Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 69 bài trong đề mục
Tác giả Bài
duongbq88
  • Số bài : 28
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.05.2008
Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 22.05.2008 01:14:28
Hoa cỏ may

(Xuân Quỳnh)


Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu

Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa

Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay?


Lời bình:

Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh tương đối tĩnh lặng, hợp với tâm trạng của người đang tìm về kỷ niệm... Câu thơ giàu hình ảnh mà thiếu âm thanh. Có cây mà không nghe thấy tiếng lá, sông đầy mà không nghe thấy tiếng sóng. Tất cả ngưng đọng cho một sự hồi tưởng... Xao xuyến vốn là từ chỉ trạng thái, nhưng ở đây, trước hình tượng trời-đất (không gian) nó gợi âm thanh nhiều hơn. Nhưng âm thanh ấy phát ra từ đâu? Từ cái không gian đang chuyển mùa kia chăng?... Ta lại phải trở lại với câu thơ đầu để tìm đến với những hình ảnh cụ thể hơn. Ấy là cát, là sông, và nhất là cây. Dừng lại ở cây, nhập vào cây. Và khi cái xao xuyến ấy đã nhập vào cây rồi, thì đó là gió và chỉ còn là gió. Ấy là nhiều khi chỉ nghe âm thanh, ta đã nhận ra sự vật phát ra âm thanh, hoặc (như trường hợp) nhận ra cái gì đã tác động vào sự vật nào để phát ra âm thanh ấy.
Mà cứ gì tác giả phải gọi đích danh. Thật ra: Tên mình ai gọi sau vòm lá thì cũng là lời của gió đấy thôi - có ai vào đây nữa. Tất cả im vắng quá. Vả lại cái tên của Xuân Quỳnh - như một nhà thơ đã từng ngợi ca - tên em lẫn vào tên hoa tên lá - thì cũng phải xen cùng ngọn gió mới thật tỏa hương. Tuy nhiên, gió ở đây thì cũng là ngọn gió thời gian không ngớt thổi (XD) trong tâm tưởng nhà thơ... đưa những tiếng gọi xa xưa vọng về... cho nên câu thơ mới dừng lại ở chỗ tác giả tự hỏi mình, điệu đàng. Và vì thế mà lửng lơ không cần hỏi chấm (?) Khác hẳn với câu thơ sau:
Lối cũ em về nay đã thu
Đại từ em đã khiến cho câu thơ ở một tư thế khác. Nó không còn đơn lẻ đứng một mình. Đây bắt đầu là một sự khẳng định, một lời đáp lại. Mà tiếng chim gọi đàn thực sự đã được cất lên từ hai câu trong bài thơ Gió cỏ may:
Thế đấy mùa thu đã lại về
Có ai quay lại quãng đường đê...
Người đọc có thể không cần biết đến đây. Nhưng cũng nên biết đến quãng đường đê này. Vì từ đấy nó sẽ trổ lên thứ hoa cỏ may của Xuân Quỳn, khi mà trong bức tranh thơ, gom nhặt lại chị cũng chỉ mới giới thiệu với chúng ta những hình ảnh dòng sông, bãi cát.
Nếu như ở câu thơ đầu, nhạc thơ được mở rộng ra với vần ơ, rồi đến câu sau dài ra với vần ua, và đến câu thơ thứ tư co rút lại ở vần u thì sự hướng ngoại của người đọc cũng lần lượt diễn ra như vậy. Thoạt tiên trải ra với cát, với sông, với cây, rồi mở rộng ra đến không gian, rồi câu thứ ba lại thu về trong một vòm, để rồi cuối cùng bị rút lại, tập trung ở đôi bàn chân bồi hồi đặt trên lối cũ. Từ đây, người đọc bắt đầu từ giã ngoại cảnh, để cùng bước vào thế giới nội tâm của tác giả, cùng với nỗi niềm tự sự.
Khổ thơ thứ hai, câu chữ được cấu trúc thoáng hơn, mạch thơ bằng phẳng hơn, có tư thế thoải mái của một người đắng cay gửi lại bao mùa cũ. Thôi thì, gió thổi mây bay, ai chẳng có một thời mà những ước mơ bị cuốn theo chiều gió, theo sức hút của một người nào đó. Con người- khi đã có tuổi rồi thường điềm tĩnh nhìn lại quá khứ để mà giữ thăng bằng cho cuộc sống hiện tại của mình, cho nên dẫu mây trắng bay đi, trời xanh còn ở lại. Đó là cõi lòng trải qua những phong ba bão tố, đã lấy lại được những mầu sắc ban đầu, trở nên cao và thanh thản. Thơ viết đôi dòng theo gió xa là câu thơ biểu lộ tâm trạng như vậy. Theo tôi, có thể lấy câu này là tên hoặc đề từ cho bài thơ Hoa cỏ may. Vì nó bao hàm được cả chủ đề lẫn mục đích của bài thơ: đây là đôi dòng tác giả viết gửi theo gió xa - tất nhiên ta đã hiểu Gió ở đây chỉ là một nhân vật được mai danh ẩn tích.
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy
Vậy là hồn Gió vẫn còn lẩn quất đâu đây, trong từng câu thơ, như mũi kim len trong mảnh vải, lúc ẩn lúc hiện. Rõ ràng trước bức tranh khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may không ai không thấy Gió đang khơi động, đang nổi. Thậm chí nó còn có hơi hướm ở câu thơ dưới - trong một sự "sơ ý": Áo em sơ ý cỏ găm đầy, bởi thật ra thì, hoặc đó chỉ là một cách nhận lỗi làm duyên, hay là tự trách mình để mà hờn mát... Sự thật một khi hoa cỏ may đã dâng khắp nẻo như thế kia, thì áo em... găm đầy cũng là một điều hiển nhiên không thể tránh. Lỗi là ở Gió. Tôi chợt nhớ tới hai câu thơ của Nguyễn Bính:
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em
Và Phạm Công Trứ - một cây bút vừa xuất hiện - với: Trăng vàng, đêm ấy, bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may. Thì ra trong sự liên tưởng, các nhà thơ vẫn có những điểm gặp nhau. Hoa cỏ may được ví với lời thề, phải chăng vì nó dễ găm, và đồng thời dễ gỡ? Tổng hợp những ý thơ vừa dẫn, tôi nhận thêm ra điều Xuân Quỳnh định nói ở câu thơ thứ hai này. Đó là: Mình quả là đã "sơ ý" khi để cho những lời bày tỏ... và cũng có thể là lời hứa hẹn... của người in vào niềm tin của mình, như hoa cỏ may găm dày trên áo. Để rồi có lúc phải phân vân, suy đoán và thầm trách:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay?
Xuân Quỳnh rất đạt khi đưa cái màu khói vào trong bức tranh. Bản thân nó cũng mỏng manh dễ tan, nữa là trong một không gian ngợp tràn những gió. Lời yêu là thế đấy. Thật cũng chẳng thể nào lường trước. Cô gái đã từng thốt lên trong bài Mùa hoa doi năm xưa những lời da diết: Đốt lòng em câu hỏi/ Yêu em nhiều không anh? giờ đây lại thêm lần nữa nghi vấn: Ai biết lòng anh có đổi thay?
Dùng câu hỏi này để kết thúc bài thơ, theo tôi, Xuân Quỳnh đã tìm ra một cách ứng xử thật cao tay. Cuộc sống cứ trôi đi, con người phải sống với phần hạnh phúc mà họ còn đang có. Nhìn lại những kỷ niệm xưa cũng là một cách gạn đục khơi trong để lọc lấy những phần đẹp đẽ cho mình. Đây không phải là lúc quy kết, phân định xem lầm lỗi thuộc về phía bên nào. Bởi dù sao thì, tình yêu là một vấn đề rộng lớn. Nó chỉ thật sự có ý nghĩa khi nó làm đẹp thêm cho cuộc sống. Và tôi nghĩ: đó chính là tấm lòng nhân ái của tác giả bài thơ Hoa cỏ may.
Phạm Khải

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.06.2008 11:54:12 bởi duongbq88 >
I love you, never and forever.

duongbq88
  • Số bài : 28
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.05.2008
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 22.05.2008 01:17:39
Cô tấm đã vào cung vua
TG: Nguyễn Hữu Quý

Cô tấm đã vào cung vua
Lều gianh mẹ ở nắng mưa một mình
Phận nghèo thất thểu lênh đênh
Miếng cơm nguội mấy đồng trinh bẽ bàng!
Đời ơi, chiếc bị đa mang
Thị còn đọng lai chút hương gọi là
Miếng trầu cánh phượng - giấc mơ
Cũng bay theo những tiếng gà tàn canh?
Đường mòn còn bóng thị xanh
Chẳng còn cô Tấm, lều gianh rã rời
Bị hành khất đã theo người
Thương chưa giáng mẹ lẻ loi xế chiều!
Góc làng một mái rạ xiêu
Lầu son có thấu phận nghèo mẹ ta?
Gậy tre theo bước tuổi già
Lúc vào lối chợ khi qua sân chùa
Cô Tấm đã vào cung vua
Lều gianh mẹ ở nắng mưa một mình...


lời bình:
"Cô tấm đã vào cung vua
Lều gianh mẹ ở nắng mưa một mình.."
Chưa vội đi sâu vào nội dung, mà hãy chú ý đến vần trắc thứ 2 ở câu sáu trong câu lục bát ở đây. Nếu theo đúng luật thì tất cả chữ thứ hai ở mỗi câu đều phải là vần bằng, trừ trường hợp có tiểu đối ở câu sáu hoặc đổi vần ở câu tám.
Nếu không phải vì thế mà vẫn phá luật, chứng tỏ cái tình ở trong câu thơ phải có gì trắc ẩn. Tác giả không thiếu gì từ ngữ và kĩ thuật để có thế đặt một vần thơ đúng luật vào câu thơ. Việc đặt một vần trắc vào đây rõ ràng có chủ ý. Đọc đến câu sau ta thấy rõ cái chủ ý đó và cảm thấy thực tế ở đây thật đáng trách: Cô Tấm được ở lại cung vua rồi thì đời mẹ lại tiếp tục: "phận nghèo thất thểu lênh đênh" như một định mệnh.
Nhưng dẫu cho thực tế có bẽ bàng như vậy, mẹ nghèo của ta vẫn không hề oán trách cô Tấm nửa lời. Trái lại những kỉ niệm êm đềm và trong sáng về cô Tấm vẫn còn theo mẹ vào cả trong giấc mơ, ra ngoài đời thực. Đó là miếng trầu cánh phượng chỉ tay cô Tấm mới têm nổi. Đó là bóng thị xanh trên con đường mòn mẹ thường qua lại. Quả thị lẫn người trong quả thị dẫu không còn bên mẹ nhưng bóng thị như vẫn còn rất xanh để an ủi mẹ. Không còn quả thị thơm để mà ngửi mà ngắm nữa, mẹ nghèo vẫn tin trong chiếc bị hành khất của mình dù sao vẫn còn: "thị còn đọng lại chút hương gọi là"
Hơn một nửa bài thơ để nói về cuộc sống hành khất, đơn lẻ lúc xế chiều của mẹ nghèo. Điều đó làm ta phải chạnh lòng chợt nghĩ: phải chăng đây là sự tóm tắt của :"Hậu Tấm Cám". Cuộc đời này phải mắc nợ mẹ nghèo nhiều lắm, vì bà đã nuôi cô Tấm - hiện thân của chính nghĩa - đấu tranh chống lại phi nghĩa. Mẹ nuôi cô Tấm để góp phần bảo vệ chính nghĩa để cho cuộc đời này mãi mãi không còn những bà mẹ ghẻ độc ác nữa. Kẻ độc ác bị trừng trị, cô Tấm lại được trở về cung làm hoàng hậu. Làm hoàng hậu rồi cô quên mất bà mẹ nghèo chăng? Ở đây chưa hẳn là vậy, ta không hề nghe một lời oán trách nào của mẹ, tác giả cũng không có ý quy lỗi cho cô Tấm. Có thể vì cung vua - chốn lầu xanh xa cách quá mà mẹ thì vẫn không muốn rời xa xóm nghèo, lối chợ, sân chùa. Khi mà thông tin còn lạc hậu, cô Tấm làm sao thấu hiểu được tình cảnh của bà mẹ nghèo lúc cuối đời? Có thể vì khi trở lại cung vua, chìm ngập giữa lo toan và công việc, dẫu vẫn rất nhớ đến mẹ nghèo thật, cô vẫn chưa giúp được gì cho mẹ?
Bài thơ chỉ có 18 câu mà 2 câu cuối lặp lại 2 câu đầu mà lặp cả câu đề nữa. Nhưng cái hay cái tài của bài thơ, lại là ở chỗ đó: đầu đề cũng do bài thơ đẻ ra, ý muốn nói có thể coi đây là "Hậu Tấm Cám" cũng được. Hai câu đầu thì vào thẳng vấn đề và triển khai một mạch. Khiến cho cô Tấm nếu như được bụt cho hóa thân trở lại bóng thị xanh cũng phải tự trách mình sao đã thiếu sót với mẹ nghèo như thế! Đến 2 câu thơ cuối ta cũng vẫn không thấy có ý gì trách móc mà chỉ là một cách nhắc nhở nhẹ nhàng, tế nhị.
Bài thơ dễ nhớ, tứ thơ dễ hiểu ý trong lời như thế nào, ý ở ngoài thế ấy không cần cầu kì, bí ẩn. Làm được thơ như thế không dễ. Bí quyết thành công ở đây vẫn là tình cảm của tác giả đối với những bà mẹ nghèo đã nuôi những cô Tấm trong đói nghèo, đến khi cô Tấm trở lại cung vua. Vẫn giữ đúng phương châm xử thế "làm ân không kể, chịu ơn không quên" của văn hóa phương Đông.
(Bình giả: Vương Thừa Ân
I love you, never and forever.

duongbq88
  • Số bài : 28
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.05.2008
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 22.05.2008 18:52:16
Nhỏ bé tựa búp bê   
Tg: Lâm Thị Mỹ Dạ
 
Làm sao anh đủ sâu
Cho em soi hết bóng
 
Làm sao anh đủ rộng
Che mát cho đời em?
 
Làm sao anh đủ cao
Để thấy em cho hết…
 
Cuộc đời bao nhọc mệt,
Cuộc đời bao dịu êm.
Người đàn bà bước lên,
Người đàn bà lùi lại
 
Này tôi ơi, có phải
Làm một người đàn bà
Người ta phải nhỏ bé
Nhỏ bé tựa búp bê
Mới dễ dàng hạnh phúc?
 
Lời bình:
 
Nhỏ bé tựa búp bê của Lâm Thị Mỹ Dạ có một sức hấp dẫn đặc biệt, sức hấp bởi đây là nhà thơ tình biết kể chuyện và tỏ bày theo một lối riêng, có duyên khiến cho người ta càng đọc càng thấy thích thú. Bài thơ là một triết lí về tình yêu, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và ám ảnh. Âm hưởng từ lời trò truyện chân thành của người phụ nữ man mác buồn và ẩn sâu nhiều suy tưởng, cách ngắt dòng thơ trúc trắc, sự liên tưởng tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động… chừng ấy cảm nhận đã cho thấy dáng nét riêng của nhỏ bé tựa búp bê trong vườn hoa thơ tình muôn hương sắc.
Ba khổ thơ đầu, mỗi khổ vẻn vẹn hai câu, là những băn khoăn trăn trở của người phụ nữ đối với người yêu của mình. Làm sao được láy đi láy lại, như là những kì vọng, mong ước và khát khao cháy bỏng về hạnh phúc. Mới đọc, những tưởng người phụ nữ trong bài thơ quá câu toàn. Chị ước ao nhiều nhưng đó là những ước ao chính đáng để duy trì một tình yêu trọn vẹn. Sâu, cao, rộng – những tính chất vốn để đinh lượng sự vật trong đời sống được lấy làm thước đo người yêu, thước đo về tâm hồn và trái tim mà người phụ nữ nào khi yêu cũng mong muốn: Sâu để thấu rõ lòng mình, rộng để che chở và cao để bao bọc. Cách ví von hình ảnh này làm cho người phụ nữ trở nên thông minh và đáng yêu, chị là người biết đòi hỏi một tình yêu xứng đáng với mình và cũng biết lo sợ rằng: cái cao, cái sâu, cái rộng kia không có đủ trong người đàn ông mình gửi gắm số phận.
Từ những khát vọng đẹp đẽ, chắc chắn đã được thể nghiệm trong thực tế, người phụ nữ ngẫm nghĩ về thân phận của mình giữa xuôi ngược cuộc đời: “Cuộc đời bao nhọc mệt, Cuộc đời bao dịu êm. Người đàn bà bước lên, Người đàn bà lùi lại”.
        Có một sự tủi thân hờn trách ở những câu thơ này. Bước lên và lùi lại trong những nhọc mệt dịu êm của cuộc đời chính là những thăng trầm, có cả những vấp váp mà người đàn bà phải gánh gồng chịu đựng. Từng trải trong những đắng cay lẫn hạnh phúc, chị tự hỏi mìh để tim ra một chân lý sống:
 “…Làm một người đàn bà
Người ta phải nhỏ bé
Nhỏ bé tựa búp bê
Mới dễ dàng hạnh phúc?”
        Có vẻ như khổ thơ này không gắn kết lắm với những khổ trên. Nhưng kì thực nó là kết quả của chuỗi cảm xúc đã được lắng đọng: mong ước và hy vọng tràn đầy về người đàn ông của đời mình, nhưng đó chỉ là mong ước, người đàn bà đành phải sống thu mình, nhỏ bé. Nói nhỏ bé cũng chưa đủ mà phải nói bằng lối so sánh thường gặp ở trẻ con: Nhỏ bé tựa búp bê. Cách diễn đạt sâu sắc mà ngắn gọn này khiến cho bài thơ được mở rộng biên độ và hạnh phúc của người đàn bà càng trở nên bẽ bàng, chua xót. Khi sống thu mình, sống không ao ước và đam mê, người ta lại dễ dàng hạnh phúc hơn khi biết khát hao và ước vọng. Đây là một nghịch lý khó tìm được lời biện minh cho người phụ nữ. Người đàn bà trong thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ không thể chấp nhận đánh mất mình. Vì thế câu hỏi ở cuối bài thơ không phải là lời để ngỏ mà là để phủ nhận. Người bản lĩnh, thông minh sắc sảo thế kia sẽ không chọn cách sống Nhỏ bé tựa búp bê dù nó có thể dễ dàng mang lại hạnh phúc cho những người phụ nữ có quan niệm khác về cuộc sống.
Bài thơ kết thúc nhưng vẫn còn nhiều điều day dứt về thân phận của người đàn bà. Những người sắc sảo, tinh tế thông minh, hạnh phúc hình như ít trọn vẹn. Thấp thoáng hình bóng nhà thơ ở niềm đồng cảm chân thành…
(Bình giả: Nguyễn thị Thanh Hiếu)
       
I love you, never and forever.

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 22.05.2008 22:32:11
MÙA XUÂN TRONG CÔNG VIÊN
Tg: Gam – Da – Tp (Nga)
      Thái Bá Tân dịch
 
Cả công viên như hội vui tháng năm.
Con suối nhỏ đùa vui như đứa trẻ.
Trong lòng tay những chồi non mới hé,
Là những giọt mưa mùa xuân đầu tiên.
 
Hai cụ già trên ghế đá ngồi yên,
Từng sáng sớm, vui mà buồn man mác.
Một cụ nói: - Đã mùa xuân! Cụ khác
Đang nhớ điều gì, đáp: - Đúng mùa xuân!
 
Trạc tuổi tôi, rất âu yếm, nhiều lần
Một ông bạn liếc nhìn cô vợ trẻ.
Họ đẩy xe đưa con thừa kế
Đón mùa xuân đầu tiên hôm nay.
 
Bầu trời rất xanh, bầu trời không mây.
Chim ríu rít trên xe nói: - Sung sướng
Ông bố nói: - Đã mùa xuân! Thoáng ngượng
Cô vợ mỉm cười nhắc lại: - Đúng, mùa xuân!
 
Hai cô sinh viên hai vở sát chân
Đang ngồi học, nhưng học vào rất khó
Lúc trộm liếc một người đi ngang họ,
Lúc bỗng cười, ríu rít nói cùng nhau.
 
Tất nhiên tối nay họ phải chúi đầu
Trên cuốn vở, suốt đêm mệt mỏi.
- Đã mùa xuân! – một cô vui vẻ nói.
- Đã mùa xuân! – cô kia đáp, rồi im…
 
Đêm. Công viên, cây đứng ngủ im lìm.
Tôi vừa bước, vừa nghĩ điều đẹp nhất:
-Thành phố ta nhiều người yêu nhau thật,
Chẳng ghế nào còn chỗ cho tôi!
 
Và bên đường như thể muốn trêu tôi.
Anh bạn trẻ hôn người yêu âu yếm.
- Đã mùa xuân! – tôi thở dài cười mỉm.
Tim tôi thầm nhắc lại: - Đã mùa xuân!
 
Lời bình:

 

           Tác giả lướt qua đôi chi tiết nên thơ của thiên nhiên mùa xuân (chồi mới hé, giọt mưa xuân) để tập trung vào chi tiết con người. Đặc điểm bút pháp của Gam – da – tốp mà độc giả Việt Nam khá quen thuộc là rất giàu tình, tính nhân ái chứa thâm trầm tư tưởng, nhưng bao giờ cũng hóm ánh mắt vui cười dân dã. Hãy xem:

Hai cụ già trên ghế đá ngồi yên,
Từng sáng sớm, vui mà buồn man mác.


Buồn man mác vì thời gian mùa xuân lại trôi qua tóc bạc của các vị chứ sao! Chỉ một thoáng nhận ra vẻ buồn man mác của cặp vợ chồng người già, thưởng thức của người đọc đã hơi nhói lên và không thể không trầm xuống. Tả người già hơi buồn và lễnh lãng thế này thật giỏi:

”Một cụ nói: - Đã mùa xuân! Cụ khác
Đang nhớ điều gì, đáp: - Đúng mùa xuân!”
         
 Đã mùa xuân! Đúng mùa xuân là đối thoại rất trúng, rất gợi trong ngữ cảnh này. Đôi vợ chồng với đứa con trong xe nôi cũng được Gam – da – tốp nháy lên khía cạnh hóm vui: anh chồng hơi đứng tuổi có con muộn thoáng ngượng, vợ thì trẻ. Người vợ trẻ đã chắc ăn kết quả hạnh phúc mình đang được thưởng thức nên nhắc chồng đượm một lời khẳng định Đúng mùa xuân! Đến hai cô sinh viên, mùa xuân mang sách ra giữa công viên thì làm sao mà họ học vào được! Đêm họ sẽ thức học bù vì bây giờ còn mải: Lúc trộm liếc một người đi ngang họ, Lúc bỗng cười, ríu rít nói cùng nhau. Toàn những chi tiết rất đúng và cũng rất dễ thương của lứa tuổi con gái.
          Trong tất cả những hình ảnh trên đã thấp thoáng bóng tâm hồn của nhà thơ. Ở hai khổ thơ cuối bài, nhà thơ cũng đã lộ diện là một nhân vật thật. anh tự bạch sự cô đơn của mình:

Thành phố ta nhiều người yêu nhau thật,
Chẳng ghế nào còn chỗ cho tôi!
         
Kết thúc bài thơ rất tài hoa, nhà thơ nhắc lại, gạch đậm sự cô đơn của mình nhưng không phải để than thở, trách móc cuộc đời ích kỷ. Mà chính để gạch đậm mối tình rất nghệ sĩ của nhà thơ, anh sẵn sàng âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn của riêng anh, để chia sẻ và hồn hậu ca tụng hạnh phúc đem tới cho mọi người theo tèng kiểu cách của họ mà nhà thơ đã chứng kiến.
         
 - Đã mùa xuân! – tôi thở dài cười mỉm.
Tim tôi thầm nhắc lại: - Đã mùa xuân!

Thật đáng yêu với cái hình ảnh: tôi thở dài cười mỉm, và chẳng có ai nghe, chỉ có chính trái tim nhà thơ thầm nhắc lại lời chàng vừa thốt…
 
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.06.2008 12:24:26 bởi coco_trencungtrang >

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 23.05.2008 10:27:45
 
 MẤT MẸ
Tg: Xuân Tâm & Bảo Uyên
 
 
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.

         Quanh tôi ai cũng khóc
         Im lặng tôi sầu thôi
         Để dòng nước mắt chảy
         Là bớt khổ đi rồi...

         Hoàng hôn phủ trên mộ
         Chuông chùa nhẹ rơi rơi
         Tôi thấy tôi mất mẹ
         Mất cả một bầu trời.

 
Lời bình:
 
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời ! Lần đầu tiên tôi hiểu Thân phận trẻ mồ côi. Quanh tôi ai cũng khóc Im lặng tôi sầu thôi Ðể dòng nước mắt chảy Là bớt khổ đi rồi... Hoàng hôn phủ trên mộ Chuông chùa nhẹ rơi rơi Tôi thấy tôi mất mẹ Mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức :

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay ? hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.
Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra . Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.
Ðạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Ðạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.
Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Ðừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Ðòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Ðể mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Ðể khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi ngừơi cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.
Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Ðó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa!
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Ðể mai này anh chị đừng có than thở rằng: Ðời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Ðáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi.
Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cắt ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: "Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!". Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết -- tôi không giảng luân lý đạo đức -- rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: "Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương". Ðể chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ.
Ðó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Ðóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi!(Bài hát ơn nghĩa sinh thành) .
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 23.05.2008 10:36:47





 




SAU LƯNG MÙA HẠ CŨ
tg: Trương Nam Phong

Và lại đến cái mùa phượng đỏ
Kỉ niệm xưa chìm khuất ở nơi nào
Tiếng ve vỡ ra trăm nghìn mảnh nhớ
Em không về nhận mặt tháng năm sao?

Dành cả đấy cho em- dành cả đấy
Anh gom mây ngũ sắc bọc thơ tình
Em nhón gót cho thời gian tụ lại
Tay học trò giọt hạ rớt lem xanh

Dành cả đấy cho em - dành cả đấy
Nguyên cơn mưa không thiếu hạt nào
Nắng mùa hạ trong veo nhìn thấy đáy
Nở phập phồng bóng nước tán me chao

Dành cả đấy cho em- dành cả đấy
Mượn thời gian hăm mốt tuổi, anh đền
Để mùa hạ nắng mưa là trai gái
Phượng cũng từng hồi hộp lúc kêu tên

Và lại nhớ vòm trời hoa phượng vĩ
Khép rưng rưng mùa hạ giữa tay cầm
Cửa lớp mở với một người trong đó
Vẽ lên bàn và hát những lời câm...

Ai bảo nhớ, bảo dành cho em hết
Anh tìm em mắt cứ ngóng lên trời
Câu thơ viết tan vào mây ngũ sắc
Cuối sân trường vô vọng xác ve rơi !

 
Lời bình:

Đọc những câu thơ của Trương Nam Hương trong bài “sau lưng mùa hạ cũ”, tôi cứ mường tượng đến những câu thơ bất hủ trong “chiếc lá đầu tiên” của Hoàng Nhuận Cầm. Cũng là mượn một đoạn thời gian để nhớ về một quãng thời gian, mượn một chút thực tại để nói rất nhiều về quá khứ, mượn một mùa trời để nói về một phần đời con người. Đó có lẽ cũng là cách đi được nhiều người sử dụng để diễn tả những quãng thời gian đã qua đi không thể trở lại.
Quãng thời gian gắn với tuổi học trò và sân trường tuổi thơ, có lẽ với bất kỳ ai, cũng là một miền ký ức khó quên nhất, trong veo thơ mộng mà ám ảnh nhất. Cái thời không còn trẻ con nhưng cũng chưa kịp thành người lớn, thời mà tất cả cảm xúc không dám thốt thành lời, chỉ “vẽ lên bàn và hát những lời câm” ấy thật đẹp, thật đáng nhớ. Cho nên trở về với thời gian ấy có lẽ là một phương thức hiệu quả để có thể sống với quá khứ êm đềm và ngào ngọt của tuổi thơ. Tuy nhiên, nói về quãng đời đẹp đẽ ấy mà không phải kể lể, liệt kê một cách cứng nhắc thì không phải ai cũng làm được.
Trong bài thơ này, nhà thơ Trương Nam Hương và nhân vật trữ tình Trương Nam Hương đã tách thành hai. Nhân vật trữ tình đang trở về quá khứ với những hoài niệm tuổi thơ giữa mùa hè thực tại! Và tất cả những ký ức về “em”, về tuổi thơ với sân trường ngập đầy phượng vĩ năm nào lại ùa về. Ký ức lần lượt xuất hiện trong các khổ thơ, theo những trình tự, lớp lang khá logic.
Mới đọc, tưởng rằng nhân vật trữ tình “anh” là một người hào phóng! Hào phóng trong tình cảm, trong nhận thức và trong trí nhớ khi câu thơ “dành cả đấy cho em – dành cả đấy” cứ lặp đi lặp lại như một sự mời mọc, một sự khẳng định. Thực ra đọc kỹ hơn một chút, ta mới thấy nhân vật trữ tình là một chàng trai tham lam! Anh tham lam với kỷ niệm, than lam với quá khứ, và, có thể, tham lam lam với chính cảm xúc của mình!
Cái tham lam của chàng trai đã bộc lộ ngay ở khổ thơ đầu tiên. Hãy đọc câu hỏi đầu tiên trong khổ thơ thứ nhất: “Em không về nhận mặt tháng năm sao?”, nghe qua có vẻ như là một câu mong ngóng nhưng ngẫm sâu hơn một chút ta lại thấy nó giống với một câu trách móc hơn là một câu than thở! Tại sao em chưa về nhận mặt kỷ niệm khi mà phượng đã ngợp trời thương nhớ, tiếng ve đã vỡ òa cùng với vùng ký ức tuổi thơ sống dậy tràn trề. Trong khổ này, tôi hiểu ý chàng trai là: Sao em để anh một mình giữa ngập tràn không gian ký ức, để anh bơ vơ giữa rất nhiều kỷ niệm thế này?
Và từ cái câu hỏi tham lam ấy, một loạt các kỷ niệm được “anh” liệt kê ra như là kể lể với “em”, cứ như là để đếm và sống với từng kỷ niệm vậy!
Trong loạt liệt kê này, câu thơ được điệp lại lại là mấu chốt cho việc tôi khẳng định anh tham lam! Thực ra “dành cả đấy cho em” chỉ là một cái cớ để cho nỗi nhớ thêm “khách quan” chứ dành cả đấy cho em chỉ là để anh nhớ về tất cả mà thôi! Chính cái nỗi nhớ tham lam của anh đã được cái khách quan “dành cả đấy cho em – dành cả đấy” bao bọc cho một cách tinh tế!
Thường khi nói đến những gì thuộc về quá khứ, nhất là những quá khứ ngọt ngào và êm đẹp, và đặc biệt là nỗi nhớ, tâm hồn người ta rất tham lam, cứ muốn cuốn tất cả trở về để sống trọn vẹn trong miền nhớ ấy. Âu đó cũng là quy luật của tâm hồn con người. Những gì đã là không thể thì càng khiến cho người ta khao khát, ước vọng.
Hãy xem cái quá khứ tuổi thơ ngọt ngào và êm đềm của Trương Nam Hương đã thẩm thấu vào thiên nhiên: Tiếng ve thì “vỡ ra trăm nghìn mảnh nhớ”, bóng nước tán me thì “nở phập phồng”, phượng thì “hồi hộp”, hoa phượng thì “rưng rưng”… tất cả đều mang tâm trạng (mà thực ra là tâm trạng của “anh”). Thành thử, nỗi nhớ của “anh” bỗng chốc trở thành một trời thương nhớ!
Tôi đặc biệt thích khổ thơ cuối của bài thơ này. Hãy cùng đọc lại:
“Ai bảo nhớ, bảo giành cho em hết
Anh tìm em, mắt cứ ngóng lên trời
Câu thơ viết, tan vào mây ngũ sắc
Cuối sân trường vô vọng xác ve rơi!”
Ngay câu đầu khổ thơ tác giả đã trách mình. Từ trách em chuyển sang trách mình là một biểu hiện mang tính lý trí của nỗi nhớ. Và có thể, câu thơ này chính là dấu hiệu báo hiệu cho sự thức tỉnh sau một trời đam mê, một trời nhung nhớ của “anh”. Cái miền quá khứ ấy đã tan vào mây ngũ sắc, tan vào cái không gian mênh mông và “vô vọng” cuối bài thơ. Và câu kết chính là kết quả của sự thức tỉnh. Chỉ có sự thức tỉnh mới có thể có được câu thơ ấy sau 5 khổ thơ miên man trong vùng trời quá khứ. Sự thức tỉnh đấy có thể là một nỗi đau như quy luật của nỗi nhớ không bờ bấu víu.
Nhưng tôi tin, nỗi đau ấy, sự thức tỉnh ấy, và cả cái vùng trời quá khứ ấy là một miền đẹp. Bài thơ “sau lưng mùa hạ cũ”, vì thế, cũng là một bài thơ đẹp với những câu thơ đẹp đến nao lòng!


Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 23.05.2008 10:48:43
TRỞ VỀ MỘT MIỀN QUÊ

(Nguyễn Thanh Loan)


Hà Nội đang vào thu
những mái hiên nằm nghe mùa trở gió
hương hoa sữa trôi trong lòng phố
Một ngày em qua đây...

Anh trở về thành phố sáng hôm nay
Thấy mình đang đi trong mùa thu cũ
Nắng quảng trường trong veo quyến rũ
Một sắc cờ chói lói vẫy tung bay

Anh nghe sông Hồng thầm thì chảy qua ngày
Phù sa bồi lên những lời mẹ kể:
Mẹ trưởng thành dưới thời nô lệ
Anh lớn lên đất nước đã hòa bình.

Anh trở về thành phố - của - riêng - mình
Thuở mơ những ngôi sao ba cài trên ngực
Đã biết những chiến công thành phố này có thực
Và nắm những bàn tay còn lành lặn vịn vai mình...

Em có thấy gì một sớm bình minh
Rộn ràng bước chân mọi nẻo đường tấp nập
Giữa đất trời tự do... trái tim ta đang đập
Hãy thắp hộ anh niềm vui từ những nụ cười...

Mùa thu anh trở về và mơ tiếp những chân trời
Ba còn để dở dang ngày đi vào trận
Mẹ chưa làm xong bởi còn đi đánh giặc
Anh sẽ nối nhịp cầu quá khứ với tương lai...

Hà Nội rùng mình hoa sữa ngát ban mai
Anh rảo bước trên nẻo đường xanh biếc
Ánh mắt em ngàn đời tha thiết
Đón anh trở về huyền thoại một miền quê...

Lời bình:

Tôi đang làm một công việc khó khăn: Hình dung lại tâm trạng của một người ở một thế hệ khác đang hình dung về một quá khứ của một thế hệ khác mà mình không được sống, không được chứng kiến, một quá khứ hào hùng và đáng tự hào!
Tôi thực sự ấn tượng khi đọc bài thơ này. Không biết có quá lời không nhưng đọc bài thơ này tôi cứ thấy nó có nét gì đấy phảng phất hơi hướng của sử thi!
Một bài thơ đăng trên báo Hoa học trò, của một thế hệ gần như trong veo trong ký ức mà có được những cảm xúc như thế đủ để cho người đọc phải ấn tượng. Tôi từng say mê và đọc không biết chán những vần thơ của các cây bút trẻ trên báo Hoa học trò, nhưng đây thực sự là một bài thơ “lạ”, “lạ” chính từ giọng điệu, cảm hứng của bài thơ.
Nó không có cái súc tích, cô đọng như thơ của thế hệ cha anh nhưng bù lại, nó có cái tươi trẻ, trong veo của ánh mắt trẻ, tâm hồn trẻ, suy nghĩ trẻ khi nhìn vào quá khứ cha anh. Cái duyên của bài thơ, tôi nghĩ, có được phải chăng là từ đấy!
Xét trên mặt hình thức ngôn ngữ, cũng như nhiều bài thơ khác đăng trên báo Hoa học trò, nó là một lời trần tình, một lời tâm sự - tự sự của một tâm hồn trẻ, một suy nghĩ trẻ, cũng là “anh” là “em” … Nhưng xét trên phương diện cảm xúc, suy nghĩ, ý tứ bài thơ thì dường như nó là một tâm - hồn - thơ (hiểu theo nghĩa đen) “lớn trước tuổi” so với cái cơ - thể - thơ đang chứa đựng nó. Phải chăng đây là một sự khéo léo của tác giả khi muốn diễn đạt những cảm xúc như thế này?
Ở đây, tôi tạm thời gác qua một bên cái cơ - thể - thơ của bài thơ để đi sâu bàn vào cái tâm – hồn – thơ của nó.
Sở dĩ tôi nói đây là một tâm - hồn - thơ có vẻ “lớn trước tuổi” so với cái cơ thể thơ nó đang mang là vì tôi đọc được hai câu này:

“Mẹ trưởng thành dưới thời nô lệ
Anh lớn lên đất nước đã hòa bình”

Hai câu thơ nói về hai thế hệ nhưng nó gánh trên mình trọng trách ngữ nghĩa rất lớn. Thứ nhất, nó gánh cả một quãng thời gian dài từ thời nô lệ của mẹ trưởng thành đến buổi hòa bình của “anh” lớn khôn hôm nay.
Nhưng đó mới chỉ là nét nghĩa bề ngoài khi xét trên phương diện ngôn ngữ, ý nghĩa sâu xa của hai câu thơ này là nhấn mạnh vào sự khác biệt của hai thế hệ: Thế hệ của ba mẹ và thế hệ của “anh”, của “em” hôm nay. Mặc dù đều nói về sự phát triển cả đấy, nhưng ba mẹ trưởng thành dưới thời nô lệ, còn “anh” và “em” thì lớn khôn trong buổi hòa bình (Cha mẹ “trưởng thành”, còn anh và em mới chỉ “lớn khôn” thôi!).
Đến đây có lẽ tôi không cần nói thêm về sự khác nhau đó nữa. Điều tôi muốn nói thêm ở đây là ý nghĩa của sự so sánh đó. Phải chăng, đây là một sự giãi bày, một sự giải thích. Mà không chỉ giãi bày cho riêng "anh" đâu nhé, nó là sự giãi bày cho cả một thế hệ!
Nếu để ý kỹ, ta sẽ thấy hai không gian được tạo ra bởi hai khoảng thời gian trong cuộc đời “anh”: Tuổi thơ và hiện tại.
Đây là tuổi thơ “anh”:

“Thuở mơ những ngôi sao ba cài trên ngực
Đã biết những chiến công thành phố này có thực
Và nắm những bàn tay còn lành lặn vịn vai mình...”

Đấy là tuổi thơ và những mơ ước của "anh" thời điểm ấy – thời điểm trẻ thơ, thời mà cả thành phố là “thành – phố - của – riêng – mình”, thế cho nên những ước mơ của thời ấy cũng trẻ thơ, cũng là “của – riêng - mình” thôi.
Còn đây là "anh" trong hiện tại:

“Rộn ràng bước chân mọi nẻo đường tấp nập
Giữa đất trời tự do... trái tim ta đang đập
Hãy thắp hộ anh niềm vui từ những nụ cười...

Mùa thu anh trở về và mơ tiếp những chân trời
Ba còn để dở dang ngày đi vào trận
Mẹ chưa làm xong bởi còn đi đánh giặc
Anh sẽ nối nhịp cầu quá khứ với tương lai...”

Một “anh” chững chạc hơn trong suy nghĩ, trong tư tưởng, trong việc biết trân trọng những gì mà “thành phố này có thực” và những gì mà ba mẹ đã làm và chưa làm được ngay từ trong những giá trị tinh thần của nó chứ không phải ở giá trị hình thức như lúc còn trẻ thơ.
“Anh” ở đây là “anh” trong hiện tại. Cao hơn nữa, “anh” không chỉ là “anh” mà “anh” còn là đại diện cho cả thế hệ của "anh", thế hệ trẻ trong hiện tại này này! Cái thế hệ trẻ này rất biết trân trọng, rất hiểu những giá trị mà thế hệ cha anh để lại chứ không phải quên hết sạch trơn, chứ không phải chỉ biết có hiện tại và tương lai, chứ không phải chỉ biết có một cuộc sống đầy đủ, sung túc này đâu… Còn những ước mơ mang tính hình thức kia là của những tâm hồn trẻ thơ thôi, khi đã trưởng thành thì những định hình về giá trị của thế hệ trẻ này rất khác!
Đấy, cái sự "giãi bày cho cả một thế hệ" mà tôi muốn nói ở trên là ở chỗ đấy!
Khi giải được cái mã của bài thơ này rồi, thì có thể hiểu rất dễ dàng mọi sự diễn đạt cũng như ý tứ trong bài thơ.
Thì ra “trở về một miền quê” là trở về với chính những giá trị, những chiến công như là những “huyền thoại” của cha anh, để trân trọng, để nâng niu, để chia sẻ và, quan trọng hơn, để bước tiếp những bước chân mà thế hệ ba và mẹ còn bỏ dở.
Bài thơ tạo cho tôi ấn tượng là bởi những điều đó. Cái chất sử thi mơ hồ mà tôi thấy được từ đầu, có lẽ, cũng là ở những điều đó!
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 23.05.2008 11:08:26
Viếng bạn
Tg: Hoàng Lộc
 

Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!

Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.

Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn.
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.

 
Lời bình:
 
Viếng bạn” là một bài thơ kiệm lời nhưng nhiều ý. Bài thơ ngắn ngủi đã cùng một lúc và rất tự nhiên vừa diễn tả được lòng căm thù quân địch sâu sắc, vừa biểu hiện được tình đồng đội, đồng chí và tình quân dân mặn nồng, thiêng liêng.

Một bài thơ gọn gàng, hàm xúc. Không ai nghĩ tác giả làm thơ mà chỉ thấy anh thương bạn, nhớ bạn bởi vì mọi lời lẽ chỉ là những ngôn ngữ bình dị nhất. Thế mới biết, muốn hình ảnh, âm thanh, muốn nhịp điệu, tiết tấu điệu nghệ sao chăng nữa cũng không thể thay thế tình người để quyết định sức sống lâu bền của một bài thơ. “Viếng bạn” cũng là một trong số những bài thơ hay xuất hiện trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thật cảm động, bài thơ ra đời chẳng được bao lâu thì chính tác giả của nó đã hy sinh trong một chuyến đi công tác. Và đã có người viếng anh khi anh ngã xuống cũng như anh từng viếng đồng đội trong bài thơ.

Đến hôm nay đọc lại “Viếng bạn” ta như thấy vẫn còn nguyên vẹn không khí và cảm xúc của cả đối tượng lẫn chủ thể sáng tạo. Người đọc không mấy nghĩ bài thơ nói đến chủ đề liệt sĩ, chỉ thấy một tấm lòng, tình cảm thật lớn lao, sâu nặng mà giản dị của những người lính chung một chiến hào – những người đã có công lớn làm nên ngày hôm nay.

 
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 24.05.2008 09:19:19



Thơ tình cuối mùa thu

Xuân Quỳnh

Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá.
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em.

Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má

Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão.
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.

Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em.

Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
- Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may./.


lời bình của sonvan05:

THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU - Xuân Quỳnh

Có những thứ đi qua cuộc đời, nhẹ nhàng và bình yên, không dấu vết, không mảy may kỷ niệm. Có những điều đi qua cuộc đời để lại những dấu ấn thật đậm nét. Nhớ về những điều đó là nhớ về cả một quãng ngọt ngào nhất của cuộc đời. Bởi thế nên nó được ta gìn giữ như báu vật, ta nâng niu, trân trọng như chính cuộc đời ta. “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh chính là nơi cất giữ những kỷ niệm như thế - Tình yêu mãnh liệt và thủy chung của người phụ nữ đa cảm, đa tình.
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em

Tại sao nhà thơ lại chọn thời điểm cuối mùa thu? Và tại sao cứ phải là “Thơ tình cuối mùa thu”? Phải chăng vì mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm. Và tình yêu trong mùa thu cũng đẹp nên thơ và lãng mạn như chính cái mùa quyến rũ ấy. Cho nên sang mùa đông thì tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ “theo mùa đi mãi”, lá sẽ về rừng, dòng nước sẽ trôi ra biển cả. Cho nên thơ tình làm vào độ cuối thu thì cảm xúc càng có dịp thăng hoa.
Cái sắc thái cuối thu trong bài thơ đã có những dự cảm rất tinh tế của tâm hồn người phụ nữ. Đọc thơ Xuân Quỳnh ta luôn bắt gặp song hành bên cạnh một tình yêu thủy chung và bỏng cháy là những dự cảm và lo âu. Tuy chỉ tả cảnh thôi nhưng âm điệu thơ cứ man mác những lo âu:
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay.
Trong cái làn gió heo may thổi xao động ấy còn có cả sự xao động trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Mới cuối thu mà tất cả dường như đã có sự thay đổi. Liệu mùa thay đổi rồi “lòng anh có đổi thay”? Đấy phải chăng chính là dự cảm trong tâm hồn của người phụ nữ có niềm yêu mãnh liệt và đa cảm ấy!
Tôi thích nhất trong bài thơ những câu thơ này:
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ
Bốn câu thơ có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tình yêu đã trọn vẹn, đã cập bến bờ hạnh phúc – một hạnh phúc phải trải qua những gió bão và thác lũ cuộc đời cho nên nó càng có ý nghĩa.
Nhưng tôi thích cách lập luận thứ hai hơn. Đó là cách hiểu tình yêu đã trôi qua, tất cả bây giờ được nhìn trong tương quan quá khứ - hiện tại. Từ cách hiểu có vẻ vô lý này ta có thêm một cách định nghĩa về tình yêu: Tình yêu muốn đạt được hạnh phúc cần phải trải qua những bão tố của cuộc đời và của cả lòng người nữa. Bởi có trải qua gió bão thì hạnh phúc đạt được mới thật sự trọn vẹn. Tình yêu trôi qua trong yên bình, lặng lẽ sẽ rất khó cấu thành hạnh phúc.
Chính vì thế mà khi nói “Đã yên mùa gió bão… Đã yên ngày thác lũ” nghĩa là tình yêu đã qua đi, tất cả bây giờ trở về bình lặng. Có lẽ vì thế mà khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sỹ Thuận Yến để bốn câu thơ này với âm hưởng trầm buồn, xót xa như một sự tiếc nuối.
Tình yêu đã lùi vào quá khứ không có nghĩa là tình yêu đã vụt tan. Điều đó trong “Thơ tình cuối mùa thu” càng được khẳng định bởi điệp ngữ: “Chỉ còn anh và em/ Cùng tình yêu ở lại”.
Dù thời gian trôi đi đồng nghĩa với tất cả trở thành quá khứ, nhưng không vì thế mà tình yêu cũng tan vào dĩ vãng. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh là một tình yêu mãnh liệt và thủy chung, nồng nàn và da diết. Cho nên dù tình yêu đã trở thành một miền dĩ vãng thì những dư âm của nó cũng sẽ còn mãi trong tâm hồn người con gái thủy chung.
Khổ thơ cuối điệp lại một lần nữa như khẳng định lại sự bền vững của tình yêu:
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
Kìa bao người yêu mới
Đi qua vùng heo may…”
Hai câu thơ cuối bài thơ vang lên như một tiếng reo. Bài thơ dừng lại ở đấy. Tưởng như là đột ngột. Tưởng như là hụt hẫng. Nhưng không! Cái tiếng reo vui ấy kết lại bài thơ chính là khẳng định sự vĩnh cửu của tình yêu.
Tình yêu đã được tiếp nối giữa các thế hệ. Có thể thế hệ của “anh” và “em” đã qua đi, “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” nhưng có bao đôi trẻ yêu nhau sẽ gắn bó thủy chung và sắt son qua những mùa thu mới, những vùng heo may mới, tiếp nối tình yêu của anh và em…
Hai câu kết thúc bài thơ tạo ra hai giá trị vĩnh cửu của tình yêu. Giá trị riêng và giá trị chung. Giá trị riêng chính là tình yêu của anh và em, dù có thể đã lùi vào quá khứ nhưng những gì anh giành cho em và em giành cho anh sẽ còn mãi qua những mùa thu. Giá trị chung là tình yêu của biết bao thế hệ, biết bao đôi lứa yêu nhau sẽ còn mãi. Tình yêu trên trái đất này là bất diệt. Giá trị nhân văn của “thơ tình cuối mùa thu”, theo tôi, cũng là ở chỗ đó.
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 24.05.2008 19:30:56
Những câu thơ em viết mất linh hồn

TG: Đinh thị Thu Vân


Đâu phải cứ buồn là em viết cho anh

Đâu phải cứ vui là em không thể khóc

Đâu phải đi xa là em mong là ngóng

Đâu phải vô tình... em - giọt nắng lung linh...


Em giật mình khi đọc những vần thơ

Mang hơi thở tâm hồn em ở đó

Những vần thơ không mang màu hoa đỏ

Đậm sắc vàng... đậm sắc nắng ưu tư:

"Câu thơ nào em viết cho anh

Xin vĩnh viễn đi vào kỷ niệm

Dẫu mai này lòng không còn nguyên vẹn

Những câu thơ em viết mất linh hồn"
 
Bình luận:
Câu thơ nào em viết cho anh
xin vĩnh viễn đi vào kỷ niệm
dẫu mai này lòng không còn nguyên vẹn
những câu thơ em viết mất linh hồn!”

(Ru…)

Người viết bài này bị ám ảnh suốt hơn một tháng nay câu thơ thiệt hay trên của Đinh Thị Thu Vân: “Những câu thơ em viết mất linh hồn”. Đại từ Em trong câu thơ này có thể vừa là Đinh Thị Thu Vân, lại cũng có thể không phải là Đinh Thị Thu Vân. Cho nên, khi chúng tôi bàn về cái sự Em này trong bài viết là bàn về em cụ thể đã được khái niệm hoá, như một cái "Em - kép": vừa là chủ thể - tác giả, vừa là chủ thể - tác phẩm: một "cái Em" đã được thi ca hoá, lãng mạn hoá, vu vơ hoá, ai muốn hiểu là Đinh Thị Thu Vân cũng được mà hiểu là Thu Vân mây bay gió thổi trên mùa thu trang giấy thi ca tuỳ thích. “Em” trong câu thơ trên có thể vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai; những câu thơ em viết làm mất linh hồn em để làm mất linh hồn kẻ khác; cũng có thể là những câu thơ hồi xưa em viết cho anh nay đã mất linh hồn? Hoặc cũng có thể linh hồn của câu thơ đã mất vì anh không còn xứng đáng với thơ em nữa! Thơ hay là thơ đa nghĩa, ai muốn hiểu sao tuỳ!

Riêng người viết bài này đọc xong tập thơ của Đinh Thị Thu Vân, thấy chừng như linh hồn mình không còn nguyên vẹn, đã bị mất đi phần nào chăng? Bởi, cái giống linh hồn này lạ lắm; có khi MẤT là CÒN, mà có khi CÒN lại MẤT! Con người thân xác chúng ta thì có giới hạn, nhưng tâm hồn chúng ta thì có khi vô tận như đất trời, lại có khi ngoảnh vào nội tâm mình thấy linh hồn ta đã chỉ còn bằng giọt sương rưng rưng ngấn lệ sắp rơi. Một ngày, ta có thể bị mất linh hồn nhiều lần: đọc một câu thơ hay, thấy một bông hoa đẹp, gặp một dáng liêu trai, nhớ về một gương mặt xa xưa trong kỷ niệm, hưởng ân sủng của gió trăng… đều có thể mất linh hồn.

Đọc “Một ngày ta ngoái lại” của Đinh Thị Thu Vân, để thấy ta còn có dịp được sung sướng mà “mất linh hồn” vì hồn thơ người khác. Hạnh phúc thay, khi hồn ta có cơ duyên được trộn vào hồn người. Ngoài tình yêu nam nữ ra, chỉ nghệ thuật mới giúp chúng ta có khả năng nhỏ MỘT GIỌT LINH HỒN MÌNH như giọt sương rơi vào bông hoa linh hồn tha nhân. Xin quý vị đọc bài thơ mở đầu của tập thơ này, bài “Một nửa dường đang khuất”:

“không ai đợi tôi về sau cánh cửa
không nồng nàn không ấm áp bao dung
tôi như sống nửa đời đêm giấu lửa
một nửa dường đang khuất phía mông lung…”


Hãy đọc to lên bài thơ này, sẽ thấy nó hay hơn là đọc chỉ bằng mắt. Đọc to lên để mình được nghe âm vang bài thơ, để tai mình cùng mắt mình và mọi giác quan cùng tham dự vào hồn thơ, mới thấy nỗi cô đơn - hay là tâm hồn thi sĩ như lửa tự giấu mình trong đêm đang đòi bùng cháy cùng hồn tri âm tri kỷ. Tôi khuyên quý vị nam giới nào thấy tâm hồn mình nhiều rơm, chớ nên đọc thơ Đinh Thị Thu Vân, coi chừng lửa ở trong tro sẽ bùng lên thiêu rụi “cây rơm anh” bất cứ lúc nào! Thơ, nhìn chung phải đọc to lên mới thấm được cái hay cả hồn lẫn xác; nên người ta nói ĐỌC THƠ chứ ít ai nói XEM THƠ. Nhưng cũng có thứ THƠ dùng chỉ để xem cho biết, ĐỌC lên là giết chết ngay thơ, vì thơ này trúc trắc, không dùng hiểu mà tới được. Thơ Đinh Thị Thu Vân mỗi khi vào bài, vào câu hay, cũng là loại thơ phải đọc to lên mới thấm. Xin quý vị cùng đọc mấy câu thơ cuối bài thơ “Ngày anh trở lại”, để thấy hồn thơ trong nồng nàn cay đắng vẫn còn làm mất ngủ cả tàn tro:

“…em quỳ xuống. Ôi ước gì tất cả
chỉ là mơ, chưa trần trụi bao giờ
em chưa khóc. Anh chưa hề bạc bẽo
ôi ước gì chưa có những bài thơ…

chưa nhân chứng, em lừa em lần nữa
mang dại khờ quỳ xuống nhuốm tàn tro…”


Niềm thơ trong tập thơ này hầu như là một tình yêu ngoái lại, một đuôi mắt chiêm bao ngoái lại, ngoái lại mắt môi xưa, thân xác tâm hồn xưa để quằn quại dây dưa trong tiếc nuối, sững sờ. Với Đinh Thị Thu Vân, nỗi cô đơn là bông hoa nở trong bóng tối, là ngọn đèn thắp bằng đôi mắt biếc cuối trời, là sự chờ đợi cái không đâu, là trái tim ở ẩn trong ngôi nhà đam mê thao thức đốm sao xanh, là nhớ thương xõa ra muôn nghìn sợi tóc đêm, là im lặng của bờ môi trước bão:

“…tôi vẫn đứng một mình trong bóng tối
buồn vui ơi xa hút tận phương nào
không tất cả không cả lời gian dối
không nụ cười hờ hững cuối vành môi…


(Trong góc tối)

Thơ Đinh Thị Thu Vân mê man với sao trời vì nhà thơ thích chưng cất bóng tối thành rượu, để mời chiếc chai cô đơn uống mãi mà không chịu say. Đoá bóng tối có khi mười tám tuổi, đột nhiên nở thành hoa cúc ngày xưa, giày cao gót ngày xưa, một đoá cúc vàng biết khóc:

“…mười tám tuổi của áo vàng hoa cúc
của nắng màu nón trắng của giày cao
mười tám tuổi ai làm em lặng khóc
nước mắt này gieo mãi giọt bông cau…”


(Em mười tám tuổi)

“Một ngày ta ngoái lại” thấy ta thành cây cau thiếu nữ, giọt lệ ấy vẫn còn rớt xuống những hạt bông cau như hạt gạo trời gieo, những mùa xuân cau nở bông hay là cây cau rớt lệ, cây cau nở hết đoá dậy thì, ta vẫn còn chúm chím đoá cô đơn?

Có thể nói, thơ Đinh Thị Thu Vân trong “Một ngày ta ngoái lại” được viết với bút pháp của cơn mưa, như câu thơ rất hay này của chị: “Mưa lặng lẽ nói lời riêng lất phất” (Giữa ngày mưa). Một trời mưa ngoái lại, thấy tình yêu đã bị cái vô cùng che khuất, mưa ăn hết một trời thơ nữ sĩ, không có mưa mà trang giấy ướt mưa; mưa đi tìm ai để ướt, để tác giả tặng người đọc “Chút lạnh đầu xuân” ấm một niềm se sắt, một chút vui trong tập thơ này sao cũng chỉ là nỗi vui ngậm ngùi, hoang vắng, ngõ hầu như tình yêu sinh ra trong môi mắt vu vơ:

“…cái lạnh đầu xuân, lạnh ước ao
em chờ lâu lắm - cuối xuân nào
giữa bao tháng nắng bao ngày nắng
lạnh có khi về trong chiêm bao

se se chút lạnh vờn quanh bước
đủ để vu vơ suốt dọc đường
chao ôi nếu lạnh không về được
chắc cánh mai vàng bớt dễ thương…”


Những nhịp thất ngôn thoảng hoặc thi sĩ vân vi này chừng như là vạt sương buông tác giả choàng lên trang giấy thời ra mắt, như cô dâu mới của làng thơ Việt Nam cách đây hơn 20 năm trước? Những bài thơ đầu của Đinh Thị Thu Vân in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội làm mê mẩn người đọc vì vẻ hồn nhiên dịu nhẹ hoa mai chúm chím dễ thương, vì nét duyên dáng, đằm sâu chân thành của nắng gió phương Nam, như thể tâm hồn sông Vàm Cỏ vừa cất tiếng tỏ tình. Người viết bài này nhớ lại chuyện nhà thơ Vương Trọng, người biên tập thơ sành điệu của tạp chí Văn nghệ Quân đội đã thuộc nhiều bài thơ Đinh Thị Thu Vân và thi thoảng còn đọc cho các bạn thơ nghe.Vạt sương khói “thuở ban đầu” này của thơ Đinh Thị Thu Vân sau hơn 20 năm, chừng như đã phôi pha trong cảm thức ngoái lại hôm nay?

Có phải “ thuở ban đầu” thơ, “thuở ban đầu” đôi lứa đã theo sông Vàm Cỏ về cuối trời, để Đinh Thị Thu Vân trồng đôi chân chim sẻ mình lên trang giấy nỗi nhớ mà khao khát điều đơn giản nhất của kiếp người, trong bài “Nhớ” hôm nay?

“…vai anh rộng để em thèm bé nhỏ
mơ một ngày yên ngủ giữa vòng tay
một ngày thôi lơi lỏng áo quên cài…”

...

“…em nhớ lắm những lời anh chẳng nói
em nhớ lắm bàn chân anh bối rối
những ngón buồn không nỡ bước xa thêm
anh đừng đi, em không cách chi tìm

em biết trốn vào đâu cho bớt nhớ …”


Những dòng thơ chân tình, yêu thương đến đắng đót nhớ nhung này không phải dễ viết. Cái cảm thức “em thèm bé nhỏ”, thèm: “một ngày thôi lơi lỏng áo quên cài”… những thèm muốn tí con con này, tưởng chim trời cá nước cũng đạt được, cớ gì nỗi cô đơn lại làm mất linh hồn tình yêu và hạnh phúc của con người - nhà thơ trong vai trò “tôi” - “em” nơi chân trời góc biển thi ca? Trời ơi, một người đàn bà có trái tim hoa hậu, hoàng hậu thế này, thơ ca ngọt hơn nước dừa thế này, yêu đến quên mình cao cả dễ thương thế này:

“…em là tiếng thở dài những lần anh lạc bước
là nhịp tim xa xót buổi anh buồn
là ngụm nước một đêm nào say khướt
là tơ trời mong chắn hạt sương buông…”


(Sau cánh cửa)

…tưởng sinh ra để yêu và được yêu thế này, sao số phận lại đoạn đành cô lẻ như cơn mưa đi một mình qua phố?

“Một ngày ta ngoái lại” là tập thơ tình nồng cháy, một tình yêu bị thương, như vết thương góc trời mà người ta gọi là sao Mai, sao Hôm; chỉ một ngôi sao mà phải chia mình ra thành hai đốm sáng để ngắm nhau cho trời đêm bớt phần đơn độc. Cái “tôi” chủ thể - nàng thơ trong tập thơ này có thể là chính tác giả mà cũng có thể chỉ là một biểu tượng, một hoài niệm, một ban mai còn giấu trong chăn nệm chiêm bao, nơi chỉ có hoa mai và người đàn bà đối diện trong đêm giao thừa. Xin đọc 2 khổ của bài thơ “Tự chúc”:

“…thiệp này tôi viết cho tôi
khoảnh khắc mùa xuân hé cửa
tôi chúc tôi tròn giấc ngủ
đêm này, đêm nữa, đêm mai



ở một góc buồn quanh quẩn
mùa xuân lơ đãng quên về
tôi cắm một một cành mai mảnh
ước gì năm cánh đừng rơi…


Người đàn bà yêu cái tình yêu cô độc này tự xẻ hồn mình ra thành hoa mai để tự chúc mình, hay hoa mai vừa hoá thân thành “chiếc linh hồn nhỏ” (H.C.) mà rơi từ vòm trời cô đơn thi ca xuống tấm lòng tri âm của người đọc? Tập thơ này của Đinh Thị Thu Vân có phải chính là cành mai đêm giao thừa, tác giả vừa cắm lên trang sách để đón hy vọng tình yêu, cũng chính là khát vọng ĐẸP mà hồn thơ tìm thấy trong nỗi buồn sương khói? Trong đoạn thơ vừa trích, Đinh Thị Thu Vân hay là cái “EM” nhân vật, Em - thi ca, Em - lấp lửng nửa ta nửa mình đã hỏi “Anh” - người yêu, hay chàng tri âm, có thể là chàng đọc thơ, chàng hư thực biểu trưng biểu cảm biểu tình:

“Em biết trốn vào đâu cho bớt nhớ?”

Không có vòm trời nào trên thế gian này hay vòm trời trong tâm trí con người có thể giúp tác giả trốn được COM MA - NỖI NHỚ! Bởi nữ thi sĩ này, bằng tập thơ “Một ngày ta ngoái lại” đầy xúc cảm chân tình, đầy bỏng cháy đớn đau… đã đi GIEO NỖI NHỚ, gieo niềm cô đơn, gieo tình ái… như gieo mạ vào lòng người đọc, thì ông trời ban quả báo đó thôi: gieo gì gặt nấy! Có thể, nhà thơ đã biết cách trốn vào hồn người đọc từ lúc nào, đặng nhờ nguời đọc nhớ giúp mình bao nỗi nhớ không đâu?




Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:06:49







Tương Tư

Tác Giả: Nguyễn Bính

 



Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng,

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này,
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng,

Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành,
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi,

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau,

Nhà em có một giàn trầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng,
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào.

 
lời bình:

                                                                              Nguyễn Phượng
                                                Khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm Hà Nội

Nguyễn Bính (1918-1966 ) tên thật là Nguyễn Trọng Bính sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Thiện  Vịnh, xã Đồng Đội ( nay là xã Cộng Hoà ) huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
 
Mồ côi mẹ từ nhỏ, hơn mười tuổi, Nguyễn Bính đã phải theo anh lên Hà Đông kiếm sống. Ông biết làm thơ rất sớm, 13 tuổi đã sáng tác được hàng trăm bài. Đến năm 19 tuổi được Ban giải thưởng văn chương đầy uy tín của Tự lực văn đoàn khen tặng về tập thơ Tâm hồn tôi. Liền trong 3 năm từ 1940-1942, Nguyễn Bính nổi danh trên thi đàn bởi đã xuất bản liên tục 6 tập thơ ( Lỡ bước sang ngang, 1940; Hương cố nhân, 1941; Một nghìn cửa sổ, 1941; Người con gái ở lầu hoa, 1942; Mười hai bến nước, 1942; Mây tần, 1942 ) vạch ra một hướng đi riêng trong sáng tạo và thu hút một lượng công chúng thơ đông đảo vào bậc nhất lúc bấy giờ. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Bính chủ yếu ở những ảo mộng thành thực đẹp và buồn được dệt từ một tâm hồn chân quê đằm thắm, duyên dáng vốn (theo Hoài Thanh) gắn bó rất sâu với “ hồn xưa của đất nước”.   
Do hoàn cảnh riêng, tuổi thanh niên của Nguyễn Bính trải qua nhiều sóng gió, phiêu bạt và ông từng đi đây đi đó nhiều nơi. Phần trải nghiệm này in dấu lên mảng thơ diễn tả nỗi hoài hương khắc khoải, da diết, bi phẫn nhiều khi đượm vị chua chát, đắng cay mà vẫn đầy hấp dẫn bởi phong thái của một khách giang hồ lãng tử ngông nghênh, phóng túng, tài hoa...
Năm 1943, ông trở lại Nam bộ, sống cuộc đời phóng túng, tự do trong bần hàn rồi ở đó tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến 1954 thì tập kết ra Bắc tham gia công tác báo chí và văn học ở Hà Nội, Nam Định. Ông mất đột ngột vào đúng ngày 30 Tết trước khi bước vào năm mới tại nhà một người bạn ở Hà Nam.
Về hành trình học vấn, khác với nhiều người cùng thế hệ, Nguyễn Bính không đi học trường công của nhà nước mà chỉ học ở nhà với cha và cậu. Có thể do điểm đặc biệt này trong cuộc đời mà Nguyễn Bính ít chịu ảnh hưởng thơ phương Tây như một số thi sĩ cùng thời xuất thân Tây học.
 
Bài Tương tư được viết năm 1939, in trong tập Lỡ bước sang ngang, 1940, được coi là một trong những sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.
Nỗi nhớ mong trong bài thơ đích thực là nỗi nhớ mong của tình yêu, nhưng không phải là nỗi nhớ từ một tình yêu song phương mà là nỗi nhớ của một tình yêu đơn phương. Nỗi nhớ này được diễn tả theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu chỉ được gợi lên bằng một từ “ nhớ” ( câu thơ đầu ) đến câu thơ tiếp theo đã chuyển hoá thành hai trạng thái “ nhớ” và “ mong”. Đối tượng của nỗi nhớ thường là những hình ảnh đã qua, thuộc về quá khứ. Đối tượng của niềm mong thường là những hình ảnh thuộc về hiện tại hoặc tương lai, là sự chờ đợi những điều có thể sẽ tới xoa dịu nỗi nhớ mặc dù, trên thực tế, có khi những điều đó không bao giờ tới. Dù thế nào, hai cung bậc của cảm xúc nhớ và mong cũng sẽ đưa nhân vật trữ tình vào một không gian của đợi chờ khắc khoải, da diết. Ở đây nỗi nhớ mong trên không phải nỗi nhớ mong bình thường mà là nỗi mong nhớ được diễn tả với một cường độ thật lớn: chín nhớ, mười mong! Cách dùng các số từ trong câu thơ: Một người chín nhớ mười mong...là học theo lối cường điệu dân gian, ngoa ngôn mà thành thực. Chưa kể, nó vừa diễn tả tính chất cao độ của một trạng thái tâm lý, vừa miêu tả tính chất tăng tiến không ngừng của trạng thái tâm lý đó. Một nỗi nhớ như thế sớm muộn sẽ đưa chủ thể của nó vào một trạng huống không bình thường của đời sống nội tâm. Ta chỉ có thể gọi đích danh là “ bệnh tương tư” và, nhân vật trữ tình cũng đã tự nhận như thế. Bệnh, dù bất cứ là bệnh gì, đều gây đau đớn.
Bệnh tương tư thì không chỉ gây đau đớn mà còn giày vò, thiêu đốt trái tim “ con bệnh” khiến cho anh chàng ( trong bài thơ ) hết sức khốn khổ vì yêu.
Tuy nhiên, con bệnh của tình yêu thì khác các con bệnh thông thường. Đó là người ta vừa cảm thấy khổ sở, thậm chí khổ sở đến mức không chịu đựng nổi vì nỗi nhớ nhung của tình yêu giày vò lại vừa có cái sở thích oái ăm là vẫn cứ mong được sống mãi trong nỗi nhung nhớ đó mà không hề có ý định “ điều trị” bằng cách lãng quên.
Có cách nào để thanh toán nỗi khổ tương tư? Không có cách nào cả. Chỉ có cách xoa dịu bằng những lời thở than và trách móc mà thôi. Những lời than thở, trách móc ( dường như để cân bằng với nỗi khổ tương tư ) nên cũng trải qua các cung bậc theo hình thức tăng cấp. Lúc đầu mới chỉ là một câu chất vấn: Cớ sao? Tiếp đến là niềm nuối tiếc thời gian trôi đi hờ hững: Ngày qua ngày lại qua ngày...Rồi dồn dập những lời trách cứ : Bảo rằng, đã đành, nhưng đây...Cuối cùng là thở dài trong oán, hờn và giận : Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Những lời thở than, trách móc trên kia còn là vì một lý do hết sức quan trọng : tình yêu ấy dẫu mãnh liệt đến thế nhưng chưa được đền đáp.
Nhưng đọc và suy ngẫm kỹ sẽ thấy thực chất của những lời trách móc, than thở trên cũng chỉ là những biến thái của nỗi tương tư mà thôi, nếu ta cùng thừa nhận rằng tương tư trong tình yêu đơn phương là sự vận động của một chuỗi những hy vọng và thất vọng. Thì đây, đã hy vọng hai thôn chung lại một làng thì...thế mà bên ấy chẳng sang bên này. Đã hy vọng mỗi ngày qua, một ngày mới đến tình trạng đợi chờ sẽ chấm dứt, thế mà từ xuân tới hạ rồi sang thu mọi mong đợi vẫn lửng lơ tận chân trời. Đã hy vọng không cách trở đò giang, chỉ cách một đầu đình thôi thì mọi chuyện sẽ dễ dàng thế mà...không gian không xa nhưng tình thì xa vời vợi.
Người đồng bệnh với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, tác giả của một bài thơ khá nổi tiếng có nhan đề Tương tư chiều rõ ràng có cách bộc lộ nỗi nhớ rất khác, mới mẻ và hiện đại:
Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em...

Khi nỗi nhớ dâng lên cao độ trong lòng thì cách diễn tả cảm xúc càng ồn ào: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh...
Anh nhớ em, nhớ lắm, em ơi!

Nguyễn Bính khác, cách bày tỏ tình yêu của ông mang tính cách của người chân quê. Trước hết ở thái độ kín đáo, rụt rè, mượn cách nói vòng tế nhị : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người...
Kể cả khi tình cảm dâng lên mãnh liệt vẫn giữ một thái độ khiêm nhường, chỉ biết than thở với chính mình: Tương tư thức mấy đêm rồi/ Biết cho ai, hỏi ai người biết cho/ Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Giọng điệu và ngôn ngữ thơ dân dã, bình dị: Hai thôn chung lại một làng; cớ sao? bảo rằng, đã đành, nhà em có một giàn giầu; nhà anh có một hàng cau...
Cách so sánh, ví von mang đậm phong cách dân gian: chín nhớ mười mong, cách trở đò giang, bao giờ bến mới gặp đò, hoa khuê các, bướm giang hồ, ...
Một thanh niên sống trong thời đại của giao lưu văn hoá Đông Tây, của sự bùng nổ ý thức về cá nhân và đặc biệt đúng vào lúc luồng gió lãng mạn đang ào ạt thổi tới, vậy mà trong lĩnh vực tình cảm vẫn giữ nguyên những nét thuần hậu của xa xưa như thế phải được coi là một trường hợp đặc biệt.
Nhà phê bình Hoài Thanh đã rất tinh tế khi nhận xét rằng: trong thơ Nguyễn Bính có “ hồn xưa đất nước”.
Trước hết cần phải hiểu thế nào là “ hồn xưa đất nước”. Muốn hiểu khái niệm “ hồn xưa đất nước” theo cách diễn đạt của Hoài Thanh ta lại phải đọc tiểu luận nhan đề : “ Một thời đại trong thi ca” của chính Hoài Thanh, trong đó, cần chú ý đoạn: “ ...Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận, hờn nhất nhất như ngày trước. Đã đành ta chỉ có chừng ấy mối tình như con người muôn nơi và muôn thuở. Nhưng sống trên đất Việt Nam ở đầu thế kỷ hai mươi, những mối tình của ta không khỏi có cái màu sắc riêng, cái dáng dấp riêng của thời đại...” ( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn học, 2000, tr.19).
Theo Hoài Thanh, đã có một sự thay đổi tận gốc trong tâm tư, suy nghĩ của cả một thế hệ. Đến mức người ta “ không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước” được nữa.
Đó là nói chung về một thế hệ, thế hệ các nhà thơ mới 1932-1945. Còn riêng với Nguyễn Bính thì khác. Ông có vẻ như chẳng có gì thay đổi trong tâm tư và suy nghĩ. Trong cách bộc lộ tình cảm, lối ví von, và sử dụng hình ảnh ông vẫn giữ nguyên cái phong cách chân quê đã được kết tinh qua mấy trăm năm trong thơ ca dân gian. Trong nỗi nhớ nhung của tình yêu của một chàng trai ở đầu thế kỷ hai mươi, Nguyễn Bính không khước từ cách nói vòng của dân gian : thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong...ông còn dùng nhiều cách nói theo lối khẩu ngữ của người nhà quê : Hai thôn chung lại một làng, bảo rằng cách trở đò ngang, nhà em có một giàn giầu/ nhà anh có một hàng cau liên phòng...
Hoài Thanh ngạc nhiên và cho rằng : “ thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Nhưng tinh tế và chính xác hơn, ông còn cho rằng : đằng sau những câu thơ bình dị ấy có “ hồn xưa của đất nước”. Và ông đã đúng.


Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:18:36
NẮNG THU
TG: HOANG VU


Tháng Ba đã bỏ tôi đi
Mang về cho Thu giọt nắng
Lang thang trên hè phố vắng
Ðếm từng giọt nắng đong đưa.

Thu về em đã biết chưa
Lá vàng đang rơi xào xạt
Nắng buồn long lanh từng hạt
tung tăng vỡ giữa trời thu

Nắng về ngang qua lối hẹp
Hàng cây xanh cũng thẹn thùng
Bâng khuâng dạt dào lá rụng
Bồi hồi nắng đón thu sang.

Em đi nắng bước chung hàng
Tôi về sầu Ðông rụng lá

Ðôi ta chập chờn hai ngả
Bàng hoàng tôi viết thành thơ ......



lời bình:

Tháng Ba đã bỏ tôi đi
Mang về cho Thu giọt nắng
Lang thang trên hè phố vắng
Ðếm từng giọt nắng đong đưa.

Theo cách của người viết ta có chút lưu luyến tháng ba, những tưởng cái nắng tháng ba cũng diệu vợi, se se lạnh, ngoại trừ rét Nàng Bân thì nắng tháng ba trong trẻo và Xuân lắm " Tháng Ba đã bỏ tôi đi" thế nên người có chút dỗi hờn. Nắng thu cũng không kém phần quyến rũ, đong đưa để người đón nhận một cách lơ đãng. Em biết chưa, dẫu thừa biết rằng : Thu về ai chả biết, nhưng vẫn muốn nhắc khéo em để hạnh phúc làm "tung tăng vỡ" bỗng chốc buồn như một thứ trang điểm cho thu .

Thu về em đã biết chưa
Lá vàng đang rơi xào xạt
Nắng buồn long lanh từng hạt
tung tăng vỡ giữa trời thu

Cái nắng thu làm cho mọi vật trở nên dịu dàng, cây cũng e thẹn, bâng khuâng thế đó ! Sao tránh khỏi rung động lòng người "Bồi hồi nắng đón thu sang" .

Nắng về ngang qua lối hẹp
Hàng cây xanh cũng thẹn thùng
Bâng khuâng dạt dào lá rụng
Bồi hồi nắng đón thu sang.


Bài thơ như cái giấc mơ trưa, loáng thoáng, vụng về, định thoát ra khỏi mộng mị thì người lại vô tình chạm phải mùa Đông, để giấc mơ rơi rụng như chiếc lá, cuốn đi những hoài bão... họ thảng thốt mà không dám giữ lại cho riêng mình.

Em đi nắng bước chung hàng
Tôi về sầu Ðông rụng lá
Ðôi ta chập chờn hai ngả
Bàng hoàng tôi viết thành thơ ......

Buông một câu thơ tưởng như được chia sẻ thì lại bắt gặp sự nao lòng, bàng hoàng, nối tiếc, giá mà em bước đi chung hàng, anh bước đi chung hàng, nắng sẽ nhuộm vai anh, vai em, nắng sẽ in trên nền thảm cỏ hai người thì kết cục đã trọn vẹn quá đỗi. Nhưng thôi, thế mới là thơ, chẳng có gì rõ ràng, phân mình cả, theo đuổi từ mùa Xuân đến đầu thu và sang mùa Đông thì "Ðôi ta chập chờn hai ngả ". Thật tiếc lắm thay.

Hoang Vu ơi, xin thứ lỗi cho tớ nhé, phá phách bạn một chút, mong được đọc thơ bạn nhiều hơn, thật nhiều nhé.


Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:23:12
Trái yêu chín tới


Trần Thu Hà

Tình yêu dâng cơn nghén sổ lồng, tung vào em rạo rực
Anh, người đàn ông phóng túng
giấc mơ khoáng đạt đội mầm
Em, tống giam nụ cười cũ
Sổ lồng con mãnh sư bị tình yêu đánh cắp
Lòng thủy chung khánh kiệt
Cặp mắt từ hôn cất vó một lần rách lưới
Tình yêu nhảy dù từ tầng trời xuống
Đầu thai mùi thơm anh – mùi trái yêu chín tới
Em lành như đất, tiếng mềm, thon thả đam mê
Cuốn anh run rẩy
Em thầm nở bật mở cỏ thơm đồng nội
Háo hức uống vội niềm vui
Vừa che chắn gió vừa thổi vừa thắp sáng
Anh mọc vào em
Đánh dấu niềm vui trễ nải
Nắng thõng nụ cười tinh quái
Trổ hoa giai điệu hạnh phúc em
  LỜI BÌNH:

Vân Đình Hùng

Vẫn là muôn thuở tình trai gái với muôn sắc điệu thể hiện. Vẫn là đại từ thường dùng thân quen có thể đổi trao giữa ngôi một sang ngôi hai. Vẫn vậy mùi yêu chín tới bật mở. Bông yêu hàm tiếu đủ chín tháng mười ngày. Ngày khai hoa, tình yêu thành nụ - nụ cười nắng có giai điệu ngân vang mà không thành tiếng. Tiếng reo lặn vào trong để tự huyễn hoặc mình trước cỏ thơm đồng nội. Niềm vui của Trần Thu Hà vui với riêng mình, chỉ riêng mình. Định như vậy mà nó lại lây sang người đọc khác giới và thầm nhắc nhở để xua đi những góc khuất đớn hèn vụt hiện.
Em lành như đất/cuốn anh run rẩy/anh mọc vào em/trổ hoa giai điệu. Trích theo nhịp bốn thì Niềm vui là đồng dao biến thể. Nhịp khấp khểnh trong hân hoan. Lãng đãng tiếp đất sau cú nhảy dù rách lưới. Chưa hoàn hồn thì tình yêu cuốn đi cuốn đi. Chủ thể đã mọc như tự lâu rồi. Và chàng đóng dấu chủ quyền. Nắng chứng giám, lại cả gió cả thanh thiên và cả người bị cầm tù nữa. Mong manh ơi, sao hạnh phúc nhường kia.
Cấu trúc thơ bất thường với nhịp trẩy tất bật. Thả thơ trong hưng phấn ngoài bản ngã sẵn có. Tứ tung tẩy song hành cùng chữ mới, dùng không lặp lại. Lối viết ấy tạo một giọng riêng bạo liệt. Cứ như thế, nữ sỹ thành Vinh lôi người đọc đi theo với hơi thở gấp gấp mà không dừng khi chưa kết thúc. Khi hoàn hồn chân trời đã le lói hoàng hôn, tiếng gà vừa vào canh một. Bã người trong đam mê
Giai điệu hạnh phúc em cất tiếng. Người đàn ông phóng túng đội mầm mọc vội. Chưa ra cành, hoa đã nở, đã cất tiếng thơm trong. Trong mắt người vào yêu nhân hậu xiết bao. Trước đấy một quãng ngắn vừa ngậm ngùi nuốt cục buồn vào nơi không đáy. Nay thì òa ra, trổ hoa niềm vui, trổ hoa giai điệu muộn mằn.
Ơn Chúa lòng lành vô cùng. Hết mưa là nắng. Bĩ thái cặp đôi song hành để lấy lại cân bằng cho con người. Âu cũng là duyên nghiệp buộc vào khó cởi. Kiếp nạn sẽ luân hồi cho đến con số nào đây cho một đời người thơ? Ai trả lời được người ấy có Niềm vui  đồng hành cùng nữ sỹ.

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:27:10
  Lối nhỏ
 Dư Thị Hoàn


Có lối nhỏ chia đôi thảm cỏ
Em thả bước chán chường
Có lối nhỏ gập ghềnh sỏi đá
Gót chân em nện xuống dữ dằn

Có lối nhỏ vương đầy cây xấu hổ
Em sợ nó khép cánh
Biết làm sao bây giờ
Chính lối này đưa em tới anh
 
Lời bình:
              Trong tình yêu thường có những cái cớ. Đôi khi cái cớ ấy rất nhỏ, rất vô tình nhưng lại tạo thêm hương vị cho tình yêu. “Lối nhỏ” của Dư Thị Hoàn là một bài thơ như thế.
Có lối nhỏ chia đôi thảm cỏ
Em thả bước chán chường

   
           Không biết lối nhỏ ấy là nguyên nhân ngăn cách sự chung đôi hay do lòng người đang có sự cách ngăn? Năm xưa cụ Nguyễn Du cũng đã từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Bởi vậy khi nhân vật trữ tình đang mang tâm trạng trong lòng thì nhìn đâu cũng thấy nhuốm một nỗi buồn trĩu nặng. Trong tình yêu có những điều thật khó lý giải. Đơn giản đấy mà lại phức tạp. Em buồn. Nỗi buồn hiện lên rõ ràng “Em thả bước chán chường.” Bước chân của nhân vật trữ tình có gì xót xa, hờn dỗi.
Vẫn là cái lối nhỏ ấy nhưng không còn là chia cách đôi bờ mà là “Gập ghềnh sỏi đá.” Con đường gập ghềnh sỏi đá hay trái tim em đang có những u buồn? Thật khó lý giải được những điều trái tim muốn nói. Em đang có những ngổn ngang lo toan. Em cũng bình thường như những người con gái khác cũng giận hờn, dằn dỗi…và có khi em cũng sợ, sợ một điều gì đó rất mơ hồ không gọi thành tên. “Lối nhỏ vương đầy cây xấu hổ/ Em sợ nó khép cánh.” Lá khép cánh hay cửa trái tim em đóng lại sau những đau buồn?
 
            Em là vậy. Con người em, tính cách luôn hiện hữu, được giãi bày…em cũng biết yêu và khao khát được yêu.  Dư Thị Hoàn đã rất khéo léo khi lấy cái “Lối nhỏ” để diễn tả trạng thái cảm xúc của mình. Khi đau đớn tột cùng nhất cũng là lúc em gặp được hạnh phúc ngay trong đau khổ đó. Chẳng phải là như thế sao? Em đang tuyệt vọng vì sự cách ngăn, chia lìa thì ngay trong sự cách ngăn ấy em đã tìm được hạnh phúc. Dù là hạnh phúc mỏng manh, mơ hồ nhưng nó cũng là cái cớ để níu giữ trái tim đang yêu đa cảm vượt qua khó khăn.
Biết làm sao bây giờ
Chính lối này đưa em tới anh…”

 
              Phải rồi chính lối này đã cho em được gặp anh, đã mang lại hạnh phúc cho em. Tình yêu thật nhiều cung bậc, thật khó có thể nói được khi nào thì người ta hạnh phúc, khi nào thì khổ đau. Bởi ngay khi khổ đau nhất lại là lúc ta gặp được hạnh phúc của riêng mình. Đấy chẳng phải là điều kỳ diệu sao?
Nguyễn Thu Hà
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:30:17
Ghen
TG: NGUYỄN BÍNH

 
Cô nhân tình bé của tôi ơi !
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.

Tôi muốn cô dừng nghĩ đến ai
Đừng hôn dù thấy cánh hoa tươi(*)
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay biển lắm người.

Tôi muốn mùi thơm của nước hoa
Mà cô thường xức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
Dẫu chỉ qua đường khách lại qua.

Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ.

Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng vết chân nào được dẫm lên.

Có nghĩa là ghen quá đấy mà thôi
Thế nghĩa là yêu quá mẩt rồi
Và nghiã là cô là tất cả
Cô là tất cả của riêng tôi .

 

LỜI BÌNH:

Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ . Bất cứ một sự chia sẻ nào cũng làm cho tỉnh yêu trở nên không trọn vẹn và mất đi sự thiêng liêng của một thứ vốn có tính chất bền vững vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của nhân loại.

Khi đã có lòng yêu ai, người ta chỉ muốn người ấy chỉ là của riêng mình một cách tuyệt đối. Vì thế cái ghen luôn luôn tỷ lệ thuận với mức độ mãnh liệt trong tình yêu hay nói cách khác, nó chính là thước đo tình yêu .Theo đó, những người yêu chưa hết mình, theo kiểu nửa vời hoặc những kẻ tính toán, hẳn nhiên không thể có cái ghen nồng nàn , đáng yêu, đẹp đẽ như một người có sự trao gửi tuyệt đối về tư tuởng và hành động đối với người mình yêu.

Trở lại với bài thơ, cái điệp khúc " tôi muốn ...." được lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài, trong nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau của đời sống thường nhật mà người yêu của anh đang trú ngụ trong cõi thực . Những sự mong muốn sở hữu ấy, thậm chí có lúc trở nên vô lý, vì người con trai rất "lạ lùng " kia còn có cả cái tính ghen với những sự vật vô tri vô giác , mà cô gái thường sử dụng như : những cánh hoa,như chiếc gối, ....chỉ vì chúng có được cái diễm phúc rất to lớn là thường xuyên được cô gái ôm ấp, nâng niu , và hôn một cách rất tình tứ, say mê.

Trong cõi thực , anh chàng si tình đó vẫn có cái sự ghen rất nhạy cảm đối với những việc làm của cô gái : ví như cô đi tắm biển chẳng hạn . Không thể nói là cái ghen vô lý được nữa, bởi ở cái bãi biển đó, cô gái đã phô bày hầu hết cơ thể như một sự trở về nguyên thủy với thiên nhiên. Một mình cái biển xanh không thôi với những bờ cát phẳng lì tyệt đẹp, với những con sóng bạc đầu dữ dội , điệp điệp trùng trùng, đầy thèm khát ấy cũng đã đủ làm cho một người con gái thấy ngượng ngùng e thẹn, giống cái ngượng của một người con gái khác khi tắm dưới cái ánh trăng , của Hàn Mặc Tử :

"Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "


Huống hồ là trước cái bãi biển đông người, với hàng ngàn hàng vạn những ánh mắt đang chiêm ngưỡng cái vẻ đẹp tuyệt vời của cô, một sản phẩm tuyệt tác của tạo hóa, hỏi làm sao chàng trai của chúng ta lại không ghen cho được ?

 
Nói về một chi tiết thứ hai, bằng cách chọn lọc một số hình ảnh tiêu biểu, Nguyễn Bính nhắc đến dấu chân của người con gái . Hẳn là cô gái ấy phải đẹp lắm , nên cái dấu chân kia mới gây nhiều ấn tượng cho chàng trai của chúng ta , ca dao nói :
" Người xinh đi đứng cũng xinh
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn "
Tự cổ chí kim, người ta còn nói đến gót chân của người phụ nữ , như nói tới một vẻ đẹp nhuần nhị, dịu dàng, thể hiện tính cách bên trong đầy nữ tính của người con gái. Vết chân của con gái , tất nhiên khác với vết chân của người con trai, bởi nó được cấu thành trên cơ thể của một giới "chân yếu tay mềm". Những dấu chân của phái đẹp nói chung như những điểm xuyết mà tạo hoá ban xuống tô điểm cho bãi biển đời người của trần thế, một nét hoa văn nổi bật giữa những bàn chân thô nhám của cánh mày râu .






Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:33:17
ĐI TRONG HƯƠNG TRÀM
(Hoài Vũ)

Em gửi gì trong gió trong mây
Ðể sáng nay anh lên Vàm Cỏ Tây
Hoa tràm e ấp trong vòm lá
Mà khắp trời mây hương tỏa bay!
Dù đi đâu dù xa cách bao lâu
Dù gió mây kia đổi hướng thay mầu
Dù trái tim em không trao anh nữa
Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau
Gió Tháp Mười đã thổi, thổi rất sâu
Có nỗi thương đau có niềm hy vọng
Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng
Hương tràm bên anh, mà em đi đâu?
Dù đi đâu và xa cách bao lâu
Anh vẫn có bóng em giữa bóng tràm bát ngát
Anh vẫn thấy mắt em trên lá tràm xanh mát
Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao...

LỜI BÌNH:

Cái ánh mắt biếc xanh như vòm lá tràm ấy cứ ám ảnh tôi, cứ bám riết lấy tôi theo từng câu từng chữ khi đọc bài thơ này và nghe bản nhạc phổ cho bài thơ này.
Nó ám ảnh tôi có lẽ bởi trước hết nó lúc nào cũng trong biếc, tinh khôi trong mắt, trong tim, trong óc, trong trí tưởng tượng của chàng trai đa tình và chung tình kia. Cái hình ảnh ấy cuối bài thơ mới xuất hiện, nhưng đọc một lần, để ý xem lại, ta thấy dường như nó hiển hiện trong toàn bộ bốn khổ thơ cũng đa tình và chung tình này!
Hoài Vũ đã khéo léo gửi cái ánh mắt ấy vào trong lá tràm. Để rồi bất cứ thứ gì liên quan đến “em” cũng trở thành Tràm. Tưởng như Tràm là em từ bao giờ rồi. Và bài thơ ngập trong hương tràm, lá tràm, gió tràm. Tràm chính là em, em có ở trong tràm. Cái xứ Tháp Mười này cũng trở thành xứ tràm – xứ em!
Này nhé:
Anh vẫn thấy bóng em giữa bóng tràm bát ngát
Anh vẫn thấy mắt em trên lá tràm xanh mát
Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao…”
Em là bóng tràm. Em là mắt lá tràm. Em là hương tràm. Và vì thế cho nên rất dễ hiểu vì sao trong bốn khổ thơ, khổ nào cũng gió tràm, cũng mây tràm, cũng hương tràm, lá tràm… Và vì thế cho nên “Đi trong hương tràm” chính là đi trong tình em!
Bốn khổ thơ, cuối mỗi khổ đều quấn quyện hương tràm, tưởng như cả bài thơ ngập trong cái hương tràm xôn xao kia. Khổ thứ nhất: “Mà khắp trời mây hương tỏa bay”, khổ thứ hai: “Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”, khổ thứ ba: “Hương tràm bên anh mà em đi đâu?”, khổ thơ thứ tư: “Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao”. Mỗi khổ thơ là một khổ hương tràm, một sắc thái hương tràm. Và mỗi khổ cũng là một sắc thái tâm trạng của nhân vật trữ tình “anh”. Tất cả đắm say trong hương tràm, trong “tình em”. Ngay từ khổ thứ nhất đã say đắm:
“Hoa tràm e ấp trong vòm lá
Mà khắp trời mây hương tỏa bay”
Không đắm say, không nhập tâm nhập thần cái hương tràm ấy thì làm sao mà từ bông hoa tràm trong vòm lá kia lại có thể thấy được một trời mây hương tràm tỏa bay như thế!
Tuy nhiên, cái đắm say ấy cũng mới chỉ là bước khởi đầu của một chuỗi diễn biến tâm trạng của “anh”. Nó mới chỉ là cái đắm say của cảnh, của lá tràm, bóng tràm thực tại. Khổ hai, tâm trạng bắt đầu vận động theo hương tràm. Sau một loạt những “Dù” phũ phàng và đau đớn là “Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”. Từ bông hoa tràm mà thấy được một trời mây hương tràm tỏa bay đến không có “em” mà vẫn có thể “cho ta bên nhau” qua “một thoáng hương tràm” thì cái liên tưởng ở đây đã có chiều hướng đi sâu vào tâm tưởng.
Và như một quy luật của logic tâm hồn, khi chạm đến những gì là của tâm tưởng, của tâm thức thì sau phút đắm say sẽ là nỗi đau. Mà sự đắm say càng sâu thì nỗi đau càng giằng xé, càng quặn thắt. Cái thực tại phũ phàng “Hương tràm bên anh, mà em đi đâu” như muốn phá tan tất cả những hư ảo mơ màng của không - gian - tràm trước đó. Nhưng có lẽ vì anh chung tình quá nên cái không - gian - tràm ấy không dễ gì mà phá vỡ được. Và đến khổ cuối thì cái cảm xúc: “Anh vẫn nghe tình em trong hương tràm xôn xao” đã trở thành siêu liên tưởng!
Không gian thơ ở đây được phân định thành hai chiều không gian rõ ràng: Một chiều không gian thực tại với những cây tràm, bông tràm, lá tràm và “xa cách”, và “đổi hướng thay màu”, và “không trao anh nữa”, và thương đau… Một chiều không gian của tâm thức, tiềm thức với bóng tràm, với hương tràm, với mắt tràm, với mây tràm, với gió tràm, với “hy vọng”, với “cho ta bên nhau”…
Chính vì cái không gian này nên cái ngọn gió của xứ Tháp Mười – xứ tràm – xứ em kia mới “thổi rất sâu” chứ không phải là thổi rất xa hay rất cao! Cái chiều thổi của gió là chiều của tâm hồn, chiều của nỗi nhớ, của tình yêu, của niềm hy vọng…
Và có lẽ cũng bởi cái chiều không gian thứ hai này và cái chung tình của “anh” mà khiến cho cái không gian chung của bài thơ không ít mơ màng, hư ảo này bừng sáng lên trong từng câu chữ.
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:40:46




Sau lưng mùa hạ cũ
 
Trương Nam Hương



Và lại đến cái mùa hoa phượng đỏ
Kỷ niệm ơi chìm khuất ở nơi nào
Tiếng ve vỡ ra trăm nghìn mảnh nhớ
Em không về nhận một tháng năm sao !

Dành cả đấy cho em - dành cả đấy
Anh gom mây ngũ sắc bọc thơ tình
Em nhón gót cho thời gian tụ lại
Tay học trò giọt mực rớt lem xanh

Dành cả đấy cho em - dành cả đấy
Nguyên cơn mưa không thiếu hạt nào
Mắt mùa hạ trong veo nhìn thấu đáy
Nở phập phồng bóng nước tán me chao

Dành cả đấy cho em - dành cả đấy
Mượn thời gian hăm mốt tuổi, anh đền
Để mùa hạ nắng mưa là trai gái
Phượng cũng từng hồi hộp lúc kêu tên !

Và lại nhớ vòm trời hoa phượng cũ
Khép rưng rưng mùa ha. giữa tay cầm
Cửa lớp mở với một người trong đó
Vẽ lên bàn và hát những lời câm

Ai bảo nhớ, bảo dành cho em hết
Anh tìm em mắt cứ nhóng lên trời
Câu thơ viết tan vào mây ngũ sắc
Cuối sân trường vô vọng xác xe rơi !
 Lời bình:  


Tháng tư và tháng năm dường như luôn là một ý niệm thời gian, một miền xưa cũ được gọi về dành cho những ai đã rời xa tuổi học trò. Đôi khi trong sâu thẳm mỗi chúng ta lại được đánh thức bởi những gì nhỏ bé, thân thuộc từ cánh phượng, tiếng ve... Nhà thơ Trương Nam Hương gọi những khoảnh khắc không thể nào quên đó là “Sau lưng mùa hạ cũ”


Và lại đến cái mùa hoa phượng đỏ

Kỷ niệm xưa chìm khuất ở nơi nao

Tiếng ve vỡ ra trăm nghìn mảnh nhớ

Em không về nhận mặt tháng năm sao?


Nhà thơ gọi là “mùa hạ cũ” bởi nó đã đi qua, mãi mãi không bao giờ trở lại. Nhưng lại luôn hiện diện trong đời sống thực tại để dễ dàng dẫn dắt cảm xúc của con người trở về những mốc thời gian của quá khứ.

“Và lại đến…” câu thơ như một điệp khúc để so sánh giữa hiện tại và hồi ức. Nó cứ trở đi trở lại theo sự luân chuyển của mùa mà vẫn đủ sức trở thành một cái cớ để chạm khắc vào phần thiêng liêng của mỗi con người. Đó là phượng đỏ, tiếng ve - Tiếng ve vỡ trăm nghìn mảnh nhớ. Câu thơ vừa gợi thanh vừa gợi hình. Tiếng ve và nỗi nhớ đã được cụ thể hoá như những “mảnh” rồi lại “vỡ” ra, oà ra. Nhưng cái sự trớ trêu của nhân vật trong hành trình “ngược thời gian” này là, hồi ức đối diện trong cô đơn với nhiều câu hỏi: Em không về nhận mặt tháng năm sao? Tác giả luôn phân vân; không biết ở phương trời nào em có còn nhớ đến “mùa hạ cũ” giống như tôi?

Ngày ấy, tất cả những gì trong veo tuổi học trò anh đã dành cho em “Dành cả đấy cho em - dành cả đấy/ Anh gom mây ngũ sắc bọc thơ tình”, “Nguyên cơn mưa không thiếu một giọt nào/ Nắng mùa hạ trong veo nhìn thấy đáy”… Người con trai đã dành trọn vẹn cho người con gái những thứ tưởng chừng như vời vợi, mênh mông nhưng lại rất đỗi chân thành, lãng mạn. “Mây ngũ sắc” đem bọc thơ tình mang một màu sắc huyền ảo; nửa như muốn giấu tất cả chỉ dành cho mình em biết, nửa như lại nhờ mây trời nói hộ những điều thầm kín trong lá thư ấy.

Và lại đến vòm trời hoa phượng vĩ? Khép rưng rưng mùa hạ giữa tay cầm. Hình ảnh hoa phượng cứ đồng hiện một lúc mùa hạ của kí ức ngày xưa và hiện tại. Sự đồng hiện này làm nổi bật nét tương quan khác biệt đến với người đọc. Tác giả đã từng đi tìm kỷ niệm bằng hành động thiết thực để rồi nhận ra; không thể đồng nhất kỷ niệm với những gì cụ thể rõ ràng mà mất đi rồi người ta có thể tìm lại. Cửa lớp mở với một người trong đó/ Vẽ lên bàn và hát những lời câm. Trở về mái trường xưa, cánh cửa lớp vẫn mở như năm nào đón chờ bước chân của cậu học trò đến nơi đây. Tất cả mọi thứ vẫn còn nguyên, chỉ có bạn bè, thầy cô là thiếu vắng. Cậu học trò hồi tưởng bằng sự độc diễn, độc thoại; “vẽ” và “hát”.

Sau bao nhiêu năm trôi đi, tuổi học trò đã mãi lùi xa, nhưng cứ mỗi mùa hạ sang thì kỉ niệm của ngày xưa lại hiện về. Giờ đây tác giả trở lại nơi ấy không phải bằng những bước chân đơn độc nữa mà bằng những hoài niệm và cả bằng thơ: Anh bảo nhớ, bảo dành cho em hết/ Anh tìm em mắt cứ ngóng lên trời/ Câu thơ viết tan vào mây ngũ sắc/ Cuối sân trường vô vọng tiếng ve rơi. Khi nhớ đến một điều gì đó thật sâu sắc có lẽ người ta chỉ cần thể hiện một cách âm thầm, tự mình cảm nhận và thấu hiểu được là đủ. Cũng giống như người con trai trong bài thơ, tìm một ai đó đâu phải cứ nhất thiết tìm một gương mặt cụ thể giữa dòng người tấp nập. Câu thơ tan vào mây, rồi tiếng ve rơi ở cuối sân trường… tất cả hoà vào nhau tạo thành những bản nhạc đầy dư vị bâng khuâng và tiếc nuối của những ai đã đi qua tuổi học trò.

Sau lưng mùa hạ cũ của Trương Nam Hương là bài thơ mang nhiều tâm trạng hoài niệm, đẹp như một đoản khúc mãi lắng đọng trong tâm trí con người.
SONG NGUYỄN
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 03:56:03

ĐI LỄ CHÙA
 Dư Thị Hoàn

Năm ngưòi đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa
Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ
Người thứ nhất thở dài:
- Tội nghiệp nhất người đàn bà không chồng
  Người thứ hai chép miệng:
- Vô phúc nhất người đàn bà không con
Ngưòi thứ ba cười buông:
- Bất hạnh nhất người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng
Người thứ tư điềm đạm:
- Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con
Người thứ năm:
- Mô phật!
Lão xà ích giật dây cương
Roi quất
Tung bụi đường.
                                                              
16 - 12 – 1987


lời bình:

Dư Thị Hoàn viết nhiều về người phụ nữ, nói đúng hơn, chị viết nhiều về thân phận đàn bà. Ngay cả trong những bài thơ tình, hình ảnh người phụ nữ hiện lên bao giờ cũng phảng phất tiếng nói của thân phận. Người đọc bị hấp dẫn bởi âm điệu trúc trắc, gập ghềnh của nhịp thơ, bởi chất triết lí sâu sắc và thấm thía. Bài thơ Đi lễ chùa mang trong nó sức hấp dẫn ấy.
Đi lễ chùa là một tín ngưỡng đã có từ rất lâu trong tâm linh người Việt, người đi lễ muốn tìm đến cõi Phật đẻ cầu mong có được hạnh phúc, có được sự thanh thản trong tâm hồn. Và trên con đường hành hương về cõi Phật ấy, người ta mang theo những “vật tế lễ”, mang theo những nỗi niềm và những nỗi đau. Có nỗi đau nói ra được bằng lời và có cả những nỗi đau không lời lẽ nào diễn tả nổi.  Cụ thể hơn, ở đây, đó là nỗi đau của kiếp đàn bà.

Bài thơ như một câu chuyện được kể tự nhiên và hàm súc. Lời thơ thấm đẫm chất tự sự, những thông tin được gửi đến độc giả một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ, giản đơn nhưng ám ảnh. Bao giờ cũng vậy, Dư Thị Hoàn làm người đọc phải bất ngờ bởi những ý tưởng nhân văn và rất thông minh của chị. Tác giả viết về “năm người đàn bà” “đi lễ chùa”, con số năm không phải là nhiều cũng không phải ít, nó vừa đủ để thể hiện dụng ý nghệ thuật: “Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/ Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ”. Đâu phải năm người đàn bà mang theo năm nỗi đau khổ. Không! Khổ đau thì không bao giờ đếm được! Bài thơ có năm lời thoại, cũng có thể là độc thoại, mà đã là độc thoại thì hoặc người ta cô đơn hoặc người ta than thân trách phận. Các lời thoại được sắp xếp đầy ẩn ý, nỗi đau được kể ra theo cấp độ tăng tiến. Chỉ cần non tay một chút thôi ý thơ rất dễ rơi vào vụng về khiên cưỡng. Nhưng cây bút Dư Thị Hoàn đầy bản lĩnh, chị kể lể đấy, than thở đấy song lời than không rườm rà mà được cô đọng tối đa.

Dường như những nỗi niềm của phận đàn bà cứ quặn thắt trong từng câu chữ: “- Tội nghiệp nhất ngươì đàn bà không chồng”, “- Vô phúc nhất người đàn bà không con”. Người phụ nữ Việt Nam thường gắn liền với gia đình, sẵn sàng hi sinh cho gia đình nên “không chồng”, “không con” thì thật “tội nghiệp”, thật “vô phúc”. Đến lời thoại thứ ba thì nỗi đau bắt đầu không còn cụ thể nữa: “- Bất hạnh nhất người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng”. Phụ nữ vốn dễ xúc động và mau nước mắt, khi người ta khóc – đó là khi người ta muốn được sẻ chia, an ủi. Vậy mà người đàn bà kia “không khóc nổi trước mặt chồng”, ngay cả với người bạn đời đầu gối tay ấp bấy lâu, chị cũng không thể sẻ chia tâm sự, thậm chí đã cạn kiệt mọi trạng thái cảm xúc (dù chỉ là trạng thái của nỗi đau)! Nàng thơ đã đi sâu vào mọi ngõ ngách tâm hồn người phụ nữ để cảm hiểu những điều sâu kín nhất: “-Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con”. Có lẽ không cần nói thì ai cũng biết tình nghĩa mẹ dành cho con lớn lao biết nhường nào. Với một người mẹ, con là hi vọng, là hạnh phúc, là tương lai, mẹ có thể hi sinh tất cả vì con. Thế nhưng người mẹ không cười được khi thấy con thì đúng là tuyệt vọng nhất, người đàn bà đó như đã mất tất cả rồi.

Ta nhận ra mỗi người mang một trạng thái: “Người thứ nhất thở dài”, “Người thứ hai chép miệng”, “Người thứ ba cười buông”, “Người thứ tư điềm đạm”, còn “Người thứ năm” thì chẳng biểu lộ một sắc thái gì:
“Người thứ năm:
- Mô phật!”
Lời thoại thứ năm kết lại những nỗi đau, không hề thở than, không hề nói đến một nỗi bất hạnh cụ thể nào song lại nói được rất nhiều. Thì ra, nỗi đau không nói nên lời mới là đau nhất, “tội nghiệp nhất”, “vô phúc nhất”, “bất hạnh nhất” và “tuyệt vọng nhất”. Thử hỏi còn gì đau đớn hơn khi ta không thể nói về nỗi đau của mình? Có người nói với tôi rằng: “Người thứ năm” không hề than thở, không biểu hiện trạng thái gì tức là đã rũ bỏ hết mọi bụi bặm trần ai để đến với cõi Phật. Như thế không có nghĩa là nỗi đau được rũ bỏ.

Con đường hành hương về cõi Phật vẫn chỉ là đường đời thôi, bụi bặm và nghiệt ngã: “Lão xà ích giật dây cương/ Roi quất/ Tung bụi đường”.
               Trên con đường hành hương về cõi Phật, “năm người đàn bà” hay nhiều hơn nữa cũng không thể mang hết những nỗi đau của phận đàn bà, những nỗi đau trong cuộc sống nhân sinh. Dư Thị Hoàn đã cắt nghĩa những nỗi bất hạnh của con người bằng một tư duy sắc bén, bằng sự trải nghiệm và bằng cả sự đồng cảm. Chính điều này tạo nên chiếu sâu cho bài thơ.
Trần Tuyết Hạnh
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 04:03:26
 
Mưa
                                    
 Tg:     Vân Long
 
 
Qua dải sân mưa tôi ngắm em
Màn mưa nhòa những nét thân quen
Tình yêu chớm nở sao mà đẹp
Một thoáng nhìn nhau mưa cũng ghen!
 
Bình luận:
 
Trước Vân Long, thơ tình viết quanh chữ "ghen", có Xuân Diệu, Nguyễn Bính khá tinh tế, sâu sắc. Chỉ có điều trước đó, người ta nói tới ghen vẫn không ngoài thứ tình cảm ích kỷ, bản năng vốn có trong con người. Ghen của Vân Long trong "Mưa" có khác, hóm hơn. Chủ thể đánh ghen ở đây không phải con người, mà là mưa. Vì vậy, tình yêu không còn bó hẹp mà lan tỏa sang thiên nhiên. Nói cách khác, tình yêu được sự đồng cảm, sẻ chia của cả những hạt mưa...Mưa bỗng được hồn người thổi vào và trở thành "tình địch" với tác giả. Mưa cũng bị dáng em kia quyến rũ, si mê...


Bài thơ tứ tuyệt có 4 câu 7 chữ, đọc thấy 3 câu trên chỉ là giao đãi, tả cảnh, ngôn ngữ, hình ảnh chưa có gì tác động mạnh người đọc. Thậm chí, đến câu thứ 4, mà mãi đến chữ cuối cùng "ghen" mới bật sáng linh hồn bài thơ. Đây là khám phá của nhà thơ: "Một thoáng nhìn nhau mưa cũng ghen".

Cả bài thơ không miêu tả người con gái đẹp như thế nào, mà chỉ nói là "những nét thân quen" chung chung. Song, nếu nói những hạt mưa đang giăng thành màn để che, để xóa đi những nét dáng của em là bởi vì mưa "ghen" không muốn cho người con trai nhìn ngắm, thì quả thật cô gái bỗng hiện lên đẹp tuyệt vời! Thì ra cái hay của thơ ở đây không phải ở câu chữ, hình ảnh mà là ở cái hồn, cái tứ bài thơ.

"Mưa" của Vân Long được sáng tác từ những năm đầu thập niên 60 thế kỷ 20, in trong tập thơ đầu tay của nhà thơ. Nhưng đến nay, sau gần nửa thế kỷ, vẫn có sức sống truyền cảm, chắc bởi tình yêu được tưới thấm đẫm vị ngọt mát của cả những hạt mưa chăng.



Nguyễn Siêu Việt
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 25.05.2008 04:28:07
Dịu và nhẹ
 
TG: NGUYỄN DUY
 





Nhàm tai nghe rối tiếng ầm
dọn tai ta lắng tiếng ầm thế gian
Mùa xuân trở lại dịu dàng
Hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay
nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều
Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng
má hồng về xứ hồng hoang
tóc rơi mỗi sợi mỗi ngàn lau rơi
Dịu dàng vang tiếng mắt cười
bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
bỏ qua nợ tháng nợ năm
Chợt nghe giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng.

 
LỜI BÌNH:
 
Tạo hóa sinh ra người Nam và người Nữ để yêu nhau. Tình yêu sẽ đồng hành với con người trong suốt cuộc đời, dẫu qua thời gian nó lớn lên và biến đổi. Từ cái háo hức, nồng nàn thuở ban đầu tới sự đằm thắm, sâu nặng, dần dần hai người đã thành tính thành nết của nhau, tình yêu vẫn vậy, chẳng cũ đi bao giờ. Hoa theo mùa và tình yêu theo tuổi...

Ai từng đi qua cái trẻ trung của tình yêu đôi lứa cũng không khỏi ngỡ ngàng trước vị ngọt ngào, ấm áp của tình yêu lúc tuổi già đứng bóng, khi yêu thương đã hóa thành tình nghĩa.

Nguyễn Duy mang cái tâm thế ấy khi ông viết "Dịu và nhẹ" - một bài thơ nghe như tiếng tâm tình gửi tới người tóc đã muối tiêu.







Câu thơ đầu như một lời tự sự - làm lối mở để đi vào một thế giới dịu và nhẹ mà nhà thơ đã "lắng" được trong "tiếng thầm thế gian". Câu thơ tiếp mở ra một không gian mà thời gian đã tự nhiên chảy trôi vào trong đó: "Mùa xuân trở lại dịu dàng". Thiên nhiên vẫn tuần hoàn, không phải một mùa xuân đầu tiên nhưng đây là cái khoảnh khắc xuân đọng lại để nghe tiếng sự sống tí tách đâm chồi:

Hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay
nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều


Ba dòng thơ cắt ra từ một câu thơ, lại cứ quấn quýt vào nhau bởi cái lối lặp từ tràn từ dòng trên xuống dòng dưới "nhẹ nhàng hương bay", "nhẹ nhàng lộc cựa". Sự trở lại, cái bắt đầu của một mùa xuân nhu nhú trong những hương và lộc... Sức sống như lây lan, như truyền dẫn, như tỏa vào không gian. Nếu theo cái logic ấy, mạch thơ ấy, thì bỗng dưng, dòng thơ thứ ba như bất ngờ, bởi tự nhiên nó ngưng đọng:

dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều

"Vương" chứ không phải là đang trôi. "Tím mây" chứ không phải là mây tím. Câu thơ tám chữ đang xuôi trong âm điệu thanh bằng bất chợt vút cao lên giữa dòng bởi hai thanh trắc và lối đảo từ độc đáo. Cao độ và sức hút của câu thơ xoáy vào một màu tím - như là một nét đậm vẽ ngang qua nền trời. Đoạn thơ trở nên giàu giá trị tạo hình và rất đường nét. Cái dải mây ngang chiều ấy tựa như là khung, là viền của bức tranh mùa xuân tràn đầy hương sắc, nổi bật giữa thiên nhiên.

Nhưng mà cái dáng điệu lững thững, ngưng nghỉ của dải mây màu tím ấy nghe ra như dáng hình tâm trạng, hay một chút vẩn lên trong tâm hồn thi nhân. Thật khó mà cắt nghĩa cho rạch ròi. Song, có lẽ đó là một sự chuyển giao, cái động đã nhường chỗ cho cái tĩnh. Sự rạo rực đã lắng lại trước những gì thâm trầm, thực sự dịu và rất nhẹ.

Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng
má hồng về xứ hồng hoang
tóc rơi mỗi sợi mỗi ngàn lau rơi


Nguyễn Duy thường dùng lục bát. Thơ mà đã lục bát thường không thoát ra ngoài cái giọng ân tình, ân nghĩa, yêu thương. Lục bát là cảm xúc nén vào trong câu lục để rồi tãi ra trong câu bát - nhẹ nhàng như nhịp thở. Thơ không đua chen được với văn xuôi ở sự giàu có các chi tiết, song một khi chi tiết đã đi vào thơ thì đó là những gì đã được chọn lọc nghiệt ngã nhất. "Tiếng bóng xiêu xiêu", "tóc muối tiêu" và "má hồng".

Dân gian sâu sắc và ý nhị vô cùng khi hài hước trong ca dao:

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu


Thơ yêu chồng và thương chồng nhiều; thơ yêu vợ và thương vợ chỉ thảng hoặc như cầu vồng sau mưa. Âu đấy cũng là cái sự mau nước mắt của đàn bà và cái quý giá của nước mắt đàn ông. Đành là thơ yêu chồng hay như thơ Xuân Quỳnh... thơ yêu vợ cũng nồng nàn và xúc động như thơ Tú Xương... và đến bây giờ là Nguyễn Duy. Trong thơ Nguyễn Duy còn ẩn chứa một nụ cười hóm hỉnh, đáng yêu.

Bài thơ "Vợ ốm", nhà thơ viết:

Thông thường thượng giới rong chơi
Trần gian choang choác sự đời tùy em
...

Cha con chúa chổm loanh quanh
Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia
Việc thiên, việc địa, việc nhà
Một mình anh vãi cả ba linh hồn


Trở lại với buổi chiều mùa xuân, có người chồng ngồi ngắm vợ yêu chải tóc. Còn gì dịu dàng cho bằng hình ảnh người phụ nữ ngồi chải mái tóc dài. Nguyễn Duy đã "lạ hóa" cái cảm nhận dân gian quen thuộc ấy bằng một mái tóc muối tiêu. Suy cho cùng, cái lạ, cái xúc động không phải ở bản thân người phụ nữ mà ở trong cái nhìn của người đàn ông. Tóc xanh là tài sản độc quyền của một thời tuổi trẻ song mái tóc hai màu mới chứng tỏ được lòng thủy chung và tình yêu bền bỉ. Có một dòng chảy lạnh lùng của thời gian trong câu thơ vắt làm 4 dòng ấy. Thời gian đi qua màu hồng đôi má, đổ vào bóng dáng xiêu xiêu và nhuộm màu mái tóc. Mọi thứ đều biến đổi trong thời gian song có một thứ tình cảm vẫn nguyên sơ như những ngày xưa cũ, chỉ có điều giờ trở nên đằm thắm hơn, trong yêu thương có nỗi xót xa, cảm thông và chia sẻ:

tóc rơi mỗi sợi mỗi ngàn lau rơi

Ý thơ tuôn ra theo điểm nhìn của cái tôi trữ tình. Cái nhìn không giấu nổi nỗi bất lực trước thời gian. Sự bất lực là có thực song niềm đau xót cũng rất đỗi chân thành. Yêu lắm và sẻ chia nhiều lắm thì nhà thơ mới có nhiều cung bậc tình cảm chất chứa đến như thế khi nhìn thấy bóng người vợ yêu phía bên kia dốc của cuộc đời. Vẫn còn đắm say với vẻ dịu dàng; vẫn đầy hóm hỉnh, nghịch ngợm với má hồng ký ức và đầy xót xa trước mỗi sợi tóc rơi. Tấm lòng của một người đàn ông bao dung và độ lượng; trìu mến và thủy chung.

Thơ là "từ ngữ được tự do phô ra toàn bộ ruột gan, toàn bộ ý nghĩ và ám thị, như một trái cây chín muồi hoặc như một tên lửa nổ tung giữa bầu trời. Nhà thơ giải thoát cho chất liệu của mình" (Octavio Paz). Có phải vì thế mà thơ nói được nhiều hơn cái ẩn chứa trong lời?

Dịu dàng vang tiếng mắt cười
bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
bỏ qua nợ tháng nợ năm


Dòng thời gian vẫn là sự ngoái lại quá khứ từ điểm nhìn hiện tại song dấu ấn thời gian đã nhạt dần sự khắc nghiệt của nó. Nguyễn Duy là người sáng tạo mạnh mẽ trong cấu trúc câu thơ lục bát. Mỗi câu thơ tách ra làm một đoạn, như là một quãng ngắt. Nó là những nhịp gấp gáp được nối liền bằng những khoảng lặng. Ngưng nghỉ để lắng vào trong cái nhẹ của đất trời và cái dịu của lòng người.

Bài thơ lặp lại 4 lần từ "nhẹ nhàng" và 4 lần từ "dịu dàng". Xét về từ nguyên, "nhẹ nhàng" và "dịu dàng" đều diễn tả sự mềm mại, uyển chuyển. Song đi vào từng sắc thái, "dịu dàng" thiên về hình khối và tĩnh; "nhẹ nhàng" nghiêng về thanh âm và động. Có những câu thơ, nhà thơ chọn từ không thể thay thế như: "nhẹ nhàng lộc cựa nách cây" và "em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng".

Nhưng cái hay của thơ không giới hạn ở sự chính xác. Có những sai lạc vẫn là thơ. Tại sao lại là "nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu" và "dịu dàng vang tiếng mắt cười". "Bóng" là hình, "bóng xiêu xiêu" lại càng tượng hình. Nhưng "nhẹ nhàng tiếng bóng" thì rõ là âm thanh. Mắt có cười song không có mắt cười thành tiếng để nghe thấy "dịu dàng". Toàn bộ bí ẩn được giải mã bằng nghệ thuật lồng ghép hình và thanh vào trong câu thơ tạo nên sức gợi cảm sâu xa của hình ảnh.

"Bóng xiêu xiêu" là bóng gầy, bóng héo hon thì âu tiếng bóng cũng khẽ khàng và nhẹ nhàng. Hình ảnh bỗng mang theo âm thanh.

Đôi mắt biết cười trước chiều dài tháng năm đầy thử thách, sấm chớp gian lao thì ánh mắt ấy vọng về những âm thanh dịu dàng và yêu thương lắm. Đấy là tiếng được cảm nhận qua sự nhìn của thi nhân.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có những hình ảnh rất sáng tạo trong bài thơ "Về những trái cây đang chín..." rằng:

Tôi đi qua những cành, tôi đi qua những lá
Ký ức đôi khi mắc lại cô đơn như một trái còi


Những kỷ niệm buồn thực như một thứ quả lạc giữa mùa trái chín, dai dẳng mà không rụng, vướng vào cành, vào lá, vướng vào cả mùa sau. Ký ức trong bài thơ "Dịu và nhẹ" được cởi bỏ một cách nhẹ nhàng hơn:

bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
bỏ qua nợ tháng nợ năm
Chợt nghe giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng


Giọt nước mắt đã lăn qua "một thời sấm chớp", qua "nợ tháng nợ năm" bao giờ cũng trĩu nặng. Nhưng có lẽ nó được thấu suốt bởi tấm lòng bao dung, vị tha của người phụ nữ và sự vỗ về đầy yêu thương của người đàn ông nên mới nhẹ nhàng đến vậy. R. Tagore đã có những câu thơ đầy triết lý về niềm vui và nỗi đau:

Niềm vui mỏng mảnh như hạt sương
Nó chết ngay trong lúc nó cười
Nhưng sầu muộn thì vững vàng bền bỉ
Hãy để cho tình yêu sầu muộn
Bừng lên trong đôi mắt của em


Chỉ có sự trải nghiệm mới thấu hiểu "giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng" là giọt buồn hay vui. Có lẽ đó là hạnh phúc có ngấm vào cay đắng, có niềm vui xuyên qua nỗi buồn, có tình nghĩa đã khởi nguồn từ tình yêu. Dẫu có thế nào đi nữa thì đó vẫn là giọt nước mắt thanh lọc tâm hồn, đem đến tình yêu nhân ái, bao dung.

Đọc lại câu thơ đầu trong sự liên kết với câu thơ cuối

Nhàm tai nghe rối tiếng ầm
dọn tai ta lắng tiếng thầm thế gian




Chợt nghe giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng

người ta sẽ thấy bài thơ là cả một quá trình thức nhận. Từ cái tâm thế chủ động "dọn tai ta lắng tiếng thầm thế gian", qua sự sững sờ trước "tóc rơi mỗi sợi mỗi ngàn lau rơi", cho đến sự sẻ chia ấm áp đến ngỡ ngàng trước tiếng "nước mắt lăn", cấu trúc bài thơ đưa đến những cảm nhận sâu sắc, triết lý về những gì quý giá, vĩnh hằng trong cuộc sống. Trong cái ồ ạt của cuộc sống hiện đại, nếu không biết lắng nghe, người ta dễ vô tình đánh rơi những âm thanh "dịu và nhẹ" nhưng rất đỗi mến thương với con người. Đó là thơ của một người gửi cho một người nhưng cũng là thơ cho cả một thế hệ, cho cả tương lai của những tình yêu vừa chớm nở.

"Dịu và nhẹ" như là một âm thanh - lạc vào giữa những ồn ào, gấp gáp nhưng sẽ còn đọng lại rất đằm và rất sâu trong những tâm hồn biết đón nhận và nâng niu.



Theo Evăn

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 01:51:25
Em Nơi Giáo Đường
Đông Hòa

Em vừa đứng trên Giáo Đường
Ngoài kia mặt trời vừa vương
Nghe bay ngàn gió chướng về
Đễ thì thầm em đọc kinh

Em đứng nơi cạnh Giáo Đường
Cuộc tình nào em đã thương
Nghe tái tê trong tâm hồn
Vừa nhìn mây hôn tóc em

Em như chiếc lá rời nguồn
Bay theo mối tình khói sương
Ai tiếc cho ai bây giờ
Bao chán chường chờ mùa đông

Đâu mây hồng cao vời vợi
Khóc đời khi đã mất em
Tái tê tiếng em kinh cầu
Chôn kín Giáo Đường năm xưa

lời bình:
Ngày nào cũng đi ngang qua nhà thờ nhưng cứ đều đặn mỗi thứ bảy và chủ nhật lại thấy có nhiều người tập trung nghe giảng kinh-cảm giác cũng bình thường thôi và hình ảnh đó đã trở nên quen thuộc như thể nó là như vậy. Hôm nay, tình cờ đọc được bài thơ của Đông Hòa P chợt bùi ngùi...

Em vừa đứng trên Giáo Đường
Ngoài kia mặt trời vừa vương
Nghe bay ngàn gió chướng về
Đễ thì thầm em đọc kinh

Em đứng nơi cạnh Giáo Đường
Cuộc tình nào em đã thương
Nghe tái tê trong tâm hồn
Vừa nhìn mây hôn tóc em

Đọc đoạn thơ làm P tưởng tượng ra một mối tình thật êm dịu của hai người trẻ tuổi. H và N là đôi bạn từ thời trung học. Đơn giản vì N là con gái nên không thể chủ động, phức tạp vì H là con trai nên không muốn gây phiền toái. Đôi bạn ấy là đôi thanh mai trúc mã trong mắt bạn bè nhưng với họ, họ chỉ là bạn thân mà thôi...

Có người cho rằng: trên đời có hai mẫu người mà con trai không dám "chạm" tới. Một, là người với những đức tính không đẹp, làm người ta e dè . Hai, là người quá tốt, quá lương thiện, làm người ta sợ và giữ khoảng cách đầy kính trọng... Với sự thánh thiện của người ngoan đạo, N càng khiến H không dám để mình phạm sai lầm. Với vẻ lịch lãm, H càng làm N quý mến âm thầm, và tất cả chỉ có thế....

Ngày N quyết định dành trọn cho đức tin, H không có lí do thuyết phục để giữ N ở lại. Và mọi thứ cứ êm đềm xảy đến, mỗi người cuốn theo một ngả đường riêng...

Em như chiếc lá rời nguồn
Bay theo mối tình khói sương
Ai tiếc cho ai bây giờ
Bao chán chường chờ mùa đông

Đâu mây hồng cao vời vợi
Khóc đời khi đã mất em
Tái tê tiếng em kinh cầu
Chôn kín Giáo Đường năm xưa

Một ngày se sẻ lạnh, bạn hãy tượng tượng: với khí hậu như những ngày Đông mưa phùn ở Huế, chàng trai leo lên sân thượng của tào nhà cao cao để làm chi đó hỏng biết, một mình nghe tiếng chuông nhà thờ phía bên kia vọng về. Cảm giác ấy, như có con kiến cắn bao tử khi mình đói bụng, cảm giác hối tiếc như có cái gì đó đã bị đánh mất,... giá mà... Có giọt nước nào lăn trên má nhưng không phải là nước mắt mà là nước mưa, có cái nhoẻn cười buồn bã... Chôn kín Giáo Đường năm xưa

Bài thơ êm đềm mà buồn vời vợi. Biết trách ai bi giờ, thôi thì vẫn sống và sống vậy thôi.
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 02:06:07
Gửi anh
 
THU NGUYỆT
 
Em ngồi hóa đá thành thơ,
Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu.
 
Em ngồi hóa đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa
 
Em ngồi hóa đá thành mưa,
Trả anh giây phút anh đưa qua cầu.
 
Xa rồi anh có hay đâu,
Đã từ phút ấy bắt đầu hóa em…
 
 
Lời bình:
          Một bài lục bát chỉ có tám câu, chia thành bốn khổ, mỗi khổ có hai câu – cảm nhận đầu tiên về gửi anh của Thu Nguyệt là một sự xinh xắn, nhỏ nhắn, có cái duyên rất con gái, như đa phần những bài thơ của chị.
          Nếu đặt một bài tựa đề cho bài bình luận của mình, chắc chắn cái tên mà tôi sẽ chọn là Hóa đá hay Hóa thân. Bài thơ cứ nhắc ta nhớ đến nàng Tô thị. Mà đúng, chúng ta đang đến với một nàng Tô thị - nàng Tô thị của thơ mà là thơ đương đại hẳn hoi! Có điều ở đây nàng không bị đá hóa mà là hóa đá – hai quá trình hoàn toàn trái ngược nhau.
          Em ngồi hóa đá thành thơ,
Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu.
           Em ngồi hóa đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa
Em ngồi….
          Nàng Tô thị của cổ tích đứng ngàn năm chờ chồng, còn nàng Tô thị của Gửi anh thì ngồi mà đợi. Một sự so sánh có phần ngớ ngẩn. Ngớ ngẩn thật! nhưng không phải là không đáng đẻ so sánh. Bởi nàng Tô thị của Thu Nguyệt chỉ ngồi nên cái tầm mắt nó “hạn hẹp” lắm. Nó không được mở ra với trời đất như nàng Tô thị cổ tích mà chỉ quẩn quanh trong cái sân của tâm hồn. Bởi thế mà không có cái chiều rộng của không gian, chỉ còn lại cái chiều sâu của tâm trạng. Và cũng bởi vậy mà cái dáng hình kia hóa đá hơn vào tâm trí bạn đọc.
          Có một điều mà tôi cứ băn khoăn là tại sao thơ tình lại có nhiều từ “trả” đến thế? Chỉ có tám câu mà đã có đến ba từ “trả”. Khi người ta đã tính đến chuyện trả - vay liệu có còn là tình yêu nữa không? Không! Chắc chắn là không. May là ở đây, cô gái chỉ trả...vờ chứ không trả thật. Cứ xem những thứ mà cô định trả thì biết. Toàn là những thứ đẹp đẽ về tình yêu cả. Là thơ, là chiều, là cơn mưa.. Đó là những thứ vô hình, khó nắm bắt. Chỉ có cơn mưa có vẻ cụ thể, hữu hình hơn, nhưng xem ra cũng vô lường lắm. Nắng mưa là bệnh của trời mà lại! Và chính bởi chỉ trả vờ nên cái sự trả ấy thành ra có tác dụng ngược lại. Nghĩa là em đã nhận về mình tất cả những nhớ mong, chờ đợi. Nói như thi sĩ Nguyễn Bính, em đã nhận về mình cái bệnh tương tư. Vậy sự trả ở đây chỉ là cái cớ, cái cớ để mà nhớ mong, trách móc, giận hờn. Nó cũng giống như tâm trạng của chàng trai đi đòi yếm trong ca dao vậy:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi trả yếm cho anh
          Một sự đòi hỏi xem ra là vô lí, bởi thực ra chàng trai cũng đâu muốn thế, cho nên cô gái mới trả lời dứt khoát:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi?
          Cô gái trong Gửi anh khéo léo hơn, cô không đòi chỉ trả nên cái vô lý trong cách nói được khỏa lấp đi rất nhiều. Đúng là bài thơ mang âm hưởng giận hơn, nhưng giận hơn mà không ngúng nguẩy, trách móc mà chẳng vùng vằng. Bởi nó rất thật, thật đến mức tội nghiệp! Và cũng bởi có ai đâu mà vùng vằng. Anh đã xa, thật xa, biết có như chàng trai trong cổ tích kia một đi không trở lại? Và cũng bởi anh đã xa nên làm sao thấu hiểu được cho lòng em.
Xa rồi anh có hay đâu,
Đã từ phút ấy bắt đầu hóa em…
          Cái ngụ tình của bài thơ nằm ở đây. Nghĩa là trong những thứ mà em muốn trả có cả em. Nghĩa là trong những thứ anh phải nhận phải có cả em. Nghĩa là em đã hóa thân. Nghĩa là… mà thôi, không cần phải nói hết làm gì. Đôi khi có những cái không nói hết lại nói rất tường tận. Duy có điều này không thể không nói, là cho dù chàng trai kia có là ai đi chăng nữa, khi đọc những tâm sự này không thể không tỉnh ngộ, không thể không nhận ra mình đã đánh mất cái gì. Và biết đâu, nàng Tô thị của Gửi anh lại có một kết cục tốt đẹp hơn nàng Tô thị của cổ tích…
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.05.2008 03:06:11 bởi Ct.Ly >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 02:19:12
Vọng Hải Đài
Phạm Hầu
 
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?


Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

oChẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

lời bình:
 
Tình cờ đọc được những bài thơ của một tác giả đối với riêng tôi là lần đầu tiên biết đến. Một nhà thơ mang một căn bịnh điên và qua đời khi mới vừa tròn 24 tuổi. Đó là nhà thơ Phạm Hầu ,ông để lại rất nhiều bài thơ với tâm trạng của một người luôn khao khát với chân _thiện _ mỹ ,ông còn có tài vẽ tranh theo lối lập thể rất giỏi và chơi đàn tranh rất hay. Tiếc thay cho một người tài hoa nhưng bạc mệnh. Bài thơ Vọng Hải Đài là một trong những bài thơ đã cho tôi sự cảm xúc tiếc thương :
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi ! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài

Vọng hải đài là có thật hay là một Vọng hải đài trong tâm tưởng của riêng ông mà thôi? Là nơi ông tìm đến khi đầy ấp tâm sự ,là nơi gởi gấm bao khát vọng bay cao hay khi mỏi mệt chân đời. Tự ví mình chỉ là một khách qua đường , dừng chân bên Vọng hải đài mà lòng vương hoài nỗi hoài nghi phân vân.

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?

Hỏi ai đây? Hỏi trời? Hỏi đất? Khi trái tim còn phát sinh bao câu hỏi.

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai dè thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

Với sức tàn phá của thời gian nghiệt ngã , có thể xoáy mòn mọi vật. Vọng hải đài của ông cũng không ngoại lệ. Lời ta thán của một trái tim đi tìm lý tưởng của cuộc đời , mà do chứng bịnh khiến ông khi tỉnh khi ngây , tâm hồn và thể xác của ông cũng bị xoáy mòn theo.

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn , gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

Ôm cô đơn với tâm trạng người lữ khách , ngày đêm bầu bạn cùng với mây với gió. Hỏi có ai ngăn được dòng cô đơn chảy mà không nỗi dạ xót hoài

Muôn đời e hãy còn vương vấn

Ông muốn nói đến dòng sông ký ức chăng? Nhưng cho dù biển vẫn ngàn năm réo gọi , một ngày con sông cạn kiệt cũng không thể nào xuôi về biển khơi. Sắc màu nào ở tầm nhìn xa? Có phải đó là sắc màu nơi chốn vĩnh hằng? Tuy ở xa lắm nhưng đối với riêng ông lại như rất gần rồi.

Lòng liêu xiêu , hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

Trong những giờ phút tâm hồn mê mẩn , lang thang bên Vọng hải đài hết đêm. Cho đến khi bình minh thức , mùi hoa nhài thoảng hương trong gió mới khiến cho ông sực tỉnh với hiện thực.

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Bên Vọng hải đài , ông đã nhìn thấy gì và nghĩ gì? Vô tận , một điểm cuối cùng mà ông sẽ đi tới.

Chẳng biết xa lòng có những ai?

Sao trong lòng ông mãi hoài là câu hỏi? Mối day dứt sầu buồn của thi nhân đến bao giờ mới thôi không còn? Khi ông chết những câu hỏi đó không biết ông đã tỏ được hay chưa? Còn lại được mấy ai sẽ còn nhớ tới ông?

Đọc thêm bài Vọng Lâu sẽ rõ hơn một tâm hồn tài hoa :

Mắt theo lầu vọng buồn bên trúc
Trúc rũ buồn trên mái vọng lâu
Tuổi tôi , màu lá : Ai sinh trước?
Hiu hắt đôi bên lúc đọ màu

Lầu đứng bơ vơ lầu vắng vẻ
Lầu mơ đàn địch tiếng lầu xưa
Thẫn thờ lá trúc rưng rưng lệ
Như mắt đa tình lúc tiễn đưa

Quanh tôi là mộng hay bươm bướm?
Lầu dựng buồn cao ngập giấc mơ
Quanh tôi là mộng hay mây sớm?
Lầu dựng buồn cao ngập ý thơ

Tôi buồn cô độc , ôi lầu vọng !
Ai biết cho lòng như thế đâu
Buồn đưa hương lúa , buồn đưa võng
Những cảm tình tôi tựa bóng lầu

Xưa tiếng người bay rực rỡ lầu
Ngày nay lầu quạnh ngắm biển dâu
Tôi buồn rưng rức bên lầu vọng
Ai dựng trong lòng cảnh vọng lâu

Dù là thực hay tưởng tượng cũng thấy rõ bao nỗi day dứt , sự buồn rầu đau thương , của một kẻ tài hoa nhưng mắc chứng bịnh hiểm nghèo , sống trong thất vọng não lòng.

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 02:48:35
Tống Biệt Hành

Tg:  Thâm Tâm


Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Môt giã gia đình, môt dửng dưng.
Ly khách! Ly khách! Con tàu nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ muà hạ sen nở nốt
Môt chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa vào thu tươi lắm thay
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
Gói tròn thương nhớ chiếc khăn tay..

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
Chị! thà coi như là hạt bụi
Em! thà xem như hơi rượu cay


lời bình:
Trong bầu trời thơ Việt Nam, những bài viết về chia ly lúc nào cũng nhiều hơn đoàn tụ. Điều này chắc không chỉ xảy ra trong cảm xúc của các nhà thơ Việt. Thế giới cũng thế cả thôi. Chắc hẳn, khi trái tim tràn ngập yêu thương, sung sướng, người ta không có nhiều thời giờ để dành cho thi ca.

Lấp lánh như một viên ngọc giữa bao la đất cát bùn lầy, bài thơ dưới đây có vẻ như chễm chệ một mình một chiếu trong vô vàn bài thơ khác của cả một chiều dài văn học. Như đã nói ở trên, cảm xúc biệt ly được ghi thành thơ thì hằng hà sa số, nhưng cái cách mà bài thơ này bật lên như con chim phượng giữa bầy gà là một điều rất đỗi tự nhiên.

Ngay cả đối với tác giả - người khai sinh ra nó – cũng lâm vào một tình thế chẳng lấy gì làm dễ chịu. Người ta, thay vì nhắc tới anh, làm luận đề về toàn bộ tác phẩm của anh, đã chỉ nói về nó. Làm như thể, cả đời anh chỉ có làm được một bài thơ. Điều này, dẫu vinh dự tới đâu, cũng chẳng phải là điều bất cứ người làm thơ nào ham muốn. Thiên hạ đã thế, kẻ viết bài tùy bút này cũng không là ngoại lệ.
Tôi muốn nói với các bạn về bài Tống Biệt Hành của nhà thơ Thâm Tâm.

Bài này đã được biết bao nhiêu ngòi bút thiên tài lẫn không thiên tài bàn tới. Trong đó, ấn tượng nhất đối với tôi là bài của Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam. Mà không phải toàn bài, chỉ một câu, một câu để đời : Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc.

Ý nghĩa của bài Tống Biệt Hành không nhiều hơn những gì ta nhìn thấy ban đầu. Hầu như không có cái gọi là ý tại ngôn ngoại nơi đây. Có chăng, một ẩn khuất (có lẽ cũng chẳng quan trọng gì lắm nếu ta chỉ để ý tới bài thơ mà không cần tìm hiểu về tác giả). Nhiều người thắc mắc bài này Thâm Tâm viết cho mình hay về một người bạn khác. Theo tôi, điều này không làm tăng hay giảm giá trị của bài thơ. Ai, Thâm Tâm hay một người khác, cũng thế thôi, bởi vì, bài thơ không đưa ra một cảm xúc gì mới mẻ lắm so với những bài thơ khác, cũng diễn tả một cuộc chia tay trên sân ga, với nhiều hệ lụy, bi, tráng…

Có chăng, ở đây, chất tráng có phần mạnh mẽ lấn át chất bi.

Điều tôi muốn nói, là hình thức của bài thơ. Chính cái bộ dạng bên ngoài của TBH đã đưa nó vào lòng độc giả bằng những bước chân gắt, gấp, gân guốc và rắn rỏi.

Thâm Tâm khôn ngoan chọn cho mình thể loại hành để diễn tả. Hành là một thể thơ cổ, khi mà mớ rắc rối của Đường thi chưa thò bàn tay uy lực vào để áp chế nàng thơ, bắt nàng vào khuôn, vào phép, đi thưa về trình, vào ra khép nép…Thể loại cổ phong hào sảng, tự do hơn nhiều.

Trong cái không khí ồn ào của sân ga, rền rĩ những tấm tức, buồn bã, TBH của Thâm Tâm như một bộ phận lọc âm, tiêu trừ những âm thanh thừa mứa. Chúng ta, người đọc, chỉ nghe mồn một cái tiếng lòng của người ra đi, dứt khoát mạnh mẽ với sự lưu luyến dây dưa…

Bóng chiều không thắm / không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?


Câu trước đưa người đọc tới một tâm trạng quân bình bởi phân đoạn trước kết thúc với một âm trắc, và phân đoạn sau cũng thế. Nhưng, từ vọt là một âm khép, lại dấu nặng, nó buông xuống đanh, gọn như một nhát búa vào khối kim loại đặc, nặng và đục. Có lẽ để bù lại cái miên man dàn trải ở câu sau, những thanh bằng nối nhau là đà trôi vào cặp mắt của nhân vật, vào lòng của người đọc bài thơ.

Ly khách / Ly khách / con tàu nhỏ
Chí lớn chưa về / bàn tay không


Nhịp đôi tiếp nhịp đôi ở câu trên gợi âm thanh một chuyến xe lửa đang chầm chậm trôi vào ga. Chậm và lừ lừ với hình khối to lớn, lãnh đạm mà đe dọa, dù chỉ là con tàu nhỏ…Cuộc chia ly đã đến, đã cận kề. Ba tiếng cuối câu dưới, bàn tay không, buông ra như một cái phủi tay…Chính vì cái không này, phải cất bước mà đi…trong bi có tráng, trong âm thanh đều đều buồn tẻ của tiếng con tàu nhỏ, như vọng lên tiếng gươm khua của khách giang hồ…

Không biết, khổ thơ trên có phải đã được Thâm Tâm cố ý đẩy lên thành sáu câu. Du người đọc tới tâm trạng khắc khoải chờ đợi một cái gì đang sẵn sàng bùng phát, vỡ ra…Lúc nhỏ, đọc bài thơ này, tôi chê ý tứ trong đoạn sáu câu lếnh loãng, không rõ ràng, minh bạch. Bước chân ra đi mà còn phải dặn lòng không đạt được cái này cái kia thì không trở về, đã vô tình hiện rõ sự yếu thế. Thuở xưa, Trần Hưng Đạo sở dĩ phải chỉ tay trước dòng sông : Không thắng giặc thề không trở về sông này nữa, cốt để ổn định lòng quân đang dao động. Trường hợp kẻ chinh phu trong TBH cũng vậy.

Sau này, khi lớn lên, tôi mới mơ hồ cảm thấy một điều, Thâm Tâm đã cố ý đưa vào bài hành của mình nỗi dao động của kẻ lên đường rắp tâm chí lớn, là có nguyên do của nó. Thành, bại, được, thua trong cõi nhân sinh, có khi chẳng khác gì nhau, chỉ là những thứ sắc, không huyễn ảo. Như Thanh Tâm Tuyền đã thốt lên run rẩy : Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới…nhiều thi nhân đã dự cảm về một tương lai bất định của mình, của dân tộc mình. (Thâm Tâm mất đi trong màu áo Vệ Quốc Quân ngày 18 tháng 8 năm 1950, thọ 33 tuổi, một cái chết trẻ, rất trẻ)

Khổ thơ kế tiếp, Thâm Tâm chuyển qua sử dụng vần trắc. Âm điệu bài thơ xoay chuyển theo hướng gần như dằn dỗi với người, với chính mình.

Ta biết / người buồn / chiều hôm trước
Bây giờ muà hạ / sen nở nốt
Môt chị / hai chị / cũng như sen
Khuyên nốt em trai / giòng lệ sót


Mỗi ngắt quãng giống như một tiếng nấc. Và bực dọc với sự ủy mị của mình, nhà thơ quăng ra những âm vận cộc lốc một cách cố ý.

Sau đó, giống như một người chuộc lỗi, giọng điệu khổ thơ kế tiếp mềm hẳn đi. Những âm nay, thay, tay như vỗ về, như an ủy người đưa tiễn. Những hình ảnh sáng hôm nay, trời chưa là thu, đôi mắt ướt, chiếc khăn tay…từ thời gian, không gian to rộng bao dung thu lại một cách hiền hòa khép nép với một chiếc khăn tay trong đôi mắt ướt. Kỹ thuật sử dụng hình ảnh này, có lẽ một đạo diễn điện ảnh của Việt Nam bây giờ, cần phải học rất nhiều.

Khổ cuối, nhà thơ sử dụng cách gieo cước vận khác hẳn các khổ thơ trên, vận cách.

Người đi / Ừ nhỉ / người đi thật
Mẹ / thà coi / như chiếc lá bay
Chị / thà coi như / là hạt bụi
Em / thà xem như / hơi rượu cay


Ngữ điệu gấp gáp đến giật cục. Giờ chia tay điểm từng tiếng cuối cùng. Lúc này, cái tráng át hẳn cái bi. Không còn chút gì bi lụy dằn kéo, đã là sự dứt khoát của kẻ khẳng khái bước vào chốn mịt mù vô định. Cuộc chia ly, trên một sân ga lẻ, đĩnh đạc bước vào lòng độc giả dưới ngòi viết của Thâm Tâm, một nhà thơ chưa bao giờ được coi là một nhà thơ lớn của Văn học sử.

Thâm Tâm một thời được nhắc nhở tới với sự xuất hiện ì xèo của một nàng thơ bí ẩn, TTKH. Nhưng gẫm lại, những thứ đó không làm cái bóng của ông lớn hơn, có khi còn có tác dụng ngược. Theo thiển ý, chỉ với một Tống Biệt Hành, Thâm Tâm đã đủ tầm cỡ sánh vai đồng hành với những thi gia lớn nhất của Việt Nam. Đại đa số độc giả đã tự trong tiềm thức, khẳng định điều này, mà không cần bất cứ một sự bảo chứng nào từ những nhà phê bình cổ thụ.

Sức sống của Tống Biệt Hành, trong đó tiềm ẩn sức sống của thể loại hành, bất kể những cơn sóng thơ Đa-Đa, thơ Tự-Do, thơ Hũ-Nút, thơ Tân-Hình-Thức, thơ Hậu-Hiện-Đại, hay thơ gì gì nữa trong tương lai tràn ngập.

Trong khu vườn muôn sắc của thi ca, Tống Biệt Hành là một bông hoa chưa thấy nguy cơ tàn héo.
 
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 02:54:17
Chuyến Tàu Đời
 
( Kiên Giang )
Chuyến tàu đã chuyển bánh rồi
Xe qua từng trạm kéo còi biệt ly
Khói tàu vơ vẩn thành mây
Mối tình lưu khứ thoáng bay lên trời

Em tôi đứng giữa ga đời
Lần đầu tiên khóc , tiễn người đi xa
Xe qua cổng , khuất nhà ga
Bánh nghiền gió bụi , nghiến qua cõi lòng

Đôi con đường sắt song song
Chạy về một hướng mà không giao đầu
Sân ga nằm nhớ con tàu
Tàu theo bóng sắc để sầu sân ga

Trường đời là bóng đường xa
Tình đời là chuyến tàu qua vội vàng
Đắng cay là cát bụi đường
Lòng ta là một đám tang ... không mồ

Thân tầm gầy guộc xác xơ
Chợ đời , mấy kẻ bán thơ làm giàu
Đời ta lỡ mấy chuyến tàu
Vì chưng vứt bỏ công hầu sau lưng


lời bình:

" Yêu , là chết trong lòng một ít ".(Xuân Diệu)


" Đi , là chết trong lòng một ít " .
Yên cũng chết , đi cũng chết .Chết ít hay chết nhiều , chết vì điều gì cũng là chết . Cảm nhận nỗi chết của sự ly biệt mới là nuốt lấy nỗi đau vô cùng . Lời nào muốn nói không bật thoát ra được , mối tình có thật sự đã bay ? " Thôi em về đi , anh đi . "

Chuyến tàu đã chuyển bánh rồi
Xe qua từng trạm kéo còi biệt ly
Khói tàu vơ vẩn thành mây
Mối tình lưu khứ thoáng bay lên trời


Con tàu cách chia mối tình giữa người đi và người ở lại , là sự khốc liệt của điều ly biệt . Chuyến tàu rong ruỗi có phải như một cuộc an bài ? Còn cô gái ? Chấp nhận trong nước mắt , đứng giữa ga đời bước trở về em có mải mê ? Khi người ra đi cũng mang hồn em đi rồi . Năm tháng trông người trở lại , nước mắt em có khi nào ngừng chảy ?

Em tôi đứng giữa ga đời
Lần đầu tiên khóc , tiễn người đi xa
Xe qua cổng , khuất nhà ga
Bánh nghiền gió bụi , nghiến qua cõi lòng


Những chuyến xe vội đi , những chuyến xe vội về , qua bao nhiêu con đường mang theo những tâm hồn vui có , buồn có . Không có điểm giao đầu làm sao gặp nhau cho đặng . Nhưng vẫn hiện hữu sự tương quan lẫn nhau , cần nhau . Như đời người vẫn miệt mài đi tìm kiếm lẫn nhau . Như sân ga vẫn nằm chờ con tàu và những con tàu đi , về trên nẻo đường quen , mây trên đầu , gió thổi lốc bụi đường , vẫn cần sân ga để đỗ bến . Trời vẫn ở trên cao ...

Đôi con đường sắt song song
Chạy về một hướng mà không giao đầu
Sân ga nằm nhớ con tàu
Tàu theo bóng sắc để sầu sân ga


Trong dòng đời mênh mang , trên những chuyến tàu đời xuôi ngựơc . Tình cờ gặp nhau , cho nhau nụ cười quen biết . Hoặc bắt đầu hoặc sự nối tiếp cho bao lần giã biệt , dặn dò nhau ngày về . Hay chỉ là lần sau cuối đưa tiễn một cuộc chơi đã tới hồi kết thúc . Tàu đi , người vãng , sân ga vắng . Đó là những mảnh đời đích thực , thảng thốt nhận ra còn gì , mất gì . Ai đã đi xa ? Ai sẽ trở về ? Chờ ? hay muộn rồi ? Chỉ cần một bước hụt chân thôi , chuyến tàu đời sẽ đưa người ta đi mãi không có ngày về . Khi gió bụi đời phủ lấp mệt nhoài , nghĩa gì ngoài một nấm mồ chôn thân theo ngày tháng sống đời ảo ảnh .

Trường đời là bóng đường xa
Tình đời là chuyến tàu qua vội vàng
Đắng cay là cát bụi đường
Lòng ta là một đám tang ... không mồ


Chợ đời có giống như một sân ga không ? Cũng có kẻ đón , người đưa ? Mỗi người là mỗi một số phần riêng mang . Chợ đời có đủ loại người , có nam có nữ , có già có trẻ ... Có những rạng rỡ môi cười , no đủ . Cũng có thân trơ gầy , xác xơ . Chợ đời ( bình yên và thực phẩm ) , công hầu danh tước chớ bán chớ mua , trò chơi lừa bịp khiến người đời ngộ nhận . Chợ có đi thì phải có về .

Những chuyến tàu đời đưa xuôi đưa ngược những thân phận , khóc biết vì sao mình khóc , thua biết vì sao mình thua :" Đời ta lỡ mấy chuyến tàu" . Rồi vẫn lại đi tiếp ... thôi thế thì thôi ... đành thôi .

Thân tầm gầy guộc xác xơ
Chợ đời , mấy kẻ bán thơ làm giàu
Đời ta lỡ mấy chuyến tàu
Vì chưng vứt bỏ công hầu sau lưng


Câu thơ " Vì chưng vứt bỏ công hầu sau lưng " làm tôi chợt nhớ tới câu thơ của Nguyễn Du :

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu !
Áo xiêm buộc trói lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi !


Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 26.05.2008 16:12:08
MỘT THỜI DỄ THƯƠNG
Nguyễn Ngọc Hưng
 

Dễ thương là dễ thương ơi
Cái thời đi học
Cái thời vô tư
Mầm non chưa biết cộng trừ
Bạn bè chung lớp xem như một nhà
Dễ thương là dễ thương à
Bước vui chân sáo
Đuôi gà đong đưa
Lối về bất chợt cơn mưa
Một tàu lá chuối cũng vừa che chung !

Dễ thương là dễ thương hung
Tuổi trăng tròn chớm ngượng ngùng môi son
Chùm mận chín
Trái me non
Giành nhau chí choé như còn trẻ thơ
Dễ thương đến độ không ngờ
Là khi ai đó ngẫn ngơ mắt buồn
Một chút khói
Một chút sương
Một tà áo lụa trắng vương mấy chiều
Yêu thì chưa thể gọi yêu
Chỉ nghe trong dạ ít nhiều mến thương

Bay bay
Cánh phượng sân trường
Bóng ai thấp thoáng qua vườn ca dao
Thương làm sao nhớ làm sao
Cái thời đi học xưng tao gọi mày
Như vừa vụt khỏi bàn tay
Cánh chuồn bay
Cánh chuồn bay
Cánh chuồn ...

lời bình:
 
Đọc bài thơ này, B_A thấy có một cảm xúc thật nhẹ nhàng... Đã qua rồi sao, cái thời dễ thương ngày xưa? Nuối tiếc ư? Không hẳn là như vậy! Chỉ thấy lòng chợt nhẹ hẫng...

Nếu hỏi B_A thích câu thơ nào nhất, có lẽ B_A sẽ chọn câu thơ này:
Yêu thì chưa thể gọi yêu
Chỉ nghe trong dạ ít nhiều mến thương


Đây chính là điểm dễ thương của thời học sinh. Những cảm xúc đơn sơ, những ánh mắt, nụ cười của ai đó cứ len lén đi vào suy nghĩ của mình lúc nào không biết... để rồi chợt mỉm cười khi nghĩ đến người ta, rồi lại giật mình "sao mình lại nghĩ đến người ta nhiều như vậy nhỉ?"
Bay bay
Cánh phượng sân trường
Bóng ai thấp thoáng qua vườn ca dao


Hai câu thơ lục bát nhưng tác giả lại tách làm 3 dòng thơ tạo cho người ta cái cảm giác chơi vơi, vừa thực vừa như ảo ảnh. Hồi đó trường của B_A không có phượng, nhưng có những cây điệp vàng. Hoa điệp vàng rụng đầy sân làm cho sân trường như một biển hoa vàng... Bất cứ điều gì cũng đều có bắt đầu và kết thúc, và thời học sinh cũng vụt qua...
Như vừa vụt khỏi bàn tay
Cánh chuồn bay
Cánh chuồn bay
Cánh chuồn ...


Bài thơ kết thúc bởi hình ảnh "cánh chuồn bay" được lặp lại 3 lần, càng làm cho người đọc thấy chơi vơi, luyến tiếc, lại vừa thấy nhớ da diết những gì đã qua...

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 28.05.2008 18:35:08
KHẤT GIẢ
 
TÔ THÙY YÊN
 
Đến dạ du thần chừng cũng đã ngủ,
Sao khất giả còn đi ,
Lê mấy lời thương thảm cổ đại
Vào sâu mãi xóm trong ?
Ra bữa xin chưa đủ ,
Thân đọa đày thân , phải chịu thôi ,
Chỉ mong đồng loại chớ xua đuổi .
Giờ này , thế giới kín khuya khoắt,
Còn cửa nào cho ta gõ đây ?
Lũ chó sủa rong theo

Cái giá phải trả cho sự thất bại nào trong đời đã có từ quá khứ , mặc có vay hay là không và cũng không có cả cái quyền được trả giá . Chỉ biết khi khoác lên hình người cái bộ dạng nhếch nhác của một kẻ không nhà để về , không nơi để đi thì cái giá đó hẳn không rẻ tí nào cả . Tiếng chó sủa phía sau lưng người khất giả biểu hiện cho sự xua đuổi , đã bị chối từ sự hiện diện. Nó còn toát lên một nghĩa khác của một sự săn đuổi và đủ mãnh liệt đi sâu vào ấn tượng của người đọc về hình ảnh của những kiếp người đã bị bỏ rơi , bị bỏ quên , cô đơn , lạc lõng , bị cô lập ..... bên đời .

Đêm đã sâu , thế giới khuya khoắt đã ngủ yên mà biển dâu đời vẫn luôn thức bất kể thời gian . Những nhục nhằn hằn sâu nào khiến người phải bật thốt ra những tiếng thương thảm " Còn cửa nào cho ta gõ đây ?. Ôi cũng chỉ là lời tự hỏi rồi cũng sẽ rơi vào khoảng không im lặng vô cùng ? Đêm vẫn bình thản trôi .....

Quả đáng ngờ vực, mọi nhân dạng.
Mấy bữa rồi , gió cứ lầy nhầy trên ngọn cây cao .
Mùa đông năm nay chừng đến sớm .
Trời đất vẫn không chừa bỏ thói ngặt nghèo .
Đêm qua , lão bạn nằm bên ngủ chết lạnh .
Anh em tri hô xúm tiếp tay .
Rõ vô vọng .
Lửa ngoài thân sao truyền được vào thân
Khi thân chẳng sẳn sàng thứ bắt cháy ?

Trong cơn gió lạnh hắt hiu , hình ảnh một người không nhà nằm chết trong đêm đông đủ khiến cho lòng người phải ngậm ngùi chạnh lòng . Mạng người phải chăng quá nhỏ nhoi trước quy luật sinh diệt ,chứng kiến những cái chết - giữa - đời nặng hoài niềm vô vọng ngự trị vì biết chẳng có phép màu nào có thể cứu được sự chết khi đối diện cùng với nó . Tia lửa ở đây là hơi ấm của người , của tình người mà cũng phải cúi đầu chịu thua trước một thân xác đã lạnh tanh , khi đã bằng lòng bỏ lại tất cả rồi. Nỗi chết nào đến rất nhanh cho bất cứ ai cũng phải tự mang , bởi không ai có thể gánh vác dùm cho ai về sự chết cả.

Thời tiết vô lường thay ,
Ta phải cố giữ mình luôn ấm áp .
Người lần lượt bỏ nhau đi ,
Mộng hãy vì ta nán hủ hỉ .
Gió lại gió thường kỳ
Xúc xiểm âm mưu những biến chuyển .
Thời thế vút qua đi , bỏ rơi lại oan hồn ,
Chốn xưa lai vãng khóc dâu biển .
Trăng thâu thiên cổ sáng im lìm ...

Thời thế vút qua đi hay lai vãng chốn xưa gợi lên nỗi nhớ là một sự hoài niệm về những gì đã trải qua trong cuộc biến chuyển của thế sự và cả thay đổi của trời đất , người đã lần lượt bỏ đi hay cả những người còn ở lại , cũng chẳng thể nào đòi lại được những gì đã mất , đã đi qua rồi . Như con cá nằm trên cạn , giương đôi mắt đau thương há miệng đòi nước .

Thời thế vút qua đi , bỏ rơi lại oan hồn

" Bỏ rơi lại oan hồn " làm tôi nhớ tới câu trong bài viết của ông H.T.A.:

" Cái chết là mặt đối nghịch của cuộc sống , cái này hiện hữu thì cái kia cũng hiện hữu . Như đồng tiền vẫn phải có hai mặt thì mới hiện hữu một đồng tiền nguyên vẹn . Nó như ảo như chân , phơ phất trong cõi cảm nhận , trong ấn tượng từ thuở thiên thu trước và cho đến thiên thu sau vẫn còn hiện hữu qua trạng thái chập chờn phiêu diễu như hình bóng ma hay hình bóng trong chiêm bao ."

Thế thì sự sống hay sự chết là một sự hiện hữu , có đi có về toàn vẹn của một kiếp người . Người chết toàn vẹn , còn người ở lại vẫn là mang một nửa của điều hiện hữu kia . Những oan hồn bị bỏ rơi cứ cho là một sự đã hết ,là một sự chấm dứt . Không . Một mình thì không thể hiện hữu và oan hồn không còn là những bóng ma mà đã trở thành những hiện diện cho một khái niệm của yêu thương , của tưởng nhớ về , và nó luôn đi bên cạnh người còn sống .

" Ta phải cố giữ mình luôn ấm áp ." Niềm tin về ngày mai tươi sáng mặc cho bao thay đổi mới chính là ngọn lửa tuyệt diệu nhất sưởi ấm cho trái tim khốn khổ , đủ sức chấp thêm cho người đôi cánh để đưa giấc mộng đời bay thoát ra vùng bóng tối luôn bủa vây .....

Có lần cát bụi làm sương máu,
Hoàn kiếp , còn nỗi đau máu xương .
Giặc đại thắng mùa xuân ,
Đất ểm , nhà ma không ở được ,
Ta quăng sử tịch , chạy mình không .
May còn chiếc bóng theo làm bạn ,
Đêm đêm vét mộng trải nơi nằm .
Thượng Đế chìu ta , không hiện hữu ,
Mặc ta rộng rãi tùy nghi ta .

Khi một người còn mang nặng trong tâm hồn cái cảm giác bất lực vì thấy mình trắng tay hoàn toàn chỉ cho một lần nhập cuộc . Để từ đó xót khô giòng lệ , không biết phải đi đâu và không có một nơi chốn để về cho lòng người thêm cô đơn , bơ vơ lạc lõng , thấy đời mình khiếm khuyết hẳn đi . Hồn du mộng như níu một điểm tựa cuối cùng để làm vơi nhẹ dĩ vãng , để ru trải giấc đêm đêm . Thượng Đế không hề hiện hữu , nương tựa hư vô là một điều ảo tưởng không thể . Ngay cả thế gian cũng luôn chối từ lời biện hộ thì thôi riêng mặc người hãy cứ hào phóng tùy nghi .

Gió vẫn gió ngật ngầy ,
Dã dượi hàng cây không ngủ được .
Người già như kẻ đi xa lâu ,
Về thăm nhìn ngơ ngác cố thời ,
Chừng chẳng nhận ra .
Ta cười khóc bất kỳ , hát điên loạn ,
Nhớ đó , quên đây ,
Nhìn biết thị phi , không đứng lại ,
Đời bỏ đi rồi , trong đục chi ?

" Sẽ không có gì trôi qua . Thời gian sẽ phủ tro lên những nỗi đau hy sinh mất mát . Và con người tưởng có thể nguôi quên , tưởng sẽ được xoa dịu . Và con người sẽ dần bị cuốn vào chuyện áo cơm của thời hậu chiến . Tuy nhiên , không phải là như thế ..... ( L.M.H.)

Tháng lụn ngày qua , trong tâm thức của người còn mãi dư âm tủi hờn , với tấm thân mòn mỏi đã trải qua muôn ngàn bể ái phong trần , mà sao sự trở về lại trở thành người xa lạ với chính nơi chốn của mình , hỏi còn cay đắng nào hơn nữa .

Tiếng đời phê phán chua cay
Cười ai dâu bể men say não nề !
Qua rồi cũng chán bờ mê
Kìa hương tiếng vọng đi về mấy ai *


Đục trong nhục vinh , đời bỏ đi rồi ,xin hỏi thế nhân có còn phiền ?

Đôi khi thơ thới như thơ trẻ ,
Thường khi nặng chịch như thần linh .
Phải ta đang sống chệch
Một dị bản nào đây của chính ta ,
Mãi không vừa chập ?
Nghiệp khất giả , tiếng rao thương thảm ,
Cõi trăm năm , người nghe bất an .

Sống mà chỉ dám ước mơ trong bóng tối , ngày khập khểnh với tiếng rao thương thảm , khi tung tăng với bài hát của trẻ thơ ,hay khi chìm đắm vào thế giới phép màu để được ngẩng cao đầu hơn và có thể đòi những gì đã mất . Những ước mơ nào khi đã không thể sở hữu thì biết níu lấy vào đâu ? Nếu đã là nghiệp thì thôi hãy chống gậy khập khểnh , bước thấp bước cao rong ruổi tiếp trên đường dài. Người khất giả cất lời bi thương tận đáy sâu tâm hồn , bật ra ngào nghẹn buồn tủi " Tối nay ta về đâu ? " trên chính quê hương của mình .Sự tìm kiếm bản ngã chỉ muốn nói lên một niềm ham muốn được tái sinh .

Tô Thùy Yên thốt lên " Cõi trăm năm , người nghe bất an ." Có ai , có ai ... có sự đồng cảm cùng với nhà thơ ? Nếu đều cùng hiểu rằng chẳng một ai có thể thoát khỏi được " lộ trình định mệnh " , những gì đang đợi ở phía trước nào biết nào hay . Có thẩm thấu hết nghĩa của một chữ đời , thấm tận cùng sâu sắc nỗi đời vô biên thì không thể không đau đời và từ nỗi đau đó , sẽ thấy đeo mang dai dẳng mãi những cảm giác bất an .

cằm rêu mọc trơ mặt mình ra đất
mong cắt linh hồn những lúc buồn không
rồi chợt đến chợt đi còn hay mất
đời có rồi chút lạ một mùa đông
( Đồng cảm)

Nếu thấy còn đủ thời gian , cũng có thể theo chân của H.T. nghĩ đến kiếp sau để mà cười hài :

Kiếp sau nếu được làm chim
Tình thương dang dở bay tìm nơi nơi
Giương cung
đừng nhé người ơi
Vết thương thuở trước luân hồi còn đau
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 28.05.2008 18:43:52
Anh có phải mùa đông
 
Thơ: Quỳnh Lê Hương


Anh có phải là mùa đông giá lạnh,
Phủ kín lòng em. Ôi Hà Nội buồn!

Anh có phải cơn mưa phùn đêm đông
Hắt nhè nhẹ ô cửa sổ em ngỏ
Đêm mùa đông không có trăng sáng tỏ
Chỉ có ngọn cây run run bờ vai gày

Anh có phải là cơn gió mùa đông bắc
Đêm chuyển mùa lắc rắc mưa bay
Gió mùa anh ùa đến em nhanh quá
Chỉ kịp nhìn anh mang mùa thu đi

Mưa rơi - kìa mưa rơi........

lời bình :
Xin viết đôi lời cho bài thơ của Quỳnh Lê Hương "Anh có phải là mùa đông.."

             Hà nội những ngày đông rét mướt dễ dàng làm cho lòng người buồn hiu hắt, chông chênh một sự thanh vắng, trong sâu thẳm cõi lòng người nhung nhớ một ước ao anh... dù anh lạnh thế vẫn muốn anh về "phủ kín lòng em". Một tượng hình mơ hồ nhưng là có thật, Hà nội buồn hay em buồn , em và Hà nội và em mượn cái rộng lớn hơn - mảnh đất này để mong nhớ anh , lại một sự rộng lớn khác là một mùa trong năm, hai cái lớn của khoảnh khắc mùa và em Hà Nội tạo nên một nỗi da diết nao lòng .

Em đấy, anh có biết không, bờ vai gày bên ô cửa, dù có gió lạnh về se lòng đến mấy thì em cũng mở cửa đón anh :

...Anh có phải cơn mưa phùn đêm đông
Hắt nhè nhẹ ô cửa sổ em ngỏ
Đêm mùa đông không có trăng sáng tỏ
Chỉ có ngọn cây run run bờ vai gày ...

Bờ vai rung lên trong sự mớn trớn của hạt mưa anh lướt nhẹ trên áo, để em vẫn cảm được còn có hơi ấm anh đêm đông giá lạnh.

Nhưng mùa đông anh quá lãng du, quá vô tình với Hà nội em cho nên mưa vẫn bay. Em thảng thốt , ô kìa anh

...Gió mùa anh ùa đến em nhanh quá
Chỉ kịp nhìn anh mang mùa thu đi ...

Nhìn "mùa thu đi" trong cái "ùa" của gió - thật là một bức tranh đẹp, rất đẹp trong toàn bài thơ và chính nó đã kết cho một mối tình vu vơ, mơ mộng, nhưng rất lãng mạn, rất tình người ... Chẳng cần nuối tiếc, chẳng cần che dấu nuối tiếc, cứ để gió vô tình mang đi một niềm khát khao. Mưa rơi... bâng khuâng lắm !

thuhanoi, 20/1/2005.

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 30.05.2008 12:09:28
Khi Chúa Muốn Một Người
 
Tg: Angela Morgan

Khi Chúa muốn rèn luyện một người
Muốn tôi luyện một người
Đứng ra đảm nhận sứ mạng cao cả
Khi Chúa muốn tạo nên một người
Một người đủ cam đảm và mạnh mẽ
Để sau này nhân loại ngợi ca
Hãy xem Chúa làm thế nào

Hãy xem Chúa tôi luyện người đó một cách không thương xót
Người mà Chúa đã lựa chọn
Chúa rèn người đó
Làm cho người đó đau đớn
Và với những thử thách khắc nghiệt nhất
Làm biến đổi người đó
Hình thành nên những đức tính cần thiết cho sau này

Khi người đó đau đớn
Khi trái tim người đó rỉ máu
Chúa vẫn tiếp tục tôi luyện
Chúa vẫn tiếp tục tôi luyện
Nhưng không bao giờ làm hỏng người đó
Chúa nung chảy người đó
Và bằng mọi cách khích lệ người đó
Thử hết sức mình
Chúa biết dự định của mình…

Khi Chúa muốn tạo nên một người
Muốn thức tỉnh một người
Để giao phó một sứ mạng trong tương lai
Chúa làm tất cả
Để tạo nên một người vĩ đại và hoàn chỉnh
Chúa khôn khéo chuẩn bị cho người đó
Những đức tính cần thiết
Chúa khiêu khích người đó
Rồi lại khích lệ người đó
Nhưng không bao giờ làm hại người đó
Và trong khó khăn nâng đỡ người đó
Chúa làm cho người đó thất vọng
Và đôi khi đưa người đó vào hoàn cảnh tuyệt vọng
Nhưng khôn ngoan che chở cho người đó
Cho dù đôi khi tài năng của người đó bị mọi người bỏ qua
Nhưng người đó vẫn tiếp tục cố gắng
Và những khi cô đơn…
Người đó dần hiểu ra những điều Chúa muốn nhắn nhủ với mình

Những điều Chúa dự định
Mặc dù người đó không hiểu
Nhưng đã cho người đó nghị lực để cố gắng
Chúa không ngừng thúc giục người đó tiến lên
Thúc giục người đó tiếp tục cố gắng
Người mà Chúa đã lựa chọn kỹ càng

Khi Chúa muốn tôn vinh một người
Muốn thuần dưỡng một người
Muốn khích lệ một người
Đứng ra đảm nhiệm một sứ mạng cao cả
Chúa đưa ra những thử thách khắc nghiệt nhất
Những thử thách để rèn nên một con người cao cả
Chúa tôi luyện người đó
Thử thách người đó
Hun đúc người đó
Và truyền cho người đó khát vọng
Những khát vọng cháy bỏng
Về một mục đích cao xa
Chúa hứa hẹn người đó
Rồi lại làm tan nát trái tim người đó
Đặt ra những thử thách
Rồi lại đặt ra những thử thách mới khi người đó gần vượt qua
Bắt người đó băng rừng, lội suối
Bằng cách đó Chúa đã tạo nên một người
Và để thử thách lần cuối
Chúa đưa ra một lựa chọn nghiệt ngã
Chúa đặt một ngọn núi chắn đường
Và nói với người đó:
“Con phải vượt qua hoặc là chết!”
Chúa đã rèn một người như vậy

Không ai hiểu được
Những điều Chúa sắp đặt
Nhưng thật sai lầm nếu nghĩ Chúa đui mù
Khi bàn chân của người đó bầm nát và chảy máu
Tinh thần của người đó vẫn vượt lên trên tất cả
Soi sáng và khai phá những con đường mới cho nhân loại
Vượt qua mọi chông gai và trở ngại
Người đó vẫn không mất đi lòng nhiệt huyết của mình

Rồi đến một ngày kia…
Khi mọi niềm hy vọng bị dập tắt
Khi thế giới xảy ra khủng hoảng cần một bàn tay dẫn dắt
Khi tất cả mọi người cần một niềm tin
Lúc đó có một người đứng lên dẫn dắt mọi người
Và chỉ đến khi đó mọi người mới hiểu dự định của Chúa
Và khi đó nhân loại tìm ra: một người!


Bình Luận:

Bài thơ này được nữ thi sĩ Angela Morgan (người Mỹ) viết năm 1918. Vào thời điểm thế giới đang có nhiều biến động quanh Thế chiến lần thứ nhất. Bài thơ này là một ví dụ tuyệt vời minh chứng cho Luật thử thách. Bài thơ đề cập quá trình Chúa thử thách và tôi luyện một con người để sau này người đó trở thành một người dẫn dắt nhân loại.

Cũng như nữ thi sĩ Angela, tôi tin rằng những khó khăn, những mất mát và những thất bại là những công cụ tốt nhất để qua đó, Chúa thử thách và rèn luyện một con người, kẻ mà sau này Người sẽ lựa chọn để thực hiện những sứ mạng của mình. Người muốn tin chắc rằng kẻ được Người giao phó sẽ có đủ những năng lực cần thiết để có thể thực hiện được sứ mạng của mình. Thông qua thử thách, Người gạn lọc và loại bỏ những căn bã của người đó. Thông qua thử thách, Người muốn tôi luyện để người đó có thể đứng vững và vượt qua được những thử thách khắc nghiệt nhất.

Kẻ được Người lựa chọn thực hiện những sứ mạng cao cả phải vượt qua những thử thách gì? Người đó phải trải qua những mất mát tưởng chừng như không gì bù đắp nổi. Người đó phải trải qua những đau đớn về thể xác và tinh thần tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Người đó phải trải qua những giờ phút ở sâu dưới đáy cùng của tuyệt vọng và cuộc đời kẻ tưởng chừng như không có lối thoát, không còn đường ra.

Nói tóm lại, người đó phải trải qua rất nhiều đau đớn, thất bại và vấp ngã. Nhưng vượt lên trên tất cả, người đó vẫn âm thầm và lặng lẽ cố gắng và không bao giờ đánh mất đi niềm tin và lòng nhiệt huyết của mình.

Nhưng tôi tin rằng nhất định đến một ngày thế giới cần đến những con người như vậy. Những con người đứng trước những cơn dông tố bão bùng, trước những tiếng sấm rền vang vẫn không nao lòng. Những con người biết trấn an mọi người trong cơn hoảng loạn nguy biến. Những con người biết nắm lấy bàn tay và dẫn đắt mọi người, những con người đang lầm đường lạc lối. Những con người biết nhìn xa trông rộng, biết dung hòa những điều không thể dung hòa, biết soi sáng và mở những con đường mới cho nhân loại…

 
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE:Người bán rau - 30.05.2008 17:30:19
Người bán rau

Tg: THÁI HẢI

Một mớ hành ta
Một mớ ngò tây
Tập tàng một mớ
Mỗi thứ dăm cây

Rau xanh như chị
Chị như rau gầy

Có người hỏi mua
Chị mừng nín thở
Sợ e khách đùa

Dăm ngàn bạc lẻ
Chợ tan lúc nào
Bước thấp bước cao
Chị về sắm tết.
 
lời bình:
Năm mươi hai từ đơn, bài thơ ngắn gọn, giản dị, dễ đọc, dễ thuộc mà có sức lay động dữ dội. Nó là một bức tranh nhỏ, một bức tượng nhỏ, mà - như đồ chơi Matrirốtca (lật đật) của Nga - bên trong còn có những bức tranh tượng nhỏ khác.

Một mớ hành ta/Một mớ ngò tây/ Tập tàng một mớ là ba khuôn hình cận cảnh miêu tả tĩnh vật định danh: hành ta, ngò tây, rau tập tàng, và chi li tỉ mẩn đến nghiệt ngã: Mỗi thứ dăm cây. Một người nghèo vốn liếng ít ỏi?! Đương nhiên rồi. Người có chút vốn không sở hữu cái mẹt rau buồn đến thế. Chủ nhân của thứ tài sản trên đây không thể có gương mặt hồng, tươi tắn, không cài trâm vấn khăn… Một người đàn bà nghèo đến tội nghiệp, chỉ biết trồng rau, nhổ rau đi bán - mà cái phần vườn ấy chắc cũng không rộng…

Rau xanh như chị - ống kính camera sau ba cú bấm cận cảnh chuyển sang đặc tả phải hết sức chuẩn để miêu tả được cái chân dung và tâm trạng người bán rau, vừa mang tính thời sự báo chí (chân dung) và đã bước sang địa hạt nghệ thuật (tâm trạng).

Tiếp ngay đó Thái Hải bấm tiếp một cú đặc tả hoàn toàn nghệ thuật - thực ra là một bức ảnh truyền thần cao tay Chị như rau gầy. Thật tài tình, với 8 từ đơn, nhà thơ vẽ xong chân dung và thân phận người đàn bà: luống tuổi, gầy, xanh, buồn héo, nghèo và… thủ phận.

Ngay sau đó, tác giả thoát ra khỏi tâm trạng ủ dột của người bán hàng. Vì sao? Vì chị đến đây là để bán hàng, để mưu sinh, bán hàng mà cứ ỉu xìu như rau cải héo, mà xanh xao bệnh tật liệu ai dám mua đây!? “Thương trường như chiến trường”, chợ là chào hàng, mặc cả, cò cưa - chợ không có chỗ cho lòng thương hại: Có người hỏi mua/ Chị mừng nín thở/ Sợ e khách đùa. Trời ơi! Bất hạnh đến thế ư?! Một mớ rau tập tàng bán được bao nhiêu, lãi được bao nhiêu, liệu người ta có mua hay chỉ hỏi rồi đi qua mà đã khiến người đàn bà giật thót mình đến nín thở.

Kịch tính đẩy lên cao trào, và thân phận người đàn bà bán rau cũng được lột tả hết. Ba câu thơ ngắn gợi ta nhớ đến Giấc mơ anh lái đò của Nguyễn Bính: Một người chèo đò ngang cứ chiều chiều chở một thôn nữ xinh đẹp sang sông trước đây. Khi vắng khách anh nằm trên lái thuyền mơ màng, rồi mình cũng được đi học, thi đỗ trạng nguyên, vinh quy bái tổ, cùng rước nàng về: Võng anh đi trước võng nàng/ Cả hai chiếc võng cùng sang một đò. Bỗng giật mình nghe tin “ai” sắp lấy chồng, đám cưới to lắm. Nhà trai rước dâu bằng chín chiếc đò, nhà gái ăn chín buồng cau (đông lắm). Tiền chi phí tới chín nghìn quan. Ngẫm lại tài sản của mình, thử đem dạm bán: Lang thang anh dạm bán thuyền/ Có người trả chín quan tiền lại thôi. 9 đồng so với 9000 đồng, còn xa quá. Mà người ta chỉ trả chơi chứ không mua.

Cái người khách mua rau của chị đã ngã giá chưa mà chị mừng tới nín thở vậy?! Đấy là cách thậm xưng quyết liệt nhất như một cú đánh hiểm vào trái tim độc giả làm tan chảy những mảnh lòng băng giá, vô cảm nhất. Đây là một toàn cảnh hẹp, động: Người khách hàng đứng thờ ơ hỏi mua và một cảnh tâm trạng: chị mừng quýnh quáng đến nín thở. Còn nhớ câu thơ của Pêtôphi miêu tả niềm vui của một em bé sắp bị lính Đức hành hình mà cứ tưởng mình đước thả tự do…

Em mừng quýnh cả đôi chân
Nho nhỏ đôi gót son em băng liều giữa tuyết
Chiều đó em đi… Vĩnh biệt.

Thái Hải cũng thế. Chị bán rau mừng nín thở nhưng nổi mừng của chị thật thảm hại. Toàn bộ mớ rau bán được chỉ vỏn vẹn “Dăm ngàn bạc lẻ”. Bạc lẻ thì tất nhiên rồi. Nhưng người đọc còn cảm nhận được những ý ngoại ngôn, chắc nó không còn nguyên lành, không còn mới và … ướt nhoèn. Cũng mặc nhiên buổi chợ ấy có mưa bay bay, và rét.

Buổi chợ cũng được Thái Hải đặt vào thời điểm điển hình đến nghiệt ngã: Chợ tết. Dăm ngàn bạc lẻ/ Chợ tan lúc nào/ Bước thấp bước cao/ Chị về sắm tết. Ơ hay! Chợ tan lúc nào rồi cũng không biết, lại còn đi sắm tết - sắm ở đâu? Với dăm ngàn bạc lẻ và khu chợ đã vãn… Thế là, một khoảng lặng dành cho vĩ thanh của bản nhạc buồn: Một căn lều nhỏ, người đàn bà trở về (quần ống xăn ống xổ). Trong căn nhà có những đứa trẻ ríu rít mừng “mạ đi chợ về”.

Thái Hải đã thành công với bài thơ ngắn, ý tưởng mạnh và đầy lòng nhân ái. Thơ là tâm, là tình, là cảm, là cho… và, bài thơ ngắn của Thái Hải đã hoàn thành xuất sắc chức năng nghệ thuật: Lay động lòng người. Những ai từng đọc bài thơ này, một ngày giáp tết đi ra chợ gặp một người đàn bà gầy, buồn ngồi âm thầm bên mẹt rau nhỏ mà trái tim đa cảm không có một chút động cựa mới là lạ.
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 69 bài trong đề mục