanh.

        Trần Ngũ Gia cười lớn:

        – Các vị có phải Tượng Quân Tam Anh đấy không ? 5 anh em tại hạ họ Trần ở đất Khúc Giang, hân hạnh được tương kiến hào kiệt Lĩnh Nam. Tại hạ thường nghe tiếng ba vị như sấm nổ bên tai. Hàn đại hiệp nội công cao nhất thiên hạ. Vương đại hiệp chưởng lực hùng hậu, không ai chịu nổi hai chưởng. Chu đại hiệp kiếm thuật thần thông, võ công các vị lừng danh tượng quận, hiệp nghĩa vang thiên hạ, khiến cho đất Lĩnh Nam chúng ta người người đều hãnh diện.

        Hàn Bạch thấy đối phương tư thái ung dung, nhàn nhã, rõ ra một đại tôn sư võ học, đã vậy lại ca tụng võ công hiệp nghĩa của mình rồi còn thêm vào câu "người Lĩnh Nam hãnh diện", vội chắp tay đáp lễ.

        – Không giám, anh em tại hạ đã từng nghe nói:"Nếu là Anh Hùng Lĩnh Nam mà chưa được diện kiến Khúc Giang ngũ hiệp thì chỉ là hư danh", hôm nay anh em tại hạ được tham kiến ngũ hiệp, thật là tam sinh hữu hạnh. Trương tướng quân đây vô ý mạo phạm đến ngũ hiệp, xin ngũ hiệp nể mặt anh em tại hạ mà tha cho y.

        Trưng Nhị nghe Hàn Bạch câu đo, cười một mình:

        – Võ công Hàn Bạch tuy cao, nhưng kiến thức thua xa Khúc Giang ngũ hiệp, Khúc Giang ngũ hiệp bị vây, mà vẫn bình tĩnh như thường, thái độ ung dung. Rõ ràng Tượng Quân Tam Anh là kẻ thù, vẫn ôn tồn lễ độ, kẻ thù có cái hay, cái giỏi, vẫn khen cái hay cái giỏi, còn biết khơi lòng yêu nước của kẻ thù bằng câu khen họ nổi tiếng Lĩnh Nam. Khúc Giang ngũ hiệp mà gặp Cửu Chân song kiệt Đào Thế Kiệt và Bình Đại, chắc chắn họ kết thành những người bạn chí thân, từ tư thái võ đạo, lòng yêu nước đều giống nhau.

        Từ lúc xuất hiện đến giờ, Trần Nhất Gia để cho Ngũ Gia nói, ông im lặng, bây giờ ông mới lên tiếng:

        – Ngũ đệ, hãy tha Trương tướng quân ra, giữa Anh Hùng Lĩnh Nam chúng ta lấy võ đạo, nghĩa khí đối với nhau là đủ, huống chi đã có lời của Tượng Quân nhất hiệp.

        Trần Ngũ Gia xách Trương Linh tới trước mặt Hàn Bạch:

        – Trương tướng quân, chúng ta thả Trương tướng quân ra là nể lời Tượng Quân Tam Anh, còn việc Trương Tướng Quân thấy Thượng Phương kiếm của Thiên Tử, bất tuân chỉ, còn mưu giết công chúa là việc của triều đình nhà Hán, không liên quan gì đến người Lĩnh Nam ta.

        Câu nói này của Trần Ngũ Gia có nghĩa: Ta chỉ nể Trường Sa Tam Anh nên tha cho, còn công chúa, quận chúa có tha hay không đó là chuyện của người Hán.

        Quận chúa Chu Thúy Phượng rút kiếm đưa lên, tay chỉ công chúa Vĩnh hòa :

        – Tướng sĩ, cùng chư quân nghe đây: vị này là Vĩnh Hòa công chúa, trưởng nữ của Cảnh Thủy Hoàng Đế, còn đây là quận chúa của Tấn Công, còn ta là quận chúa của Ngụy Công, chúng ta được Kiến Vũ Thiên Tử ban cho thanh Thượng Phương bảo kiếm, trên có thể trảm hôn quân, dưới có thể trảm loạn thần, chúng ta nhân qua đây vào tế lăng Tiên Đế, bị tên Trương Linh làm phản dẫn trên 100 tên bộ thuộc đến bắt chúng ta toan giết đi, vậy tất cả tướng sĩ đều vô can. Các ngươi thấy Thượng Phương bảo kiếm cũng như thấy Thiên Tử, ai bắt được Trương Linh ta sẽ bảo tấu Thiên Tử phong tước, ai theo y bị chém cả ba họ.

        Quân Hán nhao nhao muốn nhảy vào bắt Trương Linh, khiến y kinh hoàng hỏi Hàn Bạch:

        – Hàn Đô Úy, ngươi cùng Mã quốc cữu cũng như ta nhận mật chỉ của thái hậu, canh gác lăng Tiên Đế bắt những ai đến tế lăng, vậy nay ba người này là công chúa, quận chúa mặc lòng, chúng ta phải bắt về Lạc Dương phục mệnh.

        Hàn Bạch lắc đầu:

        – Chúng ta vâng mật chỉ bắt người khác, chứ không phải để bắt công chúa, theo tại hạ thì, tướng quân lúc đầu vì lầm lỡ, trót mạo phạm công chúa, lại muốn giết người bịt miệng, việc này không liên quan đến mật chỉ của Thái Hậu, tại hạ nghĩ tướng quân nên tạ tội với công chúa đi là xong.

        Trương Linh muốn đổ quạu với anh em Hàn Bạch, vì y vâng mật chỉ của thái hậu làm việc, khi ra đi Mã thái hậu đã dặn rằng nhất thiết cần bảo mật tối đa, những ai vô tình hay hữu ý biết việc này phải giết không tha, dù là hoàng thân quốc thích. Thái hậu dặn rằng, trong đám vệ sĩ hoàng cung đi theo, sau khi mọi việc xong xuôi cũng đều giết hết. Thế mà nay hiện diện tại đây không phải chỉ có 100 vệ sĩ, còn 9 người tế Lăng, anh em Khúc Giang ngũ hùng và cả ngàn binh sĩ của Trường Sa, y luống cuống không biết giải quyết sao, thì Tượng Quân Tam Anh lại không nghe lời y.

        Trần Nhất Gia tiếp lời:

        – Trương tướng quân! Lăng mộ các danh nhân, bất cứ ai có lòng ngưỡng mộ người quá cố, đều có thể đến tế lễ, có đâu lại bắt giam ? Tại hạ e rằng mật chỉ của thái hậu mục đích bắt người nào đến giả tế lăng, ăn cắp bảo vật, chứ đâu để bắt hoàng thân quốc thích ?

        Chu Thúy Phượng chỉ vào mặt Trương Linh:

        – Mật chỉ của thái hậu chưa thể phân biệt được thực hay giả. Còn chúng ta là công chúa, quận chúa cùng Thượng Phương bảo kiếm là thực, không nghi ngờ gì nữa. Chư quân nghe đây: các ngươi nghe theo Trương Quân làm phản, tội đáng chu di tam tộc, nếu nay các ngươi bắt được y, sẽ được ân xá, còn được ban thưởng.

        Trong khi Thúy Phượng nói, công chúa Vĩnh Hòa, quận chúa Lan Anh, vệ sĩ đã lui ra ngoài vòng vây cuả quân Hán, khi nàng nói xong câu đó, nhảy lùi lại lại bước, Trương Linh lọt vào giữa vòng vây.

        Thúy Phượng hô lớn:

        – Cung thủ, nạp tên.

        Các cung thủ cùng nạp tên, hướng vào Trương Linh, chỉ chờ lệnh, buông tên, Trương Linh đưa mắt, nhìn Tượng Quân Tam Anh.

        – Hàn Đô Úy, Vương Đô Sát, Chu tướng quân, các ngươi thấy chủ tướng lâm nguy, đứng tọa thủ bàng quang ?

        Công Chúa Vĩnh Hòa chỉ mặt Trương Linh:

        – Tên phản tặc, hôm nay ta dùng Thượng Phương bảo kiếm giết ngươi, ngươi đâu còn tư cách Việt Kỵ Hiệu Úy nữa ? Ta sẽ thượng biểu về triều, chu di tam tộc nhà ngươi.

        Trương Linh cảm thấy nguy cơ, y nhìn trước nhìn sau tìm lối thoát, nhưng quân Hán dầy đặc, chỉ cần mệnh lệnh ban ra, người y bị hàng trăm mũi tên bắn vào.

        Y vội quì xuống hướng vào Công Chúa:

        – Tiểu tướng trong lúc tuân chỉ thái hậu, có đôi chút lầm lỡ xin công chúa đại ơn đại đức tha cho tiểu tướng.

        Nói rồi y đập đầu xuống đất binh binh không ngừng.

        Vĩnh Hòa vẫy tay cho vệ sĩ trói y lại, nói với Tượng Quân Tam Anh:

        – Các vị vô can, đâu cứ về đó, thôi các vị mang quân về Trường Sa đi.

        Tượng Quân Tam Anh muốn nói chuyện riêng với Khúc Giang Ngũ Hiệp. Họ ra lệnh cho quân rời khỏi lăng, khi quân đi rồi Hàn Bạch hướng vào ngũ hiệp:

        – Chẳng hay ngũ hiệp giá lâm Trường Sa có điều chi dạy bảo:

        Trần Nhất Gia mỉm cười:

        – Các vị hào kiệt Tượng Quân, các vị nguyên là anh hùng người Việt thuộc Lĩnh Nam, mấy nghìn năm trước từ Ngũ Lĩnh về phương Nam thuộc nước Văn Lang sau là Âu Lạc, từ Ngũ Lĩnh đến Bắc thuộc Trung Nguyên, cương thổ đã định, văn hiến có khác, tập tục không đồng. Nay Lĩnh Nam bị người Hán cai trị, coi chúng ta như trâu như lợn, người người muốn sống không được, các anh hùng thuộc Giao Chỉ Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm đã chuẩn bị xong, đang trên đường phục quốc, không lẽ Tượng Quận, Nam Hải chúng ta ngồi ôm cây đợi thỏ hay sao ?

        Trần Nhị Gia thấy bọn Hàn Bạch cúi đầu suy nghĩ thì tiếp:

        – Đất nước này là của chúng ta. Người Hán đến ngồi lên đầu lên cổ, rồi ban cho ta một vài chức nhỏ mọn cầm gươm giết hại người ruột thịt của mình. Như ba vị, võ công bỏ xa Mã Anh, Trương Linh. Kiến thức, võ đạo vang danh bốn phương. Thế mà chúng chỉ cho giữ chức Đô Sát, Đô Úy hỏi còn trời đất nào nữa không? Đúng ra với tài ba vị thì ít ra cũng là đại tướng quân trấn thủ một vùng, tước phong hầu, bá. Tôi nghĩ các vị có uy tín ở Tượng Quận, phải trở về quê hương mình, hội hào kiệt. Chúng ta họp với anh hùng các nơi, đồng lập lại Lĩnh Nam.

        Vương Hồng hỏi:

        – Không biết các vị anh hùng đã liên lạc được với hào kiệt Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm chưa? Tình hình những nơi đó như thế nào?

        Trần Nhất Gia thấy Tượng Quận Tam Anh đã chuyển lòng, nói:

        – Đất Cửu Chân, thì Cửu Chân xong kiệt Đào Thế Kiệt, Đinh Đại đã liên hợp hầu hết Lạc Hầu, Lạc tướng trong vùng. Chỉ can phất cờ, đất Cửu Chân thuộc về chúng ta. Đất Nhật Nam, Nhật Nam thất hiệp có hàng vạn tráng đinh. Khi Cửu Chân khởi binh, Nhật Nam mất liên với Trung Nguyên, chỉ cần dơ tay ra là lấy được. Tại Giao Chỉ, Đặng Thi Sách với số đông anh hùng đã giữ hầu hết các chức huyện úy huyện lệnh. Thái thú Tô Định như bị bó tay. Việt chiếm lại đất chỉ còn chờ thời gian.

        Ông ngừng một lúc tiếp:

        – Riêng có đất Quế Lâm gặp khó khăn. Vì từ khi Triệu Đà chiếm Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận bỏ các chức lạc hầu, tổ chức thành làng, xã, huyện. Anh hùng tuy nhiều, mà thực lực không có. Trong mấy trăm năm nay, người Hán đi từ Bắc xuống, đồng hóa mất một nửa dân chúng. Đất Nam Hải, chúng tôi giữ được mười huyện úy, huyện lệnh trong mười hai huyện. Đất Tượng Quận chúng tôi chưa gặp được hào kiệt, cho nên mới lên nay tìm các vị. Nhờ các vị trở về đất cũ, chuẩn bị cùng khởi sự.

        Hàn Bạch cúi đầu suy nghĩ một lúc rồi ngửng lên, vẻ mặt cương quyết:

        – Khúc Giang ngũ hiệp đã dậy. Chúng tôi xin kính cẩn tuân theo. Từ trước đến nay, chúng tôi tuy thân làm quan ở Hán, mà vẫn nghĩ tới quê hương. Lòng đau như cắt. Bây giờ gặp các vị anh hùng, chúng ta nhất định cùng nhau khởi sự. Tôi nghe anh hùng Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm. Không biết vì lẽ gì đang giúp Hán đánh Thục, mới đây lại trởi giáo giúp Thục đánh Hán. Giang Sơn nhà Hán nghiêng ngửa vì họ.

        Trần Tam Gia hỏi:

        – Các vị có biết Vương Mãng đánh chiếm Trường Sa, Giết Trường Sa Định Vương, cho người đuổi bắt hai thế tử Lưu Diễn, Lưu Tú. Lưu Tú được mấy vệ sĩ bảo vệ chạy trốn. Võ sĩ Vương Mãng truy lùng rất gắt. Giữa lúc nguy nan gặp một người võ lâm tả xung hữu đội cứu thoát không?

        Vương Hồng đáp:

        – Truyện nay khắp sĩ dân thiên hạ ai cũng biết. Người đó là Nghiêm Sơn cùng với hiệp phố Lục Hiệp, phải xung sát hai chục trận mới cứu được Lưu Tú. Hiệp Phố Lục Hiệp trộm thây Trường Sa Định Vương, đem lên đồi này chôn. Lưu Tú kết nghĩa huynh đệ với Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn giúp anh em Lưu Tú khởi binh ở Côn Dương vào năm Nhâm Ngọ (22 sau Tây Lịch). Năm sau, Lưu Huyền, bác Lưu Diễn, Lưu Tú khởi binh ở Quan Trung xưng là Cảnh Thủy Hoàng Đế, Lưu Huyền có hai người em kết nghĩa là Ngụy Công Chu Huy và Lý Điệt. Khi Cảnh Thủy Hoàn đế thắng Vương Mãng, Xích Mi thay lòng đối dạ, giết chết Hoàng Đế và hai người em kế nghĩa là Ngụy Cộng Chu Huy và tấn công Lý Điệt. Lưu Diễn cũng bị giết chết. Nghiêm Sơn giúp Lưu Tú khởi binh xưng Kiến Vũ vào năm Bính Tuất (26 sau Tây lịch). Nghiêm Sơn đánh chiếm Kinh Châu, giao cho Mã Viện trấn thủ. Nghiêm Sơn thừa thắng, xua quân diệt Xích Mi. Lúc đó quần hùng nổi lên tứ phương. Thục thì Công Tôn Thuật xưng vương, Bàng Sùng xưng vương. Nghiêm Sơn đề nghị với Quang Vũ cho mình và Hiệp phố lục hiệp kinh lý các châu quận Phương Nam để có Lương Thực, quân lính chinh tiễu Trung Nguyên. Quang Vũ phong cho Nghiêm Sơn làm Lĩnh Nam Công, chức Bình Nam đại tướng quân, được toàn quyền tại sáu quận phía Nam Kinh Châu. Nghiêm Sơn cùng Hiệp phố lục Hiệp, chỉ một thanh gươm, yên ngựa khiến các Thái thú phải khuất phục. Nghiêm tổ chức quân đội hùng mạnh ở Phương Nam. Nghiêm nguyên người Quế Lâm, thuộc giòng dõi Lĩnh Nam. Không biết có đúng thế không?

        Trần Nhị Gia gật đầu:

        – Đúng thế! Nghiêm ở Lĩnh Nam ban hành chính sách rộng rãi, rất được lòng anh hùng hào kiệt. Hào kiệt thuyết phục y tái lập Lĩnh Nam. Một mặt vì đất nước, một mặt vì nghĩa huynh là Quang Vũ, y đề nghị tổ chức đại hội hồ Tây sang yết kiến Quang Vũ, xin tái lập Lĩnh Nam. Nói rằng tái lập hay không cũng chỉ trên danh nghĩa, chứ thực ra Lĩnh Nam là đất phong của Nghiêm Sơn, có khác gì đâu. Giữa lúc đó, xảy ra vụ Phiêu kị đại tướng quân Ngô Hán, Phục ba đại tướng quân Mã Viện đánh Thục bị thua. Nguyên do có chuyện bất hòa giữa Mã với Ngô, Thục mới thành công. Quang Vũ cần phải có một người thân tín, tài ba, cầm đầu hai tướng này.Vì vậy y gọi Nghiêm Sơn về đánh Thục, phong làm Lĩnh Nam vương, lĩnh chức Tả tướng quân.

        Vương Hồng bấy giờ hiểu ra:

        – Vì thế Nghiêm Sơn mới mang anh hùng Lĩnh Nam về đánh thục?

        Trần Nhị Gia lắc đầu:

        – Anh hùng Lĩnh Nam đâu có dễ sai bảo. Nghiêm Sơn đứng giữa thế lôi kéo, một bên anh hùng Lĩnh Nam, một bên nghĩa huynh, Quang Vũ. Y đề nghị anh hùng Lĩnh Nam cùng tòng chinh đánh Thục, lập chút công, cũng để cho Quang Vũ biết đất Lĩnh Nam nhiều hào kiệt. Sau khi đánh Thục xong, tất Quang Vũ phong chức tước. Họ chỉ xin lĩnh chức tước tại Lĩnh Nam. Thế là bao nhiêu Thái thú, Đô úy, Đô Sát về tay mình. Họ cùng nhau xin Quang Vũ không thuận, cũng tự lập lại nước cũ.

        Chu Thanh vỗ tay:

        – Kế hoạch tuyệt diệu. Nhưng rồi tại sao lại xảy ra bất hòa giữa lúc sắp đánh xong Thục?

        Trần Nhị Gia tiếp:

        – Nghiêm Sơn chia quân làm ba đạo. Đạo Lĩnh Nam do Đào Kỳ, con trai Cửu Chân nhất hiệp làm Chinh Viễn đại tướng quân, thống lĩnh, vượt núi Kim Sơn, cửa Độ khẩu đánh thẳng vào Thục. Còn đạo Kinh Châu do Đặng Vũ chỉ huy, quân sư là Trưng Nhị cùng cới một số anh hùng Lĩnh Nam theo giúp. Đạo Hán Trung do Ngô Hán làm nguyên Soái, Phùng Vĩnh Hoa làm quân sư. Ba đạo tiến như vũ bão. Đạo Lĩnh Nam đổ về phía lưng Thành Đô như sét nổ. Thục vương Công Tôn Thuật, tuy có Thiên Sơn thất hiệp, huynh đệ giúp sức, vẫn bị thua. Đạo Lĩnh Nam tiến tới, sắp chiếm Thành Đô.

        ... Giữa lúc đó một số người Lĩnh Nam phản bội, do Lê Đạo Sinh cầm đầu, đến Lạc Dương tố cáo với Mã Thái Hậu âm mưu của anh hùng Lĩnh Nam. Mã Thái hậu triệu Quang Vũ vào cho biết Nghiêm Sơn tổng lĩnh quân mã Lĩnh Nam, Kinh Châu, Lương Châu, Hán Trung và Ích Châu. Nếu y làm phản thì trở tay không kịp. Quang Vũ không tin truyện đó, nói rằng đất Lĩnh Nam đã phong cho Nghiêm Sơn, thành một nước riêng rồi còn gì. Vả lại Quang Vũ được Trung Nguyên do tay tay Nghiêm Sơn, chia cho y một giải phía Nam cũng đúng. Mã Thái Hậu đem truyện Xính Mi, em kết nghĩa của Cảnh Thủy Hoàng Đế, khi quân quyền vào tay, giết luôn nghĩa huynh để dọa Quang Vũ, Quang Vũ vẫn không tin. Sau...

        Trần Nhị Gia chỉ người em thứ tư:

        – Sau Lê Đạo Sinh dò la biết được một tin khủng khiếp. Nguyên Trường Sa Định vương cha đẻ Lưu Diễn, Lưu Tú đã có vợ họ Mã, nhiều tỳ thiếp nhưng không con. Ông nghe ngoài thành Trường Sa có một kỳ nữ sắc nước hương trời là Hàn Tú Anh. Ông giả làm một văn nhân đến gặp nàng. Ông Nguyên làmột văn tài, được Tú Anh thương yêu. Ông dùng tiền bạc xây một căn nhà cực kỳ hoa lệ ở Đào gia hưởng hạnh phúc với nàng. Tú Anh những tưởng ông là văn nhân giàu có, không ngờ lúc có hai con Lưu Diễn, Lưu Tú, ông mới thú thật.

        Cả ba anh em Trường Sa Tam Anh, Công Chúa Vĩnh Hòa, hai quận chúa Lý Lan Anh và Chu Thúy Phượng cùng kêu lên:

        – Ủa?

        – Úi cha?

        – Kỳ lạ?

        Công chúa Vĩnh Hòa hỏi:

        – Trần Tứ Gia, như vậy Kiến Vũ hoàng đế không phải con của Mã thái hậu ư?

        – Đúng! Hàn Tú Anh khi nghe người yêu thú thực thì bật ngửa ra. Định vương mời nàng về phủ Trường Sa Vương ở. Nàng đành lòng tòng quyền. Nhưng Thái phi, thân mẫu Định Vương không bằng lòng cho một kỹ nữ ở trong phủ mình. Cũng không muốn sau nầy đứa cháu mình do kỹ nữ sinh ra sẽ nối ngôi làm Định Vương. Bà bí mật sai người giết chết Hàn Tú Anh, giao con Hàn Tú Anh cho vương phi họ Mã nuôi, dối là con đẻ.

        Công chúa Vĩnh Hòa, và hai Quận chúa đồng kêu lên:

        – Úi chà! Thực là tàn ác.

        – Nhưng khi võ sĩ mang Hàn Tú Anh đi giết, thì gặp một viên võ quan đang đi săn. Viên quan nầy không hiểu nội vụ, thấy võ sĩ giết người đàn bà đẹp, ra tay đánh giết, cứu Hàn Tú Anh. Hàn Tú Anh nói thực mọi truyện. Viên võ quan đó sợ quyền lực của Thái Phi, từ chức về quê sống, mang theo Tú Anh. Viên quan có người con ngang tuổi Lưu Tú đang bú, chẳng may bà mẹ bị cảm mạo mất sữa. Bà nhờ Tú Anh nuôi con dùm. Viên quan đó họ Nghiêm, người Quế Lâm, tức cha đẻ Nghiêm Sơn. Nhũ mẫu Nghiêm Sơn chính là Hàn Tú Anh vậy.

        Mọi người nghe kể chuyện biến chuyển kỳ lạ, không ai lên tiếng.

        Trần Tứ Gia tiếp:

        – Vương Mãng đánh Trường Sa, cha Nghiêm Sơn đã qua đời. Nghiêm Sơn đối với nhũ mẫu cực kỳ hiếu đễ. Bà cho Nghiêm Sơn biết ràng Trường Sa Định Vương với bà có ơn nghĩa nặng. Bà muốn Nghiêm lên TrườngSa xem xét tình hình. Nếu Trường Sa bị nạn phải tận lực cứu giúp. Khi Nghiêm Sơn với Hiệp phố lục hiệp đến nơi, Trường Sa đã thất thủ. Bọn họ trộm xác Trường Sa Định vương chôn ở đây. Nghiêm cùng Hiệp phố lục hiệp tìm được Lưu Tú giữa lúc y lâm nguy. Họ ra tay đánh đuổi võ sĩ Vương Mãng cứu Lưu Tú.

        Lý Lan Anh xen vào:

        – Vì thế Lê Đạo Sinh đem truyện Nghiêm Sơn là con nuôi, Kiến Võ hoàng đế là con đẻ của Hàn Tú Anh, nói cho Mã thái hậu nghe. Mã Thái hậu hoảng kinh, quyết trừ cho được Nghiêm Sơn.

        Trần Tứ Gia gật đầu:

        – Đúng thế! Mã Thái Hậu dùng vàng bạc, quyền thế mau chuộc Tam công và các tướng ngoài biên ải vu cáo Nghiêm Sơn sắp làm phản. Kẻ nói đi, người nói lại mãi, Quang Vũ phải tin. Y bắt chước Hán Cao Tổ du Vân Mộng bắt Hàn Tín. Y đem đại quân tới Trường An, dối rang tiếp viện cho Nghiêm Sơn, giữa lúc quân Nghiêm đã vào Thành Đô.

        Lý Lan Anh "à" lên một tiếng:

        – Vì vậy Nghiêm Sơn đến Trường An tiếp giá, y bị bắt.

        Trần Tứ Gia lắc đầu:

        – Quận chúa đoán sai rồi! Trong quân Nghiêm Sơn có bốn người tài trí phi thương. Một là Phương Dung vợ Đào Kỳ. Hai là Phùng Vĩnh Hoa. Ba là Trưng Nhị, sau thêm Trưng Trắc. Họ nhìn ra mưu của Quang Vũ. Vì quân của Nghiêm phải đánh vào Thành Đô. Chỉ dơ tay ra là bình xong Ích Châu, việc gì Quang Vũ phải mang quân tiếp viện? Họ họp nhau nói cho Nghiêm nghe, xúi Nghiêm làm phản, chỉ đánh một trận bắt được Quang Vũ.

        Trần Tứ Gia ngưng lại hỏi Công Chúa Vĩnh Hòa:

        – Công chúa, nếu công chúa là Nghiêm Sơn. Công chúa sẽ làm thế nào?

        Vĩnh Hòa thản nhiên:

        – Tôi cất quân đánh úp Lạc Dương, bắt Quang Vũ giết đi, rồi lên làm hoàng đế.

        Trần Tứ Gia lắc đầu:

        – Nghiêm Sơn là người hiệp nghĩa, coi nghĩa nặng như núi, không thiết công danh. Y tự cho rằng mình có ơn nghĩa với Quang Vũ, tình như ruột thịt. Y đến Trường An. Hào Kiệt đành cho y đi, nhưng cứ theo ba người. Một là Khất đại phu Trần Đại Sinh, võ công đệ nhất Lĩnh Nam, hai là Phật Nguyệt, kiếm hiệp vô song và Trưng Nhị tuyệt vời. Nghiêm Sơn tới yết kiến Quang Vũ, bị Tam Công và quần thần xúm vào chất vấn. Nghiêm ung dung trình bầy việc làm của mình. Quần thần chịu ảnh hưởng của Mã Thái Hậu, xúm vào kết tội Nghiêm, cho rằng những công lao của anh hùng lĩnh nam cùng tài ba của họ do Nghiêm bịa đặt. Trước hoàn cảnh đó Nghiêm đành cho Trưng Nhị đấu võ với Việt kị hiệu úy Trương Linh. Linh bị bại. Rồi đệ nhất kiếm thuật Trung Nguyên Hoài Nam vương đấu võ Phật Nguyệt cũng bị bại. Khất đại phu ra tay chữa trị cho quần thần triều Hán. Trước sự đó, Quang Vũ không biết nói sao. Bắt Nghiêm thì dân không phục, còn mang tiếng vong ơn bội nghĩa. Tha Nghiêm ra sợ Nghiêm uất ức làm phản. Trong khi đó Nghiêm chỉ xin Quang Vũ giữ lời hứa lúc đầu. Lúc mới khởi sự Quang Vũ chỉ trời đất thề sau khi được thiên hạ, chia cho Nghiêm một nửa. Nghiêm xin sau khi xong việc, chỉ nhận được thanh gươm, một con ngựa ngao du bốn bể. Bây giờ Nghiêm nhắc lại lời đó. Quần thần tâu với Quang Vũ rang nếu để Nghiêm ra đi như vậy, sĩ dân kết tội triều đình. Nên phải tìm cới gì kết tội Nghiêm. Nghiêm thấy bộ mắt phản phúc, lừa đảo của Quang Vũ. Y đứng dậy quật chết hai vị trong ba vị Tam Công rồi xin Quang Vũ cách chức y về tội giết đại thần. Quang Vũ cho giam Nghiêm, đợi khi nắm được hết quyền bính của Nghiêm mới giám cách chức Nghiêm, vì lỡ ra người dưới của Nghiêm chống lại, còn có thể dùng Nghiêm để điều đình.

        Chu Thúy Phượng gật đầu:

        – Kiến Vũ thiên tử cũng thâm mưu đấy chứ. Thế sự thể sau ra sao?

        – Không ngờ trong lúc Quang Vũ cùng quần thần đối thoại với Nghiêm, thì anh hùng Lĩnh Nam là Khất đại phu phục ở trên nóc điện biết được. Hôm sau Quang Vũ gửi bai sứ giả đi các nơi tuyên bố bình Thục xong, giao Ngô Hán đánh Thành Đô, Mã Viện trấn thủ Knh Châu, Mã Anh trấn thủ Lĩnh Nam. Anh hùng Lĩnh Nam họp nhau khẩn cấp. Họ đón đường giết sứ giả.

        Chu Thúy Phượng suýt xoa:

        – Tuyệt vời! Như vậy các nơi vẫn tưởng Nghiêm Sơn vẫn là Lĩnh Nam vương, Tả tướng quân. Khi Nghiêm vắng mặt, quân sư Nguyễn Phương Dung cầm quyền. Bà chỉ việc dùng binh phù của Nghiêm, cấp tốc giữ các đồn ải, chỉ một ngày lấy xong Hán Trung, Kinh Châu, Lĩnh Nam chứ có khó gì đâu?

        Trần Tứ Gia tiếp:

        – Anh hùng Lĩnh Nam không có tham vọng chiếm Trung nguyên. Họ trở mặt giúp Công Tôn Thuật. Họ trả lại thành trì cho Thục đế, dùng quân Thục chiếm đóng Đông Xuyên, Ích Châu, Kinh Châu. Họ còn cất quân từ Hán trung làm bao đạo đánh Trường An.

        Công chúa Vĩnh Hòa thở dài:

        – Khiếp, người Lĩnh Nam ghê thực. Nếu họ dẫn quân về Lĩnh Nam khởi binh, Lĩnh Nam đất rộng người thưa, ắt bị Hán đè bẹp. Vì thế họ giúp Thục chiếm Kinh Châu, HánTrung, Trường Sa. Mã Thái Hậu vẫn lo Hàn Tú Anh xuất hiện, nên cho nhiều cao thủ đi Quế Lâm giết Hàn thị. Nhưng tới nơi thì bà ta đã đi Trường Sa tế mộ Tiên đế. Thái hậu ban chỉ dụ cho cháu là Mã Anh cùng với Trương Linh phục ở lăng này, bắt hết những người tế lăng. Không may cho Linh. Y gặp phải công chúa và quận chúa, nên mới ra nông nỗi.

        Hàn Bạch thở dài:

        – Thế thì tôi trở về Trường Sa không được nữa. Ngũ hiệp, năm vị thử nghĩ coi bây giờ chúng ta mượn binh Thục đánh xuống Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, nhưng ai sẽ là minh chủ?

        Trần Nhất Gia nói:

        – Chúng tôi cũng như ba vị, chỉ có võ công cao, có võ đạo, nhưng mù tịt về dùng binh. Tôi nghĩ chỉ có bằng này người làm minh chủ được, vì biết hành quân, chiếm đất: Một là Phương Dung, hai là Phùng Vĩnh Hoa, ba là Đào Kỳ nhưng cả ba còn trẻ quá. Ngoài ra, còn có hai người nữa là Đào Thế Kiệt, Đinh Đại, văn võ song toàn. Song họ chỉ có thể là đại tướng, chứ không biết về chính sự. Cuối cùng còn ba người đủ mưu trí, võ công võ đạo cao, biết chính sự là Đặng Thi Sách, Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đặng Thi Sách hiện ở Giao Chỉ, Trưng Trắc theo đạo quân Lĩnh Nam đánh về Quế Lâm. Chỉ có Trưng Nhị hiện làm quân sư cho Công Tôn Thiệu đang vây Trường Sa. Liệu các vị có chịu tôn Trưng Nhị làm minh chủ hay không?

        Hàn Bạch khẳng khái:

        – Tại sao lại không? Bây giờ chúng ta phải làm gì để vào Trường Sa bắt Mã Anh, mang quân đánh Nam Hải, Tượng Quận?

        Bỗng Trần Nhất Gia nói:

        – Dường như có người đang lên núi. Chúng ta mau ẩn thân xem ai đã.

        Lập tức tất cả mọi người đều ẩn vào bụi cây.

        Trưng Nhị thấy vậy nghĩ:

        – Họ đâu biết rằng ta với Sa Giang núp ở đây, còn kỳ nhân võ công thật cao, tung giây đánh Trương Linh không biết là ai.

        Lát sau thì thấy hai con ngựa dừng lại trước cổng lăng. Kị mã là một nam tuổi khoảng 25-26. Một nữ không rõ tuổi. Vì nàng dùng chiếc khăn che khuất nửa mặt. Hai người lấy đồ tế bày ra, lại hai người nữa đến tế lăng, đốt hương nến, rồi nam đứng sang một bên, thờ ơ nhìn mọi vật. Còn nữ quì xuống lâm râm khấn vái. Một lúc sau, hai vai nàng rung động mạnh. Chứng tỏ nàng đang khóc.

        Trưng Nhị thấy dáng điệu thiếu nữ mềm mại, hiểu rằng nàng không biết võ công. Lưng nàng thon đẹp không thể tưởng tượng được. Khóc một lúc, nàng lấy bọc bên cạnh mở túi, thì là một cây dao cầm. Nàng vuốt tay, buông những tiếng ai oán, lâm ly muốn não ruột. Tiếng đàn như cặp nhân tình giang dở, nỉ non than thở khóc lóc, khi thì như thiếu phụ phòng khuê nhớ tình quân. Nàng đánh hết khúc nầy sang khúc khác. Sa Giang giỏi âm nhạc mà cũng không biết tên những khúc nàng tấu. Sa Giang biết rằng những khúc đó mới được sáng tác ra.

        Bỗng một tiếng xé gió của ám khí bay đến, hướng đầu thiếu phụ. Thanh niên đứng cạnh, vung tay một cái, ánh kiếm chém ngang vào ám khi đánh choang một tiếng. Trưng Nhị thấy rõ ám khí từ chỗ núp của vợ chồng Vương Anh bay đến. Biết rằng cặp vợ chồng này ra tay.

        Véo, véo,véo, một loạt ám khí bay đến hướng vào thiếu phụ. Thanh niên đứng cạnh cung kiếm lên gạt. Nhưng chỉ được ba mũi đầu. Còn mũi thư tư hướng vào giữa lưng thiếu phụ.

        Khúc Giang Ngũ hiệp định ra tay, nhưng ám khí bay đến sát lưng thiếu phụ, thì chạm vào vật gì, kêu đến bộp một tiếng rồi rơi xuống. Trưng Nhị nhìn rõ ràng là chiếc lá từ chỗ "kỳ nhân" bay ra, chạm vào ám khí, ám khí rơi xuống.

        Nàng kinh hoàng nghĩ:

        – Dù Khất đại phu, dù Đào Tam Lang muống bay ám khí đi, cũng phải dùng một vật cứng, vận kinh lực phóng ra, mới làm được. Đây "Kỳ nhân" chỉ dùng một chiếc lá mềm mại, phóng ta nhẹ nhàng nhu hòa, nhưng đi nhanh chặn được ám khí. Cả hai cùng rơi xuống, dường như kình lực của chiếc lá chỉ để hóa giải kình lực ám khí mà thôi.

        Nàng suy đoán:

        – Không biết kỳ nhân nầy là ai, mà công lực đến trình độ nầy? Ta e rằng Thái sư thúc Khất đại phu với Đào Kỳ cũng còn thua xa.

        Vợ chồng Vương Anh lại phóng tới bốn lưỡi phi đao nhỏ. Kình lực rất mạnh rít lên vù vù. Thanh niên dùng kiếm gạt được một. Còn ba lưỡi hướng vào lưng thiếu phụ áo trắng.

        Từ chỗ kỳ nhân núp, ba quả thông bay ra, chạm vào ba lưỡi đao. Ba lưỡi dao đổi chiều bay lên, cắm phập vào cây thông. Từ phía vợ chồng Vương Anh bay đến một lúc hơn mười ám khí lơn bằng quả cam. Ám khí chạm một cột lăng nổ lên những tiếng chói tay, khói bay mịt mù. Mấy quả nữa hướng vào chỗ núp của Khúc Giang Ngũ Hiệp và Tượng quận Tam Anh. Trong khi mấy người nấp nằm rạp xuống tránh, thì vợ chồng Vương Anh vọt tới cắp thiếu phục vào tay chạy khỏi lăng.

        Trưng Nhị nhận ra mấy trái hỏa lựu nầy là ám khí củ phái Tản Viên. Trước đây Lê Đạo Sinh đã chế tạo rất nhiều để dùng. Trong trận đánh Tây Hồ, bọn Lê Nghĩa Nam dùng giết Phương Dung. Bây giờ vợ chồng Vương Anh lại dùng đến, thì chắc có liên hệ đến Lê Đạo Sinh.

        Vương Hồng quát lớn:

        – Để người lại!

        Ông phóng một chưởng. Chưởng lực cực kỳ hùng hậu.

        Vương Anh đang định chạy, thì chưởng lực đã chụp xuống người. Y phóng chưởng đỡ, bùng một tiếng. Cả hai người cùng rung động mãnh liệt. Trong khi đó Hàn Bạch phóng chưởng đánh Chu Nghi Gia. Bùng một tiếng, Nghi Gia lảo đảo lùi lại mấy bước. Còn Hàn Bạch thì đứng nguyên. Trưng Nhị giật mình:

        – Ta tưởng trong đám nữ lưu, ngoài sư thúc Trần Năng với Phương Anh ra khồng còn ai hơn ta. Không ngờ Chu Nghi Gia chưởng lực cũng mạnh đến trình độ nầy.

        Vương Anh đấu đến chưởng thứ ba với Vương Hồng cảm thấy yếu thế. Y ôm thiếu phụ nhảy lùi lại, vung tay lên nói:

        – Các vị dừng tay, nếu không cùng chết cả. Tôi đập chết y thị, rồi muốn sao thì muốn.

        Hàn Bạch quát lớn:

        – Cứ coi bản lĩnh của hai vị,thuộc loại hiếm có trong thiên hạ. Thế sao hai vị lại ra tay bắt đàn bà không biết võ nghệ. Như vậy cũng gọi người võ lâm ư?

        Chu Nghi Gia cười gằn:

        – Đêm nào chúng tôi cũng ẩn ở đây, trải trên hai năm rồi. Những điều các vị bàn với nhau; chúng tôi nghe hết. Chắc các vị muốn biết người đàn bà nầy phải không? Được tôi nói cho các vị biết. Bà là Hàn Tú Anh, người mà Mã thái hậu treo thưởng mười vạn lượng vàng, tước vạn hộ hầu, thêm chức thứ sử cho ai bắt, hoặc giết được y thị. Các vị đều là anh hùng Lĩnh Nam. Xin các vị lo truyện phục quốc của mình? Còn truyện của cung thất nhà Hán thì mặc họ, chẳng nên can thiệp vào. Xin các vị cho chúng tôi rời khỏi đây.

        Trần Ngũ Gia kêu lên:

        – Phan Anh! Thì ra là mi. Ta tưởng mi chết từ lâu rồi, hóa ra mi vẫn còn sống trên thế gian này. Không ngờ một vị vương giả như mi, mà chỉ vì đồng tiền, tán tận lương tâm, làm chuyện hèn hạ như vậy?

        Vương Anh cùng vợ rút khăn lau mặt, để lộ ra khuôn mặt chưa tới ba mươi tuổi.

        Hàn Bạch hỏi Trần Ngũ Gia:

        – Chúng là ai vậy?

        Trần Ngũ Gia nói:

        – Y là con trai Xích Mi. Xích Mi vùng Cảnh Thủy hoàng Đế, Ngụy Công, Tấn công kết huynh đệ đồng sinh, cộng tử. Sau y giết Cảnh Thủy, Tấn Công, xưng vương. Người con Xích Mi được phong Trường An Vương. Tôi tưởng trong trận đánh Trường Sa y chết cùng với cha. Có ngờ đâu y vẫn còn sống, làm việc hèn hạ nầy? Trước đây y có võ công rất cao, không hợp tính cha. Khi được Xích Mi phong làm Đông cung thái tử. Y từ chối vì cho rằng cha giết Cảnh Thủy hoàng đế cùng với Ngụy Công, Tấn Công là bất nhân bất nghĩa. Giang hồ ai cũng khen y là chính nhân quân tử. Vợ y người Nam Hải đất Lĩnh Nam, họ Trần tên Nghi Gia. Đối với anh em tôi, là chỗ họ hàng xa.

        Hàn Bạch chỉ vào mặt Phan Anh:

        – Mi thả Hàn thái hậu ra ngay. Nếu mi làm bà bị thương hay chết, thì chúng ta sẽ ngươi khoét mắt, cắt lưỡi chặt chân tay, để cho vợ chồng người chết không được, sống không xong.

        Phan Anh Cương quyết:

        – Khi Trường Sa thất thủ, mẫu thân ta bị cắt cầm tù. Ta khổ công dò la mãi mới biết người bị giam ở Trường Sa.Ta đã nhiều lần vào cứu mà không được. Vì vậy nay ta bắt sống Hàn Tú Anh yêu cần thái hậu ân xá cho thân mẫu ta. Hàn đại hiệp, ông là người hiệp nghĩa, thì biết chữ hiếu rất quan trọng. Ta nghĩ người không giúp ta, cũng nên để ta chu toàn chữ hiếu. Người đừng cản ta.

        Hàn Bạch nói:

        – Ngươi cứ thả Hàn Thái Hậu. Ta vào Trường Sa tha hết tất cả tù, trong đó tất có mẫu thân ngươi. Người nghe chúng ta bàn nhau từ nãy giờ thì biết đấy. Chúng tay chỉ cất tay một cái lấy được thành Trường Sa, có khó gì đâu.

        Phan Anh lắc đầu:

        – Được, tôi giữ Hàn Tú Anh, đợi Hàn đại hiệp đem mẫu thân tôi tới. Tôi sẽ thả y thị ra.

        Trần Nhật Gia nói với Hàn Bạch:

        – Thôi được, chúng ta cứ để cho y đi.

        Phan Anh cúi đầu nói:

        – Đa tạ Khúc giang Ngũ hiệp, Trường Sa Tam anh. Hậu hội hữu kỳ.

        Hai vợ chồng y từ từ đến chỗ cột ngựa của Hàn Tú Anh. Cả hai leo lên ngựa khoan thai rời khỏi khu lăng mộ.

        Hàn Bạch thắc mắc:

        – Trần Nhất Hiệp, Nhất Hiệp bảo tha y thì tôi tha, nhưng….

        Trần Nhất Gia cười:

        – Nếu chúng ta bức bách quá, y giết Hàn Tú Anh. Ta cứ để cho y đi, rồi chúng ta rượt theo cứu Hàn Tú Anh. Chúng chạy đâu cho thoát được mà sợ.

        Họ còn đang bàn tán, có nhiều tiếng gầm gừ từ dưới núi vang lên. Trưng Nhị biết đó là đoàn Thần Hổ, thần báo của Hồ Đề đã tới. Tiếng gầm mỗi lúc một gần. Chỉ lát sau vợ chồng Phan Anh cho ngựa chạy ngược lên núi.

        Phan Anh nói lớn:

        – Không hiểu cọp, beo ở đâu nhiều quá. Chúng tôi không vượt nổi vòng vây. Dường như cọp, beo có người điều khiển.

        Dưới núi, đoàn Thần hổ Thần báo cứ xiết chặt vòng vây dần dần. Khúc Giang Ngũ Hiệp, Trường Sa tam anh đều võ công tuyệt đỉnh. Họ vượt vòng vây dễ dàng, nhưng còn bọn công chúa Vĩnh Hòa chín người thì làm sao.

        Trần Nghi Gia nói:

        – Cọp, báo nhiều thế nầy tất có chủ nuôi. Đã có chủ thì chúng ta có thể điều đình. Không biết chủ họ là ai?

        Đoàn Thần báo, Thần hổ đến phía ngoài lăng xếp thành hàng. Hướng đầu vào trong, nghển cổ cùng gầm một tiếng rồi im lặng. Từ ba phía sau, ba thiếu nữ rẽ đoàn thú tiến tới đó là Hồ Đề, Trần Năng, và Phật Nguyệt.

        Nguyên Hồ Đề được trưng Nhị phái đi gọi Trần Năng, và Phật Nguyệt ở Đào gia. Đem đoàn Thần báo, Thần hổ về đối phó với quân của Trương Linh. Khi gặp nhau, Hồ Đề kể cho Phật Nguyệt, Trần Năng nghe mọi truyện, rồi dẫn đoàn Thần hổ, Thần báo đến Vương Sơn. Tới châu núi họ gặp vợ chồng Phan Anh đang đi xuống, tay cắp người đàn bà. Trần Năng đoán là người bất hảo. Nàng xua Thần hổ tấn công. Vợ chồng Phương Anh tả xung hữu đột mà không thoát. Đành chạy ngược trở lên.

        Trần Năng là người thông Minh, đầy lòng hiệp nghĩa. Nàng thấy vợ chồng Phan Anh cắp một người đàn bà, thì nổi giận. Nàng tiến lên phóng chưởng đánh liền.

        Trần Nghi Gia thấy một thiếu nữ diễm kiều phóng chưởng đánh chồng mình, chưởng lực hùng hậu vô cùng. Thì nhảy tới chặn trước mặt chồng, phát chưởng đỡ. Hai chưởng chạm nhau, bùng một tiếng, cát bụi bay tung. Khí huyết Trần Năng chạy nhộn nhạo trong người. Nàng phải lui lại hai bước mới kềm chế được, cánh tay gần như tê liệt. Trong kho đó thì Trần Nghi Gia loạng choạng muốn ngã.

        Trần Năng thất kinh hồn vía nghĩ:

        – Đất Lĩnh Nam nhà mình trước đây chưởng lực mạnh nhất là sư bá Nam Hải rồi tới Vũ Phương Anh, Trưng Trắc, Trưng Nhị. Sau ta được sư phụ và Đào sư thúc chỉ dậy, võ công vượt hơn hẳn Vũ Phương Anh, nhị Trưng rất nhiều. Tưởng rằng trên thế gian khó có người đối chưởng được với mình. Không ngờ hôm nay lại gặp Trần Nghi Gia, chưởng lực đến chừng này?

        Trần Năng vội hít một hơi, vận chân khí rồi thung dung nhìn đối thủ.


        #4
          CDDLT 22.12.2004 17:53:06 (permalink)
          HỒI THỨ 25

          Viễn ly ư đoạn trường,
          Thế gian hằng như mộng.

          (Kinh Lăng Già)

          Nghĩa là:

          Xa hẳn với cái đoạn thường,
          Vì thế gian nầy đều như giấc mộng.



          Nghi Gia quát lớn:

          – Giỏi! Ngươi đấu với ta chưởng nữa xem.

          Y thị phóng chưởng đánh xuống. Trần Năng hít một hơi phát chiêu "Lưỡng ngưu tranh phong" trong Phục ngưu thần chưởng. Chiêu này cực kỳ mãnh liệt. Bùng một tiếng. Trần Năng muốn nghẹt thở, còn Nghi Gia lùi lại một bước. Mặt tái mét, chân tay như tê liệt, mím chặt môi, để khỏi thổ ra huyết.

          Phan Anh hỏi vợ:

          – Thế nào? Có sao không?

          Nghi Gia khạc một tiếng nhổ ra búng máu, nói:

          – Để thử lại chiêu nữa xem sao.

          Y thị nói với Trần Năng:

          – Vị cô nương kia, ngươi là ai? Ta đi khắp thiên hạ, chưa từng có người đàn bà nào đỡ được của ta một chưởng. Mà cô nương đấu với ta được hai chưởng, thực hiếm có.

          Trần Năng lễ phép đáp:

          – Không giám, Phan phu nhân quá khen. Tôi là Việt nữ đất Lĩnh Nam họ Trần tên Năng.

          Nghi Gia vận khí nhảy vọt lên cao đánh vào Trần Năng một chưởng cực mãnh liệt. Trần Năng cùng nhảy vọt lên cao. Nàng ra chiêu "Ngưu hổ tranh phong". Tay phải đánh thẳng về phía trước. Tay trái đánh xéo từ dưới lên. Chưởng của nàng chạm vào chưởng Nghi Gia. Cả hai người cùng bắn vọt trở lại. Trần Năng lộn ba vòng trên không. Đáp xuống đỉnh đầu pho tượng đá trong lăng. Còn Nghi Gia cùng lộn hai vòng. Đáp xuống đỉnh đồng. Nghi Gia nhảy tới, tay phải đánh thẳng về phía trước. Tay trái quay thành vòng tròn đánh xéo từ phía sau về. Kình lực nhu hòa. Chưởng phong không có gió. Chiêu thức quái dị.

          Phật Nguyệt đứng lược trận kêu lên:

          – Úi cha!

          Nguyên nàng thấy lối vận công, phát chưởng của Trần Nghi Gia có phần giống với phái Long Biên của mình.

          Hồ Đề đứng cạnh:

          – Loa thành nguyệt ảnh.

          Trước nay Hồ Đề nghe nói võ công Cửu Chân khắc chế võ công Trung Nguyên. Nàng biết Trần Năng và chồng là Hùng Bảo được Đào Kỳ dậy cho chiêu thức nay của Cửu Chân, nên buộc miệng nhắc.

          Trần Năng tỉnh ngộ, lùi hai bước, vận khí phát chiêu "Loa Thành Nguyệt Ảnh" tấn công Nghi Gia. Nghi Gia dồn hết chân khí ra hai tay đánh xéo một chưởng vào giữa chưởng Trần Năng. Bùng một tiếng, Trần Năng thấy mắt nẩy đom đóm, cánh tay tê nhức chịu không được, còn Nghi Gia thì đứng im không động đậy.

          Hồ Đề, Trần Năng, Phật Nguyệt cho tới Trưng Nhi đều ngạc nhiên. Vì chưởng trước là Phục Ngưu Thần Chưởng thì Trần Năng thắng Nghi Gia một chút. Không ngờ nay dùng chưởng Cửu Chân, khắc chế võ công Trung Nguyên, thì lại bị thua sút là nghĩa làm sao?

          Nghi Gia cười nhạt:

          – Tưởng thế nào, hóa ra chí có vậy thôi sao? Hãy tiếp chưởng nữa của ta.

          Nghi Gia vận chưởng đánh tới. Trần Năng vội phát chiêu "Ngưu Hổ Tranh Phong" đánh trả. Bùng một tiếng, cả hai đều lui lại. Trần Nghi Gia bật lùi hai bước. Như vậy Trần Năng thắng thế. Trần Năng hiểu được nguyên do.

          Trần Ngũ Gia nói:

          – Nghi Gia, người xuất thân con gái họ Trần, học võ công Lĩnh Nam nhà ta. Rồi dùng võ công đó để bắt người đàn bà yếu ớt ư? Võ đạoTrần gia chúng ta sẽ không dung thứ cho ngươi đâu.

          Trần Nghi Gia đáp:

          – Xuất gia tòng phu! Nay tôi đã là người nhà họ Phan, nhất thiết phu xướng phụ tùy. Chồng tôi vì chữ hiếu mà ra tay, tôi phải giúp chồng. Đợi việc ở đây xong, chúng tôi sẽ về Khúc Giang tạ lỗi với Ngũ hiệp sau.

          Trần Năng nghe họ đối đáp mới tỉnh ngộ:

          – Thì ra võ công Nghi Gia là võ công Lĩnh Nam, mà võ công Lĩnh Nam thì phái Tản Viên đệ nhất. Ta dùng võ công Tản Viên đấu với nàng thì thắng thế. Còn võ công Cửu Chân đối với võ công Trung Nguyên mới đủ uy lực khắc chế, mà ta đem đấu với võ công Lĩnh Nam thua là phải.

          Nghĩ vậy nàng vận khí phát Phục Ngưu thần chưởng tấn công Nghi Gia. Hai người quấn lấy với nhau dưới ánh trăng. Trần Năng trầm mạnh, chiêu thức mãnh liệt. Nghi Gia thì đương cương, chiêu số đường đường chính chính. Rõ ra đế tử danh môn chính phái. Trần Năng nghĩ:

          – Ở đây mình có Thần Hổ, Thần Báo, muốn bắt bọn này dễ như trở bàn tay. Ta thử dùng võ công Tản Viên đấu với y thị xem sao. Nếu không thắng hãy dùng lối vận công bằng kinh mạch, hoặc Lĩnh Nam chỉ pháp.

          Nghĩ vậy nàng lại phóng chưởng tấn công Nghi Gia.

          Trưng Nhị núp trong bụi cây thấy võ công của Trần Năng tiến một cách kỳ lạ, tự nghĩ:

          – Thái sư thúc Khất đại phu và Đào Kỳ thực kỳ nhân võ học. Hôm đại hội hồ Tây. Võ công sư thúc Trần Năng thua mình xa, thế mà chỉ có một thời gian sau, đã đến trình độ nầy. Nếu sư thúc tiếp tục luyện, chẳng mấy chốc sẽ bằng Lê Đạo Sinh.

          Trần Năng nhờ Đào Kỳ dạy đủ ba mươi sáu chiêu Phục Ngưu thần chưởng, chiêu nọ tiếp nối chiêu kia, liên miên bất tuyệt. Chưởng lực tuôn ra ào ào. Còn Nghi Gia chưởng lực ảo diệu, biến hóa không chừng. Hai người đấu được trên trăm chiêu vẫn không phân biệt thắng bại. Trên núi Vương Sơn, hiện diện mấy chục người, mà không một tiếng động. Ai cũng say sưa coi cuộc đấu. Đàn Thần hổ, Thần báo nằm im, nghển cổ nhìn mọi người dưới ánh trăng.

          Chợt có tiếng gõ mõ từ bụi cây kỳ nhân ẩn náu, và tiếng tụng kinh vang lên:

          Thế gian ly sinh diệt,
          Thí như hư không hoa,
          Chí bất đắc hữu vô,
          Nhi hưng đại bi tâm.
          Nhất thiết pháp như huyễn,
          Viễn ly ư tâm thức,
          Chí bất đắc hữu vô,
          Nhi hưng đại bi tâm.

          Trưng Nhị, Trần Năng, Hô Đề, Phật Nguyệt, Sa Giang bấy giờ mới biết kỳ nhân núp sau bụi hoa, vận khí khiến giây vọt lên như con rắn, đánh văng dao, kiếm của bọn Trương Linh là Tăng Giả Nan Đà.

          Khúc Giang Ngũ Hiệp và Trường Sa Tam Anh giật mình quay lại nhìn "kỳ nhân", một người đen như tượng đồng, đầu trọc. Ông ngồi xếp bằng, tay gõ mõ, mắt lim dim, khuôn mặt đầy vẻ từ bi.

          Thời bấy giờ Phật giáo chưa truyền vào Trung Nguyên, Lĩnh Nam. Những người nghe nhiều hiểu rộng như Khúc Giang Ngũ Hiệp cũng không biết Tăng Giả Nan Đà là một hòa thượng.

          Họ nghĩ:

          – Người nầy là ai? Núp ở bụi cây từ nãy đến giờ dùng nội công thượng thừa khiến cho một sợi giây vọt lên, không một tiếng động, tốc lực kinh khủng. Kình lực vừa cương vừa nhu đến độ đánh bay được đao kiếm của các cao thủ. Rồi bây giờ lại đọc bốn câu "thơ chẳng ra thơ" lời lẽ huyền bí thế nầy, ngụ ý gì đây?

          Trưng Nhị thì nghĩ:

          – Mình đáng chết thật! Đúng rồi, trên đời làm gì có người nào, nội công cao hơn Khất đại phu với Đào Kỳ ngoài vị Phật Gia Tăng Giả Nan Đà? Có điều vận sức âm nhu vào gợi giây, để giây vọt lên tấn công người cực mạnh mà không một tiếng động. Rồi biến tư nhu sang cương, đánh văng được kiếm của Trương Linh, không ai có thế tưởng tượng được. Trương Linh với mình võ công ngang nhau. Thế mà kiếm của y bị sợi giây "mổ" bay đi, thì nội công này đã tới mức không biết đâu mà lượng.

          Trần Năng đang đấu với Nghi Gia, thấy Tăng Giả Nan Đà đọc một đoạn trong kinh Lăng Già mà ngài đã giảng cho nàng.

          Hôm đó ngài nói:

          "Lăng Già là mội kinh tối cao của Thiền Môn. Ngày xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự đến núi Lăng Già giảng kinh đại Thừa, nên kinh mang tên Lăng Già. Thời bấy giờ, khi Phật giảng kinh bao giờ cũng có một người ngồi làm Thượng thủ. Hôm Phật giảng kinh Lăng Già thì Đại Bồ Tát Đại Huệ ngồi làm Thượng thủ với nhiều Bồ Tát. Mở đầu Đại Huệ Bồ Tát lạy phật thưa rằng:

          – Con là Đại Huệ, thông hiểu Đại Thừa.

          Sau đó Đại Huệ Bồ Tát đọc một bài kệ ca tụng Phật Tổ. Đoạn ngài vừa đọc là đoạn đầy trong bài kệ đó.

          Thế gian ly sinh diệt câu này ý nói Phật Tổ là Đấng đại giác ngộ thoát ra ngoài lẽ sinh, tử. Chí bất đắc hữu, vô ngài đã bỏ ra ngoài ngũ uẩn, không phân biệt ta với người, người với người nữa cho nên dù "có" dù "không" cũng thế thôi. Tất cả chỉ còn ở ngài một trái tim đại từ đại bi. Nhất thiết pháp như huyễn Ngài giảng phép Phật rõ ràng có, mà không. Cho nên Phật Giáo không có chỗ khỏi đầu, cũng không có chỗ cùng tận là thế"

          Trần Năng thắc mắc không hiểu sao ngài đọc lên giữa lúc nầy? Hôm đó ta hỏi ngài, làm thế nào thì "Chí bất đắc hữu vô" được. Ngài bảo cứ "không tâm" tâm vận khí thì được như thế. Hôm đó ta không tâm vận khí thử, thấy trong lòng khoan khoái vô cùng.

          Trần Năng vừa chiến đấu vừa suy nghĩ, rồi trong lúc không tự chủ nàng vận khí "không tâm", chân khí chuyển vận tự nhiên như không biết đến. Giữa lúc nàng "không tâm" vận khí, buông lỏng kình lực, tay phát ra chiêu "Ngưu Tẩu Như Phi". Chưởng của nàng chạm vào chưởng của Nghi Gia. Không một chút gió nào. Bịch một tiếng, nàng cảm thấy người khoan khoái vô cùng. Còn Nghi Gia chưởng lực bị mất tăm mất tích. Y thị hoảng sợ nhảy lùi lại. Cả hai cùng ngẩn người ra suy nghĩ.

          Trần Năng phấn khởi:

          – Ta vô tình "không tâm" phát chiêu. Kình lực dương cương biến mất, chân khí trong người biến thành một thức chân khí kỳ lạ. Không phải để đánh đối chủ, cũng không phải để đỡ đối thủ, mà "hóa giải hết kình lực độc ác của đối thủ". Như vậy Phục Ngưu Thần Chưởng, không còn là chưởng pháp dũng mãnh nữa. Trước đây Vạn Tín Hầu nhân Phục Ngưu Thần Chưởng của thánh Tản Viên, chế ra ba mươi sáu chiêu cùng mang trên Phục Ngưu Thần Chưởng. Nhưng vận khí âm nhu, khi phat chiêu hung ác khác thường. Nếu bây giờ ta dùng tâm pháp của Tăng Giả Nan Đà, Phục Ngưu Thần Chưởng lại biến thể thành một loại chưởng mới nữa.

          Còn Nghi Gia thì ngẩn người ra:

          – Lạ lùng thực! Ta đang đấu với y thị. Bỗng nhiên chưởng y thị đổi một cách kỳ dị, khiến ta thấy như mất hết kình lực. Ta phải cẩn thận mới được.

          Nghĩ rồi Nghi Gia phóng chưởng tấn công tiếp.Trần Năng vận chưởng đỡ. Lần nầy đã có ý niệm: Nàng chuyển chân khí về Đơn Điền, buông lỏng kình lực. Trong lòng không gợn chút sưu tư, thuận tay phát chiêu. Chiêu số của nàng phát ra không có gió. Nghi Gia thấy vậy thì mừng lắm. Y thị đánh thẳng một chưởng vào giữa ngực Trần Năng. Chưởng phong ào ào đổ tới. Trần Năng vẫn không tâm, buông lỏng kình lực. Chưởng lực của Nghi Gia chụp tới, kình lực biến mất tích. Thành ra khi tay thị đụng vào tay Trần Năng, cảm thấy kình lực biến đi. Thị kinh hoàng, nghiến răng đánh liền bốn chưởng. Trần Năng vẫn thản nhiên "không tâm" đỡ. Đánh được mấy chưởng nàng lại nghĩ:

          "Hôm ấy Tăng Giả Nan Đà giảng về ứng dụng đại thể tám câu kinh trên rằng: Khi quán tưởng thế gian nầy bằng trí và bi. Người sẽ thấy nó giống như hoa đớm giữa trời. Không thể nói nó có sinh ra hay bị diệt đi. Vì cả hai cái có và không đều dùng được. Khi quán tưởng môn vật bằng trí và bi. Người sẽ thấy nó như ảo giác. Ngoài hẳn sự nhận biết của tâm thức. Cũng không thể nói nó có hoặc không. Vì cả hai đều không dùng được ở đây.

          Muốn đi ra ngoài cái có và không, thì cần nhất để cái tâm trống rỗng. Khi phát lực, thì chân khí toàn thân cũng đổ ra như sóng biển dồn dập đánh vào bờ. Sóng tuy nhiều, tuy mạnh nhưng lại là thể lỏng. Không hình không dạng".

          Nàng lại nghĩ:

          "Ngài dậy ta không tâm, trong khi kinh nói Đại Bi tâm thế là thế nào? Vậy thì ta phát chiêu, trong lòng trống rỗng, rồi chuyển chân khí ra tay thử xem".

          Nghĩ vậy nàng ra chiêu Thanh Ngưu ư hà vận khí không tâm rồi chuyển Đại Bi Tâm. Bịch một tiếng, hai chưởng chạm nhau, kình lực Nghi Gia mất hút. Còn bị dư lực Trần Năng đánh vọt lên cao.

          Vô tình chỉ mấy câu kinh của Tăng Giả Nan Đà, mà Trần Năng hợp được Cương, Nhu vào trong một chiêu, khiến Nghi Gia bị thua. Còn ở trên không, y thị hét lên:

          – Chết!

          Phan Anh chạy lại đỡ vợ dậy hỏi:

          – Có sao không? Cái gì đã xảy ra?

          Trần Nghi Gia lắc đầu:

          – Không hiểu nữa, dường như y thị có tà thuệt thì phải. Lúc đầu y thị đấu với em kém thế. Rồi tự nhiên cái người "Đen như đồng" đọc lên mấy câu quái quỉ gì đó. Khiến cùng một thứ chưởng pháp, y thị biến đổi đi, làm mất hết kình lực của em.

          Y thị quay lại nói với Tăng Giả Nan Đà:

          – Nan Đà Đại sư! Trước đây chúng tôi có duyên gặp gỡ Đại Sư trên hồ Động Đình. Chúng tôi không hề vô phép với Đại Sư. Tại sao Đại Sư lại đi giúp địch thủ hại tôi?

          Tăng Giả Nan Đà chắp tay:

          – A Di Đà Phật tư bi chứng giám cho bần tăng. Bần tăng chỉ đọc mấy câu kệ, xưa kia Đại Huệ Bồ Tát tán thán Đức Thích Ca Mâu Ni. Mục đích bần tăng khuyên các vị nên "Rời xa được lẽ sinh, diệt" đến độ "Chí không còn để vào chỗ có, chỗ không", đến trình độ đó, thì đủ vào được Vô thượng Bồ Đề. Hùng phu nhân có duyên với Phật pháp. Nghe mà hiểu thấu đáo để huyền diệu của "Tự tính không". Kình lực Dương Cương võ công Tản Viên biến mất hết. Chí "Bất đắc hữu vô" không còn kình lực sát thủ, mà chỉ giải "Sắc tướng" trong chưởng pháp của Phan phu nhân. Phật pháp mở rộng vô bờ bến. Pháp môn nhiều vô kể. Như Phục Ngưu Thần chưởng, vốn chỉ có dương cương. Vạn Tín hầu chế ra âm nhu. Đó là hai biến hóa. Hùng phu nhân nghe kinh Phật, bỏ lòng độc ác, chỉ muốn hóa giải ác nghiệp của Phan phu nhân. Chưởng pháp Tản Viên lại biến ra một pháp mới. Đó là lẽ "Vô Thường" trong thế gian nầy. Bần tăng mong hai vị không đánh nhau, giết nhau. Đâu có để tâm vào giúp Hùng Phu nhân? Huống hồ Phan công tử và Phan phu nhân với bần tăng có duyên gặp gỡ trên hồ Động Đình. Bần tăng làm sao mà hại phu nhân cho được?

          Trần Nghi Gia nổi giận:

          – Hòa thượng còn chối cãi ư. Ban nãy chúng ta phóng ám khí giết Hàn Tú Anh, người ra tay cứu y thị. Như vậy tâm thiên vị rồi.

          Tăng Giả Nan Đà chắp tay:

          – A Di Đà Phật. Hai vị ẩn thân ở đây đã hai năm. Đâu có phải để giết Hàn thái hậu? Mục đích của hai vị ở chỗ khác. Bần tăng đã biết rồi. Hôm nay hai vị ra tay giết Hàn thái hậu. Sát nghiệp nổi lên, vung tay một cái, có ngờ đâu cái vung tay đó làm cho người ra đau đớn khổ sở. Bần tăng không thể nào ngồi nhìn nhị vị giết người. Bần tăng chỉ ra tay hóa giải thôi.

          Phan Anh bảo vợ:

          – Thôi, không nên nói với cái ông tượng đồng nữa. Nàng lùi lại, để ta đấu với Hùng phu nhân xem sao.

          Y vận khí phóng chưởng đánh Trần Năng. Trần Năng thấy kình lực phát ra âm nhu, giống như chưởng pháp Long Biên. Trong chưởng pháp có mùi tanh hôi, khiến nàng muốn nôn ọe.

          Trần Năng lại vận khí "không tâm" rồi "Đại bi tâm" phát chiêu. Bịch một tiếng chưởng của nàng chạm vào chưởng của Phan Anh. Nàng cảm thấy luồng chân khí của Phan Anh nhu hòa, âm độc, hàm chữa sát thủ giống như nội công của Phương Dung. Nàng kêu lên:

          – Ngươi luyện nội công âm nhu với phái Long Biên. Người là người phái Long Biên?

          Nội công phái Long Biên thiên về âm nhu, khắc chế với nội công Tản Viên của Trần Năng. Song Trần Năng lại vận khí theo Thiền Công của nhà Phật, hóa giải áp lực ngoài vào, làm mất kình lực của Phan Anh.

          Phan Anh cười nhạt:

          – Ta không biết phái Long Biên, Hổ Biên?

          Nội công phái Long Biên thiên về Âm Nhu, khắc chế với nội công Tản Viên của Trần Năng. Song Trần Năng lại vận khí theo Thiền công của nhà Phật, hóa giải áp lực của Phan Anh.

          Phan Anh cười nhạt:

          – Ta không biết phái Long Biên, Hổ Biên quái quỉ gì cả.

          Miệng nói y phát chiêu vù vù. Trần Năng vận " không tâm" và "đại bi tâm" chống lại dễ dàng. Trần Nhất Gia nói:

          – Trần phu nhân phải cẩn thận. Phu nhân nói đúng đó, giữa nội công của Phan Anh thuộc phái Trường Bạch với phái Long Biên ở Giao Chỉ có cùng nguồn gốc. Vì xưa kia Vạn Tín hầu sau khi đánh Hung Nô rồi, để lại một đệ tử, làm quan với Tần. Vị nầy lấy vợ Trung Nguyên, ở lại lập ra phái Trường Bạch. Phan Anh là người của phái Trường Bạch.

          Hai bên đấu được đến một trăn hiệp nữa. Tự nhiên Phan Anh lùi lại phóng một chưởng rất thô kệch. Trần Năng vung chưởng đỡ. Bịch một tiếng, hai chưởng dính với nhau. Trần Năng thấy trong chưởng của đối phương hàm chứa một mùi tanh cực kỳ khó chịu. Nàng ung dung vận khí " không tâm" rồi "đại bi tâm" hóa giải.

          Bỗng nàng cảm thấy mùi tanh lợm giọng, muốn mửa ra ngoài. Phan Anh thu chưởng lại cười ha hả, giọng điệu khoái trá. Y nói:

          – Hùng phu nhân, người trúng phải Huyền Âm Độc chưởng của ta rồi. Người mau ngồi xếp chân, vận công mới hy vọng thoát khỏi cái chết. Người phải mở vòng vây. Khi rời khỏi nay, ta trao thuốc giải cho ngươi. Bằng không người sẽ đau đớn vô cùng. Mỗi ngày lên cơn trong vòng hai giờ. Cuối cùng 7 lần 7 là 49 ngày. Ngươi sẽ chết.

          Trần Năng nhìn thấy tay mình biến thành xanh tím, ngứa ngáy khó chịu.

          Trần Nhất Gia nói lớn:

          – Trần phu nhân phải cẩn thận. Tuy nội công Trường Bạch với Long Biên giống nhau. Nhưng nội công Long Biên thì đường đường chính chính. Còn nội công Trường Bạch, đã trộn năm thứ nọc vào, đó là nọc rắn, nọc rết, nọc bò cạpp, nọc nhện và nọc tằm độc. Ai trúng phải người đau nhức, chết đi sống lại. Muốn chết không được, muốn sống cũng không xong.

          Trần Năng bị trúng độc, cánh tay thấy tê tê, ngứa quá. Nàng biết nguy rồi. Bản tính can đảm, nàng quát lớn:

          – Đằng nào ta cũng chết. Chúng ra cùng chết với nhau.

          Nàng vận khí vào Đơn Điền, rồi truyền ra Đốc Mạch, dẫn tới kinh Tam Tiêu, phát ra ở huyệt Quan Xung. Nàng điểm đến "véo" một cái vào người Phan Anh. Phan Anh thấy chỉ lực lợi hại, vội lăn tròn người đi tránh. Chỉ trúng vào một viên đá. Viên đá bay tung đi.

          Trần Năng nghĩ:

          – Ta phải dùng võ công thượng thừa, khống chế tên Phan Anh nay, mới mong sống còn.

          Nàng phóng chưởng cực kỳ hung bạo đánh Phan Anh. Đánh được bốn chưởng lại thấy Tăng Giả Nan Đà đọc kinh:

          Viễn ly ư đoạn thường,
          Thế gian hằng như mộng,
          Trí bất đắc hữu vô,
          Nhi hưng đại bi tâm.

          Trong lúc phẫn uất, nàng dùng toàn sát thủ tấn công. Nên những câu kinh của Nan Đà không lọt vào tai nàng. Chỉ lực nàng phóng ra vi vu. Phan Anh nhảy nhót tránh né. Được một lát cánh tay Trần Năng tê dại dần. Chỉ lực phát ra yếu ớt. Chên khí hỗn loạn.

          Tăng Giả Nan Đà lại đọc bốn câu kinh trên một lần nữa. Lần nay Trần Năng đã nghe rõ. Nàng nhớ ngài giảng "Đời chúng ta cái gì sinh ra rồi cũng diệt đi. Chỉ có Phật Tổ, viễn ly được với cái vô thường. Xa hẳn thế gian nầy, chẳng qua là cõi mộng mà thôi". Nghĩ vậy nàng bỏ ra ngoài đau đớn, chết chóc.

          Nàng nghĩ:

          "Theo Phật, ai sinh ra cũng phải chết. Ta không thoát khỏi cái chết. Ta không chết trước cũng chết sau. Cuộc đời như giấc mộng mà thôi. Thế mà ta dùng võ công của sư phụ giết Phan Anh, e đi ngược lại với kinh Phật".

          Vô tình chân khí của nàng từ "không tâm, đại bi tâm" đưa đến, nàng như mê dại đi không biết gì. Trong khi tay vẫn vung chưởng đánh Phan Anh. Hai chưởng lại đụng nhau nữa. Cả hai cùng dùng âm nhu. Một bên là nội công Âm Nhu của Vạn Tín hầu. Một bên là Thiền Công nhà Phật, hóa giải ác nghiệp từ ngoài vào. Hai chưởng đụng nhau, êm nhẹ, không tiếng động. Trần Năng cảm thấy cái ngứa ngáy khó chịu giảm bớt. Còn Phan Anh thấy kình lực của mình biến mất, như ném một ném muối vào biển.

          Trần Năng tỉnh ngộ:

          – Tăng Giả Nan Đà dường như đọc kinh để nhắc ta thắng Phan Anh thì phải. Ta phải chú ý mới được.

          Tăng Giả Nan Đà lại đọc:

          Trí nhân pháp vô ngã,
          Phiền não cập nhĩ diệm,
          Thường thanh tĩnh vô tướng,
          Nhi hưng đại bi tâm.

          Trần Năng phát chưởng như gió, nhưng trong tâm lại suy nghĩ theo lời kinh của Tăng Giả Nan Đà. Ngài giảng: Chỉ có Phật mới bỏ ra ngoài sự phân biệt giữa ta và người. Vì đã bỏ ra được cái ta và người, thì tự nhiên sẽ không phân biệt nhiều người, còn đâu là tranh dành, còn đâu phiền não? Vì vậy tâm hồn mới được thanh tịnh. Tóm lại muốn đạt đến mức đó phải bỏ ra ngoài cái Ta với Người tức là không tưởng thì mới đưa đến đai bi tâm.

          Trần Năng vừa nghĩ, vừa tự động phát chưởng ra. Nàng thấy tay mình toát mồ hôi, tanh hôi vô cùng, người khoan khoái nhẹ nhàng. Nàng tỉnh ngộ:

          –Thì ra ta chú ý đến Phan Anh đánh ta. Ta chú ý đến đau đớn, tức phân biệt "Ta" với "Người". Bây giờ không tâm, đi đến vô tướng, thì độc chất phát ra.

          Bịch một tiếng, chưởng của nàng chạm vào chưởng của Phan Anh. Người y lảo đảo bật lùi trở lại, rồi ngã xuống đất.

          Từ Khúc Giang ngũ hiệp tới Trưng Nhị đều kinh ngạc không ít. Với bản lĩnh Trần Năng lúc đầu. Đấu với Trần Nghi Gia, kém hơn một chút. Trần Năng nghe "Tăng Giả Nan Đà đọc kinh, giác ngộ, áp dụng "Tự Tính không" đánh bại Nghi Gia. Nàng đấu với Phan Anh, bị trúng Huyền âm độc chưởng. Tính mệnh nguy hiểm trong chốc lát. Bây giờ đảo ngược lại, dường như nàng không còn đau đớn nữa. Còn đánh Phan Anh lạc bại.

          Phan Anh đứng dậy, điều hòa hơi thở, lại vung chưởng tấng công. Trần Nghi Gia đứng ngoài, phát chiêu cùng với chồng tấn công Trần Năng. Trần Năng lùi lại ba bước, phát chưởng đấu với cả hai một lúc. Hai người phối hợp cương, nhu phát chiêu. Trần Năng hít một hơi chân khí rồi vận "không tâm", vung chưởng đỡ. Chưởng của Nghi Gia thuộc Dương Cương. Chưởng hướng của Phan Anh thuộc Âm Nhu. Hai chưởng giao nhau với chưởng lực của Trần Năng. Cả ba người đều bật lùi lại.

          Trần Năng bình tĩnh, đã có một chút ý niệm về "không tâm". Nàng quay tròn vung chưởng đấu với cả hai vợ chồng Phan Anh.

          Nàng tiếp tục dùng "không tâm" rồi "Đại bi tâm" phát chưởng giao đấu với hai người. Nàng nghiệm thấy mỗi lần hai chưởng chạm nhau đối phương như mất hết kình lực. Vì vậy nàng vừa đỡ đòn, thỉnh thoảng tấn công một chiêu. Đấu được khoảng năm chục chiêu, đã quen với lối vận khí. Cứ một chiêu đỡ, nàng có một chiêu tấn công. Có một điều nàng cảm thấy nguy hiểm là: Công lực của nàng thấp hơn một trong hai người. Mà phải đấu với cả hai một lúc. Công lực nàng cạn dần.

          Trần Năng tính toán:

          – Trước đại hội Tây hồ, nếu ta gặp một trong hai vợ chồng nay, thì e rằng chỉ một chiêu họ cũng đánh bại ta. Sau nhờ sư phụ và Đào Sư Thúc truyền dậy, võ công ta tiến bộ không ngừng. Ta những tưởng rằng mình đứng đầu trong nữ lưu. Không ngờ hôm nay gặp Trần Nghi Gia, võ công cao hơn ta một chút. Giữa lúc có thể bị thua, vị Đại Hòa thượng đọc một đoạn kinh Lăng Già, khiến ta tỉnh ngộ, thắng được Nghi Gia. Bây giờ hai vợ chồng họ đấu với ta. Tuy ngang nhau, nhưng dần dà, công lực ta bị tiêu hao, ta sẽ bị thua. Ta phải làm sao đây? Dù sao còn Phật Nguyệt đứng lược trận. Nàng mà ra tay thì khống chế được hai người này.

          Bỗng Tăng Giả Nan Đà gõ mõ đọc kinh. Trần Năng nhận ra ngài đọc bài "Bát nhã ba la mật đa tâm kinh":

          Quán Tự Tại Bồ Tát,
          Hành thâm Bát Nhã Ba la mật đa thời,
          Chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
          Độ nhất thiết khổ ách,
          Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc.

          Trần Năng ngơ ngác tự hỏi:

          – Tăng Giả Nan Đà đọc kinh "Bát nhã ba la mật tâm kinh" lên làm gì? Hôm trước ngài giảng rằng: Kinh bát nhã ba la mật vượt ra ngoài lời nói, tư tưởng và tán ngữ. Tự tính như hư không. Không sinh, không diệt là cảnh giới của "Huệ". Hiển hiện trong nội tâm chúng ta. Bấy giờ đức Thế Tôn nhập vào Tam muội Chính Giác cực sâu. Cùng một lúc đó đại Bồ Tát Quán Tự Tại đang thực hành Bát Nhã Ba La mật rất sâu xa.

          Đoạn trên có nghĩa là: Khi Bồ Tát Quán Tự tại thực hành Bát nhã ba la mật sâu xa. Ngài soi thấy rằng có năm uẩn. Ngài nhận thấy năm uẩn đó không có tự tính trong chúng.

          Này Xá lợi Phất:
          Sắc ở nay là không. Không là sắc.
          Sắc không khác không.
          Không không khác sắc.
          Sắc tức thị là không.
          Không tức thị là sắc.
          Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

          Nàng lẩm nhẩm:

          – Như vậy chưởng của ta phát ra phải lấy cái "Không tâm" làm căn bản. Đó là "Sắc không khác không". Kình lực ta phát ra "không", song nó lại là sắc, hóa giải kình lực của vợ chồng Phan Anh. Như thế thì "Sắc" "không" cùng giống nhau. Ta đánh người, người đánh ta, đều phải coi như không có. Tự đó đưa đến: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cùng giống nhau.

          Nàng buông lỏng kình lực. Để tâm trong sáng. Nhàn nhã đưa chưởng đỡ. Chưởng của nàng ôn nhu, nhẹ nhàng. Chạm vào chưởng của vợ chồng Phan Anh, dù cương, dù nhu, cũng không thấy rung động.

          Phan Anh nhìn vợ. Cả hai cùng phát năm chiêu liền. Trần Năng hời hợt đưa tay đỡ. Năm chiêu điều biến mất.

          Tiếng Tăng Giả Nan Đà vẫn vọng lên đều đều:

          Xá lợi Phất! Thị chư pháp không tướng,
          Bất sinh, bất diệt.
          Bất cấu, bất tịnh,
          Bất tăng, bất giảm,
          Thị cố không trung vô sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
          Vô nhãn, nhĩ, ty, thiệt, thân ý.
          Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp.
          Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới.
          Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,
          Vô khổ tập diệt đạo,
          Vô trí, diệc vô đắc.

          Trần Năng suy nghĩ rất mau:

          – Khi xưa Phật nói với Bồ Tát Xá Lợ Phất rằng: Tất cả các pháp đều không có hình tướng. Không sinh, không diệt. Không dơ bẩn, không tinh khiết. Không tăng không giảm. Cho nên không có sắc, thọ, tưởng, hành thức. Như vậy không còn phân biệt chiêu thức của ta, của địch nữa.

          Thuận tay phát chiêu, nàng phát bừa một chiêu. Vợ chồng Phan Anh ngẩn người tự hỏi:

          – Chiêu nầy là chiêu gì ?

          Phân tâm một chút. Chưởng Trần Năng đã tới. Cả hai đưa bốn chưởng đẩy ra. Trần Năng thu chưởng về, biến thành trảo chụp lên vai hai người. Trảo của nàng thô kệch. Không có tý kình lực nào. Ngón tay nàng dính vào vai hai người. Thì Phan Anh rung động toàn thân. Trên đầu có khói trắng bốc lean. Còn Trần Nghi Gia mặt tái nhợt. Cả hai lùi lại. Mặt nhợt nhạt. Phan Anh quát lên tay phóng độc chưởng. Trần Nghi Gia rút kiếm đánh liền mười chiêu. Kiếm quang bao phủ người Trần Năng. Nàng kinh hãi, vọt người lên cao tránh. Nghi Gia đuổi theo, khoa kiếm định chăt chân nàng. Phan Anh đánh xéo một chưởng trở lên.

          Phật Nguyệt đứng ngoài thấy Trần Năng lâm nguy. Nàng rút kiếm vọt người đi, chĩa vào cổ Nghi Gia. Còn lơ lửng trên không, kiếm của nàng đụng vào phải một vật, kêu choảng một tiếng. Cánh tay nàng tê chồn. Kình lực mất. Nàng rơi xuống đất. Thì ra Tăng Giả Nan Đà ném một trái tùng vào kiếm của nàng. Nàng định lên tiếng, thì nghe tiếng một trái trúng vào kiếm bay bổng lên trời gãy làm bốn mảnh rơi xuống.

          Nguyên Trần Năng còn ở trên không. Bị vợ chồng Phan Anh tấn công. Tay trái nàng phóng chỉ vào thanh kiếm Nghi Gia, kình lực vận theo "cho nên không trung không sắc, thọ, tưởng, hành, thức". Chỉ chạm vào kiếm, làm kiếm gãy thành 4, 5 đoạn. Tay phải nàng đẩy một chướng vào chưởng của Phan Anh. Giữa lúc nguy nan, mắt nàng mờ đi, tai không còn nghe thấy gì, thân cũng như ý tưởng ngất đi. Đúng với câu: "Không có mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý". Kình lực nhu hòa phát ra mạnh đến long trời lở đất. Chưởng của nàng đánh vào chưởng của Phan Anh. Người nàng lại bay vọt lên cao. Trong khi ở trên cao. Người nàng bị câu: "Không có sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp. Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới. Không có minh, không có vô minh. Không có diệt, không có vô minh diệt. Như vậy thì không có tuổi già, không có sự chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí, không có đắc, và không có chứng. Bởi vì không có đắc, người nàng từ từ rơi xuống. Giữa lúc chưởng của Nghi Gia đánh vào. Bình một tiếng. Nàng trúng chưởng của Nghi Gia. Người nàng hơi rung động. Còn Nghi Gia bay vọt lên cao. Thị ngã ngửa xuống đất. Phan Anh rút kiếm, đâm vào giữa ngực Trần Năng. Nàng vung tay, kẹp lất lưng thanh kiếm. Phan Anh thấy vậy thì chửi thầm:

          – Còn lỏi nay khinh địch. Chết đừng oán ta.

          Trong khi Trần Năng tập trung tinh thần, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Nàng không còn sợ hãi nữa. Tay kẹp cứng thanh kiếm của Phan Anh. Y dùng hết sức dằng ra, mà không được. Y vận thêm kình lực đẩy thanh kiếm về trước. Thanh kiếm như đinh đóng cột không rung động.

          Trần Năng rung động tay một cái. Thanh kiếm gãy làm 7, 8 mảnh. Thuận tay nàng nay các mảnh kiếm vào người Phan Anh. Y kinh hoàng, tung Hành Tú Anh lên không trung, dùng hai chưởng gạt các mảnh kiếm. Trần Nang tấn công thêm hai chưởng, y nhảy lùi lại ba bước dỡ. Nàng thuận tay đỡ lấy Hàn Tú Anh, di chuyển đến trước Phật Nguyệt, trao cho nàng.

          Chợt Tăng Giả Nan Đà lại đọc:

          Nhất thiết vô Niết Bàn,
          Vô hữu niết bàn Phật,
          Vô hữu Phật Niết Bàn,
          Viễn ly giác sở giác,
          Nhược hữu, nhược vô hữu.
          Thị như hốt câu ly,
          Mâu ni tịch tĩnh quan.
          Thị tắc viễn ly sinh,
          Thị danh vị bất thủ,
          Kim thế, hậu thế tịnh.

          Trần Năng nhận ra đoạn kinh nầy vẫn là bài kệ của Đại Huyệ Bồ Tát tán thán Phật. Tăng giả Nan Đà giảng rằng: Khi đã bỏ ra ngoài sắc tướng thì làm gì có Niết Bàn, cũng chẳng có Phật nữa, phải xa lìa những cái ngộ giác ngộ mình đạt được. Coi có, và không đều như nhau. Như thế mới xa lìa được cái sống, cái chết tức đạt tới "Vô đẳng chính thượng chính giác" tức thành Phật vậy.

          Nàng vừa nghĩ, vừa bỏ hết tất cả kình lực, cứ thuận tay phát chưởng. Chưởng phong vù vù phát ra, nhưng nhu hòa. Bộp một tiếng, Phan Anh bay bổng lên cao, rơi xuống bụi cây. Bộp một nữa Trần Nghi Gia bắn ra xa đến ba trượng, rơi xuống đất. Hai người nằm im một lúc, rồi mới từ từ ngồi dậy.

          Vợ chồng Phan Anh mặt tái nhợt, nói:

          – Hùng phu nhân. Người không phải người nữa rồi. Võ công của ngươi trên đời ta chưa từng nghe qua. Nội công của người dùng là nội công gì vậy?

          Trần Năng tuy là gái. Nhưng chí khí như nam nhi, nàng thản nhiên chỉ vào Tăng Giả Nan Đà nói:

          – Chưởng pháp, võ công của tôi, do sư phụ tôi là Khất Đại Phu đất Lĩnh Nam truyền dậy. Phan phu nhân, lúc đầu đấu chưởng với phu nhân, tôi hơi kém một chút. Sau nhờ Phật gia đây dậy mấy câu, tôi thắng được phu nhân. Rồi cũng nhờ Phật Gia đây dậy mấy câu nữa, tôi thắng được hai vị. Phan phu nhân, phu nhân đừng buồn. Tôi đi từ Lĩnh Nam sang Trung Nguyên, chưa có nữ lưu nào thắng được chưởng của tôi. Mà phu nhân hơn tôi một chút thì phu nhân là người võ công cao nhất trong nữ lưu thiên hạ rồi.

          Phan Anh cùng vợ nhìn nhau hội ý, rồi phát chưởng tấn công Phật Nguyệt. Phật Nguyệt kinh hoảng tung Hàn Tú Anh sang phía Hồ Đề. Nàng phát chưởng chống lại. Thuận thế nhảy lui ba bước để hóa giải kình lực của chúng. Vợ chồng Phan Anh chỉ chờ có thế, họ nhảy lại chụp Hồ Đề, Hàn Tú Anh. Hồ Đề ôm Hàn Tú Anh nhảy lùi vào giữa đàn cọp. Song cái chụp của Nghi Gia làm mất tấm khăn che mặt của bà.

          Đàn cọp thấy chúa tướng bị tấn công. Chúng gầm lên một tiếng rúng động trỗi dậy. Hơn mười con nhảy đến vồ vợ chồng Phan Anh. Vợ chồng Phan Anh kinh hoảng, nhảy lùi lại phía sau Tăng Giả Nan Đà núp.

          Tấm vải che mặt của Hàn Tú Anh bay ra. Mọi người đều kêu "Ồ" lên một tiếng. Vì từ đầu, người ta chỉ thấy lưng thon thon, vai mảnh khảnh, dáng người thướt tha của bà, chứ chưa thấy mặt. Bây giờ mặt bà không còn che vải, thực là đẹp tuyệt thế. Tuổi bà đã trên năm mươi, nhưng mới nhìn qua tưởng chỉ khoảng ba mươi là cùng.

          Trần Năng đặt bà xuống cạnh Phật Nguyệt, đề phòng Phan Anh ám toán.

          Nàng đến trước Tăng Giả Nan Đà quì xuống lạy bốn lạy:

          – Sư phụ! Sư phụ đến đây từ hồi nào? Nhờ sư phụ chỉ dậy, để tử mới cứu được Hàn Thái Hậu.

          Tăng Giả Nan Đà cười tủm tỉm, nét mặt ông hiền hòa, từ bi:

          – Bần tăng tới từ chập tối. Trần tí chủ, thí chủ có duyên với Phật pháp. Ngộ tính của thí chủ cực cao. Thí chủ biết chuyển từ lời lẽ vào với võ công dương cương đầy sắc của Lĩnh Nam. Huyền diệu! Huyền diệu!

          Ông tiếp:

          – Hùng phu nhân! Thiền công nhà Phật đặt căn bản trên kinh Kim Cương, Lăng Già, Bát Nhã ba la mật tâm kinh. Phàm khi xử dụng, phải để tâm trong sáng. Địch mạnh, mặc địch mạnh. Địch hung dữ mặc địch hung dữ. Tâm tư bình thản, coi thế cuộc như "hư không hoa". Đến Niết Bàn, cũng không còn nữa. Thế là đi vào đến cửa Bồ Đề. Trong nhà Phật gọi là "Vô Thượng Chinh Đẳng Chính Giác". Hôm nay cơ duyên đưa đến. Phu nhân luyện được thiền công. Khi xử dụng phải lấy từ bị làm gốc. Hồi nãy, biết mình bị trúng Huyền âm độc chưởng, phu nhân dùng Lĩnh Nam chỉ muốn giết Phan công tử. Sát nghiệp nổ dậy, tức là "Sắc tướng". Phàm có "Sắc tướng" là có "ngã tướng". Có nhân tướng có thì phải nhiều nhân tướng, thành "chúng sinh tướng". Vì vậy lực không ra suýt nữa bị hại. Xin phu nhân chú ý cho.

          Trần Năng kính cẩn bái tạ.

          Tăng Giả Nan Đà móc ra một tập sách mỏng, nói tiếp:

          – Bần tăng mới dịch kinh Kim Cương. Lăng Già, Bát Nhã ba la mật tâm kinh sang Hán Văn. Xin tặng Hùng phu nhân, làm duyên.

          Trần Năng kính cẩn nhận bỏ vào túi.

          Khúc Giang Ngũ Hùng và Trường Sa Tam Anh thấy Trần Năng xuất hiện cùng Hồ Đề, Phật Nguyệt đem theo đàn cọp, beo có ý lo ngại. Bây giờ thấy họ xưng người Lĩnh Nam mới yên tâm.

          Hồ Đề quen mặt tất cả. Nàng đi một lượt, giới thiệu từng người với nhau.

          Trần Nhất Gia hỏi Trần Năng:

          – Hùng Phu Nhân! Phu nhân là đệ tử của Khất Đại Phu, Trần tiên sinh đó sao? Hèn gì Phục Ngưu Thần Chưởng của phu nhân biến ảo khôn lường. Theo ngu ý dường như phu nhân có chế biến thêm vào. Bởi Trần tiên sinh chỉ biết có 16 chưởng, chứ không đủ 36 chưởng như phu nhân xử dụng. Lão già nầy mắt kém, nhận không ra, xin phu nhân chí cho. Không biết gần nay tiên sinh có được khỏe mạnh không?

          Trước kia, Trần Năng thường nghe sư phụ nói về Trần Gia ngũ hiệp ở Khúc Giang. Ngài nói rằng giữa ngài với họ là chỗ thâm tình huyết tộc. Họ dưới ngài một vai. Nghe Trần Nhất Gia hỏi, nàng vội tới làm lễ:

          – Đại sư huynh. Tiểu muội Trần Năng xin tham kiến năm vị sư huynh. Sư phụ tiểu muội vẫn khỏe. Người nhắc đến các vị luôn. Hồi nầy người chuyên chú về y học nhiều hơn. Còn về Phục Ngưu Thần Chưởng, quả người chỉ biết có mười sáu chiêu. Sau Đào sư thúc của phu quân muội tìm được bộ Văn Lang vũ học kỳ thư, trong đó ghi đủ ba mươi sáu chiêu Phục Ngưu Thần chưởng, cả cương lẫn nhu, người mang ra dậy cho tiểu muội.

          Trần Nhất Gia vuốt râu cười:

          – Khất Đại Phu không phải người thường! Thúc phụ đã thành một Tiên ông rồi. Này tiểu muội, ta thấy vừa rồi tiểu muội xử dụng thứ nội công kỳ lạ, phải chăng nội công Âm Nhu của phái Long Biên? Có điều nội công Âm Nhu của tiểu muội thì chính đại quang minh. Chỉ dùng để thắng người chứ không giết người, thế là thế nào?

          Trần Năng khâm phục:

          – Sư phụ muội thường nói sư huynh kiến thức quảng bác thiên hạ. Vừa rồi, muội xử dụng nội công Tản Viên đấu với Phan phu nhân, hơi kém thế. Sau được Phật Gia dậy muội mấy cây huyền diệu của Phật Pháp, muội mới thắng được Phan phu nhân. Thiền công của nhà Phật, tuy đánh người mà không làm hại người.

          Trần Nhất Gia liếc nhìn Tăng Giả Nan Đà nói:

          – Đúng như vị Phật gia dậy. Tiểu muội có duyên với Phật pháp, nên ngài đọc những câu "quyết", mà tại nay có bấy nhiêu người, không ai hiểu gì cả. Duy mình tiểu muội hiểu, đem áp dụng mà thành công. Với bản lĩnh đó, hiện giờ tiểu muội không thua gì bọn ta nữa rồi.

          Trần Nghi Gia nghe Trần Nhất Gia nói truyện với Trần Năng mới rõ những gì đã xảy ra trong khi mình đấu với nàng. Y thị thở dài cúi đầu xuống thất vọng.

          Phan Anh nhìn vợ hội ý:

          – Thôi rồi, thế là việc cứu mẫu thân coi như hư vô.

          Hai người vung kiếm lên cổ tự tử.

          Ánh kiếm lóe lên, mọi người định can thiệp, nhưng không kịp. Tăng Giả Nan Đà cầm sợ giây, tay rung một cái. Sợ giây như con rắn, mổ vào thanh kiếm của hai người. Kiếm bay vọt lên cao cắm vào cùng chỗ với mấy thanh đao kiếm của bọn Trương Linh.

          Hàn Bạch nói:

          – Phan tiểu vương gia! Ngươi đừng tự tử làm gì. Ta hứa sẽ cứu mẫu thân ngươi. Hàn mỗ xưa nay chưa sai hẹn bao giờ.

          Phan Anh đến trước mặt Tăng Giả Nan Đà thụp xuống đất lậy:

          – Tăng Giả Đại Sư, đa tạ Đại Sư cứu mạng.

          Tăng Giả Nan Đà khoan thai nói:

          – Phan thí chủ. Cách đây bốn tháng, bần tăng có duyên hội ngộ với thí chủ tại hồ Động Đình. Bần tăng đã đem Phật Pháp giác ngộ thí chủ rằng: Dục tính con người ta vốn không bờ bến. Người được một đồng lại muốn một trăm. Lúc được một trăm, lại muốn hàng vạn hàng triệu. Khi người ta làm một chức lại nhỏ, thì muốn làm đến Huyện lệnh. Được Huyện lệnh lại muốn làm Thái thú, thứ sử. Tới Thứ Sử thì mong được tước Hầu, tước công. Được tước công lại muốn làm Hoàng Đế. Con người bị ba mối tham, sân, si; bị ngũ uẩn che mất ánh sáng giác ngộ. Cứ suốt đời chạy theo mãi, không bao giờ cùng, thực lao tâm khổ tử khôn cùng. Sao bằng buông hết tất cả, thản nhiên, tiêu dao, có phải sung sướng biết mấy không?

          Câu nói của Tăng Giả Nan Đà, mọi người đều không hiểu, vì nó không ăn nhập vì hoàn cảnh Phan Anh. Phan Anh bắt Hàn Thái Hậu với mục đích cứu mẹ, mà vị Phật Gia nay lại nói đâu đầu những gì tham, sân, si? Nhưng Tăng Giả Nan Đà vừa dứt lời Phan Anh mặt tái nhợt.

          Trần Nghi Gia lo sợ đánh trống lảng:

          – Đại sư vừa dậy đệ tử Ngũ uẩn. Đệ tử ngu tối, không hiểu Ngũ uẩn là gì. Dám xin Đại Sư thương xót mà giảng cho.

          – A di đà Phật. Xích phu nhân hỏi vậy là phải. Để bần tăng giảng cho phu nhân nghe. Ngũ uẩn là năm thứ tích tụ lại của con người và của chúng sinh. Ngũ uẩn che lấp mất ánh sáng trí tuệ, khiến cho chúng sinh u mê, luân hồi vô cùng.

          Phật Nguyệt hỏi:

          – Sư Phụ! Sư phụ chưa giảng cho đệ tử biết luân hồi là gì, thì làm sao đệ tử hiểu được Ngũ uẩn?

          Từ hôm gặp Tăng Giả Nan Đà đến giờ, Phật Nguyệt gần ngài nhiều nhất. Nàng được hưởng ân huệ thuyết pháp của ngài luôn. Song hôm nay lần đầu tiên nghe đến chữ luân hồi, nàng nêu thắc mắc. Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng:

          – Phật Nguyệt thí chủ quả tinh minh. Luân hồi tiếng Phạn là Samsara. Bần tăng dịch là luân hồi. Luần là bánh xe, hồi là trở về. Luân hồi là cái bánh xe quay vòng, thì bất cứ cái lăn của bánh xe nào cũng trải qua nhiều vị trí, từ vị trí cao nhất, vị trí ngang, đến vị trí thất nhất. Sau khi quay hết một vòng, cái lăn lại trở về vị trí cũ. Đấy đại để luân hồi là thế. Các động vật chia làm sáu loài: Cao nhất tiên rồi tới thần, rồi tới người. Cõi người là cõi trung bình. Thấp hơn cõi người là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

          Đó là sáu cõi. Con người cứ như bánh xe, nay cõi nay, mai cõi khác. Kiếp này là Tiên, không lo tu hành khi hưởng hết phúc, cũng bị chết, đẩy vào cõi thần, người, địa ngục, ngạ quỉ hay súc sanh.

          Phật Nguyệt suýt xoa:

          – Phải rồi, vì vậy Phật Thích Ca mới bỏ ngôi Thái tử để đi tu. Hầu tìm lấy con đường giải thoát khỏi sáu cõi.

          Tăng Giả Nan Đà mỉm cười:

          – Thí chủ hiểu mau quá, nói đúng quá. Muốn thoát khỏi sáu cõi luân hồi phải tìm đường tu thành đạo, hết luân hồi, hết khổ não.

          Phật Nguyệt chăm chăm nhìn Tăng Giả Nan Đà:

          – Khi con người giác ngộ, tu hành, đã hết khổ não một phần. Như sư phụ nay, không lo, không giận, không phiền, không tham muốn, đã thành một Bồ Tát sống rồi dậy. Sư phụ! Người có thể độ cho đệ tử theo người thành Bồ Tát được không?

          Tăng Giả Nan Đà lắc đầu:

          – Không bao giờ bần tăng giúp thí chủ thành Bồ Tát, vì bần tăng có giúp cũng không được.

          Phật Nguyệt chưng hửng:

          – Sư phụ! Tại sao vậy?

          – Bần tăng chỉ giảng Phật pháp cho thí chủ mà thôi. Còn giác ngộ tự chính thí chủ. Thí chủ hãy bỏ hết Ngũ uẩn, trở lại với con người mình. Con người mình không còn gì nữa, thì Phật sẽ đến ngay trong tâm thí chủ.

          Những lời đối đáp giữa Tăng Giả Nan Đà với Phật Nguyệt ngày càng cao xa, khiến quần hào ngồi đó bị lôi kéo, say xưa, không biết rằng trời sáng lúc nào. Đoàn Thần hổ, Thần báo, nằm ngủ ngáy vang như sấm. Chim trời thức giấc, hót líu lo chào mừng bình minh và muôn hoa. Trần Năng chấp tay:

          – Như hồi nãy, đệ tử đấu với Phan tiểu vương gia và phu nhân. Sư phụ nhắc đệ tử "Chí bất đắc hữu vô" đệ tử "không tâm" thì kình lực cũng không. Hóa giải hết kình lực của Phan phu nhân, nên phu nhân mới bị thua. Rồi sư phụ nhắc "Nhi hưng đại bi tâm" trong cái "không tâm" của nhà Phật, lòng đại bi đối với chúng sanh phải rộng như biển. Thì trong cái không lại hiện cái có đúng như kinh Bát Nhã nói "Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc". Đệ tử áp dụng vào chuyển chân khí, thắng được Phan tiểu vương gia và phu nhân. Đó là chẳng qua đệ tử "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính của mình mà thấy Phật tính". Có phải thế không?

          Tăng Giả Nan Đà nhìn Trần Năng:

          – Hùng phu nhân tuy nghe ít, mà giác ngộ nhiều. Niết bàn đối với phu nhân không xa. Bây giờ bần tăng trở lại với Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là năm thứ nó che mất tính giác ngộ của chúng sinh, khiến chúng sinh bị giam trong kiếp luân hồi. Ngũ uẩn là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tại sao bần tăng lại đen? Tại sao Hàn thái hậu với công chúa Vĩnh Hòa trắng? Tại sao Hùng phu nhân với cô nương da lại hồng? Đó là những cái hình thể của chúng ta khác nhau.

          Hàn Tú Anh lên tiếng:

          – Giữa chúng tôi với công chúa tuy da trắng giống nhau, thế mà chúng tôi vào trong lăng này, mỗi người có một tâm khác nhau. Cái đó gọi là gì? Xin đại Sư giảng cho.

          Tăng Giả Nan Đà nhìn Thái Hậu với vẻ thương xót:

          – Cái đó gọi là Vedana, dịch sang tiếng Hán là Thọ. Đối với cảnh lăng này, Thái hậu tới nay tế lăng, nhớ đến Tiên đế khi xưa giả làm văn nhân đến gặp thái hậu. Rồi hiển hiện lên cảnh sống hạnh phúc ở Đào gia. Rồi cảnh Thái hậu bị đem vào rừng giết, lưu lạc xuống Quế Lâm, xa hai Thế tử, xa tiên đế. Còn Công chúa tới đây tế lăng, quì xuống khóc, nhớ lại ông chú mình xưa là Trường Sa vương, bị giết. Cảm thương sự nghiệp nhà Đại Hán, nhớ đến Cảnh Thủy Hoàn Đế, nhớ đến Thái phu nhân, thì lòng vừa lo, vừa hồi hộp, vừa hy vọng. Những cảm quan khác nhau như vậy gọi là Thọ. Còn trong lăng nay, chúng ta nhận ra hình thể của Khúc Giang Ngũ Hiệp, Tượng quận Tâm Anh, người người khác nhau cái đó gọi là Sanjina, dịch sang tiếng Hán là Tưởng.

          Dưới ánh bình minh, tiếng Tăng Giả Nan Đà nói sang sảng như tiếng chuông, khiến mọi người bị lôi kéo theo, không còn biết cảnh vật xung quanh nữa.

          Ngài tiếp:

          – Nhìn cảnh lăng này, thì Hùng Phu nhân nghĩ cứu xong Hàn thái hậu, cất quân về chiếm lại Lĩnh Nam. Phan tiểu vương muốn bắt Hàn thái hậu. Công chúa giận Xích Mi đã giết Cảnh thủy hoàng đế. Tất cả những cái đó gọi là Samskaras dịch sang tiếng Hán là Hành. Còn như trong lăng mộ nay, Trần Nhất Hiệp phân biệt được nội công, võ công của Hùng phu nhân có những dị biệt, đó là Vijana tức là Thức. Vậy Ngũ uẩn là cái gì? Nó chính là con người, mỗi con người có Ngũ uẩn hợp thành. Muốn giác ngộ, phải bỏ Ngũ uẩn trước. Trong kinh Bát Nhã, bần tăng đọc lên ban nãy có câu rằng "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không". Ở đây cộng chung có ba mươi mốt người mà chỉ Hùng phu nhân giác ngộ, hiểu được, áp dụng vào nội công, thắng Phan tiểu vương và phu nhân.

          Hàn Bạch đưa tay đếm số người rồi nói:

          – Đại hòa thượng lầm rồi, chỉ có hai mươi bốn người, kể cả ngài là hai mươi lăm thôi, không tới ba mươi mốt.

          Tăng Giả Nan Đà cười:

          – Tới 30, với bần tăng là 31.

          Trần Nhị Gia đưa tay đếm:

          – Nhóm của Công chúa 9 người, nhóm Phan Anh 2 người, nhóm của tại hạ 5 người nữa, cộng lại là 24.

          Tăng Giả Nan Đà đưa tay về phía phải, một luồng kình phong nhu hòa thổi vào bụi cây có Trưng Nhị, Sa Giang núp. Hai người biết bị bại lộ, vội đứng dậy. Trưng Nhị bước đến trước mặt Tăng Giả Nan Đà chắp tay:

          – A Di Đà Phật! Đệ tử ẩn thân ở nay, được nghe lời giảng cao siêu của Đại Sư, thực muôn vàn cảm tạ.

          Nàng hướng vào mọi người:

          – Trưng Nhị, người đất Lĩnh Nam xin tham kiến Khúc Giang Ngũ Hiệp và Tượng Quận Tam Anh.

          Hồ Đề đi một vòng giới thiệu.

          Trần Nhất Gia hỏi:

          – Vậy mới là 26 người. Còn năm người nữa ở đâu, xin Đại Sư mời họ ra tương kiến, không biết có được không?

          Tăng Giả Nan Đà lắc đầu:

          – Không nên. Trong năm người nay, hai người nội công cao thâm không lường. Một người già, một người trẻ. Lòng dạ từ bi. Ba người nữa thuộc loại siêu nhân. Họ đến đây trước cả bần tăng. Họ không muốn hiển lộ thân thế thì thôi.

          Hồ Đề huýt sáo gọi Thần ưng, ra lệnh cho chúng tìm 5 người Tăng Giả Nan Đà nói đến. Tần ưng bay lên cao, lượn một vòng, rồi đâm bổ xuống phía chân đồi. Chúng bay lên kêu ba tiếng.

          Hồ Đề nói:

          – Năm người thấy bại lộ, đã xuống đồi. Họ là người nhà, Thần ưng quen mặt, nên không tấn công. Thôi bỏ qua truyện nầy.

          Trần Nhất Gia hỏi Trưng Nhị:

          – Trưng cô nương, chẳng hay Đặng Thi Sách và phu nhân có được mạnh khỏe không? Cách nay mấy năm, tôi đã được gặp Đặng đại ca, bàn truyện phục hồi Lĩnh nam đến hai đêm hai ngày. Đặng đại ca hùng tâm, đại lược, khiến anh hùng bốn phương đều qui phục.

          Trưng Nhị tường thuật tất cả những biến chuyển vừa qua cho Trần Nhất Gia nghe. Nàng kết luận:

          – Trần Kim Bằng tiên sinh là bác của các vị. Vì giữ trong người giữ di chiếu phục quốc của An Dương Vương. Người phải cải tên Nghiêm Bằng. Võ công Khúc giang, người dấu không dạy cho con. Trần Tự Sơn chỉ biết sự thực khi thân phụ qua đời, truyền di vật cho mà thôi.

          Năm anh em Khúc Giang Ngũ hùng nghe truyện, nước mắt chan hòa. Trần tứ Gia thở dài:

          – Bá phụ làm việc quá kín đáo. Hồi người bỏ đi. Chúng tôi tìm khắp nơi mà không thấy. Ai ngờ người cải tên họ, làm quan với Trường Sa Vương. Bấy lâu nay, chúng tôi hằng chống Lĩnh Nam Vương. Có ngờ đâu, ngài lại là anh họ mình.

          Trưng Nhị nói với Hàn Tú Anh:

          – Bá mẫu, chúng tôi đối với Nghiêm Đại ca như tình ruột thịt. Chúng tôi đến đây cứu bá mẫu. Xin bá mẫu đừng sợ hãi.

          Hàn Tú Anh cất tiếng ôn nhu hỏi:

          – Nghiêm Sơn mang quân đánh Thục, đã xong chưa?

          Trần Năng đáp:

          – Nghiêm vương Quang Vũ bắt giam. Không chừng giờ này bị giết rồi cũng nên. Sở dĩ Vương bị hại do Mã thái hậu khích Quang Vũ. Cháu đề nghị bá mẫu cần xuất hiện. Trước là mẫu tử cốt nhục trùng trùng. Sau là hóa giải "nghiệp chướng" giữa Kiến vũ hoàng đế với Trần Đại ca. Có như vậy mới tránh được một trận giặc kinh hồn động phách giữa Lĩnh Nam với Trung Nguyên.

          Tăng Giả Nan Đà nói:

          – Trưng thí chủ nói đúng. Thái hậu ơi! Chiến tranh, biết bao nhiêu người chết. Biết bao nhiêu người tan nhà nát cửa. Thái hậu cần về Lạc Dương gấp. Nếu chậm e không kịp.


          #5
            NuHiepDeThuong 29.12.2004 07:49:50 (permalink)

            Truyện đã đưa vào thư quán đến Hồi 27.

            Xin chân thành cảm ơn CDDLT đã góp sức.

            Chúc vui.
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9