Anh hùng Tiêu Sơn
CDDLT 22.12.2004 18:20:03 (permalink)
ANH HÙNG TIÊU SƠN

Lịch-sử tiểu thuyết

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

3 quyển - 30 hồi -1120 trang

Thư viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ
(www.thuvienvietnam.com - www.tvvn.org)
độc quyền đưa lên Internet


ANH HÙNG TIÊU SƠN
Lịch sử tiểu thuyết
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
Thư viện ViệtNam tại California Hoa-kỳ tái bản
Tác giả giữ bản quyền.
Copyright @ Trần Đại-Sỹ
All right reserved.

Chú thích của Thư Viện

Hướng dẫn độc giả đọc các tác phẩm của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
Các bộ lịch sử tiểu thuyết của Yên-tử cư sĩ được chia ra làm năm thời đại:

1. Thời đại Lĩnh-Nam (39-43 sau Tây-lịch)
Thuật cuộc khởi nghĩa của vua Trưng cùng 162 anh hùng, lập thành triều đại Lĩnh-Nam. Thời đại này chia làm ba giai đoạn.

Giai đoạn 1. Anh-hùng Lĩnh-Nam
- Về phương diện sử
Hình thành tinh thần, tức chủ đạo của người Việt sau một thời gian dài bị Bắc thuộc, hai bà Trưng cùng các anh hùng chuẩn bị cuộc khởi nghĩa, 4 quyển, mang tên Anh-hùng Lĩnh-Nam. Gồm 40 hồi, mỗi quyển 10 hồi. Ôn lại tích xưa: Thuật lại sự tích thánh Gióng. Cuộc chiến giữa vua An-Dương và Triệu Đà, tích nẫy nỏ thần. Sự tích thánh Tản, thánh Chèm
- Về phương diện văn hoá
Cách làm ám cá, luộc gà. Sự nghiệp âm nhạc của Trương Chi. Cách chữa bệnh suyễn, cảm, cúm bằng dược học.

Giai đoạn 2. Động-đình hồ ngoại sử
- Về phương diện sử
Nối tiếp giai đoạn 1, Anh-hùng Lĩnh-Nam có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng chủ chiến, muốn khởi nghĩa quét giặc Hán khỏi đất nước gồm hai bà Trưng và ông Đặng Thi Sách. Một khuynh hương muốn hòa giải, hợp tác với Hán, gồm Trần Tự Sơn, Đào Kỳ, Hoàng Thiều Hoa, giúp Hán đánh Thục, rồi xin được trả độc lập. Khuynh hướng chủ hòa thắng thế. Anh-hùng Lĩnh-Nam kéo quân giúp Hán diệt Thục. Thục sắp bị diệt thì Hán trở mặt bắt giam thủ lĩnh người Việt. Anh-hùng Lĩnh-Nam bèn hợp tác với Thục, đánh chiếm Trung-quốc, chia ba thiên hạ thành thế chân vạc Hán, Thục, Lĩnh-Nam. Lãnh thổ Lĩnh-Nam Bắc tới hồ Động-đình. Giai đoạn này gồm 3 quyển, 30 hồi từ hồi 41 tới hồi 70, mang tên Động-đình hồ ngoại sử.
- Về phương diện văn hoá
Nghệ thuật làm chả cá, nghệ thuật làm thuốc Lào.

Giai đoạn 3. Cẩm-khê di hận

- Về phương diện sử
Anh-hùng Lĩnh-Nam khởi nghĩa thành công, tôn Trưng Trắc lên làm vua. Vua Trưng cùng chư vị anh hùng kiến tạo thành triều đại Lĩnh-Nam. Triều đình Đông Hán Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí thống lĩnh 14 đại tướng, đem quân nghiêng nước quyết diệt Lĩnh-Nam. Cuộc ra quân từ tháng 7 năm 39 sau Tây-lịch. Cuộc kháng chiến vĩ đại kéo dài đến tháng 2 năm 43. Tổng cộng 43 tháng. Cuối cùng vì dân Lĩnh-Nam ít, bị Hán dùng số đông đè bẹp, vua Trưng bị nội phản, tuẫn quốc tại Cẩm-khê. Giai đoạn này gồm 4 quyển, 40 hồi từ hồi 61 tới hồi 100, mang tên Cẩm-khê di hận.
- Về phương diện văn hoá
Rất phong phú: người Việt có văn tự là chữ Khoa-đẩu. Biết đúc trống đồng. Biết làm lịch không khác với lịch hiện đại (2001) làm bao. Triều đình soạn luật, soạn các sách sử.

Lời khuyên của viện Pháp-Á:

Quý độc giả nên đọc theo thứ tự:
Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận. Có như vậy mới thấu hiểu hết chi tiết về thời đại này.

2.Thời đại Tiêu-sơn (1010-1225)

Thuật giai đoạn thịnh trị bậc nhất của tộc Việt. Tiêu-sơn là tên ngọn núi nhỏ, nơi kết phát ngôi mộ của tổ tiên họ Lý, do đó Lý Công-Uẩn được lên ngôi vua. Tiêu-sơn cũng là tên ngôi chùa mà thủa thơ ấu, vua Lý Thái-tổ đã tu học. Vì vậy cổ văn học còn gọi thời gian triều Lý cai trị là thời đại Tiêu-sơn. Thời đại Tiêu-sơn là thời đại thịnh trị của tộc Việt: Nam bình Chiêm mở mang bờ cõi. Bắc đánh Tống.
Thời đại này chia làm 5 giai đoạn chính:

Giai đoạn 1. Anh hùng Tiêu-sơn

- Về phương diện sử
Thuật, bằng cách nào mà các Thiền-sư đã giáo huấn, rồi đưa một đệ tử tên Lý Công-Uẩn lên làm vua, tức vua Lý Thái-tổ. Hào kiệt hồi đó làm cách nào để có thể giảng hòa những tranh chấp quyền lực trong nước. Những người này là Anh-hùng Tiêu-sơn. Mặc dù phía Bắc, Tống luôn tìm cách tạo ra nhửng mâu thuẫn trong nội bộ Đại-Việt. Giai đoạn này gồm 3 quyển, 30 hồi, từ hồi 1 đến hồi 30, mang tên Anh-hùng Tiêu-sơn. Anh-hùng Tiêu-sơn thiết lập kế hoạch đòi lại lãnh thổ tộc Việt cũ lên tới hồ Động-đình. Quân Việt vượt biên đánh Tống lần thứ nhất, nhưng có tính cách cục bộ. Đánh Chiêm lần thứ nhất (1020). Mượn lời các nhân vật, tác giả thuật lại cuộc khởi binh của bà Triệu, của Bố-cái đại vương.
- Về phương diện văn hoá
Lịch sử Thiền-tông Đại-Việt. Biện biệt sự khác nhau của Thiền-Hoa, ThiềnViệt. Thuật xuất hồn. Hành trạng các Thiền-sư đắc pháp thành Bồ-tát yêu nước chủ trương đem đạo pháp giúp dân tộc như La Quý-An, Vô-Ngại, Bố-Đại, Sùng-Phạm, Vạn-Hạnh, Minh-Không. Giải thích về Sấm ký. Giải thích thuật đoán giải mộng. Phương cách tế thời Lý. Thập đại danh hoa, thập đại danh hồng. Thuật nấu bún riêu. Phương thuốc kịch độc dùng luyện Chu-sa ngũ độc chưởng.

Giai đoạn 2. Thuận-thiên di sử.
- Về phương diện sử
Nối tiếp giai đoạn 1. Lý Công-Uẩn lên làm vua lấy hiệu là Thuận-thiên. Thuận-thiên hoàng đế (sau khi băng được tôn là Thái-tổ, sử gọi là vua Lý Thái-tổ). Bộ thứ nhì của thời đại Tiêu-sơn này mang tên Thuận-thiên di sử, gồm 3 quyển, 30 hồi, từ hồi thứ 31 đến hồi thứ 60. Các Anh-hùng Tiêu-sơn giúp Thuận-thiên hoàng đế chống với cuộc chiến tranh lạnh của Tống, tiêu diệt một tôn giáo ngoại nhập, đã gây ra những cuộc chém giết khủng khiếp, nhất là mưu dâng nước cho Tống. Quân Việt vượt biên đánh Tống lần thứ nhì. Anh-hùng Tiêu-sơn liên kết với những nước thuộc tộc Việt cũ: Xiêm, Đại-lý, Lưỡng-quảng... trong mưu đồ đòi lại cố thổ.
- Về phương diện văn hoá
Ý nghĩa thập đại phong lan. Phong thủy Thăng-long. Cách làm chả cá. Giải thích Thập mục ngưu đồ trong Thiền-tông. Lịch sử Sex, Nga-sơn khoái lạc. Dùng phụ nữ trẻ làm Cây-thuốc để trường thọ. Hành trạng Đào Hà-Thanh, tổ sư Hát-nói hay Ca-trù hay hát Ả-đào.

Giai đoạn 3. Anh hùng Bắc-cương
- Về phương diện sử
Nối tiếp giai đoạn 2, gồm 4 quyển, 40 hồi từ hồi thứ 61 đến hồi thứ 100, mang tên Anh-hùng Bắc-cương. Bắt đầu đi vào giai đoạn hùng tráng. Nguyên giữa biên giới Hoa-Việt có 207 bộ tộc ít người, gồm các giống Thái, Nùng, Mèo, Lô-lô v.v. đó là di tích của chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng còn sót lại, sử gọi họ là Anh-hùng Bắc-cương. Vì theo chế độ cha truyền con nối, nên các động trưởng, trang trưởng có nhiều quyền hành. Các trang động này như hàng rào bảo vệ Đại-Việt. Khi quân Trung-quốc muốn đánh Đại-Việt, thì phải chiếm được các trang động này trước. Khi chiếm được các trang động này, thì dễ dàng chiếm vùng đồng bằng, đe dọa thủ đô Thăng-long. Vì triều Tống, khi thì đe dọa, khi thì lôi kéo, đem chức tước ra dụ dỗ các động trưởng, châu trưởng về với họ. Nhưng các trang động này cùng Anh-hùng Tiêu-sơn liên kết, lúc nào cũng trung thành với Đại-Việt. Cuộc chiến tranh lạnh diễn ra như thế nào?
- Về phương diện văn hoá
Phương pháp nấu rượu cúc, rượu tăm, rượu tắc kè.

Giai đoạn 4. Anh linh thần võ tộc Việt
- Về phương diện sử
Nối tiếp giai đoạn 3, gồm 4 quyển, 40 hồi từ hồi 101 đến hồi 140, mang tên Anh-linh thần võ tộc Việt. Đây là giai đoạn hùng tráng của tộc Việt. Tám vùng tộc Việt liên kết nhau đánh Tống lần thứ 3, giúp Nùng Trí Cao khởi binh, chiếm lại vùng Lưỡng-Quảng, lên tới Trường-sa, hồ Động-đình. Nùng Trí Cao xưng là Nhân-huệ hoàng đế, lập ra nước Đai-Nam.
- Về phương diện văn hoá
Tổ chức binh bị hồi đó khiến Tống phải học theo. Y học tiến tới chỗ cực thịnh.

Lời khuyên của viện Pháp-Á :

Quý độc giả nên đọc theo thứ tự từ hồi thứ 1 đến hồi thứ 140, tức đọc Anh-hùng Tiêu-sơn rồi tới Thuận-thiên di sử, Anh-hùng Bắc-cương. Cuối cùng là Anh-linh thần võ tộc Việt.

Giai đoạn 5: Nam-quốc sơn hà
- Về phương diện sử
Đây là giai đoạn cực kỳ hùng tráng của tộc Việt. Bấy giờ vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về thuế khóa, canh nông, binh bị của Vương An-Thạch. Trung-quốc trở thành giầu có súc tích. Vua Tống chuẩn bị đem quân đánh chiếm Đại-Việt, đặt thành quận, huyện. Bên Việt bấy giờ vua Lý Nhân-tông mới 9 tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Ngài thấy rằng ngồi yên đợi giặc sao bằng tìm giặc mà đánh. Ngài sai Trung-thành vương Lý Hoằng-Chân, Tín-nghĩa vương Lý Chiêu-Văn, cùng Lý Thường-Kiệt, Tôn Đản đem quân đánh phá các kho tàng của Tống ở Hoa-Nam và chiếm các châu Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch rồi rút về. Tống đem quân nghiênh nước sang trả thù, nhưng bị quân Việt đánh bại. Bộ này mang tên Nam-quốc sơn hà, dài 50 hồi, 5 quyển, 2260 trang. Bộ này có thể đọc độc lập, không cần phải đọc trước 4 bộ trên.
- Về phương diện văn hoá
Rất đa dạng.
Trong trận đánh Ung-châu các anh hùng đã biến chế nỏ thần, pháo thăng thiên thành Lôi-tiễn, giống như đại bác ngày nay. Đây là tiền thân của thần công. Sau này người Trung-quốc học được của người Việt, rồi chế thành pháo binh cho Mông-cổ. Mông-cổ đánh châu Âu mang Lôi-tiễn sang, sau này người Đức chế thành hỏa tiễn V1-V2, và ngày nay thành phi đạn, thành phi thuyền.
Cải cách về nông nghiệp, thuế khóa, y học rực rỡ vô cùng.

3. Thời đại Đông-A.
Trong Hán tự, chữ Đông với chữ A ghép lại thành chữ Trần. Vì vậy sử gọi thời gian Trần triều cai trị là thời kỳ Đông-A. Thời đại Đông-a chia làm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1. Anh hùng Đông-A dựng cờ bình Mông

Việc thành lập Triều Trần, đánh Mông-cổ lần thứ nhất, mang tên Anh-hùng Đông-A dựng cờ bình Mông. Gồm 5 quyển, 50 hồi, 2566 trang.

Giai đoạn 2. Anh hùng Đông-A gươm thiêng Hàm-tử
Đánh Mông-cổ lần thứ 2 và 3. Mang tên Anh-hùng Đông-A gươm thiêng Hàm-tử, gồm 5 quyển, khoảng 2500 trang, chưa xuất bản.



--------------------------------------------------------------------------------

Những Nguồn Tài Liệu Về Thời Đại Tiêu Sơn - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.




--------------------------------------------------------------------------------




Độc giả có thể đặt mua tại :
Đại-Nam Hoa-kỳ,
551 W.Ardon Ave,
Glendale, California 91203
U.S.A.
P.O. Box 4279
Glendale, California 91202
U.S.A.
Điện Thoại (818) 244 0135. Điện Thư Tín (818) 247 8459.


Nếu không tiện liên lạc thẳng với nhà xuất bản, xin gởi điện thư đến Thư Viện Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng chuyển cho nhà xuất bản hoặc giới thiệu quí vị đến tiệm sách Việt gần nơi quí vị đang ở.
Những nguồn tài liệu thời đại Tiêu-sơn
Độc giả đã đọc trên chín trăm trang phần đầu bộ Anh hùng Tiêu-sơn, mang tên Thầy tăng mở nước. Đối với các độc giả cao minh, bài viết dưới đây dường như vô ích. Tuy vậy tôi thấy cần phải viết, để độc giả trẻ tuổi, thời thơ ấu ở ngoài lãnh thổ Việt-nam hiểu rõ hơn những vấn đề trong sách. Ba vấn đề cần phải nói rõ hơn.
- Một là những nguồn tài liệu mà tôi dùng để sưu khảo, lấy làm chính yếu, rồi dựa vào đó, xây dựng tác phẩm.
- Hai là những người âm thầm cộng tác với tôi trong công cuộc biên tập này, dù những người đó không muốn nêu danh ra. Nhưng bổn phận tôi phải trình bầy.
- Ba là phân giải đôi điều với độc giả, chưa có duyên hiểu về những huyền bí trong Phật-giáo.
v Nguồn tài liệu
Trước hãy nói về nguồn tài liệu.
Chia làm hai rõ rệt.
I. Tài liệu Việt-nam.
Tài liệu này gồm ba nguồn. Thứ nhất, do tiền nhân tôi để lại. Hầu hết chép tay, hoặc in mộc bản. Nguồn thứ nhì do người Pháp sưu tầm, cất tại thư viện Paris. Nguồn thứ ba, người Trung-quốc cất giữ tại thư viện Thượng-hải, Bắc-kinh, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Hồ-nam.
Đã có vị, sau khi đọc bộ Anh hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận phát biểu rằng: Tác giả chẳng có tài cán gì. May nhờ di sản ông cha để lại cho một kho tàng mà thôi . Tuy lời phát biểu của vị này đưa ra trong lúc thiếu bình tĩnh. Nhưng nó lại rất chân thực. Tôi đã trả lời : Đúng thế. Bất cứ ai đầu thai làm cháu của ông tôi, cũng có thể được giáo huấn như tôi. Cũng thụ lĩnh di sản khổng lồ của tiền nhân tôi để lại. Không chừng viết còn hay hơn tôi nhiều. Rất tiếc tài tôi hèn, sức tôi mọn, không xứng đáng với hoài vọng của ộng cha, nên chỉ làm được có thế. Cho nên tôi luôn nhận mình là đứa con bất hiếu ».
Đấy là nói về thời đại Lĩnh-nam. Còn nói về thời đại Tiêu-sơn, tôi cần chỉ rõ :Bất cứ ai đầu thai làm con của thân phụ tôi cũng được bản sư Nam-hải Diệu-Quang, Thích Thanh-Yến, Thích Thanh-Lạp, Thích Chân-Thường phát tâm giảng về Thiền-sử Việt-Hoa kỹ càng. Không chừng ngộ tính cao, tường thuật hay hơn tôi gấp bội.
Vậy những tài liệu nào tôi căn cứ vào đó, viết bộ Anh hùng Tiêu-sơn? Dưới đây tôi xin liệt kê. Những bộ nào tôi kê trước, thì chính yếu hơn các bộ liệt kê sau.
1. Trước hết bộ Khâm-định Việt sử thông giám cương mục,do cụ Phan Thanh-Giản làm tổng tài. Nhóm sử thần bắt đầu biên tập niên hiệu Tự-Đức thứ 9 (Bính-thân, 1956). Hoàn thành niên hiệu Kiến-Phúc nguyên niên (Giáp-thân, 1884). Nội dung chia ra:
° Quyển đầu, chép các sắc chỉ, tấu chương, thể lệ , danh tính ban biên tập
° Tiền biên 5 quyển, chép từ Hồng-bàng đến Thập-nhị sứ quân.
° Chính biên, 47 quyển, chép từ Đinh Tiên-Hoàng đến Lê Mẫn-đế.
Trong đó bút tích ngoại tổ cùng phụ thân phát biểu ý kiến, phê chằng chịt khắp mọi trang. Năm 1973, sợ để trong nhà, có khi bị mất, bị cháy. Tôi tặng cho phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá. Đầu quyển nhất, tôi dành ra mười lắm trang đánh máy, chỉ rõ cho độc giả biềt nguồn gốc bản này của gia đình tôi được lưu truyền như thế nào. Sau đó mỗi khi cần dùng, tôi lại tới mượn về sưu khảo. Từ năm 1975, tôi dùng bản của thư viện Paris. Trong bản này không thấy có những bút phê bên cạnh.
2. Bộ thứ nhì là Đại-Việt sử ký. Hàn lâm viện học sĩ, kiêm Quốc-sử viện giám tu, Bảng-nhãn đại khoa niên hiệu Thiên-ứng chính bình thứ 16 đời vua Trần Thái-tông (Đinh-mùi, 1247) Lê Văn-Hưu soạn, chép từ Triệu Đà đến Lý Chiêu-Hoàng. Bộ này hoàn tất vào tháng 6 niên hiệu Thiệu-long nguyên niên (Nhâm-thân, 1272), đời vua Trần Nhân-tông.
Niên hiệu Diên-ninh thứ nhì đời Lê Nhân-tông (Ất-hợi, 1455). Vua sai Quốc-sử bác-sĩ Phan Phu-Tiên chép sử. Phan Phu-Tiên chép nối tiếp bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văn-Hưu, tức từ niên hiệu Kiến-trung nguyên niên đời Trần Thái-tông (Ất-dậu 1225) đến khi quân Minh bị đuổi về nước (1428). Vì vậy bộ sau này được mang tên là Đại-Việt sử ký tục biên.
Niên hiệu Hồng-đức thứ mười (Kỷ-hợi, 1479), vua Lê Thánh-tông sai sử thần Ngô Sĩ-Liên biên soạn một bộ chính sử. Ông Ngô Sĩ-Liên tu bổ bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văn-Hưu, Đại-Việt sử ký tục biên của Phan Phu-Tiên, rồi chép thêm. Vì vậy bộ sử mới mang tên Đại-Việt sử ký toàn thư, chia làm 15 quyển. Từ Hồng-bàng đến Ngô sứ quân 5 quyển, gọi là Ngoại-kỷ. Từ Đinh Tiên-Hoàng đến Lê Thái-tổ 10 quyển, gọi là Bản-kỷ.
Bản của tiền nhân tôi để lại là bản do triều Tây-sơn in vào tháng chạp năm Canh-thân (đầu 1801).
Xét nội dung hai bộ của Lê, Ngô, tôi thấy:
° Ngô Sĩ-Liên hầu như chép lại bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văn-Hưu từ Triệu Đà đến Lý Chiêu-Hoàng.
° Ngô Sĩ-Liên thêm vào bộ của Lê Văn-Hưu hai thiên Hồng-bàng ngoại kỷ và Thục kỷ. Để viết hai thiên này, Ngô đã mượn các truyện thần thoại trong Việt điện u linh tập của Lý Tế-Xuyên và Lĩnh-Nam trích quái của Trần Thế-Pháp.
Bản của tiền nhân tôi có rất nhiều người phê bên cạnh. Phần châu phê, ông tôi bảo đó là của Dực-Tông Anh-hoàng đế (Tự-Đức). Lời châu phê Hồng-bàng thị kỷ như sau « Ngưu quỷ, xà thần. Bất nghi tín dã ». Nghĩa là Ma trâu, đầu rắn, không nên tin.
° Ngô Sĩ-Liên chép tiếp tục từ Lý Chiêu-Hoàng đến Lê Thánh-tông.
Hồi 1962, trong khi tôi đi du học chưa về. Phụ thân tôi trao cho viện Khảo-cổ, rồi cụ phó bảng Nguyễn Sĩ-Giác mượn, để dịch thuật. Khi tôi trở về nước, thì không tìm lại được. Tôi đành cho chụp microfilm bản của thư viện Paris, và dùng bản này. Sau năm 1975, tôi lại dùng bản chính của thư viện Paris.
3. Bộ thứ ba mang tên Việt sử lược, của một tác giả vô danh. Căn cứ vào câu Kim vương Xương-phù nghĩa là đức vua hiện tại Xương-Phù. Tra trong sử, Xương-Phù là niên hiệu vua Trần Đế-Nghiện (Đinh-tỵ, 1377). Bộ này chép trong Tứ-khố toàn thư.
Tiền nhân tôi có bản này, nhưng khuyết mất mấy trang. Từ năm 1965, tôi dùng bản của Cẩm-chướng thư cục, do chính phủ Trung-hoa dân quốc tặng Đại-học văn khoa Sài-gòn. Sau năm 1975, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải.
4. Bộ thứ tư, tôi dùng đến là bộ Việt-điện u linh và Lĩnh-Nam chích quái. Việt-Điện u linh, Lý Tế-Xuyên thường được coi là tác giả đầu tiên. Lĩnh-Nam chích quái, Trần Thế-Pháp cũng được coi như là tác giả biên tập đầu tiên vào niên hiệu Khai-hựu nguyên niên đời vua Trần Minh-tông (Kỷ-tỵ 1329).
5. Thứ năm, phải kể tới bộ Thiền-uyển tập anh, của một tác giả dấu tên, biên soạn năm Vĩnh-thịnh thứ mười một đời vua Lê Dụ-tông (Ất-mùi, 1715). Bản của tiền nhân tôi để lại là bản in vào thời vua Tự-Đức. Nội dung chép 62 tiểu truyện các thiền sư, cùng ghi lại 67 bài thơ, 98 đoạn thơ của các ngài. Bản của bổn sư Nam-Hải Diệu-Quang là bản chép tay. Tuy có đôi chút khác biệt. Nhưng đại thể vẫn giống nhau.
6. Tài liệu thứ sáu, là các văn bia thời Lý còn lại. Đa số những văn bia này, do học giả Hoàng Xuân-Hãn phát hiện, sao, dịch, chú giải. Tổng số dùng tới có sáu văn bia:
- Bia chùa Báo-ân.
- Bia chùa Sùng-nghiêm diên khánh.
- Bia Thập Sùng-thiện-diên-linh.
- Bia chùa Hương-nghiêm.
- Bia chùa Linh-xứng.
- Bia đền Ngọ-xá.
7. Tài liệu thứ bẩy là những tập Ngọc-phả tại đền thờ anh hùng dân tộc, được chép, gửi về bộ Lễ triều Nguyễn xin phong thần. Tài liệu này, tiền nhân tôi khi làm việc tại Quốc-sử quán triều Nguyễn đã sưu tầm để lại. Thư viện trung ương Paris cũng có một số bản khác nhau. Tôi dùng đến 101 bản Ngọc-phả.
8. Tài liệu thứ tám mà tôi dùng là bộ Yên-tử di sự lục. Gồm ba mươi sáu quyển. Sách chép tay, bản sư Diệu-Quang dùng để dạy tôi từ khi qui y (Ất-dậu, 1945) cho đến ngày tôi phải xa người (Giáp-Ngọ, 19-8-1945). Năm đó, khi nghỉ hè (7-6-1954) tôi lên chùa ở nghe người giảng dậy. Ngày 20 tháng 7 được tin Việt-Nam chia đôi. Ngày 29 tháng bẩy phụ thân cho gọi tôi về để theo gia đình di cư vào Nam. Bổn sư sai các sư cô Diệu-Hoà, Diệu-Đức, Diệu-Tịnh, Diệu-Minh ngày đêm sao cho tôi một bản.
Nội dung bộ sách gồm 36 quyển. Trong đó:
° Quyển 1 : chép tâm-ấn truyền phả. Tức biểu đồ thầy truyền cho trò. Truyền pháp tại Ấn-độ khởi từ đức Thích-Ca Mâu-Ni cho ngài Ma-ha Ca-Diếp, tới ngài Bồ-Đề Đạt-Ma 28 đời. Truyền pháp tại Trung-quốc từ Bồ-Đề Đạt-Ma tới Tăng-Sán 3 đời. Tổ Tăng-Sán truyền cho ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi. Cộng bốn đời. Truyền pháp từ tổ Tỳ-Ni Đa-lưu-chi cho đến ngài Tiêu-Dao tại Đại-Việt trải 18 đời. Từ ngài Tiêu-Dao lập ra phái Yên-tử, truyền đến bản sư gồm 25 đời. tới tôi là đời thứ 26. Từ :
Thích-ca Mâu-Ni 1
Ấn-độ 28
Trung-quốc 3
Tiêu-sơn 18
Yên-tử 25
Cộng chung 75
° Quyển 2 đến quyển 10, chép hành trạng các tổ từ khi ngài Tỳ-Ni Đa-lưu-chi đến Đại-Việt, cho tới Vạn-Hạnh thiền sư (1018). Cộng 45 truyện.
° Quyển 11 đến quyển 20, chép hành trạng các tổ từ sau Vạn-Hạnh cho đến ngài Huyền-Quang. Cộng 54 truyện.
° Quyển 20 tới 36, chép hành trạng các tổ từ sau Tam-tổ tới ngài Nam-Hải Diệu-Quang. Cộng 72 truyện.
Tổng cộng 171 truyện.
Bộ sách do nhiều người chép. Thường sau khi bản sư viên tịch, đệ tử sẽ chép hành trạng lại cho đời sau biết. Vì vậy số tác giả có lẽ tới 30 vị. Khi du học trở về Việt-nam (1966), tôi có ý dịch sang Việt-ngữ. Song vì bận rộn sinh nhai, lần lữa mãi tới năm 1970 vẫn chưa dịch xong phần đầu. Cư-sĩ Chánh-Trí Mai Thọ-Truyền mượn về đọc. Ông trao cho ba chuyên viên phủ Quốc-vụ khanh đặc trách văn hoá dịch. Sau biến cố 1975, tôi không rõ bộ này lưu lạc đâu? Tôi ngờ rằng nó vẫn còn ở Sài-gòn. Tuy vậy, trong thời gian viết Anh-hùng Tiêu-sơn, Anh-hùng Đông-a (1968-1975) tôi đã dùng bộ này để thuật về các Bồ-tát đắc pháp.
II. Tài liệu Trung-quốc.
Tôi dùng rất nhiều. Chỉ đơn cử ra một vài bộ chính.
1. Tống-sử
Do Thừa tướng Thoát-Thoát và A-lỗ-Đồ làm tổng tài. Cùng với bẩy người biên tập. Gồm 496 quyển. Đây là một trong 24 bộ chính sử Trung-quốc. Tiền nhân dùng cổ bản dạy tôi học. Khi rời Bắc vào Nam, tôi không mang theo được. Cho đến nay, tôi cũng không biết bản đó là bản in năm nào? Ai in? In ở đâu?. Từ năm 1965, tôi dùng bản trong Tứ-bộ bị yếu của Trung-hoa dân quốc tặng đại học Văn-khoa Sài-gòn. Sau 1975, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải. Bộ này in chữ nhỏ, nên số trang chỉ bằng một phần ba số trang cổ bản mà tiền nhân dạy tôi. Tổng cộng có 14.238 trang. Những quyển quan trọng nhất là:
° Quyển 1-2-3, Thái-tổ bản kỷ. Trang 1 - 52.
° Quyển 4-5, Thái-tông bản kỷ. Trang 53 - 120.
° Quyển 6-7-8, Chân-tông bản kỷ. Trang 121 - 174.
° Quyển 9-10-11-12, Nhân-tông bản kỷ. Trang 175 - 252.
° Quyển 13, Anh-tông bản ký. Trang 253 - 262.
° Quyển 14-15-16 , Thần-tông bản kỷ. Trang 263 - 316.
° Quyển 290, Địch Thanh, Quách Quỳ liệt truyện. Trang 9.705 - 9.727.
° Quyển 318, Trương Phương-Bình liệt truyện. Trang 10.353 - 10.371.
° Quyển 320, Dư Tĩnh liệt truyện. Trang 10.397 - 10.413.
° Quyển 324, Phạm Trọng-Yêm liệt truyện. Trang 10.257 - 10.293.
° Quyển 327, Vương An-Thạch liệt truyện. Trang 10.541 - 10.560.
° Quyển 332, Lý Sư-Trung, Lục Sằn, Triệu Tiết liệt truyện. Trang 10.673 - 10.695.
° Quyển 334, Thẩm Khởi, Lưu Di, Hùng Bản, Tiêu Chú, Đào Bật liệt truyện. Trang 10.721 - 10.741.
° Quyển 336, Tư-mã Quang liệt truyện. Trang 10.757 - 10. 779
° Quyển 349, Yên Đạt, Diêu Tự liệt truyện. Trang 11.049 - 11.064
° Quyển 350, Vương Quân-Vạn, Hòa Mân, Lưu Trọng-Võ, Khúc Chẩn liệt truyện. Trang 11.067 - 11.090.
° Quyển 446, Tô Giám liệt truyện. Trang 13.149 - 13.172.
° Quyển 480, Ngô-Việt Tiền-thị thế-gia. Trang 13.897 - 13.917.
° Quyển 481, Nam-hán Lưu-thị thế-gia. Trang 13.919 - 13.951.
° Quyển 485, Ngoại quốc truyện ,Hạ-quốc thượng. Trang 13.991 - 14.006.
° Quyển 486, Ngoại quốc truyện, Hạ-quốc hạ. Trang 14.007 - 14.034.
° Quyển 488, Ngoại quốc truyện, Giao-chỉ, Đại-lý . Trang 14.057 - 14.076.
° Quyển 489, Ngoại quốc truyện, Chiêm-thành, Chân-lạp, Bồ-cam. Trang14.077 -
° Quyển 495, Man-di truyện, Quảng-nguyên châu. Trang 14.214 - 14.220.
2. Tư-trị thông giám cương mục của Tư-mã Quang chép theo lối biên niên. Bộ này gồm 294 quyển. Mục lục 30 quyển, khảo dị 30 quyển. Khởi từ Chiến-quốc, Ngũ-đại, trải 1362 năm. Hồi nhỏ tiền nhân chưa giảng cho tôi bộ này. Hồi 1963, nhân giúp cho người bạn Hòa-lan soạn luận án tiến sĩ văn chương Phương pháp chép sử của người Trung-quốc. Tôi mới để ra hơn tháng nghiên cứu. Bản tôi nghiên cứu của Cẩm-chương thư cục Thượng-hải. Năm 1975 về sau, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải.
3. Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào.
Chép theo lối biên niên. Khác với chính sử. Ở chính sử; các sử thần triều đại sau chép triều đại trước, nên có nhiều điểm không đúng sự thực. Lý Đào chép ngay sự kiện đang diễn ra.
Bộ Tục tư trị thông giám trường biên chép từ Tống Thái-tổ lên ngôi vua, cho đến lúc nhà Tống phải dời đô xuống Lâm-an, trải 166 năm (960-1126). Tương đương với bên Đại-Việt, niên hiệu Ngô Xương-Văn (Canh-thân, 960), đến niên hiệu Xương-phù Duệ-vũ thứ bẩy đời Lý Nhân-tông ( Bính-ngọ, 1126). Thời gian này bao gồm tất cả bộ Anh hùng Tiêu-sơn. Tổng cộng có 4.400 sự việc của 9 đời vua Tống. Sách chia làm 520 quyển.
Khi ông tôi qua đời, tôi tiếp nhận số sách của người để lại có bộ này. Bấy giờ tôi mới mười lăm tuổi, chưa đủ kiến thức khảo cứu, thành ra chỉ đọc qua, thấy đó là mộc bản, chữ lớn. Khi di cư vào Nam, tôi không mang theo được. Đây là mối ân hận đeo đẳng suốt đời tôi. Vì trong đó ông tôi phê chằng chịt khắp mọi trang.
Năm 1968, khởi sự viết lịch sử tiểu thuyết, tôi dùng bản của Trung-hoa dân quốc tặng đại học văn khoa. Từ sau năm 1975 tôi dùng bản của Trung-hoa thư cực Thượng-hải.
4. Ngoài ra tôi dùng rất nhiều sách khác, như:
° Đông-đô sự lược của Vương Xung.
° Lĩnh ngoại đai đáp của Chu Khứ-Phi.
5. Những năm 1976-1990, trong khi du hành sang Trung-quốc công tác y khoa cho nước Pháp, tôi sưu tầm được rất nhiều tài liệu chép trong điạ phương chí, mộ bia, của những vùng biên giới Hoa-Việt, mà trước đây thuộc Việt. Những tài liệu này tôi sao chụp bằng scaner mang về.
Tại thư viện Thượng-hải, Bắc-kinh, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu, Hồ-nam, tôi tìm được không biết bao nhiêu tài liệu liên hệ đến lịch sử Hoa-Việt giai đoạn 1010-1225 tức thời đại Tiêu-sơn


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:31:14 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 22.12.2004 18:21:58 (permalink)
    Hồi thứ nhất

    Kỷ tải dực Trưng-vương
    Kỷ tải dực Trưng-vương, Tô tặc bình dư long tướng ấn.
    Ngũ thôn chiêm thánh đức, Qui trang hóa hậu ngật thần từ.
    (Câu đối ở đền thờ Nguyễn Thành-Công).

    Nghĩa là:
    Bao phen phù vua Trưng, sau khi dẹp tan giặc Tô Định, đeo tướng ấn rỡ ràng.
    Năm thôn được nhờ đức lớn, đất Tân-qui hiển hóa, đền thờ cao đẹp linh thiêng.



    Mặt trời ngả bóng về Tây. Ánh nắng vàng úa đổ xuống những ngọn cau dài bên đường. Một đám trẻ con trần truồng, đang tắm ở bờ ao. Chúng chia thành hai toán, dùng tay té nước vào nhau. Có đứa vừa la hét, vừa té. Có đứa lặn xuống dùng tay vốc bùn ném. Chợt một đứa kêu lên:
    - Có người đến kìa. Ngừng lại. Dấu cò xuống dưới nước.
    Một chiếc xe ngựa đang trên con đường cái quan tiến tới. Đứa khác nói:
    - Lại khách đi lễ Bà-vương. Người ngồi trước là sư nữ chúng mày ạ. Người ngồi kế đó là con gái. Cô này mặc áo xanh. À cô ấy đánh xe ngựa. Lại có cả hai đứa trẻ gần bằng tuổi bọn mình nữa. Ồ một đứa con gái. Một đứa con trai.
    Đứa khác kêu lớn:
    - Mau dấu chim đi. Con gái nó nhìn thấy thì xấu hổ chết.
    Bọn bẩy đứa trẻ thụp xuống nước, chỉ còn thò lên cái đầu. Đoàn người đã đến gần. Vị sư nữ vẫy tay, chỉ vào đám trẻ nói với cô gái áo xanh:
    - Thanh-Mai! Con lại hỏi thăm bọn trẻ kia xem.
    Thiếu nữ áo xanh xuống xe, tiến lại gần bờ ao hỏi vọng xuống:
    - Các em ơi! Các em làm ơn cho chị hỏi thăm đường nào !
    Một đứa trẻ lên tiếng:
    - Thằng Đản. Mày lại trả lời đi.
    Đứa trẻ tên Đản bơi gần vào bờ ao ven đừơng. Song nó vẫn ngâm mình dưới nước, ngửa cổ lên, tay chỉ về phía Tây:
    - Chị có thấy trái núi vòng như tay ngai kia không. Ở giữa nhô lên một mỏm. Sau mỏm đó là đền thờ.
    Thanh-Mai đưa mắt nhìn vị sư nữ:
    - Sư phụ. Tại sao bọn trẻ này lại biết chúng ta đi lễ đệ Tam-thánh?
    Vị sư ni hỏi:
    - Cháu ngoan. Tại sao cháu biết chúng ta đi lễ đền Lệ-hải Bà- vương2. Chúng ta chưa hỏi mà !
    Đứa trẻ tên Đản thấy vị sư ni hỏi, vội kính cẩn khoanh tay đứng lên đáp. Nó quên mất mình đang cởi truồng:
    - Bạch sư bà. Sắp tới ngày tế Bà-vương. Từ sáng đến giờ có không biết bao nhiêu người hỏi thăm đường. Vì vậy khi đệ tử thấy khách lạ thì đoán là đi lễ đền Bà-vương.
    Đứa trẻ ngồi sau sư ni, thấy Đản trần truồng thì bưng mịệng cười.
    Một trẻ đứa dưới ao bốc bùn ném lên nói:
    - Cười cái gì? Hai đứa chúng mày ỷ có người lớn, thấy bạn tao để cu ra, cho rằng xấu xa chăng?
    Cục bùn bay vèo đến gữa mặt đứa con trai. Đợi cho cục bùn sắp tới nơi. Đứa con trai trầm người xuống tránh khỏi. Miệng chửi:
    - Đồ mất dạy!
    Đứa trẻ ném hụt tức qúa, bốc bùn lên nói:
    - Câu mất dạy tao trả lại mày.
    Cục bùn lại bay lên, song không trúng đứa trẻ lỡ miệng mà trúng thân cây bên đừơng. Bùn bắn tung tóe vào một chiếc xe ngựa vừa từ sau trờ tới. Đứa trẻ ngồi đánh xe, xổ ra một tràng âm thanh ộp ạp như ếch kêu.
    Một trong đứa trẻ dưới ao cười lớn:
    - Ê! Lãm! Mày cho nó ăn bùn. Nó là ếch hay sao ấy, nó kêu như con chão chuộc.
    Thanh-Mai quay lại bảo đứa bé đi cùng:
    - Tự-Mai, em mau xin lỗi đi. Người ta vì thủ lễ với sư phụ mà để lộ thân thể ra, đâu có gì xấu. Thế mà em lại cười, như vậy không xứng đáng đệ tử danh gia.
    Đứa trẻ lỡ miệng, tên Tự-Mai vội vàng đến bên bờ ao chắp tay hướng vào thằng Đản:
    - Thưa anh, tôi tên Trần Tự-Mai, vì không biết tự chế chỉ tâm thần, nhạo báng anh. Kính mong anh rộng lựơng khoan thứ cho.
    Đản chắp tay đáp lại:
    - Tôi không dám đâu.
    Nói xong cả bọn lên bờ, chui vào bụi cây mặc quần áo. Đản đến trước vị sư ni, kính cẩn chắp tay:
    - Đệ tử Tôn Đản, pháp danh Tiểu Nhẫn xin kính cẩn ra mắt sư thái. Đệ tử không dám thỉnh pháp danh sư thái.
    Vị sư ni thấy Tôn Đản, hành sự cẩn trọng, nói năng lễ phép, xưng hô đúng như một đệ tử nhà Phật, cũng chắp tay đáp lễ:
    - A-Di-Đà Phật! Thì ra cháu cũng là Phật tử đấy. Hèn chi tư cách khác thường. Bần ni pháp danh Tịnh-Huyền. Chẳng hay bổn sư của cháu là ai?
    Tôn Đản chưa kịp đáp thì bốp một tiếng, đứa trẻ đánh xe đã tát thằng Lãm một cái. Thằng Lãm bị ngã ngửa xuống đất.
    Thằng nhỏ đánh xe, đắc thắng cười:
    - Mày lém mùn vào tao. Tao chưa lính tội, thế mà mày còn ngạo tao là ếch nhái. Cho mày cái tát để mày chừa lến gìa.
    Đám trẻ bạn với thằng Lãm la hét ầm lên. Thì nhanh như chớp thằng nhỏ đánh xe đạp chân lên ngực thằng Lãm, quát lớn:
    - Tất cả lứng im. Đứa nào xông vào, tao lạp vỡ ngực thằng lày liền.
    Tự-Mai vọt người lên cao. Chân phải đá vào ngực, chân trái đá vào mặt thằng bé đánh xe. Thằng bé đánh xe vội lùi lại. Nó quát lên một tiếng lớn, trầm người xuống, hai tay bắt chân Tự-Mai. Tự-Mai co chân lại, uốn cong người đáp xuống cạnh thằng Lãm. Thằng bé đánh xe chỉ mặt Tự-Mai:
    - Mày thực không biết điều. Tao với mày bị ló ném mùn. Tao lánh ló trả thù cho mày. Tại sao mày lại mênh ló?
    Tự-Mai chắp tay từ tạ:
    - Xin lỗi. Anh Lãm ném bùn chúng mình chẳng qua vui đùa với nhau, đâu phải trọng tội mà anh đánh anh ấy quá đau như vậy?
    Thằng Lãm đã đứng dậy. Nó ngoạc mồm ra chửi:
    - Con bà thằng chó Ngô cắn trộm. Có giỏi chơi lại keo khác?
    Thằng bé đánh xe không trả lời. Nó vung tay phóng quyền vào mặt Lãm. Nó xuất thủ nhanh qúa, Lãm bị ngã bật về sau. Cả bọn đi trên chiếc xe ngựa cùng cười ồ lên. Lão râu dài ngồi sau xe lên tiếng:
    - Thấy thằng Việt cẩu thách đấu với Quách Quì. Ta cứ tưởng nó có bản lĩnh. Nào ngờ chỉ là cái bị thịt.
    Tôn Đản đến trước xe hỏi lão râu dài:
    - Thưa ông, ông là người Hán. Chúng tôi gọi ông là Hán. Hà cớ gì ông gọi ngừơi Việt chúng tôi là chó?
    Quách Quỳ cười:
    - Tụi bay là chó thì sư phụ tao gọi là chó. Không lẽ bọn bay là chó mà lão nhân gia lại gọi
    là người sao?
    Nói dứt câu đó, Quách Quỳ cười khoái trá. Nụ cười chưa dứt thì bốp, bốp. Nó đã bị Tôn Đản tát hai cái. Quách Quì quát lên một tiếng phát quyền phản công. Quyền pháp của Quách Qùi rất vững, tỏ ra được huấn luyện cẩn thận. Còn Tôn Đản dường như chỉ có mấy chiêu. Song chiêu nào đánh ra, y như Quách Quì bị trúng đòn.
    Đấu đựơc trên 20 chiêu. Bỗng Quách Quì bị tát hai cái thực mạnh. Mặt nó sưng vù lên.
    Lão già râu dài nói với trung niên nam tử ngồi cạnh:
    - Thằng bé là ai? Có lẽ nó người vùng này thì phải. Tại sao nó lại biết xử dụng quyền pháp phái Tản-viên? Phái Tản-viên tuy thế lực lớn thực, song đâu có thể đến Cửu-chân?
    Tuy lão nói nhỏ, nhưng Thanh-Mai, Tự-Mai đều nghe rõ. Còn vị sư ni thì lơ đãng nhắm mắt lần tràng hạt.
    Thình lình Tôn Đản quát lên tiếng lớn, tay nó đánh ra một quyền rất quái dị. Quách Quì bị trúng quyền giữa ngực đến binh một tiếng. Nó loạng choạng lui lại. Trung niên nam tử từ trên xe phóng người xuống, vung tay trái nắm tóc Tôn Đản nhấc bổng lên. Tay phải tát nó một cái thực mạnh. Tôn Đản co hai chân lại, uốn cong người như con tôm, đá vào mặt đối thủ. Trung niên nam tử vội liệng nó vào thân cây gần đấy. Mọi người kêu thét lên, nhắm mắt lại, không dám nhìn cảnh nó bị tan xương nát thịt.
    Chỉ thấy bóng xanh thấp thoáng. Thanh-Mai đã di chuyển thân mình, nàng chụp áo Tôn Đản, đặt nó xuống đất. Trung niên nam tử bật thành tiếng kêu:
    - Đông-a thân pháp! Cô nương. Chẳng hay cô nương với phái Đông-a có quan hệ gì không? Tại hạ Triệu Huy không dám thỉnh phương danh cô nương.
    Thanh-Mai mỉm cười:
    - Không dám. Tiểu nữ họ Trần, tên Thanh-Mai. Đa tạ Triệu đại hiệp đã nhẹ tay với thiếu niên này. Tiểu nữ mắt kém, không biết cao danh quý tính của các vị đây thế nào?
    Quách Quỳ chỉ lão già râu dài:
    - Vị này là sư phụ của tại hạ. Họ Triệu tên Anh.
    Nó chỉ vào một trung niên nam tử béo mập:
    - Vị này là nhị sư thúc. Họ Ngô tên Tích.
    Nó chỉ vào Triệu Huy:
    - Còn vị này là tam sư thúc của tại hạ.
    Thanh-Mai lớn tiếng:
    - Thì ra các vị đây là cao đồ phái Thiếu-lâm, bên Hà-nam, Trung- quốc, có biệt danh Tung-sơn tam kiệt. Thực hân hạnh.
    Triệu Huy cười:
    - Vừa rồi cô nương xử dụng thân pháp phái Đông-a. Còn Tự-Mai xử dụng võ công phái Đông-a. Không biết cô nương với đại hiệp Trần Tự-An là chỗ thế nào?
    Thanh-Mai lễ phép:
    - Không dám! Tiểu nữ là con gái của người.
    Mặt Triệu Huy tái như gà cắt tiết. Y nhắc bổng Quách Quì, vọt mình lên xe, hướng Thanh-Mai xá một xá:
    - Hậu hội hữu kỳ. Tại hạ cam thất lễ.
    Rồi y ra roi cho ngựa lên đường. Tôn Đản đến trước Thanh-Mai kính cẩn chắp tay:
    - Đa tạ cô nương cứu mạng. Không biết lệnh tôn là người thế nào, mà bọn chệêt nghe đến tên, phải cụp đuôi bỏ chạy.
    Đứa con gái ngồi cạnh Thanh-Mai đáp:
    - Bố tôi thích giết bọn ác bá. Mấy thằng ác bá này nghe đến tên bố tôi, thì hồn phách bay phơi phới.
    Tự-Mai giới thiệu:
    - Đây là em út tôi tên Thanh-Nguyên.
    Tôn Đản cùng đám trẻ nhìn nhau như hội ý một điều gì. Một đứa chạy ra sau Thanh-Mai, Tự-Mai quan sát. Thanh-Mai hỏi:
    - Em thấy chị có gì kỳ lạ không mà ngắm vậy?
    Đứa trẻ mập tròn nói:
    - Cả vùng này ai cũng sợ Hồng-hương thiếu niên hết. Thế nhưng bọn Hồng-hương đều truyền khẩu rằng:
    Thiên-lôi không kinh,
    Dám khinh quỷ sứ.
    Không dám sinh sự,
    Trần-Tự Đông-a,
    Nhật-Hồ Hồng-thiết.
    Mặt nó nghiêm trọng:
    - Bọn Hồng-hương thiếu niên giải thích rằng: chúng không sợ Thiên-lôi, cũng chẳng ngán quỷ sứ. Nhưng chúng không dám sinh sự với những người có tên Trần Tự thuộc phái Đông-a cùng bọn đệ tử của Nhật-Hồ lão nhân của Hồng-thiết giáo. Bọn chúng còn nói, chọc bọn Nhật-Hồ thì bị chết bản thân. Còn đụng vào phái Đông-a với Trần Tự thì bị giết cả nhà, cùng chó, mèo, gà vịt. Em có hỏi chúng ông Trần Tự là người thế nào? Chúng bảo ông là người sừng sỏ nhất nước Việt mình.
    Nó cười:
    - Nghe chị nói là con ông Trần Tự-An, anh kia là em chị tên Trần Tự-Mai. Cho nên bọn em nhìn đầu chị xem có sừng có sỏ không?
    Thanh-Nguyên cười:
    - Anh tôi thì không có sừng đâu. Còn chị tôi có sừng dài lắm, đến hai gang tay cơ. Nhưng năm trước bị người ta vặn mất ở Trường-yên rồi.
    Nói xong nó với Tự-Mai cười khúc khích.
    Thanh-Mai muốn biết người ta đồn đại về gia đình mình. Nàng hỏi tiếp:
    - Hồng-hương thiếu niên là gì vậy?
    Tôn Đản đáp:
    - Họ là Phật-tử thuộc chùa Sơn-tĩnh, đệ tử của Nguyên-Hạnh thiền sư. Mỗi làng, mỗi xã đều có một đội. Họ giúp quan quân canh phòng trộm cướp, kiểm soát quân gian. Dù trộm cướp khét tiếng họ cũng không sợ. Họ đặt ra bài hát trên, tỏ rằng dù Thiên-lôi, quỷ sứ họ cũng dám bắt. Nhưng họ không dại gì đụng vào phái Đông-a với Hồng-thiết giáo.
    Vị sư thái hỏi:
    - Hồng-thiết giáo vùng này mạnh lắm sao?
    Đứa trẻ mập tròn đáp:
    - Nguyên hồi Thập-nhị sứ quân, vùng này do hai đại tướng khét tiếng trấn đóng. Một người tên Nguyễn Chí, một người tên Lê Ba. Họ là đệ tử của Nhật-Hồ lão nhân, giáo chủ Hồng-thiết giáo. Hai ông này giết người không gớm tay. Khi vua Đinh dẹp loạn sứ quân, hai ông đó biến mất. Gần đây đức hoàng đế ban chỉ ân xá thiên hạ, Hồng-thiết giáo cũng được ân xá. Giáo chúng dần dần tụ tập lại. Ai đụng chạm với họ thì họ giết chết liền.
    Thanh-Mai vuốt tóc Tôn Đản:
    - Em họ Tôn phải không? Em đừng nghe họ đồn nhảm. Thân phụ chị chỉ giết những tên ác bá, chứ không hại bất cứ người lương thiện nào? Em học võ với ai vậy? Nhà em ở đâu?
    Tôn Đản lễ phép đáp:
    - Em học võ với bố em. Em không có nhà. Bố em làm ông từ giữ đền thờ đức ông.
    Thanh-Mai đưa mắt hội ý với Tự-Mai rồi bảo Tôn Đản:
    - Em dẫn chị đến đền thờ đức ông. Chị muốn lễ đức Ông.
    Đản kính cẩn:
    - Kính mời sư thái và các vị .
    Thằng Lãm hô lên một tiếng:
    - Đi!
    Bấy giờ đã sang tháng hai, nhưng khí hậu vẫn còn hơi lạnh. Hoa soan trên cành nở tỏa mùi hương thơm ngát. Thôn trang, chỗ nào hoa cũng rực rỡ. Thanh-Mai mơ màng ngắm những bông hoa ngát hương thơm. Bất giác nàng buông tiếng thở dài não nuột. Sư-thái Tịnh-Huyền đi cạnh, khẽ đập vào vai nàng:
    - Những gì con được hưởng hôm nay, là tập hợp muôn vàn kiếp trước lại. Những gì con phải chịu kiếp này, là những nghiệp quả từ bao đời đến. Khi nghiệp quả đến, thì phải nhẫn nại chịu đựng. Chứ nghiệp quả đến, mà chống lại, thì sao tiêu trừ được!
    Thanh-Mai nói sẽ:
    - Đa tạ sư phụ chỉ dạy. Nhưng đệ tử tu đạo chưa lâu, e khó thực hiện được.
    Tuy sư phụ đã khuyên, đã giảng giáo lý cao siêu của Phật pháp, nàng đang đi cạnh sư phụ, mà những hình ảnh cũ lại hiện ra. Thanh-Mai xuất thân là con gái yêu của đại hào kiệt Trần Tự-An, chưởng môn phái Đông-a. Phái Đông-a người nhiều, thế lực mạnh. Ông lại là một trong Lĩnh-nam ngũ long, võ công, đạo đức nức tiếng thiên hạ. Năm mười lăm tuổi, thân mẫu nàng qua đời, để lại bốn con thơ. Trên nàng còn một người anh. Tự-Mai là đứa em kế nàng. Thanh-Nguyên là em út. Nàng được bố cưng chiều rất mực. Đại hiệp Trần Tự-An dồn hết tâm tư dạy con về võ học, về lịch sử dân tộc. Cũng như các thiếu nữ khác, tới tuổi mười lăm, mừơi sáu, nàng dệt không biết bao nhiêu mộng mơ. Nàng mơ màng có một tình quân như xưa kia công-chúa Gia-Hưng có người tình là Trấn-nam vương Vương Phúc. Sau đó thành vợ chồng. Hai người đeo kiếm thống lĩnh hạm đội Lĩnh-nam đuổi quân Hán trên biển Nam-hải. Đôi khi nàng lại mơ mộng có người yêu ngang tàng, mà đầy lãng mạn như Đào Hiển-Hiệu.
    Năm trước đây, trong dịp Tết, nàng cùng với Tự-Mai xin phép bố cho thăm núi Dục-thúy, núi Hoa-lư cùng kinh đô Trường-yên thời Đinh, thời Lê. Khi qua một vườn trăm hoa đua nở. Nàng dừng ngựa lại, cùng em vào dạo chơi. Thuận tay nàng hái không biết bao nhiêu hoa kết thành vòng, đội lên đầu em, cùng cài lên mái tóc. Nàng còn bẻ một cành đào đầy hoa mang theo. Giữa lúc chị em đang vui đùa thì một thiếu niên xuất hiện, trêu ghẹo. Đối với Thanh-Mai, nàng đã được đạy rằng làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta theo. Nàng chỉ mỉm cười. Không ngờ thanh niên tưởng nàng thuận tình, tỏ ý bờm xơm. Y bị Tự-Mai đánh hai cái tát. Anh ta bỏ đi, một lát, dẫn đến ba người lính, định bắt chị em Thanh-Mai. Thanh-Mai cùng em không chịu để lính bắt. Hai người chống lại. Tuy võ công cao cường, nhưng một là hai chị em dùng tay không đấu với bốn người dùng vũ khí. Hai là chị em nàng không muốn đả thương quan binh. Vì vậy trận đấu kéo dài.
    Giữa lúc hai bên đang đấu, thì một thanh-niên trẻ tuổi, dáng người hùng vĩ xuất hiện. Chàng khoanh tay đứng nhìn.
    Thanh-Mai bảo em:
    - Thôi, chúng ta phá vòng vây mà chạy. Nhớ không được đả thương binh lính của đức vua.
    Tự-Mai đánh liền ba chưởng, mấy người lính dãn ra. Hai chị em bỏ chạy. Nhưng Tự-Mai vấp phải viên đá, ngã lăn ra. Binh lính bắt trói lại. Thanh-Mai nói với mấy người lính:
    - Các người không được trói em ta. Chúng ta sẵn sàng đến cửa quan.
    Mấy người lính định trói Thanh-Mai, thì thanh niên công tử đứng quan sát trận đấu lạnh lùng nói:
    - Không được trói người. Đi chỗ khác ngay. Tại sao các người thấy ta hiện diện từ nãy đến giờ mà không chịu ngừng tay?
    Mấy người lính thấy thanh niên công-tử nói vậy, thì bỏ chạy. Thanh-niên công tử đến trước Thanh-Mai xá một xá:
    - Dường như cô nương cùng chú em đây đang xem hoa thì bị mấy người này phá quấy. Bây giờ họ đã đi rồi. Nếu cô nương muốn thưởng hoa xin cứ tiếp tục.
    Thanh-Mai chỉ mấy khóm Thủy-tiên nói:
    - Nhà tôi cũng trồng Thủy tiên. Những năm trước, mẹ tôi còn sống, cứ Tết về người gọt Thủy-tiên. Hoa nở đẹp lắm. Từ ngày mẹ tôi qua đời, thì tết đến chúng tôi không được thưởng hoa nữa. Hôm nay qua đây, thấy vườn này nhiều hoa thơm, cỏ lạ. Thủy-tiên ở đây có phần đẹp, lớn hơn Thủy-tiên nhà tôi, nên chị em chúng tôi dừng lại ngắm hoa.
    Thanh-niên công tử giọng trầm buồn:
    - Thì ra thân mẫu cô nương đã qua đời rồi đấy. Thực đáng buồn. Trong vườn này, tại hạ trồng được hơn trăm chậu Thủy-tiên, nếu cô nương thích, tại hạ xin bán cho.
    Mắt Thanh-Mai mở to:
    - Thực nhé. Công tử bán cho tôi nhé.
    - Vâng, tôi xin chở đến quí trang hầu cô nương.
    - Công tử bán bao nhiêu một chậu?
    - Tại hạ trồng, chỉ mong có người thưởng thức. Nay gặp cô nương là giới phong lưu, xin kính cẩn dâng lên. Đâu dám nói đến tiền bạc.
    Thanh-Mai không dám nhận, trong khi công tử cứ ép. Tự-Mai xen vào:
    - Này anh. Chị tôi không giám nhận, thì tôi nhận. Tôi đem về để trong vườn. Hễ mỗi lần chị tôi đi qua, tôi bắt nhắm mắt lại không được ngắm, lấy giấy nhét vào mũi không được ngửi hương thơm.
    Thanh-Mai tát nhẹ em một cái. Tự-Mai để cho chị đánh. Nó cười:
    - Hơi tý là đánh. Bà chằng tinh!
    Thanh niên công tử mỉm cười:
    - Dường như cô nương với em từ Thiên-trường tới đây thì phải?
    Thanh-Mai mỉm cười, đáp bằng cái gật đầu.
    Thanh-niên công tử gọi người nhà, đem xe chở mười khóm Thủy-tiên đủ loại cho Tự-Mai. Từ đấy, cứ mười lăm ngày, người nhà thanh niên công tử lại chở Thủy-tiên đến thay khóm cũ. Sau Thủy-tiên, chàng gửi nào hoa Lan, Hồng, Cúc, Mẫu-đơn, Tường-vi, Dạ-hương, Lưu-ly-thảo, Uất-kim-cương...tùy theo mùa.
    Được tám tháng sau, việc đó tới tai thân phụ nàng. Ông gọi hai chị em lên cật vấn chi tiết. Thanh-Mai cứ sự thực trình bày. Người kế mẫu không ngớt cay đắng, chế diễu nàng có hành động lãng mạn. Nghe một vài lần, thân phụ nàng bỏ qua. Nghe đến lần thứ tư, ông đổ quạu:
    - Người ta đem hoa dâng cho, thì có gì đáng trách đâu, mà bà cứ lèo nhèo mãi. Tôi muốn từ nay bà không được xen vào truyện của con Thanh.
    Bà kế mẫu vốn tính nhỏ mọn, bị chồng cấm, mụ không chịu thôi. Đợi người đem hoa tới, mụ thay chồng viết bức thư chửi thanh niên công tử tàn tệ, rồi trao cho người nhà công tử chuyển giao. Từ đấy hoa không đến nữa...nhưng hình ảnh công tử đã in sâu vào tâm thức nàng.
    Đầu năm vừa qua, nàng mượn cớ muốn gần sư phụ học đạo, xin bố cho nàng cùng Tự-Mai, Thanh-Nguyên đi lễ đền các anh hùng dân tộc nhân đầu xuân. Khi đi qua Hoa-lư, nàng cùng hai em viếng vườn hoa năm trước. Thủy-tiên vẫn nở khoe sắc tươi thắm, nhưng không thấy thanh niên công tử đâu. Tự-Mai hiểu tâm sự chị, nó ngâm sẽ:
    Nhớ ai dạ những bồi hồi,
    Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.
    Bị em trêu, Thanh-Mai bẹo cánh tay nó. Nó kêu lên tiếng ái. Nó chạy lại cây đào năm trước, mà hai chị em hái môt cành, để rồi bị lính vây bắt. Bây giờ là tháng hai, hoa đào đã tàn, kết thành những trái còn nhỏ. Nó chỉ vào gốc cây, bị tước mất vỏ, lộ thân mầu trắng:
    - Chị xem kìa! Dường như người ta tước vỏ, viết chữ lên thì phải.
    Hai chị em chạy lại xem. Quả nhiên có người đề trên đó một bài thơ, nét mực còn tươi, dễ thường, cách đây không lâu. Tự-Mai đọc:
    Khứ niên, kim nhật thử viên trung,
    Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
    Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
    Đào hoa y cựu tiếu Xuân phong.
    Thanh-Nguyên hỏi:
    - Anh Tự-Mai! Thơ chữ Nho à? Họ nói gì vậy?
    Tự-Mai nhận ra nét bút của thanh niên công tử năm trước. Nó giảng:
    - Bài thơ này của Thôi Hiệu đời Đường. Nguyên đời Đường, thi hào Thôi Hiệu nổi danh khi còn trẻ tuổi. Vào một ngày mùa Xuân. Ông dạo chơi xem hoa nở. Khi qua một trang, trồng toàn hoa đào. Hoa đang độ Xuân, khoe sắc rực rỡ. Ông đến trước cổng trang giật chuông xin nước. Một cô gái nhan sắc diễm lệ ra mở cổng, đem nước cho ông uống. Vừa uống, ông vừa nhìn má cô gái phản chiếu dưới hoa, tươi đẹp ánh mầu hồng. Thế rồi ông bỏ đi, tương tư cô gái suốt một năm. Năm sau ông trở lại, giật chuông xin nước, nhưng người cho nước lại không phải cô gái năm xưa. Buồn rầu, ông đề ở cổng bài thơ này.
    Thanh-Nguyên hỏi:
    - Ý nghĩa mấy câu thơ ra sao? Em chưa học chữ Nho, chẳng hiểu gì hết.
    Tự-Mai giảng cho em, nhưng mục đích trêu chị:
    - Nguyên văn Tích niên, kim nhật thử môn trung nghĩa là bằng giờ năm ngoái, cũng ngày này, trong cánh cửa này. Nhưng người đề thơ trên thân đào kia đổi chữ môn là cửa thành chữ viên là vườn. Câu thơ có nghĩa khác đi: ngày rầy, năm trước, trong vườn này. Tạm dịch thành Bằng giờ năm trước, cũng nơi đây.
    Nó nhìn Thanh-Mai, nheo mắt một cái rồi tiếp:
    - Nhân diện đào hoa tương ánh hồng nghĩa là má hồng trên gương mặt ai cùng phản chiếu với hoa đào. Tạm dịch thành . Rực ánh đào hoa trên má ai. Câu thứ ba Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Nghĩa là năm nay, ta đến nơi này, thì má ai không biết đi mô? Ở tê! Câu cuối, Đào hoa y cựu tiếu Xuân phong nghĩa là Hoa đào năm ngoái còn cười gió Xuân .
    Thanh-Nguyên thích quá, nó hỏi tiếp:
    - Thế rồi sau Thôi Hộ với cô gái đó có gặp nhau nữa không?
    __ Có! Sau khi đề thơ năm ngày, Thôi Hộ nhớ người con gái năm trước, lẩn thẩn đến chỗ đề thơ, thấy trong cổng có tiếng khóc thảm thiết. Thôi Hộ giật chuông. Một ông lão ra hỏi : « Phải cậu là Thôi Hộ không? ». Đáp « Phải ». Ông lão khóc : « Con gái tôi đọc thơ của cậu. Nghĩ rằng cậu không trở lại nữa. Nó nhịn ăn mà chết sáng nay ». Thôi Hộ xin vào điếu. Ông khóc mấy tiếng, cô gái tỉnh dậy. Hai người thành vợ chồng. Sau Thôi Hộ thi đậu tiến sĩ. Một lần được phong Lĩnh-nam tiết độ sứ .
    Ghi chú
    Trần-trọng-Kim dịch như sau:
    Hôm nay, năm ngoái cửa cài,
    Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi.
    Mặt người chẳng biết đâu rồi,
    Hoa đào năm ngoái còn cười gió Xuân.
    Thanh-Nguyên reo lên:
    - Như vậy ông ấy sang cai trị xứ mình.
    Thế ông ấy có tốt không?
    - Rất tốt! Vì không vơ vét của dân, thiếu vàng ngọc hối lộ cho các quan trong triều, thành ra chỉ ở được hai năm.
    Đến đây nó ngửa mặt lên trời cười:
    - Anh xem bói, thấy rằng hồi Xuân năm trước, có người thiếu nữ đẹp như hoa đến đây hái hoa đào, rồi một chàng công tử trông thấy. Chàng say mê nàng, hàng tháng gửi hoa tặng nàng. Rồi năm nay tưởng nhớ người xưa, chàng đến đây mong tìm hình bóng cũ, nhưng không thấy. Chàng mượn thơ Thôi Hộ đề vào thân đào. Nhưng tiếc rằng người đẹp năm xưa lại chẳng chịu nhịn ăn.
    Thanh-Mai bị em trêu, nhưng nàng chỉ thở dài.
    Mải nghĩ, Thanh-Mai bị vấp vào tảng đá. Nàng giật mình trở về thực tại... đang theo Tôn Đản vào thôn trang.
    Bọn trẻ dẫn đường. Tôn Đản đi cạnh Tự-Mai. Hai đứa cao súyt soát bằng nhau. Chúng truyện trò thân mật rất tương đắc. Sau khi rẽ vào con lộ nhỏ, Tôn Đản chỉ ngôi nhà ngói xa xa ẩn hiện dưới những hàng cây xanh mướt:
    - Kia là đền thờ đức ông.
    Tự-Mai hỏi:
    - Đền thờ đức ông nào vậy?
    - Đức Ông thời vua Bà.
    Thanh-Nguyên bỗng bật lên tiếng kêu aí chà hỏi:
    - Anh Đản này! Thời vua Bà có rất nhiều đức ông. Vậy đức Ông này là đức Ông nào?
    Tôn Đản đáp:
    - Tôi cũng không biết tên ngài là gì. Chỉ nghe bố tôi nói, đức ông tổng trấn thành Mê-linh. Khi vua Bà tuẫn quốc rồi, đức ông đem quân phá vòng vây, định vào Cửu-chân cùng với Đô đại vương. Song quân ít. Thế giặc mạnh, ông vưa đánh vừa chạy. Quân tan, ông bị thương, đến đây thì hóa.
    Sư bà Tịnh-Huyền gật đầu:
    - Như vậy thì đức ông họ Nguyễn húy Thành-Công.

    Thanh Mai á lên một tiếng.
    Trời đã mầu tím. Từng đoàn cò trắng từ các nơi bay về đậu trên những khóm tre, nô đùa với nhau. Chúng kêu lên ríu rít, xôn xao. Đoàn người đến trước cổng đền. Đền tọa lạc trên một thửa đất khá rộng. Trước cổng có cái hồ trồng sen. Hoa sen đang giữa mùa Xuân, chỉ có mấy cái lá nhỏ . Trên bờ hồ trồng toàn thông. Gió thổi, thông reo lên thành bản nhạc vi vu liên miên bất tận. Cổng có ba cửa. Cửa giữa lớn. Hai cửa hai bên nhỏ. Chỉ có một cửa nhỏ mở.
    Trong ánh sáng mờ ảo của buổi chiều tàn, trên cổng hiện ra 4 chữ lớn:
    Tương-liệt đại vương linh từ.
    Hai bên cột lớn có đôi câu đối:
    Kỷ tải dực Trưng vương, Tô tặc bình dư long tướng ấn,
    Ngũ thôn chiêm thánh đức, Qui-trang hóa hậu ngật thần từ.
    Thanh-Mai hỏi đám trẻ:
    - Thôn này là thôn Tân-qui phải không? Dường như xung quanh đây có tới năm thôn thờ đại vương. Cả năm thôn đều thuộc Tống-sơn. Đền thờ dường như được dựng vào thời Lệ-hải Bà-vương khởi binh, thì phải?
    Tôn Đản ngạc nhiên hỏi:
    - Chị giỏi thực! Hồi nãy chị còn hỏi thăm đường. Thế mà bây giờ chị đã biết hết mọi truyện. Chị là thầy bói chắc?
    Thanh-Mai cười:
    - Chị không phải là thầy bói, chị đọc sách mà biết. Truyện đức ông tuẫn quốc có chép trong sách rằng: « Đức ông chạy về đến Tống-sơn thì hóa. Tất cả vùng Tống-sơn đều dựng đền thờ ».
    Tôn Đản cười:
    - Thì ra chị nhớ những điều ghi trong sách. Còn thực tế thì chưa từng đi qua. Chị từ Thăng-long vào đây, hẳn qua đèo Ngang, Phố-cát. Sau đó qua đò. Qua đò, bên trái đi Nga-sơn. Tại đó có đền thờ Nga-sơn công chúa thời vua Bà rồi mới đến đây. Chỉ cần đi một quãng nữa tới núi Sơn-trang. Ở đó có đền thờ Lệ-hải Bà-vương. Lăng Bà-vương lớn lắm.
    Ông từ đã được bọn trẻ báo trước. Ông chạy ra cửa đón khách:
    - A-di-đà Phật. Đệ tử thực có duyên, hôm nay mới được đón tiếp sư thái và quí khách. Đa tạ Trần cô nương đã cứu mạng cháu Đản.
    Tịnh-Huyền sư thái chắp tay:
    - Phúc đức! Hôm nay bần ni cùng các đệ tử được lễ đức ông.
    Ông từ đi trước dẫn đường. Từ cổng, vượt qua cái sân gạch khá rộng, đến thềm đền. Thềm có bốn bậc bằng gạch. Qua thềm, ông từ đẩy cửa bước vào trước, rồi mở rộng ra. Cánh cửa bằng gỗ lim dầy nặng. Song ông chỉ đẩy hời hợt, hai cánh từ từ mở lớn.
    Đèn nến đốt lên sáng chưng. Rất thành thạo, Đản gióng chuông, thằng Lãm đánh trống. Sư thái Tịnh-Huyền cùng bọn Thanh-Mai, Tự-Mai qùi xuống lễ. Lễ tất. Ông từ kéo màn đỏ trên bàn thờ, lộ ra pho tượng lớn như người thực. Tượng đúc bằng đồng, mặc quần áo lụa, ngang lưng đeo kiếm. Mặt trông rất uy nghiêm. Tự-Mai hỏi ông từ:
    - Thưa bác, tượng của đức ông, do ai đúc và đúc từ bao giờ ? Cháu đọc sách thấy nói đức ông được phong Tương-liệt đại vương, giữ chức Đại-tư không, tức là quan văn. Sách cũng nói đức ông tuy võ công cực kỳ cao thâm, song tướng người mảnh khảnh. Còn tượng đức ông đây trông quá uy vũ, e không giống.
    Ông từ mỉm cười:
    - Tượng này đúc vào thời vua Đinh. Còn hình dạng đức ông thì do truyền thuyết kể lại, rồi theo đó mà đúc.
    Thanh-Mai móc trong bọc ra một nén vàng, hai tay cung kính đưa ông từ:
    - Sư phụ chúng tôi nhân đi hội đền thờ Lệ-hải bà vương, duyên may qua đây, được lễ đền thờ đức ông. Đức ông xưa kia là đại công thần của vua Bà. Chúng tôi là đệ tử phái Mê-Linh, thì đức ông cũng là một tổ sư của chúng tôi vậy. Xin kính cẩn gửi chút ít làm hương đèn.
    Ông từ không e ngại. Hai tay tiếp vàng:
    - Trời đã về đêm. Xin sư thái cùng các vị nghỉ tại đây. Mai hãy lên đường. Tôi đã bảo nhà bếp làm cơm chay cúng dàng.
    Ông dẫn mọi người xuống nhà ngang, pha trà mời khách. Sư thái Tịnh- Huyền hỏi:
    - Hồi chiều, thấy cháu Đản xử dụng võ công Tản-viên. Bọn khách qua đường cũng như chúng tôi đều ngạc nhiên không ít. Vì phái Tản-viên tuy lớn thực, song không có chi phái nào ở trong này. Bây giờ mới biết ông ẩn ở đây để giữ đền đức ông. Xin ông cho biết đại danh.
    Ông từ xua tay:
    - Chúng tôi có học được mấy cái múa của đức ông để lại. Song không phải là đệ tử phái Tản-viên. Xin sư thái đừng dạy quá lời.
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Ông từ ơi! Chúng tôi là người học võ công Đại-Việt, nên rất quý trọng những gì liên quan đến thời Lĩnh-Nam. Cứ như thánh tích còn để lại, thì đức ông về đến đây, ngài đã mệt kiệt sức. Khi dân chúng biết, tri hô lên. Đức ông chỉ nói được một câu, rồi qui tiên. Thế thì làm sao đức ông có thể truyền thụ võ nghệ lại?
    Mặt ông từ hơi tái đi:
    - Không phải như thế đâu. Người về đến đây, ngồi nghỉ một lúc, thì viên tiểu hiệu của người cũng theo kịp. Viên tiểu hiệu đó họ Tôn. Chính là tổ tiên chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi theo hầu đức ông lâu ngày, học được mấy cái múa, lưu truyền cho con cháu, không bõ làm trò cười cho sư thái với các vị.
    Thanh-Mai biết ông từ nói dối, song mình là khách, không muốn cật vấn. Nàng hỏi Tôn Đản.
    - Trong bẩy em ở đây, chị biết tên có em với Lãm. Vậy còn năm em tên gì?
    Lãm chỉ tay vào thiếu niên béo tròn trùng trục:
    - Thằng này họ Lê tên Thuận-Tông. Ngoại hiệu là Tông mập.
    Lại chỉ tay vào ba thiếu niên khác:
    - Ba đứa này là anh em ruột. Vì chúng mồ côi nên bác từ đem về nuôi. Chúng nó có tên Mạnh, Trọng, Qúi, chúng họ Tôn cả. Còn thằng cao nghệu kia họ Trần tên Anh. Nhà nó cũng gần đây. Vì chúng em ưa phá, nên trong làng gọi chung là bẩy con qủi.
    Trần Anh ít nói, bây giờ mới lên tiếng:
    - Chị Thanh-Mai ơi. Chị là người trong võ lâm. Vậy chị có thể kể truyện đức ông cho chúng em nghe được không?
    Ông từ cũng nói:
    - Phải đấy, nhân có sư thái cùng các cao đồ phái Mê-Linh ở đây. Xin các vị đừng tiếc công dạy dỗ cho bọn trẻ này.
    Thanh-Mai đưa mắt nhìn sư thái Tịnh-Huyền. Ý nàng muốn cải chính rằng nàng chỉ thọ giới với sư phụ. Còn võ công, nàng học từ phụ thân. Song sư thái Tịnh-Huyền bảo nàng:
    - Con thuật về hành trạng của đức ông cho các em nghe đi.
    Thanh-Mai hắng giọng một tiếng,rồi hỏi:
    - Có em nào biết truyện vua Bà khởi binh đánh đuổi giặc Hán, lập lại Lĩnh-nam không nào?
    Hà Thiện-Lãm nói:
    - Ở làng này, ai cũng biết truyện đó cả. Vua Bà nguyên là công chúa trên thượng giới giáng sinh, để cứu dân Việt khỏi bị Hán hóa. Ngài cùng 162 tướng khởi binh. Trong một tháng chiếm lại 65 thành, tái lập Lĩnh-nam. Hết hạn bị lưu đày. Ngọc-Hoàng thượng đế gọi về trời. Ngài cùng em là Trưng Nhị đến sông Hát-giang, thì bay lên thiên cung.
    Tôn Mạnh nói:
    - Mày kể còn thiếu. Đúng lý ra Ngọc-Hoàng thượng đế cho vua bà cai trị cả Lĩnh-nam lẫn Trung-quốc. Nhưng vì công chúa Phật-Nguyệt đánh trận hồ Động-đình giết quân Hán thây lấp sông Trường-giang, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi lôi đình truyền phạt dân Lĩnh-nam phải chịu người Hán cai trị trong bẩy trăm năm.
    Tôn Trọng tiếp:
    - Công chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa đánh trận Tượng-quận, giết quân Hán trên 20 vạn. Xác ngập bến Bồ-lăng. Ngọc-Hoàng thựơng đế phạt vua bà giảm thọ một kỷ. Đúng ra vua Bà sống tới 80 tuổi. Vì vậy chỉ còn 70 tuổi.
    Hà Thiện-Lãm hỏi:
    - Thế tại sao vua Bà về trời mới có trên 30 tuổi?
    Tôn Qúi xì một tiếng:
    - Thì đã hết đâu. Sau này công chúa Thánh-Thiên đánh trận Nam-hải, giết quân Hán trên bốn mươi vạn. Thây rải suốt từ Thường-sơn đến Phụng hoàng. Lại còn đại tướng Đào Nhất-Gia dùng hổ, báo, rắn, ong, voi, sói, ưng, khỉ ăn thịt quân Hán hàng mấy vạn. Ngọc-Hoàng thượng đế lại truyền phạt vua Bà giảm thọ hai kỷ nữa, còn có 50 tuổi.
    Trần Anh tỏ vẻ hiểu biết hơn:
    - Trong trận Lãng-bạc. Công chúa Gia-Hưng đốt quân Hán hơn mười vạn. Oán khí ngất trời. Ngọc-Hòang thượng đế truyền bắt vua Bà về trời tức thì. Còn cái tội giết người nhiều của các tướng Lĩnh-Nam, Ngọc-Hoàng thượng đế truyền dân Việt phải chịu nạn vong quốc bẩy trăm năm.
    Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc. Dân chúng Lĩnh-Nam chịu không biết bao nhiêu đau khổ do bọn tham quan người Hán gây ra. Vì vậy, họ thường huyền thoại hóa những di tích cũ, hầu dậy con cháu dừng quên tổ tiên. Cho nên những truyện tường thuật ngày càng phong phú, mỗi nơi một khác. Các anh hùng thời vua Trưng hầu hết đi vào huyền-sử. Đám trẻ này được phụ huynh kể cho nghe, rồi chúng tin là thực. Hôm nay nhân có người lạ, chúng thi nhau kể, để tỏ cái hiểu biết của mình.
    Thanh-Mai để cho bọn trẻ bầy tỏ hết kiến thức rồi nàng mới chậm chạp kể:
    - Đức ông họ Nguyễn húy Thành-Công, xuất thân phái Tản-viên. Ngài là sư thúc của vua Trưng. Niên hiệu Lĩnh-Nam thứ 3 (43 sau TL), tháng chạp, sau khi công chúa Gia-Hưng Trần Quốc đại phá Mã Viện tại hồ Lãng-bạc. Mã Viện đem đại quân định tràn ngập thủ đô Mê-linh. Triều đình thể theo kế họach của Cửu-chân vương Đô Dương, phân tán quân đội, ẩn vào rừng kháng chiến như thời Âu-lạc đánh quân Tần. Vua Trưng cùng triều đình rút về Cẩm-khê. Ngài truyền đức ông ở lại tổng trấn Mê-linh. Ngày mồng 8 tháng 2, vua Trưng cùng triều đình bị bọn Lê Đạo-Sinh phục kích, tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Ngày mồng chín, Bắc-bình vương Đào Kỳ, cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung đem quân từ Long-biên lên cứu viện, nhưng đã trễ. Ngày mồng 10, Mã Viện đem đại quân vây Mê-linh.
    Thanh-Mai ngừng lại. Đám trẻ ngơ ngác hỏi:
    - Rồi sao nữa? Đức ông có chạy thoát không?
    - Không, đức ông không chạy. Mã đem quân vây đánh suốt 3 tháng không được. Y sai sứ vào thành thuyết đức ông. Mã hứa nếu đức ông hàng, sẽ được giữ nguyên chức tước cũ.
    Thằng bé Trần Anh ngồi im từ đầu đền cuối bỗng lên tiếng:
    _ Tên Mã Viện thực xảo quyệt. Nó đánh Đông dẹp Bắc cũng chỉ được phong Tân-tức hầu, làm sao nó có thể tâu xin vua Hán phong cho đức ông tước Vương?
    Ghi chú
    Theo Hậu-hán thư quyển 24 Mã Viện liệt truyện trang 827-867 thì Viện được phong Tân-tức hầu. Song khi Viện tử trận, ấn bị thu, chức tước bị bãi. Đời sau các vua Hán mới thương tình tái truy phong.
    Tôn Đản hỏi:
    - Thế đức ông có đầu hàng không?
    Thanh-Mai hỏi đám trẻ:
    - Nếu các em là đức ông. Các em sẽ hành động ra sao? Vì giữ thì không nổi, bởi triều đình bị đánh tan. Còn đánh thì quân ít, lương tuyệt.
    Hà Thiện-Lãm vung tay:
    - Em chặt đầu sứ gỉa, rồi thủ thành. Một mặt cầu cứu với các nơi khác.
    Tôn Đản lắc đầu:
    - Không ổn! Đánh như vậy chỉ tổ chết hết quân, mà giặc vẫn lấy được thành. Chi bằng gỉa kế đầu hàng. Một mặt dặn dò binh sĩ chuẩn bị tác chiến. Chờ đêm giặc không phòng bị, bất thần đổ quân ra phá vòng vây vào rừng kháng chiến.
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Đức ông không làm thế. Các em thử nghĩ xem, còn cách nào nữa không?
    Trần Anh nói:
    - Em giả đầu hàng. Thế nào Mã Viện cũng đãi tiệc ăn mừng, thình lình bóp cổ cho nó chết.
    Thanh-Mai cười:
    - Đức ông hành động như em nghĩ. Đức ông hẹn hôm sau sẽ đem quân ra ngoài thành đầu hàng. Mã Viện tưởng thực, tiếp đón đức ông cực kỳ chu đáo. Y tiến quân vào tiếp thu thành trì, kho tàng, sau đó bầy tiệc ăn mừng. Trong tiệc Mã hỏi đức ông kế sách làm thế nào để đánh vùng Cửu-chân. Đức ông ậm ừ một lúc rồi nói:
    - Hàng tướng, văn không thông, võ không giỏi, đâu còn giám mở miệng bàn đại kế?
    Mã Viện nghĩ được một kế độc. Y định sai đức ông đi tiên phong, đem bản bộ quân mã tiến chiếm Cửu-chân. Đức ông ngần ngại một lúc rồi nhận lời.
    Lê Thuận-Tông vỗ đùi một cái suýt xoa:
    - Mưu kế hay thực. Thế Mã Viện có bị trúng kế không?
    - Bị.
    Tôn Mạnh hỏi:
    - Mưu kế gi?
    Lê Thuận-Tông cười:
    - Thế này nhé: Thằng Mã Viện là con cáo già. Nếu Đức-ông tỏ vẻ ta đây giỏi, bầy kế nọ, mưu kia, ắt Mã Viện nghi ngờ. Vì vậy Đức-ông phải làm bộ ra vẻ chán đời. Tuy vậy đã hết đâu. Mã còn sai Đức-ông đem người Việt đánh người Việt. Nếu Đức- ông hoan hỉ đi ngay, hầu thoát nạn, ắt Mã nghi ngờ. Vì thế Đức-ông làm bộ ngần ngại không muốn mình đem người Việt giết người Việt. Mã không nghi ngờ, càng ra sức ép Đức-ông.
    Thanh Mai tiếp:
    - Đức-ông mật cho chim ưng liên lạc với Đô đại vương, để khỏi bị ngộ nhận. Đô đại vương hẹn rằng: Khi Mã đem quân vào đánh Cửu-chân. Đêm Đô đại vương đem quân cướp trại. Đức-ông mở cổng trại cho quân Cửu-chân vào. Mã Viện để Lê Đạo-Sinh cùng đám đệ tử ở lại vây Long-biên. Y cùng Đức-ông tiến quân. Mặt biển Lưu Long đem chiến thuyền, chở quân đổ bộ lên biển Nghi-sơn, Biện-sơn.
    Thanh-Mai ngừng lại. Hà Thiện-Lãm hỏi:
    - Rồi sao nữa?

    ----------------------

    Ghi chú :

    1) Câu đối trên đây chép ở đền thờ anh hùng Nguyễn Thành-Công. Hiện còn nhiều nơi thờ ngài. Hai nơi quan trọng nhất:
    - Quê hương của ngài tại năm thôn Tư-đình, Nha-thôn, Sài-đồng, Trạm-thôn, Ô-cách thuộc xã Gia-thụy. Nay thuộc xã Gia-thụy, Long-biên, huyện Gia- lâm, tỉnh Hà-nội.

    - Tại nơi ngài tuẫn quốc thuộc xã Tân-qui, huyện Tống-sơn tỉnh Thanh- hóa.

    2) Sử không chép bà Triệu tuẫn quốc hay chết năm nào. Huyền sử kể rằng khi Lữ Đại đem quân vây hãm thành Cửu-chân (Thanh-hóa), bà cùng 300 đệ tử rút lên núi Chung-chinh. Lữ Đại hao binh tổn tướng không biết bao nhiêu mà lên núi không được. Lữ vây hơn năm, lúc lên được núi, thì chỉ thấy doanh trại điêu tàn, người không một bóng.
    Sau dân chúng nhớ công đức xây hai ngôi lăng tượng trưng. Một trên núi Chung-chinh. Lăng này bị Trương Phụ phá hủy hồi 1408. Còn lăng ở núi Sơn-trang, nay vẫn còn, cùng với đền thờ. Dân chúng gọi núi này là núi Gai hay núi Tùng, thuộc xã Phú-điền, nay là xã Triệu-lộc huyện Hậu-lộc, tỉnh Thanh-hóa.
    Độc giả có thể tham khảo tài liệu viết về bà, các sách viết bằng chữ Hán :
    ° ĐVSKTT, Ngoại kỷ 4.
    ° KĐVSTGCM, Tiền biên 3.
    ° Các tỉnh địa dư chí.
    ° Ái-châu bi ký.
    ° Thanh-hóa tỉnh chí.
    ° ĐNNTC.
    ° Đối liên thị văn tạp biên.
    Ngày hai mươi mốt tháng hai là ngày diễn ra trận đánh cuối cùng của bà với Lữ Đại. Nhân đó dân chúng lấy làm ngày giỗ.



    <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:33:38 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 22.12.2004 18:24:21 (permalink)
      Hồi thứ nhì

      Anh hùng muôn năm cũ


      Thanh-Mai uống một hớp nước trà, rồi tiếp:
      - Đêm, quân Cửu-chân thình lình cướp trại. Quân Mê-linh mở tung cửa trại ra. Hai bên cùng nổi lửa đốt trại Hán. Quân Hán tan vỡ. Mã Viện vội vàng lên ngựa bỏ chạy. Chạy tới Linh-trường lại bị trúng phục binh của quốc công Chu Bá. Mã kinh hoảng bỏ chạy thục mạng, chỉ còn một người một ngựa. Tới Kẽm-trống, y ngừng lại để thở, xuống suối vục nước uống. Thình lình có tiếng chân ngựa phi. Y nhìn lên thì thấy Đức-ông. Không còn hồn vía nào nữa. Y nhủi vào bụi rậm trốn. Đức-ông đuổi đến nơi, thấy ngựa Mã, mà không thấy người. Đức-ông cho rằng hắn đã đổi ngựa chạy trốn. Thôi, chị để Tự Mai kể. Chị là con gái kể không được.
      Cả bọn trẻ nhao nhao:
      - Sao? Tại sao chị kể không được?
      Trần Tự-Mai cười lớn:
      - Có gì lạ đâu. Đức-ông đuổi Mã lâu qúa. Ngài mắc tè. Ngài vạch quần tè ngay vào bụi cây có Mã Viện núp. Nước tiểu của ngài tưới lên mặt Mã, mà Mã không dám động đậy, cứ phải ngồi im chịu trận. Giữa lúc đó một đạo quân của Phùng Đức kéo đến. Đức-ông lên ngựa bỏ chạy. Bấy giờ Mã mới chui ở bụi rậm ra. Đức-ông tuy bỏ chạy, nhưng còn nhìn về sau, thấy Mã Viện từ trong bụi chui ra. Đức-ông bật cười quay trở lại, hỏi y:
      - Phục-ba tướng quân. Thế nào, người uống nước đủ chưa?
      Mã Viện tuy đã hoàn hồn. Nhưng chân tay vẫn còn run. Y ra lệnh cho Phùng Đức:
      - Phùng tướng quân. Mau giết chết tên Nam man kia cho ta.
      Phùng Đức không hiểu gì. Y hỏi lại:
      - Thành-Công đã đầu hàng triều đình, lại vô tội. Tại sao đem giết đi?
      Mã Viện đã lấy lại được bình tĩnh:
      - Nó trá hàng. Vì vậy ta bị bại. Tiền quân tan nát hết rồi.
      Phùng Đức chợt hiểu. Y phóng chưởng tấn công đức ông. Phùng là chú, là sư phụ của Phùng Dị. Võ công Phùng Dị vốn cao hơn Đức-ông. Huống hồ sư phụ y. Đấu được hơn 20 chiêu. Đức-ông yếu thế bỏ chạy. Mã Viện xua quân đuổi theo. Đức-ông vừa đánh vừa lui. Khi về đến đây thì kiệt lực. Ngài nằm dài trên mỏm đá mà ngủ. Rồi hóa.
      Ông từ giữ đền tiếp:
      - Sự thực như thế này. Sau khi Đô đại vương cả phá quân Hán, ra lệnh thu quân. Điểm lại tướng sĩ thấy thiếu Đức-ông. Đại vương cho lệnh quân sĩ tìm Đức-ông. Đức ông có viên tiểu hiệu họ Tôn tên Trung-Thành. Viên tiểu hiệu phi ngựa tìm chúa tướng. Khi ông tới đây thì gặp Đức-ông. Đức-ông mệt quá, chỉ dơ tay ra hiệu, dặn dò đôi truyện rồi hóa. Ông tiểu hiệu đó là tổ tiên chúng tôi.
      Sư thái Tịnh Huyền hỏi:
      - À thì ra thế. Bần ni có một điều muốn thỉnh. Chẳng hay ông có thể cho biết chăng?
      - Xin sư thái cứ dạy.
      - Lúc biết vận nước sắp nguy kịch. Vua Bà lệnh cho Bắc-bình vương Đào Kỳ, Tể-tướng Nguyễn Phương-Dung, Đại-tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa họp nhau lại chép tất cả bí quyết võ công các phái Lĩnh Nam thành bộ Lĩnh-nam võ kinh. Lại sai chép tất cả học thuật của phái Sài-sơn như: phép trồng cấy, thiên văn lịch số, cùng bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên. Sau đó sao cho mỗi phái một bản. Bản của phái Sài-sơn, do công chúa Nguyệt-đức giữ, bị cháy trong trận đánh cuối cùng với quân Hán. Bản của phái Long-biên do Tể-tướng Phương-Dung giữ thì trao cho sư đệ Đào Nhị-Gia, đem theo cùng với hai người con của ngài là Đào Tử-Khâm và Đào Tường-Qui. Đào Nhị-Gia tuyệt tích từ sau trận Long-biên. Bản của phái Cửu-chân thì bị thất lạc khi đại tướng quân Trần Dương-Đức tuẫn quốc trong thành Cẩm-khê. Bản của phái Hoa-lư cũng bị thất lạc sau khi chưởng môn là quốc công Cao Cảnh-Sơn tuẫn quốc trận Hát-giang. Chỉ có bản của phái Tản-viên hy vọng còn. Bản này do Đức-ông cất giữ. Không biết khi Đức-ông hóa, thì bản đó còn hay không?
      Tôn Đản hỏi:
      - Em nghe nói, cuối bộ Lĩnh-Nam vũ kinh còn ghi chú nơi cất dấu hai kho tàng lớn bậc nhất lịch sử cổ kim. Không biết kho tàng, vũ kinh có thực hay không, mà suốt gần nghìn năm nay trong võ lâm nổi lên không biết bao nhiêu phong ba, bão táp. Vùng này khốn khổ vô cùng, người ta đổ xô đến tìm những thứ đó. Chị Thanh-Mai, sự thực ra sao?
      - Vũ-kinh đương nhiên có rồi. Còn kho tàng, sử ghi đàng hoàng. Hồi nhà Thương cai trị dân, bốn phương chư hầu tiến cống, châu báu kể sao cho siết. Chu diệt Trụ, kho tàng đó thuộc Chu. Chu phong tám trăm chư hầu. Hàng năm chư hầu tiến cống. Vua Chu cất vào với bảo vật đời Thương. Chu trải tám trăm năm, nhà Chu tích lũy báu vật chư hầu lại cùng với tích kim nhà Thương, biết bao nhiêu mà kể. Tần diệt Chu, lấy kho tàng đó. Tần thanh toán bẩy nước, thống nhất thiên hạ, thu vàng ngọc về tích ở Hàm-đan với kho tàng Thương-Chu thành kho Thương-Chu-Tần. Hán Cao-tổ vào Hàm-dương đầu tiên chiếm trọn vẹn kho tàng Thương-Chu-Tần, đem về chôn ở gầm điện Vị-ương. Các vua Hán đi cướp các nước xung quanh, hợp với kho tàng trên gọi là kho tàng Tần-Hán. Vương Mãng cướp ngôi Hán. Y biết mình không chính nghĩa, khó giữ ngôi vua. Y đào kho tàng Tần-Hán chôn ở hồ Động-đình. Thời Lĩnh-nam, Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật-Nguyệt đem quân đánh Trường-sa, biết nơi dấu kho tàng. Niên hiệu vua Trưng thứ nhất (39 sau TL), ngài sai công chúa Yên-lãng, Nghi Hòa đào lên đem về Giao-chỉ. Khi công chúa Yên-Lãng chở đến Khúc-giang, gặp đoàn cao thủ Mã thái hậu đuổi theo đánh cướp. Công chúa đem chôn cất tại đây.
      Tôn Đản chau mày:
      - Đây mới là kho thứ nhất. Kho thứ nhì ở đâu?
      __ Kho thứ nhì gồm tích sản 88 đời vua Hùng, vua An-Dương và Triệu Đà. Thời Lĩnh-nam, sau trận đánh Bạch-đế, kho tàng này về tay Thiên-ưng lục tướng. Trưng Nhị sai đại tướng Hồ Hác cùng Thiên-ưng lục tướng chôn ở núi Tản-viên. Bản đồ cả hai kho tàng đều chép vào cuối bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Hơn nghìn năm qua, võ lâm thi nhau tìm bộ kinh thư này, bởi muốn trở thành anh hùng vô địch cũng có, muốn đoạt hai kho tàng cũng có. Vì vậy phong ba nổi lên không ngừng.
      Ghi chú,
      Tất cả những biến cố này, tôi đã thuật trong bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử và Cẩm-khê di hận, do Nam-á Paris xuất bản.
      Mặt ông từ hiện ra những nét kì dị khó hiểu.
      Trời dần về khuya. Ông từ sai vợ thỉnh sư thái Tịnh-Huyền đi ngủ. Tôn Đản cùng các em nhường phòng ngủ của mình cho Thanh-Mai, Tự-Mai. Chúng ngủ ở phòng khách. Tự-Mai nói sẽ vào tai chị:
      - Chị Thanh ơi! Em dám qủa quyết bộ Lĩnh-Nam vũ kinh với bộ Dụng-binh yếu chỉ, Đức-ông trao cho tổ tiên ông từ. Hiện ông từ còn lưu giữ. Vì hồi chiều em thấy Tôn Đản xử dung võ công Tản Viên. Về sau đổi sang Cửu- chân, Quách Quỳ mới bị bại.
      - Đúng! Em nói đúng. Đối với võ công Lĩnh-nam, thì võ công Tản-viên đứng đầu. Còn đối với võ công Trung-nguyên, bị võ công Cửu-chân khắc chế, nên chỉ vài chiêu Tôn Đản thắng Quách Quỳ.
      - Có một điều em không hiểu: Tại sao
      ông từ giữ tất cả kho tàng võ công Lĩnh-nam trong tay, mà chỉ dạy Tôn Đản có mấy chiêu. Vì vậy Tôn Đản tuy thắng Quách Quì, mà thắng rất khó khăn!
      Thanh-Mai bẹo má em:
      - Thằng chó này, nói trước quên sau. Bố chả từng dạy rằng: Khi chép võ kinh, binh thư, bao giờ người chép cũng dùng những thuật ngữ đặc biệt. Để lỡ ra khi di thư lọt vào tay người khác phái thì bí quyết mới không bị truyền ra ngoài. Sau đó người chép mới làm một bài ca khuyết, giải thích các thuật ngữ đó. Bài ca khuyết chỉ truyền khẩu cho con, cháu, đệ tử mà thôi.
      Tự-Mai reo lên:
      - Em nhớ ra rồi. Hồi xưa khi Vạn-tín-hầu Lý Thân chép bộ Văn-lang vũ kinh đã dùng cách đó. Bởi vậy Bắc-bình vương Đào Kỳ tìm thấy di thư trong cây gậy đồng mà không hiểu gì. Sau nhờ đại hiệp Nguyễn Phan dạy cho bài ca khuyết mới hiểu hết bí quyết của kiếm pháp Long-biên.
      Thanh-Mai thở dài:
      - Học thuật thời Lĩnh-nam được chép trong bộ di thư vĩ đại. Tiếc thay, đến nay không tìm ra. Sau khi vua Bà tuẫn quốc, các tướng lãnh ẩn vào dân chúng thu nhận đệ tử, truyền lại sở học. Song mỗi người chỉ nhớ được một phần nhỏ mà thôi. Ông từ họ Tôn chắc chắn có di thư trong tay. Nhưng ông không có khẩu quyết, vì vậy ông luyện tập không có kết qủa.
      Tự-Mai chợt nhớ ra điều gì, nó « á » lên một tiếng:
      - Có thể như thế.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Cái gì?
      - Người đứng chủ biên bộ sách ấy là công-chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa. Vậy chắc chắn bà chép bằng văn tự Khoa-đẩu của mình. Ông từ không biết văn tự đó nên không hiểu.
      Thanh-Mai gật đầu:
      - Có thể như thế.
      Nhớ ra điều gì, Tự-Mai hỏi chị:
      - Hôm nay là ngày mười bốn tháng hai. Ngày hai mươi mốt là ngày giỗ Lệ-hải Bà-vương. Khi chị em mình đi, bố không dặn bao giờ về, vậy chúng mình cứ theo sư phụ vân du khắp nơi cho sướng.
      Thanh-Mai lắc đầu:
      - Em tưởng. Đi như vậy, khi về, bố đánh què chân.
      - Mình đổ thừa tự sư phụ chưa cho phép về. Mình theo sư phụ học hỏi, chứ đâu có đi chơi? Cứ đem sư phụ ra, là bố không bao giờ trách phạt bọn mình đâu mà sợ. Mình đi đến ngày mười sáu tháng tám, thế nào sư phụ cũng về Thăng-long dự giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Bấy giờ trước mặt sư phụ, đời nào bố mắng.
      Thanh-Mai thấy em nói có lý, nàng bẹo má nó:
      - Thằng này, mới tý tuổi mà đã nổi máu giang hồ rồi. À này, giỗ Bắc-bình vương năm nay chị e có đổ máu, chứ không giản dị đâu? Không biết bố sẽ về phe nào? Hôm trước sư phụ lo nghĩ về truyện này không ít. Người sợ bố đứng về phe phù Lê . Chứ không về phe ủng Lý .
      - Truyện này em chưa nghe qua. Phù Lê với ủng Lý khác nhau thế nào, mà ngày giỗ Bắc-bình vương lại có đổ máu?
      Thanh-Mai nói nhỏ:
      - Từ khi vua Đinh thống nhất sơn hà, thì gần như trong nước mình, mọi quyết định do võ lâm ngồi lại với nhau. Võ lâm Đại-Việt mình hiện có các phái Mê-linh, Tiêu-sơn, Tản-viên, Sài-sơn, Tây-vu và Đông-a nhà mình. Ngoài ra còn ba mươi sáu trang, động cũng đỉnh lập ra một phái, song thế lực họ còn nhỏ, họ phải dựa vào phái lớn, nên không đáng kể. Khi vua Đinh bị giết, Lê Hoàn dùng hành vi dâm đãng, tư thông với vợ của chúa, rồi cướp ngôi con thơ. Các phái đều căm hận. Ấy vậy mà khi giặc Tống sắp qua, chưởng môn phái Tiêu-sơn là Vạn-Hạnh thiền sư triệu tập anh hùng trên núi Tiêu-sơn bàn kế đối phó. Bấy giờ phái Mê-linh, Sài-sơn, Tản-viên đều chống Lê Hoàn. Ông nội mình làm chưởng môn phái Đông-a, nêu ngọn cờ chính nghĩa giết giặc ngoài trước rồi hô hào võ lâm đánh Tống. Vì vậy các phái Sài-sơn, Mê-linh, Tản-viên đành tuân theo quyết định chung của ba phái kia, tha tội cho Lê Hoàn, cùng đứng lên dẹp giặc. Do đó Lê Hoàn thắng Tống lập ra nhà Lê.
      Tự-Mai hiểu ra:
      - Rồi mới đây, Lý Công-Uẩn lại dùng lối đó, cướp ngôi nhà Lê, lập ra triều Lý. Võ lâm thiên hạ không phục. Họ hẹn nhau nhân dịp giỗ Bắc-bình vương năm nay ở Thăng-long, bắt Lý Công-Uẩn thoái vị, trả ngôi về cho nhà Lê. Nhưng không biết phái nào bênh Lê, phái nào bênh Lý?
      - Phái chống quyết liệt là Sài-sơn. Phái bênh Lý đương nhiên là Tiêu-sơn, vì Thuận-thiên hoàng đế Lý Công-Uẩn là đệ tử phái này. Phái Tây-vu, theo Lý, vì chưởng môn hiện là phò mã Thân Thừa-Qúi. Phái Mê-linh thì chưa biểu lộ ý kiến. Phái Tản-viên tùy theo thái độ phái Đông-a nhà mình.
      - Thế ý kiến bố ra sao?
      - Khó biết lắm. Bố với các sư thúc tuyệt đối im lặng. Vì vậy sợ rằng nếu bố chống Lý phò Lê, thì nhất định kéo theo phái Tản-viên... Trong trường hợp đó, võ lâm sẽ chém giết nhau ghê lắm. Lại còn cái vạ Hồng-thiết giáo nữa, không biết chúng thuộc phe nào?
      Tự-Mai kinh ngạc:
      - Hồng-thiết giáo, có phải bọn quỷ ăn thịt người không?
      - Bậy nào! Hồng-thiết là một tôn giáo, từ Tây-vực Trung-quốc truyền vào Đại-Việt mấy chục năm trước. Hồi Thập-nhị sứ quân, hai trong sứ quân là đệ tử của họ. Họ chủ trương xoá bỏ hết Trời, Phật, tiên, thánh. Không thờ cả anh hùng dân tộc. Việc cúng giỗ tổ tiên cũng không. Trai gái tự do luyến ái, không cần mai mối, cưới xin. Không được có kẻ giầu, người nghèo. Ai cũng phải làm mới có ăn. Vì vậy dân nghèo theo họ rất đông. Khi vua Đinh diệt mười hai sứ quân, họ cũng bị diệt luôn. Thời nhà Lê, giáo chúng nổi lên mấy lần, đều bị diệt hết. Sau đức hoàng đế bản triều ban chỉ đại xá, cho họ hoạt động trở lại. Tuy vậy hành tung của họ rất bí mật. Giáo chủ là Nhật-Hồ lão nhân, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Dưới ông có mười trưởng lão, người nào võ công cũng kinh thế hãy tục.
      - Thế võ công của mười trưởng lão này so với bố thì ra sao?
      - Suýt soát nhau, một mười, một chín.
      Tự-Mai á lên một tiếng:
      - Như vậy Hồng-thiết giáo mạnh bằng phái Đông-a nhà mình rồi. Mười trưởng lão là những ai vậy?
      - Không ai biết mặt mũi họ thế nào, mà chỉ nghe danh vài người như Vũ Nhất-Trụ, Nguyễn Chí, Lê Ba. Người ta đồn đại rằng mười trưởng lão đó, không phải ai đâu xa lạ, mà chính là các đại cao thủ danh môn chính phái.
      Chợt Thanh-Mai sụyt sẽ một tiếng, nàng ghé mệng vào tai Tự-Mai:
      - Có người đang đi lại phía phòng mình.
      Hai chị em yên lặng, lắng tai nghe. Tiếng chân đến sát cửa phòng rồi ngừng lại nghe ngóng. Một lát có mùi hương xông vào mũi. Thanh-Mai bảo em:
      - Nín thở. Chúng ta bị xông thốc mê.
      Nàng chỉ vào lỗ chó chui, bảo em:
      - Em nhỏ người, chui ra trước đi. Còn chị ghé mũi vào khe cửa thở cũng được rồi.
      Lỗ chó chui khá rộng, Tự-Mai nhanh nhẹn chui ra khỏi phòng. Trong khi đó Thanh-Mai cảm thấy đầu óc choáng váng. Nàng muốn lên tiếng gọi em, mà miệng mở không ra. Còn Tự-Mai yên tâm chị mình ghé mũi vào lỗ chó chui thở, nó không quan tâm gì nữa.
      Tự Mai đưa mắt quan sát xung quanh. Tính tò mò, nó lần theo hàng hiên đi về phía cổng, núp vào bụi hoa mẫu đơn, phóng mắt nhìn vườn hoa phía trước. Nó nhận ra dưới gốc cây, có hai người núp. Một người chính là gã Triệu Anh đi trên xe ngựa hồi chiều. Một người là Quách Quỳ.
      Nó suy nghĩ:
      - Trong xe còn một người khỏang 25-26 tuổi tên Triệu Huy. Một người nữa khỏang 40 tuổi mà Quách Quỳ giới thiệu là Ngô Tích. Hai người này không có đây, chắc đang đánh thuốc mê. Bọn chúng là ai? Bề ngòai là khách trú. Võ công khá cao, chúng đánh thuốc mê, hẳn không phải để ăn trộm, mà mưu đồ gì khác.
      Không phải chờ lâu, lát sau Triệu Huy từ trong nhà mở cửa bước ra. Y lên tiếng gọi:
      - Xong rồi.
      Triệu Anh ra lệnh:
      - Ta với Quỳ lục soát đền thờ. Còn nhị đệ, tam đệ lục soát khắp nhà xem sao?
      Chúng không úy kị gì, đốt đuốc lên sáng lòa, chia nhau đi lục xét. Tự-Mai men dọc các bụi hoa theo Triệu Anh lên phía nhà thờ. Hai người mải mê, đâu biết nó đang theo bén gót. Nó núp vào dưới bệ con ngựa gỗ, đưa măt nhìn.
      Triệu Anh với Quách Quỳ lục lọi từ bát hương, cho tới ngai thờ, không bỏ sót một chỗ nào. Quách Quỳ hỏi:
      - Sư phụ! Tại sao chúng ta đã có biết bao nhiêu sách binh thư. Nào là Lục-thao, nào là Tam-lược, nào là Tôn-Ngô. Tại sao chúng ta phải mất công lặn lội sang đây tìm cái đó?
      Triệu Anh đáp:
      - Con không biết đó thôi. Bộ Dụng binh yếu chỉ này cực kỳ tinh vi. Bọn Việt nhờ nó, cho nên thời Lĩnh-nam, dân chỉ bằng một phần trăm dân Trung-nguyên, thế mà vua Quang Vũ dốc binh nghiêng nước, phải bao phen lao đao mới chiếm đựơc. Nhà Hán hao tốn hàng trăm vạn binh, hàng mấy chục ngàn dũng tướng. Chúng ta cần bộ võ kinh đó. Trước chiếm đất Giao-chỉ làm căn bản. Sau đánh đuổi bọn Tây-liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn, Đại-lý.
      Hai người vừa lục vừa nói truyện. Bỗng Quách Quỳ lật áo của pho tượng, la lên:
      - Lưng tượng có vết hàn. Chắc tượng rỗng ruột.
      Triệu Anh rút con dao trủy thủ ra, cậy vào vết hàn một lúc, rồi đẩy mạnh. Choang một tiếng, miếng đồng trên lưng pho tượng rơi xuống. Y thò tay vào trong moi ra hai cuốn sách. Y đưa sách vào ánh đuốc coi.
      Ghi chú,
      Hồi quân Minh sang đánh nhà Hồ, chúng nấu tượng Tương-Liệt đại vương ra đúc súng. Trong khi phá tượng, chúng tìm ra trong bụng tượng có ba quyển sách, chữ như con nòng nọc. Đó là văn tự Khoa-đẩu.
      Bỗng binh binh hai tiếng, một người từ mái ngói nhảy xuống. Tay trái xỉa vào mặt Triệu Anh, tay phải đoạt sách. Nhanh như chớp, y bỏ sach vào túi. Rồi chuyển tay đánh thẳng vào hạ bàn Triệu Anh. Triệu Anh vung chưởng đỡ. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng, y bật lui mấy bước, quát lớn:
      - Mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc của chúng ta?
      Người bị mặt không trả lời. Tay vẫn ra chiêu đều đặn. Tự-Mai nhận ra người bịt mặt xử dụng võ công Trung-nguyên, nhưng khác phái với Triệu Anh. Triệu Anh vừa đánh, vừa lùi dần ra cửa. Người bịt mặt cười khì, rồi vọt mình lên cao. Tay trái y bám lấy xà nhà. Tay phải phát chưỏng hướng mái ngói. Rầm một tiếng mái ngói vỡ tung. Người đó vọt mình ra ngoài. Y vừa đặt chân lên mái ngói, thì hai luồng kình phong tạt vào mặt. Triệu Huy, và Ngô Tích đón lại. Triệu Anh cũng đã lên mái ngói. Ba người vây tròn người bịt mặt vào giữa. Người bịt mặt không coi bọn Triệu Anh vào đâu. Y vừa đấu vừa cười:
      - Tung-sơn tam kiệt, mà ba người đánh một. Võ đạo Thiếu-lâm cao thực.
      Qua mấy chục chiêu người bịt mặt có vẻ núng thế.
      Triệu Huy nói:
      - Người là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc này chúng ta? Người mau mau trao quyển sách đó trả chúng ta. Chúng ta sẽ để cho người rời khỏi nơi đây.
      Người bịt mặt không trả lời. Chưởng phong đánh ra vù vù. Song chỉ một lúc sau người ấy đã yếu thế lắm rồi. Triệu Anh quát lên một tiếng, cả ba sư huynh đệ cùng phát ra một chưởng mãnh liệt. Người bịt mặt, vòng tay một vòng. Chưởng lực bốn người chạm nhau kêu lên một tiếng bùng lớn. Ba anh em Triệu Anh bật lui một bước. Còn người bịt mặt lảo đảo muốn ngã.
      Bỗng Triệu Anh lui lại. Y hô lên một tiếng lớn:
      - Tất cả ngừng tay!
      Ba người lui lại. Triệu Anh hỏi người bịt mặt:
      —Cứ như bản lãnh của ngừơi thực hiếm có trong thiên hạ. Hà cớ gì phải bịt mặt?
      Người đó cười gằn:
      - Ta bịt mặt vì không muốn gây hấn với phái Thiếu-lâm, chứ ta có coi Tung-sơn tam kiệt là cái quái gì? Thôi ta đi đây.
      Người ấy hú rền vang không gian, rồi vọt mình vào đêm tối. Triệu Anh quát lớn:
      - Đuổi mau.
      Ba người hú lên một tiếng đuổi theo.
      Trần Tự-Mai thấy ba cao thủ đi rồi. Nó phóng người ra chụp lấy Quách Quỳ. Quách Quỳ trầm người tránh. Nhưng không kịp, nó bị khống chế. Tự-Mai lấy dây lưng trói Quách Quỳ lại, dùng dẻ nhét vào miệng, túm áo bỏ vào bụi hoa gần đó. Nó cầm đuốc xuống nhà ngang, dùng tay gõ cửa phòng:
      - Chị Thanh, mở cửa cho em mau.
      Không có tiếng trả lời. Nó dùng vai huých mạnh. Cánh cửa bật tung ra. Nó đánh lửa lên, thấy Thanh-Mai nằm bên lỗ chó chui. Nó hiểu điều gì đã xẩy ra. Nó vội dùng khăn ướt lau mặt cho Thanh-Mai. Thanh-Mai tuy bị xông thuốc mê, nhưng nhờ công lực cao thâm, chân tay nàng không cử động nổi, chứ đầu óc còn minh mẫn lắm. Vừa cử động được, nàng bảo Tự-Mai:
      - Chúng ta mau cứu tỉnh mọi người.
      Hai chị em chạy vào phòng sư phụ, thì không thấy sư thái Tịnh-Huyền đâu. Còn bà Tôn Luận với Thanh-Nguyên đã tỉnh. Nhưng cả hai đều không cử động được.
      Thanh-Nguyên hỏi:
      - Chị Thanh, sư phụ đâu?
      - Chị không biết nữa.
      Quách Quỳ đổ quạu:
      - Không ngờ tôi đang ngồi trước mặt một vị hùng tài đại lược hơn cả Tôn-tử. Họ Quách này xin rửa tai nghe Tôn công tử dạy dỗ.
      Tôn Mạnh cười nhạt:
      - Về điều thứ nhất, Hầu đã nhìn sai rồi. Quân Đại-Việt tuy không kinh nghiệm chiến đấu. Song nước Việt lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa. Vì vậy quân lính luyện tập không ngừng. Đó là một điều Hầu sai lầm. Điều thứ nhì Hầu cho rằng với 20 vạn quân, thêm 30 vạn dân phu. Trong khi Đại-Việt chỉ có 10 vạn. Hầu tưởng với lực lựơng như vậy, có thể đè bẹp quân Đại-Việt. Hầu đâu biết khi quân xâm lăng tới, thì trai cũng như gái, gìa cũng như trẻ đều trở thành chiến sĩ. Điều thứ ba, Hầu cho rằng Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, gian dâm với Dương Vân-Nga là trái đạo lý. Song đạo lý đó là đạo lý Khổng Mạnh, ảnh hưởng nhiều bên Trung-nguyên. Trong khi bên Đại-Việt Phật giáo mới ảnh hưởng sâu đậm vào quần chúng. Việc của Lê Hoàn tuy có bị chê trách, nhưng võ lâm Đại-Việt không nhìn vào lỗi đó, mà chỉ nhìn vào công cuộc bảo vệ đất nước. Y lại cũng không ngờ đến việc thiền sư Vạn-Hạnh đứng ra triệu tập anh hùng thiên hạ chống giặc Tống.
      Tôn Đản tiếp tục hỏi cung Quách Qùy:
      - Quách công tử. Công tử kể tiếp cho.
      Suy nghĩ một lúc, Quách Quỳ đáp: Nguyên-súy Hầu Nhân-Bảo tâu tiếp « Thần chỉ sợ một điều, là võ công Giao-chỉ từ thời Tần, Hán vốn đã sáng chói hơn Trung-nguyên. Sau này có thời bị lu mờ. Song trong mấy trăm năm qua lại hưng thịnh lên. Vì vậy thần xin bệ hạ viện cho mấy đại cao thủ ».
      Tống Thái-tông cũng nhận thấy thế. Ngài đáp : « Trẫm lo lắng chỉ có điều đó. Thời Tần Thủy Hòang, một kiếm khách Lĩnh-nam sang Trung-nguyên, thắng khắp anh hùng thiên hạ. Nhân đấy y ghi chép tất cả võ công Trung-nguyên rồi về nghiên cứu ra phá cách. Bởi vậy sau đó Đồ Thư anh hùng biết mấy, mà bị chôn thây ở Ma-tần-lĩnh cùng 50 vạn quân. Lại đời Đông Hán, Sầm Bành, Phùng Dị võ công vô địch, mà chết dưới tay Đào Kỳ. Hoài-Nam vương nổi tiếng Thái-sơn thần kiếm, bị bại dưới tay Phật-Nguyệt. Tuy nhiên trẫm nghe võ công thời Lĩnh-nam hiện đã thất truyền. Nay nhà ngươi là đương kim vô địch trong các tướng của triều đình. Ngoài ra Tôn Toàn-Hưng, Trần Khâm-Tộ, Lưu Trừng đều là đại tướng vô địch bản triều, không lẽ trong thiên hạ còn có người võ công cao hơn nữa chăng ». Hầu nguyên soái tâu : « Tuy bọn thần võ công cao thực, song còn thua hai người là Triệu Phụng-Huân và Quách Quân-Bảo. Hai vị ẩn sĩ cao nhân này võ công cao không biết đâu mà lường. Triệu thuộc phái Võ-đang, kiếm thuật thần thông. Quách thuộc phái Thiếu-lâm, chưởng lực vô song ». Vì vậy tổ phụ tôi được vua Thái-tông sai sứ giả thỉnh, theo cuộc Nam chinh.
      Tôn Trung-Luận ngắt lời:
      - Trần cô nương, tôi chưa hề nghe đến tên hai tướng Quách Quân-Bảo, và Triệu Phụng-Huân. Họ theo đạo quân nào sang đánh Đại-Việt?
      Thanh-Mai gật đầu:
      - Có. Triệu theo đạo Hầu Nhân-Bảo. Quách theo đạo thủy quân. Tin tức về sáu đại cao thủ Trung-nguyên cầm quân sang đánh Đại-Việt khiến thiền sư Vạn-Hạnh lo lắng không ít. Đương thời võ lâm Đại-Việt chỉ có năm đại cao thủ thuộc lọai đệ nhất. Một là thiền sư Vạn-Hạnh chưởng môn phái Tiêu-sơn, hai là sư đệ của người là thiền sư Lý Khánh-Vân. Ba là chưởng môn phái Đông-a Trần Trí-Đức, bốn là chưởng môn phái Mê-linh sư thái Hoa-Minh, năm là chưởng môn phái Tản-viên Đặng Đại-Sơn.
      Tôn Trung-Luận hỏi:
      - Thế còn phái Sài-sơn, Tây-vu, hai phái đó không tham dự sao?
      - Có chứ. Nhưng chưởng môn phái Sài-sơn là sư thái Đàm-Nhẫn tuổi qúa cao, mà người vai dưới, công lực không đủ. Trong khi đó thì cao thủ Trung-nguyên kéo sang Đại-Việt có hàng ngàn. Trước hoàn cảnh đó, đại tướng Phạm Cự-Lượng đề nghị dùng chiến pháp « phân, hợp » của công chúa Thánh-Thiên khi xưa đánh trận Nam-hải.
      Quách Quỳ nghe đến tên Thánh-Thiên, sắc mặt y tái nhợt trông thực khó coi. Y hỏi:
      - Tôi nghe bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên đã thất truyền. Không ngờ vẫn còn truyền tụng.
      Thanh-Mai tiếp:
      - Thiền-sư Vạn-Hạnh đồng ý. Ngài cùng Lê Hoàn, Phạm Cự-Lượng bàn định kế sách. Cả ba đồng ý rằng đạo quân châu Ung, Liêm tiến sang là chính binh. Đạo Bạch-đằng là kỳ binh. Vì vậy dùng hai vị sư thái Hoa-Minh, Đàm-Nhẫn theo trợ giúp Phạm Cự-Lượng chặn đạo quân do Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân từ châu Liêm tiến sang. Thiền sư Vạn-Hạnh cùng đại hiệp Đặng Đại-Sơn theo trợ giúp Lê Hoàn ngăn đạo quân từ châu Ung tiến sang do Hầu Nhân-Bảo, Trần Khâm-Tộ chỉ huy. Cả hai đạo đánh cầm chừng. Đợi cho thiền sư Lý Khánh-Vân với đại hiệp Trần Trí-Đức diệt xong dạo kỳ binh của Lưu Trừng với Quách Quân-Bảo, rồi sẽ lên tiếp viện với hai đạo trên.
      Quách Quỳ gật đầu:
      - Thì ra là thế. Khi khởi binh, vua Thái-tông truyền lệnh giữ thực bí mật về kế sách. Dùng thủy-binh làm đạo chính binh, mà không lấy thủy binh ở châu Khâm, châu Liêm, vì sợ bị lộ, mà lấy thủy quân vùng Chương-châu, Tuyền-châu làm như chỉ có bộ binh, kị binh đánh Giao-chỉ, không dùng thủy quân. Không biết bằng cách nào mà bên Đại-việt biết rõ mưu kế của đại Tống. Thì ra tổ tiên tôi bại vì không bảo toàn cơ mật.
      Thanh-Mai cười:
      - Thủy quân của Lưu Trừng tiến vào sông Bạch-đằng, dự định đánh bọc hậu hai đạo quân Đại-Việt đang nghênh chiến ở vùng Chi-lăng, Đông- triều. Hai đạo quân bị tiền hậu thọ địch, chắc chắn tan vỡ. Hạm đội Tống chờ đêm đến mới tiến vào cửa sông, bất thần đổ bộ, chiếm một lúc năm ải ven sông dễ dàng. Quân Đại-Việt chống đỡ lấy lệ, rồi bỏ chạy. Lưu Trừng mừng rỡ, tưởng rằng kế họach thành công mỹ mãn. Y cho toàn bộ quân sĩ đổ bộ. Người ngựa sau hơn tháng hành trình mệt mỏi, giờ đây tha hồ chạy nhảy cho dãn gân, dãn cốt. Dưới mỗi chiến thuyền chỉ để một hai thủy thủ canh gác. Thình lình nửa đêm, nước chảy siết. Các chiến thuyền bị đứt dây cột trôi về hạ lưu. Lúc đầu Lưu Trừng, Quách Quân-Bảo tưởng thuyền bị đứt dây. Y hô kị mã men theo bờ sông đuổi theo. Đuổi một lúc y mới bật ngửa ra rằng không phải. Vì trên 500 chiến thuyền, « trôi» giữa giòng, chứ không quay tròn, tỏ ra có người lái. Thì ra đại hiệp Trần Trí-Đức đã dùng một đám đệ tử giỏi bơi lội, từ bên kia sông bơi qua, âm thầm leo lên giết chết thủy thủ giữ thuyền, cắt dây, cho thuyền trôi đi. Việc làm êm đềm, thần không biết, quỉ không hay. Khi quân canh trên bờ phát giác ra thì không còn kịp nữa.
      Tôn Trọng khoan khoái trong lòng:
      - Thế là cánh quân thủy tan vỡ. Vì khi thủy quân đã lên bờ thì không còn uy lực. Hơn nữa, nào lương thảo, nào vũ khí, nào quần áo đều để trên thuyền. Nay thuyền mất, thì không cần đánh, một ngày là phải hàng.
      Thanh-Mai tiếp:
      - Thế là quân Tống sau hơn tháng trời trên biển mệt mỏi, vừa thiếp đi, lại bị đánh thức dậy. Sáng hôm sau chiến thuyền Tống theo nước thủy triều tiến lên. Trên chiến thuyền kéo cờ Đại-Việt. Quân dân Đại-Việt gươm giáo sáng ngời. Các chiến thuyền bỏ neo ở giữa sông, phất cờ đánh trống. Hễ quân Tống định di chuyển, thì quân Việt lại chèo vào bờ định đổ bộ. Trước hoàn cảnh đó, Lưu Trừng đành cho quân lính đi vào thôn ấp gần đó cướp lương thảo. Không ngờ hết toán này đi, đến toán khác đi đều không thấy trở về. Y nổi giận cho một tướng dẫn hơn ngàn quân đi tìm lương, đến chiều đem về được nào trâu, nào lợn, nào gạo, nào rau. Y truyền quân sĩ giết trâu, mổ lợn nấu cơm ăn. Suốt ngày hôm đó quân Đại-Việt không tấn công. Đêm hôm ấy y truyền quân sĩ không được cởi giáp trụ, thay nhau canh gác. Không ngờ đến sáng, quân Đại-Việt vẫn bất động. Nhưng sáng hôm sau y khám phá ra quân Tống hầu hết bị đau bụng, tiêu chảy. Thì ra đại hiệp Trần Trí-Đức truyền quân sĩ lấy thuốc độc pha trong nước rồi đem rau, đậu nhúng vào, đưa cho quân Tống cướp đi. Chúng ăn phải, bị tháo dạ hết. Bấy giờ quân Đại-Việt mới từ các xóm làng tấn công. Thủy quân đổ bô. Quân Tống không còn sức chiến đấu, đành đầu hàng. Lưu Trừng, Quách Quân-Bảo không chịu đầu hàng. Cả hai nhất quyết cùng các tướng tử chiến. Thiền sư Lý Khánh-Vân không nỡ để các tướng Tống, Việt chết thảm, ngài đề nghị bên Tống cử ra ba người, bên Đại-Việt cử ra ba người đấu. Nếu Tống thắng hai, thì ngài sẽ tha cho các tướng ra về. Còn nếu Việt thắng hai thì, các tướng Tống phải đầu hàng.
      Quách Quỳ gật đầu:
      - Cô nương thuật đúng. Tổ phụ của tôi đấu với thiền-sư Lý Khánh-Vân. Sau 400 hiệp thì yếu sức, bị bắt. Còn đô đốc Lưu Trừng đấu với Trần Trí-Đức. Trí-Đức dùng một thứ võ công kỳ lạ hơi giống võ công Tiêu-sơn, sau 300 hiệp, Lưu đô đốc cùng với Trí-Đức hòa, vì sức cùng lực kiệt. Lưu đô đốc được thư thả ra về.
      Tự-Mai cười:
      - Sai rồi. Sau khi đấu được trên trăm chiêu, Lưu Trừng bị bại, cũng bị bắt. Bấy giờ cánh quân của thiền sư Lý Khánh-Vân cùng đại hiệp Trần Trí-Đức dùng chiến thuyền Hán tiến ra khơi, đổ bộ lên Tây-kết tiếp chiến với đạo quân của đại tướng Phạm Cự-Lượng cùng hai vị sư thái Hoa-Minh, Đàm-Nhẫn. Khi hai đạo quân bắt tay được với nhau. Đại-tướng Phạm Cự-Lượng đề nghị tha một số tướng Tống về, để Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân biết đạo quân thủy đã tan, thì không cần đánh, đạo này cũng vỡ. Thiền-sư Khánh-Vân đồng ý. Ngài truyền thả Lưu Trừng cùng 20 tướng khác về bên Tống. Quả nhiên Tôn Toàn-Hưng thấy Lưu Trừng cùng các tướng đạo hải quân được tha về hồn phi phách tán. Nửa đêm y truyền lệnh rút quân. Bấy giờ đại tướng Phạm Cự-Lượng mới tung quân đuổi theo. Trận đánh Tây-kết kéo dài hai ngày hai đêm, trên một tuyến hơn 50 đặm. Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân bị bắt. Đạo lục quân bị diệt trọn vẹn. Sau khi diệt đạo quân này, đại tướng Phạm Cự-Lượng đem đại quân đánh phía sau, trong khi đạo quân Lê Hoàn đánh phía trước. Giữa trận đại chiến, đại hiệp Trần Trí-Đức giết chết Hầu Nhân-Bảo. Trần Khâm-Tộ chạy thoát về Trung-nguyên.
      Tôn Mạnh giật mình hỏi:
      - Phải chăng thiền sư Khánh-Vân là sư phụ của đức Thuận-thiên hoàng đế bản triều?
      - Đúng đấy.
      Tôn Đản nhắc Quách Quỳ:
      - Thôi chúng ta ngừng nói truyện xưa ở đây. Quách công tử, người cho chúng tôi biết tại sao người lại sang Đại-Việt. Những người đi với công tử là ai vậy?
      Quách Quỳ thở đài:
      - Kể từ khi đức Thái-tổ khải-vận lập cực anh võ duệ văn thần đức thánh công chí minh đại hiếu hoàng đế lập ra Đại-tống. Tiếp theo đức Thái-tông thần công thánh đức văn võ hoàng đế kiến tạo sự nghiệp, trước diệt bọn ngụy Bắc-hán, Nam-Đường, sau chinh phục man di, hiển hách vô cùng. Nào ngờ, đến nay bị bốn phương uy hiếp. Sĩ dân thiên hạ cùng cảm thấy cay đắng.
      Y ngừng lại một lúc rồi tiếp:
      - Cách đây ba năm. Phương-trượng chùa Thiếu-lâm là Thanh-Lạc đại sư cùng với chưởng môn nhân các đại môn phái có sáng kiến tổ chức đại hội anh hùng hầu tìm lấy phương sách cứu nước. Sau 10 ngày bàn luận, không ai tìm ra đựơc điều gì. Cuối cùng nghị hội kết luận rằng sở dĩ các nước Liêu, Tây-Hạ, Đại-lý hùng mạnh vì vua, tôi một lòng. Còn nhà Đại-Tống trong thì vua hôn ám, đại thần chỉ biết hối lộ, đầu hàng Liêu. Tướng sĩ ngoài biên cương không biết mình chiến đấu cho ai? Chiến đấu rồi cũng đến chết uổng mà thôi. Trong khi quần hào thất vọng thì một vị đại hiệp cụt tay phải tên Triệu Thông đứng lên phát biểu ý kiến.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Có phải Triệu Thông xuất thân phái Võ-đang không?
      - Vâng! Sao cô nương biết? Triệu đại hiệp kiếm pháp thần thông thuộc phái Võ-đang. Hồi tòng quân giữ chức Chinh-di đại tướng quân. Trong lần trấn giữ thành Ung bị quân Đại-Việt tiến đánh, mất một cánh tay. Vì vậy sĩ dân đều kính trọng.
      Tôn Trung-Luận hỏi Thanh-Mai:
      - Cô nương! Làm gì có truyện đó?
      Thanh-Mai tính đốt ngón tay:
      - Có, nhất định có. Việc này vang lừng thiên hạ. Trong lúc trấn thủ Ung thêm Giác-Minh thiền sư, thủ tọa Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm, cùng với Duyên-Hoa sư thái của phái Nga-mi. Cả ba đại cao thủ cùng bị các cao thủ Đại-Việt đánh bại.
      Tự Mai vỗ tay reo:
      - Em nhớ ra rồi. Việc này xảy ra vào niên hiệu Thuận-Thiên năm thứ 13 bản triều. Bấy gìơ bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Càn-hưng nguyên niên đời vua Tống Chân-tông (1022, Nhâm-Tuất) mới cách đây mấy năm. Bấy giờ bọn quan trấn thủ biên giới Tống là Đại Nguyên-Lịch thường thả quân tràn qua biên giới cướp bóc, giết hại dân vô tội. Vua sai em là Dực-thánh vương đem quân phòng thủ. Đại Nguyên-Lịch quen thói cũ cho quân cướp phá. Dực-thánh vương phản công, đuổi tràn qua đất Tống đến chân thành Ung. Sự việc này trùng hợp với việc đại hội võ lâm Lĩnh-nam. Nguyên từ thời vua Ngô Quyền, các võ phái Lĩnh-nam ấn định mỗi năm đại hội mỗt lần, để chư đệ tử hiểu nhau, hầu tránh đụng chạm. Trong 7 môn phái, cứ mỗi môn phái đứng ra tổ chức một kỳ. Năm đó đến lượt phái Tây-vu tổ chức. Chưởng môn phái Tây-vu là phò-mã Thân Thừa-Quý đứng ra triệu tập. Nơi đại hội là châu Quảng-nguyên. Châu Quảng-nguyên giáp giới với Trung-Nguyên. Võ lâm Trung-nguyên cho rằng Đại Việt định đem quân tấn công. Họ cũng tổ chức đại-hội ở Ung-châu đề phòng. Gữa lúc đó, đoàn quân Tống trấn giữ biên cương tràn sang cướp phá. Võ lâm Đại-Việt, trợ giúp quân của Dực-thánh vương, vượt biên giới đuổi theo tới thành Ung-châu. Võ lâm Trung-nguyên xuất thành bên quân Tống. Vì vậy xẩy ra cuộc huyết chiến.
      Tôn Trung-Luận hỏi:
      - Cuộc chiến diễn ra như thế nào?
      Tự-Mai khoan thai kể:
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:34:42 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 22.12.2004 18:26:49 (permalink)
        Hồi thứ ba


        Tình Trong Như Đã


        - Phía bên Trung-quốc có hơn ngàn cao thủ. Phía bên Việt cũng gần 500. Minh-Không đại sư thấy, nếu xẩy ra cuộc đại chiến thì cả hai bên tổn thất không ít. Ngài đề nghị mỗi bên cử ra ba cao thủ đấu với nhau. Hễ bên nào thắng hai cuộc, coi như thắng. Nếu bên Việt thắng, thì bên Tống phải bắt đám binh lính bên họ thả những người dân Việt bị bắt. Ngược lại bên Tống thắng, bên Việt phải rút lui.
        Quách Quỳ gật đầu:
        - Đúng thế. Võ lâm Trung-nguyên do Giác-Minh đại sư, thủ tọa Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm thống lĩnh. Phía Đại-Việt do quốc sư Minh-Không chưởng môn phái Tiêu-sơn thống lĩnh. Trận đầu Đại-Việt cử Nghi-Hòa sư thái thuộc phái Mê-linh đấu với Duyên-Hòa sư thái thuộc phái Nga-mi.
        Nói đến đây nó đưa mắt nhìn Tôn Đản một cái. Tôn Đản cười:
        - Tất nhiên trận này bên Đại-Việt thắng.
        Tự-Mai ngạc nhiên:
        - Này anh Đản, anh biết rộng đấy nhỉ.
        Tôn Đản lắc đầu:
        - Tôi đoán vậy thôi. Vì kiếm pháp phái Mê-linh gốc từ vua Bà. Kiếm pháp này vô địch. Khởi thủy do Vạn-Tín hầu Lý Thân tức thánh Chèm chế ra. Thánh Chèm dùng biết bao tâm não, nghiên cứu tất cả kiếm pháp Trung-nguyên, rồi tìm ra nguyên tắc khắc chế. Vì vậy thời Lĩnh-nam không một cao thủ Trung-quốc nào địch nổi kiếm pháp này.
        Quách Quỳ hỏi:
        - Thời Lĩnh-nam nhiều người biết xử dụng kiếm pháp này lắm ư?
        Tôn Đản cười:
        - Chỉ có bốn người. Đầu tiên đại hiệp Nguyễn Phan dạy cho Bắc-bình vương Đào Kỳ. Vương dạy lại cho vương phi là tể tứơng Nguyễn Phương-Dung. Ngòai ra sau khi ra khỏi nhà tù, đại hiệp Nguyễn Phan còn thu nạp một nữ đệ tử là Bồ-tát Phật-Nguyệt... Kiếm pháp Mê-linh xuất phát từ thời vua Bà vì vậy tôi mới đoán rằng Duyên-Hòa sư thái bị bại.
        Quách Quỳ cười:
        - Thế nhưng trận đầu bên Lĩnh-nam không thắng. Hai vị sư thái đấu đựơc 200 hiệp, rồi cả hai cùng bị gẫy kiếm. Coi như hòa.
        Tôn Đản lắc đầu:
        - Tôi không tin.
        Tự-Mai gật đầu:
        - Đúng, trận đó hòa. Vì kiếm pháp Mê-linh hiện không còn đầy đủ. Nguyên sau khi vua Bà tuẫn quốc, Bắc-bình vương cùng vương phi tử chiến ở thành Long-biên. Nữ vương Phât-Nguyệt tuyệt tích. Vì vậy kiếm pháp ảo diệu đó lưu truyền thì có, nhưng yếu quyết biến hóa bị thất truyền.
        Tôn Đản không chịu:
        - Nhất định phải có. Bằng chứng là sau này Lệ-hải Bà-vương còn xử dụng đánh quân Ngô những trận trời long đất lở.
        Thanh-Mai gật đầu:
        - Đúng! Nguyên trước khi đánh trận Lãng-bạc, vua Bà truyền chép tất cả bí quyết võ công, cùng văn minh thời Lĩnh-nam, trong đó có bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên, rồi sao cho mỗi phái giữ một bản. Chắc chắn Lệ-hải Bà-vương học được kiếm pháp trong di thư ấy. Đều khiến chúng ta phải tìm hiểu xem Lệ-hải Bà-vương học ở đâu?
        Quách Quỳ hỏi:
        - Lệ-hải Bà-vương là ai vậy?
        Trung-Từ đáp:
        - Là bà Triệu. Bà Triệu quê ở Cửu-chân, cùng anh là Triệu Quốc-Đạt khởi binh vào niên hiệu Diên-hy năm thứ 11 (248). Bà cùng anh chỉ có 300 chiến sĩ. Mà đánh chiếm đựơc cả vùng Cửu-chân trong vòng năm ngày. Sử nói rằng bà đi đến đâu, đầu quân Ngô rơi đến đấy. Vì vậy người Ngô làm thơ ca tụng bà. Thơ đó nay hãy còn lưu truyền.
        Quách Quỳ đọc lớn:
        - Cửu Chân thị địa linh.
        Hùng khí tải thiên niên.
        Diên-hy xuất nhất nữ.
        Trí dũng thực vô biên.
        Nam nhi bất khả cập. Thế thế nhân nhân truyền.
        Hoành giáo đương hổ dị.
        Đăng sơn đối Bà nan.


        Ghi chú
        Tôi không biết tác giả bài này là ai? Cũng chẳng thấy chép trong sử Trung-quốc, Việt-Nam. Tôi ghi theo trí nhớ trong tập sách chép tay bằng chữ Hán, dạy Nam-sử cho thiếu niên Việt tên “Nam-sử cương yếu” mà tôi được học vào năm bẩy tuổi.

        Tôn Mạnh hừ một tiếng:
        - Thơ chữ Hán, khó hiểu quá.
        Thanh-Mai dịch:
        - Cửu-chân là đất thiêng,
        Hùng khi trải bao năm,
        Diên-hy sinh một nữ (3) Trí dũng thực vô biên,
        Nam nhi không sánh kịp.
        Đời đời miệng người truyền:
        Cầm giáo chống hổ dễ,
        Lên núi đối bà nan.


        Ghi chú
        Diên-hy là niên hiệu của Hậu-chúa, năm bà Triệu khởi binh nhằm niên hiệu Diên-hy thứ mười một (248 sau Tây-lịch).

        Tự-Mai khen:
        - Quách công tử thực không uổng xuất thân danh gia. Thơ văn nào cũng thuộc làu.
        Quách Quỳ nói:
        - Không hẳn thế đâu. Trứơc khi sang đây. Tôi phải học nói tiếng Việt cùng lịch sử, văn học Đại-Việt. Để tôi tiếp. Trận thứ nhì thì Huyền-Thanh đạo trưởng, chưởng môn phái Võ-đang đại diện Trung-quốc. Đại hiệp Trần Tự-An đại diện Đại-Việt.
        Thanh-Mai, Tự-Mai đều bật lên tiếng ồ một lúc. Quách Qùy hỏi:
        - Có gì lạ không?
        Thanh Mai lắc đầu:
        - Không.
        Song trên mặt ba chị em hiện lên nét kỳ dị. Vì Trần Tự-An chưởng môn phái Đông-a chính là thân phụ chị em Thanh-Mai. Tuy hai người từng nghe bố kể về trận đấu này nhiều lần rồi, thế nhưng nay nghe người ngoài kể, hai người không khỏi có nhiều điều tự hào.
        Quách Quỳ tiếp:
        - Hai bên đấu được trên trăm hiệp, thì đi đến đấu nội lực. Khoảng nhai dập miếng trầu, đạo trưởng Huyền-Thanh yếu thế. Ai cũng kinh ngạc. Vì nội công phái Võ-đang đứng đầu Trung-nguyên. Mà đạo trưởng lại chuyên về luyện khí. Trần công tử, người có biết tại sao không?
        Tự-Mai mỉm cười:
        - Điều này hơi rắc rối, nên bên Trung-nguyên không hiểu là phải. Nguyên trong trận đánh Bạch-đằng, ông nội tôi bắt được cuốn phổ của phái Võ-đang. Người đem về nghiên cứu một tháng thì tìm ra rằng giữa nội công Đông-a với Võ-đang có nhiều điều trái ngược, nhiều điều tương đồng. Nhân đó người sửa đổi nội công Đông-a trở thành khắc chế với nội công Võ-đang. Vì vậy khi đệ tử Đông-a đấu với bất cứ đệ tử nào của Võ-đang, cũng thắng dễ dàng.
        Quách Quỳ buồn rầu:
        - Thì ra thế. Công tử là con của đại hiệp
        Tự-An mà tôi quên mất.
        Tôn Đản nói móc:
        - Quách công tử. Người đần thật. Vậy mà cũng đòi đi ăn trộm, đến nỗi bị Tự-Mai bắt được. Hồi chiều sư phụ người nghe chị Thanh-Mai xưng là con gái đại hiệp Trần Tự-An. Ông ta sợ té đái vãi phân ra bỏ chạy mất tích. Bấy giờ công tử đứng bên cạnh không lẽ không biết? Chị Thanh-Mai là con đại hiệp Tự-An. Mà Tự-Mai là em chị Thanh-Mai, thì đương nhiên cũng là con đại hiệp Tự-An chứ còn gì nữa mà phải hỏi?
        Quách Quỳ lờ đi như không nghe lời châm biếm của Tôn Đản. Nó nói tiếp:
        - Triệu Thông là đệ tử của đạo trưởng Huyền-Thanh, lĩnh chức chinh di đại tướng quân tổng trấn thành Ung, xua quân tràn ra ngoài thành. Võ lâm Đại-Việt phải rút chạy. Đến gần biên giới, thì quân Đại-Việt cũng tràn ra cứu trợ bên mình. Cuộc chiến diễn ra thực kinh thiên động địa. Lúc đầu thì lực lượng hai bên ngang nhau. Sau chưởng môn phái Tây-vu cho đạo quân mấy triệu con ong xuất trận. Quân Tống bị ong đốt bỏ chạy tán lọan. Các cao thủ bên Trung-nguyên chết gần hết. Thủ tọa Đạt-Ma đừơng, La-Hán đường phái Thiếu-lâm. Chưởng môn phái Võ-đang, Nga-mi. Lục vị trưởng lão phái Không-động. Tứ kiệt phái Hoa-sơn đều tuẫn quốc... Triệu Thông bị mất một tay.
        Tôn Mạnh cười:
        - Cái ông Triệu Thông còn sống sót đó bây giờ hẳn có nhiều kinh nghiệm. Chắc ông ta bầy kế cứu nước hay lắm.
        Quách Quỳ bị Tôn Mạnh nói mỉa. Nhưng nó không hiểu tiếng Việt, nên tưởng là lời khen. Nó gật đầu:
        - Triệu đại hiệp nói rằng: muốn cứu nước phải dùng đến hai biện pháp. Thứ nhất tìm ra cho được bộ Lĩnh Nam võ kinh viết thời vua Trưng bên Đại-Việt. Như vậy nhà Đại-Tống sẽ có bộ Dụng binh yếu chỉ . Bộ binh pháp này nhiệm mầu hơn bộ Vũ-kin của Tôn Võ nhiều. Thứ nhì là toàn bộ võ công Lĩnh-nam. Như vậy các cao thủ Liêu, Tâ-hạ làm sao địch nổi?
        Thanh Mai gật đầu:
        - Ý kiến đó thực hay. Rồi sao?
        - Quần hào đều cho là ý kiến xác đáng. Cuối cùng đưa ra đề nghị ba điều: một là dù vua Tống hôn ám, không nên đánh đổ nhà Tống. Đánh đổ nhà Tống lúc này chỉ khiến nội loạn chém giết nhau. Rồi ngoại bang tràn vào cướp nước. Ngược lại, cần trợ giúp Tống triều. Đại hội cử phái đòan yết kiến hoàng đế Thiên-thánh (Tống Nhân-tông), bầy tỏ ý đó. Thứ nhì cử nhiều cao thủ sang Đại- Việt tìm di thư. Thứ ba, hô hào võ lâm thống nhất hành động chống ngoại bang. Thiên-thánh hoàng đế không tiếc tiền, cử nhiều phái đoàn sang Đại-Việt dò la. Nhưng vô hiệu. Di thư không có manh mối nào khả dĩ lần ra.
        Tự Mai cười:
        - Thế thì công tử cũng ở trong một phái đoàn. Không biết phái đoàn của công tử do ai cầm đầu? Phái đoàn có bao nhiêu người?
        - Cầm đầu phái đoàn là hoàng đệ Triệu Thành tước phong Bình-nam vương lĩnh phụ quốc thái úy. Năm nay khỏang 35 tuổi, văn võ kiêm toàn. Người không ra mặt, mà ẩn vào làm một nhân viên trong sứ đòan đến Đại-Việt. Sứ đòan đến Đại-Việt chỉ là bề ngoài. Nhưng thực ra để liên lạc với bốn đoàn do thám khác. Người sai sư phụ tôi cùng với hai sư thúc lên đường đi Cửu-chân, dò xét trong đại hội tại đền thờ Lệ-Hải bà vương, hy vọng tìm được di thư. Nào ngờ ban ngày xẩy ra cuộc chiến giữa tôi với Đản. Sư phụ tôi nhận xét rằng Đản xử dụng võ công Tản-viên pha lẫn với Cửu-chân. Vì vậy người đoán rằng sư phụ của Đản ắt có di thư trong tay. Song luyện tập thiếu chuyên cần. Bằng không, Đản đâu đến nỗi bị tam sư thúc bắt dễ dàng?
        Thanh-Mai hỏi:
        - Vì vậy, sư phụ người mới đánh thuốc mê chúng ta. Cuối cùng lục kiếm được di thư phía sau tượng đức ông. Ai ngờ trời bất dung kẻ gian. Giữa lúc đó, bị người khác đọat mất.
        Tôn Trung-Luận cười:
        - Cuốn sách để trong tượng đức ông không phải di thư đâu. Chẳng qua đó là cuốn phổ chép tiểu sử của ngài mà thôi.
        Tự-Mai ra hiệu cho mọi người im lặng:
        - Sứ đoàn của công tử đã làm được những gì?
        - Tuy chưa tìm được di thư, nhưng đoàn của tôi đã tìm ra được một manh mối quan hệ hơn, đó là bắt liên lạc được với hai người, nguyên là đệ tử bang Nhật-Hồ Trung-quốc, do Khu-mật viện gửi sang. Lại cũng liên lạc được với ít nhất ba trưởng-lão của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Thanh-Mai hỏi:
        - Công tử có biết tên ba vị đó không?
        - Không! Tôi chỉ biết trong ba vị ấy, có một vị nguyên là đại tướng Tống, tước phong hầu, được gửi về Đại-Việt, âm thầm tổ chức người Hoa thành đội ngũ, để khi quân Thiên-triều sang, thì nổi lên làm nội ứng.
        - Còn hai người nguyên là đệ tử bang Nhật-Hồ Trung-quốc, họ là ai?
        - Tôi chỉ nghe lỏm rằng hai người là vợ chồng. Họ cải danh. Vợ làm thầy thuốc. Còn chồng thì cạo đầu đi tu. Tuy vậy đêm đêm họ vẫn âm thầm gặp nhau.
        Thanh-Mai tỏ ra rất chú tâm đến Hồng-thiết giáo. Nàng hỏi:
        - Người ta nói Nhật-Hồ lão nhân là giáo chủ Hồng-thiết giáo Đại-Việt cũng là sư phụ của Đông-Nhật lão nhân, nguyên giáo chủ Hồng-thiết Trung-Quốc. Không biết có đúng không?
        - Truyện này tôi nghe biết lờ mờ mà thôi. Đông-Nhật lão nhân chính là Lưu Trí-Viễn, trước đây lên làm vua. Sau khi người chết thì Hồng-thiết giáo Trung-quốc bị diệt. Cô nương! Dường như cô nương biết nhiều về giáo phái này thì phải?
        - Dĩ nhiên. Vì Hồng-thiết giáo rất tàn bạo. Họ ăn bào thai để luyện công. Hồi Thập-nhị sứ quân, suýt nữa họ chiếm được nước. Sau khi Thập-nhị sứ quân bị diệt, họ vẫn bí mật hoạt động. Hôm trước phụ thân tôi có lên Bắc-biên chơi, thì được biết phái Tây-vu đang truy lùng giáo chúng Hồng-thiết dữ lắm. Bởi họ mới nổi loạn.
        Quách Quỳ hỏi:
        - Khi còn ở bên Trung-nguyên, tôi nghe nói Tây-vu là một nước riêng không thống thuộc Đại-Việt. Chúa Tây-vu là đàn bà. Nước Tây-vu gồm nhiều nước nhỏ như Lạng-châu, Quảng-nguyên, Vĩnh-an, Tô-mậu, Thất-nguyên, Bảo-lạc. Không ngờ Tây-vu lại là một môn phái.
        Thanh-Mai đáp:
        - Quách công tử, người lầm rồi. Hồi Lĩnh-nam, Tây-vu bao gồm nhiều sắc dân vùng núi rừng giáp giới giữa Giao-chỉ với Nam-hải, Tượng-quận. Công chúa Hồ Đề thống nhất lại thành phái Tây-vu. Trải đến đời đức Thuận-thiên hoàng đế (Lý Thái-tổ) lên ngôi, họ gồm 207 trang động thống nhất. Cứ năm năm bầu lấy một vị lãnh đạo. Theo truyền thống, vị lãnh đạo bao giờ cũng là phụ nữ. Bấy giờ họ không tìm ra được một phụ nữ lãnh đạo, đành cho Thân Thiệu-Anh giữ quyền làm vua. Thân Thiệu-Anh được đức hoàng đế gả em gái là công-chúa Hồng-Châu cho. Con trai Thân Thiệu-Anh là Thân Thừa-Qúy lại được hoàng đế gả nhị công chúa cho. Trong kỳ đại hội mới đây, nhị công chúa được 207 động chủ tôn làm vua. Vua Tây-vu vẫn thần phục bản triều.
        Trời dần sáng. Vừng kim ô ló dạng tỏa ánh sáng ban mai xuống những chòm cây xanh bóng. Chim thức giấc hót líu lo, chào mừng một ngày đang tới. Đám trẻ bạn của Đản đã trở lại. Đản đem truyện đêm qua kể cho đám bạn nghe. Hà Thiện-Lãm chửi thề:
        - Thế là cái đéo gì. Nó sang đây ăn cắp di thư. Cũng như quân cướp nước. Đã là quân cướp nước thì còn gì là tử tế nữa. Đem nó chém ra làm mấy khúc, liệng xuống sông nuôi cá cho rồi. Từ xưa đến giờ bọn Tống hèn yếu, bị vua Lê Đại-Hành đánh cho nghiêng ngửa. Bắc bị Liêu. Tây bị Tây Hạ. Nước Việt mình cũng nên đem quân sang chiếm lại đất cũ, tái lập Lĩnh-nam. Chẳng biết sao triều đình không làm thế?
        Bỗng có tiếng nói êm đềm từ bụi hoa gần đó:
        - A-Di-Đà Phật! Không nên! Không nên. Quách tiểu thí chủ không phải là đầu mối vụ này. Vả lại, tội trộm cần giao cho quan nha xét xử. Chúng ta không thể giết người.
        Thanh-Mai, Tự-Mai cùng chạy lại:
        - Sư phụ! Thì ra sư phụ ở đây! Bọn con tìm khắp nơi mà không thấy.
        Tịnh-Huyền sư thái đứng dậy nói:
        - Đêm qua sư phụ thấy có nhiều tiếng chân người đến ngôi đền này. Bước chân trầm mà không tiếng động, thì biết nhiều cao thủ phái Thiếu-lâm gía lâm. Vì vậy sư phụ ra bụi hoa này ngồi thiền. Mọi truyện không có gì đáng ngại.
        Bà hỏi Quách Qùy:
        __ Tiểu thí chủ! Sư phụ của tiểu thí chủ là đệ tử phái Thiếu-lâm, đệ nhất danh môn chính phái Trung-quốc. Tại sao lại dùng độc khí Xích Trà Luyện của Hồng-thiết giáo, xông chúng ta?
        Quách Quỳ nhăn nhó:
        - Tiểu bối hoàn toàn không biết gì về vụ này.
        Thanh-Mai hỏi Tịnh-Huyền:
        - Độc chất Xích Trà Luyện là loại gì mà sức mạnh kinh khủng. Đệ tử thò đầu ra ngoài, thế mà hít phải một chút, chân tay không cử động được nữa.
        Tịnh-Huyền giảng giải :
        _ Xích Trà Luyện là tên của vị giáo chủ đời thứ nhì thuộc Hồng-thiết giáo Tây-dương. Người chế ra một thứ độc chất, gồm hai thứ nước khác nhau, đựng trong một bình hai ngăn. Khi đập vỡ bình, thì hai chất gặp nhau, phát nổ, cháy, bốc thành khói bay mịt mờ. Ai ngửi phải thì chân tất tê liệt trong vòng hai giờ. Còn người nào uống thuốc giải trước thì vô sự. Độc chất này do Nhật-Hồ lão nhân mang về Trung-quốc, Đại-Việt.
        Thanh-Mai gật đầu:
        - Thế thì đúng rồi.
        Quách Quỳ nói :
        - trong đám gian tế Tống, có ba trưởng lão Hoàng-thiết giáo. Chắc ba người này trao độc chất Xích Trà Luyện cho sứ đoàn Trung-quốc chứ không sai.
        Đến có có tiếng ồn ào, rồi một đoàn thiếu niên mười người, lưng đeo mã tấu tiến vào. Họ đều mặc quần áo nâu, cổ quàng khăn đỏ.
        Người trưởng toán hỏi Tôn Trung-Luận:
        - Bác từ! Nghe nói đêm qua có bọn trộm đến viếng đền thờ đức Ông phải không? Sự thể ra sao?
        Chợt anh ta thấy Tịnh-Huyền, vội chắp tay:
        - Đệ tử Đoàn Chi xin kính cẩn tham chiến sư thái.
        Tịnh-Huyền đáp lễ:
        - Phúc đức! Các vị đến vừa đúng lúc.
        Tôn Trung-Luận thấy họ thì mừng rỡ lắm đứng dậy:
        - Anh Chi! Tôi mong anh quá.
        Ông giới thiệu Tịnh-Huyền và chị em Thanh-Mai với Đoàn Chi, rồi chỉ toán thiếu niên:
        - Bạch sư thái đây là toán thiếu niên Hồng-hương thuộc thôn Tân-qui. Thôn này được an ninh là nhờ anh em đây.
        Nói rồi ông thuật sơ lược nội vụ cho Đoàn Chi nghe. Đoàn Chi nói:
        - Như vậy Quách Quỳ phạm tội trộm. Theo luật bản triều thì người lớn bị phạt lao dịch mười ngày. Trẻ con thì trao trả bố mẹ, hương chức dạy dỗ.
        Tịnh-Huyền chắp tay:
        - A-Di-Đà Phật! Thanh-Mai con mau cởi trói cho tiểu công tử, rồi đưa lên quan nha.
        Đoàn Chi nói:
        - Để tôi giải lên huyện. Từ đây lên huyện cũng không xa làm bao. Xin bác từ theo sau làm chứng.
        Tôn Đản nói với bố:
        - Thưa bố, duyên may gặp gỡ, con được sư thái dạy dỗ từ qua tới giờ khá nhiều. Nhân sư thái lên đường dự lễ đền thờ Lệ-Hải Bà-vương. Xin bố cho con đưa đường, để được học hỏi thêm.
        Tôn Trung-Luận gật đầu:
        - Gửi con vào cửa Phật là điều ai cũng ước vọng. Con theo gót Bồ-tát của sư thái. Hãy cố học lấy tư cách của danh gia đệ tử như anh Tự-Mai.
        Hà Thiện-Lãm, Lê Thuận-Tông đến trứơc sư thái Tịnh-Huyền quì gối:
        - Xin sư thái mở tâm Bồ-tát cho chúng con theo dự đại lễ với.
        Sư thái Tịnh-Huyền phất tay, một kình lực nhu hòa đỡ hai đứa trẻ dậy:
        - Các con muốn theo bà, để học đạo đức Thế Tôn, thực chúng ta có tiền duyên vậy. Nào lên đường.
        ...Một sư bà dẫn một thiếu nữ, bốn đứa trẻ cùng trên con đường. Con đường đọng đầy sương mai. Cỏ nở hoa thơm ngát. Nắng vàng đổ lên đồng ruộng mênh mông. Sư thái Tịnh-Huyền vừa đi vừa giảng về cuộc khởi nghĩa oanh liệt xưa kia của bà Triệu. Bà chỉ vào dãy núi xa xa:
        - Các con hãy nhìn dãy núi kia. Xưa là căn cứ của bà Triệu. Lúc đầu chỉ có 300 tráng sĩ, mà khiến cho Lữ Đại mất ăn, mất ngủ. Đại phải rút quân từ Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm các nơi về tiếp viện. Cuối cùng tràn ngập được căn cứ nghĩa quân. Khi y lên núi, doanh trại thì còn, nhưng một bóng người cũng không thấy. Tổ tiên ta anh hùng như thế đó.
        Thiện-Lãm lắc đầu:
        - Bà giảng như vậy, làm sao con hiểu được. Xin Bà thuật tỷ mỉ, họa may con mới thông hết.
        Sư thái Tịnh-Huyền bảo Trần Tự-Mai:
        - Con thuật cho các bạn nghe đi.
        Lê Thuận-Tông lên tiếng:
        - Trời nắng gắt quá, xin bà cho chúng con ngồi dưới gốc cây kia một lát. Bọn con mỏi chân lết không nổi rồi.
        Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
        - Ừ, bà quên mất rằng các con chưa học võ. Nội lực không làm bao.
        Cả đoàn đến ngồi đưới gốc cây đa cổ thụ. Thanh-Mai chỉ cây đa nói:
        - Cây đa này cao thực, tới ba gốc. Không biết tại sao lại có sự kỳ lạ thế nhỉ?
        Hà Thiện-Lãm tỏ ra sành sỏi:
        - À, truyện giản dị thôi. Đầu tiên cây chỉ có một gốc. Cành mọc chĩa ra xa. Cây đa vốn có nhiều rễ từ các cành túa xuống. Rễ chạm đất, lập tức bén mầu, mọc chui xuống càng ngày càng sâu. Rễ ấy lớn dần lên, lâu năm to bằng gốc mẹ. Thế là thành một gốc mới. Vì vậy cây đa này mới có tới ba gốc.
        Dưới gốc đa, có mấy cái ghế bằng gỗ đơn sơ. Ý hẳn, dân làng làm, để du khách đi qua tiện chỗ nghỉ chân. Đợi mọi ngừơi ngồi xuống xong. Tự-Mai hắng rặng một tiếng rồi kể:
        - Chúng ta đã biết tường tận về truyện vua Trưng đuổi giặc Hán, lập triều đình Lĩnh-nam, làm rung động Trung-nguyên. Sau khi vua Bà tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Các vị anh hùng như Đào Kỳ, Phương-Dung, Chu Bá, Đô Dương quân ít, thế cô dần dần cũng bị diệt. Vua Quang-Vũ nhà Hán truyền lệnh Mã Viện phải tiến chiếm từng trang, từng châu. Các trang đều tử chiến. Mã phải trải hai năm mới chiếm hết. Mỗi khi vào được trang nào. Trong trang điêu tàn, chỉ còn một số ít đàn bà trẻ con. Dân chúng chết la liệt. Bởi vậy, Hán tuy chiếm được đất Lĩnh-nam, mà không chiếm được dân Lĩnh-nam. Dân số Lĩnh-nam hồi đó trên 10 triệu người. Trừ hai triệu người Hán ra. Dân Việt tới tám triệu. Sau khi bình định xong. Mã Viện kiểm tra dân số, còn không quá ba triệu. Chính vì vậy, mà trên 200 năm. Người Việt không đủ sức vùng dậy.
        Tự-Mai ngừng lại một lát rồi tiếp:
        - Cuối thời Đông-Hán. Trung-quốc bị phân ra làm ba nước. Sử gọi là thời Tam-quốc. Bắc thuộc Ngụy, do con cháu Tào Tháo cai trị. Vùng Hán- trung, Ích-châu do giòng dõi của nhà Hán là Lưu Bị cai trị. Phía Đông và Nam sông Trừơng-giang do Tôn Quyền cai trị gọi là Đông-Ngô. Ba nước đem quân đánh lẫn nhau.
        Lê Thuận-Tông hỏi:
        - Bấy giờ bên Việt mình bị nước nào cai trị?
        - Không nhất định. Niên hiệu Kiến-an thứ năm thời Hán Hiến-đế (201 sau tây lịch). Hán cử Trương Tân làm thứ sử Giao-chỉ. Đựơc sáu năm Trương Tân bị một kiếm khách giết chết.
        Tôn Đản ngắt lời:
        - Y bị giết trong trường họp nào? Kiếm khách đó tên là gì?
        - Trương Tân mới sang. Y truyền khắp Giao-chỉ phải tạc tượng, làm đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang. Tại Long-biên, đích thân y điều động xây ngôi đền thực lớn. Lại sai thợ tìm một cây mít to hơn ngưới ôm. Y sai đẵn gỗ mít, tìm người thợ khéo, tạc tượng Tích Quang. Bốn người thợ làm việc trong hai tháng, thì xong pho tượng, lớn bằng người thực. Tựơng Tích-Quang có tư thế ngồi vuốt râu, tay cầm sách đọc. Y truyền lệnh dân chúng khắp nơi tụ tập về đúng ngày rằm tháng hai, để làm lễ yểm tâm. Pho tựơng được đặt lên bệ, trùm một tấm vải mầu vàng. Đợi đúng gìơ Ngọ, y sẽ đến chủ tọa buổi lễ. Chính tay y gỡ tấm vải ra.
        Tự-Mai ngửa tay hướng về phía Thiện-Lãm:
        - Khát nước qúa. Cho xin một hớp mới đủ hơi kể truyện.
        Thiện-Lãm mở bầu nước rót ra bát làm bằng nửa cái gáo dừa, hai tay bưng đưa cho Tự-Mai:
        - Xin thầy đồ xơi nước, rồi kể truyện.
        Tự-Mai bưng bát nước uống cạn, tiếp:
        - Giờ Ngọ. Các quan tề tựu đầy đủ. Dân chúng bị bắt về dự có hàng mấy vạn. Sau hồi hồi chiêng trống. Y trịnh trọng lên đài cao gân cổ kể công ơn Tích Quang là người đầu tiên đem lễ nghĩa Khổng, Mạnh sang giáo hóa dân Việt. Dạy dân Việt cách trồng cấy ngũ cốc. Rồi y tiến vào đền, leo lên bệ, thân gỡ tấm vải phủ trên pho tượng. Khi tấm vải gỡ ra. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến ngẩn người, tròn mắt. Đố biết cái gì đã xẩy ra nào?
        Mọi người ngừng lại, đưa mắt nhìn về phia trước. Trên đường, năm người cỡi năm con ngựa đang tiến tới. Họ cùng xuống ngựa, ngồi trên các mỏm đá dưới gốc đa nghỉ chân. Người thứ nhất khoảng 27-28 tuổi, cực kỳ uy vũ, trang phục theo lối quý phái. Người thứ nhì là một hòa thượng gầy như que củi. Người thứ ba là một thanh niên, béo tròn béo trục. Người thứ tư trang phục như một đạo sĩ. Còn ngươi thứ năm da trắng môi hồng, tuổi khoảng 17-18. Họ đưa mắt nhìn đoàn người của sư thái Tịnh-Huyền. Tất cả cùng chắp tay xá ba xá miệng niệm:
        - A-Di-Đà Phật.
        Sư thái Tịnh-Huyền vẫy cả bọn cùng đứng lên:
        - A-Di-Đà Phật.
        Thanh-Mai, Tự-Mai nhận ra thanh niên công tử chính là người chị em nàng đã gặp năm trước tại cố đô Hoa-lư, sau đó được chàng tặng hoa mấy mùa. Tự-Mai hướng thanh-niên công tử:
        - Thì ra anh!
        Thanh niên công tử cười rất tươi:
        - Cứ có duyên, thì thế nào anh em mình cũng gặp lại nhau. Thế nào chú vẫn khỏe chứ. Hồi này lớn quá rồi.
        Chàng hướng Thanh-Mai:
        —Trần cô nương. Dung nhan cô nương ngày càng đậm đà. Không biết chú em có bắt cô nương bịt mũi, nhắm mắt khi qua những chậu hoa tại hạ tặng không?
        Tự-Mai cười:
        —Anh biết không, hoa anh cho đẹp hơn hoa trong vườn nhà em nhiều. Mỗi lần hoa đến, chị Thanh dành tưới, cắt tỉa. Chị ấy còn đem về phòng riêng, không cho em thưởng nữa.
        Thanh-Mai dơ tay đánh gió em một cái. Tự-Mai lượn mình tránh khỏi. Thanh niên công tử dơ tay vẫy đám trẻ mỉm cười. Đám trẻ thấy tư thái thanh niên công tử đường bệ, thanh cao, nhẹ nhàng. Chúng cũng gật đầu đáp lại.
        Tự-Mai nhớ đến bài thơ Thôi Hộ đề ở gốc đào. Nó ngâm:
        Tích- niên kim nhật thử viên trung,
        Nhân diện đào hoa tương ánh hồng,
        Nhân diện chí kim tại thử địa,
        Đào hoa thành quả, khiếm Xuân phong.
        Nó đổi hai câu cuối đi. Trước kia là: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu Xuân phong có nghĩa: mặt hoa nay không biết ở đâu, hoa đào năm ngoái còn cười gió Xuân thành ra mặt hoa nay hiện nơi đây, nhưng hoa đào đã thành trái, mà thiếu gió Xuân.
        Thanh niên công tử cùng Thanh-Mai, mặt nhìn mặt. Gió hiu hiu thổi. Hai người như lạc vào chốn Bồng-lai hoang vu. Họ đều xuất thần, quên mất rằng xung quanh có bao nhiêu người.
        Thanh-Mai nghĩ thầm:
        - Mình tưởng kiếp này không gặp lại chàng nữa, thì chẳng hoá ra một cuộc tình đoạn trường ư? Không ngờ hôm nay gặp chàng đây? Không biết chàng là ai? Liệu có phải là người trong võ lâm không? Mình phải làm một cái gì để phá sự yên lặng này mới được, bằng không thằng em ranh ma nó nói toẹt ra thì xấu hổ chết.
        Thanh-Mai đến trước hòa thượng chắp tay hành lễ:
        - Bạch hòa thượng. Chị em chúng con đang dở truyện. Không biết có làm phiền sự yên tĩnh của hòa thượng không?
        Hòa thượng nở một nụ cười từ ái:
        - Cô nương không nên đa lễ. Chính bọn bần tăng làm rộn sư thái và quý vị. Chúng ta là con dân Đại-Việt cả mà?
        Nghe đến câu con dân Đại-Việt bọn trẻ gật đầu nhìn nhau tỏ vẻ suy nghĩ.
        Thanh-Mai nói:
        - Thôi chúng ta tiếp tục. Các em trả lời Tự -Mai đi.
        Nàng đưa mắt nhìn công tử. Bốn mắt gặp nhau, cả hai như cùng uống một chén rượu nồng, men làm đỏ mặt lên.
        Thiện-Lãm không chú ý đến bọn mới tới. Nó nói với Tự-Mai:
        - Tượng bị thích chữ vào mặt.
        Tự-Mai lắc đầu.
        Thuận-Tông nói:
        - Tượng bị cắt mất tai.
        Tự-Mai cũng lắc đầu.
        Tôn Đản ngơ ngác:
        - Tượng bị khoét mắt.
        Tự-Mai lắc đầu hỏi:
        - Nếu các anh muốn phá Trương Tân. Các anh sẽ làm gì?
        Thiện-Lãm cười:
        - Khắc con chim cu vào mặt.
        Tôn Đản nhăn nhó:
        - Cấm nói tục. Chúng mình với nhau nói tục thì được. Ở đây có quí khách, có sư phụ, có chị Thanh. Nói tục là vô phép.
        Thiện-Lãm cãi:
        - Vô phép thì vô phép thực. Song hoàn cảnh phải nói đến cái đó.
        Thuận-Tông xua tay lắc đầu:
        - Tôi không làm thế. Tôi viết vào mặt tượng hàng chữ: Tên lưu manh cướp nước, giả nhân gĩa nghĩa.
        Tôn Đản đáp:
        —Tôi soạn một bài hịch kể tội Tích Quang, Nhâm Diên mưu đồng hóa dân Việt. Chính hai tên này bắt dân Việt học chữ Hán, cấm học chữ Khoa Đẩu của ngừơi Việt. Khi người Việt không đọc được chữ của mình. Thì bao nhiêu tư tưởng, lịch sử, văn minh, văn học không còn nữa... Bấy giờ một là người Việt biến thành bọn mọi rợ ngu dốt, hai là học sách vở ngoại lai. Dân Việt vĩnh viễn thành dân Hán. Hồi ấy bên đất Việt mình văn minh, tư tưởng, học thuật có phần trội hơn Trung-quốc. Võ học nhất định hơn rồi. Vì sử sách còn ghi Vạn-tín hầu thắng hết các cao thủ triều Tần Thủy-Hòang. Về thiên văn lịch số càng hơn. Bằng cớ vua Hùng sai tặng vua Chu con rùa lớn. Trên lưng khắc rõ phép làm lịch. Vua Chu sai chép lấy, gọi là Qui-lịch. Nguồn gốc lịch Trung-quốc từ đất Việt truyền qua. Sau này có sửa đổi đôi chút song căn bản vẫn giữ nguyên. Về y học, bộ Nội-kinh của họ chỉ có tính cách đại cương. Trong khi đó bộ Nạn-kinh của người Việt mình phân tích ra đến 81 nạn. Tỷ mỉ rõ ràng.
        Người thanh niên công tử mới tới xen vào:
        - Này em bé, em nói thế thực không phải. Trung-quốc là gốc văn minh thiên hạ. Văn minh Trung-quốc đi đến đâu, mọi văn minh khác bị lu mờ hết.
        Chàng mỉm cười tiếp:
        - Em phải biết rằng bên Trung-quốc vào thời Đông-Chu, Chiến-quốc văn hóa rực rỡ biết là bao. Các đại tư tưởng gia như Khổng-tử, Lão-tử, Tuân- tử, Mặc-tử. Họ trứ tác hàng vạn, hàng triệu sách thuộc lọai kinh học, sử học, thi tập, cùng tư-tưởng học . Sau gọi chung là kinh, sử, tử, tập. Khổng-Tử nói: « Chu đại úc úc hồ văn tai. Ngô tòng Chu dã ». Nghĩa là thời nhà Chu văn học rực rỡ thay. Ta theo nhà Chu. Thế mà em dám chê ư?
        Tôn Đản cười:
        - Này công tử. Em có chê văn minh Trung-quốc đâu? Em chỉ muốn nói rằng thời này văn minh học thuật Đại-Việt cũng rực rỡ như Trung-quốc.
        Tự-Mai không chịu:
        - Tự cổ chúng ta có chữ Khoa-đẩu. Mấy nghìn năm văn minh Lĩnh-nam đều chép bằng chữ này. Cho đến thời kỳ vua An-dương dựng nước là thịnh nhất. Khi lên làm tể tướng, Phương-chính hầu Trần Tự-Minh lập bốn viện Kinh-dương, Lạc-long, Âu-cơ, Bách-tộc để sưu tầm, nghiên cứu, cùng truyền bá tư tưởng đó.
        Thanh niên công tử đưa mắt nhìn vị hoà thượng, rồi hỏi:
        - Bốn viện đó khác nhau thế nào?
        - Viện Kinh-dương chuyên về kinh. Viện Lạc-long chuyên về triết. Viện Âu-cơ chuyên về văn. Viện Bách-tộc chuyên về sử. Ngoài ra còn Thiên-văn, coi về lịch số. Y học viện coi về y học. Viện Thần-nông coi về canh nông, chăn nuôi. Thời Triệu Đà, y vốn là người Hán. Y không cấm học chữ Khoa-đẩu, nhưng dùng chữ Hán làm văn tự chính thức. Hoá cho nên văn học, tư tưởng trải mấy trăm năm suy thoái. Tuy vậy sách vở cũng không bị mai một làm bao.
        Nó ngừng lại, nhìn chị với thanh niên công tử, rồi ngửa mặt lên trời cười tủm:
        - Đến thời vua Trưng, công chúa Phùng Vĩnh-Hoa làm bản thống kê còn được bẩy mươi tư nghìn, chín trăm tám mươi tám bộ. Bà cũng chia ra bốn lọai là kinh, triết, văn, sử. Kinh thì có các bộ Bách-tộc, Kinh-dương, Lạc-long, Thiên-huấn, Điạ-nghĩa. Triết thì ôi thôi nhiều vô kể. Văn thì có hàng hai chục ngàn bộ. Sử thì chỉ có chín mươi chín bộ mà thôi. Những sách chép về y học, thiên văn học, lịch số học, cùng hàng nghìn bộ môn lặt vặt. Có thể nói, đương thời, văn minh hai nước Hoa, Việt ngang nhau. Khi Mã Viện chiếm nước ta, y ra lệnh thu hết sách chở về Lạc-dương, cấm học chữ, tàng cất sách bằng văn tự Khoa-đẩu. Vì vậy nay chúng ta không biết đâu mà mò.
        Thanh niên công tử cười:
        - Xin lỗi các em, anh nghe lầm. Các em cứ tiếp tục câu truyện đi.
        Tự-Mai không chú ý đến thanh niên công tử nữa. Nó nói:
        - Tất cả đều đoán không đúng. Pho tượng bị cụt đầu.
        Đám trẻ cùng cười ồ lên, đầy vẻ khoái trá. Tự-Mai tiếp:
        - Trương Tân nổi giận la hét. Nhưng nào biết ai đã làm truyện đó? Y truyền lệnh thu tất cả nồi, bát, xanh bằng đồng. Bắt dân chúng đúc pho tượng khác. Rồi tổ chức một buổi lễ thứ nhì. Lần này cẩn thận hơn. Y cắt cử một toán quân canh gác. Đến ngày lễ. Y cũng trịnh trọng gỡ tấm vải che tượng ra. Một lần nữa tất cả mọi người đều trợn tròn mắt.
        Thanh niên công tử hỏi:
        - Cái gì đã xẩy ra?
        Tự-Mai cười:
        - Trong tấm vải không phải là pho tượng. Pho tượng biến mất. Thay vào đó là một người. Người ấy quát lên một tiếng, đưa lưỡi kiếm. Đầu Trương Tân rơi xuống đất. Kiếm khách ấy vọt người lên, đục thủng mái đền, rồi biến mất. Đám võ sĩ hộ vệ Trương Tân không kịp trở tay.
        Thanh niên công tử hướng sư thái Tịnh-Huyền xá một xá:
        - Thực đúng thầy nào, trò đó. Em nhỏ này, mới có bấy nhiêu tuổi mà kiến thức sâu xa hiếm người bằng. Xin phép sư thái để chúng tôi được tạ thầy đồ tí hon một lễ vật. Không biết sư thái có cho phép không?
        Sư thái Tịnh-Huyền chắp tay:
        - A-Di-Đà Phật. Công tử quá khen. Tự-Mai, con mau tạ ơn công tử đi.
        Công tử phất tay không cho Tự-Mai hành lễ, rồi tháo trên cổ ra chuỗi tràng hạt bằng ngọc mầu xanh, đeo vào cổ cho Tự-Mai:
        - Món quà này không xứng đáng với những kiến thức về anh hùng Đại-Việt của em.
        Mọi người đều kinh ngạc đến ngẩn người ra. Vì không ngờ công tử tặng món quà quá lớn. Trong khi chỉ mới biết nhau.
        Tự-Mai đinh từ chối. Sư thái Tịnh-Huyền vẫy tay:
        - Con đa tạ sư huynh đi. Con phải nhớ. Duyên pháp nhà Phật không phải một lát mà có. Ngọc sư huynh tặng con không thể quí bằng vật mà công tử dùng hàng ngày. Vật công tử dùng hàng ngày không gì quí bằng tràng hạt.
        Tự-Mai chắp tay :
        - Đa tạ công tử tặng quà.
        Rồi nó liếc mắt nhìn chị, nháy mắt, méo mồm một cái.
        Thanh niên hỏi:
        - Thế sau khi Trương Tân chết rồi thì ai thay thế y cai trị Giao-chỉ? Võ lâm Việt có giết thứ sử nữa không?
        Tự-Mai đáp:
        - Sau khi Trương Tân bị giết. Quan lại Trung-quốc cai trị Giao-chỉ, Nhật-nam, Cửu-chân, Quế-lâm kinh tâm động phách. Triều Hán cử nhiều người sang thay thế. Nhưng họ đều sợ hãi không giám đáo nhậm. Cuối cùng triều Hán cử Sĩ Nhiếp kiêm nhiệm.
        Tôn Đản hỏi:
        - Thế Sĩ Nhiếp là người tốt hay xấu?
        Thiện-Lãm cười khì:
        - Đản ơi! Mày lẩm cẩm quá đi. Đã là quân Hán sang đất mình kiếm ăn thì làm gì có đứa nào tốt nữa.
        Tự-Mai cười:
        - Không hẳn vậy đâu. Y cũng có cái tốt. Cái tốt của y xuất phát từ tham vọng. Y muốn nhân thời thế loạn lạc, mưu đồ lập nghiệp lớn. Tạo dựng một triều đình riêng như Triệu Đà khi xưa.
        Thuận-Tông chửi thề:
        - Con mẹ nó. Cũng một loại muốn ngồi lên đầu lên cổ dân mình.
        Tự-Mai tiếp:
        - Tổ tiên nhà họ Sĩ vốn người đất Lỗ vùng Sơn-Đông. Thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bỏ quê hương, đến Lĩnh-nam lập nghiệp ở Thương-ngô thuộc Nam-hải. Trải sáu đời, đến cha Sĩ Nhiếp là Sĩ Tứ, làm thái thú Nhật-nam cai trị dân Việt mình.
        Thiện-Lãm cau mặt:
        - Lại một thứ tham quan. Chắc trước khi đến cai trị, hẳn y đã nghe tin thái thú đời trước là Nhâm Diên bị giết?
        Tự Mai tiếp:
        - Sĩ-Tứ cho con là Sĩ Nhiếp sang kinh đô Lạc-dương theo học. Y đỗ Hiếu-liêm được bổ làm thượng thư lang. Chỉ ít lâu thì bị cách. Y tiếp tục học, thi đậu Mậu-tài. Vừa lúc đó Sĩ Tứ bị giết.
        Tôn Đản hỏi:
        - Ai giết?
        - Không rõ tên họ, gốc tích. Chỉ biết đó là một thiếu niên mười hai, mười ba tuổi như bọn mình. Nguyên Sĩ Tứ thấy dân chúng Nhật-nam thờ kính đại anh hùng Đô Dương thời Lĩnh-nam. Họ còn bịa đặt ra lời phán của Đô đại vương bằng cách mời ngài về đồng. Ngài chuyên phán phải làm thế này, thế kia. Mà những điều đó toàn hướng về phản Hán phục Việt. Một hôm Sĩ Tứ sai bắt giam hai bà đồng tra tấn bắt phải khai rằng Đô đại vương không linh thiêng gì cả, chẳng qua bọn mưu phản bịa đặt ra mà thôi. Sĩ Tứ nhân đó truyền phá bỏ tượng Đô đại vương, bắt thờ Nhâm Diên. Dân chúng họp nhau làm đơn kêu nài rằng Đô đại vương rất linh thiêng. Sĩ Tứ truyền lệnh rằng : « Cho phép hầu đồng Đô đại vương một lần nữa, rồi cấm hẳn ». Một mặt y chuẩn bị trong lúc Đô đại vương về đồng. Y sẽ bắt ông đồng đánh một trận, chứng tỏ Đô đại vương không nhiều phép tắc bằng y.
        Tự-Mai ngừng lại hỏi công tử:
        - Thưa công tử. Nếu công tử là dân chúng hồi đó. Công tử sẽ đối phó ra sao?
        Công tử cười:
        - Anh sẽ phao rằng Đô đại vương bận đi phó hội với vua Bà. Ngài nhập mộng cho biết phải hơn năm sau mới về. Đợi cho Sĩ Tứ phá tượng Đô đại vương thờ Nhâm Diên, rồi bí mật đập tượng Nhâm, nói rằng Đô đại vương sai âm binh đập.
        Tự-Mai gật đầu:
        - Mưu trí của anh tuyệt vời. Tiếc rằng hồi đó, nghĩa sĩ Nhật-nam lại không làm thế. Vì vậy mới khiến cho hàng ngàn dân chúng chết oan. Đúng ngày dân chúng tổ chức hầu đồng Đô đại vương. Ông đồng vừa ngồi vào chiếu, thì một thiếu niên trợn mắt quát lớn lên rằng : « Ta là Cửu-chân vương Đô-Dương đây. Dù thế nào chăng nữa ta, cũng là Đô đình hầu, tước phong thái thú Phù-phong. Ta cũng đã từng theo vua Quang-Vũ lập đại công. Hà cớ gì thằng ôn con Sĩ Tứ giám phá đền ta? ». Nói rồi nhảy múa lung tung. Sĩ Tứ bật cười cho rằng thằng bé con được người lớn sai ra dọa y. Y không cho binh lính bắt nó, mà chính y nhảy vào túm áo đứa bé. Y dơ tay định tát, ra cái điều y tát cả Đô đại vương. Nào ngờ, thiếu niên chuyển tay một cái phóng chỉ vào giữa trán Sĩ Tứ. Y bị lủng sọ, ngã vật xuống giữa chiếu chết liền. Còn thiếu niên nọ bồi thêm hai chỉ, giết quân hầu rồi phóng mình vào đêm tối.
        Bọn trẻ khoái trá reo lên:
        - Tuyệt. Hay tuyệt. Con cháu Phù-đổng Thiên-vương mà.
        Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:
        - Chị Thanh ơi. Em nghe nói thời Lĩnh-nam, Khất-đại-phu Trần Đại-Sinh với Bắc-bình vương Đào Kỳ đã chế ra chỉ này, với tên là Lĩnh-nam chỉ, có đúng không?
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:37:07 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 23.12.2004 13:11:18 (permalink)
          Hồi thứ tư


          Thuận thiên cửu hùng



          Thanh-Mai gật đầu:
          - Đúng đó. Song tiếc rằng nay đã thất truyền. Thôi Tự-Mai thuật tiếp đi.
          Tự-Mai tiếp:
          - Triều đình nhà Hán thấy vậy, mới phong cho Sĩ Nhiếp làm thứ sử Giao-chỉ, vì Sĩ Nhiếp biết nói tiếng Việt. Sĩ Nhiếp thấy nhà Hán đã suy đồi lắm rồi. Y có ý chiếm cứ đất Lĩnh-nam cũ, thành lập một giang sơn riêng như Triệu Đà xưa. Khi sang đến nơi, y không truy tầm đến thủ phạm đã giết cha. Y nghĩ rằng muốn giảm làn sóng chống Hán, cần tiêu diệt học thuật Lĩnh-nam. Muốn tiêu diệt học thuật Lĩnh-nam không gì bằng khuyến khích truyền bá Nho-học. Nhờ vậy làn sóng phản Hán phục Việt giảm đi nhiều. Y xin đổi Giao-chỉ làm Giao-châu. Y phúc trình rằng các vùng Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải, Thương-Ngô vốn là đất Lĩnh-nam cũ, dân chúng quật cường, muốn khôi phục cố thổ. Y đề nghị cho anh em mình trấn nhậm, để giữ vững biên cương. Triều Hán chấp thuận.
          Thanh niên công tử ngửa mặt nhìn những sợi tơ trời bay, nói bâng quơ:
          - Tự-Mai được giáo huấn rất chính xác về lịch sử Việt. Nguyên vì những thư tịch cổ của mình bị mất, rồi người Tầu họ muốn chép láo chép lếu thế nào, đâu ai biết mà chỉnh đốn. Trong bộ Hậu-Hán thư của Phạm Việp, y chép rằng dân Việt vốn không biết lễ nghĩa. Chính Sĩ Nhiếp là người đầu tiên dậy dân học chữ Hán, dạy lễ nghĩa. Thế mà ngày nay, nhiều người Việt coi bộ sách này làm khuôn vàng, thước ngọc để tra cứu sử Việt.
          Thiện-Lãm chửi thề:
          - Tiên sư cha thằng Sĩ Nhiếp giả nhân giả nghĩa. Nó khôn thực. Thế là anh em nó chiếm cứ gần hết lãnh thổ đất Lĩnh-nam. Chắc triều Hán phải phong chức lớn cho Nhiếp. Thế thì trên thực tế nó đã làm vua Lĩnh-nam rồi còn gì nữa?
          Tự Mai gật đầu:
          - Đúng thế. Triều Hán phong cho y chức Tuy-nam trung lang tướng thống lĩnh bẩy quận. Niên hiệu Kiến-an thứ mười đời Hán Hiến-đế (207 sau tây lịch). Giữa lúc Tào Tháo đem quân đánh Nam-bì, đại chiến với Viên Đàm. Sĩ Nhiếp cùng anh em y gửi thư về bày tỏ lòng trung thành với Tào Tháo. Y cho thủy thủ tải về 300 thuyền đầy gạo, cá khô cùng ba ngàn con ngựa chiến. Tào Tháo ép Hiến-đế, phong cho Sĩ Nhiếp chức An-viễn tứơng quân, tước Long-đệ đình hầu.
          Thanh-niên béo mập xen vào:
          - Kể ra Sĩ Nhiếp cũng đáng gọi là trung quân. Y trung thành với triều Hán, dù biết vua Hán chỉ là mộc vị của Tào Tháo.
          Vị hoà thượng lắc đầu:
          - Không phải như vậy đâu. Đó chẳng qua y muốn yên thân. Vì thế lực của Đông-Ngô bấy giờ chưa có gì đáng kể. Con nên nhớ rằng phàm con người có hiếu, mới có trung. Y tham danh đến độ quên thù cha, thì còn hy vọng gì tử tế với ai nữa?
          Thanh niên béo mập chắp tay:
          - Đa tạ sư phụ chỉ dạy.
          Tôn Đản hỏi:
          - Như vậy coi như hồi ấy Đại-Việt mình thuộc Hán.
          Tự-Mai lắc đầu:
          - Không hoàn toàn. Niên hiệu Kiến-an thứ mười ba (208 sau Tây- lịch) Tôn Quyền đại phá Tào Tháo ở Xích-bích. Sĩ Nhiếp hoảng sợ, sai con là Sĩ Huy vào Ngô làm con tin, xin qui phục Ngô. Chúa Ngô là Tôn Quyền vẫn để cho Sĩ Nhiếp thống lĩnh bẩy quận. Song sai Bộ Chất làm thứ sử Giao-Châu. Quyền phong Nhiếp tước Long-biên hầu. Tuy bề ngoài thì vậy, chứ thực sự Sĩ Nhiếp tự xưng là Sĩ-vương. Niên hiệu Hoàng-vũ thứ năm của Tôn Quyền (226 sau Tây lịch) Sĩ Nhiếp chết. Con là Sĩ Huy lên thay. Nhà Ngô sai bọn Lữ Đại, Đái Lương, Trần Thì sang chia nhau trấn nhậm. Sĩ Huy mang quân ra chống lại. Sau khi đại chiến một trận, Lữ Đại bị bại. Y dụ Sĩ Huy về hàng Ngô, sẽ đựơc giữ chức tước cũ của cha. Sĩ Huy đem năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết hết.
          Tự-Mai thở dài:
          - Mãi đến niên hiệu Xích-ô thứ 11 của nhà Ngô ( 248 sau Tây- lịch). Bấy giờ người Việt mới ngóc đầu dậy được. Các võ phái lại xuất hiện. Đại hội võ lâm ở núi Tản-Viên bàn truyện phục quốc. Song các đại tôn sư không đồng ý với nhau. Cuối cùng Triệu Quốc-Đạt thuộc phái Long-biên được bầu làm thủ lĩnh, liên lạc với quần hùng, chuẩn bị khởi nghĩa.
          Tôn Đản lắc đầu:
          - Hỏng rồi! Mưu khởi nghĩa mà đại hội đã là điều không ổn. Lại còn bầu một người liên lạc với quần hùng. Việc ồn ào như thế tránh sao khỏi tai mắt của giặc. Giặc Hán thời Lĩnh-nam là thứ giặc lâu năm không đánh nhau. Bộ máy chiến tranh kém cỏi. Còn giặc Hán thời Tam-Quốc là thứ giặc bao năm chiến tranh. Quan lại được cử từ Trung-quốc qua. Đám quan lại quen với đàn áp... Nó biết, nó chặt đầu ngay từ khi chưa khởi sự.
          Tự-Mai gật đầu:
          - Đúng thế. Đã vậy còn bị nội thù nữa chứ.
          Thiện-Lãm hỏi:
          - Lại cái nạn như Lê Đạo-Sinh thời vua Bà?
          - Không! Kẻ thù trong nhà mới đau chứ?
          Thuận-Tông ngơ ngác:
          - Sư huynh, sư đệ của Triệu Quốc-Đạt chăng?
          Tự-Mai thở phào ra một tiếng:
          - Vợ của Triệu Quốc-Đạt!
          Mọi người đều kêu lên tiếng kinh ngạc. Tự-Mai thản nhiên:
          - Sự thực như thế đó.
          Thanh niên công tử kinh ngạc:
          - Em ơi! Không nên bịa đặt ra truyện kỳ quái quá đáng. Vợ của Quốc-Đạt có thể ngoại tình, giết chồng. Chứ không thể phản chồng trong việc phục quốc. Bởi Quốc-Đạt mưu truyện vá trời. Nếu thất bại, sẽ đưa đến cả nhà bị giết. Vợ Quốc-Đạt phản chồng, thì bà phải biết rằng mình cũng chết. Thà để chồng mưu phục quốc, may mắn thành đại nghiệp thì danh thơm muôn thủa. Chứ có đâu theo giặc? Không lẽ bà tự tử.
          Tự-Mai thản nhiên:
          - Khổng-tử nói rằng: “Con giết cha không phải một lúc mà đến. Vợ phản chồng không phải một ngày mà xẩy ra”. Vụ này có uyên nguyên rất sâu xa. Nguyên Triệu Quốc-Đạt cùng em gái là Triệu Quốc-Trinh xuất thân phái Long-biên. Bản lãnh cả hai đều luyện đến chỗ cao thâm vào bậc nhất thời bấy gìơ. Tiếng tăm vang dội truyền đến tai Đinh Trọng-An, một trong Tản-viên tam kiệt. Ông có ba con. Hai gái lớn sinh đôi. Một trai út. Gái lớn tên Đinh Nữ-Hoàn, nhỏ tên Đinh Nữ-Vĩ. Con trai út tên Đinh Tú-Mi. Cả ba con đều được ông dạy cho bản lĩnh thượng thừa. Nữ-Hoàn, Nữ-Vĩ có nhan sắc nghiêng thành đổ núi. Ông thường tự hào rằng con ông là loài rồng loài phượng trên thế gian. Nghe tiếng Triệu Quốc-Đạt võ công tuyệt luân, lại có khí hùng, trí dũng. Ông đánh tiếng gả con gái cho. Gia đình Quốc-Đạt đem lễ vật đến hỏi.
          Thanh niên công tử ngạc nhiên:
          - Ta nghe phái Long-biên vốn chịu ảnh hưởng nặng của Lĩnh-nam thánh tổ kiếm pháp Nguyễn Phương-Dung, trứơc đây giữ chức tể tướng thời vua Bà. Triệu Quốc-Đạt là cao thủ phái Long-biên ắt phải giữ môn qui. Tuân theo luật một vợ, một chồng. Có đâu cưới hai cô một lúc.
          Tự-Mai cười:
          - Công tử nóng nảy quá. Quốc-Đạt chỉ cưới có một người thôi. Khi cha mẹ Quốc-Đạt tới hỏi con gái Đinh Trọng-An. Ông cho hai con gái cùng ra chào khách. Ý muốn để cha mẹ Quốc-Đạt chọn một trong hai cô. Không ngờ hai cô giống nhau quá. Ông bà không biết ai mà lựa. Cuối cùng ông sai lấy của mỗi cô một cái khăn choàng cổ, đưa cho Quốc-Đạt lựa. Hễ Quốc-Đạt chọn cái của cô nào, thì gả cô đó. Quốc-Đạt chọn đúng cái của Nữ-Vĩ. Thế là Nữ-Vĩ thành vợ Quốc-Đạt.
          Đạo sĩ đi với công tử thở dài:
          - Lấy khăn mà chọn người là điều tối kỵ trong hôn nhân. Cuộc hôn nhân này sau ắt đầy nước mắt.
          Tự Mai gật đầu:
          - Đúng thế. Sau đám cưới của Quốc-Đạt, thì người vợ Hán của thái thú Cửu-chân là Tiết Kính-Hàn chết. Kính-Hàn muốn học gương của Lĩnh-nam vương Trần Tự-Sơn thời trước, cưới vợ Việt trong giới võ lâm để dễ cai trị. Y đem lễ vật tới hỏi Đinh Nữ-Hoàn làm kế thất. Đinh Trọng-An không muốn con gái làm một thứ Mị-Châu, một lọai vợ thằng Ngô. Ông định từ chối. Song chính Triệu Quốc-Đạt khuyên ông nên gả. Vì với tư cách phu nhân của thái thú. Đinh Nữ-Hoàn có nhiều tin tức, thế lực che chở cho võ lâm phục quốc. Vì vậy Đinh Trọng-An quyết định cho Nữ-Hòan làm vợ Tiết Kính-Hàn.
          Thanh niên béo mập đi theo công tử hỏi:
          - Thế Kính-Hàn có mắc mưu không?
          - Có. Khi mới cưới Nữ-Hoàn, y nghĩ tình anh
          em rể, cử Quốc-Đạt làm huyện lệnh huyện Vô-biên. Cử em trai vợ là Đinh Tú-Mi làm chức phó đô sát. Bấy giờ Triệu Quốc-Đạt gần như công khai hoạt động. Ông sai Triệu Quốc-Trinh vào núi Chung-chinh lập doanh trại, kết nạp nam nữ thanh niên các nơi về luyện tập. Bọn quan lại người Hán có thắc mắc gì thì ông trả lời rằng huấn luyện sĩ tốt gửi sang cho vua Ngô đánh Ngụy. Động Xuân-đài biến thành nơi luyện thép làm vũ khí.
          Thiện-Lãm nghe đến đây thì bật lên tiếng kêu lớn:
          - Núi Chung-chinh với động Xuân-đài à? Kìa là núi Chung-chinh. Phía sau núi là sông Mã. Tôi đã đến đó chơi nhiều lần, thuộc làu địa thế. Còn động Xuân-đài thì không biết ở đâu. Suốt bao năm nay, cả vùng này muốn điên lên vì cái động Xuân-đài.
          Hòa thượng đi theo công tử hỏi:
          - Tiểu thí chủ có biết động Xuân-đài ở đâu không?
          Thiện-Lãm lắc đầu:
          - Bạch thầy, cả vùng này bọn chúng con nhẵn chân hết, mà chưa từng nghe, từng biết động Xuân-đài ở đâu. Dân quanh đây, khổ về cái động Xuân- đài, Đông-đài này quá lắm.
          Thiếu niên đi theo công tử hỏi:
          - Em cho anh biết tại sao đi!
          Tiếng nói của y trong, ngọt như cam thảo. Thiện-Lãm thấy vui vui. Nó đáp:
          - Không biết từ đời nào, truyền tụng rằng có động Xuân-đài, bà Triệu luyện quân. Sau bị Ngô truy tầm. Bà trốn trong đó. Hồi ấy quân Ngô có hàng vạn người lên núi Chung-chinh, vạch từng ngọn cỏ, bới từng cành cây. Mà tìm cũng không ra. Thế nhưng hàng năm, sắp đến ngày giỗ Bà-vương, thì y như là có nhiều người đến đây tìm động Xuân-đài. Họ bỏ tiền ra mướn dân chúng dẫn đường. Bọn em được họ cho không biết bao nhiêu tiền, để đưa đường lên núi Chung-chinh. Hàng ngày chúng em leo núi, bắt chim, hái trái, riết rồi thuộc từng mỏm đá, từng gốc cây. Mà nào có thấy động Xuân-đài ở đâu?
          Hòa thượng có vẻ quan tâm tới việc này. Ông hỏi:
          - Tiểu thí chủ đã từng dẫn nhiều người lên núi tìm động. Vậy họ là những loại người nào?
          Thiện-Lãm tính đốt ngón tay:
          - Họ từ các nơi xa đến. Việt có, Chàm có, Hán có. Nam có, nữ có. Tăng có, tục có. Gần đây có đến bốn, năm toán người Hán đến. Họ cất lều ở trên núi hàng tháng. Rồi cũng thất vọng ra đi.
          Nó nhăn mặt suy nghĩ, rồi tiếp:
          - Cách đây hơn tháng, Nguyên-Hạnh đại sư ở chùa Sơn-tĩnh phái ba trăm thiếu niên Hồng-hương lên núi ở luôn mười ngày liền. Họ vạch từng viên đá, từng gốc cây trước sau ba chục lần, cũng chẳng tìm ra tông tích gì. Từ đấy người treo tấm bảng cấm không cho bất cứ ai lên núi. Bằng trái lệnh thì thiếu niên Hồng-hương bắt giải quan. Sau đó mới bớt cái nạn đi tìm động Xuân-đài. Ai cũng tưởng Nguyên-Hạnh đại sư muốn cho dân chúng yên tĩnh, ngăn cản người lạ đến làm rối loan di tích lịch sử. Nhưng theo cháu...
          Thiếu niên công tử hỏi:
          - Em cho rằng Nguyên-Hạnh ngăn cấm người ta với mục xích khác chăng?
          - Không phải như vậy. Theo em nghĩ đại sư Nguyên-Hạnh cấm người ta lên núi ắt có chủ kiến riêng. Tuần trăng trước chúng em lên núi chơi, thì thấy đại sư cùng với một số người bịt mặt lên tìm kiếm khắp các hang hốc. Rút cuộc cũng chẳng thấy động Xuân-đài. Cho nên núi Chung-chinh chỉ có thiếu niên Hồng-hương là được tự do lên mà thôi. Tuy vậy bọn em có nhiều ngách khác lên núi, mà bọn họ không biết.
          Tôn Đản nghe Hà Thiện-Lãm tường thuật, khuôn mặt nó thay đổi luôn như suy nghĩ một điều gì, nó định nói vài câu, rồi lại thôi.
          Thanh niên béo mập nghe nói đến Hồng-hương thiếu niên, chàng hỏi:
          - Hồng-hương thiếu niên là những người tốt hay xấu?
          Lê Thuận-Tông đáp không suy nghĩ:
          - Họ là những người rất tốt. Ban ngày họ làm việc, tối về canh phòng trộm cắp. Ai có việc khó khăn, họ giúp đỡ tận tình. Họ không sợ bất cứ thế lực nào, ngoài trừ đệ tử Hồng-thiết giáo và đệ tử phái Đông-a.
          Nói rồi nó đưa mắt nhìn chị em Thanh-Mai.
          Lý Long mỉm cười:
          - Đệ tử phái Đông-a đã đụng chạm với thiếu niên Hồng-hương từ bao giờ?
          - Em không rõ sự thực ra sao. Có một anh Hồng-hương nói nhỏ với bọn em rằng đại hiệp Trần Tự-An gọi đại sư Nguyên-Hạnh là lão thầy chùa ăn thịt chó. Thế mà đại sư cũng phải nín.
          Thanh-Mai hỏi hoà thượng:
          - Bạch đại sư! Đệ tử thấy dáng di của đại sư thì đoán chắc đại sư là cao tăng phái Tiêu-sơn. Xin đại sư cho đệ tử biết đại sư Nguyên-Hạnh là người tốt hay xấu?
          Hoà thượng mỉm cười:
          - Cô nương thực tinh mắt, thực không hổ là đệ tử danh gia. Bần tăng quả thuộc phái Tiêu-sơn. Còn truyện sư thúc Nguyên-Hạnh thì bần tăng không rõ, vì bần tăng với sư thúc xa nhau lâu quá rồi. Có lẽ sư thúc bần tăng vô phép với đại hiệp Tự-An, nên người mới mắng mỏ, cô nương chẳng nên lưu tâm làm gì.
          Lý Mỹ-Linh hỏi:
          - Hồng-thiết giáo ở vùng này mạnh lắm sao?
          - Trước kia họ ẩn hiện không chừng. Từ khi có chiếu chỉ ân xá. Họ hoạt động công khai. Ít ai dám động đến họ. Động đến họ, thì mất mạng như chơi.
          Nghe đến Hồng-thiết giáo, chị em Thanh-Mai đều tỏ ý quan tâm. Trong nhà nàng đã xẩy ra một thảm cảnh mà chị em nàng tin rằng do Hồng-thiết giáo gây ra.
          Nguyên vùng Thiên-trường, ảnh hưởng của phái Đông-a rất mạnh. Khắp vùng không có người của môn phái khác. Phải vượt qua trăm dặm tới cố đô Trường-yên, mới có đệ tử của phái Hoa-lư cũ, nay nhập lại thành đệ tử phái Mê-linh.
          Từ khi Thuận-thiên hoàng đế lên ngôi vua, ban chiếu đại xá thiên hạ. Hồng-thiết giáo do đó được hoạt động khắp nơi. Một phụ nữ tên Đặng-thị Anh, gốc người Thiên-trường. Hồi dậy thì, mụ cũng có nhan sắc. Sau gả về làm vợ một lương y tên Trần Tấn-Khang. Vì vậy người ta gọi mụ bằng danh tự Trần phu nhân. Hay Anh-Trần. Mụ bí mật nhập Hồng-thiết giáo, do trưởng lão Đặng Trường, kết nạp. Sự thực hai bên họ Đặng, nhưng giữa Đặng Trường với mụ không có chút máu mủ nào. Để che mắt chồng cùng chúng nhân, mụ gọi Đặng Trường bằng chú. Mụ lấy giáo danh là Vũ Lâm.
          Hồng-thiết giáo chủ trương phá bỏ mọi kỷ cương luân lý Đại-Việt, tạo một lớp người mới, chỉ biết giáo chủ, giáo qui, cùng nguyên tắc Hồng-thiết kinh đưa ra.
          Vì vậy ngay khi nhập giáo, Anh-Trần được Đặng Trường thuyết phục tình nguyện làm cây thuốc cho y luyện công. Nàng không hiểu danh tự cây thuốc có ý nghĩa gì. Một lần tò mò hỏi sư thúc Vũ Anh, ông gạt đi: « Cháu cứ tưởng tượng đây là những gì dơ bẩn nhất của con người ».
          Mụ ta bị ma tính Hồng-thiết kinh làm u mê, công khai ăn nằm với đủ mọi loại người kể cả sư ông Thiện-Báu trong vùng. Lương y Trần Tấn-Khang khuyên bảo thế nào, mụ cũng không nghe. Không nghe thì chớ, mụ ngồi lê đôi mách khắp nơi, bịa truyện bêu xấu chồng. Một lần mụ ăn nằm với thằng hủi mốc trong vùng, bị làng bắt được, đem ra chợ đánh ba mươi roi, cạo đầu sơn vôi.
          Việc này xẩy ra, Đặng Trường không những không trách mắng, còn khen mụ, thăng mụ lên chức quản giáo huyện. Đặng khuyên mụ nên qui tụ giáo chúng lập ấp riêng để sống. Khắp vùng Thiên-trường, con em gia đình tử tế đều theo học phái Đông-a. Muốn chiêu dụ người theo giáo, mụ cùng một số giáo chúng tìm khu đất hoang, lập trang mới. Trang này tên Yến-vĩ. Vì trang gần một đầm sen hoang vu, luôn có sương mù. Vì vậy trang này được gọi bằng mỹ tự Yến-vĩ sương sen . Tất cả bọn du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp, bọn vong mạng, bọn trốn chúa lộn chồng, bọn đĩ bợm bị làng xua đuổi, đều đến trang xin nhập xã tịch.
          Hồi trang mới thành lập, nhiều người đến xin phái Đông-a đứng ra chủ trì công đạo, đuổi bọn chúng đi. Mụ Anh-Trần rất khôn ngoan. Mụ đến xin yết kiến Trần Tự-An, khóc dập đầu xuống đất, xin hoàn lương. Năm đó mụ sáu mươi tuổi. Để chứng tỏ mình đã cải tà qui chánh, mụ xin hầu hạ một đệ tử ngoại đồ phái Đông-a tên Thúy Thập Thiên. Nhờ Thập Thiên cầu xin, Trần Tự-An lờ đi cho trang Yến-vĩ sương-sen được tồn tại. Vả lại các quan chức trong vùng cũng xin Tự-An nhắm mắt để bọn trộm cướp, đĩ điếm có chỗ dung thân.
          Vì vậy hầu hết người trong trang tuổi đều trên bốn mươi lăm. Không người đàn ông trong trang nào có vợ. Chẳng người đàn bà trong trang nào có chồng. Mụ Anh-Trần xây một căn nhà, chia làm ba gian. Mỗi gian ngăn cách nhau bằng một bức tường, có cửa thông với nhau. Hàng tháng mụ tổ chức hội Vu-sơn hai lần vào ngày rằm, mùng một.
          Hội Vu-sơn là gì? Vu-sơn là lối hành lạc tập thể của Tây-dương giáo chủ Hồng-thiết giáo Xích Trà Luyện phát minh ra. Sau khi học tập nghiên cứu, mụ Anh-Trần thực hiện ở trang Yến-vĩ sương-sen. Mụ chọn ba mươi người đàn ông, cho vào gian bên Đông. Ba mươi người đàn bà cho vào gian bên Tây. Gian giữa đóng kín, không một tia sáng lọt vào. Sau ba tiếng trống, cửa mở. Đàn ông, đàn bà đều ùa vào gian giữa. Trong bóng tối, nam, nữ ôm lấy nhau, lọan xà ngầu khoảng nửa ngày. Cuối cùng, sau ba tiếng trống, nam sang gian Tây, nữ sang gian Đông. Ai đã làm với ai, nào có biết.
          Sau khi mẫu thân Thanh-Mai qua đời vì trúng Chu-sa độc chưởng. Người anh cả của Thanh-Mai tên Thông-Mai cho rằng bọn hại mẹ mình ắt ẩn thân ở trang Yến-vĩ sương-sen. Chàng âm thầm dọ thám. Vụ này lộ ra, bà kế mẫu của nàng biết. Không hiểu sao, bà gây gổ với Thông-Mai liên miên. Thông-Mai phẫn chí, bỏ nhà đi tu, hẹn chỉ trở về trần khi tìm ra kẻ sát hại mẫu thân. Thông-Mai bỏ đi đã hơn hai năm không tin tức. Chị em Thanh-Mai lấy cớ theo sư phụ hành hương Lệ-Hải bà vương, nhưng thực ra để tìm tung tích anh cả. Cho nên mỗi khi nhắc đến Hồng-thiết giáo, Thanh-Mai lại cảm thấy đau xót trong lòng.
          Tiếng Lý Long kính cẩn nói với Tịnh-Huyền, làm Thanh-Mai trở về thực tại:
          - Kẻ hậu học lớn gan kính thỉnh sư thái cùng quý cao đồ viếng di tích xưa kia của Lệ-hải Bà-vương. Không biết sư thái có thuận không.
          Sư thái Tịnh-Huyền chắp tay:
          - Thực là đại duyên.
          Đường đi Chung-chinh tuy xa, song vừa đi, Tự-Mai vừa thuật truyện, vì vậy, không ai cảm thấy mệt mỏi. Tôn Đản hỏi thanh niên công tử:
          - Công tử cứ lên ngựa mà đi. Bọn chúng em đi chân quen rồi. Công tử đi chân, e mệt chết.
          Thanh niên công tử cười:
          - Đi cùng đường với nhau, viếng thăm di tích anh hùng của tổ tiên, cần phải xóa bỏ sự cách biệt. Dù què chân anh cũng đi bộ với em.
          Công tử nói với sư thái Tịnh-Huyền:
          - Bạch sư thái. Hậu học xin kính cẩn giới thiệu bọn anh em với sư thái.
          Chỉ vào lão hòa thượng gầy, công tử nói:
          - Vị này là sư phụ của tại hạ pháp danh Huệ-Sinh.
          Thanh-Mai reo lên:
          - Thực vạn hạnh. Bạch đại sư, nhân gian đồn rằng đại sư đắc đạo thành Phật rồi. Ai được gặp đại sư là phúc lớn lắm. Như vậy đại sư là sư huynh của đức Thuận-thiên hoàng đế? Dường như đại sư có nguyện lớn lắm.
          Huệ-Sinh mỉm cười:
          - Đúng vậy! Bần tăng cùng sư huynh là Minh-Không hồi còn trẻ đã có tâm nguyện rằng « Dùng trọn đời để lập một nước Việt, đem phúc cho dân. Nếu kiếp này chưa hoàn tất thì kiếp sau. »
          Trên mặt sư thái Tịnh-Huyền thoáng hiện một nét kỳ dị rồi biến mất. Công tử chỉ thanh niên béo tròn:
          - Vị này là sư đệ của tại hạ. Họ Tạ tên Đức-Sơn, thường gọi tắt là Tạ Sơn, hay Tạ Đức.
          Chỉ vào đạo sĩ, công tử tiếp:
          - Vị này là đạo sư Nùng-Sơn tử.
          Cuối cùng, công tử chỉ vào thanh niên da trắng môi hồng:
          - Vị này là cháu gọi tại hạ bằng chú tên Mỹ-Linh. Còn tại hạ họ Lý tên Long.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Thì ra công tử cùng các vị đây là hoàng thân, quốc thích đấy. Hèn gì tư cách khác thường.
          Tạ Sơn lắc đầu:
          - Trần cô nương! Cô nương lầm rồi. Sư huynh tôi họ Lý, song chỉ có quốc tính thôi, chứ không phải hoàng thân, quốc thích.
          Thanh-Mai giới thiệu bên mình sơ qua một lựơt. Thanh niên công tử nói với sư thái Tịnh-Huyền:
          - Giữa đường gặp gỡ, thông cảm với nhau trong biến cố lịch sử anh hùng đất Việt. Xin sư thái thuận cho tại hạ kết bạn với các em này. Không biết có được không?
          Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười:
          - Vạn hạnh. Cùng là con rồng, cháu tiên, ai cũng là anh em cả. Thí chủ muốn kiết bạn với đám trẻ nhỏ này, thực là duyên, là phúc cả. Bây gìơ hãy lấy ngày sinh, so tuổi. Ai lớn thì làm anh, làm chị. Ai nhỏ thì làm em.
          Từ lúc gặp Tịnh-Huyền, trong lòng Lý Long nảy ra những tình cảm rất lạ lùng. Bảo rằng thân thiết thì cũng thực thân thiết. Bảo rằng thương cảm thì cũng thực thương cảm. Nhất là tiếng nói của Tịnh-Huyền, chàng nghe như quen thuộc từ lâu, mà nhất thời chàng đoán không ra đã gặp bà tại đâu bao giờ. Chàng thấy mình cảm tình với bà như với mẹ đẻ. Cho nên chàng mới nảy ra ý kết thân với đám đệ tử của bà.
          Thiện-Lãm thích quá. Nó reo lên:
          - Ở đây lớn tuổi nhất là bà, rồi đến thầy, sau đến đạo sư Nùng- Sơn. Cả ba đều thuộc lọai cha, mẹ thì không chơi với bọn chúng mình. Còn lại chín người chúng ta, kết làm anh em. Đặt tên sao cho đẹp mới được.
          Thanh-Nguyên lên tiếng:
          - Kỷ niệm kết bạn trên núi Chung-chinh, đặt tên là Chung-chinh cửu hiền. Như vậy mới tuyệt.
          Thuận-Tông thêm:
          - Hay đặt tên là Xuân-đài cửu kiệt.
          Lý Long phất tay:
          - Kiệt, hiền thế nào được. Chúng ta phải làm những truyện kinh thiên động địa như các anh hùng thời Lĩnh-nam. Hay ít ra cũng bằng Ngô Quyền, Lê Hoàn. Năm nay là niên hiệu Thuận-thiên thứ mười bẩy (1027) của đức hoàng đế Đại-Việt. Vậy chúng ta tự xưng Thuận-thiên cửu hùng để ghi nhớ.
          Đám trẻ reo hò vui mừng, tưởng như mình thành anh hùng thực sự rồi.
          Sau khi so tuổi, Lý Long nói:
          - Tất cả các em cùng anh kết thân, cứ theo tuổi mà xếp thứ tự. Duy Mỹ-Linh là cháu anh. Anh với Mỹ-Linh vẫn là chú cháu. Còn các em, theo thứ tự tuổi. Tục lệ Đại-Việt mình khi kết bạn phải quay mặt về hướng Đông tuyên thệ. Ai thề câu gì thì phải giữ suốt đời.
          Thiện-Lãm hỏi:
          - Tại sao lại quay mặt về phương Đông?
          - Vì khi xưa, Quốc-tổ dẫn 50 người con
          xuống biển. Mà biển ở phía Đông. Vì vậy phải quay mặt về phương Đông, để Quốc-tổ chứng kiến cho.
          Trời đã về trưa. Nắng càng gay gắt. Gió núi thổi, làm cây cỏ bật lên những tiếng xào xạc. Đâu đó tiếng quốc kêu não nùng, khắc khoải văng vẳng.
          Lý Long chỉ vào bãi cỏ tươi:
          - Nào! Chúng ta hãy quì xuống đây mà thề. Theo thứ tự.
          Lý Long chắp tay:
          - Hôm nay là ngày mười bốn tháng hai năm niên hiệu Thuận-thiên thứ mười bẩy của Đại-Việt (1027). Chúng con là chín người, tuy không cùng cha mẹ, song cùng gốc từ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Chúng con nguyện kết làm người thân. Kể từ hôm nay, chúng con coi nhau như ruột thịt. Có phúc cùng hưởng. Có họa cùng chịu. Chúng con nguyện đem hết tâm trí, bảo vệ đất Đại-Việt trường tồn mãi mãi. Theo thứ tự tuổi tác, thứ bậc mỗi người có lời thề riêng. Con lớn tuổi nhất, đứng đầu. Con xin thề : Dùng tất cả cuộc đời, để nối chí vua Trưng. Tạo dựng hạnh phúc cho dân. Đòi lại đất Tổ đã bị mất. Xây dựng đất Đại-Việt thành một nước hùng mạnh.
          Lý Long quay lại nói:
          - Các em thề đi.
          - Con là Tạ Sơn, xin thề như anh cả Lý Long. Con xin cam kết suốt đời trung thành với anh cả, trung thành với chí hướng của anh ấy.
          - Con là Trần Thanh-Mai. Con xin thề theo chí hướng của anh cả. Dù trong bất cứ phong ba nào cũng không từ nan.
          Tiếp đến Lý Mỹ-Linh:
          —Con là Lý Mỹ-Linh, con xin thề suốt đời tuân theo mệnh lệnh chú hai, theo chí hướng của chú hai. Kính chú hai như thầy, như bố.
          Tôn Đản, Trần Tự-Mai, Hà Thiện-Lãm, Lê Thuận-Tông, Trần Thanh-Nguyên đều thề như Lý Long.
          Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười :
          - Bần ni chúc mừng công tử cùng các em kết nghĩa. Hy vọng sau này công tử cùng tám người em hoàn thành chí nguyện.
          Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử cũng đưa lời chúc mừng.
          Thiện-Lãm nhìn trời nói:
          - Mặt trời đứng bóng, dễ thường Ngọ rồi đấy. Nấu cơm ăn thì vừa.
          Thanh Mai chỉ vào cái bao đeo trên lưng:
          - Sáng nay ông từ đền thờ đức Ông lấy mo cau nắm cho mấy nắm cơm. Lại có cả muối vừng nữa. Khỏi nấu cơm.
          Một người nông dân gánh hai thúng khoai đi qua. Lý Long hỏi:
          - Này anh ơi! Anh có bán khoai không?
          Anh nông dân gật đầu:
          - Có chứ. Công tử muốn mua bao nhiêu cân?
          Thiện-Lãm nói:
          - Anh cả. Theo tục lệ người Việt mình, thì anh chỉ phải làm việc gì khi bọn em không làm được. Việc mua khoai này, để bọn em. Khoai mới bới lên phải nướng mới ngon.
          Nó đếm người, rồi chọn khoai. Lý Mỹ-Linh cũng ngồi chọn khoai với Lãm. Chàng vừa chọn đựơc hai củ, Lãm cầm lấy bỏ trả. Nó nói:
          - Anh Tư ơi. Anh không quen ăn khoai rồi. Để em giảng cho anh nghe. Dù ăn luộc, hay ăn nướng, thì cũng nên chọn củ vừa phải thôi. Chứ củ lớn quá khi luộc bên ngoài nứt, nhão ra mà bên trong cũng chưa chín. Còn ăn nướng, e nướng bên ngoài cháy thành than, mà bên trong ăn còn sượng. Phải chọn củ nào vừa vừa thôi. To bằng cổ tay em thì tốt.
          Nó chỉ vào mấy củ khoai, bên ngòai có vết chấm li ti:
          - Bên ngoài có vết như vầy là khoai bị hà. Ăn vào vừa cay, vừa đắng. Củ nào da mịn, thì trong ruột mới ngon.
          Lãm, Tông, Đản cùng chọn khoai. Tạ Sơn móc tiền trả. Chàng hỏi:
          - Bây giờ ăn nướng hay ăn luộc?
          Tôn Đản bàn:
          - Ở đây có hòa thượng, có sư bà. Chúng ta nên ăn chay. Cơm nắm cứ để dành đó. Lỡ ra chiều không về kịp còn có cái gì bỏ bụng. Chúng ta nướng khoai mà ăn.
          Lý Mỹ-Linh thắc mắc:
          - Anh không biết nướng khoai. Các em biết nướng thì nướng đi.
          Thiện-Lãm nắm lấy tay Lý Mỹ-Linh:
          - Anh tư này! Em nói một câu, anh đừng bắt lỗi nghe. Tướng anh trông như con gái. Da trắng tươi lại mịn. Môi hồng, mắt phượng. Em sợ công chúa cũng không đẹp bằng. Tiếng nói của anh trong, ngọt như cam thảo... À quên, để em nói về cách nướng khoai cho chị tư nghe.
          Lý Mỹ-Linh khẽ đập vào vai Thiện-Lãm:
          - Cậu bẩy này, hay đùa qúa.
          Cử chỉ của chàng dịu dàng như con gái. Thiện-Lãm bảo Tôn Đản:
          - Anh năm. Đem khoai xuống suối rửa với em.
          Tôn Đản, Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông đem khoai xuống suối rửa. Huệ- Sinh nhìn theo đám trẻ, nói:
          - Những thiếu niên Việt đầy tự hào dân tộc này. Nếu biết hướng đẫn, mai sau sẽ trở thành tuấn kiệt cho đất nước. Công tử thực thông tuệ khác thường, nên kết bạn cùng chúng.
          Rửa khoai xong, đám trẻ chia nhau. Đứa nhặt củi, cỏ khô. Đứa đào hố. Tôn Đản giảng:
          - Nướng khoai phải nướng bằng than. Nào đốt lửa lên.
          Ngọn lửa bốc cháy. Khói nghi ngút tỏa lên nền trời xanh, không gợn chút mây tơ. Lãm gọi Mỹ-Linh:
          - Chị tư lại đây xem nướng khoai. Chị thấy không? Phải để cho cỏ cháy hết. Chỉ còn tro hồng rực lửa. Bây giờ em vùi khoai vào. Phía trên đống tro, phải để than củi. Bởi tro than mau tàn. Còn nướng bằng than không, thì than nóng qúa, khoai bị cháy.
          Chỉ lát sau, một mùi thơm nhẹ nhàng xông vào mũi mọi người. Lý Long khịt mũi, hỏi:
          - Mùi gì thơm quá vậy?
          Thuận-Tông cười khúc khích:
          - Em chắc đây là lần đầu tiên anh cả đi ra ngoài quá. Chắc anh là con quan, hay con nhà giầu, cho nên không được ăn khoai nướng bao gìơ.
          Huệ-Sinh, Nùng-Sơn Tử đưa mắt nhìn Lý Long. Cả ba cùng thoáng qua nét kỳ dị. Tạ Sơn đáp:
          - Không phải. Anh cả không là con quan. Cũng chẳng phải con nhà giầu.
          Thuận-Tông càng thắc mắc:
          - Vậy anh cả làm quan lớn chắc, nên mới đi ngựa chứ?
          Lý Long cười:
          - Anh là ai chăng nữa, thì cũng là anh cả. Anh là anh, thì em quí anh. Chứ anh là quan, là vua, chưa chắc đã được ngồi ăn khoai nướng với các em.
          Sư thái Tịnh-Huyền bật lên tiếng:
          - A- Di- Đà Phật.
          Tôn Đản hô lớn:
          __ Khoai chín rồi. Đớp thôi.
          Chợt nhớ lại chư đớp thực vô phép. Nó chữa:
          - À để cúng dàng đại sư Huệ-Sinh với sư bà đã.
          Nó bới khoai khỏi đống than. Tay hái mấy lá cây, nhặt ba củ vỏ dộp lên, khói bốc nghi ngút. Nó bưng đến trước mặt sư thái Tịnh-Huyền, hòa thượng Huệ-Sinh:
          - Con kính cẩn cúng dàng.
          Trong khi đó Thuận-Tông, Thiện-Lãm đem khoai đến cho Nùng-Sơn tử là những người trên vai. Còn lại từ Lý Long trở xuống đều bóc vỏ khoai ăn. Thiện-Lãm dặn Lý Mỹ-Linh:
          - Anh cẩn thận nghe. Ăn từ từ thôi. Ăn miếng to bị nghẹn ngay đấy.
          Từ xa, một đòan bốn kị mã phi đến như gió. Thoáng một cái đã lướt qua. Bụi bay mịt mù. Thiện-Lãm tinh mắt kêu lên:
          - Đản! Bọn ăn cắp.
          Tôn Đản cũng ngạc nhiên:
          - Bọn khách trú có tên Tung-sơn tam kiệt. Hôm qua chúng đuổi theo người cướp di thư, rồi không thấy trở lại. Chỉ có Quách Quỳ bị bắt. Bố tôi giải lên quan. Không hiểu sao nay chúng lại đi đường này.
          Thanh-Mai suy nghĩ một lúc rồi nói:
          - E rằng quan trên không có bằng cớ,
          tha chúng ra chăng? Không lẽ. Vì Quách Quỳ cung khai đầy đủ mà? Được để lúc về, chúng ta hỏi thân phụ Đản thì biết.
          Huệ-Sinh hỏi:
          - Cái gì vậy?
          Tự-Mai tóm lược mọi truyện kể cho bọn Lý-Long nghe. Nùng Sơn-Tử kêu lên:
          - Tôi sợ bọn chúng vượt ngục. Mau đuổi theo.
          Lý Long phất tay:
          - Không cần đuổi theo. Tôi khắc có biện pháp đối phó. Bây giờ chúng ta tiếp tục lên đường.
          Tôn Đản ra lệnh:
          - Ở đây Thanh-Nguyên nhỏ quá. Cho miễn. Còn năm đứa con trai, mỗi đứa phải dắt một con ngựa. Chứ không lẽ bọn mình đi tay không, để vai chú, vai bác, vai anh, vai chị dắt ngựa?
          Thế là năm con ngựa được trao cương cho Lý Mỹ-Linh, Tôn Đản, Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông. Thanh-Nguyên hỏi Lý Long:
          - Anh cả ơi. Cho em cỡi ngựa được không?
          Lý Long vỗ sẽ vào vai nó:
          - Được chứ. Để anh đỡ em lên ngựa.
          Thanh-Nguyên không chịu:
          - Để em tự lên ngựa một mình. Mười tuổi rồi đâu có còn nhỏ nữa? Dù có còn nhỏ bẩy tuổi như Phù-đổng thiên-vương, cũng phải biết cỡi ngựa đánh giặc.
          Nó nhún chân vọt mình một cái, đáp lên lưng ngựa, miệng cười:
          - Anh cả coi được không?
          Lý Long vỗ lưng Thanh-Nguyên:
          - Thức phi thân Gia-Hưng xuất giang trong Đông-a thân pháp đẹp thực. Em mới ngần này tuổi mà bản lĩnh đã vào hàng hiếm có rồi đấy. Khi em bằng tuổi anh chắc không thua gì công chúa Gia-Hưng thời vua Trưng.
          Thanh-Nguyên lắc đầu:
          - Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc lĩnh ấn đô đốc thời Lĩnh-nam. Năm hai mươi ba tuổi định đánh chiếm Lạc-dương, lật đổ nhà Hán. Em làm sao mà bằng được?
          Sư thái Tịnh-Huyền dường như không bao giờ lên tiếng. Bỗng nhiên bà ngắt lời Thanh-Nguyên:
          - Không được nói thế. Con phải biết lẽ biến động của trời đất. Bắc-bình vương học võ công Văn-lang, rồi bản lĩnh hơn cả thánh Tản-viên. Tể tướng Nguyễn Phương-Dung học kiếm thuật của thánh Chèm, rồi bản lãnh hơn thánh Chèm. Ta học võ từ sư phụ, rồi hơn sư phụ. Con học võ từ bố con, rồi phải hơn bố. Nếu cứ lý luận người sau thua người trước thì chẳng mấy chốc đất Việt trở thành cùng đường. Con phải nói: « Cảm ơn anh quá khen. Em sẽ cố gắng để bằng công chúa Gia-Hưng, rồi một mai hơn hẳn ngài ».
          Thanh-Nguyên chắp tay xá Tịnh-Huyền sư thái:
          - Đa tạ sư phụ dạy dỗ.
          Rồi nhắc lại nguyên văn lời sư phụ dạy.
          Lý Long bảo Tự-Mai:
          - Nào thầy đồ, tiếp tục thuật truyện Lệ-Hải Bà-vương khởi nghĩa đi chứ!
          Tự-Mai hỏi Tôn Đản:
          - Anh năm. Hồi trưa em kể đến đâu rồi.
          - Đến chỗ Triệu Quốc-Đạt sai em gái là Triệu Quốc-Trinh vào núi Chung-chinh và hang Xuân-đài lập căn cứ huấn luyện tráng đinh, nấu thép chế vũ khí.
          Tự-Mai tiếp:
          - Ngoài Bắc, nhạc phụ là Đinh Trọng-An bí mật tuyển tráng đinh gửi vào. Sau khi huấn luyện thuần thục võ nghệ, phép tác chiến, xung phong, hãm trận. Quốc-Trinh cho tráng đinh về bắc. Đinh Trọng-An lại gửi toán khác vào.
          Tạ Sơn hỏi:
          - Tiết Kính-Hàn có biết kế họach của Triệu Quốc-Đạt không?
          - Không. Y tưởng Quốc-Đạt huấn luyện dân đinh cho mình. Y mừng lắm.Chỉ có đô úy Đổng Thừa nghi ngờ. Song y không dám nói ra. Một là sợ mối liên hệ anh em bạn rể giữa Quốc-Đạt với thái thú. Hai là y tự biết võ công thua xa cả sư đệ của Quốc-Đạt là Lý Hoằng, Lý Mỹ. Vả lại việc tuyển tráng đinh, luyện quân là nhiệm vụ của y. Nay y tuyển binh, không ai ứng lời gia nhập. Y đang lo sợ không làm tròn chiếu chỉ của Ngô chúa Tôn Quyền phải cung cấp mỗi tháng 500 người sang Trung-quốc dự chiến. Nay Quốc-Đạt làm dùm. Vì vậy y xu phụ theo Quốc-Đạt. Chẳng bao lâu, Cửu-chân có đạo quân toàn người Việt, khỏe mạnh, thiện chiến tới hơn ngàn người, do hai sư trưởng Lý Hoằng, Lý Mỹ, sư đệ của Quốc-Đạt chỉ huy.
          Nùng-Sơn tử hỏi:
          - Cháu này! Việc làm khá ồn ào. Tuy thái thú không nghi ngờ. Song trên thái thú còn có thứ sử. Thứ sử Giao-châu bấy giờ là ai? Y đóng ở đâu?
          - Là Lục Dận, y đóng ở Long-Biên. Lục Dận kiêm cả ba quận Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ. Năm Mậu-thìn (248 sau tây lịch) nhằm niên hiệu Xích-Ô thứ 11 của Ngô chúa Tôn Quyền, có tin Ngô chúa muốn triệu hồi Lục Dận về triều. Tiết Kính-Hàn cảm thấy thế lực mình mạnh hơn thái thú ba nơi kia.
          Huệ-Sinh mỉm cười:
          - Chắc y tưởng quân sĩ do anh em Triệu Quốc- Đạt tuyển mộ là của mình? Ngu thực.
          - Tiết Kính-Hàn muốn làm thứ sử Giao-châu. Rồi củng cố thế lực, mưu tách khỏi Trung-quốc, biên thùy một cõi như Triệu Đà. Hay ít ra cũng như Sĩ Nhiếp. Nghĩa là chỉ tiến cống Ngô chúa. Y sai vợ mang vàng, bạc, châu báu về kinh đô Kiến-nghiệp nhà Ngô hối lộ các quan. Không ngờ sắc đẹp của Nữ-Hoàn làm rúng động triều Ngô. Người này đòi gian dâm với thị. Thị thỏa mãn, thì người khác lại đòi. Các quan nhà Ngô tranh dành nhau hỗn loạn. Cuối cùng đến Ngô chúa là Tôn Quyền cũng đòi. Ngô chúa kêu y thị vào yết kiến. Nhưng y đã già qúa, chỉ nhìn mặt, tiếc rẻ, rồi cho về. Thế là Tiết Kính-Hàn vừa mất cả tiền lẫn tình, mà chẳng được cái gì.
          Lý Mỹ-Linh thở dài:
          - Đinh Nữ-Hoàn dù sao cũng là đệ tử danh gia. Võ công, võ đạo để đâu mà chịu làm truyện gian dâm như vậy?
          Thanh-Mai trả lời thay cho em:
          - Để chị giảng cho Mỹ-Linh nghe. Từ khi xẩy ra cái án Mị-Châu, Trọng-Thủy thì trong tộc Việt chúng ta khinh ghét những người con gái lấy chồng Trung-quốc. Vì vậy khi một người đàn bà lấy chồng ngoại tộc, tự trong tâm khảm của họ cho mình bị đồng bào khinh ghét. Khi người ta mặc cái áo sạch, tất nhiên phải giữ gìn. Khi người ta mặc cái áo vừa cũ, vừa rách, vừa dơ bẩn, người ta không cần giữ nữa, vì nghĩ rằng, đã dơ thì còn giữ làm chi? Nữ- Hoàn cũng ở trong hòan cảnh đó. Trên thực tế, nếu con gái Việt lấy chồng đừng làm bại hoại gia phong, đừng làm hại đất nước thì có ai phiền trách đâu? Thời vua Bà, công chúa Gia-Hưng chẳng từng lấy chồng người Hán đấy ư? Thế mà hậu thế lại thờ kính bà.
          Tự-Mai tiếp:
          - Sau khi Đinh Nữ-Hoàn đi Trung-quốc về, ở nhà mọi việc hoàn tất. Triệu Quốc-Đạt chuẩn bị đánh úp Cửu-chân. Kế họach dự trù như sau: Nhân ngày sinh nhật của Tiết. Nữ-Hoàn làm tiệc mời tất cả quan khách tới dinh thái thú ăn tiệc. Một nghĩa quân giữ chân đầu bếp bỏ thuốc độc vào thức ăn. Giữa lúc tất cả quan lại trúng độc, thì Đinh Tú-Mi lấy quyền thống lĩnh tế tác, nắm quyền quân sự. Một mặt ra lệnh đóng cổng thành. Một mặt bắt trói hết quan lại. Trong khi đó Triệu Quốc-Đạt dẫn quân bản bộ ở huyện Vô-Biên tiến về thành Cửu-chân. Đinh Tú-Mi sẽ mở cổng thành cho vào.
          Mỹ-Linh khen:
          - Kế hoạch hay.
          - Triệu Quốc-Trinh thống lĩnh nghĩa binh, mang lệnh phù của đô úy Đổng Thừa, tiến về huyện Nga-sơn, Tống-sơn. Hai tướng Lý Hoằng, Lý Mỹ mang lệnh phù, đánh chiếm huyện Hoằng-tín, Vạn-sơn. Cứ tiếp tục như thế trong suốt đêm đánh chiếm hết chín huyện thuộc Cửu-chân. Sau khi chiếm Cửu-chân, thì Nhật-nam cô lập. Các anh hùng trong ấy đã chuẩn bị chờ đợi. Bấy giờ mới nổi lên. Khốn nhưng giữa lúc đó một truyện rắc rối xẩy ra.
          Tôn Đản hỏi:
          - Cái gì vậy?
          - Đinh Tú-Mi thường tiếp xúc với Triệu Trinh-Nương. Y đem lòng thầm yêu. Y nhờ hai chị đứng ra hỏi Trinh-Nương cho. Không ngờ khi Nữ-Hoàn, Nữ-Vĩ ngỏ lời với Quốc-Đạt. Ông không dám quyết định. Ông vào núi Chung-chinh nói với Trinh-Nương.
          Thiện-Lãm ngắt lời:
          - Khó đấy nhé. Nói sao cho hợp lý bây gìờ?
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:38:29 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            CDDLT 23.12.2004 13:12:45 (permalink)
            Hồi thứ năm


            Thiên sứ Tống triều



            Thanh-Mai gật đầu:
            - Quả thực khó nói. Ông thuyết rằng « Âm dương là đạo của trời đất. Từ đời vua Hùng, đều đặt kỷ cương rằng, trai mười tám, gái mười sáu phải lập gia đình. Sau khi bố mẹ bị bọn Hán giết đến giờ, anh em mình bên nhau, mưu đại sự, trước đền nợ nước, sau trả hận nhà. Anh đã cưới vợ mấy năm rồi. Bây giờ em cũng phải thành gia thất mới phải đạo. » Trinh Nương phản đối : « Tại sao thành gia thất mới phải đạo? Chúng mình đang làm nhiệm vụ vá trời đó mới là đạo lý dân tộc, đạo lý của vua Hùng, vua Trưng. Trong lúc phải dồn hết tâm trí vào e còn không xong. Thế mà anh bảo em yên phận sao? Em muốn đạp sóng lớn, cỡi cá kình, vượt biển Đông, tuốt ba thước gươm trả thù nhà, đền nợ nước, phục hồi Lĩnh-Nam, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta. Trước kia Trưng-Nhị, Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa cho đến khi tuẫn quốc vẫn còn con gái. Mà ngày nay dân Việt thờ cúng, có ai chê trách đâu? Thôi được! Chuyện vợ chồng xin anh để sau khi đất nước sạch bóng quân thù đã. »
            Tạ Sơn, Lý Mỹ-Linh, Thanh-Nguyên vỗ tay:
            _ Câu nói bất hủ. Muôn ngàn năm sau sẽ còn được truyền tụng.
            Đạo sĩ Nùng-Sơn tử gật đầu:
            - Trong lúc hăng say vá trời, Trinh-Nương trả lời như vậy là phải. Nhưng nếu Quốc-Đạt khéo léo một chút, khích Tú-Mi bằng một lời hứa bâng quơ rằng: hãy gắng sức, sau khi khởi binh sẽ gả Trinh-Nương cho. Có phải tốt đẹp không? Thế sau khi Trinh-Nương đáp lời, Quốc-Đạt phản ứng ra sao?
            - Quốc-Đạt thuyết Trinh-Nương « Tuy em không đồng ý bây giờ, nhưng sau này thì sao?. » Trinh-Nương trả lời : « Em đồng ý làm vợ Tú-Mi, nhưng dẫn cưới bằng ba thành Cửu-chân, Long-biên, Quế-lâm. » Quốc-Đạt thuật lại cho Tú-Mi. Y im lặng suy nghĩ. Nhưng sau đó y cứ theo sát Trinh-Nương, lải nhải cầu cạnh, làm Trinh-Nương đôi phen nổi nóng.
            Đạo sĩ Nùng-Sơn tử hỏi:
            - Thế mặt trận ngoài Bắc do ai cầm đầu?
            Tự-Mai đáp:
            - Thưa đạo trưởng, chính là Tản-viên tam kiệt. Kế hoạch do Đinh Trọng-An thiết lập. Trọng tâm chính là đánh chiếm thủ phủ thứ sử, đóng ở Long-biên. Đúng đêm ấy, ngoài Bắc, phái Long-Biên, phái Tản-Viên đột nhập Long-biên giết chết thứ sử Lữ Đại, chiếm thành. Ngày hôm sau, đạo quân Cửu-chân tiến ra hợp nhau, chiếm nốt các huyện còn lại. Như vậy ta đã có ba vùng Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ... gồm toàn thể lãnh thổ Đại-Việt bây giờ, tức lãnh thổ Âu-lạc xưa. Sau đó liên kết với Thục, Ngụy, cùng đánh Ngô. Khi quân Thục, Ngụy khởi binh. Ta ở gần, nhanh tay chiếm lại Quế-lâm, Tượng-quận, tái lập Lĩnh-nam. Nhưng...
            Mọi người như cùng dừng bước, chờ đợi. Tự-Mai thở dài:
            - Tiết Kính-Hàn cãi nhau với vợ về vụ đi Ngô không thành công. Nữ-Hoàn chửi rủa Kính-Hàn tham danh, bắt thị cực khổ. Kính-Hàn phải dụ dỗ cho qua. Y kể vì muốn làm thứ sử, rồi biên thùy một cõi, lập lên nghiệp đế như Triệu Đà khi xưa. Bấy giờ Nữ Hoàn đương nhiên thành hòang hậu. Y sẽ phong cho Đinh Trọng-An làm Cửu-chân vương. Phong cho Đinh Tú-Mi làm Long-biên công, kiêm thứ sử Giao-châu. Việc vợ chồng cãi nhau, lọt vào tai Đinh Tú-Mi. Tú-Mi đem truyện đó nói với Nữ-Vĩ. Nữ-Vĩ nghe truyện, tin thực. Y thị cùng Tú-Mi bàn với Triệu Quốc-Đạt bỏ ý định khởi binh. Ngược lại đem hết lực lượng giúp Kính-Hàn bằng cách trợ Ngô, đánh Ngụy. Đợi thắng một trận. Ngô chúa nhất định hài lòng, phong cho Kinh-Hàn làm thứ sử. Khi Kính-Hàn thành thứ sử, đựng cờ uy nghi, có phải hơn việc khởi binh, mạo hiểm, mà khó thành công. Triệu Quốc-Đạt, Triệu Trinh-Nương phản đối quyết liệt, viện dẫn, dù Kính-Hàn lên ngôi vua, cũng vẫn không hơn Triệu Đà. Người Hán cai trị đất Việt. Muôn ngàn lần, dân chúng, võ lâm Lĩnh-nam bất phục. Cãi nhau, nổi nóng quá đi đến chỗ dụng võ. Nữ-Hoàn đấu với Quốc-Đạt. Quốc-Trinh đấu với Tú-Mi. Từ trước đến giờ bản lĩnh Tú-Mi vẫn hơn Quốc-Trinh một bậc. Không hiểu sao nay kiếm pháp của bà kỳ diệu biến ảo khôn lường. Được hơn năm mươi hiệp Tú-Mi lâm nguy. Đinh Nữ-Vĩ nhảy vào trợ chiến bênh em. Quốc-Trinh vẫn đàn áp được cả hai. Tú-Mi hô bộ hạ bao vây hai anh em Triệu. Chỉ chốc lát cả hai anh em đều bị bắt. Bộ hạ Tú-Mi chết hơn trăm người.
            Lý Long thở dài:
            - Thế là hỏng đại cuộc.
            - Đúng thế. Nữ-Vĩ biết sự thể không lùi đựơc. Cần phải báo cho Kính-Hàn biết ngay mọi âm mưu. Nếu không nghĩa binh, võ lâm sẽ tràn vào cứu anh em Quốc-Đạt thì mọi truyện không ổn. Mà thả anh em Quốc-Đạt ra, ắt hai người không dung chị em họ Đinh. Giữa lúc đó hai người từ nóc nhà nhảy xuống. Vung kiếm đánh lui chị em họ Đinh, đưa kiếm cắt đứt dây trói Quốc-Đạt, Quốc-Trinh. Hai người đó chính là Lý Hoằng, Lý Mỹ. Bốn người tiêu diệt đám bộ hạ Tú-Mi. Quốc-Trinh biết vì anh em mình nương tay, mới bị chị em họ Đinh hại. Nàng nghĩ ra một kế, bảo Quốc-Đạt với hai sư đệ họ Lý lấy ngựa lên núi Chung-chinh trước. Mình cản hậu cho. Ba người vội lên ngựa ra đi. Đợi anh đi rồi, Quốc-Trinh mới dở bản lĩnh chân thực ra. Một chiêu đánh rơi kiếm Nữ-Vĩ. Một chiêu nữa đánh rơi kiếm Tú-Mi. Nàng dí kiếm vào cổ y đe dọa, ra lệnh cho y bắt thủ hạ buông vũ khí. Không ngờ Nữ-Vĩ tưởng Quốc-Trinh giết Tú-Mi. Bà nhảy vào đứng chắn trước mặt em. Quốc-Trinh không kịp thu chiêu. Một kiếm đâm suốt qua lưng y thị. Quốc-Trinh kinh hoàng, rút kiếm ra, cứu chị dâu, thì mụ đã chết. Lúc bà định thần lại, tìm Tú-Mi không thấy đâu. Y đã trốn mất. Bà khẩn cướp ngựa chạy về núi Chung-chinh.
            Mỹ-Linh thở dài:
            - Thế mà người Tầu chép sử rằng vì chị dâu đanh ác, bà Triệu giết di, rồi vào núi làm giặc.
            Lý Long thở dài:
            - Thế là đại cuộc hỏng rồi. Tất nhiên chị em Tú-Mi phải nghiêng về phía Tiết Kính-Hàn. Nội bộ nghĩa quân Việt chia làm hai. Nếu tôi là Kính-Hàn tôi không làm gì cả. Cứ ra lệnh cho Đổng Thừa lờ đi như không biết. Tự nhiên Tú-Mi phải xuất lĩnh lực lượng mình thanh toán lực lượng Quốc-Đạt. Ngoài Bắc dĩ nhiên Đinh Trọng-An xót tình máu mủ. Y theo phe con mình. Hai phe nghĩa quân tự đánh nhau. Mình ôm gối ngồi cao. Đợi cuộc chiến ngã ngũ, tung mẻ lưới bắt hết.
            Tự-Mai lắc đầu:
            - Quốc-Trinh không để cho Tiết Kính-Hàn trở tay. Về đến núi Chung- chinh. Bà đốc quân tiến đánh Nga-sơn, Biện-sơn, Linh-trường, Vô-biên ngay. Dù lúc đó Kính-Hàn đựơc Tú-Mi thông báo cho đầy đủ tin tức. Triệu Quốc-Đạt biết Tiết Kính-Hàn có tập trung được quân cũng mất một ngày. Vì vậy ông tung các cao thủ đón đừơng giết hết bọn lưu tinh truyền tin. Một mặt ra quân. Chỉ hai ngày chiếm bốn huyện, rồi tập trung quân tiến về thành Cửu- chân. Bấy giờ Đổng Thừa đã chỉnh bị nhân mã cố thủ. Một mặt gửi thư cầu cứu với thứ sử Giao-châu là Lục Dận. Lục Dận được tin cấp báo. Y khẩn ra lệnh đề phòng. Một mặt truyền võ sĩ bảo vệ quan lại. Một mặt báo động khắp nơi. Vì hệ thống thông tin ra Bắc nằm trong tay Tú-Mi. Tú-Mi phản rồi, thành ra võ lâm Cửu-chân không tuân lệnh y nữa. Do vậy y không báo tin cho cha biết. Các thủ lĩnh ngoài Bắc nào ngờ kế họach bị lộ. Cứ thi hành như dự trù. Vì vậy Tản-viên tam kiệt bị trúng phục binh chết khi vừa nhập thành Long-biên. Lục Dận cho thiết kị bao vây tổng đừơng phái Tản-viên, Long-biên. Các đệ tử hai phái tử chiến đến người cuối cùng. Quân Hán tổn hại không ít. Hầu hết các tướng bị giết.
            Nùng-Sơn tử gật đầu:
            - Ít ra phải như vậy. Mình chết một, chúng phải chết trăm. Cho hả cơn giận.
            - Lục Dận không đủ quân tiếp viện cho Kính-Hàn. Y tung toàn lực đánh truy lùng bắt giết gia đình những người ứng nghĩa. Gặp đường cùng, võ lâm đều nổi dậy. Song không thống nhất. Lại lâm vào nạn chia bè, kéo cánh. Vì vậy Lục Dận đàn áp dễ dàng. Phải mất hơn ba tháng, tình hình ngòai Bắc mới ổn định. Trong khi đó thì quần hào nổi dậy chiếm được Nhật-nam. Vùng Cửu-chân, chỉ còn thủ phủ của Tiết Kính-Hàn. Quần hào quyết định để Triệu Quốc-Đạt vây thành Cửu-chân. Còn Triệu Trinh-Nương tiến quân ra Bắc. Tới núi Dục-thúy đựơc phái Hoa-lư nổi lên tiếp ứng. Trinh-Nương chém chết Chinh-nam đại tướng quân bên Ngô là Cam Du. Quân Ngô rúng động, tan vỡ.
            Huệ-Sinh thắc mắc:
            - Này thầy đồ, tôi nghe Cam Du là con trai đại tướng quân Cam Ninh bên Đông-Ngô, anh hùng vô địch. Khi y sang Lĩnh-nam, không ai địch nổi y. Đến Đinh Trọng-An cũng chỉ chịu đựơc có năm mươi chiêu, rồi mất mạng. Trinh-Nương làm sao giết được y?
            Tự-Mai cười:
            - Bạch thầy, đó là điều bí mật võ lâm. Chính vì vậy, bọn Triệu Huy, Quách Quỳ mới có mặt ở vùng này. Đêm qua xẩy ra cuộc đại chiến ở đền thờ đức ông Tương-liệt đại vương, cũng do đấy mà có.
            Huệ-Sinh ngơ ngác:
            - Nghĩa là?
            - Người người truyền tụng rằng Trinh-Nương đã tìm được bộ Lĩnh-nam vũ kinh, luyện thành Long-biên kiếm pháp. Từ sau khi Trinh-Nương khuất bóng, trong giới giang hồ võ lâm nổi lên những trận phong ba. Người ta đổ xô đi tìm bộ vũ kinh. Cho nến nay, trải hơn tám trăm năm người ta vẫn còn kiên gan đi tìm. Nguyên do chỉ vì muốn được bộ Lĩnh-nam vũ kinh, cùng bản đồ kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt.
            Tôn Đản không hiểu:
            - Thầy đồ nói rõ hơn một chút đi.
            Tự-Mai gật đầu, nói thực chậm:
            - Từ trước đến giờ bản lĩnh của Trinh-Nương còn thua sư huynh Lý Hoằng, Lý Mỹ một bậc. Khi ra quân Lý Hoằng chỉ chịu được có bốn mươi hiệp đã lạc bại đưới kiếm của Cam Du. Đạo quân của Lý Hoằng phải lui lại. Vừa lúc đó quân Trinh-Nương tới. Đi trước là lá cờ đề bốn chữ Nhụy kiều tướng quân . Bà cỡi trên con voi trắng, mặc quần áo lụa vàng. Cam Du thấy một thiếu nữ mặt tươi như hoa, dáng diệu khoan thai, thì bật cười hỏi: Phải chăng nàng là Triệu Quốc-Trinh thuộc phái Long-biên?. Trinh-Nương ngồi trên bành voi lễ phép : Không dám, tiểu nữ xin tham kiến đại tướng quân. Đối đáp một lúc, đưa đến Trinh-Nương thách Cam Du độc đấu. Hai bên thỏa thuận cho quân nghỉ, hôm sau đấu. Hai bên ước hẹn nếu Trinh-Nương thua phải đầu hàng. Còn Cam Du thua, y phải rời bỏ Giao-châu về Ngô.
            Nùng-Sơn tử than:
            - Trinh-Nương bạo gan quá, dám đem đại cuộc ra hơn thua trong một trận. Lỡ thua thì sao?
            Tự-Mai gật đầu:
            - Lý Mỹ thấy xưa nay Trinh-Nương hành sự cẩn trọng, mà lại bỏ lề lối cũ, ắt có mưu kế gì đây. Nên ông không cản. Trở về trại, Trinh-Nương dặn hai sư huynh suốt đêm đem quân vòng núi Hồi-hạc. Một người vòng núi Cánh-diều phục sẵn. Khi bà giết chết Cam Du, tàn quân Ngô ắt chạy trở về Bắc. Nếu gặp quân Ngô gốc Hán, chúng sẽ tử chiến, không hàng đâu, cứ giết thẳng tay. Còn ngược lại gặp quân Ngô gốc Việt cần chiêu dụ chúng hàng... Sáng hôm sau Trinh-Nương y hẹn cùng Cam Du dàn quân tại Trường-yên. Quân sĩ ở phía sau 3 lằn tên. Chỉ hai chúa tướng đơn đấu. Cam Du nhường Trinh-Nương ra chiêu trước. Trinh-Nương từ bành voi vọt ngừơi lên cao. Bà lộn ba vòng trên không, người tà tà hướng về phía Cam Du. Cam Du cũng vọt nười khỏi mình ngựa đưa kiếm gạt. Hai kiếm đụng nhau trên không. Trinh-Nương bay trở về bành voi. Cam Du bay trở về mình ngựa. Quân sĩ hai bên la hoảng. Còn Cam Du mặt tái nhợt.
            Tạ Sơn ngạc nhiên:
            - Cái gì vậy?
            - Trinh-Nương dùng kiếm pháp Long-biên. Trong khi hai kiếm đụng nhau, người bà bật lại. Bà xử dụng một chiêu trấn môn, cắt đứt đai áo của y. Y tần ngần nhìn đai áo, lòng kinh hoảng. Y hỏi: Ta tưởng từ khi Đào Kỳ, Nguyễn Phương-Dung, Phật-Nguyệt qua đời đến gìơ thì tám mươi mốt thức trấn môn Long-biên kiếm pháp thất truyền. Không ngờ cô nương cũng biết xử dụng. Tuy vậy tự tin bản lĩnh mình. Y tiếp tục giao chiến. Đánh được khỏang 200 hiệp y khám phá ra rằng Trinh-Nương mới học kiếm pháp trấn môn Long-biên, vì vậy chưa thuần thục. Bằng không y mất mạng ngay từ chiêu đầu. Càng đánh y càng kinh hoàng. Thình lình Trinh-Nương quát lên một tiếng, người bà quay tròn như con quay, lăn vào làn kiếm quang của Cam. Choảng một tiếng kiếm của y bay bổng lên trời. Tiếp theo đầu y rơi xuống đất. Trinh-Nương chỉ tay một cái, nghĩa quân Việt tiến lên. Quân Ngô đông gấp bội, lại kinh nghiệm chiến đấu. Chúng tử chiến cướp xác chủ tướng. Nhưng phó tướng của Cam lại bị Trinh-Nương giết chết. Chúng kinh hoảng bỏ chạy. Nghiã quân đuổi theo. Chúng chạy được nửa buổi, không thấy bóng voi trắng của Trinh-Nương, tưởng yên. Thình lình trúng phục binh của Lý Hoằng, Lý Mỹ. Thế là đại quân tan rã. Đến đây có hai đường lối hành động. Em đố anh cả biết đó là đường lối nào?
            - Dễ thôi. Một là thừa lúc giặc đang mất nhuệ khí, tiến lên như sét nổ vây Long-biên. Hai là dừng quân chỉnh đốn lực lượng, tổ chức nền nội trị gây cơ sở rồi chia quân chiếm các thôn xóm, cô lập, tuyệt lương thảo địch. Sau đó đánh chiếm Long-Biên.
            Huệ-Sinh hỏi:
            - Chủ nhân, nếu chủ nhân là Trinh-Nương. Chủ-nhân chọn đường lối hành động nào?
            Lý Long kính cẩn đáp:
            - Thưa sư phụ, đệ tử chọn đường lối thứ nhất. Giặc là người Ngô. Thua một trận, tướng sĩ đã nghĩ đến bỏ chạy tháo thân. Vì vậy cần đánh như sét nổ để rút ngắn thời gian.
            Thanh-Mai gật đầu:
            - Ý nghĩ của những bậc anh hùng trong thiên hạ thường giống nhau. Trinh-Nương qủa đã hành động như anh cả. Bà truyền thúc quân tiến ra Long-biên. Thứ sử Lục Dận nghe tin Cam Du tử trận. Đại quân tan vỡ. Y truyền rút quân ở các vùng lân cận về gĩư thành Long-biên. Quân trong thành lên đến mười vạn. Trong khi quân của Trinh-Nương gồm ba nghìn nghĩa binh. Dọc đường thu dụng thêm một vạn của Cam Du, tuyển bốn vạn tân binh. Tổng cộng chỉ có gần sáu vạn. Trinh-Nương đóng ngoài thành Long-biên, ngày đêm đánh trống khua chiêng cướp tinh thần địch, cùng chiêu binh, mua ngựa, luyện quân. Vây hơn nửa tháng,thì có nhiều tướng sĩ gốc người Việt trong thành, gửi thư ra xin Trinh-Nương tiến công. Họ nguyện làm nội ứng. Trinh-Nương mừng lắm, tiến quân công thành. Quả nhiên tướng Ngô, gốc Việt mở cổng thành cho nghĩa binh tràn vào. Binh tướng Ngô trong thành đầu hàng hết. Lục Dận trốn mất. Trinh-Nương sai ngưa lưu tinh báo về cho Triệu Quốc-Đạt biết. Một mặt bà tiến quân đánh chiếm các vùng còn lại của Giao-châu. Thôi để Tự-Mai thuật tiếp.
            Tự-Mai cầm bầu nước tu một hơi rồi tiếp:
            - Tin chiến thắng Long-biên đưa về. Triệu Quốc-Đạt truyền viết thư hiệu triệu tướng sĩ trong thành Cửu-chân hãy mở của qui hàng. Việt được ân xá, cho giữ chức tước cũ. Hán thì cho về Ngô cùng với vợ com của cải. Một số tướng sĩ gốc Việt cùng với Tú-Mi mưu mở cửa thành cho nghĩa quân vào bị bại lộ. Tú-Mi bị bắt giam. Mấy tướng leo thành ra hàng. Hàng tướng tiết lộ cho Quốc-Đạt biết có một đường hầm từ ngoài vào trong thành. Họ tình nguyện đi trước dẫn đường. Quốc-Đạt mừng lắm. Một mặt tấn công. Một mặt cho các cao thủ theo đường hầm đột kích.
            Thiện-Lãm than:
            - Trúng kế giặc rồi!.
            Tạ Sơn ngạc nhiên:
            - Tại sao?
            - Tú-Mi phản quốc, y tự biết không thể được dung tha. Đời nào với một bức thư hiệu triệu mà y đổi lòng? Hơn nữa trước kia y coi về tế tác, oai quyền biết mấy. Bây giờ hai chị bị giết. Y thù Quốc-Đạt, Quốc-Trinh đến gân, đến tủy. Đời nào y hàng để rồi bị nhục nhã. Còn các tướng ra hàng, càng vô lý. Bọn tham danh, tham tiền bán rẻ lương tâm theo giặc chẳng qua vì tiền. Vì vợ con. Nay đời nào chúng dám bỏ vợ con, ra hàng một mình. Chẳng qua đây là kế của Tiết Kính-Hàn mà thôi.
            Mọi người đều gật đầu công nhận lý luận của Lãm xác đáng. Tự-Mai tiếp:
            - Đúng thế. Các cao thủ đột nhập thành, đều bị bắt hết. Bên trong Tú-Mi cho nổi lửa, mở cửa thành. Quốc-Đạt tiến quân vào, bị phục binh bắn như mưa. Ông trúng ba mũi tên chết tức khắc. Song nghĩa quân mạnh như thác đổ, tràn vào. Hai bên giáp chiến suốt đêm. Đến sáng, phần thắng về phía quân Ngô. Giữa lúc đó, quân Trinh-Nương xuất hiện, cứu viện. Tiết Kính-Hàn, Đổng Thừa, Tú-Mi đều bị bắt.
            Lý Mỹ-Linh phản đối:
            - Vô lý. Từ Long-biên, nay là Thăng-long, vào đến Cửu-chân phải mất ít ra một ngày, một đêm. Trinh-Nương làm sao cứu viện mau như vậy đựơc? Họa chăng có cánh.
            Tự-Mai cười:
            - Nguyên khi chuẩn bị đánh thành Cửu-chân, Quốc-Đạt sai người phi ngựa ngày đêm ra báo tin cho Trinh-Nương biết. Trinh-Nương nhìn ra chỗ gian dối. Bà không kịp sai người viết thư cản anh. Đích thân điều động đội thiết kị phi suốt đêm về Cửu-chân cứu viện. Hôm sau, bà sai phanh thây Tiết Kính-Hàn, Đổng Thừa, Tú-Mi tế Quốc-Đạt. Anh chết rồi Trinh-Nương chỉ còn biết xua quân tiến chiếm Cửu-chân. Việc hoàn tất thì có thư của chưởng môn phái Tản-viên xin tha cho Tú-Mi. Trinh-Nương viết thư phúc đáp rằng việc đã lỡ. Tú-Mi bị giết trước khi thư tới. Các cao thủ phái Tản-viên cho rằng Trinh-Nương khinh thường họ. Họ tự ly khai với Cửu-chân. Thế là ngoài Bắc diễn ra cuộc tương tàn. Giữa lúc đó Ngô chúa sai Lữ Đại đem đại quân sang đánh. Thủy bộ hơn hai mươi vạn. Chỉ một tháng Lữ Đại chiếm lại được Giao-chỉ. Các anh hùng đất Bắc phần bị giết. Phần đầu hàng. Lữ Đại đem quân vào Cửu-chân. Trinh-Nương chỉ còn lực lượng không đầy hai vạn. Bà phải rút lên núi Chung-chinh kháng chiến. Lữ Đại đem quân vây núi, nhưng không thể tiến lên. Vì vậy chúng mới làm bài thơ. Trong đó có câu:
            "Hoành giáo đương hổ dị.
            Đăng sơn đối bà nan
            ”.
            Lý Long hỏi:
            - Về sau ra sao?
            - Không thấy sử nói rõ. Chỉ biết sau ba năm vây núi. Lữ Đại cho quân tiến lên, thì thấy trang trại hoang vu. Không một bóng người, một bóng ngựa. Còn Trinh-Nương có thuyết nói bà ẩn thân hành hiệp. Có người nói bà sang Kiến-nghiệp, giết chết Ngô chúa là Tôn Quyền. Việc này xẩy ra vào niên hiệu Diên-hy thứ 15 Hậu-Hán. Hậu-chúa nhằm năm Nhâm-Dần ( 252 sau Tây lịch). Con Quyền là Tôn Lượng lên thay cải niên là Kiến-hưng.
            Lý Long thẫn thờ nói:
            - Cứ như truyền thuyết thì khi biết không còn hy vọng gì nữa, bà Triệu cho anh em nghĩa quân vượt núi trốn đi. Chỉ để lại một nghĩa quân thân tín nhất. Bà vào động Xuân-đài, rồi sai nghiã quân đó lấp đá. Vì vậy đời sau không ai biết động Xuân Đài ở đâu.
            Sư thái Tịnh-Huyền nói:
            - Từ bao năm nay, võ lâm Lĩnh-nam mơ ước tìm ra động Xuân-đài. Vì họ nghĩ rằng Trinh-Nương đã học được kiếm pháp Long-biên ở đó. Họ đi đến kết luận rằng Trinh-Nương tìm được bí quyết trấn môn phái Long-biên trong động Xuân-đài. Chắc trong động còn cất nhiều bí quyết võ công thời Lĩnh-nam. Vì vây, đời nào, phái nào cũng có người tìm động này. Chỉ có chúng ta là muốn đến hành hương đất cũ mà thôi.
            Hà Thiện-Lãm:
            - Như thế thì bà Triệu chết năm nào không ai biết. Vậy tại sao lại có lăng của bà trên núi Chung-chinh rồi trên núi Sơn-trang?
            Tự-Mai đáp:
            - Sau này dân chúng xây lăng tượng trưng để thờ kính. Chứ cho đến nay không ai biết bà mất ở đâu, mất bao giờ, thì làm sao có xác để chôn.
            Tôn Đản hỏi Tự-Mai:
            - Anh nghe nói bà Triệu có cặp vú dài đến rốn. Viêc này đúng hay sai?
            Lý Long cười:
            - Sau đó người Ngô bịa truyện ra nói xấu bà Triệu. Theo quan niệm người Hán. Đàn bà vú dài là người dâm đãng. Bà Triệu vú dài ắt là người dâm đãng vậy. Cứ y học mà suy thì đủ biết. Tỳ chủ khí, chủ về bắp thịt. Khi người tập võ, thì chân khí phải mạnh, bắp thịt cứng rắn. Bà Triệu có võ công cao như vậy, bắp thịt phải cứng lắm. Bắp thịt cứng thì làm sao vú dài được?
            Đoàn người đã đến chân núi Chung-chinh. Thiện-Lãm chỉ ngọn núi nói:
            - Kia là sông Mã. Con sông linh của đất Cửu-chân. Cả một vùng đất mênh mông, ngổn ngang hàng trăm ngọn đồi hoang vu. Trên đồi cỏ mọc lên dãy núi đá lớn. Địa thế hùng vĩ thế kia, hơn nghìn năm trước là nơi đóng quân, luyện quân của Lệ-Hải Bà-vương. Em chỉ biết có vậy. Còn hang Xuân-đài đâu thì em chịu.
            Đoàn người dạo khắp núi. Trời xế chiều Thanh-Mai bàn:
            - Bây giờ chúng ta xuống núi kiếm nhà trọ qua đêm. Ngày mai sẽ trẩy hội.
            Tôn Đản bàn:
            - Đêm nay trăng sáng qúa. Hay là chúng ta qua đêm trên núi này chẳng thú vị ư?
            Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
            - Con bàn thực phải. Chúng ta chỉ ngắm núi ban ngày, sao tưởng tượng được cảnh huyền bí xưa kia bà Triệu đã luyện quân trong đêm?
            Huệ-Sinh nhìn Lý Long như hỏi ý kiến. Lý Long nói:
            - Phải đấy.
            Tôn Đản điều khiển Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông, Thanh-Nguyên kiếm cỏ trải thành nệm cho Tịnh-Huyền, Huệ-Sinh, Lý Long, Tạ Sơn, Lý Mỹ-Linh, Thanh- Mai. Nó nói:
            - Người lớn thì chúng ta phải trải nệm cho. Còn bọn nhóc mình, tự lo lấy. Đó là lễ nghi Đại-Việt.
            Nó nói với Lý Long:
            - Chúng ta tạm ăn cơm nắm chiều nay. Ăn cơm nắm muối vừng xót ruột chết. Để em kiếm ít rau, ăn cho mát ruột. Vùng này nhiều rau dền lắm. Em thấy có cả rau dền tía nữa.
            Thiện-Lãm hát:
            Rau dền, chấm với mắm tôm,
            Chết đi sống lại, ăn còn thấy ngon.
            Bọn trẻ hái rau dền. Chợt Tôn Đản la lớn:
            - Anh Mỹ-Linh ơi. Chắc anh chưa thấy rau dền bao giờ thì phải. Có hai loại dền. Nhưng chỉ có một loại rau. Cả hai loại dền từ hình dáng đến lá, hoa đều giống nhau. Chỉ khác ở điểm rau thì không có gai. Còn dền thì có gai. Hái dền thì hái cả ngọn lẫn lá. Phải cẩn thận, lá dền rít, nên dễ bị lông, tóc quấn vào. Khi hái không cẩn thận, ăn cả tóc thì khốn... Anh không phân biệt đựơc hai thứ dền, e hái cả dền gai.
            Thiện-Lãm than:
            - Tiếc qúa ở đây không có mỡ, mắm tôm. Có hai thứ đó, làm dấm chấm ăn ngon tuyệt.
            Lý Long hỏi:
            - Này chú Lãm, món này anh chưa ăn qua. Dấm chấm rau dền làm thế nào?
            - Dễ thôi. Bỏ ít tóp mỡ xào với cà chua. Đợi cà chua nát hết thì cho mắm tôm vào với nước. Đun sôi lên, đem ra chấm rau dền luộc thực tuyệt cú con mèo già. Nhưng dù ở đây có mắm tôm cũng không làm thế được, vì sư bà, với thầy ăn chay. Nấu mắm tôm lên ô uế, các ngài chịu sao nổi.
            Ăn xong, sư thái Tịnh-Huyền nhắm mắt nhập thiền. Tôn Đản nháy Lý Long nói:
            - Anh cả, chúng mình xuống bờ sông chơi đi.
            Lý Long biết đứa trẻ này hành sự khác thường. Chàng theo nó xuống bờ sông. Tôn Đản hỏi:
            - Anh có dám xuống âm phủ chơi không?
            - Âm phủ?
            - Ừ âm phủ. Anh biết không, bọn em thường lên núi Chung-chinh chơi, rồi nhảy xuống sông tắm, bắt cá. Có lần bọn em lặn xuống sâu qúa, thấy cái hang, lần mò bơi vào trong tối om. Lặn một vào sâu lúc nữa thấy có ánh sáng. Bọn em nhô lên, thì ra âm phủ. Ghê lắm. Trong đó có nhiều xương người, búa, gươm, đao không thiếu thứ gì.
            - Em tìm thấy từ bao giờ?
            - Mấy năm rồi. Trở về em báo cho bố em biết. Bố em đem theo bổi, đá lửa, rồi lặn xuống vào hang xem... Võ công bố em dạy em học là bắt chước những đồ hình trong hang đấy chứ.
            Chợt Lý Long suỵt một tiếng. Chàng ghé tai Tôn Đản:
            - Có người nghe trộm gần đây.
            Chàng lên tiếng:
            - Cao nhân phương nào xin xuất hiện tương kiến.
            Nói rồi chàng phóng về bụi cây phía sau một chưởng. Bụi cây bật tung lên, hiện ra một người tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, trang phục theo lối dân quê. Chàng biết người này nội lực không tầm thường, mới chịu được chiêu Phi vân chưởng của mình.
            Hà Thiện-Lãm la lớn:
            - Anh cả! Người này tên Triệu Anh. Y là một trong Tung-sơn tam kiệt thuộc phái Thiếu-lâm. Hôm qua y định giết em. Rồi đêm đến đột nhập đền thờ đức ông Tương-liệt đại vương ăn trộm. Anh cả mau bắt y nộp quan trừng trị.
            Lý Long nghiêm trang hỏi Triệu Anh:
            - Các hạ là người Hán, sang Đại Việt từ bao gìơ. Thẻ bài nhập cảnh của các hạ đâu, xin cho tại hạ được xem.
            Triệu Anh cười gằn:
            - Ta có thẻ bài nhập cảnh hay không, cũng không đến cái thứ mặt mi được xét hỏi.
            Lý Long quát:
            - Đất nước Đại-Việt. Con dân Đại-Việt nào cũng phải bảo vệ. Ta là con dân của đức hoàng đế, đương nhiên có bổn phận kiểm sóat gian nhân nhập nội làm điều phi pháp.
            Triệu Anh cười gằn:
            - Ta không đưa thẻ bài thì mi làm gì ta?
            Nói rồi y nghênh ngang bước đi. Nhưng y vừa quay bước thì suýt chạm phải một ngừơi. Y kinh hoàng nhảy lùi hai bước. Song người đó như bóng với hình theo sát y. Biết gặp đối thủ lợi hại. Y lộn về sau hai vòng, kiếm đường thoát thân. Nhưng khi chân y chạm đất, thì người kia vẫn đứng sát bên y. Nghĩ không thể chạy khỏi, y đứng lại, chửi thề:
            - Con mẹ nó. Mi giết ta thì giết đi cho rồi. Mi làm trò gì thế. Ta giận vì học nghệ không tinh... Ta... ta chịu thua mi rồi.
            Người đó dùng tay trái túm ngực Triệu Anh nhấc bổng y lên. Tay phải vung một sợi dây. Sợi dây cuộn tròn Triệu Anh lại như cuốn một bó cỏ. Bấy giờ Thiện-Lãm mới nhận ra người ấy là đạo sĩ Nùng-Sơn tử. Nó reo lên:
            - Hay quá! Đạo trưởng giỏi thực. Ước gì cháu học đựơc một phần trăm bản lĩnh của đạo trưởng... Ha ha... tên chó Ngô hết hung hăng nhé.
            Nói dứt lời, nó đến trước đạo trưởng Nùng-Sơn tử quỳ xuống lậy liền bốn lạy, miệng nói:
            - Trăm lạy đạo trưởng, nghìn lạy đạo trưởng. Xin đạo trưởng mở rộng lòng từ bi, nhận cháu là đệ tử.
            Nùng-Sơn tử đưa mắt nhìn Lý Long:
            - Xin chủ nhân dạy cho ít lời.
            Lý Long lên tiếng:
            - Mong đạo trưởng chiếu cố đến đứa em thứ bẩy của tôi.
            Đạo sĩ Nùng-Sơn tử nâng Hà Thiện-Lãm dậy:
            - Ta nhận con làm đệ tử bắt đầu từ lúc này. Con phải hướng vào chủ nhân của ta thề đúng như sau: Kể từ hôm nay, tôi nguyện rằng sẽ trung thành với nghĩa huynh tôi. Nếu tôi ăn ở hai lòng, thì trời chu, đất diệt, bị chết dưới muôn ngàn đao kiếm.
            Thiện-Lãm quỳ xuống thề như Nùng-Sơn tử dạy, rồi nó hướng vào Nùng-Sơn tử kêu lên tiếng sư phụ . Tôn Đản vỗ vai Lãm:
            - Mừng cho chú bẩy được một minh sư chỉ dạy. Cố gắng luyện tập, để trở thành bản lĩnh vô địch, đạo hạnh xuất chúng.
            Thình lình có tiếng cười khành khạch:
            - Vô địch! Vô địch! Đến lão đạo sĩ kia luyện tập cả đời cũng không thành vô địch được. Huống hồ tên ôn con mất dạy.
            Lý Long nhìn lên, thì một hàng sáu người dàn ra. Đứng giữa là một thanh niên tuổi khoảng ba mươi lăm, mặt thóp lại như cái lưỡi cày, lưng đeo kiếm. Bên phải y là một nhà sư mặc áo cà sa đại hồng, tuổi khoảng năm mươi. Bên trái là một nho sinh, tuổi khỏang ba mươi. Phía sau là Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Quỳ.
            Nùng-Sơn tử chắp tay xá một xá:
            - Bần đạo mắt kém, không nhận ra các vị đây là ai? Các vị giá lâm hồi nào, bần đạo không biết mà tiếp đón, thực có tội.
            Gã trung niên nam tử mặt lưỡi cày hất hàm hỏi Lý Long:
            - Có phải hồi nãy nhà ngươi đòi thẻ bài nhập cảnh của Triệu Anh không? Được, được ta cho người coi cái này, để người vỡ mật.
            Nói rồi y đưa cho Quách Quỳ một cái túi gấm. Quách Quỳ cung cung, kính kính đỡ lấy, đưa lại cho Lý Long. Lý Long cầm túi mở ra xem. Bên trong có tấm thẻ bài bằng ngọc xanh. Chàng đưa ra ánh sáng nhìn. Thình lình chàng liệng tấm thẻ ngọc xuống đất, kêu lớn:
            - Thẻ ngọc có chất độc.
            Tên mặt lưỡi cầy cười:
            - Tên Lý Long kia. Người mau quỳ xuống lạy ta một trăm lạy, miệng kêu lớn Xin ông nội tha cho cái mạng kiến ruồi này. Từ nay con nguyện làm thân trâu ngựa theo hầu ông nội . Ta sẽ ban thuốc giải cho.
            Nùng-Sơn tử vọt người tới, tay phát một chiêu long trảo chụp tên mặt lưỡi cày. Nho sinh đứng cạnh phát chửơng đánh thẳng vào giữa ngực Nùng-Sơn tử. Nùng-Sơn tử biến trảo thành chưởng. Hai chưởng gặp nhau kêu đến Bùng một tiếng. Cả hai cùng lùi lại. Gã nho sinh cười nhạt:
            - Tưởng Thăng-long song hùng bản lĩnh nghiêng trời lệch đất thế nào. Hóa ra chỉ có vậy thôi sao?
            Nói dứt lời y phát chưởng thứ nhì. Chưởng chưa tới, mà đã thấy hơi nóng bốc ra. Nùng-Sơn tử xuất chiêu chống. Binh một tiếng lớn. Cả hai lảo đảo lùi lại, gườm gườm nhìn nhau.
            Có tiếng nói vọng từ xa lại:
            - A-Di-Đà Phật! Thái cực chưởng của phái Võ-đang quả danh bất hư truyền.
            Sư thái Tịnh-Huyền, cùng mọi người từ đỉnh đồi đi xuống. Huệ-Sinh chạy lại bên Lý Long hỏi:
            - Chủ nhân, có sao không?
            Tay Lý Long sưng vù, tím bầm. Chàng lắc đầu:
            - Không sao cả.
            Chàng nghiến răng chịu đau, lên tiếng:
            - Thì ra các vị đây là đại cao thủ Trung-nguyên cả. Không biết các vị giá lâm Đại-Việt này có việc gì? Xin cho biết cao danh qúi tính.
            Nho sinh cười:
            - Để ta giới thiệu cho người biết cũng không sao.
            Y chỉ vào hòa thượng mặc ào cà sa đại hồng:
            - Vị này là Minh-Thiên đại sư, thủ tọa Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm.
            Thanh-Mai gật đầu:
            - A-Di-Đà Phật. Tiểu nữ nghe danh đại sư nổi danh về môn La-Hán chỉ, Kim-cương chưởng. Không ngờ hôm nay Phật giá cũng tới Đại-Việt này.
            Minh-Thiên mỉm cười, chỉ vào nho sinh:
            - Vị này là đệ nhất cao thủ phái Võ-đang, họ Vương tên Duy-Chính.
            Thanh-Mai gật đầu:
            - Thì ra Vương tiên sinh. Tiểu nữ nghe tiên sinh thi văn đỗ tiến sĩ. Mà võ công vào bậc nhất thiên hạ. Dường như tiên sinh đang giữ chức Chuyển-vận-sứ vùng Quảng-tây thì phải.
            Gã mặt lưỡi cầy gật đầu đầy vẻ tự đắc:
            - Trần cô nương. Không ngờ một giai nhân sắc nước hương trời như cô nương mà kiến thức rộng quá nhỉ. Chắc phải cất nhà vàng cho cô nương ở mới xứng đáng. Chức quan đâu đáng giá, vì Vương tiên sinh là danh sĩ bên Đại-tống.
            Thanh-Mai chỉ vào gã mặt lưỡi cày:
            - Còn đại gia đây cao danh quý tính là gì?
            Vương Duy-Chính cười:
            - Ta không thể nói ra được. Vì nếu ta nói ra, e tất cả bọn bay sẽ vỡ mật mà chết.
            Lý Long cười nhạt:
            - Ta không ngờ một vị chân tu, thủ toạ Đạt-Ma đưng chùa Thiếu-lâm, một vị chuyển vận sứ nhà Tống, mà lại chịu cúi đầu làm tôi tớ cho bọn bang Nhật-Hồ?
            Gã mặt lưỡi cầy cười nhạt:
            - Ta không biết Nhật-Hồ, nguyệt hồ là cái quái gì cả. Ta là đệ tử chùa Thiếu-lâm. Mi đừng nói láo.
            - Chất độc mi bôi vào tấm thẻ ngọc vừa rồi chẳng là độc phấn của bọn Nhật-Hồ đó ư? Còn mi, mi là ai?
            Tên mặt lưỡi cầy cười ha hả:
            - Ta là ai, không đến cái thứ như mi được quyền hỏi.
            Thiện-Lãm cười nhạt:
            - Mi không nói. Ta cũng biết rồi.
            Quách Quỳ nói:
            - Nếu mi nói được tên chủ nhân của ta. Ta sẽ gọi mi bằng ông nội.
            Hà Thiện-Lãm cười:
            - Người có biết không? Năm ngoái con chó mực nhà ta đẻ ra hai con. Một con bị rơi xuống ao chết đuối. Một con bị quạ tha sang phương Bắc. Con chó ấy lớn lên, hóa ra chủ nhân mi.
            Trên từ sư thái Tịnh-Huyền xuống đến Thanh-Nguyên đều cười ồ lên. Gã mặt lưỡi cày nhảy đến chụp Thiện-Lãm. Thanh-Mai thấy Thiện-Lãm nhục mạ gã mặt lưỡi cầy, nàng đã chuẩn bị sẵn, vung tay gạt chiêu của y. Gã biến chiêu thần tốc. Từ trảo thành chưởng. Thanh-Mai cũng biến cái gạt thành chưởng đỡ. Bùng một tiếng. Thanh-Mai ung dung đứng nguyên. Còn gã mặt lưỡi cày lảo đảo lùi lại. Mặt gã đỏ lên:
            - Cô nương. Phải chăng cô nương là người của phái Đông-a? Chiêu Phong ba hợp bích của cô nương hay tuyệt. Tại hạ là khách, cô nương là chủ. Xin nhường cô nương chiêu đầu.
            Thanh-Mai biết y mới dùng có năm thành công lực. Nàng thấy nội công của y là Thiền-công nhà Phật, chính đại quang minh, chứ không phải nội công của Hồng-thiết giáo. Nàng mỉm cười:
            - Đa tạ công tử nhẹ tay.


            <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2005 22:40:00 bởi NuHiepDeThuong >
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9