Anh hùng Tiêu Sơn (từ hồi 6)
CDDLT 23.12.2004 13:15:07 (permalink)
Hồi thứ sáu


Thiền công Việt , Hoa



Sư thái Tịnh-Huyền đến bên Lý Long. Bà cầm lấy tay chàng xem xét qua rồi nói sẻ:
- Không sao. Thí chủ an tâm. Độc chất này không làm hại được thí chủ đâu. Trong một vài giờ nữa mới nguy kịch. Thí chủ cảm thấy thế nào?
Lý Long bình tĩnh:
- Đa tạ sư thái. Tiểu bối chỉ cảm thấy ngứa ngáy khó chịu thôi.
Tịnh-Huyền ghé tai chàng:
- Thí chủ nạp khí vào trung đơn điền. Sau đó thổ khí truyền từ phế vào Thủ-thái-âm phế kinh rồi dẫn khí tới huyệt Liệt-khuyết, chuyển sang Thủ dương-minh đại trường kinh. Cái ngứa ngáy tự nhiên hết.
Bà nói đến đâu, Lý Long vận chân khí theo đến đó. Bàn tay chàng tiết ra mùi tanh hôi nồng nặc, cực kỳ khó chịu. Cảm giác ngứa ngáy, đau nhức theo chất độc mà giảm dần. Sau khi thổ nạp trên mười tức, chàng cảm thấy nhẹ nhàng. Sư thái Tịnh-Huyền sẽ để bàn tay lên lưng Lý Long. Một kình lực nhu hòa êm dịu truyền khắp người chàng. Mồ hôi phát ra như tắm. Chàng cảm thấy khoan khóai không bút nào tả siết. Sư thái Tịnh-Huyền nói sẽ vào tai chàng bằng giọng ôn nhu như mẹ hiền nói với con:
- Nguy nan qua rồi. Con hãy đứng dậy.
Chàng ung dung đến đối diện với bọn Vương Duy-Chính. Tự-Mai thấy anh bị hại. Nó lườm lừơm nhìn tên mặt lưỡi cầy:
- Bọn mi là người Hán, sang Đại-Việt ta làm truyện đạo tặc, lại còn bang bạnh, dùng sức áp chế người ư?
Vương Duy-Chính quát lớn:
- Mi có biết chủ nhân ta là ai không, mà mi dám hỗn láo?
Trần Tự-Mai là đệ tử danh gia. Tuy nhỏ tuổi, nhưng nó có cái học rất uyên thâm về luật lệ, về đạo lý, về văn chương. Nó hứơng vào Vương Duy-Chính hỏi:
- Vương tiên sinh. Tiên sinh đã từng đỗ tiến-sĩ, hẳn phải biết nhà có chủ. Đất có vua. Trung-quốc có vua Tống. Liêu có vua Liêu. Đại-Việt tôi có hoàng đế, có luật lệ. Luật Đại-Việt định rằng, bất cứ người ngoại quốc nào, muốn vào trong nứơc phải có thẻ bài nhập cảnh. Thấy tiên sinh cùng các bạn là người Hán. Anh cả tôi lễ phép hỏi thẻ bài để phân biệt người ngay với kẻ gian. Thế mà chủ nhân của tiên sinh lại dùng dộc chất hại anh tôi là đạo lý gì vậy?
Thấy bọn chúng im lặng, nó tiếp:
- Kinh tởm hơn nữa độc chất các vị dùng là của bọn Hồng-thiết giáo, một giáo phái qui tụ những kẻ vong mạng, trộm cướp, điên khùng, khắp nước tôi đều muốn tru diệt.
Nó chỉ vào bọn Triệu Anh:
- Huống hồ những người này, hôm qua đột nhập vào đền thờ anh hùng nước tôi ăn trộm. Quách Quỳ đã bị giải lên quan.
Quách Quỳ cười:
- Quan của bọn mi không giám giữ ta. Y còn phải lậy chủ nhân ta về cái tội mi bắt trói ta nữa. Mi không tin ư. Mi cứ về hỏi bọn quan của mi thì biết. Ta nói cho mi rõ, tất cả đất nước này đều thuộc sở hữu chủ của chúng ta. Cho nên chủ nhân ta không cần cái thẻ bài chó má của bọn Việt nhà mi.
Chỉ thấy thấp thoáng bóng xanh, tiếp theo hai tiếng bốp, bốp. Quách Quỳ bị Thanh-Mai tát cho hai cái nảy lửa. Nó bưng mặt lùi lại. Thanh-Mai mắng:
- Này Quách công tử. Hôm qua, em ta bắt đựơc công tử vào đền thờ Đức Ông ăn trộm. Giá như chúng ta cho công tử một nhát dao, rồi báo quan, thì liệu cái tính mệnh công tử có còn không? Lại như vừa rồi, nếu ta lấy tính mệnh công tử, thì giờ này công tử chỉ còn là cái xác không hồn. Công tử nhục mạ giòng giống Việt của chúng ta là chó. Nếu ta nhục mạ giòng giống Hán của công tử như vậy, công tử có chịu không?
Nho sinh hướng vào Nùng-Sơn tử:
- Lão đạo sĩ kia. Người có mau thả Triệu Anh ra, rồi xin lỗi y ngay không. Nếu chậm trễ tính mệnh tên chủ nhân của mi nguy trong chốc lát. Vì y bị trúng độc. Còn bọn mi sẽ không có đất mà chôn.
Hà Thiện-Lãm quát lên:
- Không bao giờ. Không bao giờ thả bọn ăn trộm. Các người có bản lĩnh gì thì cứ dở ra.
Tên mặt lưỡi cầy hướng Thanh-Mai:
- Trần cô nương. Tại hạ chỉ muốn đối thoại với cô nương thôi. Để giữ hòa khí giữa hai bên. Mong cô nương thả Triệu Anh ra. Chúng ta cùng cười xòa một tiếng, rồi bỏ qua hết. Cô nương nghĩ sao?
Thanh-Mai liếc nhìn Nùng-Sơn tử, rồi đáp:
- Cũng được. Song công tử phải trao thuốc giải cho anh cả tiểu nữ trước đã. Này công tử, người vẫn chưa cho chúng tôi biết cao danh quí tính đấy.
Gã mặt lưỡi cày hướng vào Vương Duy-Chính:
- Người cho cô nương biết ta là ai đi.
Vương Duy-Chính rút trong bọc ra một cuộn giấy, đưa cho Thanh-Mai:
- Trần cô nương. Cô nương cứ mở ra đọc sẽ biết chủ nhân tôi là ai?
Thanh-Mai định tiếp cuộn giấy, thì Tự-Mai la lớn:
- Chị Thanh, cẩn thận, coi chừng trúng độc.
Gã mặt lưỡi cầy cười:
- Cậu em ơi. Sao cậu đần lắm vậy. Chị cậu là trang quốc sắc thiên hương, dù kẻ ngu phu ngu phụ trông thấy, hồn phách cũng bay phơi phới. Huống hồ bọn ta? Vương tiên sinh là văn nhân, đỗ tiến-sĩ, đời nào nỡ hại chị cậu. Hơn nữa, Vương tiên sinh là người theo hầu ta. Chị cậu đã lọt mắt ta. Tiên sinh có gan bằng trời cũng không giám với vô phép với nàng.
Thanh-Mai mở trục giấy ra. Hai bên vẽ hai con rồng bằng thiếp vàng lóng lánh. Hai con rồng chầu vào nhau trong tư thế tranh viên ngọc đỏ chói. Dưới có hàng chữ :
Thừa thiên hưng vận, Thiên-thánh hoàng đế (1) chỉ dụ chọ hoàng thúc là Bình-nam vương Triệu Thành, lĩnh phụ quốc thái úy thay mặt trẫm kinh lý các vùng Mân-Quảng để phủ dụ khê động, man di. Bách quan văn võ phải nhất nhất tuân lệnh điều động.

Ghi chú,
(1) Thoát-Thoát, Tống-sử, quyển 9-10-11-12, Nhân-tông bản kỷ, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1977, trang 175-253: Thiên-thánh, niên hiệu của vua Nhân-tông nhà Tống gồm tám năm (1023-1030). Sau khi chết, vua Nhân-tông được suy tôn là Nhân-tông, thể thiên pháp đạo, cực công toàn đức, thần văn thánh vũ, duệ triết, minh hiếu hoàng đế

Thanh-Mai cười nhạt:
- Thì ra Bình-nam vương nhà Đại-Tống giá lâm Đại-Việt. Này vương gia. Trong chiếu chỉ hoàng đế Đại-Tống ủy thác cho vương gia kinh lý Mân, Việt. Tại sao vương gia lại vào Đại-Việt của chúng tôi.
Triệu Thành cười:
- Trong chiếu chỉ nói rõ phủ dụ khê động, man di. Giao-chỉ là đất man di. Nên cô-gia phải lặn lội sang, hầu đạy dỗ. Vua đất Giao-chỉ của cô nương là Lý Công-Uẩn được bản triều phong tước Giao-chỉ quận-vương. Lãnh địa Giao-chỉ chẳng qua là một quận của thiên tử. Cô-gia đường đường là Thái-úy phụ quốc. Cô gia phải đến tra xét, thì có chi là lạ. Cô nương nên biết cô gia không chỉ giữ chức Phụ- quốc thái úy.
Nghe Triệu Thành nói, Lý Long tỉnh ngộ. Chàng chửi thầm:
- Hôm trước được tin tin báo Phụ-quốc thái úy, hoàng thúc của vua Tống mượn đường Đại-Việt, cầm đầu sứ đoàn sang Chiêm. Ta cứ tự hỏi nước Chiêm nhỏ bé. Xưa nay Tống chỉ cử chức quan ở biên giới Hoa-Việt đi là đủ. Nay sao có sự lạ đời như vậy. Thì ra đi sứ chẳng qua là lá chắn bề ngoài. Bên trong còn nhiều việc trọng đại nữa.
Minh-Thiên đại sư dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai chàng:
- Chủ nhân phải cẩn thận. Tên Triệu Thành là nhân vật kiệt hiệt bậc nhất Tống triều. Mưu trí của y hiếm ai theo kịp. Y lại là người tinh minh mẫn cán, biết thu phục nhân tâm. Y sang đây với niềm kiêu hãnh. Ta hãy làm như không biết y là ai gây cho y một ít thất bại. Khi y hết kiêu hãnh, ta tìm cách đưa y lên. Như vậy y thành bạn của ta. Y đã thân Đại-Việt, ít ra ta có mươi năm thanh bình. Sau mươi năm, dân ta giầu, binh ta mạnh. Ta không sợ Tống nữa.
Lý Long dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Thanh-Mai:
- Tam muội! Phải cẩn thận. Khi chưa có ý kiến của anh, tuyệt đối không nên khinh thường bọn này. Tam muội hãy nhắc lại nguyên văn những gì anh nói vào tai tam muội để đưa bọn này vào bẫy.
Rồi chàng rót vào tai Thanh-Mai.
Thanh-Mai thản nhiên:
- Rừng nào, cọp ấy. Giang sơn nào, anh hùng ấy. Tiểu nữ biết vương gia còn nhận nhiều chức tướng khác, kể ra dài đến trăm chữ.
Triệu Thành tươi nét mặt:
- Nếu cô nương nói được rõ cô gia là ai. Cô gia xin cúi đầu tôn cô nương làm sư mẫu.
Thanh-Mai hướng vào Minh-Thiên, Vương Duy-Chính:
- Ở đây có thủ toạ Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm cùng Vương chuyển-vận sứ làm chứng cho cuộc đánh đố này. Cứ như Triệu vương gia nói, nếu tiểu nữ nói rõ chân tướng của vương gia. Vương gia sẽ tôn tiểu nữ làm sư mẫu. Có phải thế không?
Minh-Thiên, Duy-Chính đồng nói:
- Đúng thế. Chúng tôi xin làm chứng cho vương gia. Còn cô nương, ai sẽ làm chứng cho cô nương?
Thanh-Mai hướng vào Minh-Thiên:
- Xin đại sư làm chứng cho đệ tử.
Minh-Thiên gật đầu. Nàng lại hướng vào Tịnh-Huyền:
- Xin sư phụ làm chứng cho đệ tử.
Tịnh-Huyền cũng gật đầu.
Thanh-Mai dơ tay lên:
- Nếu như tiểu nữ không nói được chân tướng vương gia. Tiểu nữ nguyện làm tỳ nữ cho vương gia cả đời. Còn như tiểu nữ nói được hết cuộc đời vương gia ra, tiểu nữ đâu đủ tài đức gì mà dám làm sư mẫu vương gia. Bởi sư phụ vương gia là đại sư Minh-Thiên, đạo cao đức trọng ai bì. Tiểu nữ ngồi cao bằng người, không tổn thọ mà chết thì sư phụ, phụ thân cũng đánh què.
Triệu Thành hỏi:
- Vậy cô nương muốn cô gia làm gì?
- Tiểu nữ chỉ xin vương gia làm cho ba điều. Những điều đó không làm hại đến quốc thể Thiên-triều, cũng không trái với luân lý Hoa, Việt.
Vương Duy-Chính thấy Thanh-Mai dám nhận đánh cuộc cả đời người. Y chột dạ, đưa mắt cho Triệu Thành, ý muốn bảo y lui đi là hơn. Nhưng Triệu Thành tin rằng trừ những người trong triều Tống, không ai biết rõ chân tướng của y, nên y im lặng chờ đợi.
Thanh-Mai hắng rặng một tiếng, rồi nói:
- Vương gia họ Triệu thì đúng. Song tên không phải Thành. Vương gia ơi, vương gia nên về cách chức cái ông Vương Tăng (2) về tội làm việc quân quốc trọng sự mà quá hồ đồ đi.
Ghi chú
(2) Sách đã dẫn (1), quyển 310, trang mười nghìn một trăm tám mươi hai đến trang mười nghìn một trăm tám mươi sáu (10.182-10.186), Vương Tăng liệt truyện.
Triệu Thành nghe đến tên Vương Tăng, thì giật mình:
- Tại sao lại cách chức y?
Thanh-Mai lắc đầu:
- Chết thực! Năm trước đây, thời vua Chân-tông, chấm đậu gần hai nghìn tiến sĩ. Nhân tài như lá trên rừng, mà sao lại dùng gã Vương Tăng hồ đồ thế nhỉ? Tiểu nữ nghe, niên hiệu Càn-hưng nguyên niên, tháng hai, ngày Mậu-Ngọ (1022). Vua Chân-tông băng, được con là Thiên-thánh hoàng đế tôn làm Ứng phù kê cổ, thần công tuyên đức, văn minh, vũ định, chương thánh nguyên hiếu hoàng đế. Vừa lên ngôi tháng hai, tháng bẩy, ngày Tân-Mùi phong Vương Tăng làm Trung thư thị lang, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Tập-hiền viện đại học sĩ . Có đúng không?
Triệu Thành gật đầu. Thanh-Mai tiếp:
- Như vậy chiếu chỉ vừa rồi do y soạn, tâu Thiên-thánh hoàng đế kiềm thự. Y soạn chiếu chỉ như thế thực dốt hết chỗ nói !
- Vương đại-học sĩ có chỗ nào dốt đâu?
- Sao lại không. Trong chiếu chỉ y viết Hoàng thúc Triệu Thành là dốt rồi!
Vương Duy-Chính lắc đầu:
- Xin cô nương nói rõ hơn.
- Này nhé, Thái-tông có mười hoàng tử. Khi
đặt tên cho các con, vua Thái-tông đều tìm chữ có bộ nhân đứng bên cạnh. Vậy khi y viết chiếu chỉ đặt cho vương gia cái tên mới, cũng phải tìm chữ có bộ nhân đứng mới đúng chứ? Có đâu lại đặt tên Thành, với bộ ngôn bên cạnh? (3).
Ghi chú,
(3) Sách đã dẫn (1), Liệt truyện đệ tứ, Tông thất truyện 2, quyển 245, trang tám nghìn sáu trăm chín mươi ba đến trang tám nghìn bẩy trăm mười tám (8.693-8.718).
Triệu Thành gật đầu:
- Cho rằng Vương đại-học sĩ sơ xuất. Song cô nương đã biết gì về cô gia đâu?
Tự-Mai cười khúc khích:
- Vương gia ơi! Chỉ nguyên những chi tiết nhỏ, cùng ngày tháng diễn ra trong triều Tống, phái Đông-a nhà tôi cũng hay. Hỏi rằng biến cố lớn hơn núi Trường-sơn rằng vương gia là ai, không lẽ chúng tôi không biết. Chị Thanh, nói mau đi.
Sự thực câu này Huệ-Sinh dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Tự-Mai xui nó. Nguyên văn ông ví lớn hơn núi Thái-sơn như người Trung-quốc hay ví von. Vì núi Thái-sơn thực ra không lớn, nhưng vì nó lớn nhất trong các núi ở quê hương Khổng-tử. Tự-Mai được bố giáo dục yêu nước, nó không thích ví von kiểu Tầu, mà đổi lại ví von theo người Việt. Nói đổi chữ Thái-sơn thành chử Trường-sơn là tên rặng núi dài ở Nam Cửu-chân.
Thanh-Mai ngước mắt nhìn trời. Ánh trăng chiếu trên khuôn mặt thanh tú của nàng đẹp vô cùng. Nàng tiếp:
- Thiên-thánh hoàng đế gọi vương gia là hoàng thúc. Như vậy vương gia là con vua Thái-tông. Vua Thái-tông có mười hoàng tử. Vua Chân-tông đứng thứ ba. Con cả tên Nguyên-Tá, tước phong Hán vương. Ông này bị bệnh khật khùng, chắc không phải vương gia.
Vương Duy-Chính gật đầu tỏ vẻ công nhận lời Thanh-Mai nói đúng.
- Con thứ nhì tên Nguyên-Hy làm thái tử bị ám toán chết. Khi chết vẫn chẳng có chức tước gì. Không cần bàn đến. Con thứ ba là vua Chân-tông. Vua Chân-tông mới băng hà năm năm trước. Chắc vương gia không phải ngài.
Minh-Thiên thấy Thanh-Mai mới mười tám, mười chín, đã biết dùng lý luận loại suy, tìm chân tướng Triệu Thành. Ông gật đầu tỏ ý khâm phục trong lòng:
- Mình nghe chưởng môn phái Đông-a khét tiếng thiên hạ, quả không sai. Một thiếu nữ nhỏ tuổi thế kia, mà y huấn luyện đầy một đầu kiến thức. Như vậy đủ thấy y bác học đến chừng nào?
Minh-Thiên đâu ngờ những gì Thanh-Mai nói, đều do Lý Long rót vào tai nàng cả.
- Con thứ tư tên Nguyên-Phận tước phong Thương-vương. Ông này không biết võ công, chắc chắn chỉ luẩn quẩn ở Biện-kinh, không thể là vương gia. Con thứ năm tên Nguyên-Kiệt tước phong Việt vương. Việt vương đang trấn thủ Đàm-châu. Hiện Việt vương dồn hết khả năng tổ chức đại hội văn nhân danh sĩ, đâu có thời giờ sang Đại-Việt. Vương gia chẳng có thể là Việt vương.
Vương Duy-Chính gật đầu công nhận lý luận của Thanh-Mai đúng.
- Con thứ sáu tên Nguyên-Súc, tước phong Trấn vương. Trấn vương hiện đang trọng nhậm vùng Bắc biên, đối đầu với Liêu. Vương gia không thể là Trấn vương được. Con thứ bẩy tên Nguyên-Xứng tước phong Sở vương. Cái ông Sở vương chỉ thích thanh sắc. Một ngày không nghe đàn ngọt hát hay, e ông ta buồn đến chết được. Đời nào ông ta dám bỏ cung điện đến hoang sơn Đại-Việt làm chi. Vương gia càng không thể là Sơ vương.
Đến đây, vì Lý Long chưa nói tiếp được. Thanh-Mai đành ngừng lại, nàng nhìn trăng, nói bâng khuâng:
- Anh hùng thiên hạ đâu có nhiều. Tại sao họ không ngồi bên nhau, cùng tạo hạnh phúc cho dân Hoa, Việt nhỉ?
Nhìn trăng, nhìn Lý Long, Triệu Thành rồi nàng tiếp:
- Con thứ tám tên Nguyên-Nghiễm tước phong Kinh vương. Ông này tiểu nữ không biết nhiều cho lắm. Xin bỏ trống. Con thứ chín chết yểu, chẳng bàn làm chi. Con thứ mười tên Nguyên-Nhượng, tước phong Sùng vương. Sùng vương vốn yếu đuối, là con rể đại thần Khấu Chuẩn, có hiềm khích với Lưu quốc trượng, thân sinh Lưu thái hậu. Từ khi Lưu hậu thính chính, bà cách chức Khẩu Chuẩn hai lần. Ông này phẫn uất quá mà chết. Như vậy Sùng vương hiện bị nghi ngờ, đâu có được nắm binh quyền, mà sang Đại-Việt. Vương gia không thể là Sùng vương.
Nghe Thanh-Mai đọc vanh vách tên, chức tước của các anh, em của chủ nhân ra, Duy-Chính kinh hãi. Nhưng y vẫn nói cứng:
- Các vị vương, thiên hạ ai không biết tên huý cùng tước phong. Thế chủ nhân tại hạ là ai?
- Còn ai nữa! Chủ nhân của Vương đại nhân là con thứ tám của vua Thái-tông.
Cả bọn Triệu Thành cùng bật lên tiếng:
- Giỏi.
- Theo luật triều Tống, các hoàng tử đến tuổi mười hai, mười ba đều được phong chức tước, cho mở phủ đệ riêng. Duy vương gia được phụ hoàng yêu thương đặc biệt, cho hầu bên cạnh. Năm hai mươi tuổi vẫn chưa cho mở phủ đệ. Vì vậy trong cung gọi là Nhị thập bát thái bảo. Ý chỉ con thứ tám, hai mươi tuổi chưa ở riêng. Chính vì được hầu cạnh vua phụ hoàng. Vương gia thu thập được biết bao kinh nghiệm về tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có thể nói trong triều Tống, cả hoàng thân quốc thích lẫn văn thần, võ tướng không ai có thể so sánh được với vương gia.
Triệu Thành muốn biết nhận xét của hào kiệt Đại-Việt về mình. Y hỏi:
- Không thể so sánh về phương diện gì, thưa cô nương?
- Võ, vương gia không thể bằng Minh-Thiên đại sư, cùng Vương, đại nhân, cũng như Hoa-sơn tứ lão, cùng các vị võ trạng nguyên, bảng nhản, thám hoa. Văn không thể bằng Tư-đồ kiêm thị trung, thượng thư tả bộc xạ Đinh Vị. Lại không thể bằng Tư-không kiêm thị trung, Khu-mật viện sứ, thượng thư hữu bộc xa Phùng Thừa. Càng không thể so sánh với Thượng-thư tả bộc xạ kiêm thị trung Tào Lợi-Dụng. Tài dùng binh kém xa Khấu Chuẩn, nguyên Tư-mã Đạo-châu. Tinh minh, mẫn cán, ngồi trong trướng quyết thắng ngoài vạn dăäm không hơn Phạm Trọng-Yêm. Nhưng...
Triệu Thành hồi hộp:
- Nhưng sao?
- Bàn về phương diện nhai văn nhấm chữ, vương gia không bằng các vị văn quan. Luận về nội lực, chiêu số võ công, vương gia thua các cao thủ nhiều lắm. Song bỏ cái hào nháng của vương tước, khuất thân cầu hiền, vương gia có thể so sánh với Tiên-chúa Lưu Bị, hay ít ra cũng không thua Chu-công. Ngồi trong màn, quyết thắng ngoài ngàn dậm, giúp chúa an định thiên hạ, vương gia có thể so sánh với Trương Lương đời Tây-Hán, Nghiêm Tử-Lăng thời Đông-Hán. So về tài dùng binh, e Hàn Tín, Tào Tháo khó hơn. Chỉ một người có thể so sánh với vương gia là...
- Là ai?
- Gia-cát Khổng Minh.
Cả bọn Triệu Thành đều bật lên tiếng ồ.
Duy-Chính gật đầu công nhận. Triệu Thành thấy như vậy là y thua cuộc. Y hỏi ngược lại:
- Đó là cô nương đoán mò. Cô gia đâu phải Nhị thập bát thái bảo ?
Thanh-Mai tiếp:
- Vương gia không phải Nhị thập bát thái bảo thì là ai? Này vương gia ơi, khi vua Chân-tông lên ngôi, phong cho vương gia làm Kiểm hiệu thái bảo, tả lãnh vệ thượng tướng quân. Tào quốc công . Năm sau gia tăng Bình hải vương tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Kiểm hiệu thái phó. Tước Quảng-lăng quận vương . Mấy năm sau thăng Kiểm-hiệu thái-úy. Chỉ vì truyện duyên tình lôi thôi, bị cách hết chức tước đến nỗi phải đi ở nhờ phò mã đô úy Thạch Bảo-Cát.
Duy-Chính kinh hãi:
- Rồi sao nữa?
Như vậy y công nhận Triệu Thành là con thứ tám Nhân-tông.
- Sau có lần gặp vua Chân-tông. Vương gia khóc lóc, anh em hòa lại với nhau. Vua Chân-tông phong vương làm An-hóa quân tiết độ sứ, Bành vương được cử làm Thái-phó dạy thái tử. Khi Thái- tử lên ngôi vua, tức Thiên-thánh hoàng đế, vương gia được trọng dụng, tước phong cực phẩm Thái úy, thượng thư lệnh, kiêm trung thư lệnh, quản Khu-mật viện , tước phong Yên vương, rồi Định vương. Bây giờ thêm Bình-Nam vương khi vào triều được đeo kiếm lên điện vua. Phàm tấu trình khỏi xưng tên. Tấu chương cũng không cần viết tên.
Thanh-Mai hỏi Triệu Thành:
- Chị tôi nói có sai câu nào chăng?
Triệu Thành buột miệng:
- Không.
Tự-Mai hô:
- Như vậy vương gia thua cuộc rồi. Triệu Nguyên-Nghiễm, mau quỳ xuống bái kiến sư mẫu đi chứ? Sau đó bái kiến mỗ làm sư thúc!
Triệu Thành cãi chầy:
- Cô gia là thầy của Thiên-tử. Thiên-tử là cha Thiên-hạ. Như vậy cô gia cao hơn Trần cô nương hai bậc. Trần cô nương thắng cô gia, chỉ hơn cô gia một bậc. Nếu trừ đi. Cô gia vẫn cao hơn Trần cô nương mà. Đất nước này vẫn thuộc thẩm quyền cô gia.
Thanh-Mai vẫy tay cho em im lặng:
- Giữ lời hứa hay không tùy vương gia. Dù sao tôi cũng là đứa con gái quê mùa. Còn vương gia, uy trấn Thiên-hạ. Vương gia đối xử sao cho vạn dân ngước nhìn bậc tể phụ đấy thì làm.
Triệu Thành móc trong bọc ra cái túi gấm. Y đổ trong túi gấm ra ba cái thẻ bài bằng ngọc, mầu đỏ như máu:
- Ba cái thẻ này, nguyên của Tiên-đế ban cho cô gia. Khắp Trung-nguyên ai nhìn thấy cũng phải kính như kính cô gia. Vậy cô nương cầm lấy. Sau này cô nương muốn cô gia phải làm một điều gì thì đưa ra.
Thanh-Mai trịnh trọng đỡ lấy bỏ vào túi trước ngực. Tim Triệu Thành đập loạn lên. Y nói trong hơi thở dồn dập:
- Mong rằng cô nương không quên được chủ của viên ngọc.
Thanh-Mai nghe y nói, nàng chợt tỉnh ngộ đưa mắt nhìn Lý Long :
- Mình với chàng tuy chưa mai mối, lễ nghi,
nhưng tình trong như đã ước hẹn trăm năm, chẳng nên để cho chàng phải buồn. Nghĩ vậy nàng ngửa mặt nhìn trăng, ngâm bài thơ thơ bình dân Việt:

« Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay! »
« Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng.
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ?
Chim vào lồng biết thủa nào ra?
»

Triệu Thành tuy học tiếng Việt, nhưng mấy câu ca dao trên y tỏ ra không hiểu hết ý. Y đưa mắt hỏi Tự-Mai:
- Chú em có thể dịch bài hát vừa rồi sang Hoa văn cho cô gia nghe được chăng?
Tự-Mai lắc đầu:
- Tôi không đủ khả năng dịch. Song tôi có thể đọc bài thơ của một thi hào đời Đường. Dường như thi hào này biết tiếng Việt. Ông dịch từ tiếng Việt sang tiếng Hoa. Thi hào đó tên Trương Tịch.(4)
Nói rồi nó đọc lớn lên:

Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng là nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh-quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phu, thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá thì
.(5)


Ghi chú
(4) Trương Tịch, thi hào thời thịnh Đường. Tự Văn-Xương, giỏi thơ cố phong, nhạc phủ. Làm quan tới chức Quốc-tử tư nghiệp. Cùng xướng hoạ với Bùi Độ, Lệnh-hồ Sở, Bạch Cư-Dị, Nguyên Chẩn.
(5) Trần Trọng-Kim dịch như sau:
Chàng hay thiếp có chồng rồi,
Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành.
Cảm lòng quyến luyến khôn đành,
Thiếp đeo vào áo lót mình mầu sen.
Vườn kia, nhà thiếp kề bên,
Lang quân chấp kích trong đền Minh-quang.
Biết chàng bụng sáng như gương,
Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng phai.
Gạt châu, trả ngọc chàng thôi,
Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son.


Triệu Thành không thể ngờ Thanh-Mai với Long-Bồ có tình ý. Y nghĩ nàng đã được bố mẹ hứa gả nơi nào đó. Bất giác y thở dài:
- Uy quyền của cô gia trùm Thiên-hạ. Không ngờ vô lực ở đất Giao-chỉ này. Giao-chỉ chẳng qua một quận Nam-thùy, trong khi cô gia ngồi ôm Thiên-hạ.
Huệ-Sinh thấy đưa Triệu Thành lên cao như vậy đã đủ. Ông muốn hạ y xuống một chút, hầu y tự biết đất Việt không thiếu hào kiệt. Ông dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Hà Thiện-Lãm.
Hà Thiện-Lãm cười:
- Tên Triệu Thành kia, mi nói thối đếch chịu được. Từ mấy ngàn năm nay, cương thổ nam, bắc có khác, tiếng nói, phong tục chẳng đồng. Đại-Việt tiến cống Trung-nguyên chẳng qua là muốn giữ tình hòa hiếu. Mi đừng mơ tưởng đất nước này là của họ Triệu nhà mi. Sông Bạch-đằng hai phen chưa hết mùi máu tanh. Ải Chi-lăng xương khô còn đó. Mi đến Đại-Việt ta, mà không có thẻ bài. Chúng ta là con dân Đại-Việt, phải bắt gian.
Bọn thủ hạ Triệu Thành thấy Thanh-Mai, Tự-Mai tâng bốc chủ mình. Nay Thiện-Lãm vô phép, chúng định tấn công Thiện-Lãm. Song chúng thấy nó đứng cạnh sư thái Tịnh-Huyền, nên chỉ gườm mà thôi. Triệu Thành cười nhạt:
- Này cậu bé. Ta nể mặt Trần cô nương. Bằng không ta lấy tính mệnh chú rồi.
Thanh-Nguyên ngây thơ hỏi:
- Thế nghĩa là thế nào?
Vương Duy-Chính cười:
- Nghĩa là chị của cô sẽ thành vương phi của chủ nhân ta. Tức là chủ mẫu ta. Ta đâu dám vô phép.
Lý Long cười nhạt:
- Em ta là con rồng cháu tiên. Không bao giờ lấy chồng ngoại tộc. Các người đừng mơ tưởng hão. Ăn mày còn đòi xôi vò.
Triệu Thành hú lên một tiếng, y phóng chưởng nhằm vào đỉnh đầu Lý Long. Chưởng vừa phát ra, gió lộng ào ào. Lý Long ung dung lùi lại hai bước, đẩy ra một chưởng nhẹ nhàng. Chưởng của chàng chạm vào chưởng đối thủ, êm đềm, xùy một tiếng. Chưởng của y mất tăm mất tích. Y ngẩn người ra, lùi ba bước mặt tái mét.
Thiền sư Minh-Thiên bật lên tiếng úi chà, đầy vẻ kinh ngạc,rồi lên tiếng:
- Lý thí chủ. Chẳng hay thí chủ với Minh-Đức sư huynh có liên hệ gì?
Lý Long lắc đầu:
- Bạch thiền sư, tiểu bối chưa từng nghe nói đến đại sư Minh-Đức bao gìơ cả. Phải chăng thiền sư Minh-Đức thuộc phái Thiếu-lâm?
Minh-Thiên đáp:
- Người là sư huynh của bần tăng. Lý thí chủ, vậy Kim-cương chưởng thí chủ học ở đâu? Trong thế gian này, ngoài sư huynh bần tăng là Minh-Đức ra, không lẽ còn có người thứ nhì biết xử dụng Kim-cương chưởng. Thí chủ nên biết Kim-cương chưởng lấy yếu chỉ trong kinh Kim-cương, là một tuyệt kỹ vô song của bản phái. Trong lịch đại mấy chục đời, chỉ có khoảng năm người xử dụng được. Từ chín đời qua, mới có mình sư huynh tại hạ luyện thành mà thôi. Bần tăng biết Lý thí chủ có cơ duyên được người truyền thụ chưởng pháp bản phái. Thí chủ là đệ tử Thiếu-lâm, thấy sư thúc không chịu ra mắt ư?
Lý Long chỉ vào Huệ-Sinh:
- Tất cả bản lĩnh của tại hạ đều do ân sư truyền dạy. Ân sư của tại hạ pháp danh Huệ-Sinh. Hiệu Long-thành đại hiệp.
Cả bọn Minh-Thiên lẫn sư thái Tịnh-Huyền đều bật lên tiếng kinh ngạc. Sư thái Tịnh-Huyền hỏi:
- Long thành đại hiệp. Bần ni nghe nói đại hiệp ngộ đạo gác kiếm qui ẩn đã lâu. Thuận-thiên hoàng đế của bản triều ba lần khẩn cầu đại hiệp xuống núi, trao việc lớn làm tể tướng, mà đại hiệp từ chối. Không ngờ hôm nay đại giá cũng đến chốn hoang sơn này.
Huệ-Sinh chỉ vào Lý Long:
- Tại hạ đã theo về chủ nhân đây rồi. Nên không thể nhận lời của đức kim thượng đựơc.
Bỗng Triệu Thành run lập cập, lảo đảo, muốn ngã. Minh-Thiên chao người một cái đỡ gã dậy:
- Chủ nhân, cái gì vậy?
Triệu Thành xòe bàn tay ra, bàn tay y tím bầm, sưng vù. Y nói lắp bắp:
- Tên Lý Long dùng độc chưởng.
Sư thái Tịnh-Huyền lắc đầu:
- Không phải thế đâu. Lý thí chủ đây thân phận không tầm thường, lại là danh môn đệ tử. Đời nào hạ thể dùng độc chưởng.
Minh-Thiên chỉ tay Triệu Thành:
- Thế tại sao Bình-nam vương gia của bần
tăng lại trúng độc?
Thanh-Mai lắc đầu:
- Minh-Thiên đại sư. Chẳng lẽ đến đại sư mà cũng không nhận ra sự việc hay sao? Chủ nhân của đại sư dùng chất độc hại anh cả của tiểu nữ. Rồi hai bên giao nhau một chưởng. Công lực chủ nhân đại sư thấp hơn, chất độc từ tay anh cả của tiểu nữ nhập vào tay người. Chứ anh cả của tểu nữ đâu có biết dùng độc chưởng!
Minh-Thiên không chịu:
- Cô nương nói lạ. Kim-cương chưởng của bản phái đặt cơ sở trên nội công nhà Phật, chỉ hóa giải chất độc chứ không biết đẩy chất độc vào người đối thủ.
Thanh-Mai định trả lời. Lý Long dơ tay vẫy:
- Trong tâm đại sư cứ nghĩ rằng chưởng của tại hạ là Kim-cương chưởng của phái Thiếu-Lâm, nên từ lầm lẫn này đại sư sang lầm lẫn khác. Đại sư ơi, chưởng tại hạ vừa xử dụng là Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng. Không liên quan gì với Kim-cương chưởng Thiếu-lâm cả.
Minh-Thiên vung tay, hướng vào ngực Lý-Long đẩy một chửơng. Chưởng chưa phát ra hết, Lý-Long đã cảm thấy nghẹt thở. Chàng hít một hơi, xử dụng chiêu Như huyễn bất thành trong Tiêu-Sơn chưởng pháp. Bộp một tiếng, chàng cảm thấy như trời long đất lở. Mặt mày choáng váng. Chàng phải lùi đến năm bước mới hóa giải được kình lực. Chàng biết Minh-Thiên không có ác ý. Y chỉ vận có năm thành công lực. Chàng chắp tay:
- Đa tạ đại sư nhẹ tay.
Minh-Thiên thấy chưởng lực của mình bị hóa giải mất tăm mất tích. Còn chưởng của Lý Long bao hàm nội lực âm nhu, chính đại quang minh của nhà Phật, giống như Kim-cương chưởng phái Thiếu-lâm. Song trong Thiếu-lâm chửơng chỉ hóa giải kình lực đối phương mà thôi. Còn chưởng của Lý Long bao hàm sát thủ khủng khiếp. Ông gật đầu:
- Bần tăng lầm. Chưởng của Lý thí chủ qủa khác với Kim-cương chưởng Thiếu-lâm. Song có đôi phần giống nhau ở chỗ cùng xuất phát từ thiền công. Thiếu-lâm Kim-cương chưởng thì nhẹ nhàng. Còn Tiêu-sơn chưởng trong cái nhẹ nhàng có cái nặng nề. Trong cái hòa giải, có cái tấn công rất hung dữ. Bần tăng chưa hiểu nổi.
Lý Long nhìn sư phụ, chờ sự giải thích. Huệ-Sinh cũng lắc đầu. Vương Duy-Chính cười:
- Tại hạ hiểu rồi. Chắc trước đây có người Việt nào đó học lén võ công Thiếu-lâm rồi về thêm thắt đôi chút vào, thành Tiêu-sơn chưởng pháp. Giản dị quá.
Thanh-Mai cười nhạt:
- Vương tiên sinh! Tiên sinh nên biết rằng ở đây lực lượng chúng tôi mạnh hơn tiên sinh. Triệu Anh lại bị bắt. Tiên sinh cần liệu lời mà nói, mới hy vọng trở về Trung-thổ. Chứ tiên sinh cứ cái giọng miệt thị người Việt như vậy, anh cả chúng tôi có đại lượng mấy cũng không tha cho các vị đâu.
Vương Duy-Chính nghĩ rất nhanh. Nếu động thủ ra, thì Minh-Thiên khó thắng được sư thái Tịnh-Huyền. Y không thể địch nổi Nùng-Sơn tử. Còn lại Ngô Tích, Triệu Huy càng không phải đối thủ của Thanh-Mai, Lý Long. Trong khi đó còn Huệ-Sinh, Tạ Sơn. Y chữa:
- Nếu không phải vậy, thì sao hai thứ võ công giống nhau đến thế?
Sư thái Tịnh-Huyền lên tiếng:
- Để bần ni giải thích cho Vương thí chủ rõ. Võ công của Thiếu-lâm phát xuất từ Thiền-công nhà Phật. Trong khi võ công Tiêu-sơn cũng phát xuất từ nhà Phật, thì giống nhau là sự thường.
Vương Duy-Chính lắc đầu:
- Không phải. Võ công Thiếu-lâm phát xuất từ Đạt-Ma tổ sư. Ngài đến Tung-sơn, diện bích chín năm, rồi đắc đạo. Ngài truyền thụ Thiền công cho đệ tử. Từ đó Thiền công truyền sang Giao-chỉ. Chính sử sách quý quốc còn ghi.
Thanh-Mai thắc mắc:
- Xin tiên sinh dạy cho tiểu nữ biết đó là sử nào, sách nào?
Vương Duy-Chính gật đầu:
- Dường như qúi quốc có một thiền sư pháp danh La Quí-An ,được phong quốc sư. La Qúi-An đại sư đã vân du Trung-nguyên, hành hương chùa Thiếu-lâm, để lại một bài ký mang tên « Đăng Tung-sơn, du Thiếu-lâm ký ». Bài ký này văn chương uẩn súc. Khắp Trung-nguyên đều truyền tụng. Tại hạ vì hâm mộ, đọc nhiều lần nên cũng thuộc. Trong bài ký trên, đại sư La Quý-An khẳng định rằng Thiền-tông Đại-Việt xuất phát từ Thiền-tông Trung-nguyên. Tại hạ xin đọc nguyên văn để cô nương nghe.
Vương Duy-Chính cất cao giọng đọc. Bài ký viết bằng Hán văn. Thiện-Lãm ít học, không hiểu. Nó hỏi Tự-Mai:
- Này anh Sáu. Nó đọc gì mà ộp ạp như ếch kêu vậy.
Tự-Mai ghé vào tai Lãm dịch cho nó nghe:
« ...Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lưu-chi được truyền pháp từ tam tổ Tăng Sán, đến Đại-Việt hoằng dương đạo đức Thế-tôn, đến nay trải đã mấy trăm năm.. »
Vương Duy-Chính ngừng lại cười:
- Cô nương, điều này có thực chăng?
Thanh-Mai ngơ ngác đưa mắt hỏi ý kiến sư phụ. Tịnh-Huyền định lên tiếng thì, Tự-Mai xua tay:
- Vương tiên sinh ơi, tại hạ còn nhỏ tuổi, phải xin lỗi tiên sinh trước khi trả lời câu hỏi trên. Chết thật, tiên sinh nổi tiếng văn tự uyên bác, mà lại lầm lẫn đến thế ư. Tiên sinh cần phải phân biệt Thiền-học với Thiền-công không phải là một. Thiền-học cực kỳ cao qúy, đưa đến giải thoát con người khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Còn Thiền-công là luyện nội lực, hầu áp dụng vào việc xử dụng võ công. Để tại hạ nói cho tiên sinh rõ hơn một chút. Như chị em tại hạ đây đều là đệ tử phái Đông-a. Học võ công Đông-a.
Nghe nói đến chữ Đông-a mặt Triệu Thành nhăn nhó lại thực khó coi, y đưa mắt nhìn Minh-Thiên. Cả hai im lặng nghe Tự-Mai nói.
Nó chỉ vào Tịnh-Huyền:
- Trong khi đó chị em tại hạ lại xin qui y Tam-bảo với người. Tuy người là cao nhân phái Mê-Linh, nhưng người chỉ đạy chị em tại hạ về Thiền- học cao quí mà thôi. Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lư-chi được tổ Tăng Sán truyền pháp là điều đương nhiên, quý báu không gì sánh. Chứ tổ Tăng Sán không truyền Thiền-công chẳng lấy gì làm quý cho ngài.
Vương Duy-Chính ngắt lời Tự-Mai:
- Này em bé. Thiền-công của nhà Phật quí biết dường nào. Thế mà em bảo chẳng lấy gì làm quí, chẳng hóa ra khinh mạn thái quá ư?
Tự-Mai cười nhạt:
- Vương tiên sinh lại lầm lẫn nữa rồi. Trong Phật giáo, thì không gì quí báu bằng pháp. Pháp tức là triết lý đi đến giải thóat cho mình, cho người, cho chúng sinh. Còn Thiền-công bất qúa là phương tiện giúp cho phật tử luyện tập cơ thể khỏe mạnh, hầu tránh ma nghiệp từ muôn kiếp trước đến quấy nhiễu mà thôi. Thiền-công thì nhất thời. Còn pháp môn Thiền-học thì không có đầu, cũng không có cuối. Bất diệt, bất cải. Thế thì không qúi sao được???

Tự-Mai nói đến đâu thì Minh-Thiên, Tịnh-Huyền gật đầu đến đó. Trong khi từ Vương Duy-Chính cho đến Quách Quỳ ngơ ngơ ngác ngác. Tự-Mai thở dài:
- Thôi được, tại hạ xin vì Vương tiên sinh mà nói về nguồn gốc Thiền-tông của Trung-quốc, Đại-Việt vậy. Không biết tiên sinh có nghe không?
Vương Duy-Chính định lắc đầu, thì gã mặt lưỡi cầy đã cướp lời:
- Nghe, nghe. Em bé, thực em không hổ là đệ tử danh gia. Chẳng điều gì mà không biết.
Tự-Mai chắp tay kính cẩn nói:
- Đầu tiên tại hạ xin nói về nguồn gốc dòng Thiền tông ở Tây-trúc. Đạo Phật có vô tận pháp môn. Các pháp môn coi thì nhiều, song thu về chỉ có một mối. Người tu học cao như Minh-Thiên đại sư hoặc sư phụ của tại hạ thuyết pháp thì lại không qúi bằng kẻ thô lỗ vô học. Thiền-tông ra đời từ khi Phật còn tại thế. Thiền-sử kể rằng: « Một ngày Phật Thích-ca Mâu-ni lên tòa thuyết pháp ở Linh-sơn. Đức Phật im lặng không nói gì. Ngài cầm một bông hoa đưa ra trước pháp hội cho mọi người xem. Lúc ấy thính chúng đông hàng mấy trăm vạn. Song đều ngơ ngác không ai hiểu ý Phật. Chỉ có Ma-ha Ca-diếp hiểu. Ông mỉm cười đáp lại. Đức Phật nói: « Ta có nhãn tàng chính pháp, diệu tâm bồ đề, vô thực vô tướng. Nay truyền cho Ma-ha Ca-diếp ». Đó là cuộc truyền tâm ấn đầu tiên. Từ đấy Thiền-tông do thầy truyền cho trò cho đến nay. Thiền-tông không thuyết pháp. Người tu theo Thiền phải trực chỉ chân tâm. Muốn trực chỉ chân tâm, cần hiểu yếu chỉ kinh Kim-cương, kinh Lăng-gìa. Giáo lý Thiền-tông thu vào mấy câu sau:
Giáo ngọai biệt truyền.
Bất lập văn tự.
Trực chỉ chân tâm,
Kiến tính thành Phật.
Tự-Mai nhìn Minh-Thiên:
- Chính vì vậy mà Minh-Thiên thiền sư cũng như bổn sư tại hạ đều thuộc nằm lòng hai kinh Lăng-gìa, Kim-cương, coi việc luyện võ chẳng qua để đuổi ma nghiệp khỏi cơ thể mà thôi.
Triệu Huy hỏi Tự-Mai:
- Này cậu em. Cậu để Minh-Thiên thiền sư lên trên sư phụ mình phải chăng vì gốc Thiền-tông Giao-chỉ từ Trung- quốc?
Tự- Mai lắc đầu:
- Những vị tu hành chân chính thì tứ đại giai không. Minh-Thiên cũng thế. Cục phân bò cũng vậy. Tịnh-Huyền so với con chó, con mèo cũng như nhau.
Ngô Tích quát lên:
- Thằng Tự-Mai kia. Mày thực vô lễ. Mày gọi sư phụ mày là chó, là mèo, mặc mày. Bộ mày không muốn sống nữa hay sao mà giám ví sư bá của tao với cục phân?
Trong khi chị em Tự-Mai cười khúc khích, thì Minh-Thiên phất tay ra hiệu cho Ngô Tích im lặng:
- Sư điệt, con lầm rồi. Tiểu thí chủ đây nói đúng đó. Phật pháp cao siêu không cùng. Bỏ ra ngòai cái ta thì tự nhiên chẳng còn cái người. Đã không có cái người thì không có nhiều người. Không có nhiều người thì tất cả trở thành không. Sư thúc là không. Cục phân cũng là không. Sư thúc quả không quý hơn cục phân.
Tự-Mai tiếp:
- Giòng Thiền-tông truyền ở Thiên-trúc, trải tám đời. Vị tổ thứ tám là Tôn-gỉa Nan-đà đến Đại-Việt. Bấy giờ gọi là Lĩnh-nam.
Minh-Thiên cắt ngang:
- Tiểu thí chủ có lầm không? Vị tổ thứ hai mươi tám là Đạt-Ma Tổ sư đến Trung thổ đầu tiên chứ?
Tự-Mai quả quyết:
- Bạch đại sư, tiểu bối nói có sách. Mách có chứng đàng hoàng. Phía Nam hồ Động-đình có hai ngôi chùa. Một tên Kiến-pháp, một tên Linh-sơn. Hai ngôi chùa này xây từ đời Tam-quốc. Có đúng không?
- Đúng.
- Trước mỗi ngôi chùa đều có tấm bia. Tấm bia ở chùa Kiến-pháp do Tư-mã Trường-sa sọan năm Trinh-phù thứ mười lăm đời vua Đừơng Thái-tông (641 sau Tây lịch). Tấm bia ở chùa Linh-sơn do Hàn lâm đại học sĩ Chu Anh sọan năm Thái-bình Hưng-quốc thứ mười đời vua Thái-tông nhà Tống. Trong hai ngôi chùa đều thờ nữ vương Phật-Nguyệt. Cả hai tấm bia cùng nói rằng nữ vương được Tôn-gỉa Nan-đà truyền tâm ấn, đắc pháp thành Phật. Mà nữ vương Phật-Nguyệt nguyên là tướng tổng trấn Trường-sa, hồ Động-đình hồi vua Trưng. Văn bia nói rõ nữ vương đựơc truyền tâm ấn niên hiệu Kiến-vũ thứ mười sáu đời vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán. So với Lĩnh- nam năm đó là niên hiệu Trưng hoàng (39 sau Tây-lịch) đế nguyên niên. Vậy kết lại Thiền-tông, Thiền-công truyền vào Đại-Việt cách nay là chín trăm chín mươi năm.
Tự-Mai nhìn Triệu Thành,mỉm cười:
- Còn Đạt-Ma tổ sư, thuộc thế hệ thứ hai mươi tám giòng Thiền-tông Tây-trúc. Ngài đến Trung thổ năm Canh-Tý, nhằm niên hiệu Phổ-thông nguyên niên, đời vua Lương Vũ-Đế (520 sau Tây lịch). Như vậy ngài tới sau Tôn-gỉa Nan-Đà đến hơn bốn trăm tám mươi mốt năm. Như thế có nghĩa là Thiền-tông, Thiền-công Đại-Việt có trước Trung-nguyên gần năm trăm năm. Còn Đạt-Ma tổ sư, trước khi đến Trung-thổ, ngài đã đến Đại-Việt trước. Điều này có chép trong « Cao tăng truyện » do chính văn gia đời Tống Thái-tông sọan. Trong đó ghi rõ «Sơ tiên Tống cảnh Nam Việt. Mạt hựu tỷ độ chí Ngụy » nghĩa là đầu tiên đến Nam-Việt thuộc nhà Tống, sau đó mới tới nước Ngụy. Bởi bấy giờ đất Việt thuộc Tống.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 11:35:03 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 24.12.2004 16:16:23 (permalink)
    Hồi thứ bẩy


    Thuận Thiên Hoàng Đế




    Tôn Đản hỏi:
    - Còn phái Mê-Linh thành lập từ bao gìơ?
    - Sau khi vua Bà tuẫn quốc. Mã Viện biết rằng muốn Lĩnh-nam yên, cần tiêu diệt các phái võ. Một mặt y tróc nã các cao thủ, cấm dạy võ. Một mặt y ra lệnh thu hết sách vở viết bằng chữ Khoa-đẩu đem về Trung-nguyên. Song các tôn sư võ học vẫn ẩn thân, chép bí quyết võ học, để lại cho con cháu. Y tấu về xin chỉ dụ của vua Quang-Vũ nhà Hán ra lệnh cấm học chữ Khoa-đẩu. Như vậy đừng nói võ học, đến tư tưởng, học thuật mấy ngàn năm của Lĩnh- nam nếu có còn gĩư được trong các sách vở cũng vô ích. Vì không ai đọc đựơc. Tuy vậy các phái vẫn bí mật truyền thụ nhận đệ tử. Cho nên đến thời Tam-quốc, bà Triệu thuộc phái Long-Biên khởi binh một lần nữa.
    Lê Thuận-Tông cắt lời Thanh-Mai:
    - Em nghe vua Lý Nam-đế cũng thuộc phái Cửu-chân, có phải không? Còn Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền thuộc phái nào?
    - Đúng. Lý Nam-Đế thuộc phái Cửu-chân, vì vậy khi lên ngôi ngài phong tặng cho bà Triệu là Lĩnh-nam đệ tam thánh. Vì đệ nhất thánh là vua Trưng. Đệ nhị thánh là Trưng Nhị. Bà là đệ tam thánh đất Lĩnh-nam. Còn Dương Diên-Nghệ thuộc phái Cửu-chân. Ngô Quyền là con rể, cũng là đệ tử Dương Diên-Nghệ.
    Thiện-Lãm bàn:
    - Chị Thanh để em bàn xem có đúng không nghe. Sau này Đinh Tiên-Hoàng chắc chắn thuộc phái Hoa-Lư. Thập đạo tướng quân của ngài là Lê-Hoàn thuộc phái Tiêu-Sơn. Thế phái Mê-linh được thành lập từ bao gìơ?
    - Vào năm Mậu-thìn, niên hiệu Đinh Tiên-Hòang đế nguyên niên (968). Bấy giờ võ lâm Lĩnh-nam phân hóa cùng cực. Trong nước chia thành mười hai sứ quân, mang quân đánh lẫn nhau. Các đại tôn sư người theo sứ quân này. Kẻ theo sứ quân nọ, tàn sát nhau khủng khiếp. Chưởng môn nhân phái Long-biên là Hoa-Minh thần ni. Ngài mời tôn sư bẩy đại môn phái thời Lĩnh-nam tới họp. Trong đại hội, luận bàn xem sứ quân nào có đức độ nhất thì giúp, hầu thống nhất thiên hạ. Các đại tôn sư đều đồng ý giúp sứ quân Đinh Bộ-Lĩnh. Vì ngài là chưởng môn phái Hoa-Lư. Sau khi thống nhất đất nước. Các phái Tản-viên, Hoa-lư, Sài-sơn vẫn giữ nguyên. Còn hai phái Cửu-chân, Long-biên, đều đồng ý hợp nhất thành một phái, lấy tên thủ đô thời Lĩnh-nam là Mê-linh cho môn phái mới.
    Thanh-Mai nói đến đâu, Tôn Đản gật đầu tỏ vẻ hiểu biết tới đó. Nó hỏi:
    - Cứ như cuộc luận bàn hồi nãy gữa người Tống với chúng mình, thì dường như phái Tiêu-sơn thành lập từ khi Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lưu-chi sang ta. Còn phái Đông-a thì do phái Tiêu-sơn mà ra. Em nghe, đức hoàng-đế bản triều họ Lý, húy Công-Uẩn, xuất thân phái Tiêu-sơn. Vì vậy suốt trong thời gian qua, vị chưởng môn phái Tiêu-sơn trở thành quốc sư. Có đúng không?
    Thanh-Mai gật đầu. Tự-Mai hỏi Lý-Long:
    - Anh cả này. Hiện nay võ học Đại-Việt đang thịnh. Trong khi đó bên Tống vua thì hôn ám. Quan lại hèn hạ, nhũng lạm. Dân chúng đói khổ. Bắc có nước Liêu. Tây có Tây-hạ. Nam có Thổ-Phồn. Tại sao mình không họp nhau với Chân-lạp, Xiêm-la, Đại-lý, Chiêm, Lào, thống nhất đem quân hội với Liêu, Tây-hạ, diệt Tống chiếm lại đất Quảng-đông, Quảng-tây cũ? Tại sao mình cứ phải cúi đầu thần phục bọn hèn nhà Tống? Để thỉnh thoảng nó sai mấy tên ngu muội sang phong chức này, tước nọ? Mỗi khi đọc sử đến giai đọan công chúa Gia-hưng Trần Quốc định đem quân chiếm Lạc- dương, lật đổ nhà Hán, em lại tiếc hùi, tiếc hụi. Giá hồi ấy vua Trưng truyền lệnh cho công chúa Phật-Nguyệt vượt Trường-giang theo ngả Kinh-châu đánh về Lạc-dương. Như vậy ắt Ngô-Hán phải rút quân từ Thục về cứu viện. Công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa tái chiếm Thành-đô, Lưỡng Xuyên... không chừng thành công.
    Tự-Mai mơ màng:
    - Lại như thời vua Lê Đại-Hành, quân Tống hùng hùng, hổ hổ sang đánh, thế mà cũng chỉ ba trận, trên hai mươi vạn người bỏ xác. Anh cả ơi, chúng mình là con rồng cháu tiên, không tham vọng chiếm đất của người Hán. Song mình cũng cần đòi lại đất tổ. Em nghĩ, nhất định anh cả với chúng em phải làm việc đó.
    Lý Long chắp tay hướng Thanh-Mai, Tự-Mai:
    - Đa tạ các em dạy dỗ. Chí của các em lớn thực. Các em không thua gì vua Trưng, hay Bắc-bình vương Đào Kỳ khi xưa.
    Nói rồi chàng ôm lấy đầu Trần Tự-Mai. Hai
    anh em lặng đi giờ lâu. Tự-Mai hỏi:
    - Liệu trong triều, đức hoàng đế cùng triều thần có nghĩ như anh em mình không?
    Lý Long không trả lời. Chàng xuất thần nhìn lên mặt trăng, mơ mơ, màng màng.
    Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
    - Có đấy con ạ. Song không phải ai cũng muốn làm anh hùng.
    Bà ngửa mặt nhìn trăng nói với Lý Long:
    - Cứ như bần ni xét, thì bản triều tuy mới lập chính thống, nay nảy ra được một thiếu niên khí hùng, trí dũng. Lại biết khuất thân cầu hiền tài. Một hai mưu khôi phục cố thổ. Nhân sĩ, võ lâm không ai mà không phục. Song bần ni lấy làm lo nghĩ, vì triều đình bây giờ không phải như triều đình thời Lĩnh-Nam. Ai cũng an phận. Thí chủ chí thì có, tài thì dư. Chỉ còn mong chữ thời nữa mà thôi.
    Lý Long thất kinh hồn vía, hỏi:
    - Thì ra sư thái biết cả rồi ư?
    Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười móc trong bọc ra một cái túi nhỏ:
    - Thí chủ cứ coi cái túi này thì rõ.
    Lý Long cầm túi mở nút. Dưới ánh trăng hiện ra một tượng Phật bằng ngọc đỏ chói. Chàng ngẩn người, kính cẩn hỏi:
    - Thưa sư thái, ngọc thì đúng. Song thực hư khó phân. Đệ tử không tin.
    Thanh-Mai cười:
    - Anh cả ơi! Hiện trên đất Việt các thiếu niên đồng tuổi với anh cả, hiếm có người văn võ kiêm tòan như anh cả. Bây giờ anh cả đang là vị vương. Mai này anh cả về triều, nghị sự cùng thiên-tử, đại hội anh hùng thiên hạ, chỉ cờ lên phương Bắc, thống nhất Việt tộc liên kết Liêu, Tây-Hạ, ta đòi đất cũ. Còn giang sơn nhà Tống chia cho các nước kia, thì cái sự nghiệp như vua An-Dương, vua Trưng đâu có thể không thành? Anh cả phải có cái nhìn sắc bén chứ? Một người tứ đại giai không như sư phụ của em, không lẽ lại muốn hơn thua một chút danh hão thế tục? Không lẽ lão nhân gia ở địa vị tối cao phái Mê-Linh, còn muốn mạo xưng một địa vị nhỏ bé???
    Tự-Mai cũng xen vào:
    - Khi anh cả cùng đại sư Huệ-Sinh đạo trưởng Nùng-Sơn gặp chúng em ở đưới gốc đa xã Cổ-linh. Sư phụ dùng thần công Lăng không truyền ngữ dặn chúng em rằng Bất cứ anh cả nói gì mà sư phụ không ngăn cản cũng phải tuân theo như tuân lệnh sư phụ . Tại sao? Tại vì sư phụ biết anh cả là ai. Thương anh cả cả vì tình máu mủ thì ít. Mà giúp cái chí anh cả thì nhiều. Vì vậy anh cả đề nghị kết anh em. Chúng em phải tuân ngay.
    Vua Lý Thái-Tổ xuất thân hàn vi. Bố chết sớm, mẹ nghèo khó, phải gửi ngài lên ở chùa làm mướn độ nhật. Nhờ thông minh, ngài được sư Lý Khánh-Vân nhận là con nuôi, vì vậy ngài mang họ Lý. Sau được thiền-sư Vạn-Hạnh nhận làm đệ tử. Trong khi đó thân mẫu cùng em trai, em gái phải đi ở đợ. Năm mười tám tuổi, nhờ tài học, nhờ sư phụ làm quân sư cho triều đình nhà Lê, ngài được cử làm quan võ. Ngay khi làm quan, ngài tìm mẹ và em đem về nuôi dưỡng. Năm Đinh-dậu, nhằm niên hiệu Ứng-thiên thứ tư đời vua Lê Đại-Hành (997). Vua đem quân đánh Chiêm-thành. Ngài được cử là tiên phong. Sau khi thắng giặc, vua thu thập không biết bao nhiêu vàng, ngọc châu báu. Trong đó có hai tượng phật bằng hồng ngọc. Vua thấy ngài xuất thân là cư-sĩ Phật-gíao, đệ tử phái Tiêu-sơn, ban cho ngài. Ngài đem một tượng tặng cho em gái. Năm Kỷ-dậu (1009), khi mới lên ngôi vua, ngài truy phong cho cha làm Hiển-Khánh đại-vương. Phong cho mẹ tước thái hậu Minh-Đức. Lập con trai là Phật-Mã làm thái tử, bấy giờ mới có mười tuổi. Phong cho em gái làm công chúa Hồng-Châu. Các con đều được phong tước Hầu, mười ba con gái đều được phong công chúa. Ngài nói với các con : « Bình sinh ta chỉ có một em gái. Ta theo đạo Phật. Đạo Phật không phân biệt nam nữ như đạo Nho. Vì vậy các con phải coi cô như ta. Ta có hai tượng Phật bằng ngọc. Ta giữ một. Trong các con đứa nào có đức ta truyền ngôi cho, thì sẽ được giữ tượng ngọc. Một ta tặng cho cô. Sau này các người thấy tượng cũng như thấy ta, phải kính cô như ta ».
    Hồi công chúa Hồng-Châu đến tuổi trưởng thành, bấy giờ vua Lý Thái-Tổ là tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Thấy em gái không nghĩ đến phú qúi, mà chỉ say mùi đạo, nhất tâm nhất trí tìm đường giải thoát khỏi cảnh luân hồi. Mẹ, anh khuyên sao cũng không được. Ngài quá thương em, khuyên răn, lại bị công chúa thuyết pháp ngược lại. Khuyên không được, ngài dùng quyền, ép công chúa lấy Lạc-hầu Lạng-châu, là người em kết nghĩa, đã từng giúp ngài rất nhiều trong thời gian lập nghiệp tên Thân Thiệu-Anh.
    Sư thái vẫy Lý Long lại gần, thình lình bà chìa ngón tay trỏ chĩa vào người chàng phát một chỉ. Lý Long kinh hãi, nhảy lui lại hai bước. Chỉ đó phóng trúng đất chỗ chàng đứng, kêu xùy một tiếng. Cát bụi bay mịt mờ. Tịnh-Huyền lại dùng ngón tay giữa phóng một chỉ vào ngực chàng. Lý Long nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Cứ như thế, Tịnh-Huyền phong liên tiếp ba mươi sáu chỉ, rồi ngừng lại mỉm cười.
    Lý Long cung cung, kính kính qùi gối trước sư thái lạy liền tám lạy:
    - Thần nhi kính cẩn ra mắt cô-mẫu. Xin cô mẫu rộng dung, vì thần nhi cách xa cô mẫu từ hồi còn thơ, trí nhớ không được làm bao.
    Hòa thượng Huệ-Sinh, đạo trưởng Nùng-Sơn, Lý Mỹ-Linh, Tạ Sơn đồng qùi xuống rập đầu trước sư thái Tịnh-Huyền. Sư thái phất tay, không cho hòa thượng Huệ-Sinh cùng đạo trưởng Nùng-Sơn hành lễ. Bà nói:
    - Xin đại sư, cùng đạo trưởng miễn cho những lễ nghi của thế tục.
    Bà kéo Lý Mỹ-Linh ngồi xuống bên cạnh:
    - Công chúa giả trai vụng về quá. Tiếng nói trong trẻo, êm đềm, khuôn mặt sáng như trăng, mà giả trai thì không qua mắt được chúng nhân đâu. Dường như năm nay công chúa 16-17 tuổi rồi thì phải.
    Lý Mỹ-Linh kính cẩn đáp:
    - Bạch thái cô mẫu, vâng. Năm nay thần nhi đúng mười sáu tuổi. Thì ra ở chốn thanh cao cực lạc thái cô mẫu vẫn không quên việc của triều đình.
    Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:
    - Chị Thanh. Cái gì vậy. Em muốn vỡ đầu ra vì ngạc nhiên rồi đây. Sư bà với anh cả đấu võ, rồi mọi người quỳ lạy sư bà, em không hiểu.
    Thanh-Mai nói sẽ vào tai nó:
    - Sư phụ của chị trước đây là công chúa Hồng-châu, em gái đức hòang đế. Nguyên hồi mới khởi nghiệp, đức hòang đế rất sủng ái sư-phụ. Đi đâu ngài cũng dẫn theo. Sư phụ đã từng theo hoàng đế chính chiến bao phen. Hoàng đế cùng sư phụ chế ra một thứ chỉ pháp đặc biệt, gọi là Đại từ, đại bi chỉ. Vì chỉ đánh trúng ai, không làm cho người ấy đau khổ, ngược lại làm cho khoẻ mạnh khoan khóai. Chỉ này được truyền tụng trong hoàng cung. Vì sư phụ là cô ruột anh cả, mà anh cả không biết mặt, nên không tin. Sư phụ dùng chỉ pháp để chứng minh thân phận.
    Thiện-Lãm hỏi:
    - Anh Mỹ-Linh là con gái hay sao mà sư bà lại gọi là công chúa? Còn anh cả là vương-gia à? Vương gia, công chúa là con đức vua phải không? Con vua thì phải ở trong cung, có kẻ hầu người hạ. Hà cớ gì lại đi ngủ trong rừng với chúng mình? Bọn mình đã kết anh em với vương gia, công chúa. Vậy mình cũng thành em vua, con vua cả sao?
    Thanh-Mai gật đầu:
    - Ừ! Em không thấy sao. Lúc mới gặp chị đã nhận ra Mỹ-Linh là gái giả trai. Này nhé tiếng nói trong, cử chỉ mềm mại. Đi đứng uyển chuyển. Nếu trên đời này con trai đều đẹp như Mỹ-Linh cả thì ra chúng ta đang ở cõi tiên sao?
    Sư thái vẫy tay ra hiệu cho Tôn Đản im lặng. Bà ngơ ngẩn nhìn trời.
    Thiện-Lãm hỏi:
    - Chắc bà sắp giảng kinh Kim-cương cho bọn con nghe. Có phải đọc kinh Bát-nhã trước không?
    Hỏi dứt câu, nó tự biết không phải. Vì sư thái đã nói cho nó nghe rằng mỗi khi thuyết pháp, phải đốt hương lên. Mùi hương thơm, thanh tĩnh, khiến cho người nghe dễ thư hái. Nay không thấy sư thái truyền đốt hương, thì đâu có đọc kinh.
    Sư thái ngẫm nghĩ một lúc, bà bảo Thanh-Mai:
    - Con nhập đề trước đi.
    Thanh-Mai chắp tay vái sư phụ môt vái
    rồi nói:
    - Thưa các vị, sư phụ của tiểu nữ nguyên là công chúa Hồng-Châu em của đức Đại-Việt hoàng đế. Từ nhỏ sớm ngộ đạo đức Thế-tôn. Người muốn bỏ hết phú quí gỉa tạo, đi tu, pháp đanh Tịnh-Huyền.
    Tôn Đản, Thiện-Lãm, Thuận-Tông ngạc nhiên đến ngẩn người ra:
    - Trời ơi. Bà cũng là công chúa sao? Không, bà là bà. Bà từ bi, bà là Bồ-tát. Bà không phải công chúa.
    Thanh-Mai tiếp:
    - Song hoàng thượng không cho lão nhân gia đi tu. Lão nhân gia đành lập đàn thờ Phật trong cung, ăn chay, tu đạo. Một lần theo thái hậu hành hương chùa Lục-tổ. Lão nhân gia được diện kiến thái sư phụ.
    Lý Mỹ-Linh hỏi:
    - Thái sư phụ là???
    - Thượng Duyên, hạ Tịnh .
    Lý Long, Huệ-Sinh, Nùng-Sơn đều bật lên tiếng Úi chà. Nguyên Duyên-Tịnh sư thái là một đại ni sư đắc đạo rất sớm. Thế gian tương truyền ngài thành Phật. Ngài bay đi khắp nơi cứu độ chúng sinh. Năm ba mươi tuổi được truyền chức chưởng môn phái Mê-Linh. Uy tín ngang với Quốc-sư Vạn-Hạnh. Mỗi khi anh hùng võ lâm Đại-Việt hội họp, thường cử ngài chủ tọa. Ngài nói gì, không ai mà không nghe.
    Thanh-Mai mặc cho mọi người kinh ngạc. Nàng tiếp:
    - Thái sư phụ không nói gì, chỉ đưa tay vỗ vào sau lưng sư phụ ba cái. Sư phụ biết thái sư phụ muốn dặn đêm nay canh ba, ta sẽ gặp con ở sau vườn. Đêm sư phụ ra sau vườn gặp thái sư phụ. Thái sư phụ nhận làm đệ tử. Từ đấy cứ đêm đêm thái sư phụ vượt tường hoàng thành vào cung giảng kinh, truyền thụ võ công cho sư phụ. Cho đến năm sư phụ mười tám tuổi. Hoàng-thượng bấy giờ là Tả-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, cương quyết gả chồng. Lão nhân gia vẫn một mực từ chối, tâu rằng âm dương là đạo trời đất. Song nếu chỉ tìm lấy phúc ấm trước mặt, mà luẩn quẩn trong vòng hồi, thì mai sau về già cũng chết, rồi lại đầu thai. Hoàng thượng vẫn không đổi ý. Ngài truyền gả sư phụ cho lạc hầu Thân Thiệu-Anh ở Lạng-Châu. Sư phụ đang lúc gặp việc cùng đường ấy, thì thái sư phụ xuất hiện. Thái sư phụ dặn rằng cứ tuân chỉ vu quy. Trên đường vu qui thái sư phụ khắc có biện pháp đối phó. Đố anh cả biết cái gì sẽ xẩy ra nào?
    Lý Long đáp:
    - Tuân chỉ vu qui. Đợi ít năm, rồi tạ từ phu quân đi tu cũng được. Phật tổ Như-Lai chẳng tu bán thế ư? Việc này xảy ra hồi anh mới có mấy tuổi, trí nhớ không làm bao. Anh chỉ biết rằng hồi còn nhỏ, cô mẫu thương yêu anh rất mực. Thình lình cô mẫu vu qui. Từ đấy không gặp người nữa. Sau được tin người qui tiên, khắp hoàng cung không ai mà không thương tiếc.
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Thái sư phụ thương đệ tử vô cùng. Đời nào người chịu cho đệ tử mình lăn vào chốn bụi trần? Người dạy sư phụ dùng kế thế thân. Trong lúc rước dâu từ Thăng-long về Lạng-châu, sư phụ ủy thác cho một cung nữ xinh đẹp giả làm sư phụ, lên kiệu vu quy. Còn sư phụ gỉa làm cung nữ. Khi về đến Lạng- châu, công chúa giả lấy quyền chủ, truyền tỳ nữ đi tu thay mình cầu phúc cho phụ hoàng. Thế là cung nữ trở thành phu nhân của lạc hầu Lạng-châu, còn sư phụ nghiễm nhiên theo thái sư phụ đi tu.
    Lý Long gật đầu:
    - Bạch thái cô mẫu. Bây giờ con mới hiểu. Trước con nghe nói, thái cô mẫu vu qui được năm năm, thái hậu nhớ cô mẫu qúa, truyền Trung-thành hầu đưa cô mẫu về Thăng-long thăm thái hậu, thì được tin cô mẫu đau nặng không về được. Thì ra Trung-thành hầu không biết cô mẫu ở đâu, đành nói dối. Sau một năm thì đựơc tin cô mẫu qua đời. Thái hậu khóc lóc thảm thiết, sinh bệnh nặng, không lương y nào trị được. Một đêm kia, tiên nữ hiện xuống chữa bệnh cho thái hậu, chỉ nắn bóp mấy huyệt mà khỏi bệnh.
    Thanh-Mai gật đầu:
    - Tiên nữ đó chính là sư phụ. Người lẻn vào cung thăm thái hậu, kể nể rõ sư tình. Thái hậu thấy sư phụ còn sống, mừng quá, khỏi bệnh ngay.
    Tịnh-Huyền hỏi Lý Long:
    - Hài nhi! Con với Mỹ-Linh đi ra ngoài thế này, để làm gì vậy? Ta nghe con đang trấn nhậm vùng Trường-yên kia mà?
    Trần Tự-Mai à lên một tiếng:
    - Anh cả, thì ra anh là Khai-quốc vương, đệ nhị thái tử của hoàng đế. Võ lâm Lĩnh-nam nghe danh đều cúi đầu bái phục. Anh nổi tiếng Lĩnh-nam về võ công, về văn học. Võ lâm ai nghe đến tên cũng phải tấm tắc khen ngợi . Giang hồ truyền tụng rằng những ai chưa gặp Khai-quốc vương thì chưa thể gọi là anh hùng được. Không ngờ bọn em gặp anh cả từ năm trước mà không biết.
    Tôn Đản hỏi đạo sĩ Nùng-Sơn tử:
    - Thế là thế nào? Đệ tử không hiểu truyện gì cả. Xin đạo trưởng chỉ dạy cho.
    Đạo-sĩ Nùng-Sơn tử thở dài:
    - Được để ta kể cho cháu nghe. Đương kim thiên tử mồ côi cha từ nhỏ, được thiền sư Lý Khánh-Vân thuộc phái Tiêu-sơn nhận làm con nuôi. Vì vậy ngài mang họ Lý. Thủa nhỏ đã có dấu hiệu sau này lên ngôi vua.
    Tự-Mai gật đầu:
    - Cháu biết truyện này rồi. Luật ở chùa Tiêu-sơn là cứ sau giờ Tuất, thì mọi người phải đi ngủ. Một đêm ngài nô đùa với các sư huynh, sư đệ không chịu đi ngủ, sư phụ là thiền-sư Vạn-Hạnh đi qua. Ngài vội giả vờ nằm ngủ, song không kịp duỗi chân ra. Thiền sư bắt tội, bảo nếu làm được bài thơ tự biện hộ, sẽ tha tội. Ngài ứng khẩu rằng:

    Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên,
    Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên.
    Dạ thâm bất cảm trường thân túc,
    Chỉ khủng sơn hà, xã tắc điên
    .

    Dịch:

    Trời làm chăn gối, đất làm chăn,
    Trời đất nhìn ta ngủ dưới song,
    Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi.
    Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.


    Thiền sư thấy lời thơ rõ ra khẩu khí bậc đế vương. Từ đấy dốc tâm truyền thụ võ công. Trong triều Lê, ngài làm tới chức Tả Thân-vệ điện tiền chỉ huy sứ. Tương đương với ngày nay là Phụ-quốc thái-úy ; lại được vua Lê gả công chúa cho. Khi vua Lê Ngọa-Triều chết, ngài được triều thần tôn làm vua, lập ra triều Lý. Chính ngài cho dời đô ra thành Đại-la. Trong khi thuyền sắp tới nơi, thấy một con rồng vàng bay lên. Vì vậy thành Đại-la đổi thành Thăng-long.
    Nùng-Sơn tử tiếp:
    - Đức hoàng đế lên ngôi, lo tổ chức chính sự, khuyến khích văn học, khiến Đại-Việt trở thanh giầu mạnh. Ngài có năm thái tử. Lớn nhất húy Phật-Mã, được phong tước Khai-thiên vương. Thứ nhì là chủ nhân tôi tước phong Khai-quốc vương tổng trấn Trường-yên. Thứ ba Đông-chinh vương trấn thủ Phong-châu. Thứ tư Vũ-đức vương trấn thủ Đằng-châu. Còn một mới có mấy tháng, chưa có chức tước gì. Cả bốn vị học văn, học võ đều xuất chúng. Các vương hằng ngày bàn luận, định làm công việc của vua An-Dương, vua Trưng, đòi lại cố thổ. Ngoài ra ngài còn phong cho anh làm Vũ-uy vương, em làm Dực-thánh vương, tài trí cũng không tầm thường.
    Tôn Đản suýt xoa:
    - Tuyệt. Sáu vị vương mà hợp sức, thì chắc chắn thành công. Đức hoàng-đế có mười công chúa. Cho đến nay ngài đã gả chồng hết rồi. Chị Mỹ-Linh năm nay mười sáu tuổi phải không? Chị là con thứ mấy của đức vua?
    Mỹ-Linh mỉm cười:
    - Chị không phải là con của đức kim thượng. Chị là con gái thứ nhì của Khai-thiên vương. Đúng ra cứ tuổi mười lăm là gả chồng. Song chị ỷ được thúc phụ thương yêu, lần lữa xin phụ vương khoan cho mấy năm.
    Tạ Sơn mỉm cười:
    - Đức kim thượng có mười ba công chúa, đều gả chồng sớm. Công chúa Bình-dương đây là con trưởng Khai-thiên vương, nhưng vương mẫu qua đời sớm, công chúa không hợp với kế mẫu. Cách đây mấy năm Khai-thiên vương định gả công chúa cho con trai út của Đô-nguyên soái Đàm Can. Tên là Đàm An-Hoà. Nhưng công chúa không muốn lấy cậu công tử vô tài bất đức này. Khai-thiên vương nổi giận, vì vậy Khai-quốc vương mới nhận làm con nuôi, đem về Trường-yên nuôi dạy.
    Thanh-Mai cười:
    - Mỹ-Linh này, em chưa biết mặt Đàm An-Hòa. Y cũng chưa biết mặt em. Em thử gặp y một lần. Biết đâu y chẳng đẹp trai?
    - Đẹp mà làm gì? Thanh niên cần có đạo đức, tài năng. Chứ cái vỏ đẹp, không làm lên cái gì hết. Thôi anh hai, nói tiếp về Đàm Can cho Thanh-Mai nghe đi.
    Tạ Sơn tiếp:
    - Còn Đàm Can ư? Vào hồi nhà Lê ông ta giữ chức Hữu-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, chỉ thấp hơn hoàng đế bản triều một bậc tương đương với hiện nay là Thống-lĩnh Thiên-tử binh. Vì vậy khi các quan họp nhau tôn hoàng thượng lên làm vua, ông ta đóng vai chủ yếu. Võ công ông ta cao không biết đâu mà lường. Khi hoàng thượng lên làm vua, phong cho ông chức võ quan cao nhất là Đô Nguyên-soái, lĩnh chức Thái-úy phụ quốc, kiêm quản Khu-mật viện. Con gái là Đàm Thụy-Châu được tiến cung, phong Tây-cung quý phi. Năm trước đây Tây-cung quý phi sinh hoàng nam. Em trai quý phi là Đàm Toái-Trạng nhờ đó tuy không tài cán gì cũng được phong Tuyên-vũ sứ Thanh-hoá. Nội ngày mai, y sẽ xuất hiện đón công chúa.
    Thanh-Mai cau mày:
    - Anh hai này! Bố em nói rằng căn cước Đàm Can không rõ ràng! Dường như y là trưởng lão Hồng-thiết giáo thì phải?
    Tạ Sơn gật đầu:
    - Đúng thế. Nhưng y là khai quốc công thần, vì vậy hoàng thượng phải tri ân y. Gần đây hoàng thượng phong cho y chức cực cao, trao chức Phụ-quốc thái úy quản Khu-mật viện cho vương gia đây.
    Tự-Mai hỏi Mỹ-Linh:
    - Chị tư này, như vậy con trai Đàm Can đâu có hèn hạ, mà chị không chịu?
    Mỹ-Linh dơ tay khẽ đánh vào vai Tự-Mai:
    - Có hai điều chị không thuận, một là vương mẫu qua đời chưa đoạn tang. Hai là cái chết của vương mẫu có liên hệ tới anh em họ Đàm. Thôi để Nùng-Đạo trưởng tiếp.
    Nùng-Sơn tử tiếp:
    - Nhưng than ôi, trời không chiều Đại-Việt. Niên hiệu Thuận-thiên thứ ba (1012) hoàng đế cho lập cung Long-đức ngoài thành để thái tử Phật-Mã ở, hầu có dịp tiếp xúc với dân, sau này biết những gì lợi cho dân mà làm. Trong bốn vị thái tử, thì chủ nhân của tôi là người nhã lượng, cao trí, luôn luôn khuất thân cầu hiền tài. Vì vậy trong triều có nhiều người ghen tỵ. Họ tìm cách chia rẽ chủ nhân của tôi với Khai-thiên vương.
    Sư thái Tịnh-Huyền trầm ngâm một lúc, hỏi Lý Long:
    - Chí khí của các con lớn lắm. Khởi đầu do ai khởi xướng? Phụ hoàng con có biết hay không?
    Lý Long buồn rầu:
    - Lúc đầu do con khởi xướng, âm thầm khuất thân cầu hiền tài, trọng đãi bậc trung-lương, khuyến khích các thiếu-niên học tập. Sau thế lực trở thành lớn quá, phụ-hoàng cho triệu hồi về kinh hỏi tự sự.
    Tịnh-Huyền lắc đầu:
    - Như vậy là hỏng rồi. Tài, chí con có. Song con thiếu khôn khéo. Phàm tôi mà uy tín hơn vua thì có hai việc xẩy ra: Tôi lật vua, hoặc vua giết tôi. Mới đây Lê Hoàn lên ngôi vua, phong vương cho mười một con đẻ, một con nuôi, mỗi người trấn nhậm một nơi. Khi Lê Hoàn chết, các con là Ngân-Tích, Long-Kính đem binh đánh thái-tử Long-Việt. Cả hai bị Long-Việt giết. Long-Việt lên ngôi vua, nhưng chỉ ba ngày bị Long-Đĩnh giết chết. Cuộc nội lọan diễn ra trong tám tháng liền. Vì vậy phụ hoàng thấy con chiêu mộ anh hùng, sỉ dân, đương nhiên người phải nghi ngờ. Anh con cũng nghi ngờ là lẽ đương nhiên.
    Lý Long tiếp:
    - Con đang chuẩn bị hồi kinh, thì thình lình phụ hoàng cùng Phật-Mã đang đêm dẫn đạo Ngự-long tới Trường-yên.
    Thanh-Mai gật đầu:
    - Như vậy là phụ-hoàng cùng Khai-thiên vương không phải nghi anh, mà tin đích thực anh làm phản. Nên đương đêm mới đem quân tập kích. Nhưng em chắc không thành công.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Sao chị biết?
    - Chị đoán ra mà thôi. Này nhé, anh hùng thiên hạ đương thời tập trung về Trường-yên có đến chín phần mười. Họ tập trung về không phải vì ham miếng cơm manh áo như khi xưa hào kiệt theo Mạnh Thường Quân. Họ tập trung về như anh hùng thời Lĩnh-nam tụ về Mê-linh, mưu truyện vá trời. Tất nhiên họ giúp anh cả tổ chức võ bị cực kỳ chu đáo. Dù hoàng-thượng, dù Khai-thiên vương, đương đêm đem quân đến, họ phải ngăn cản, rồi mới thỉnh mệnh anh cả.
    Nùng-Sơn tử nói với vẻ kiêu ngạo:
    - Đúng thế. Khi đạo quân Ngự-long tiến đến địa phận Trường-yên, tướng tuần phòng là Ngô An-Ngữ, giữ chức Sùng-ban lang tướng cản lại. Đúng qui luật hành quân bản triều thì tướng chỉ huy đạo quân Ngự-long phải cho quân ngừng tiến, tiếp xúc với Ngô An-Ngữ. Không ngờ y cho lệnh giao chiến liền. Quân của Trường-yên là quân kiêu dũng, tuy chỉ có năm trăm người, mà đánh lui đạo Ngự-long. Hay ở chỗ không làm đổ một giọt máu nào. Tướng chỉ huy đạo Ngự-long bị Ngô An-Ngữ bắt sống.
    Tịnh-Huyền gật đầu:
    - An-Ngữ giỏi. Trước đây, khi chưa đi tu, bần ni đã theo huynh trưởng chinh chiến bao phen. Phàm khi đem quân qua địa phận trấn nhậm của đạo quân khác, người chỉ huy hành quân phải cho ngựa lưu-tinh báo trước để tranh ngộ nhận. Lỡ hai đạo quân tao ngộ bất thường, hai tướng phải cho quân lui mười lằn tên rồi gặp nhau. Như vậy tướng chỉ huy đạo Ngự-long có lỗi. Theo luật bản triều, phải tội chém đầu. Y là ai?
    Mỹ-Linh đáp:
    - Y tên Mai Hựu. Con y hiện là thứ thiếp của phụ vương. Võ công y khá cao. Y xuất thân phái Hoa-lư.
    Thanh-Mai rất quan tâm đến truyện này, nàng hỏi Nùng-Sơn tử:
    - Rồi sao?
    - Ngô An-Ngữ bắt sống Mai Hựu rồi hô quân hai bên ngừng chiến. Giữa lúc đó hoàng thượng phi ngựa tới. Người nhìn quân phong, quân thế của Trường-yên, đã hiểu nội vụ. Ngô An-Ngữ hô lớn : « Kẻ mặc giáp trụ không thể hành đại lễ. Kính mong hoàng thượng đại xá. Không biết đêm khuya thế này hoàng thượng ngự giá tới đây có việc gì? ». Hoàng-thượng hỏi: « Khai-quốc vương đâu? » Ngô An-Ngữ tâu : « Chúa công hạ thần hiện ở trong thành, vì không biết hoàng thượng giá lâm nên không ra đón ». Hoàng thượng định vào thành. Ngô An-Ngữ cản lại nói: « Luật của hoàng thượng định rằng dẫu là hoàng đế, là thái-hậu, khi qua vùng trấn nhậm của một tướng cũng phải chờ lệnh mới được cho vào. Chúa công hạ thần trị quân rất nghiêm. Hạ thần xin vào trình trước ». Sau đó Ngô An-Ngữ cho ngựa vào thành báo. Chủ nhân tại hạ mặc giáp trụ phát pháo, mở cửa thành đón hoàng thượng. Vào trong thành, hoàng thượng thở dài than : « Ta trọn đời ngồi trên mình ngựa mà không bằng con. Con tổ chức giáp binh như vậy, thì e rằng đến Bắc-bình vương Đào Kỳ, công chúa Thánh-Thiên thời Lĩnh-nam cũng không hơn. Người ta đồn con làm phản, sắp kéo quân về Thăng-long giết Phật-Mã cùng ta. Ta bất thần tổ chức kiềm chế con trước. Không ngờ đạo Ngự-long là đạo thiện chiến nhất của ta, mà không bằng một lữ của con ». Ngài tiếp : « Bây giờ ta mới biết con bị dèm pha. Nếu con định làm phản, thì ngay khi ta nhập thành, con có thể bắt ta rồi » .Thế rồi cha con, anh em hòa thuận.
    Mỹ-Linh tiếp:
    - Khi ông nội thấy trong đám hào kiệt Trường-yên có cả đạo trưởng Nùng-Sơn tử với sư phụ. Người kinh ngạc vô cùng. Vì trước đây người đã dùng đại lễ mời sư phụ với đạo-trưởng hạ sơn giúp triều đình, mà cả hai đều không nhận lời. Bây giờ cả hai đều ở Trường-yên. Sư phụ tâu rằng : « Bệ hạ dùng chiếu chỉ tuyên triệu bần tăng, giao cho chức tể-tướng thì bần tăng không giám. Còn vương gia đây mời bần tăng xuống giúp cho công cuộc đòi lại đất tổ thời Lĩnh-Nam, bần tăng vì cái chí của vương gia mà tới ».
    Tịnh-Huyền vuốt tóc Lý Long:
    - Hài nhi, ta biết anh ta cực kỳ linh mẫn. Dù hài nhi làm gì chăng nữa rồi người cũng tìm ra sự thực. Song ta sợ là sợ triều đình mà thôi. Anh con hiền thì có hiền. Phải một tội hay nghe lời tiểu nhân. Ta sợ một mai anh ta qui tiên rồi giữa con với anh con có sự tranh chấp.
    Bà ngừng lại tiếp:
    - Anh ta được tôn lên làm vua, tạm thời thế cho họ Lê. Anh hùng võ lâm định rằng ngày giỗ Bắc-bình vương năm nay, sẽ xét lại vấn đề này. Ta thấy phe ủng Lê gồm có phái Đông-a, Sài-sơn, Tản-viên. Còn phe ủng Lý có Tiêu-sơn, Tây-vu. Trung lập có Mê-linh. Lực lượng chống đối mạnh nhất là phái Đông-a. Anh ta thường nói: trong các con và em, ai có thể hoá giải được mũi dùi Đông-a, Tản-viên thì sẽ nhường ngôi cho. Phái Tản-viên đã có Nùng-Sơn tử giúp con. Phái Đông-a thì ta có thể thuyết phục Trần đại hiệp được. Ta chỉ sợ khi con được anh hùng ủng hộ, thì bị Phật-Mã chống đối, rồi chém giết nhau.
    Lý Long chắp tay:
    - Bạch cô mẫu, con nghĩ điều này khó xảy ra. Con muốn làm một Khất đại-phu thời Lĩnh-nam. Khi đại nghiệp thành rồi, ngao du sơn thủy, thì làm sao có sự tranh chấp được?
    Thanh-Mai hỏi:
    - Anh cả, sau khi biết mình lầm rồi, thì hoàng thượng có ban chỉ dụ gì cho anh không?
    - Người truyền đem Mai Hựu ra xử tử vì phạm quân luật, và trọng thưởng cho Ngô An-Ngữ. Anh phải hết sức can gián, y mới được tha. Người truyền cho anh tổng trấn từ Trường-yên vào đến biên giới Chiêm-thành. Nội trong một tháng phải về kinh giữ chức Phụ-quốc thái-úy, tổng đốc quân mã. Trước khi về kinh. Anh về lĩnh trọng trách được hơn năm rồi.
    Tịnh-Huyền hỏi:
    - Phụ hoàng và các cháu lập chí đòi lại cố thổ, triều thần có những ai biết?
    - Bọn hài nhi lập chí, rồi tâu với phụ hoàng. Triều thần rất ít người biết. Tuy nhiên nếu họ biết, thì mười người đến chín người không đồng ý.
    Tự-Mai gật đầu:
    - Lẽ đương nhiên như vậy. Nếu họ là võ quan cấp nhỏ, họ sẽ tán thành. Còn họ là quan văn, hoặc quan võ cấp lớn. Họ sẽ ngăn cản. Không chừng họ còn hại anh cả là khác nữa.
    Nùng-Sơn tử ngạc nhiên:
    - Này cháu bé. Năm nay dường như cháu mới mười bốn mười lăm tuổi thì phải. Nghe cháu kể truyện lịch sử, rất uyên bác, thì ta tin rằng cháu được phụ huynh giáo huấn đặc biệt mà có. Còn như cháu ứng khẩu kiến giải sự việc... ta có cảm tưởng cháu đã nghe ai nói, rồi nhắc lại chăng?
    Tự-Mai kính cẩn:
    - Thưa đạo trưởng, cháu là đệ tử phái Đông-a. Chắc đạo trưởng đã nghe võ đạo phái Đông-a trọng nhất tình huynh đệ, tình bằng hữu. Cháu đã kết anh em với anh cả. Không đời nào cháu dấu anh cả cháu điều gì... Về vụ anh cả lập chí, dường như chỉ có sư phụ, có đạo trưởng và có chị Mỹ-Linh biết. Hôm nay thêm chúng cháu. Thế thì người ngoài làm sao biết mà bàn luận, để rồi cháu nghe lỏm, nhắc lại?
    Nùng-Sơn tử thở phào một cái. Ông hỏi:
    - Sự việc đúng như cháu nói. Tại sao cháu biết rõ như người trong cuộc vậy?
    Tự-Mai thở dài:
    - Cứ lý mà suy. Kể từ khi hoàng-thượng lập ra triều Lý đến gìơ. Trong tổ chức nội trị, ngòai trấn man di. Giặc cướp tuy có, nhưng không phải dùng đến đại binh. Việc giáp binh tuy có. Song chỉ để giữ nhà, cùng đuổi trộm bắt cướp. Các tướng soái sở dĩ lên địa vị cao, nhờ khéo được lòng trên, hoặc thuộc hoàng thân quốc thích. Chứ những tướng thực sự do chiến công mà lên thì không có. Bây gìơ nếu xẩy ra chiến tranh. Họ lo sợ ,vì không đủ tài. Họ còn sợ những tướng cấp nhỏ lập công, rồi vượt họ. Cho nên họ chống.
    Tự-Mai nói đến đâu, Lý Long gật đầu đến đó. Tự-Mai tiếp:
    - Còn quan văn. Họ chống thì đương nhiên rồi. Họ nhờ khoa cử, rồi do ngọn bút, leo lên địa vị lớn. Bây giờ vạn nhất xẩy ra chiến tranh. Quyền sẽ vào tay quan võ. Họ phải chống chiến tranh, tức chống cái chí của anh cả. Họ chống đối để tự tồn, chứ không phải họ muốn hại anh.
    Sư thái Tịnh-Huyền hỏi:
    - Hiện ai là tể tướng? Ý của tể tướng thế nào?
    Lý Long đáp:
    - Thưa, Lý Đạo-Nghĩa. Thần nhi chưa dò ý tể tướng. Nghĩa tuổi đã lớn, do văn xuất thân. Tính cần cù mẫn cán. Chỉ có thể giữ vững được những gì đã có. Chứ chí lớn thì không. Vả lại phụ hoàng còn trẻ, mọi quyết định do phụ hoàng cả.
    Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
    - Ngày hai mươi mốt này, các gia, các phái võ sẽ tề tựu ở núi Sơn-trang, tế lăng Lệ-hải Bà-vương. Bần ni không xuất hiện đâu. Hài nhi cứ tự tiện. Phải cẩn thận lắm mới được. Bọn Tống ắt sẽ trà trộn vào dò la. Tốt hơn hết hài nhi làm ra vẻ nhã lượng cao trí, thu dụng nhân tâm. Chớ có lộ cái chí của mình ra mà mang họa.
    Đến đó bà nhắm mắt nhập thiền. Lý Long vẫy mọi người lùi dần đến phía bờ sông. Tự-Mai hỏi:
    __ Này anh cả. Chí của anh thì lớn thực. Song em không hiểu anh cả đã làm được những gì. Ở đây toàn người tâm phúc của anh. Anh có thể cho biết được không?
    Lý Long đáp:
    - Trước kia học sử Đại Việt, anh chỉ biết ấm ức trong lòng. Sau này gặp sư phụ. Anh ngỏ ý ấy với người. Chính người khuyến khích anh biến từ tư tưởng thành hành động. Rồi anh được gặp đạo trưởng đây. Phụ hoàng vừa mừng, vừa ngạc nhiên không ít. Anh có ý định đến Thiên-trường yết kiến chưởng môn phái Đông-a là phụ thân hiền đệ. Nhưng phải đợi sau khi tế Lệ-hải Bà-vương đã. Nhưng phái Đông-a vốn chống triều đình, dễ gì thân phụ hiền đệ tiếp anh.
    Tự-Mai chỉ chị:
    - Tiếp Khai-quốc vương thì không chắc người tiếp. Còn tiếp cái chí của anh thì người cầu mà không được. Cái chìa khóa là chị Thanh. Trong Thiên-trường ngũ kiệt, thì chú Trần Kiệt là cái túi khôn, chú nói gì bố em cũng nghe. Mà chú là sư phụ của chị Thanh. Chú yêu chị Thanh lắm. Bọn em được đi thế này là nhờ chú xin cho đấy.
    Huệ-Sinh hỏi Thanh-Mai:
    - Cô nương với Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là chỗ thế nào?
    - Bạch thầy người là thân phụ của con.
    Huệ-Sinh gật đầu:
    - Khi mới gặp cô nương. Bần tăng thấy dáng dấp hơi quen. Thì ra cô nương là con của người bạn cố tri năm xưa. Thế nào nghĩa đệ của ta vẫn khỏe chứ?
    - Đa tạ sư bá, thân phụ cháu vẫn mạnh, người nhắc đến sư bá luôn. Thì ra sư bá là bạn của bố cháu đấy.
    Nàng chắp tay lại hành lễ.
    Nàng nói với Lý Long:
    - Anh cả ạ. Phái Tiêu-sơn thì đã có thầy ở đây lo cho rồi. Phái Mê- linh, thì sư phụ em nói một tiếng thì xong. Phái Tản-viên, đã có Nùng đạo trưởng. Phái Đông-a, em tin rằng bố em sẽ giúp anh. Chỉ còn phái Sài-sơn với phái Tây-vu nữa là xong. Khi sáu đại môn phái cùng hết sức giúp anh thì lo gì đại sự không thành?
    Huệ-Sinh mỉm cười:
    - Không giản dị như cháu tưởng đâu. Đại-Việt ngũ long mà còn chưa ngồi lại với nhau được, thì nói chi đến võ-lâm.
    Tôn Đản ngơ ngác:
    - Đại-việt ngũ long là gì vậy, thưa đạo trưởng?
    - Họ là năm đại tôn sư võ học, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Đó là Hồng-sơn lão nhân Lê Huy chưởng môn phái Sài-sơn.
    Tôn Đản ngắt lời:
    - Dường như ông còn có hiệu là Nam-thiên thánh-y thì phải. Cháu nghe năm trước đây vua Tống Thái-tông sai sứ sang mời ông chữa bệnh cho một phi tần mà vua rất sủng ái. Không những ông không chịu đi, mà còn muốn giết sứ giả. Ông chữa bệnh với ba điều kiện, một là không chữa cho người họ Lý. Hai là không chữa cho người Hán. Ba là chỉ chữa những bệnh mà trên thế gian này không ai chữa được.
    Lý Long gật đầu:
    - Đúng thế. Đó là một khó khăn, ông ta thù hận với họ Lý nhà anh, thì làm sao ông chịu hợp tác với chúng ta trong việc trọng đại này? Ông lập ra Vạn-thảo sơn-trang, thu dụng hơn ba nghìn đệ tử, gửi đệ tử đi khắp nơi cứu dân độ thế. Vì vậy ơn nghĩa trải khắp Việt, Hoa.
    Nùng-Sơn tử tiếp:
    - Người thứ nhì là Tây-sơn đại hiệp Đặng Đại-Khê. Ông giỏi võ đã đành, ông còn tinh thông tướng số, phong thủy. Ông làm chưởng môn phái Tản-viên người nhiều thế mạnh. Ông không phục bản triều vì lý do đức hòang đế xuất thân từ cửa Thiền, mà ông thì ông không có đạo nào cả. Ông chủ trương một tôn giáo thờ anh hùng đất Việt mà thôi.
    Nùng-Sơn tử nhìn Thanh-Mai:
    - Trong năm người, thì người thứ ba quan trọng nhất. Võ công cao là điều đương nhiên. Ông là người bác-học, đa-năng, thiên-văn, địa-lý, binh-pháp, không môn nào mà không thông. Đệ tử của ông rất nhiều, tòan những tay quái kiệt đương thời. Tiếng tăm vang dậy, đến vua Tống còn phải ra lệnh cho Khu-mật-viện bằng mọi giá phải chiêu mộ cho được. Vua Tống gửi sứ giả sang mời ông giữ chức Phiêu-kỵ đại tướng quân là chức võ quan cao nhất, giao cho ông lĩnh ấn Chinh-tây đại nguyên súy đánh Tây-hạ. Ông từ chối. Đức hòang đế bản triều sai sứ giả mời ra giữ chức Thái-úy phụ quốc, quản Khu mật viện ông cũng từ chối. Người đó là Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An.
    Thanh-Mai thở dài:
    - Bố cháu thề không cộng tác với triều đình, chứ không thù hận nhà Lý.
    Nùng-Sơn tử:
    - Ta cho rằng bố cháu cao ngạo thì đúng hơn. Ra làm quan để làm gì? Để có vàng bạc ư? Bố cháu giầu có ức vạn đâu cần đến. Để có danh ư? Danh bố cháu lẫy lừng hơn cả hoàng đế. Cũng như ta với đại-sư Huệ-Sinh vậy. Triều đình mời ra thì chối. Song vương gia đây đem cái chí, kéo cao ngọn cờ Lĩnh-nam thì chúng ta ra.
    Tôn Đản cười:
    - Cháu nghĩ mời Côi-sơn đại hiệp không khó!
    Lý Long ngạc nhiên:
    - Em cho biết lý do!
    - Chỉ cần anh cả lấy lễ đến cầu người ra giúp cho cái chí của anh, em nghĩ người ra liền.
    Tự-Mai vỗ vai Tôn Đản:
    - Giỏi. Anh Đản giỏi. Anh hiểu được bố em.
    Tôn Đản cười:
    - Cứ lý mà suy, đâu có gì khó hiểu đâu? Người đời thường vẽ rắn thêm chân, tìm cái xương trong quả trứng gà, rồi cho rằng đại hiệp Tự-An khó. Anh thấy ông dễ là khác. Ông không dễ, đời nào cho con trai, con gái đi ra ngoài loạn lên thế này. Dù đi với bản sư.
    Nó hỏi Nùng-Sơn tử:
    - Thưa đạo trưởng còn hai người nữa?
    - Hai người này, trái lại, nhất tâm nhất trí với triều đình. Một người là chưởng môn phái Tiêu-sơn, là sư huynh của đức hòang đế, tức Minh-Không quốc sư.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 11:38:36 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 24.12.2004 16:17:45 (permalink)
      Hồi thứ tám


      Khải Thiên Vương Phi




      Vi Bản cẩn thận hỏi lại:
      - Xin Triệu đại nhân nhìn kỹ xem có đúng không? Bởi tăng ni tiểu quốc từ khi Thuận-thiên hoàng đế lên ngôi đến giờ đều đạo đức. Không thể có người làm đạo tặc.
      Triệu Huy quả quyết:
      - Đúng hoàn toàn. Ta biết rõ tên của từng đứa một. Mụ ni cô kia có tên Tịnh-Huyền. Đứa con gái kia tên Trần Thanh-Mai. Tên hòa thượng gầy kia tên Lâm Khu pháp danh Huệ-sinh. Lão đạo sĩ kia tên Nùng-Sơn-tử.
      Vi Bản hướng vào Thanh-Mai:
      - Cô gái kia, Triệu đại nhân nói có đúng không?
      Thanh-Mai mỉm cười hỏi Triệu Huy:
      - Triệu tiền bối. Tung-sơn tam-kiệt đến Đại-việt ăn trộm, bị bắt qủa tang, rồi bây giờ lại vu hãm cho người ư?
      Nàng nói với Vi Bản:
      - Vi tướng quân. Không rõ vị tiền bối Triệu Huy này thân thế ra sao, mà lại có quyền ra lệnh cho tướng quân bắt chúng tôi.
      Vi Bản đáp:
      - Sáng nay ngài Tuyên-vũ-sứ Cửu-chân lộ, Đàm đại tướng quân nhận được lệnh của ngài chánh sứ Thiên-triều rằng liên tiếp hai ngày đòan tùy tùng của ngài bị bọn gian phi, trong đó có Tôn Trung-Luận ăn cướp bảo vật. Đàm đại tướng quân lệnh cho bản nhân đem quân vây đền thờ Tương-Liệt đại vương khám xét. Quả bắt được vàng bạc, tín vật cuả thiên sứ. Vì vậy bổn nhân bắt y về xét hỏi... Còn các người cũng là đồng bọn. Tội không nhỏ.
      Y vẫy tay một cái. Đoàn quân vây mọi người vào giữa, rồi nói:
      - Hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, đều là người dân Đại-việt. Phải tuân theo phép nước. Hãy theo bản nhân về trình diện Đàm tướng quân để ngài xét xử.
      Mỹ-Linh vẫy tay gọi Vi Bản:
      - Vi tướng quân. Ngườihãy lại đây nghe ta dạy.
      Mỹ-Linh dù giả trang làm thường dân song cũng vẫn không mất vẻ quyền quí. Dáng người Mỹ-Linh thanh nhã, tiếng nói trong trẻo mà uy nghiêm, khiến Vi Bản cảm thấy mất hết vẻ hách dịch của viên tướng. Y hỏi lại:
      - Cô nương nói sao? Cô có biết ta là ai không mà dám nói lời trịch thượng như vậy?
      Mỹ-Linh nhắc lại:
      - Ta biết người là Vi Bản. Người ở dưới quyền của Tuyên-vũ sứ lộ Cửu-chân tên Đàm Toái- Trạng. Người không muốn ra mắt ta thì thôi. Vậy người về gọi Đàm Toái-Trạng đến đây nghe ta dạy bảo.
      Triệu Huy cười:
      - Vi tướng quân có thấy không. Con nha hoàn này đứmg trước một vị tướng quân với đoàn giáp sĩ, mà nó còn dám phách lối như vậy. Thử hỏi với người khác, y thị sẽ hống hách tới đâu?
      Y chưa dứt câu, thì chỉ thấy thấp thoáng một cái. Tiếp theo hai tiếng bốp, bốp. Y bị hai cái tát, ngã lăn xuống ngựa. Mọi người nhìn lại, thì ra Tạ Sơn xuất thủ. Tạ Sơn mắng:
      - Cho bọn chó Ngô quen miệng hống hách bài học. Mi tưởng đất Đại- Việt ta không người sao? Mi mau đến quì lạy chủ nhân ta. Bằng không ta lấy tính mệnh mi ngay tức khắc.
      Kể ra bản lãnh Triệu Huy cũng không đến nỗi chỉ một chiêu đã lạc bại. Song trong khi nói, lòng tràn đầy đắc ý, không đề phòng. Tạ Sơn lại ra tay quá thần tốc. Y mới bị trúng đòn, lộn cổ xuống chân ngựa. Miệng ứa máu.
      Vi Bản kinh ngạc đến đờ người ra. Vì trong khi vây bắt Tôn Trung-Luận. Y bị ông phản đối không cho khám đền, rồi đi đến động thủ. Y đấu với Trung-Luận ba mươi chiêu thì lạc bại. Triệu Huy phải nhảy vào tiếp viện. Y chỉ đánh có mười chưởng, Trung-Luận bị ngã liền. Thế mà nay thanh niên trẻ tuổi này xử dụng võ công, chiêu số gì, hoàn toàn y không biết, mà chỉ một chiêu, Triệu Huy bị khống chế. Vi Bản hỏi:
      - Vị huynh đệ này là ai? Tại sao dám đánh, rồi nhục mạ tùy tòng của Thiên-sứ?
      Tạ Sơn đáp:
      - Vi tướng quân về mời Đàm đại tướng quân đến đây ra mắt chủ nhân ta.
      Vi Bản thấy dường như trong vụ này còn có nhiều điều bí ẩn. Cứ như con mắt của y, thì Tịnh-Huyền, Lâm Khu, Nùng-Sơn không thể là đạo tặc. Ngược lại Triệu Huy lại sợ hãi bọn người mà y bảo là trộm cướp. Trước mặt y ngoài những vị tu hành ra, còn Tạ Sơn, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Thế mà Tạ Sơn còn kêu vị hòa thượng bằng sư phụ. Thì địa vị hòa thượng không nhỏ. Còn hai cô gái sắc nước hương trời. Một cô có lời lẽ uy nghiêm, dám gọi tên tục của chủ tướng y ra đã là một điều ghê gớm. Cô còn bảo gọi chủ tướng đến ra mắt . Vậy thì địa vị cô phải cao lắm. Không chừng là tiểu thư con quan tại triều. Họăc quận chúa cũng nên. Tuy vậy y cũng cẩn thận dặn Ta ïSơn:
      - Tiểu huynh đệ. Tôi coi huynh đệ cũng còn trẻ. Võ công huynh đệ cao thâm bỏ xa tôi. Song tôi tuân lệnh Tuyên-vũ sứ, tức thi hành luật pháp của đức hoàng đế. Huynh đệ là con dân Đại-Việt ăn cơm, mặc áo của đất Việt, phải tuân phép nước.
      Tạ Sơn gật đầu:
      - Nếu không tuân phép nước, thì tôi e đến mười lần quân sĩ này cũng không chống nổi vị đạo trưởng kia chứ đừng nói thêm sư phụ tôi. Lại còn sư thái kia nữa.
      Vi Bản chỉ Triệu Huy:
      - Triệu đại nhân đây là tùy tùng của ngài khâm sứ đại nhân Thiên-triều, sang nước ta kinh lược. Huynh đệ không nên vô lễ với người.
      Tạ Sơn cười:
      - Y là quân trộm cướp, bị bắt quả tang. Không hiểu bằng cách nào y lại nói đen làm trắng. Y bảo ai trộm cướp thì được. Chứ bảo vị sư thái với chủ nhân của tôi là trộm cướp, thì y là tùy tòng Thiên-sứ. Chứ y là Thiên-sứ cũng bị chặt đầu.
      - Thế chủ nhân của huynh đệ thân thế ra sao?
      Tạ Sơn chưa kịp nói. Mỹ-Linh đã gạt:
      - Không cần biết thân thế ta ra sao. Chỉ một điều y là quân trộm cướp, mà lại tố ngược chúng ta là trộm cướp cũng đủ trừng phạt rồi.
      Thuận-Lãm từ trên xe ngựa, bước xuống cạnh Tôn Trung-Luận, hỏi truyện:
      - Bác Luận. Việc gì đã đẩy ra?
      Trung Luận đáp:
      —Từ lúc cháu theo sư thái đi rồi. Ta đem Quách Quỳ giải lên quan. Trong khi quan đang hỏi cung thì sứ giả của Tuyên-vũ sứ tới cùng với ba người. Trong đó có vị Triệu đại nhân. Sứ giả nói rằng hôm qua có ba vị đại nhân, cùng một công tử trên đường vân du Cửu-chân, ngủ trọ tại đền thờ Tương-Liệt đại vương, bị một bọn cướp lấy hết vàng bạc, cùng bắt cóc Quách công tử. Ba vị đại nhân đến dinh Tuyên-vũ sứ truyền truy nã bọn cướp. Thế là bác bị sứ giả sai đóng gông, dẫn trở về đền lục soát. Họ lục soát thì được, song họ còn đòi chẻ tượng Đức-ông ra. Ta không cho. Cuối cùng ta với Vi tướng quân động thủ... Rồi Triệu Huy can thiệp. Ta bị bắt.
      Dù Trung-Luận không nói hết. Mọi người cũng hiểu rằng Vi Bản bị Trung-Luận đánh bại. Sau Triệu Huy nhập cuộc, Trung-Luận yếu thế nên bị bắt.
      Trung-Luận tiếp:
      - Đền thờ bị lục lọi không thiếu chỗ nào. Cuối cùng họ chỉ vào cái trống đồng trên bàn thờ bảo rằng đó là bảo vật của họ. Bao nhiêu nữ trang của vợ ta, họ bảo của họ hết.
      Sư thái Tịnh-Huyền bảo Mỹ-Linh:
      - Con nhớ nhé. Trên toàn đất Đại-Việt này, kể cả hoàng đế cũng không được phạm đến đền thờ các vị anh hùng thời Lĩnh-nam. Ai phạm đến đều phải trị tội thực nặng.
      Mỹ-Linh kính cẩn:
      - Hài nhi tuân chỉ dụ của thái cô.
      Vi Bản nghe đến chữ chỉ dụ y phát hoảng. Bởi chử chỉ dụ dành cho lời nói của hòang đế, hoàng hậu, thái tử, công chúa mà thôi. Bất giác y liếc mắt nhìn Mỹ-Linh rồi nói:
      - Bất cứ các vị là ai. Phải về trình diện Tuyên-vũ sứ đã.
      Y vẫy tay. Đoàn giáp sĩ siết chặt vòng vây lại. Tịnh-Huyền bảo Mỹ-Linh:
      - Linh nhi. Dầu sao chúng ta cũng không nên dụng võ với giáp sĩ Đại-Việt. Nào, chúng ta hãy về gặp Tuyên-vũ sứ.
      Bà ra lệnh cho xe ngựa đi theo đoàn giáp sĩ. Bà hỏi Mỹ-Linh:
      - Tuyên-vũ sứ là người xuất thân thế nào?
      Mỹ-Linh đáp:
      - Y là em ruột của Đàm quí phi. Năm nay tuổi khoảng hai mươi ba. Y xuất thân trong gia đình trung lương, văn võ toàn tài. Lúc đầu lĩnh chức võ quan trong đội túc vệ. Sau đổi ra cầm quân. Năm trứơc đây qúi phi sinh con trai. Phụ vương gia phong chức tước cho cả giòng họ qúi phi. Y chính là Đàm Toái-Trạng con trai Đàm Can mới được thăng lên chức Tuyên-vũ sứ lộ Cửu-chân, Trấn-tây đại tướng quân.
      Vi Bản nghe đến chữ phụ vương . Trong lòng y phát run. Y than thầm:
      - Thôi, chắc đây là công chúa rồi. Y đưa mắt nhìn sư thái Tịnh-Huyền trong lòng nghĩ rất nhanh:
      - Ta nghe nói đức kim thượng sai Khai-quốc vương Bồ cùng công chúa Bình-dương đến trấn Thanh-hóa tế Lệ-hải Bà-vương. Vị cô nương này chắc là công chúa Lý Mỹ-Linh đây. Ta tuân lệnh Tuyên-vũ sứ tháp tùng Triệu Huy khám xét đền thờ Tương-Liệt đại vương. Không ngờ Triệu Huy làm bậy, phá phách đền thờ. Đừng nói đức Kim-Thựơng truy tội ta, mà chỉ nguyên anh hùng võ lâm tính tội, ta cũng không còn đất sống. Ta phải làm sao bây giờ? Ta có nên hỏi lại thiếu nữ này thực sự là công chúa Bình-dương không?
      Y định lên tiếng hỏi, thì một thiếu niên mặt phì nộn, da sần xùi, trong y phục võ quan phi ngựa ngược lại. Vi Bản nhận ra người đó là quốc cữu Đàm An-Hòa, em trai của Tuyên-vũ sứ Đàm Toái-Trạng cũng là em trai qúi phi Đàm Thụy-Châu. Y nghĩ thầm:
      - Ta lờ đi như không biết những người này, để đổ lỗi lên đầu họ Đàm. Dù sao y cũng có chị làm quí phi che chở.
      Y phi ngựa lên trước đón đường:
      - Quốc cữu. Tiểu nhân Vi Bản xin ra mắt quốc cữu.
      Tạ Sơn dùng lăng không truyền ngữ nói với mọi người:
      - Tên này là Đàm An-Hòa, định hỏi công chúa Bình-dương đây. Cũng may y không biết mặt công chúa cùng chúng ta.
      Đàm An-Hòa hất hàm hỏi:
      - Đám trộm cướp đây phải không? Tại sao không đóng gông?
      Vi Bản định lên tiếng phân trần. Đàm An-Hòa hô lớn:
      - Quân bay đâu. Trói bọn trộm cướp này lại.
      Tạ Sơn rút kiếm đứng bên Mỹ-Linh:
      - Các người không được vô phép. Bắt trộm phải có chứng cớ. Các người động vào chủ nhân của ta, thì cả ba họ sẽ bị phanh thây.
      Huệ-Sinh ra hiệu cho Tạ Sơn:
      - Không được dụng võ với quan, quân. Chuyện đâu còn đó.
      Quân sĩ tiến đến trói tất cả mọi người lại. Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười:
      - Khi nghiệp quả đã diễn ra. Ta cần trấn tĩnh đón nhận. Nếu ta chống trả, không biết bao giờ mới hết.
      Bà đưa tay cho quan binh trói lại. Đàm An-Hòa nhìn Thanh-Mai, Mỹ-Linh mỉm cười:
      - Trời ơi! Tại sao lại có người đẹp đến thế này?
      Gã đưa tay bẹo má Mỹ-Linh. Mỹ-Linh co chân định đá y. Thì sư thái Tịnh-Huyền lắc đầu:
      - Không được dùng võ.
      Bà bảo Đàm An-Hòa:
      - Tiểu tướng quân. Dường như tiểu tướng quân là quốc cữu thì phải. Quốc cữu không được phép đụng đến con gái lương gia.
      Lời nói uy nghiêm của bà khiến khuôn mặt khả ố tắt ngay nụ cười. Gã nhìn qua mọi người rồi ruổi ngựa dẫn đầu.
      Đoàn quân lên đường, đi được quãng nữa thì gặp một đoàn người ngựa, cờ xí rợp trời đang tiến ngược chiều. Dẫn đầu, một lá cờ lớn bay phất phới, có hàng chữ Cửu-chân Tuyên-vũ sứ . Một lá khác đề Bình-Tây đại tướng quân Đàm .
      Tạ Sơn nói với Huệ-Sinh:
      - Sư phụ. Người đi đầu là Đàm Toái-Trạng. Năm trước đây y ở dưới trướng của đệ tử. Cuối năm ngoái được thăng lên chức Tuyên-vũ sứ lộ Cửu-chân. Nếu y thấy đệ tử, hẳn mọi truyện hết rắc rối.
      Đàm An-Hòa phi ngựa lên trước đón đừơng, nói vói Đàm Toái-Trạng mấy câu. Hai bên truyện trò một lát. Đàm Toái-Trạng thủy chung không nhìn tới đám người bị bắt. Y nói nhỏ vào tai Đàm An-Hòa. Đàm An-Hòa trở lại truyền lệnh:
      - Vi tướng quân. Tuyên-vũ sứ truyền tướng quân giam bọn này vào ngục. Hôm nay sứ gia phải đến núi Sơn-trang chuẩn bị đón Khai-quốc vương, công chúa, thay mặt đức vua cùng hoàng hậu, tế Bà-Vương.
      Gã quay lại nói với Triệu Huy:
      - Triệu đại nhân. Huynh trưởng tôi kính thỉnh đại nhân cùng lên đường dự lễ cho vui. Mong đại nhân không từ chối.
      Gã cùng Triệu Huy đi rồi. Vi Bản nói:
      - Nào, chúng ta về thành.
      Vào thành, Vi Bản gọi quan giữ ngục tới. Y nói:
      - Đây là một số tội nhân, đại tướng quân truyền giam lại. Chờ ngài về lấy cung. Người tên gì. Hãy báo danh đi.
      Gã giữ ngục, có khuôn mặt tròn trĩnh như trái dưa. Mắt lồi ra ngoài như mắt cá quả. Gã cung kính nói:
      - Tiểu nhân họ Vương tên Dương.
      Gã vẫy tay một cái, đám cai ngục ào ra dẫn mọi người vào ngục, đẩy ngồi xuống trước cái bàn Vương Dương. Vương Dương đập bàn một cái:
      - Bọn bay nghe ta hỏi. Đứa nào nói láo, ta sẽ đập vào xác.
      Gã chỉ Tạ Sơn:
      - Người khai họ tên đi.
      - Tôi họ Tạ tên Sơn, hai mươi ba tuổi.
      - Tại sao lại đi ăn cướp?
      Tạ Sơn cười nhạt:
      - Này Vương chủ ngục. Người chỉ có bổn phận giữ bọn ta. Chứ không có quyền hỏi cung. Ta khai tên họ là đủ. Người không có quyền hỏi gì khác.
      Gã họ Vương đưa mắt cho tên cai ngục. Tên này co chân đá Tạ Sơn một cái. Chỉ nghe đến vù một tiếng. Gã bị bay bổng ra sân, rơi xuống đất, nằm ngửa như con chó phơi nắng. Vương Dương kinh hoàng hỏi:
      - Cái gì vậy?
      Gã cai ngục lồm cồm bò dậy, mặt nhăn nhó:
      - Không hiểu nữa.
      Vương Dương trở vào. Hắn vung tay tát Tạ Sơn một cái. Tạ Sơn không tránh, cũng không đỡ. Chàng vận công chịu đòn. Bốp một tiếng. Gã kêu lên:
      - Úi chà.
      Tay hắn sưng đỏ. Mặt nhăn nhó, hắn nhìn Tạ Sơn để tìm hiểu. Tạ Sơn không kiềm chế được nữa. Chàng quát lên một tiếng chuyển động chân tay mấy cái dây trói đứt hết. Nhanh tay, chàng túm tóc gã cai ngục liệng xuống đất. Tay kia chụp Vương Dương ném đè lên trên. Chàng quát:
      - Ta vì tuân phép nước đến đây để quan điều tra. Dù biết mình không tội. Các người ỷ làm lại giữ ngục, đánh đập ta ư?
      Bọn cai ngục hơn mười đứa ào vào. Tạ Sơn chụp từng đứa một liệng xuống đất. Lạ thay chàng chỉ liệng nhẹ nhàng, mà không đứa nào ngồi dậy được.
      Chàng dậm châm lên lưng chúa ngục, và một tên cai ngục:
      - Nếu ta đạp mạnh một cái. Hai đứa chúng bay dập ngực chết ngay. Chúng bay có biết không???
      Vương Dương rên rỉ:
      - Trăm lạy đại vương, nghìn lạy đại vương. Xin đại vương sinh phúc tha cho tiểu nhân. Tiểu nhân có năm vợ, mười tám đứa con. Nếu đại vương tha cho tiểu nhân. Tiểu nhân xin tuân lệnh đại vương. Hàng ngày tiểu nhân dâng cơm gà cá gỏi đại vương xơi. Xin đại vương đừng bỏ đi. Tuyên-vũ sứ sẽ giết tiểu nhân.
      Tạ Sơn nói:
      - Người mau đem nước trà lên dâng cho các vị tu hành, cùng chủ nhân ta. Cơm nước, phải dâng cơm chay. Bằng không ta giết cả nhà mi.
      Nói xong chàng vận thiền công phóng vào cái bàn đánh vù một cái. Chiếc bàn bị chặt đứt một góc. Vương Dương kinh hòang, dẫn mọi người vào ngục. Y không giám đóng gông, cũng không giám cùm.
      Huệ-Sinh lắc đầu:
      - Sơn con. Con làm như vậy thì sao giải nghiệp của chúng ta được?
      Tạ Sơn chắp tay:
      - Sư phụ. Đệ tử chưa đủ ngộ tính để tự chế. Mong sư phụ tha tội.
      Nói rồi chàng cởi trói cho mọi người, tháo gông cho Tôn Trung-Luận. Nùng-Sơn tử nói:
      - Chúng ta chịu khó ở trong ngục này mấy gìơ. Giỏi lắm chiều nay tế Bà-vương xong, thế nào Đàm Toái-Trạng cũng gặp vương gia. Bấy gìơ y phải xử lý vụ bọn Tống sang Đại Việt ăn cắp di thư. Tôi chỉ xin một điều, là mong công chúa đại xá cho bọn quan, quân, vì họ không biết.
      Lý Mỹ-Linh nói:
      - Tha thì dĩ nhiên muội tha cho họ. Song không thể tha tội cho tên Đàm An-Hòa được. Muội phải trừng trị y ngay. Bằng không y còn dở thói man rợ với phụ nữ lương gia.
      Nàng nói với Tạ Sơn:
      - Xin nhị-ca thử thám thính xem bọn chúa ngục có thực tình hay chăng? Không chừng chúng dở trò ma, trò qủi gì cũng nên.
      Lê Thuận-Tông cười:
      - Chị Mỹ Linh này. Chị đã ở lầu son gác tía, ăn không biết bao nhiêu miếng ngon vật lạ. Bây giờ nhờ bọn Triệu Anh, chị mới biết nhà ngục như thế nào. Chị phải cảm ơn bọn hắn mới đúng.
      Nó hỏi:
      - Này anh hai. Tại sao chị tư gọi anh là Điện -súy?
      Tạ Sơn đáp:
      - Vì anh lĩnh chức Điện -tiền chỉ huy sứ của triều đình.
      - Điện-tiền chỉ huy sứ là chức gì? Lớn không?
      Mỹ-Linh đáp thay:
      - Không lớn bằng Thượng-thư, Tam-công, Tể- tướng. Nhưng là chức vụ tín cẩn. Anh hai chỉ huy hết tất cả vệ sĩ cùng ngự lâm quân, bảo vệ an ninh hoàng cung. Như khi phụ hoàng cần bắt một chức quan triều đình phạm tội, thì sai anh hai.
      Thuận-Tông nghĩ một lát rồi nói:
      - Bây giờ anh hai xuất hiện, nói rằng có chiếu chỉ hoàng đế truyền bắt bọn Triệu Anh. Như vậy có giản dị không.
      Thanh-Mai tát yêu Thuận-Tông:
      - Không được. Nếu anh hai lạm xưng giả chiếu chỉ, sẽ bị tội chặt đầu. Không cần đức kim thượng, chỉ cần anh cả hay cô tư cũng có quyền ra lệnh bắt giam chúng. Song giang sơn nào anh hùng đó. Anh hai chỉ có quyền điều động vệ sĩ, cùng Ngự-lâm-quân. Còn đây thuộc thẩm quyền của trấn Thanh-hóa, lộ Cửu-chân. Chỉ có Tuyên-vũ sứ đủ thẩm quyền sai phái binh lính mà thôi.
      Hà Thiện-Lãm hỏi Mỹ-Linh:
      - Em hỏi một câu, chị có hứa nói thực với em không?
      Mỹ-Linh vuốt tóc Lãm:
      - Chúng ta không cùng cha mẹ. Cũng không cùng làng, cùng xóm, chẳng cùng thầy. Giữa đường gặp gỡ, kết làm anh chị em. Chúng ta có tin nhau, mới kết nghĩa. Tại sao em hỏi câu đó? Em nghi ngờ à?
      Thiện-Lãm lắc đầu:
      - Không hẳn thế. Em hơi thắc mắc mà thôi. Chúng em là những đứa trẻ nhà quê, không tài, chẳng đức. Được sư bà cho đi cùng, chúng em không thắc mắc tý nào. Vì trứơc mặt các vi tăng ni đắc đạo, thì không còn vua chúa, quyền qúi nữa. Chỉ có tâm bồ đề thôi. Như vậy còn có lý. Chứ chị là công chúa, cành vàng lá ngọc, thay mặt đức vua tế Lệ-hải Bà-vương. Giữa đường gặp bọn em, mà hạ thể kết chị em. Vì vậy em thắc mắc.
      Huệ-Sinh hỏi Lãm:
      - Tiểu thí chủ mới gần sư thái có mấy ngày mà đã đến ngưỡng cửa Bồ-đề rồi. Lời nói của thí chủ vừa qua, chứng tỏ thí chủ nghe ít mà giác ngộ nhiều. Để bần tăng trả lời thay cho công chúa Bình-dương.
      Thiện-Lãm đang nằm, ngồi nhổm dậy:
      - Thưa thầy. Thầy dậy sao? Chị Mỹ-Linh còn có tên là Bình-dương nữa sao?
      - Đúng. Lý là họ. Khuê danh Mỹ-Linh. Lý Mỹ-Linh chỉ là một cộ gái thôi, chứ không có công chúa Mỹ-Linh. Lý Mỹ-Linh được phong làm Bình-dương công chúa. Như sư phụ của thí chủ tục danh là Phạm Văn-Viết. Đi tu đạo hiệu là Nùng-Sơn tử. Vì vậy chỉ có đạo sư Nùng-Sơn tử chứ không có đạo sư Phạm Văn-Viết... À còn việc kết anh em, như thế này. Nguyên trong phái Tiêu- sơn, đến đời thứ mười nảy sinh ra bốn vị tổ, từ đạo hạnh cho đến võ công đều siêu việt. Đó là các vị La Qúy-An, Pháp-Thuận, Vô-Ngại và Ma-Ha-Kỳ-Vực. Bốn vị đều thông kinh Tượng-đầu, và Tổng-trì. Các ngài thường xuất hồn đi cứu độ chúng sinh. Phàm khi luyện Thiền-công để xuất hồn, phải qua giai đọan thần thức phiêu tưởng. Tức nửa tỉnh, nửa mơ.
      Lê Thuận-Tông gật đầu.
      - Bạch thầy, tuy con chỉ mới quy y tam bảo. Chưa từng ngồi thiền. Mà đôi khi cũng ở trong hoàn cảnh đó. Hồn bay đi khắp nơi, thấy nào cảnh, nào người như ngòai đời. Như vậy có phải con có hạnh Bồ-đề không?
      - Đúng như thế. Bốn vị tổ nghiên cứu rộng ra dạy đệ tử. Song ít người đạt được tới xuất hồn. Ngược lại, mọi người đều có thể tập để nhập mộng. Trong giấc mộng, người ta biết tất cả những biến cố sắp xẩy ra xung quanh mình. Từ đấy, các đệ tử Tiêu-sơn đều có thể luyện tập, rồi tối đến, muốn biết những gì sắp xẩy ra, chỉ việc vận thức Thiền-công nhập mộng là biết ngay.
      Ông ngừng một lúc rồi nói:
      - Một số người, có hạnh Bồ-tát từ các kiếp trước. Tuy không tập Thiền-công Tiêu-sơn, cũng như tụng kinh Tượng-đầu, Tổng-trì mà khi ngủ vẫn nhập mộng, biết trước sự kiện xẩy ra.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Bạch thầy. Ngược lại người thường trong khi ngủ, cũng mộng. Tục ngữ Việt mình nói Đố ai nằm ngủ không mơ. Song mộng chẳng qua là mộng, chứ không báo trước một điềm gì. Có phải thế không?
      - Phải. Trần thí chủ nhận xét đúng. Một vài trường hợp ngọai lệ. Trong quyến thuộc mình có người linh thiêng lại không chịu đi đầu thai. Khi mình gặp hung hiểm, họ nhập mộng báo cho biết trứơc.
      Thiện-Lãm ngồi ngay ngắn lại:
      - Vậy chắc hôm trước anh cả ngồi Thiền nhập mộng, đã thấy bọn chúng con sau này có thể giúp anh phất cờ đánh Tống, đòi lại đất tổ thời Âu- lạc, thời Lĩnh-nam. Vì vậy anh cả mới kết bạn với bọn con.
      Ai cũng tưởng Lãm đùa. Không ngờ Huệ-Sinh gật đầu:
      - Hôm ấy bần tăng cũng như anh cả đều mộng giống nhau.
      Lê Thuận-Tông hỏi:
      - Thầy thấy gì? Anh cả thấy gì?
      Huệ-Sinh trầm tư như nhập vào cõi mộng. Ông nói:
      - Hôm đó bần tăng cùng mọi người qua đêm ở chùa Báo-ân. Trước khi đi ngủ, bần tăng hành Thiền khoảng nửa giờ thì xuất hồn. Hồn đi ra ngoài, gặp một vị quan nhân xưng là Đô Dương trước đây làm Cửu-chân vương thời Lĩnh-nam. Ông hành lễ với bần tăng.
      Thanh-Mai tỏ vẻ hiểu biết:
      - Như vậy thầy gặp ma rồi.
      - Sao cô nương biết?
      - Vì Đô Dương, trước đây theo Nghiêm Tử-Lăng, đầu quân cho vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán. Đô lập nhiều công lớn, được phong tước Đô-Đình hầu, lĩnh chức thái-thú Phù-phong. Khi anh hùng Lĩnh-nam nổi dậy đánh đuổi giặc Hán, Đô bỏ quan tước, trở về phục quốc. Đại nghiệp thành, được vua Trưng giao cho trấn nhậm vùng Cửu-chân, tước phong Cửu-chân vương. Khi vua Bà tuẫn quốc, Đô đại vương còn kháng chiến mấy năm, đánh cho Mã Viện nhiều trận nghiêng ngửa. Niên hiệu Thuận-Thiên thứ 10 (1011), đức kim thượng cầm quân đánh giặc Cử-long, có làm bia ghi lại chiến công oanh liệt của Đô đại vương.
      Huệ-Sinh gật đầu:
      - Không ngờ người bạn cũ của bần tăng đạy con giỏi thực. Đến bản văn bia ở trấn Thanh-hóa này mà cô nương cũng biết gốc tích... Trở lại truyện Đô đại vương, người cho bần tăng biết, người được chỉ dụ của vua Trưng dạy phải trợ giúp, phò tá Khai-quốc vương.
      Huệ-Sinh ngừng một lát rồi tiếp:
      - Sau đó bần tăng tiếp tục xuất hồn bay lơ lửng đến đền thờ Tương-Liệt đại vương. Bần tăng nhìn thấy trong đền rất đông người. Giữa những người đó, một người có luồng hào quang ngũ sắc sáng chói, thì biết đây là vị Bồ-tát đắc đạo. Xung quanh luồng hào quang ngũ sắc, có mấy luồng hồng khí, thì biết đây là những thiếu niên phước khí vô cùng.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Bạch đại sư. Tiểu nữ có một thắc mắc. Khi hồn đại sư bay lơ lửng như vậy, đại sư có biết rằng hồn mình đã rời xác, đang bay đây đó. Hay đại sư trong giấc mơ, tưởng sự vật trong giấc mơ như mình đang tỉnh?
      - Cô nương hỏi thực phải. Thiền công xuất phát từ kinh Tương-đầu và Tổng-trì nguyên chỉ có một. Khi hành Thiền đến trình độ cao, bỏ ra ngoài Nhân, ngã tứ tứơng, trong lòng sạch trơn như không khí ban mai, bấy giờ xuất hồn được. Trạng thái đó là đắc pháp, đắc qủa, thoát khỏi xác phàm, đi vào Niết Bàn, không chịu vòng luân hồi sinh tử nữa. Nguồn gốc xuất hồn này tromg Mật-tông nhà Phật. Khi Bồ-tát Tỳ-ni-đà Lưu-chi sang Đại-Việt (560 sau tây lịch) truyền cho tổ Pháp-Hiền cũng chỉ có thế. Các tổ về sau hợp Thiền-tông, Mật-tông làm một. Thành ra đệ tử bản phái tập Thiền-công, không đắc qủa cũng đến hai trình độ. Một là xuất hồn trong giấc mơ, thấy cảnh, thấy sự vật như ngoài đời. Hai là khi mơ, thấy cảnh, thấy sự vật. Song cảnh, sự vật không giống thực tế, phải giải đoán.
      Lê Thuận-Tông mừng quá:
      - Bạch thầy như vậy thầy đắc qủa thành Phật rồi phải không? Xin thầy xuất hồn tìm anh cả xem anh ấy ở đâu?
      Huệ-Sinh nở nụ cười từ ái:
      - Ngay khi vương gia cùng Tự-Mai, Tôn Đản ra đi, bần tăng đã xuất hồn theo. Hiện tất cả đều ở trong một nơi thanh tĩnh vô cùng. Phải sáu tháng nữa, chúng ta mới gặp người. Tuy bần tăng xuất hồn được, nhưng không muốn nhập diệt. Bàn tăng muốn ở lại thế, giúp dân Việt dựng lại quốc thể như hồi vua Hùng, vua Trưng.
      Thiện-Lãm hỏi:
      - Bạch thầy. Thế anh cả và chị tư đã tập Thiền-công Tiêu-sơn đến trình độ nào?
      - Vương gia đang ở giữa trình độ xuất hồn trong giấc mơ. Còn công chúa chỉ mới ở trình độ Ăn chay nằm mộng. Trong giấc mộng thấy gì, phải giải đoán mới biết được.
      Thanh-Nguyên ghé tai Mỹ-Linh hỏi:
      - Trước đêm gặp bọn em. Chị mộng thấy gì?
      - Chị ngủ sớm. Trong giấc mộng thấy thái thượng hoàng. Người vui cười cho chị một tượng Phật bằng vàng. Đi theo người còn có hai con phượng và bốn con chó. Bốn con chó cứ quấn lấy chị mà mừng. Chị ôm lấy chúng không muốn rời. Giữa lúc đó có một đàn rắn cắn chị. Mấy con chó xủa ầm lên, đuổi đàn rắn đi mất.
      Tạ Sơn giải thích:
      - Khi công chúa ra đời thì thái thượng hoàng đã băng hà. Thế mà mộng thấy, hẳn phải có nguyên do. Trong Thiền-công Tiêu-sơn, khi mộng thấy ông bà, cha mẹ, anh chị. Đó là điềm được che chở, được hưởng phúc ấm tổ tiên. Công chúa mơ thấy thái thượng hoàng cho tượng Phật, ứng vào gặp một vị chân tu đắc đạo. Vị chân tu đó trong huyết tộc. Tức sư thái đây.
      Lê Thuận-Tông hỏi:
      - Thế con phượng, con chó, con rắn tượng trưng cho cái gì?
      Tạ-Sơn cười:
      __ Con phượng tượng trưng cho nữ nhân quyền qúy, tài hoa. Hai con phượng ứng vào Thanh-Mai, Thanh-Nguyên. Như vậy tương lai tiến trình Thanh-Mai, Thanh-Nguyên không nhỏ. Trong giấc mơ thấy chó là điềm tốt, cũng là điềm xấu. Thấy chó xủa, cắn mình, họăc gầm gừ là bị phản bội, bị hại . Còn thấy chó mừng, vẫy đuôi là gặp bạn hữu, ngừơi dưới trung thành. Bốn con chó ứng vào Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Tôn Đản. Còn trong giấc mơ thấy rắn, thường là gặp kẻ thù. Nếu bị rắn cắn là bị kẻ thù hãm hại. Còn giết rắn, là thắng kẻ thù. Trong giấc mộng công chúa gặp đàn rắn, tức bọn người Tống. Rồi mấy con chó đánh đuổi rắn, ý chỉ những người trung thành đánh đuổi bọn Tống.
      Thiện-Lãm, Thuận-Tông đưa mắt nhìn nhau, rồi bất thần mỗi đứa nắm một tay Mỹ-Linh cắn mạnh. Mỹ-Linh nhăn mặt kêu lên tiếng ái:
      - Đồ chó. Hai đứa cắn chị hả?
      - Thì anh hai giải đoán bọn em là chó. Chó thì phải cắn chứ?
      Mỹ-Linh sinh trưởng trong cung. Từ bé, nàng được phụ vương cưng chiều rất mực. Muốn gì cũng được. Xung quanh nàng lúc nào cũng đầy cung nga, thái giám hầu hạ. Vì vậy nàng không có bạn. Từ hôm theo sư phụ với anh ra ngòa, hôm nay nàng mới được mấy người bạn thực tình. Thiện-Lãm đã dạy nàng mua khoai, dạy nướng khoai. Được ăn khoai nướng, mà nàng cảm thấy ngon hơn sơn hào hải vị nhiều. Hôm nay hai đứa em kết nghĩa cắn nàng, biểu lộ chân tình. Nàng cảm thấy hạnh phúc tràn đầy, dù đang ngồi trong lao. Nàng đưa tay bẹo má chúng.
      Huệ-Sinh tiếp:
      - Sau đêm mộng. Nùng đạo huynh giải đoán rằng trên đường đi thế nào cũng gặp một chân tu, hai thiếu nữ và bốn thiếu niên. Những người này sau đều là rường cột quốc gia, giúp thái tử tạo sự nghiệp vua Hùng vua An-dương, vua Trưng. Vì vậy khi gặp sư thái, cùng các thí chủ. Bần tăng đề nghị thái tử, công chúa kết anh em với các thí chủ.
      Tịnh-Huyền nói với Huệ-Sinh:
      - Đại-sư, đêm qua bần ni mạn phép dạy Mỹ-Linh mấy chiêu kiếm mong đại-sư lượng thứ.
      Huệ-Sinh chắp tay:
      - Mỹ-Linh được sư thái dạy Long-biên kiếm pháp, ắt sau này có nhiều chỗ dùng đến.
      Tịnh-Huyền bảo Mỹ-Linh:
      - Con mau lấy cây gậy kia làm kiếm, diễn lại những chiêu kiếm bà dạy xem, có thuộc chưa nào.
      Mỹ-Linh tuân lệnh đứng dậy, nàng cầm gậy bái tổ hành lễ rồi diễn lại những gì đã học. Nàng diễn không sai một chiêu nào. Tịnh-Huyền mừng lắm:
      - Như vậy con chỉ việc luyện tập mấy tháng nữa thì thuần thục. Bây giờ con lại đây ta giảng cho con một số yếu quyết nữa là xong.
      Theo qui củ võ lâm, khi sư phụ dạy võ cho đệ tử, thì người ngoài phải tránh xa. Nhưng trong ngục chật hẹp, bà dẫn Mỹ-Linh lại góc ngục, nói nhỏ vào tai nàng:
      - Long-biên kiếm pháp hiện còn có phần căn bản. Còn bẩy mươi hai thức biến hóa trấn môn bị thất lạc. Cứ như diễn biến của những gì xẩy ra tại đền thờ Tương-Liệt đại vương thi thì còn có hy vọng tìm lại được. Bộ Lĩnh-nam vũ kinh chắc chắn ở trong tay ông Tôn Trung-Luận. Nhưng võ kinh chép bằng thuật ngữ đặc biệt, ông tuy có trong tay mà luyện không có kết quả là thế. Pho Long-biên kiếm pháp có ba trăm sáu chục thuật ngữ, ta dạy cho con. Hầu sau này có cơ duyên tìm được bộ võ kinh, con có thể luyện Long-biên kiếm pháp.
      Thế rồi bà dùng thần công Lăng-không truyền ngữ nói như rót vào tai Mỹ-Linh. Sau mấy giờ nàng đã thuộc hết. Tịnh-Huyền cẩn thận bắt nàng nhắc đi, nhắc lại mấy lần rồi mời thôi.
      Thấy Tịnh-Huyền ngừng dạy Mỹ-Linh, Thanh-Mai hỏi:
      - Mỹ-Linh này, em đang là công-chúa, tại sao không ở Thăng-long, lại theo thúc phụ ra ngoài thế này?
      Mỹ-Linh nghe hỏi, gương mặt đang tươi, bỗng xịu lại, nước mắt chảy quanh. Tịnh-Huyền ngạc nhiên:
      - Tại sao con không trả lời chị, mà lại khóc.
      Mỹ-Linh gục mặt vào ngực Tịnh-Huyền, nức nở:
      - Tại vì vương mẩu con qua đời rồi.
      - Qua đời rồi? Mẹ con chết bao giờ. Tại sao bà không biết?
      Nguyên vua Lý Thái-tổ kén vợ cho các con trên ba điều kiện. Một là phải thuộc giòng dõi danh gia, con các trung thần có huân công với xã tắc. Hai là phải xinh đẹp, nết na, có văn học. Ba là phải qua một cuộc tuyển lựa hết sức khó khăn, như tiếng nói có thanh tao không? Người có tiếng nói ồ ồ thì là lọai thô tục. Tiếng nói nhỏ quá, nghe không rõ thì là lọai bần tiện, hay cắn ngầm. Người phải cao ráo, chân dài, ngón tay thon. Lọai người mình dài chân ngắn là thứ thô tục đê tiện. Tóc phải óng mượt, chảy như tóc mây. Chứ tóc khô, vàng úa là thứ người khô kiệt tinh huyết, khó có con. Nếu sinh con cũng là hạng bệnh họan, ngu xuẩn. Lưng phải tròn như lưng ong. Lưng bề bề như cánh phản, là lọai người lười biếng, dâm đãng. Khuôn mặt, da mặt phải tươi hồng, nhưng hồng sẫm, lại hơi ướt là hồng diện đa dâm thủy. Sau đó là tướng đi. Tướng đi phải khoan thai, chững chạc. Tướng đi như úp sấp mặt xuống là tướng bần tiện. Ngược lại tướng đi như ngửa mặt lên là người nóng nảy thô tục. Cuối cùng, người phải tiết hương thơm của trinh nữ. Chứ người hôi hám là thứ chồn cáo.
      Thân phụ Mỹ-Linh tên thực là Đức-Chính, còn có tên là Phật-Mã, con trưởng của Lý Thái-tổ. ông sinh ra đời trong thời gian phụ hoàng còn làm tướng cho triều Lê. Vua Lý Thái-tổ xuất thân từ chùa Tiêu-sơn. Vì vậy ngài đem con lên chùa xin sư phụ là Vạn-Hạnh thiền-sư dạy dỗ. Vạn-Hạnh thiền sư giao Đức-Chính cho đệ tử mình là Minh-Không dạy. Cho đến khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi vua, mới đem con từ chùa Tiêu-sơn về Thăng-long, giao cho các Nho-thần dạy văn. Năm đó (1009) Đức-Chính được phong làm thái-tử. Mãi ba năm sau (1012) thái-tử Phật-mã được phong làm Khai-thiên vương, cho mở phủ đệ riêng. Vua Lý Thái-tổ kén vợ cho con. Nhà vua tuyển một lúc năm thiếu nữ trong 127 thiếu nữ con các quan, làm phi tần cho Khai-thiên vương. Nhưng vẫn không chịu chọn người nào làm chính-phi. Gia đình năm vị phi bắt đầu một cuộc chiến tranh lạnh, tranh dành ảnh hưởng, làm thế nào cho con em mình được làm chính phi, tương lai sẽ là hoàng-hậu, mẫu-nghi thiên hạ. Người thì cầu cúng để con gái mình được sủng ái. Người thì lấy lòng thái giám, tỳ nữ hầu vua, hoàng hậu, để họ nói tốt cho con mình.
      Trong khi đó, hồi nhỏ, thái tử sống cạnh cô ruột là công chúa Hồng-Châu. Một thiếu nữ luyện tập võ công từ bé, dáng người thanh nhã mà tươi hồng khỏe mạnh, quyết đoán mau lẹ, giám phát biểu ý nghĩ, sáng kiến của mình. Lại nữa, Thái-tử cực kỳ kính yêu hai người chị gái. Một là công-chúa An-quốc, được gả cho Trung-nghĩa hầu Đào Cam-Mộc. Hai là Lĩnh-Nam bảo quốc hòa dân công chúa được gả cho lạc hầu Lạng-châu Thân Thừa-Quý. Nói rằng gả chứ thực ra được vua Lý Thái-tổ phong cho làm vua quản trị 207 khê động vùng biên giới Tống-Việt. Hai bà chị đã cùng thái-tử bàn việc quốc sự, từng cùng nhau phi ngựa trên cánh đồng trăng sáng, đấu kiếm. Khi bàn quốc sự, thấy ý kiến không đúng, dù là ý kiến của vua cha, hai công chúa cũng thẳng thắn bác bỏ. Thái-tử mơ có người vợ như vậy. Mà ông chỉ được cưới cho những thiếu nữ xinh đẹp, cúi đầu hầu hạ, vâng dạ.
      Thế rồi vào ngày rằm, Thái-tử lên chùa Tiêu-sơn viếng thăm sư-phụ. Giữa lúc đó, một phái đoàn phái Mê-linh cũng đến Tiêu-sơn. Một buổi chiều Thái-tử dạo chơi trong rừng, thấy một thiếu nữ mảnh mai, đẹp tuyệt trần, đẹp hơn tất cả năm phi tần của mình. Thái-tử đứng ngây người ra nhìn. Thiếu nữ thấy đàn ông lạ mặt nhìn, không những không sợ hãi, mà còn thản nhiên hái hoa rừng chơi. Thái-tử không đừng được, đến gần làm quen. Thiếu nữ nghiêm mặt hỏi:
      - Người là ai, hãy tránh xa. Bằng không xin đừng trách.
      Thái-tử vẫn đứng im. Thiếu nữ bực mình, cầm bông hoa trà ném vào Thái-tử. Thái-tử nghe tiếng bông hoa bay đến kêu lên tiếng vi vu, thì biết thiếu nữ công lực không tầm thường. Ông vận sức vào tay bắt bông hoa. Không ngờ bông hoa bay sắp đến tay ông thì ngừng lại rợi xuống. Nhanh như chớp thiếu nữ vọt người tới tát ông hai cái. Đúng ra với bản lĩnh của ông, thì ông tránh dễ dàng. Tự nhiên ông có ý tưởng muốn để nàng tát mình. Bốp, bốp hai cái, ông mỉm cười:
      - Đa tạ cô nương nhẹ tay.
      Thái-tử biết thiếu nữ này công lực không tầm thường, nhưng nàng không vận sức, nên hai cái tát nhẹ nhàng. Thiếu nữ tỏ vẻ thương hại:
      - Tại sao người không tránh. Người có đau lắm không?
      Thái-tử thấy nàng ngây thơ, ông muốn trêu:
      - Đau chứ sao lại không đau. Nhưng được cô nương tát thì còn gì sung sướng bằng.
      Thiếu nữ bực mình:
      - Ta không có thời giờ đùa với người. Ta đi đây.
      Thế rồi nàng dùng khinh công chạy về chùa.
      Chiều hôm đó, trong khi sư thái Tịnh-Tuệ thảo luận với quốc-sư Minh-Không, bà cho gọi hai nữ đệ tử bái kiến quốc sư. Bấy giờ Thái-tử mới biết nàng có tên Liên-Phương, là đệ tử phái Mê-linh. Còn Liên-Phương biết người bị mình đánh đòn là thái-tử.
      Sau buổi hội, thái tử bị tiếng sét ái tình, ra ngẩn vào ngơ, đau yếu đến hơn tháng, thuốc thang gì cũng không khỏi. Tin này đến tai thiền-sư Minh-Không. Ngài từ Tiêu-sơn về Thăng-long thăm đệ tử . Minh-Không là bồ tát đắc đạo. Chỉ nhìn sắc diện đệ tử, ngài đã hiểu nguyên do. Thế nhưng, ngài biết sư đệ mình là Thuận-Thiên hoàng đế rất khó khăn với mối tình như vậy. Ngài chỉ thở dài không nói gì. Nhà vua tưởng con mình lâm nguy, ngài xin với Minh-Không bằng mọi giá cứu đệ tử. Minh-Không cười:
      - Sư đệ ơi, trên thế gian này chỉ có mình sư đệ trị được bệnh cho Phật-Mã được mà thôi.
      - Sư huynh dạy rõ hơn chút nữa.
      - Chỉ cần sư đệ hứa cho Phật-Mã vượt ra ngoài một luật lệ, thì ta chữa được.
      Vua Lý Thái-tổ nghe sư huynh dạy, ngài mừng lắm, nói:
      - Tiểu đệ xin hứa.
      Minh-Không vỗ vai sư đệ, cười:
      - Thái-tử vốn có tiền duyên với một người. Vì nay đến hạn gặp nhau, mà hai người bị xa cách, nên bị đau yếu mà thôi.
      Nhà vua kinh hãi:
      - Nếu sư huynh biết là ai, xin làm cách nào cho đôi trẻ gặp nhau. Đệ xin đa tạ. Đệ xin để huynh lo liệu dùm việc này.
      Thế rồi quốc-sư Minh-Không nhân danh hoàng đế đứng ra hỏi Liên-Phương cho thái-tử Phật-Mã. Lễ cưới thực linh đình chưa từng có. Một bên là đệ tử của quốc sư Minh-Không. Một bên là đệ tử của chưởng môn phái Mê-Linh. Cuộc hôn nhân thực là đẹp đẽ. Liên-Phương được phong là chính phi ngay từ khi về Thăng-Long. Năm sau nàng sinh Mỹ-Linh nay được phong công chúa Bình-dương. Tiếp theo, hai quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh và một hoàng nam. Từ khi có Liên-Phương, Khai-thiên vương không còn biết đến các phi tần khác. Ông cùng Liên-Phương như đôi chim liền cánh. Cuộc đời thực em đẹp biết bao.
      Cách đây ba năm, trong lúc Khai-thiên vương được lệnh cầm quân chinh tiễu giặc vắng nhà, thích khách đột nhập cung Long-đức của vương. Võ công thích khách rất cao. Hơn chục vệ sĩ bị đánh ngã. Vương-phi Liên-Phương bị bốn thích khách bịt mặt vây đánh. Bà hết sức chống cự, chờ đạo quân Ngự-long tiếp viện. Song quân chưa đến, bà đã bị trúng một chưởng vào lưng thương thế cực nặng. Theo đúng luật, người chỉ huy thị vệ đêm đó bị xử tử, nhưng y chính là Đàm Toái-Trạng, em trai qúi phi Đàm Thụy-Châu, người phi được nhà vua cực kỳ sủng ái. Y đã không bị tội, còn được bổ làm Tuyên- vũ sứ trấn Cửu-chân.
      Thế rồi từ đấy, Liên-Phương bị bệnh nặng. Cứ mỗi ngày vào giờ Thân thì lên cơn, đau đớn cực kỳ. Mọi người đều biết vương phi bị trúng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng.
      Vương biết rằng việc này do đệ tử Hồng-thiết giáo ra tay. Khi đệ tử giáo phái này muốn thu dụng ai vào trong giáo, trước tiên họ khống chế bằng cách đánh một chưởng Chu-sa Nhật-Hồ vào người. Người bị đánh phải khuất phục tuân theo mệnh lệnh của họ, thì họ cho thuốc giải. Rồi mỗi năm đến ngày Đông-chí lại được cho thuốc giải. Nếu không tuân mạng lệnh họ, thì đau đớn khủng khiếp trong bốn mươi chín ngày, rồi chết. Vương gạn hỏi ai ra điều kiện, ra điều kiện gì, vương phi lắc đầu từ chối, chỉ nói vắn tắt họ muốn hại vương. Vì vậy vương phi thà chịu chết chứ không muốn hại vương. Sau bốn mươi chín ngày, vương phi chết.
      Vụ án vừa yên, thì một đêm kia, đến lượt em trai Mỹ-Linh bị thích khách ám toán hụt. May giữa lúc đó chú nàng là Khai-quốc vương có mặt ở Thăng-long. Ông đích thân điều tra. Cuộc điều tra ra manh mối, có liên quan tới Đàm quý phi, thì Thuận-Thiên hoàng đế truyền ngừng. Để an ủi Khai-thiên vương, ngài phong cho Mỹ-Linh làm công chúa Bình-dương, ngụ ý sẻ truyền ngôi cho vương. Cuối cùng Khai-quốc vương đề nghị gửi em trai Mỹ-Linh vào cho Thuận-Thiên hoàng đế nuôi. Còn Mỹ-Linh, vương xin anh cho mang về Thiên-trường để dạy dỗ .
      ...
      Có tiếng gõ cửa. Chúa ngục cùng đám cai ngục vào. Chúng bưng theo hai mâm cơm chay thịnh soạn. Chúa ngục nói:
      - Thưa các vị Phật gia, các vị đại vương, luật lệ đức hoàng đế cấm đem miếng ngon vật lạ cho tù ăn. Song hôm nay tiểu nhân đành phá lệ. Tiểu nhân xin lui, để các vị xơi cơm.
      Nói rồi y đóng cửa, cài then đi ra. Thiện-Lãm, Thuận-Tông xới cơm ra mời Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, Tịnh-Huyền, rồi nó hô:
      - Nào anh chị em mình đớp.
      Tuy hô vậy, nó cũng xới cơm cho Tạ Sơn, Thanh-Mai, Mỹ-Linh. Thiện-Lãm không úy kị, nó ăn uống xụp xoạp. Ăn được hai bát cơm. Bỗng Thiện-Lãm, Thuận- Tông ôm bụng bụng kêu lớn:
      - Ối đau quá.
      Huệ-Sinh hô lên:
      - Ngừng lại. Cơm có thuốc độc.
      Ông nói:
      - Phải ngồi tĩnh tọa vận công mửa thực phẩm ra.
      Tất cả mọi người làm theo. Riêng Tông, Lãm chưa học võ. Hai đứa ngã vật ra, mắt trợn ngược, chân tay co giật. Huệ-Sinh túm áo hai đứa đặt chúng ngồi dựa vào vách tường. Ông móc trong túi ra cái hộp bằng bạc, mở hộp lấy kim. Ông châm vào huyệt Nhân-Trung, Trung-Xung. Châm xong rút kim ngay. Hai đứa từ từ mở mắt ra, chân tay ngừng co giật. Ông lại châm vào huyệt Kiên-tĩnh trên vai, dặn chúng:
      - Hai cháu ngoan, ngồi im. Nếu thấy buồn mửa thì phải hít hơi vào rồi mửa hết đồ ăn ra.
      Khoảng ba chục tiếng tập tim, mặt hai đứa tái xanh, rồi mửa ra. Mửa ba lần thì hết. Huệ-Sinh bảo chúng:
      - Các cháu nằm xuống.
      Ông lại dùng kim châm vào các huyệt Công-tôn, Nội-quan, Túc-tam-lý.
      Trong bằng ấy người. Chỉ có Tạ Sơn, Thanh-Mai là kinh lịch giang hồ. Nàng nói sẽ:
      - Hiện không biết ai đánh thuốc độc. Bây giờ tất cả giả vờ ôm bụng mê man. Tự nhiên địch thủ xuất hiện.
      Mọi người làm theo. Một lát sau cánh cửa mở rộng. Đàm An-Hòa cùng Triệu Huy xuất hiện. Triệu Huy nói:
      - Lấy dây trói chúng lại, rồi đem ra xe cho ta.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 21:55:24 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 24.12.2004 16:19:06 (permalink)
        Hồi thứ chín


        Tay đã nhúng chàm




        Sư thái Tịnh-Huyền dùng thần công Lăng-không truyền ngữ nói vào tai mọi người:
        - Cứ để cho chúng trói, xem chúng dở trò gì. Như vậy mới biết rõ kẻ gian người ngay. Hễ có gì nguy hiểm thì Tạ thí chủ ra tay được rồi.
        Vương Dương cho lệnh đám cai ngục trói tất cả mọi người xong, thì Đàm An-Hòa từ ngoài vào. Hắn nói:
        - Đem chúng lên một cái xe lớn. Nhớ che cẩn thận không cho người ngoài nhìn thấy.
        Hắn cười đắc chí, nói với Triệu Huy:
        - Tôi đã làm tròn lệnh của thiên sứ. Mong đại nhân nói với thiên sứ về tâu lên với thiên triều, phong cho tôi tước hầu như lời hứa.
        Triệu Huy gật đầu:
        - Mọi sự tốt đẹp, thiên tử ắt phong cho ngươi tước công là ít. Nhất định thiên tử sẽ cắt một giải đất Thanh-hóa phong cho người tước Cửu-chân quốc công. Đời đời hưởng lộc thiên triều. Bây giờ người phải đi theo ta.
        Trong xe Lý Mỹ-Linh nghe Đàm-an-Hòa nói, nàng phát rùng mình:
        - Từ khi ông nội nhà ta dựng nghiệp, tuy có nhiều phen người Tống sang dụ dỗ, song không bao giờ có người Việt theo họ. Nay anh em họ Đàm, tuổi còn trẻ, được dự vào hàng quốc thích. Thế mà không tự biết, còn đi cầu một chứ tước của triều Tống. Thì ra việc khám đền, không phải do An-Hòa vô tình. Mà y cố ý.
        Càng nghĩ, nàng càng kinh sợ:
        - Cha của An-Hòa là Đàm Can, trước đây lĩnh chức hữu thân vệ điện tiền chỉ huy sứ đời vua Lê Ngoạ-triều, chỉ thấp hơn ông nội ta có một bậc. Vì vậy khi lên ngôi vua, ông nội ta đã phong cho y làm Đô-nguyên soái, quản Khu-mật viện. Tước Sơn-nam hầu . Như thế là cực phẩm. Con gái được phong Tây-cung quý phi, năm trước sinh hoàng nam. Cả nhà phú quý cực điểm, mà lại phản dân, theo Tống thì thực còn trời đất nào nữa không?
        Một tên đội trưởng đi cạnh An-Hòa nói vào tai y:
        - Quốc cữu! Hôm qua bà Anh-Tần mới từ Thiên-trường tới đây. Đi theo bà còn có một người tên Nguyễn Qúy-Toàn. Tối nay họ sẽ khai hội Vu-sơn ở dưới chân núi Ông. Bà ngỏ lời mời quốc cữu tới dự.
        Trong xe, Thanh-Mai nghe đến tên mụ Anh-Tần, đại hội Vu-sơn, làm nàng lắng tai theo dõi. An-Hoà hỏi:
        - Có bao nhiêu người tham dự Vu-sơn chiều nay?
        - Bà Anh-Tần định rằng nam hai chục, nữ hai chục. Không người nào quá ba mươi tuổi.
        - Người biết chương trình có gì đặc biệt không?
        - Nghe đâu bà Anh-Tần biểu diễn những
        màn ngậm sâm cùng thổi ống đu đủ.
        - Cái gì mà là ngậm sâm, thổi ống đu đủ. Ta không hiểu. Người đã được xem màn nay bao giờ chưa?
        - Năm trước tiểu nhân đến trang Yến-vỹ sương-sen xem bà Anh-Tần giảng dạy hai pháp này. Tuyệt lắm. Tối nay quốc cữu đến coi sẽ biết. Bà Anh-Tần nói, mục đích chuyến đi Cửu-chân này để tìm người đem về cho các trưởng lão làm cây thuốc.
        - Cây thuốc là cái gì?
        Nghe đến tiếng cây thuốc, Thanh-Mai ngồi nhỏm dậy. Tiếng viên đội trưởng tiếp:
        - Cây thuốc tức nữ nhân. Tuổi từ mười ba đến bốn mươi lăm. Nghiã là phải ở trong thời kỳ có kinh. Hàng ngày các trưởng lão dùng những nữ nhân này coi như thứ thuốc trợ giúp luyện công. Như bang Mãng-xà dùng nọc rắn luyện công, thì Hồng-thiết giáo dùng nữ nhân luyện công.
        - Màn này hay đấy. Phép luyện như thế nào?
        - Người luyện công cần một phụ nữ tuổi hành kinh. Cứ sáng dậy ghé miệng vào âm hoa nữ nhân, hút lấy nước tiểu, uống vào bụng, rồi ngồi luyện công cho đến khi nào nước tiểu trong bụng lẫn vào máu hết mới thôi. Ngoài ra, tối tối, phải nằm ngược chiều với người nữ. Hai người ôm nhau, hấp khí của nhau. Nhưng tối quan trọng của phép luyện công, phải thuộc thời kỳ nữ nhân có kinh.
        - Sao vậy?
        - Khi nữ nhân có kinh, người luyện công ghé miệng vào âm hoa, mút lấy kinh, nuốt đi, rồi vận khí. Khi nuốt hết tất cả kinh chất tiết ra trong một kỳ kinh, được gọi là một thành Vu-sơn.
        - Khiếp, kinh tởm quá.
        Viên đội trưởng lắc đầu:
        - Tự quốc cữu không quen đấy thôi, chứ quen rồi sẽ thấy khoan khoái là khác. Bà Anh-Tần tuyển đâu được hơn chục nữ nhân hôm nay đang hành kinh. Tối sẽ cho tên Nguyễn Quý-Toàn mút hết hơn chục người, biểu diễn cho giáo chúng coi.
        - Tên Toàn là người thế nào?
        - Văn cực kỳ dốt. Võ càng không biết. Thế mà nó sang xứ Lão-qua, cưới được cô vợ xinh đẹp, thùy mị, lại học giỏi. Một tay bà ta tần tảo buôn bán, nhà trở lên giầu. Thế nhưng tên Nguyễn Quý-Toàn, lại theo mụ Anh-Tần, mút kinh hàng trăm nữ nhân.
        Chiếc xe chuyển bánh.
        Tên đội trưởng với An-Hoà rời nhau. Trước xe, Triệu Huy, Đàm An-Hòa cỡi ngựa đi theo. Trong xe, Thuận-Tông ngồi sát tấm ván che cửa. Nó ghé mắt nhìn ra ngòai. Cảnh vật vùng này nó đã thuộc làu. Nó nhận ra chiếc xe đi về phía Tống-sơn. Nó nói vào tai Tôn Trung-Luận:
        - Dường như chúng đi về phía nhà mình.
        Xe đi một lát, gặp đoàn người ngựa chờ bên đường. Thuận-Tông nhận ra bọn đụng độ đêm hôm trứơc. Nó nói nhỏ vào tai sư thái Tịnh-Huyền:
        - Thưa bà, không thiếu tên nào cả. Từ tên mặt lưỡi cày cho đến Quách Qùy.
        Triệu Thành hỏi Triệu Huy:
        - Thế nào Triệu thống chế (1). Tốt đẹp cả chứ?

        Ghi chú
        (1) Thống chế là ấp võ quan của triều Tống, không nên lầm với chức Thống-chế của quân đội Pháp dịch từ chữ Maréchal ra.

        Huy kính cẩn:
        - Thưa chủ nhân, chỉ thiếu tên Lý Long, Trần Tự-Mai, Tôn Đản.
        Triệu Thành hài lòng:
        - Thôi thế cũng đủ. Chúng ta lấy khẩu cung chúng, xem chúng là ai đã. Nào, chúng ta lên đường.
        Thanh-Mai giật mình:
        - Thì ra tên Triệu Huy giữ chức thống chế của triều Tống. Theo quan chức triều Tống, thì thống-chế ngang với An-vũ-sứ. Vậy việc bọn này sang đây qủa có chỉ dụ của Tống-đế. Nguy thực.
        Đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường. Khoảng nhai dập miếng trầu, xe ngừng lại. Triệu Thành phất tay một cái. Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy xuống ngựa, mở cửa xe. Chúng thấy mọi người tỉnh dậy, ngồi ngay ngắn trong xe. Triệu Huy nói với Thanh-Mai:
        - Trần cô nương. Kể ra chủ nhân chúng tôi mời cô nương cùng các vị như thế này thực không phải. Mong cô nương xá tội. Song đối với ái nữ của chưởng môn phái Đông-a thì dù mang xích sắt mà khóa cũng không yên tâm. Võ lâm Trung-nguyên thường truyền tụng Gây hấn với Diêm-vương còn yên ổn hơn gây hấn với phái Đông-a. Nào mời các vị xuống xe.
        Y ngạc nhiên khi thấy khí sắc mọi người tỏ ra không sợ hãi gì. Kể cả Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Tôn Trung-Luận nhận ra xe đậu trứơc cửa đền thờ Tương-Liệt đại vương. Xung quanh đền có nhiều giáp sĩ canh gác. Vợ con ông bị trói ngồi cả ở giữa sân.
        Triệu Huy dồn mọi người ngồi chung với vợ con Tôn Trung-Luận. Bà Trung-Luận hỏi chồng:
        - Ông có sao không?
        - Không sao. Việc ở nhà thế nào?
        - Họ lục soát tất cả. Họ bảo nếu không đưa di thư ra, họ đánh mềm xương. Ông ơi, nhà mình không có di thư gì, thì đưa đại cuốn sách nào đó cho họ. Miễn xong truyện thì thôi. Chứ nhà cửa tan nát hết rồi, còn gì đâu!
        Tôn Trung-Luận cười nhạt:
        - Cứ yên tâm. Mọi chuyện đâu còn đó.
        Triệu Thành bảo Triệu Anh:
        - Chu tiên sinh. Bây giờ nên lục soát lại một lần nữa. Không bỏ sót chỗ nào.
        Thanh-Mai đưa mắt nhìn Tạ Sơn, ý nói thì ra tên này họ Chu. Còn tên Triệu Anh chắc là giả. Triệu Anh nói với Đàm An-Hòa:
        - Xin Đàm hiệu úy cho lục soát lại một lần nữa.
        Đàm An-Hòa dẫn binh lính cùng bọn Triệu Anh bắt đầu lục soát. Chúng lục không thiếu một chỗ nào. Lục cho đến khi mặt trời đứng bóng mới ngừng lại. Đàm An-Hòa nói với Triệu Thành:
        - Thưa Thiên-sứ đại nhân. Tiểu nhân nghĩ, chỉ còn cách khảo đả bọn này mới hy vọng tìm ra manh mối. Trong những tên có mặt ở đây, thì tên Tôn Trung-Luận cần khảo mà thôi. Còn những tên khác không cần, nên tha cho chúng đi.
        Triệu Huy cười nói nhỏ vào tai Đàm An-Hòa. Nhưng trừ bọn Thiện-Tông, Thuận-Lãm, mọi người đều có nội công cao, nghe rất rõ:
        - Đàm huynh đệ, ngừơi không hiểu gì cả. Chúng ta nhờ người bầy kế bắt bọn này chỉ vì chúng biết hành tung của Thiên-sứ với chúng ta. Điều thứ nhất người phải khảo Tôn Trung-Luận để tìm cho ra di thư. Điều thứ nhì giết hết bọn này để bảo tòan cơ mật. Điều thứ ba Thiên-sứ để ý tới con nhỏ Thanh-Mai, ta phải để nó sống. Chúng ta đem tên Luận vào trong nhà mà khảo.
        Đàm An-Hòa đến bên Tôn Trung-Luận. Y quát:
        - Tên đầu trộm này. Hãy theo ta.
        Huệ-Sinh nói với Trung-Luận:
        - Thí chủ cứ theo Đàm hiệu-úy. Bề nào cũng còn có luật pháp của Đại-Việt.
        Tôn Trung-Luận đứng lên theo An-Hòa, Triệu Anh vào nhà. An-Hòa hỏi:
        - Ông Tôn Trung-Luận. Tôi biết ông thuộc giòng dõi trung thần thời Lĩnh-nam. Vì vậy tôi phải nói thực với ông. Thiên tử Đại-Tống, cần có bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên, để chống với quân Liêu cẩu, Tây-hạ. Ngài phái Thiên-sứ sang Đại-Việt hỏi. Đức Đại-Việt hoàng đế truyền các nơi phải tìm bộ sách ấy cống Thiên-triều. Tôi biết bộ đó trong tay ông. Vậy ông nên trình ra.
        Tôn Trung-Luận cương quyết:
        - Đàm hiệu úy nói thế, thì ra cuộc khám đền thờ đức ông từ qua đến giờ để tìm di thư, chứ không phải vì Thiên-sứ bị trộm. Nếu tìm di thư, thì chỉ cần An-phủ sứ ra lệnh. Chứ có đâu đổ cho chúng tôi tội trộm. Còn bắt thêm bao nhiêu người?
        Đàm An-Hòa đuối lý. Y cãi bướng:
        - Đó là hai việc khác nhau. Bọn Tịnh-Huyền, Nùng-sơn tử trộm bảo vật của Thiên-sứ là truyện đương nhiên. Thiên-sứ gặp Tuyên-vũ sứ truyền chỉ của Thiên-triều tìm di thư, rồi biết rõ được ông chứa chấp bọn trộm cứơp. Bây gìơ ông đưa di thư ra. Tôi hứa tha cho ông hết mọi tội. Bằng không sẽ bị chém đầu cả nhà.
        Trung-Luận nhăn mặt:
        - Hiệu úy nói lạ. Luật của bản triều khác với luật Tống. Luật Tống đặt trên cơ sở pháp trị. Còn luật của bản triều đặt trên căn bản từ ái của đạo Phật. Một người mang tội trộm, thì trong làng đem đánh 20 roi, rồi bắt ra đình làng lễ thành hoàng, tạ tội. Ví dù bọn sư thái Tịnh-Huyền có trộm, thì chỉ bị phạt trượng. Chứ có đâu chém cả nhà tôi?
        Triệu Anh quát lên:
        - Mi cãi bướng phải không. Nếu không có di thư dâng lên Tống thiên tử, chác chắn ngài nổi giận truyền đem quân đánh Giao-chỉ. Bấy giờ Giao-chỉ quận vương sẽ tru di tam tộc cả nhà ông.
        Trung-Luận cười:
        - Triệu tiên sinh nói sai rồi. Nước tôi tuy nhỏ, dân tôi tuy thưa. Song đời nào cũng có anh hùng giữ nước. Nếu Tống triều mang quân sang ắt phải qua nuí Cấm (2). Ở đó có oan hồn 50 vạn quân Tần cùng với hồn ma Đồ Thư đang chờ. Hồ Động-đình uy danh nữ vương Phật-Nguyệt chưa tan (3). Biển Nam-hải, công chúa Gia-Hưng chém Đoàn Chí, gươm thiêng chưa khô máu (4). Sông Bạch-đằng máu vẫn còn tươi (5). Ải Chi-lăng (6) xương khô còn hơn mười vạn bộ. Triệu tiên sinh đừng dọa tôi vô ích.

        Ghi chú
        (2) Núi Cấm hiện ở Bắc Lạng-sơn. Sâu vào bên kia biên giới Trung-quốc hơn trăm cây số. Nơi đây Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung đốt cháy năm mươi vạn quân Tần, giết Đồ Thư và thời vua An-dương.
        (3) Phật-Nguyệt đánh trận Trường-giang, hồ Động-đình, giết hơn hai mươi vạn quân Hán. Nay họ còn truyền tụng đôi câu đối:
        Tích trù Động-đình uy trấn Hán,
        Danh lưu thiên cổ lực phù Trưng.
        Nghĩa là: Trước đây trận hồ Động-đình oai rung động triều Hán. Danh để ngàn sau, nhờ sức phò vua Trưng. Xin đem Cẩm-khê di hận, cùng tác giả.
        (4) Công-chúa Gia-Hưng Trần Quốc đánh trận Nam-hải thời vua Trưng, diệt hạm đội Hán, chém Nam-an hầu Đoàn Chí. Xin xem Cẩm-khê di hận.
        (5) Trong lịch sử Việt có ba trận Bạch-đằng. Trận thứ nhất do Ngô vương phá Nam-hán. Trận thứ nhì do Lê Đại-Hành phá quân Tống. Trận thứ ba, Hưng-Đạo vương phá Mông-cổ.
        (6) Trận Chi-lăng do vua Lê Đại-Hành đánh Tống, phá hai mươi vạn binh tại đây.


        Triệu Anh bị Trung-Luận mỉa mai. Mặt y tím ngắt, chưa biết phải đối đáp ra sao. Y đưa mắt nhìn Đàm An-Hòa.
        Tôn Trung-Luận hỏi Đàm An-Hòa:
        - Việc tìm di thư cống Tống do chỉ dụ của Thiên-tử. Vậy chiếu chỉ đâu? Hay ít ra cũng có lệnh của Lý tể tướng. Xin đại nhân cho tôi xem một chút được chăng?
        Triệu Anh hỏi:
        - Như vậy là ông có giữ di thư phải không?
        Tôn Trung-Luận lắc đầu:
        - Tôi không giữ, nhưng biết có người giữ. Nếu có chiếu chỉ của đức Kim-thượng, người đó mới chịu đưa ra.
        Đến đây Trung-Luận thấy trên nóc nhà có tia nắng chiếu xuống. Ánh nắng khi có, khi không. Ông biết chắc có người núp nghe trộm. Ông nghĩ rất nhanh:
        - Hôm qua bọn Triệu Anh đã trộm di thư. Không ngờ chúng mắc mưu ta, chỉ lấy được cuốn phổ. Rồi bị người lạ mặt cướp đi. Tên phục trên mái nhà chắc là phe người lạ mặt, không biết bọn này từ đâu đến? Bọn Tống dùng quyền lực tra khảo, mà ta không nói, thì chúng đánh cho thiệt thân. Chi bằng ta đánh lừa cho hai bọn cướp đánh nhau chơi.
        Thấy ông không nói tiếp, Triệu Anh hỏi gấp:
        - Ai? Ai giữ di thư ?
        Trung-Luận gật đầu:
        - Như vậy tôi không có tội phải không? Xin cởi trói cho tôi đã.
        Triệu Anh cúi xuống cởi trói cho Trung-Luận. Ông nói:
        - Xin Triệu đại nhân ghé tai vào đây. Tôi nói cho mình đại nhân nghe mà thôi. Tôi nói lớn sợ có người thứ ba nghe trộm thì nguy.
        Triệu Anh ghé sát tai vào miệng Trung-Luận. Trung-Luận nghĩ:
        - Đã vậy mình nói câu to câu nhỏ, để khích động sự thèm muốn của tên trên nóc nhà.
        Ông nói :
        - Triệu đại nhân nhớ nhé. Đây là bộ sách binh pháp có một không hai trên thế gian. Với bộ sách này thời Lĩnh-nam công chúa Phật-Nguyệt chỉ có 7 vạn binh, đánh tan 30 vạn quân Hán trên hồ Động-đình. Công chúa Trần Quốc giết đại đô đốc nhà Hán là Đòan Chí trên biển Đông, thừa thắng tiến về Lạc-dương. Công chúa Thánh-Thiên thắng trận Phụng-hoàng, Thường-sơn...
        Ông thở dài:
        - Sau này Triệu Trinh-Nương chỉ có 300 đệ tử, đánh tan năm vạn người của Ngô Tôn-Quyền. Lê Đại-Hành hoàng đế thắng trận Bạch-đằng. Bây gìơ có chiếu chỉ của Đại-Việt hoàng đế, tôi phải đem ra.
        Ông đứng dậy biểu diễn sáu thế võ. Triệu Anh, Đàm An-Hòa đều kêu lên kinh ngạc. Triệu Anh nói:
        - Đây là sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Võ công trấn môn của phái Tản-Viên. Tôi tưởng thất truyền, hóa ra vẫn còn trên thế gian. Dường như sáu chiêu vừa rồi là âm nhu thì phải. Tôi đọc sử thấy nói Hán-trung vương Đào Kỳ khi xưa oai trấn Trung-nguyên, Lĩnh-nam, Cao-ly nhờ có 36 chiêu Phục-ngưu thần chửơng cương lẫn nhu. Ngài lại giết chết anh hùng vô địch thời Đông-hán như Phùng Dị, Sầm Bành.
        Trung-Từ không trả lời, ông đánh tiếp sáu chiêu nữa. Triệu Huy càng kinh ngạc:
        - Võ công Cửu-chân.
        Cứ như thế ông biểu diễn hết võ công các phái Khúc-giang, Quế-lâm, Hoa-lư, Sài-sơn, Long-biên. Cuối cùng ông ngừng lại:
        - Tôi tuy giữ di thư trong tay, song không có căn bản, thành ra luyện tập nhiều, mà không thành công. Nay tôi đem di thư tiến thiên tử để cống Đại-Tống. Tôi đau xót trong lòng. Song tôi có ước vọng.
        Ông nghĩ thầm:
        - Mình phải làm bộ như tham danh mà bán gia phả, chúng mới tin.
        Trong khi Trung-Luận đang suy nghĩ, thì Triệu Thành đứng sau từ nãy đến giờ, bỗng lên tiếng:
        - Ông muốn gì, cứ nói. Bổn nhân sẵn sàng chu toàn.
        Trung-Từ gật đầu:
        - Việc này nếu Thiên-sứ hứa giúp thì dễ như trở bàn tay. Nguyên tổ tiên tôi bao đời nay đều giữ chức từ đền, không có đường tiến thân. Bây giờ nếu Thiên-sứ giúp...
        Triệu Thành cười:
        - Ta hiểu rồi. Ông muốn chức quan phải không? Khi ta rời Trung-nguyên, Thiện-thánh hoàng đế ủy thác ta, được quyền ban thưởng cho con dân Đại-Tống có công, tứơc từ hầu trở xuống. Chức từ Tri-châu. Vậy ông muốn đựơc chức tước gì? Đây, bằng ban chức, đức hoàng đế cho ta mang theo, tên để trống. Ta điền tên ông vào là xong.
        Trung-Luận than thầm:
        - Dã tâm bọn Tống ghê thực. Địa vị tên này cũng không nhỏ. Chắc không là hòang tử cũng là vương tử, mới có quyền phong tước hầu. Coi bộ ta khai giả chúng tin rồi đây. Ta phải làm tiếp nữa mới xong.
        Ông nói:
        - Tôi chỉ muốn làm lý dịch trong xã này mà thôi. Tôi hỏi thực đại nhân đừng chấp. Đây thuộc lãnh địa Đại-Việt. Chỉ hoàng đế Đại-Việt mới có quyền ban chức tước. Còn đại nhân là sứ thần Trung-quốc làm sao có thể phong chức tước cho tôi?
        Triệu Anh cười:
        - Ông Tôn Trung-Luận này. Ông ngây thơ quá đi. Từ xưa đến giờ, khắp thiên hạ đâu không là con dân hoàng đế Trung-quốc. Đất Giao-chỉ này là một quận của Trung-quốc. Thiên-thánh hoàng đế phong chức tước cho ông, thì oai biết bao.
        Y móc trong túi ra tập sách nhỏ, đưa cho Tôn Trung-Luận:
        - Đây là bộ giản sử chép tất cả nhhững liên hệ giữa Giao-chỉ với Đại-Tống. Ông cứ đọc sẽ rõ.
        Trung-Luận cầm lên đọc:
        « Niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ ba đời Chân-tông, Ứng-phù, Kê-cổ, Thần-công, Tuyên-đức, Văn-minh, Võ-định, Chương-thánh, Nguyên-hiếu hòang-đế. Phong cho Lý Công-Uẩn đất Giao-chỉ tứơc Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ, xử trí xứ, An-Nam đô hộ phủ, Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc, Giao-chỉ quận vương, thực ấp tam thiên (3000) hộ, thực phong nhất thiên (1000) hộ, suy thành thuận hóa công thần. (1010) Niên hiệu Thiên-thánh nguyên niên, gia phong cho Uẩn lên tước Kiểm hiệu thái sư (1022)
        Trung-Luận trả sách. Triệu Thành nói:
        - Cái chức lý dịch nhỏ quá, sao xứng với công của ông. Ta ban cho ông hàm Cung bị khố phó sứ, giữ chức tri châu Tống-sơn .
        Y liếc nhìn trên án thư của Trung-Luận có nghiên bút. Y cầm mực mài, rồi lấy ra trong bọc cuộn giấy in thiếp vàng hình con rồng nhả châu, có ấn son đỏ chói. Y viết lên cuộn giấy rồi nói:
        - Tôn Trung-Luận, hãy quì xuống nghe chiếu chỉ.
        Trung-Luận không ngờ mình đùa, mà tên mặt lưỡi cày tin thực. Một liều, ba bẩy cũng liều. Ông chửi thầm:
        - Đ.m. thằng hoàng đế Thiên-thánh. Ông bố mày là con rồng, cháu tiên. Vì hòan cảnh phải qùi nhận chức sắc của mày.
        Rồi ông quì xuống. Triệu Thành cầm trục giấy đọc:
        « Thừa thiên hưng vận. Thiên-thánh hoàng đế phong cho tên Tôn Trung-Luận thuộc đất Giao-chỉ chức tước như sau Cung bị khố phó sứ, tri châu Tống-sơn, ở trấn Thanh-hóa. »
        Trung-Luận hướng về Bắc giả lạy tạ. Ông cầm sắc phong, rồi ghé tai tên mặt lưỡi cày nói thực nhỏ:
        - Di thư không để ở trong đền. Cũng không để trong phạm vi của đền. Đời ông nội tôi nhân xây đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang, đã cất ở đấy. Song tôi không biết đích xác chỗ nào. Còn chiêu thức tôi học là học từ bố tôi. Tôi không giữ di thư.
        Nhân ghét Nhâm Diên, Tích Quang. Tôn Trung-Luận muốn mượn tay người Tống phá đền thờ hai tên này. Ông mới bịa truyện như thế. Không ngờ ông bịa đặt ra, mà sau này gây thành núi xương, sông máu. Ông nhìn nét mặt tên Triệu Anh. Thấy mắt y có vẻ gian. Ông cười thầm:
        - Thôi rồi, tên Triệu Anh muốn độc chiếm võ công. Mà ta không nói cho y nghe. Sau này y tìm đến ta mà hạch hỏi. Ta sống không yên với nó. Ta phải liệu trước mới được.
        Ông chợt nhớ cách ông ba đời, một thầy địa lý đến vùng này nghiên cứu, đã vẽ tất cả các thế đất linh, rồi tặng cho ông nội ông. Trong bản đồ ghi chú chằng chịt. Hy vọng đánh lừa tên này. Ông lật đưới tráp ra tờ giấy cũ vàng úa đưa cho tên mặt lưỡi cày. Vì cố ý. Ông nói thực lớn, để tên Triệu Anh, tên trên mái nhà nghe:
        - Đây là bản đồ vẽ nơi cất di thư. Thiên sứ theo đó mà tìm. Tôi tuy có bản đồ. Song ngặt vì tư chất dốt nát. Nên không tìm ra.
        Triệu Thành cầm tờ giấy, tần ngần đọc. Thì Bình một tiếng, mái ngói vỡ tan. Một người quần áo đen từ trên đáp xuống như con đại bàng. Tay phóng chưởng hướng Triệu Thành tấn công. Triệu Anh quát lên một tiếng vung chưởng đánh người mặc quần áo đen, cứu chủ. Hai chưởng chạm nhau đến bình một tiếng. Triệu Anh bật lui ba bước, ọe một tiếng, miệng y phun máu tươi. Người đó khoằm khoằm tay như hổ vồ mồi, chụp Triệu Thành. Triệu Thành bản lĩnh không tầm thường. Y xuống trung bình tấn, tay trái gạt tay người kia. Tay phải phóng chỉ trả đòn. Người kia dùng chân trái quét ngang định đánh ngã Triệu Thành. Hai tay đẩy một chưởng về trước. Triệu Thành vọt lên cao tránh đòn. Thoáng một cái hai người đã chiết với nhau trên mười chiêu. Đến chiêu thứ mười một, trong khi Triệu Thành vọt lên cao. Người kia chụp vào ngực y. Xọac một tiếng áo y bị xé rach. Tay người kia cầm miếng vải. Miếng vải đó chính là cái túi đựng tấm bản đồ dấu di thư. Người kia cười gằn một tiếng. Y vọt người lên cao. Tay bám xà nhà, theo lỗ phá vỡ chui ra. Y vừa ra ngòai, đã nghe sức gió tạt vào mặt. Có tiếng người nói:
        - Hãy đỡ chưởng của ta.
        Bình, bình, bình. Hai người đấu với nhau ba chiêu. Người mặc áo đen bật lui lại mấy bước, nhận ra kẻ tấn công mình là một nho sinh. Y vận chưởng phản công. Dưới sân, Tạ Sơn hỏi Thanh-Mai:
        - Này cô ba. Cô là danh gia đệ tử. Cô thấy trận đấu thế nào?
        Thanh-Mai đáp:
        - Vương Duy-Chính dùng võ công Võ-đang. Bản lĩnh y vào hàng thượng thừa. Còn người kia dùng võ công vùng Liêu-đông, tuy cục mịch song rất hung hiểm. Hiện khó có thể biết ai thắng, ai bại.
        Triệu Thành ra lệnh:
        - Xin Minh-Thiên đại sư lên tiếp với Vương tiên sinh.
        Y quay lại nói với Đàm An-Hòa:
        - Tôn Trung-Luận bây giờ là mệnh quan của thiên triều. Vậy hiệu úy hãy cởi trói cho tất cả những người này.
        Đàm An-Hòa hỏi lại:
        - Thưa đại nhân. Tha những người này ư?
        - Phải. Tôn Trung-Luận bây giờ là Cung bị khố phó sứ, tri châu Tống sơn của thiên triều. Ta yêu cầu hiệu úy thả nhừng người này ra. Từ nay không được gây sự với tri châu nữa. Người nên biết chức Cung bị khố phó sứ lớn ngang với Cấm quân hiệu úy của đức hòang đế Thiên-triều. So với chức tước Giao-chỉ, đựơc coi ngang bằng An-vũ-sứ. Người chỉ là hiệu-úy của Tuyên-vũ-sứ huyện Cửu-chân, thì còn thua xa. Người mau đem xe, ngựa trả cho sư thái. Nhớ đem theo hai con nữa tặng cho Tôn tri-châu.
        Đàm An-Hòa không hiểu những gì đã xẩy ra. Mới cách đây hơn giờ, Tôn Trung-Luận bị trói. Bị coi như con chó ghẻ. Bây giờ lại là mệnh quan triều Tống. Chức tước lớn hơn y nhiều. Y cảm thấy uất nghẹn, vì mới hôm qua, chính tên thiên-sứ đã hứa với y đủ truyện rằng chúng sẽ về tâu lên thiên tử phong cho y tước công, thực ấp vùng Thanh-hóa. Thế mà bây giờ chúng đã trở mặt phong chức tước cho Tôn Trung-Luận, rồi sai y như sai tên hầu hạ hèn mạt.
        Y đành sai cởi trói cho mọi người. Trong khi đó trên nóc nhà người mặc quần áo đen với Vương Duy-Chính vẫn đấu quyết liệt. Thanh-Mai chợt nhớ Tự-Mai kể cho nàng nghe đêm hôm trước, bọn Triệu Huy trộm đựơc cuốn phổ sau lưng tượng Tương-Liệt đại-vương, thì bị một mgười lạ mặt cướp mất. Ba anh em Tung-sơn tam-kiệt đấu với người đó, mà phải khó khăn mới thắng. Không biết có phải người này không? Nàng lên tiếng hỏi Triệu Huy:
        - Triệu thống-chế. Phải chăng người mặc quần áo đen, đã từng đấu với thống-chế đêm trước?
        Triệu Huy không muốn trả lời. Song y liếc nhìn thấy chủ nhân đang đứng sau nàng. Y đành liên tiếng:
        - Đúng đấy. Chúng tôi không biết y là ai.
        Triệu Thành nói với hòa thượng Minh-Thiên:
        - Không thể giữ đạo lý giang hồ với quân đạo tặc. Xin đại sư thu thập tên hắc y dùm.
        Minh-Thiên dạ một tiếng, rồi vọt mình lên nóc nhà. Ông hô lớn:
        - Ngừng tay.
        Vương Duy-Chính, người bịt mặt cùng nhảy lùi lại, đứng thủ thế. Minh-Thiên nói:
        - Thí chủ. Bần tăng pháp danh Minh-Thiên thuộc phái Thiếu-lâm xin ra mắt thí chủ. Cứ như bản lãnh thí chủ, thực khó kiếm trên đời. Song thí chủ không phải đối thủ của bần tăng đâu. Thí chủ mau trả tấm bản đồ lại cho chủ nhân bần tăng. Bằng không bần tăng phải ra tay.
        Người kia còn đang lưỡng lự, thì Minh-Thiên vung tay phát chưởng. Chưởng phong cực kỳ hùng hậu. Đến nỗi những người đứng dưới sân còn cảm thấy nghẹt thở. Người bịt mặt lùi lại bốn bước, rồi vung chưởng đỡ. Bình một tiếng. Người y bật lùi liền ba bước, chân lảo đảo. Y ọe một tiếng miệng khạc ra một ngụm máu tươi. Y nói:
        - Đại hòa thượng. Bản lĩnh tôi không bằng hòa thượng. Nhưng nếu hòa thượng bức bách quá. Tôi nhất định hủy tấm bản đồ này rồi chết, chứ không chịu trao cho hòa thượng.
        Triệu Thành nhảy lên nóc nhà. Y hỏi người bịt mặt:
        - Vậy điều kiện nào người mới chịu trao trả ta?
        Thình lình người bị mặt hú lên một tiếng. Y chuyển động thân hình, đã chụp được gã Triệu Thành. Y nhảy lùi liền ba bước hô lớn:
        - Tất cả ngừng tay. Bằng không ta giết tên này liền.
        Bọn Minh-Thiên, Vương Duy-Chính cùng la hoảng. Song không dám ra tay. Người bịt mặt nói:
        - Tôi yêu cầu đại sư Minh-Thiên đứng nguyên. Còn gã Triệu Anh theo tôi. Khi rời khỏi đây mấy đặm. Tôi sẽ tha chủ nhân của đại sư.
        Triệu Thành nói:
        - Tất cả không được dụng võ.
        Người bịt mặt cặp gã Triệu Thành nhảy xuống nóc nhà rồi hướng vào khu đồng rộng phi thân. Triệu Anh theo y bén gót. Minh-Thiên, Duy-Chính cùng cả bọn chạy theo xa xa. Đàm An-Hòa hô bộ hạ lên xe bỏ đi. Thanh-Mai hỏi Tôn Trung-Luận:
        - Tôn tiền bối. Tiền bối làm cách nào mà thay đổi đại cuộc mau vậy?
        Trung-Luận đáp:
        - Tôi trao bản đồ cất di thư cho gã bịt mặt. Thì ra gã là sứ giả của vua Tống sang Đại-Việt. Hèn chi trên từ An-vũ sứ cho đến tên hiệu úy đều sợ oai y.
        Rồi ông kể chi tiết biến chuyển cho mọi người nghe. Có điều ông kể trẹo đi rằng ông trao bản đồ thực cho gã mặt lưỡi cầy. Thanh-Mai nhìn sắc diện Trung-Luận. Nàng biết ông nói dối. Song nàng không nói ra. Nàng nới với Trung-Luận:
        - Gã mặt lưỡi cày là em ruột của đương kim thiên-tử nhà Tống, tước phong Bình-nam vương. Hiện giữ chức Thái-úy, trông coi tất cả binh mã Trung-nguyên. Y được lệnh đi sứ sang Đại-Việt.
        Tịnh-Huyền đưa mắt nhìn Mỹ-Linh như muốn hỏi điều gì. Mỹ-Linh đáp:
        - Khi thần nhi rời Thăng-long lên đường, không nghe nói có sứ đòan nào sắp sang cả. Dường như sứ đoàn này mới đến, và đến bất thường để tìm di thư chăng?
        Tôn Trung-Luận nói với Mỹ-Linh:
        - Công chúa. Vì sự bất đắc dĩ tôi phải nhận chức tước của triều Tống. Chứ tôi vẫn là con dân Đại-việt. Xin công chúa đừng để tâm.
        Mỹ-Linh lắc đầu:
        - Tôn lão tiền bối. Tôi tuy là công chúa. Nhưng đã kết chị em với Đản. Nếu tôi ở hoàn cảnh của tiền bối, tôi cũng phải tùng quyền. Vả lại, các sứ thần Đại-Việt sang tiến cống triều Tống, vua Tống thường hay phong chức tước cho. Họ cũng phải nhận vậy. Tống-sơn là châu nhỏ. Để tôi thưa với thúc-phụ, đưa tiền bối nhận một chức tước thực của triều đình. Tiền bối là người văn võ toànn tài. Cứ để trong bóng tối như vậy chẳng phí hòai tài năng ư?
        Đàm An-Hòa đã mang đủ ngựa xe đến. Trung-Luận cho kiểm điểm lại xe, ngựa cẩn thận. An-Hòa giao xe, ngựa rồi lẳng lặng ra đi. Đợi cho Đàm An-Hòa ra đi rồi, Huệ-Sinh nói với Mỹ-Linh:
        - Vương gia không thể dự lễ Lệ-Hải Bà-vương được. Bây giờ công chúa phải xuất hiện, đứng ra làm chủ tế. Ngày mai là hai mươi mốt rồi. Vậy bây giờ công chúa xuất hiện đi thì vừa.
        Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
        - Trong trường hợp chúng ta đang tế Lệ-hải Bà-vương, mà bọn Tống xuất hiện gây rối, thì phải đối phó như thế nào?
        Mỹ-Linh nhìn Tạ Sơn ngụ ý hỏi chàng. Tạ Sơn cương quyết:
        - Ta sẽ tiếp họ như khách. Trường hợp họ gây rối, thì binh lực trong tay, ta không thể để họ làm nhục quốc thể.
        Mỹ-Linh hỏi Tịnh-Huyền:
        - Thái cô! Thần nhi chờ chỉ dụ của thái cô mẫu.
        Tịnh-Huyền nói:
        - Tạ điện tiền chỉ huy sứ lấy triều phục mặc vào. Con cũng phải mặc triều phục. Ta với con đi trên xe, ngồi trong màn. Còn ngoài màn thì Lãm quen đường ngồi đánh xe. Còn lại tất cả đi ngựa. Mọi việc để Tạ sứ điều động.
        Tạ Sơn gọi Thuận-Tông lại gần đưa cho nó cái thẻ bài dặn:
        —Trước đây hoàng thượng đã ban mật chỉ cho đạo cấm quân Ngự-long theo hộ vệ thái tử. Cả hai đạo này ta dặn phải tới đóng ở chân núi Sơn-trang từ sớm hôm nay. Vậy hiền đệ cùng Trần Anh dùng ngựa lên đường trứơc, báo cho họ biết chúng ta sắp tới. Hiền đệ cứ đưa thẻ bài của ta ra, là hiệu úy phải tin ngay.
        Thuận-Tông hỏi:
        - Anh hai vừa nói đạo quân Ngự-long. Vậy tướng chỉ huy đó là ai vậy?
        Tạ Sơn cười:
        - Để ta nói cho em nghe. Quân cấm vệ của thiên tử đều tuyển trai tráng trong số con các quan. Họ được luyện tập, rất giỏi võ, thiện chiến, do ta thống lĩnh. Còn lại tất cả đều gọi là thiên tử binh. Thời trước đây, các đạo mang tên Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long, Bổng-nhật, Đằng-hải. Vì có tả đạo, hữu đạo thành ra mười đạo . Mỗi đạo 12.500 người, thành ra Thiên-tử binh có 125.000 người. Tất cả đều do một thái tử thống lĩnh. Đạo Ngự-long không dưới quyền ta, nhưng được đặt dưới sự chỉ huy của ta trong vụ tế Bà-vương. Tướng chỉ huy đạo Ngự-long trước đây là Mai Hựu, sau khi xẩy ra vụ Trường-yên, y bị cách chức. Song y là cha đẻ của thứ phi thái-tử Phật-Mã, nên được khoan miễn. Tướng chỉ huy hiện thời là Nguyễn Khánh.
        Thuận-Tông, Trần Anh lên ngựa đi liền. Đường đất vùng này hai đứa thuộc như trên bàn tay. Chúng ra roi cho ngựa phi như bay. Trước đây, nhà Thuận-Tông, Tôn Trung-Luận có ngựa. Bọn chúng thường tập đã quen. Song ngựa ấy là ngựa rừng, phi không nhanh. Còn ngựa của Lý Long với Tạ Sơn là chiến mã, dễ điều khiển, phi nhanh như bay.
        Tạ Sơn hỏi Mỹ-Linh:
        - Theo đúng luật bản triều thì anh em họ Đàm phạm tội đáng phải tru di tam tộc, không cần xét xử, cũng không được hưởng trường hợp Bát-nghị. Vậy sau lễ Lệ-hải Bà-vương, công chúa truyền bắt hai anh em họ Đàm đem chém đầu, rồi cho ngựa lưu tinh mang biểu tâu về triều, để bắt Đàm Can cùng cả ba họ giết sạch.
        Mỹ-Linh nhăn mặt:
        - Đúng luật thì thế. Nhưng ông nội tôi sủng ái Đàm quý phi vô cùng. Chi bằng ta cứ im lặng, đợi gặp chú hai, để chú hai quyết đoán.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 21:57:57 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 24.12.2004 16:20:29 (permalink)
          Hồi thứ mười


          Khí hùng, Trí Dũng




          Hà Thiện-Lãm, Trần Anh ngồi trên lưng ngựa hướng mắt nhìn xuống con đường dẫn tới chân núi. Bên cạnh nó, Nguyễn Khánh cũng nhìn theo.
          Nguyễn Khánh hỏi:
          - Này cậu. Tôi thấy cậu còn nhỏ tuổi. Chắc không phải bạn hữu của quan Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Khuôn mặt cậu cũng không giống người, chắc chẳng phải anh em ruột. Tại sao cậu lại gọi người bằng anh hai?
          Hà Thiện-Lãm cười:
          - Anh thắc mắc cũng phải. Nguyên chúng tôi gồm chín người kết thành huynh đệ, đặt tên là Thuận-thiên cửu hùng. Anh Tạ Sơn đứng hàng nhì. Vì vậy tôi gọi anh là anh hai.
          Nguyễn Khánh nhăn mặt:
          - Thuận-thiên cửu hùng nghe kêu thực. Tạ chỉ huy sứ thì hùng nghe được. Còn các cậu nhỏ quá, xưng hùng nghe không ổn tý nào cả. Thế chín người là những ai?
          Thiện-Lãm cười nhạt:
          - Tướng-quân khinh chúng tôi nhỏ tuổi không đáng gọi là anh hùng hẳn? Thế tôi hỏi tướng-quân câu này nhé. Theo tướng-quân thế nào mới gọi là anh hùng?
          - Thì nam nhi đại trượng phu, làm những truyện kinh thiên động địa tức là anh hùng.
          Trần Anh hừ một tiếng:
          - Sai, vừa sai vừa bậy. Tướng-quân bảo muốn thành anh hùng phải có hai điều kiện. Một, phải là nam nhi đại trượng phu. Hai phải làm truyện kinh thiên động địa. Thế vua Trưng, Lệ-hải bà-vương có là nam nhi đâu? Thế mà các ngài vẫn là anh hùng! Còn tướng-quân bảo chúng tôi còn nhỏ không đáng gọi anh hùng. Thế Phù-đổng Thiên-vương mới có mấy tuổi, đánh giặc Ân không là anh hùng sao? Điều tướng-quân hỏi chúng tôi chín người là những ai ư? Để tôi kể tên cho tướng-quân nghe. Anh cả tôi họ Lý tên Long-Bồ.
          Nguyễn Khánh nghe đến chữ Long-Bồ, y kinh khiếp:
          - Cậu không được nói đến tên húy đó. Chỉ nên dùng danh xưng vương-gia hay Khai-quốc vương là được rồi.
          Nguyên vào thời Lý, ảnh hưởng của Nho-giáo tương đối gần bằng đạo Phật, chứ không còn thuần túy Việt như hồi Lĩnh-nam nữa. Tục lệ kiêng húy cũng theo các văn gia ảnh hưởng đến đời sống, luật lệ. Trong gia tộc khi một đứa trẻ sinh ra, muốn đặt tên phải mở gia phả phía nội, phía ngọai, xét xem tên định đặt có trùng với tên của tổ tiên không? Tất cả những tên đó, con cháu phải kiêng không được nói tới, gọi là húy. Buột miệng gọi tới là phạm húy. Như trong nhà có ông cố tên Minh thì con cháu muốn nói đến tiếng Bình minh phải nói trệch đi là Bình manh hay Bình mênh. Húy như vậy gọi là húy gia. Khi đặt tên con cũng phải xét xem có phạm húy đến chức sắc trong làng, trong tổng không.
          Quan trọng hơn khi nói, cũng như khi đặt tên con phải kiêng húy các vị vua, thái hậu, hoàng hậu, phi tần, hoàng tử, công chúa. Phạm phải thì bị tội nặng. Ngày xưa đi thi cũng phải kiêng húy. Trong khi làm bài, lỡ có tiếng trùng âm, trùng tên với các vị thánh trong làng Nho như Khổng-tử, Mạnh-tử, cùng 72 vị tiên-hiền, họăc tên vua, chúa, cung điện, thái hậu, hoàng-hậu v.v. phải viết chữ nhỏ hơn, thiếu một nét và đề bên cạnh câu kính khuyết nhất bút. Ngay đến hồi thuật giả còn niên thiếu, trứơc năm 1954 tục này vẫn còn. Trong khi nói truyện lỡ miệng gọi Hưng-đạo vương là Trần Quốc-Tuấn, lập tức bị phụ huynh mắng ngay, bắt phải gọi là Đức thánh Trần hay Hưng-Đạo vương. Nói đến Phạm Ngũ-Lão phải gọi là Phạm phò mã.
          Thiện-Lãm kể tiếp, đến Lý Mỹ-Linh, Nguyễn Khánh không biết là ai. Y ngơ ngác, thì Trần Anh nói:
          - Chị tư còn có tên là Bình-Dương.
          Nguyễn Khánh à lên một tiếng. Y trố mắt nhìn hai đứa trẻ, trong đầu y nghĩ không biết hai đứa làm thế nào mà kết anh em với hoàng tử, người hiện là chúa tướng của y, có thể chặt đầu y bất cứ lúc nào. Y làm hiệu úy bấy lâu, cũng chưa từng được nhìn mặt hai người, chứ đừng nói được tiếp truyện. Mà nay hai thiếu niên này lại kết anh em với vương gia, công chúa, ắt chúng là con vương công, đại thần chứ không tầm thường. Nguyễn Khánh không dám coi thường chúng nữa.
          Vừa lúc đó từ xa xa xuất hiện một cỗ xe hai ngựa kéo. Thiện-Lãm chỉ tay nói:
          - Kìa, xa giá công chúa đến kìa.
          Nguyễn Khánh cầm tù và rúc lên hai hồi. Từ trên đền thờ Bà-vương, một hàng người mũ, áo rực rỡ đi xuống. Thiện-Lãm chú ý thấy gần đủ mặt quan văn võ tại trấn Thanh-hóa. Trong đó có cả An-vũ sứ Đàm Toái-Trạng. Các quan văn vũ đứng xếp hàng hai bên đường, dưới cổng chào kết hoa. Một người đến bên Thiện-Lãm, Trần Anh hỏi:
          - Hai thằng quỷ con ăn trộm sao dám đến dây?
          Thiện-Lãm nhận ra Đàm An-Hòa. Nó cười nhạt:
          - Ta đến đây vì theo lệnh Điện-tiền chỉ huy sứ.
          Đàm An-Hòa vung tay định tát Thiện-Lãm. Tay y vung lên, nhưng không hạ xuống được. Tiếp theo một giọng nói uy nghiêm:
          - Không thể vô phép.
          Đàm An-Hòa quay lại nhìn, thì ra Nguyễn Khánh dùng roi ngựa quấn lấy tay y. Từ lâu An-Hòa ỷ thế cha làm đại thần, chị được tuyển vào cung làm qúi phi. Y rong chơi, học võ không thành, học văn không thông. Suốt ngày lêu bêu ở Thăng-long, ăn quỵt, nói láo. Mãi năm trước đây, nhân anh ruột là Đàm Toái-Trạng đang từ chức Chiêu-thảo-sứ thăng bổ làm An-vũ sứ Cửu-chân. Y được anh cho chức hiệu-úy. Tuy chức hiệu-úy nhỏ bé. Song y ỷ thế anh, hết đe dọa dân chúng lại trêu ghẹo con gái nhà lành.
          Bấy giờ đang thời thịnh trị triều Lý, xã hội có kỷ cương, quan lại công bằng. Vì vậy An-Hòa tuy có dựa thế cha, anh, chị song không dám càn rỡ qúa độ. Mấy hôm trước y được lệnh anh, tháp tùng sứ bộ Tống điều tra vụ sứ bộ bị trộm cướp. Sau khi điều tra, y biết sứ bộ không hề bị mất trộm. Trái lại họ sang Đại-Việt ăn trộm di thư thời Lĩnh-nam. Biết thế, nhưng An-Hòa vẫn nhắm mắt tuân theo lệnh sứ bộ. Y sẵn sàng làm công việc gian manh, hy vọng sứ bộ tâu lên vua Tống, ban cho y chức tước.
          Song việc chưa đi đến đâu. Sứ bộ đã trở mặt phong chức tước cho kẻ mới trước đó mấy gìơ còn là tội nhân. Sứ bộ làm ngược, coi y như một thứ tôi mọi ngu hèn. Y cảm thấy cay đắng, vì bị vắt chanh, bỏ vỏ. Giữa lúc cay đắng. Y gặp lại Trần Anh, Hà Thiện-Lãm là hai đứa trẻ trong trấn, y đã vì tuân lệnh thiên sứ bắt trói như con chó ghẻ... đang đứng giữa đường. Y trút tất cả bực tức lên đầu hai đứa, vung tay tát, thì bị Nguyễn Khánh tung roi ngựa cản lại.
          Hồi còn làm công tử ở Thăng-long, nhiều lần phạm tội. Y đã bị đạo cấm quân bắt giam. Sau nhờ chị gái can thiệp được thả ra. Người bắt y chính là Nguyễn Khánh. Nay thấy Nguyễn Khánh, y như gà phải cáo.
          Y hỏi:
          - Nguyễn vũ-vệ đại-tướng quân xin đại-tướng quân, bắt giam hai thằng này ngay lập tức. Chúng nó là quân trộm cướp.
          Nguyễn Khánh cười nhạt:
          - Đàm công tử. Người là cái gì mà truyền lệnh cho ta? Người có biết lý lịch hai vị tiểu công tử này không, mà dám vô phép? Người liệu mà giữ cái mồm. Nếu không ta e mất chỗ đội nón.
          Đàm An-Hòa định hỏi nữa, thì cỗ xe từ xa đã đến gần. An-Hòa trố mắt nhìn. Y đưa tay dụi mắt. Không biết y trông lầm hay trong giấc mơ... kìa là hòa thượng Huệ-Sinh, kìa là đạo sĩ Nùng-Sơn tử, kìa là Tạ Sơn, kìa là Tôn Trung-Luận đang cỡi ngựa đi cạnh xe. Trên xe rõ ràng Lê Thuận-Tông đang ngồi đó. Phía sau còn Trần Thanh-Mai nữa. Chẳng thiếu ai cả. Y lại bên Đàm Toái-Trạng nói nhỏ:
          - Anh ơi, coi chừng bị lầm. Bọn trộm cướp mà em nói với anh, chính là bọn đi cạnh xe công chúa. Chỉ còn thiếu mụ sư Tịnh-Huyền, hai con bé Thanh Nguyên, Mỹ-Linh. Còn tên Tôn Đản, Trần Tự-Mai, Lý Long-Bồ trốn mất từ hôm trước.
          Nguyễn Khánh chỉ mặt Đàm An-Hòa:
          - Đàm hiệu úy. Người liệu giữ mồm. Người dám gọi tên của vương-gia, công chúa ra, đã là một tội đáng chém đầu. Người còn dám bảo Tạ chỉ huy sứ với sư phụ của thái tử là đạo tặc ư?
          Đàm An-Hòa đưa mắt nhìn anh. Thấy anh quắc mắt đầy vẻ nghiêm khắc.Y kinh hoảng đến ngẩn người ra. Y đoán chắc có điều gì bí ẩn. Trong đầu óc y, y cho rằng bọn Mỹ-Linh giả công chúa đánh lừa mọi người. Chi bằng cứ để cho chúng mạo xưng. Lát nữa y sẽ đứng ra tố cáo bắt trói cả bọn chém đầu, lập công lớn.
          Xe đã tới nơi. Đàm Toái-Trạng hô lớn:
          - Bọn hạ thần là bá quan văn võ trấn Thanh-hóa kính cẩn khấu đầu trước công chúa điện hạ.
          Mọi người đều qùi xuống hành lễ. Có tiếng thanh thoát từ trong xe vọng ra:
          - Miễn lễ.
          Hơn trăm nhạc công cử nhạc.
          Cứ như sử sách ghi, nhạc đời Lý không bị ảnh hưởng của nhạc Tống. Cũng chưa thấm mùi yếm thế của nhạc Chiêm-thành. Nhạc đầu đời Lý bắt nguồn từ chiến thắng Bạch-đằng thời tiền Lê, cùng hùng khí trong các lần chinh phục Chiêm-thành. Trống, chiêng, sáo, đàn, nhị truyền những âm thanh hùng tráng vang vang đi khắp núi rừng.
          Lý Mỹ-Linh khoan thai bước xuống xe giữa hàng trăm ngàn tiếng hoan hô, chúc tụng của bá quan văn võ, của dân chúng. Trời nắng chang chang. Dân chúng chen chúc hai bên con đường. Có người leo lên cây để chiêm ngưỡng dung nhan công chúa.
          Gió hây hây thổi, quần áo nàng bay nhè nhẹ. Nắng chiếu xuống làn da trắng mịn, làm da nàng trở thành hồng tươi. Nàng lễ phép đứng tránh sang bên cạnh, chờ sư thái Tịnh-Huyền xuống.
          Đạo Phật là quốc giáo đời Lý. Tăng-ni được đức hoàng đế độ cho, mới được đi tu. Nghĩa là ai muốn đi tu phải được nhà vua cho phép, chứ không phải cứ cạo đầu, vào chùa rồi đòi làm thầy người ta, rồi nhân danh cái này, cái nọ mà lên mặt. Vì vậy tăng ni được kính trọng đặc biệt. Hôm nay dân chúng thấy công chúa thiên kim lễ phép theo sau một vị ni sư. Họ cho rằng nàng là đệ tử, không dám đi trước sư phụ. Nào ngờ Tịnh-Huyền là thái-cô, trước đây là công chúa. Đừng nói Mỹ-Linh, đến thân phụ của nàng là thái-tử Phật-Mã tước phong Khai-thiên vương cũng không giám đi trước bà.
          Quan tổng trấn Thanh-hóa Đinh Ngô-Thương hỏi Tạ Sơn:
          - Tạ chỉ huy sứ. Trong chiếu chỉ hoàng thượng dạy rằng Khai-quốc vương cùng công chúa gía lâm. Sao nay chỉ có công chúa?
          Tạ Sơn nói sẽ vào tai Đinh Ngô-Thương:
          —Quan tổng trấn nói sẽ thôi. Vương gia có việc cơ mật, không thể xuất hiện. Người giả dạng dân chúng, thăm dân cho biết sự tình.
          Câu nói của Tạ Sơn làm Đinh Ngô-Thương kinh hỏang. Y có con gái được tuyển làm thứ phi của thái-tử Phật-Mã vì vậy được cử vào vào tổng trấn vùng Thanh-hóa. Uy quyền của y như ông vua con. Y dùng tiền bạc đút lót các quan trong triều hầu che dấu những điều tồi tệ xẩy ra. Nay đích thân thái tử đi điều tra, thì sao y dấu được. Y biết, thái-tử thứ nhì tước phong Khai-quốc vương, mới được cử lĩnh chức thái-úy, thống lĩnh quân quốc trọng sự, kiêm nhiệm tổng trấn từ Trường-yên cho tới biên giới Chiêm-thành. Quốc-vương Bồ là người tài kiêm văn võ, trị quân rất nghiêm. Y cảm thấy lo lắng không nguôi.
          Một cỗ kiệu, do tám thiếu nữ trong y phục mầu xanh, dây lưng vàng hạ trước Lý Mỹ-Linh. Đinh Ngô-Thương kính cẩn:
          - Khải tấu công chúa điện hạ. Mời công chúa điện hạ lên kiệu.
          Mỹ-Linh ngoắt tay ra hiệu:
          - Cảm ơn Đinh tổng trấn. Tôi không cần kiệu.
          Nói rồi nàng thoăn thoắt theo Tịnh-Huyền lên núi. Đi đón công chúa có đủ mặt mệnh phụ phu nhân. Các bà cho rằng công chúa ắt liễu yếu đào tơ. Nay thấy Mỹ-Linh leo núi nhẹ nhàng. Không những leo núi dễ dàng. Nàng còn dừng lại thăm hỏi dân chúng đang đứng chào hai bên đường. Nàng đi đứng nhanh nhẹn, phiêu hốt như một thiên tiên. Dân chúng những tưởng phen này sẽ được thấy một công chúa trong y phục sang trọng. Nào ngờ, họ chỉ thấy Mỹ-Linh mặc quần lụa đen, với chiếc áo tứ thân mầu mỡ gà. Nàng lại không mang một món nữ trang nào, ngoài bông hoa nhài trắng mà Thuận-Tông đã cài lên mái tóc nàng hồi trưa. Các mệnh phụ phu nhân quần áo, son phấn lòe loẹt, người đeo đầy nữ trang, tự nhiên cảm thấy ngượng ngùng.
          Bá quan cũng như dân chúng đều cảm thấy ở vị công chúa này tàng trữ những tình cảm ấm áp, dễ thân cận. Cạnh Mỹ-Linh họ thấy Thanh-Mai, một thiếu nữ ẻo lả, có sắc đẹp tươi hồng, nhưng bước đi nhẹ nhàng, thân thể nẩy nở cân đối. Họ càng ngạc nhiên khi thấy bọn Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Trần Anh là những thiếu niên nổi tiếng nghịch ngợm ở trấn Thanh-Hóa đi cạnh công chúa.
          Lăng bà Triệu khá lớn. Phía trước là cổng bằng đá. Hai bên có cột đề đôi câu đối. Phía sau cổng, trải ra sân với một hàng tượng đá. Từ ngòai vào, hai tượng hổ, rồi tới hai tượng voi. Cuối cùng hai tượng rồng chầu. Ở giữa là tấm bia. Tấm bia này được dựng vào thời kỳ vua Ngô Quyền còn trấn tại đây. Qua một lần cổng nữa mới tới lăng. Phía sau lăng là đền thờ.
          Lăng đã được làm cỏ sạch sẽ. Cây cối cắt xén gọn gàng. Tượng đá lau chùi bóng loáng. Từ cổng, chiếu hoa trải dài vào trong. Hơn 10 cái bàn phủ vải đỏ chói. Trên bàn bầy đồ tế. Bởi cuộc tế bà Triệu do hoàng tử, công chúa đại diện đức Đại-Việt hoàng đế đứng chủ. Lễ vật do ba nơi đến. Một là do công nho trấn Thanh-hóa đài thọ. Một phần do hội Lệ-hải Bà-vương mua sắm. Một phần do thập phương dâng lễ. Hơn hai mươi cái rạp, cột gỗ, mái tranh mới được cất lên theo hình chữ phẩm . Trong mỗi rạp, có mười hàng ghế bằng tre. Các cột rạp kết bông, lá rất đẹp.
          Mỹ-Linh được mời ngồi vào chiếc ghế bọc gấm đặt giữa rạp chính. Cạnh nàng là sư thái Tịnh-Huyền, hòa thượng Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử. Phía sau là Thanh-Mai, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Thanh-Nguyên. Còn Tạ Sơn điều khiển đám thị-vệ bao vây quanh lăng.
          Theo đúng chương trình đã được duyệt trước, lễ tế Lệ-hải bà vương có ba phần chính. Phần đầu tuyên đọc sắc phong của Thuận-thiên hoàng đế (Lý Thái-tổ), phần thứ nhì là lễ nghi tôn giáo, tế Bà-vương. Phần thứ ba cực kỳ quan trọng, Khai-quốc vương, lĩnh Thái-úy phụ quốc, thống lĩnh quân quốc trọng sự đại diện hoàng đế tiếp đại diện các gia, các phái võ bàn truyện giữ nước.
          Cứ như bộ Việt-sử lược của một tác giả vô danh viết đời Trần, và bộ Tư-trị Thông-gíam trường biên của đại sử gia Lý Đào đời Tống thì vào các vua đầu triều Lý, triều đình dùng đạo Phật cai trị dân, được dân kính trọng tuyệt đối. Trên cao, vua lấy đức từ bi, hỉ xả của đạo Phật ban ân cho dân. Các quan thì thanh liêm hết lòng hết dạ thương yêu trăm họ. Vì vậy sĩ dân thiên hạ với triều đình như một. Triều đình xướng xuất điều gì, khắp nước đều răm rắp tuân theo. Phần trên đã thuật lời của các nhân vật, nhân bàn về xuất thân của vua Lý Thái-tổ. Những lời đó, được đời sau huyền thọai hóa đi. Thực sự chính nhà vua lại không hề tủi hổ về đường xuất thân của mình. Có thuyết nói ngài là con hoang, mẹ sợ không chồng mà chửa, bị làng bắt phạt, đem con bỏ ngòai chùa rồi nhà sư Lý Khánh-Vân đem về nuôi.
          Sự thực, cho đến nay,sử không cho biết đích xác thân phụ ngài là ai. Chỉ biết ngài sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp-tuất ( 8-3-974), băng hà ngày 3 tháng 3 năm Mậu-thìn (31-3-1028). Về nguồn gốc của ngài rất mơ hồ. Sử chỉ cho biết rằng, ngài có anh trai, em trai, em gái. Anh em mồ côi cha từ nhỏ, mẹ không đủ sức nuôi, đem ngài lên ở chùa. Nhà sư Lý Khánh-Vân thấy ngài thông tuệ khác thường nhận làm con nuôi, vì vậy ngài mang họ Lý. Ngài còn được thiền-sư Vạn-Hạnh thu làm đệ tử.
          Vạn-Hạnh thiền-sư là người hô hào sĩ dân Đại-Việt bỏ qua thù hận việc Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, cùng đứng dậy chống quân Tống. Sau khi đuổi giặc Tống, ngài được tôn làm Quốc-sư. Lý Công-Uẩn là đệ tử của ngài, nên đường tiến thân mau chóng. Hơn nữa được gả công chúa, mà thành phò mã. Dưới thời Lê Ngọa-triều, Lý làm tới Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Tương đương với ngày nay là Tổng Tư-lệnh quân đội. Khi Lê Long-Đĩnh chết, tức em vợ ông. Ôâng được người sư điệt Đào Cam-Mộc là Vũ-vệ đại tướng quân, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh lục quân hô hào triều thần tôn lên làm vua.
          Việc đầu tiên của Lý Công-Uẩn khi mới lên ngôi vua, là tôn sư phụ Vạn-Hạnh làm Quốc-sư, dùng niên hiệu Thuận-thiên tỏ ý rằng ngài thuận theo mệnh trời mà lên làm vua. Ngài phong cho mẹ làm Thái-hậu Minh-đức, truy phong cha làm Hiển-khánh đại vương. Phong cho em gái làm công chúa Hồng-Châu. Phong cho anh làm Vũ-uy vương, phong cho em là Dực-thánh vương. Phong cho em con chú các chức đô thống, tổng-quản, tướng-quân. Như vậy ngài biết rõ cha là ai, mình họ gì. Song là người biết ơn nghĩa, ngài không trở về họ mình, mà vẫn giữ họ của nghĩa-phụ.
          Xuất thân con nuôi một vị sư, được một vị sư thu làm đệ tử, nhờ thế lực Phật-gíao lên làm vua. Ngài tự biết mình có tài, nhưng không phải là vua đựng nước bằng chiến công như vua An-Dương, lại càng không thể sánh bằng vua Trưng. So với tiền Lý, Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Tiên-Hòang, dựng nghiệp bằng chiến công đuổi ngọai xâm. Đến vua Lê Đại-Hành, tuy dựng nghiệp bằng đường lối xấu xa, nhưng cũng có chiến công che lấp. Ngài dựng nghiệp hơi giống Lê Đại-Hành, mà không có công lao gì. Bởi vậy ngài lấy việc chăm lo hạnh phúc cho dân làm gốc.
          Mạnh-Tử nói Nhân chi sơ tính bản thiện. Con người ta không bao gìơ xa được cái giáo dục hồi thơ ấu. Thơ ấu của Lý Thái-tổ là gì? Mồ côi cha, được nuôi trong chùa. Chùa ở Việt-Nam, Trung-quốc, Nhật-bản, tuy có đời sống đạm bạc, song cung cách đối xử cực kỳ thanh nhã, khoan hòa, từ ái. Người đã sống trong khung cảnh một ngôi chùa từ nhỏ, sau này không thể nào bỏ được nếp sống đó (Trừ những người đi tu phá giới). Cho nên trong suốt 19 năm trị vì, ngài không bao giờ quên nhiệm vụ một Phật-tử, là luôn hoằng dương đạo pháp: truyền in kinh sách, xây chùa, cùng trùng tu chùa.
          Về cuối đời, bị ảnh hưởng của các con, ngài đồng ý cho các vị hoàng-tử phát triển kinh tế, huấn luyện thanh niên, mưu đòi lại phần đất bị Trung-nguyên chiếm mất từ thời Lĩnh-nam. Người chủ xướng là hòang-tử thứ nhì, tước phong Khai-quốc vương. Chứ ngài, thì ngài chủ trương cần giữ lấy mảnh đất Đại-Việt là đủ rồi. Gây chiến tranh, chỉ thêm núi xương, sông máu, mà có đòi lại được đất cũ cũng khó giữ.
          Thanh-Mai hỏi Nùng-Sơn tử:
          - Đại sư bá, chí hướng đòi lại đất tổ của anh cả khởi nguồn từ đâu? Và từ bao gìơ?
          Nùng-Sơn tử nói sẽ vào tai nàng:
          - Bắt đầu vào niên hiệu Thuận-thiên thứ 4 (1013) tức năm Qúi-Sửu, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ 6 (đời vua Tống Thần-tông). Vương gia được 13 tuổi. Nhân quan thái-phó giảng Bắc-sử, Nam-sử cho các hoàng tử nghe, với sự chứng kiến của hoàng-thượng. Khi giảng đến đọan vua An-dương sai Trung-tín hầu cầm quân, diệt 50 vạn quân Tần, giết Đồ Thư ở Thiên-cấm-sơn. Các hoàng-tử khác không nói gì. Chỉ riêng Vương-gia đặt câu hỏi : Tại sao sau khi thắng giặc, vua An-Dương không nhân đó chiếm lại vùng Tượng-quận, Nam-hải, Hợp-phố? . Hoàng-thượng nhân đó hỏi các con : Nếu các con là vua An-dương, các con sẽ làm gì? . Thái-tử Phật-Mã đáp : Con hành động như vua An-dương, giữ vững phần đất còn lại, vỗ về trăm họ. Các thái tử khác im lặng không có ý kiến. Riêng Vương-gia, người khảng khái : Trung-nguyên với Lĩnh-nam vốn phân cương giới từ thời vua Đế-Minh, lấy Ngũ-lĩnh làm mốc. Trung-nguyên trải qua Hoàng-đế, Hạ, Thương, Chu, Tần. Lĩnh-nam trải qua triều Hồng-Bàng, Thục. Tiếng nói, văn tự, phong tục, cho đến ăn uống, y phục khác nhau. Tần Thủy-Hoàng thống nhất Trung-nguyên còn chưa cho là đủ. Y muốn xâm lăng Lĩnh-nam. Nếu cứ nhường nhịn mãi, rồi một ngày kia nước không còn. Nếu con là vua An-dương, con sẽ chỉnh bị binh mã, thừa thắng, tiến lên đuổi giặc Tần đòi lại đất cũ .
          Thanh-Mai gật đầu:
          - Tuyệt! Thế hoàng thượng phán gì?
          —Ngài gật đầu khen : Khí hùng, trí dũng. Tiếc rằng vua An-dương không làm thế . Tiếp đến khi quan thái-phó giảng tới thời Lĩnh-nam, đến đoạn công-chúa Gia-Hưng đem quân định diệt nhà Hán, cai trị Trung-nguyên. Vương-gia suýt xoa khoan khoái trong lòng. Hoàng thượng lại hỏi ý kiến các con. Thái-tử Phật-Mã khen vua Trưng có quyết định sáng suốt là rút quân về. Vương-gia lại không đồng ý. Người nói Nếu con là vua Trưng, con truyền lệnh cho công chúa Nguyệt-đức từ Tượng-quận hợp với Vương Nguyên từ Thục đánh ra ngả Trường-an. Công chúa Phật-Nguyệt vượt Trường-giang đánh chiếm Kinh-châu. Thời trước, Triệu-Đà chẳng từng đem quân đánh Nam-quận, Trường-sa đó sao? Còn đại-tư-mã Đào Kỳ, tể-tướng Phương-Dung đem quân theo tiếp viện. Công chúa Thánh-Thiên vượt Nam-hải đánh vào vùng Triết-giang. Như vậy chắc chắn Quang-Vũ phải bỏ Lạc-dương mà chạy. Ta chia Trung-nguyên làm ba. Phần phía Tây trả cho Thục. Phía Đông giao cho Hợp-phố lục hiệp. Trung-nguyên chia làm ba đánh nhau. Lĩnh-nam ta yên ổn. Chỉ cần mười năm, bấy gìơ Trung-nguyên có thống nhất ta không sợ họ nữa .
          Thanh-Mai lắc đầu:
          - Không được rồi. Chắc chắn vương gia với anh cả sẽ cãi nhau lớn.
          Nùng-Sơn tử ngạc nhiên:
          - Sau cháu biết?
          - Cháu đoán vậy thôi. Thái-tử Phật-Mã như tên mang, với lòng dạ nhân từ của Phật-tử, chắc chắn sẽ không chấp nhận đường lối chiến tranh. Hơn nữa Thái-tử Phật-Mã sợ phụ hoàng chấp nhận đường lối của anh cả. Khi đường lối đó được thi hành, đương nhiên anh cả sẽ là người cầm quân. Dù thái-tử có tin anh cả mấy chăng nữa, thì cái gương sau khi Lê Hoàn chết, Long-Đĩnh giết anh tranh ngôi vua cũng làm cho thái-tử sợ rằng em nắm quyền, ngôi vua của mình lung lay.
          - Đúng thế. Nghe em phát biểu, mặt thái-tử nhợt nhạt, tỏ ý không vui. Cháu nên biết tất cả vua Trung-quốc cũng như Đại-Việt, đương thời trị vì, đều chỉ định trừ quân, sau kế nghiệp. Trừ quân được gọi là thái tử. Song Thuận-thiên hoàng đế không làm thế. Tất cả các con trai của ngài đều được phong thái tử. Ngài còn ban dụ trong các em cũng như con, ai tỏ ra có tài trị quốc, thu phục được nhân tâm ta sẽ truyền ngôi cho . Vì vậy giữa các vương có sự tranh đấu quyết liệt để được chỉ định là trừ quân.
          - Thế các vương nào đã được hoàng-đế chú ý?
          - Khai-thiên vương tỏ ra là người nhân từ, rất được lòng các bà hoàng hậu cùng thứ phi. Dực-thánh vương võ công cao cường, tài kiêm văn võ, hiện được giữ quyền Đại-đô đốc thống lĩnh thủy quân, thành ra các quan đều có ý tôn người làm trừ quân. Vũ-đức vương lại là Binh-bộ thượng thư, tướng soái nể phục. Đông-chinh vương là Lại-bộ thượng thư, cai trị dân bằng đạo đức.
          - Hiện chức tước các vương ra sao?
          - Lớn tuổi nhất anh ruột của hoàng thượng được phong Thái-phó, trung thư thị lang, bình chương sự, Đăng-châu tiết độ sứ, Vũ-uy vương . Vương rất hiền lành, không tranh dành với ai. Thứ đến em hoàng thượng, được phong Thái bảo, Trung thư lệnh, Đại Đô-đốc, thống lĩnh thủy quân, Dực-thánh vương . Vương nhiều mưu, lắm mẹo, thân với Tống triều.
          - Như vậy về võ chức, cấp bực Dực-thánh vương cao hơn Vũ-uy vương. Còn về văn, Dực-thánh thấp hơn Vũ-uy một bậc.
          - Đúng thế. Thái tử trưởng Phật-Mã được phong Thái phó, thượng thư lệnh, bình chương sự, Long-thành tiết độ sứ, Khai-Thiên vương . Thái tử thứ nhì là chủ nhân bần đạo mới được phong Thái-úy, Thượng-trụ quốc, chưởng quản Khu-mật viện, Phụ-quốc đại tướng quân, Tổng-đốc binh mã, Khai-quốc vương .
          Thanh-Mai hiểu ra:
          - Như vậy anh cả tiểu nữ được phong chức lớn nhất. Văn chỉ thua Thái-sư. Võ người lên tới Phụ-quốc đại tướng quân, tức tột đỉnh. Đã vậy còn lĩnh Khu-mật viện. Hà, quan trọng đấy. Còn ý kiến các quan về việc lập trừ quân?
          - Tạ Sơn lĩnh Nội-điện chỉ huy sứ, Khu-mật viện sứ, thống lĩnh Ngự-lâm quân, chỉ biết có vương gia. Quan Tư-đồ, kiêm thị trung Tả Bộc-xạ Trần Nam-Sơn đứng giữa. Quan Tư-không kiêm Thị- trung, thượng thư Hữu Bộc-xạ Đào Kiến thân Khai-Thiên vương. Quan Thái-sư Trần Phương thân Vũ-đức vương. Đô nguyên-soái Đàm Can thống lĩnh thập đạo Thiên-tử binh thân với Dực-thánh vương.
          - Như vậy cho đến giờ phút này hoàng thượng vẫn chưa quyết định đấng trừ quân?
          - Nguyên do, như cô nương đã biết. Đến tháng tám này, các đại tôn sư võ học hội nhau ở Thăng-long, quyết định việc phù Lê, phù Lý. Cái nguy nhất của hoàng thượng là phái Đông-a, phái Sài-sơn. Cho nên hoàng thượng truyền chỉ cho các thái tử, rằng ai thu phục được, hoặc hoá giải được hai mũi dùi này, ngài sẽ truyền ngôi cho.
          Ông ngừng lại một lát rồi tiếp:
          - Vương gia rất hào phóng, người đem hết của cải riêng tư bán đi, dùng tiền đó tu bổ đền thờ các anh hùng thời Lĩnh-nam. Theo luật của bản triều, khi các thái tử mười ba tuổi được mở phủ đệ riêng, tuyển vương phi. Thái-tử Phật-Mã năm mười hai tuổi đã tuyển bẩy bà chính-phi, hai mươi bốn phi-tần, hơn trăm mỹ-nữ. Khi hoàng thượng tỏ ý kén vương-phi cho vương-gia. Vương-gia không muốn vướng víu thê nhi sớm. Người hỏi ý kiến đại-sư Huệ-Sinh. Đại-sư đồng ý với Vương-gia. Hôm sau vào chầu hoàng-thượng với hoàng-hậu, vương-gia tâu : « Con sinh ra được cái may mắn hơn phụ hoàng, vì đã là con vua. Phụ-hoàng thì mồ côi, nghèo khổ. Nếu nay con vội say mùi phú qúi, rồi mai một chí khí đi. Vì vậy con luôn nhớ đến việc phụ hoàng lập nghiệp gian lao. Con xin phụ hoàng cho con khoan việc thê nhi ít năm đã. Vả hiện con đang luyện Thiền-công, nếu sắc dục vào, thì còn đâu công lực nữa. » Hoàng-thượng không ngớt khen ngợi vương-gia.
          - Nhưng đêm ấy hoàng-hậu Tá-Quốc tâu rằng : Vương-gia dối cha lừa mẹ. Vì vương-gia tuy tập Thiền-công Tiêu-sơn thực, song chưa đến trình độ phải kiêng nữ sắc.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Hoàng-hậu thiên vị con trưởng hại con thứ sao?
          - Không phải thế. Hoàng-thượng có ba hoàng-hậu. Hoàng-hậu Tá-Quốc sinh ra Khai-Thiên vương. Còn hoàng-hậu Lập-Nguyên sinh ra vương-gia. Hoàng hậu Tá-quốc là công chúa của vua Lê Đại-hành.
          Nùng-Sơn tử ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
          - Khi nghe tâu như vậy, hoàng-thượng giận lắm. Đang đêm triệu vương-gia vào. Ngài không nói không rằng ra chiêu Phổ-quang chưởng đánh vào vai vương-gia. Vương-gia vận công chịu đòn.
          Thanh-Mai ngạc nhiên:
          - Thế nghĩa là gì?
          - Võ nghệ của vương-gia đều do hoàng thượng dạy. Võ công của hoàng-thượng gốc từ Tiêu-sơn. Nguyên trước đây việc dạy nội công cho tục gia đệ tử và Phật-gia đệ tử hoàn toàn giống nhau. Đến đời tổ thứ tám, là ngài Vô-Ngại, thì có sự thay đổi. Tục gia đệ tử tập Thiền-lực, áp dụng vào việc tập võ. Còn Phật-gia đệ tử học Thiền-tuệ làm chính, Thiền-lực làm phụ. Vì Thiền-tuệ để đi vào con đường giải thoát. Hoàng-thượng chỉ được dạy Thiền-lực thì không kiêng nữ sắc. Bây giờ nghe Vương-gia nói tập Thiền-công kiêng nữ sắc, rồi nghe hoàng hậu Lập-Quốc tâu vậy, ngài mới ra chiêu, để thử công lực vương-gia. Khi chưởng đánh xuống, một kình lực nhu hòa làm tiêu tan công lực hoàng thượng. Ngài mỉm cười hỏi vương-gia : « Thực là đại phúc. Con định đi tu chăng? Cao nhân nào trong bản phái đã thu con làm đệ tử . » Vương-gia nói thực là đại-sư Huệ-Sinh. Hoàng thượng nghe vậy thì tươi nét mặt phán : « Đại sư huynh ta gớm thực, nhận con làm đệ tử mà dấu ta. Đại phúc, ta đông con, mong có người đi tu mang phúc về cho giòng họ. Không ngờ con là người ta ước nguyện. Tuy vậy, con phải ở trần thế một thời gian, cứu dân, độ nước đã, rồi hãy hạc nội mây ngà . » Hôm sau hoàng thượng ban chỉ cho vương-gia trấn nhậm vùng Trường-yên.
          Thanh-Mai nghe đến đây, lòng nàng nổi lên cơn bão táp. Nàng tự hỏi:
          - Như vậy anh cả đi tu chăng? Nếu định đi tu, sao còn theo đuổi ta ở Trường-yên, gửi hoa tặng mấy tháng liền? Rồi chàng đề thơ ở gốc đào tỏ ý thương nhớ ta? Rồi hôm rồi, trên núi Chung-chinh, đã cùng ta tâm tình gần trọn đêm. Ta phải dò mới được.
          Thanh-Mai hỏi tiếp tục :
          - Thì ra thế. Từ qua đến giờ cháu cứ thắc mắc tại sao anh cả tuổi đã hai mươi bẩy mà chưa tuyển phi-tần. Ai ngờ anh cả vượt ra ngoài đời sống thế tục. Không biết anh cả cháu đã thụ giới tỳ-kheo chưa?
          - Vương-gia muốn, mà đại-sư Huệ-Sinh chưa cho. Đại-sư muốn Vương-gia trả hiếu cha mẹ, trả hiếu đất nước đã.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 21:59:10 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9