Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 69 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: KHÔNG ĐỀ - 30.05.2008 17:35:26
 
KHÔNG ĐỀ

TG: Puskin

Một chút tên tôi đối với nàng
Sẽ chìm như tiếng sóng buồn tan
Âm thầm, mòn mỏi bên bờ vắng
Như tiếng chim kêu lạc giữa ngàn.


Ngày nào đó trên mặt trang kỷ niệm
Nó chỉ còn là dấu vết không hồn
Giống như tình phai trên mộ chí
Nét ngoằn ngoèo một thứ tiếng xa xăm.

Tên cũ từ lâu bị lãng quên
Chẳng còn gợi lại được trong em
Tình xưa êm ái và trong trắng
Trước mối tình ai mới dấy lên

Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
Em thầm thì hãy gọi tên lên
Và hãy tin, còn đây kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim…

Thúy Toàn dịch
LỜI BÌNH:
Em thầm thì hãy gọi tên lên…

Sống trên đời này, ai chẳng khao khát mình có được một tình yêu để được yêu hết lòng, sống hết mình cho người mình yêu dấu. Chả thế mà nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ Ta-go đã viết, đại ý: Trước khi từ biệt thế giới này, cho tôi xin được nói một điều rằng: Tôi đã từng yêu!

Cho dù nhiều người cũng như B. Russell hiểu rằng: "Sợ yêu là sợ cuộc sống, và ai sợ cuộc sống thì đã chết ba phần" nhưng đâu phải lúc nào Thần Ái tình cũng mỉm cười cùng bạn. Thế giới hôm qua, hôm nay và mai sau sẽ mãi còn chứng kiến những mối tình dang dở mà nước mắt người trong cuộc có thể chảy thành… sông.

"Mặt trời của nền thi ca Nga" Puskin cũng đã trải qua những tháng ngày đớn đau vì tình yêu tan vỡ. Xin hãy chia sẻ cùng nhà thơ những mất mát buồn đau về cuộc tình "êm ái và trong trắng" của mình trong nghẹn ngào xúc động “trước mối tình ai mới dấy lên". Một tình yêu với bao kỷ niệm đẹp nay bỗng hóa xa lạ. Người thương yêu nay bỗng hóa xa xôi… Mỗi câu thơ, nhà thơ như muốn được sống lại kỷ niệm xưa trong nỗi niềm tiếc nuối khôn nguôi. Cái tên thân thương ngày ấy, những kỷ niệm khắc ghi ngày ấy tưởng chừng mãi mãi tạc ghi này bỗng đi vào quên lãng "chìm như tiếng sóng buồn tan", "Như tiếng chim kêu lạc giữa ngàn".

Nhiều nhà thơ đã bày tỏ tâm trạng của mình khi cuộc tình trắc trở: đau đớn, xót xa… Nhưng ứng xử sao đây thì mỗi người mỗi khác. Với Puskin sự độ lượng, bao dung, lòng nhân hậu, vị tha hiện dần lên qua từng câu thơ tha thiết. Lời cuối với người mình yêu lại là một lời hứa chân tình. Nếu gặp những buồn đau, chỉ cần khẽ gọi tên anh, anh sẽ bên em, bởi: "Em vẫn còn sống giữa một trái tim"…

Trung Hiền
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Mẹ ốm - 30.05.2008 17:39:17
 
Mẹ ốm
           Trần Đăng Khoa

Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan.

Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào.

Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay  hương
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi.

Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện, rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo.

Vì con, mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khoẻ dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say.

Rồi ra đọc sách, cấy cày
Mẹ là đất nước, tháng ngày của con...

 
lời bình:
Trần Đăng Khoa nổi tiếng là một thần đồng về thơ khi đang còn học lớp ba trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của Khoa trong sáng giản dị mà dạt dào cảm xúc, đầy tình yêu thương con người và thiết tha yêu quê hương đất nước. Biết bao em nhỏ Việt Nam yêu thích những bài thơ của Khoa viết và bài thơ “Mẹ ốm” cũng vậy. Tác giả đã bộc lộ tình cảm của một người con với mẹ - một tình cảm rất hồn nhiên của tuổi niên thiếu

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cảnh mẹ ốm bằng hình ảnh so sánh:
“Mọi hôm mẹ thích vui chơi.
Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu”

Thường ngày mẹ hay ăn trầu, đôi má lúc nào cũng đỏ hồng lên. Thế mà hôm nay mọi cảnh vật trong nhà thật buồn bã.  Lá trầu cũng như lặng đi và héo khô trong cơi trầu. Những lúc rỗi rãi mẹ thường ngâm nga Truyện Kiều, giờ mẹ bị ốm nên “Truyện Kiều gấp lại trên đầu...”.
Mẹ vốn là người lam làm tần tảo. Khi mẹ ốm thì “Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa”. Cả cuộc đời mẹ vất vả gian nan nay bị ốm, tác giả đã cảm nhận được và thể hiện qua hình ảnh:
“Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”.

Tác giả - một em thiếu niên 10 tuổi đã liên tưởng từ hình ảnh “nắng mưa” mà thấy được sự vất vả, những thăng trầm của cuộc sống mà người mẹ đã phải trải qua. Vì vậy mà tác giả như hiểu được người mẹ đang phải chịu sự “đau buốt, nóng ran” khi bị ốm.
Rồi tình làng nghĩa xóm, sự quan tâm của mọi người tới mẹ cũng được nhà thơ thể hiện rất mộc mạc, giản dị mà thắm đượm tình người:
“Mẹ ơi, cô bác xóm làng đến thăm.
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào”.

Điều đó chứng tỏ rằng, hàng ngày mẹ sống tốt với mọi người nên khi mẹ ốm mọi người quý mến và thương cảm tới mẹ. Còn nhà thơ - em bé thiếu niên Trần Đăng Khoa bấy giờ đã thấu hiểu nỗi vất vả cực nhọc của mẹ trong cuộc sống lam lũ mà em đã từng chứng kiến và cảm nhận được:
“Cả đời đi gió, đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi”.
“Cả đời đi gió đi sương”
là hình ảnh ẩn dụ diễn tả sự vất vả, gian khổ của người mẹ.
Trong cuộc sống lao động cực nhọc, mẹ đã từng trải qua và vượt lên tất cả để vì cuộc sống và vì tương lai tốt đẹp của các con. Khoa còn hiểu được qua thành ngữ “đi gió đi sương” là nói lên được sự vất vả gian khổ, lao động trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sớm tối lặn lội. Cảm nhận được như vậy, chứng tỏ tác giả rất yêu thương mẹ, muốn làm tất cả những gì để mẹ vui lòng mà chóng khỏi ốm:
“Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca”.

Khoa còn làm được cả những việc vượt ngoài khả năng mà trước đây bản thân chưa làm được: “Một mình con sắm cả ba vai chèo” - một em thiếu niên thật là ngoan ngoãn, có thể lúc trước còn nhõng nhẽo, hay vòi vĩnh mẹ nhưng bây giờ mẹ ốm đã biết thể hiện sự hiếu thảo của mình qua sự chăm sóc mẹ. Nhìn những nếp nhăn hằn trên khuôn mặt của mẹ, Khoa rất cảm động và thấy vô cùng biết ơn mẹ:
“Vì con mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn”.

Vì vậy mà trong lòng của nhà thơ lúc nào cũng ước:
“Con mong mẹ khoẻ dần dần
Ngày ăn ngon miệng đêm nằm ngủ say”.

Thật cảm động biết bao trước tình cảm đẹp đẽ của một người con - một cậu bé chưa đầy 10 tuổi trước cảnh “Mẹ ốm”. Bài thơ còn hay ở câu kết mà tác giả đã nói hộ chúng ta về lòng biết ơn vô hạn của những đứa con với các bà mẹ:
“Mẹ là đất nước, tháng ngày của con”.
Phải chăng đó cũng là tình cảm của mỗi chúng ta khi nghĩ về mẹ: Con yêu mẹ nhất trên đời, con yêu mẹ như yêu đất nước và mẹ chính là Tổ quốc của riêng con !
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Biết - 30.05.2008 17:41:26












"Biết"
 
Võ Thị Kim Liên

Biết là em yêu chồng tôi
Trầu cay, cau chát và vôi thì nồng
Biết là em cũng có chồng
Cơm canh không ngọt nên lòng vẩn vơ

Biết là tôi vốn dại khờ
Nhìn đời như thể bài thơ không vần
Tôi không yêu được hai lần
Nên thương em lỡ bước chân khó về

Biết là sau phút đam mê
Mộng mơ tan để não nề xót xa!
Em thất vọng với người ta
Tôi thất vọng với cỏ hoa… một thời

Biết chồng vẫn chồng của tôi
Chiều ngâu nhặt lá trầu rơi se lòng

                                                               
Lời bình:

Ghen chứ sao không ghen! Ớt nào mà ớt chẳng cay – Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng không ghen sao mà chua chát thế: Trầu cay, cau chát và vôi thì nồng. Ba tính từ cay, chát, nồng đều là những tính từ nóng đi liền nhau hỗ trợ nhau nhằm đối phó với ngữ động từ em yêu chồng tôi như bất cứ người vợ nào trên đời cũng lồng lên khi biết là… có người phụ nữ khác yêu chồng mình, muốn chiếm hữu cục cưng của mình.

Tuy nhiên người đàn bà này có cái khác đời khi chị biết em cũng có chồng chỉ vì một lý do nào đó cơm không lành canh không ngọt nên mới sinh lòng vẩn vơ. Có thể chị cũng đã từng trải cảnh ngộ của người phụ nữ ấy nên mới thấu hiểu, độ lượng và bao dung, mới thương em lỡ bước chân khó về đến như vậy. Thương thật đấy chứ không phải làm bộ, làm tịch kiểu mèo vờn chuột đâu?
Hơn ai hết chị hiểu rất sâu, rất rõ chồng mình mới dám cam đoan rằng em mà tằng tịu với chồng chị, sau phút đam mê tất yếu sẽ xảy ra cảnh mộng mơ tan để não nề xót xa. Và như thế cả hai ta cùng khổ: Em thất vọng với người ta còn chị cũng chẳng hơn gì tôi thất vọng với cỏ hoa… một thời, tuy nhiên em khổ hơn chị nhiều bởi em lỡ bước chân khó về.
Kiếp hồng nhan với nhau, chị hiểu đàn ông ít khi chịu tha thứ cho người phụ nữ lỡ bước trong khi họ thì huênh hoang khoe thành tích chim chuột vợ là vợ của người ta - anh ôm anh ấp như là vợ anh. Chồng em cũng chỉ thế thôi, còn chồng chị vẫn là chồng của chị, em không thể nào chiếm hữu được, có điều niềm yêu trong lòng chị ít nhiều cũng bị thương tổn Chiều Ngâu nhặt lá trầu rơi se lòng chứ chẳng phải chị sợ sệt gì .
Ngưòi phụ nữ trong bài thơ Biết cho rằng tôi vốn dại khờ nhưng thật ra chị không khờ dại một tí nào mà còn khôn lanh ra phết. Bài thơ không vần không phải là căn cứ quy định chất lượng. Không vần thì còn có ý, có tứ, có nhịp, giọng, điệu, thanh, âm, từ ngữ… nghĩa là còn trăm thứ tạo nên chất cho bài thơ ấy.
Chị rất cao tay vừa phối hợp cứng, mềm lấy tình thương đánh động vào chút phận đàn bà để cảm hóa, dạy dỗ rồi lại đe nẹt đối phương một cách rất đàn chị: vừa nói xa vừa nói gần: tôi không yêu được hai lần đến mộng mơ tan để não nề xót xa, dọn đường cho người những mong chiếm đoạt chồng mình biết nẻo hợp, tan mà quay về với chồng con, tránh được bước chân lầm lỡ, để cỏ hoa ngày đôi lứa yêu nhau vẫn ngát hương trong hồn cả chúng chị, chúng em. Như thế chẳng là hạnh phúc cả đôi đường hay sao?
Rằng ghen tuông cũng chuyện người ta thường tình nhưng đây là một kiểu ghen đẹp, ghen tài hoa và nhân hậu, làm nguội cái máu cả ghen làm toáng lên, của quý bà, quý cô, lại giữ đựơc cơ đồ sắp xẻ đàn tan nghé. Không phải người phụ nữ nào trên đời cũng đủ bình tĩnh và bản lĩnh làm được như người phụ nữ trong bài thơ Biết của Võ Thị Kim Liên. Cái kiểu ghen điệu nghệ này các vị tiểu thư họ Hoạn hiện đại cần học tập và vận dụng, có phải tốt hơn không?
 


NGUYỄN HÀN CHUNG 
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Mẹ và quả - 30.05.2008 17:43:43
         Mẹ và quả
 
Nguyễn Khoa Điềm

Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng

 
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.

 
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?

                                                                               
Lời bình
                                      (Nguyễn Ngọc Phú)
 
Những bài thơ thành công của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thường có những tứ thơ sâu sắc về triết lý nhân sinh nhưng được chuyển tải bằng ngôn ngữ thơ nhuần nhị và tươi rói. Mẹ và quả là tứ thơ độc đáo và cảm động khi viết về mẹ.



Quả tượng trưng cho sự sống mà mẹ chính là người gieo trồng chăm bẵm và mong mỏi được hái: Những mùa quả lặn rồi lại mọc - Như mặt trời, khi như mặt trăng. Chữ mọc thì hiển nhiên khi nói về cây trồng thực vật. Nhưng chữ lặn là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Ngoài sự chuyển dịch của thời gian, không gian còn có cả sự chuyển dịch không ngừng của sự sống, sức sống trỗi dậy tiềm ẩn chứa những trữ lượng sống nhân văn đầy ắp. Sự vận động này còn mang ý nghĩa triết học biện chứng.
 
Giọng thơ của ông điềm đạm, khiêm nhường trong Mẹ và quả là một ứng xử giao hoà giữa con người với thiên nhiên. Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên rồi và, chúng tôi một thứ quả trên đời. Ở đây nhà thơ không nói lũ chúng con, chúng con có lẽ ông muốn nới rộng biên độ tình cảm với sức khái quát lớn hơn ở một lứa tuổi đã đủ bản lĩnh và tự tin trước sự biến động của cuộc sống.
 
Thường, chúng ta nhìn sự thay đổi của vạn vật bằng sự lớn lên, vươn lên cả về hình khối và thể chất. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên phát hiện sự lớn xuống hướng tâm về mặt đất không phải bằng độ oằn cong của cành mà bằng chính kích thước của quả của sự lớn nhiều chiều trĩu nặng mang bao ý nghĩa hàm ơn sinh thành: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên – còn những bí, những bầu thì lớn xuống. Ông gọi tên bí, tên bầu như tên người thân thiết đầy biểu cảm và giao cảm.
 
Phải có con mắt tinh tế và tấm lòng nhân ái mới nhận ra những bí những bầu ấy: Chúng mang dáng giọt mô hôi mặn - rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi. Những giọi mồ hôi ngưng tụ giữa không gian mang một vẻ đẹp thuần khiết kết tinh mà ám ảnh; vừa day dứt, vừa tôn vinh hình ảnh người lao động thật bình thản và tự tin làm chủ cuộc sống. Chữ rỏ đông kết mà lan tỏa ấm nóng sự cộng hưởng của tình người. Tôi nghĩ khó có thể thay được chữ nào hay hơn thế vừa tôn kính thiêng liêng, vừa ấm áp nhân hậu.
 
Bài thơ có một giá trị lay thức thẩm mỹ khi ông thảng thốt: Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi – mình vẫn còn một thứ quả non xanh. Một sự thú nhận nhiều trực cảm; sự lan tỏa của bài thơ vì thế ngân vọng sâu xa hướng con người tới cội nguồn và vẻ đẹp vĩnh cửu của cõi Thiện.
 
(Nguyễn Ngọc Phú)
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Những vầng trăng Đồng Lộc - 30.05.2008 17:48:10




“Những vầng trăng Đồng Lộc”

Tg: BÌNH NGUYÊN
 



Những vầng trăng Đồng Lộc

Mây bay Đồng Lộc trắng trời
Khói mây thấp thoáng bóng người hiện lên
 
Cô Giêng Hai tóc xanh mềm
Sớm ra đứng ngẩn bên thềm tiếng chim
Có gì thổn thức con tim
Trong chiêm bao cứ lặng im cất lời
 
Cô Tháng Ba hay trông trời
Hễ mưa là nhắc áo tơi mẹ già
Bao lần ngó bóng mây xa
Sau bom nổ giở thư nhà chuyền tay
 
Cô Tháng Tư hay giãi bày
Nhớ mùa chớm hạ nắng đầy sân rêu
Qua rằm vào tuổi đang yêu
Mỗi trang gấp mở bao nhiêu thẹn thùng
 
Cô Tháng Năm hay ngượng ngùng
Mà qua bao trận bão bùng lạ chưa
Lớn thầm trong nắng trong mưa
Biết thương từng luống cày bừa nhà nông
 
Cô Tháng Sáu cặp má hồng
Tóc bồ kết gội gió nồng nã thơm
Nhớ vàng sợi nắng trong rơm
Trận mưa đầu vụ bát cơm cuối mùa
 
Cô Tháng Bảy thích thêu thùa
Tấm khăn gửi kín bốn mùa đấy thôi
Mưa ngâu trời đất sụt sùi
Lại thương hai phía hai người xa nhau
 
Cô Tháng Tám mắt dao cau
Bao đêm ngồi hát sông Cầu trao duyên
Nhớ về từng trận lũ lên
Sông quê neo bóng con thuyền và ai
Cô Tháng Chín dáng mảnh mai
Câu thơ lén gửicho người chưa quen
Bao giờ... ai hẹn mà lên
Đêm đêm trăng sáng bình yên lạ thường
 
Cô Tháng Mười mắt như gương
Se se nắng gió bụi đường bao năm
Cứ vời trông phía xa xăm
Gặp ai cũng gửi lời thăm quê người
 
Cô Một Chạp miệng hay cười
Hồn nhiên chẳng sợ gió trời buốt đêm
Nhớ ai tay hái tay liềm
Chợ quê cái lạt buộc mềm mớ rau
 
Các cô đấy các cô đâu
Nén nhang cháy đỏ xuống màu cỏ non.
 

Lời bình:
 
“Những vầng trăng Đồng Lộc” của nhà thơ Bình Nguyên đăng trên số 5-2006 Văn nghệ Ninh Bình là bài thơ mang hương vị ca dao dân ca. Bài thơ viết về mười cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh vì độc lập dân tộc ở Ngã ba Đồng Lộc - một địa danh mà người dân cả nước và không ít bạn bè quốc tế biết đến như một tượng đài chiến thắng của nhân dân Nghệ Tĩnh và cả nước. Bài thơ mang cảm hứng bi tráng, thương nhớ và lòng thành kính biết ơn những người đồng đội, người em, người chị đại diện cho phụ nữ Việt Nam, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân của mình cho quê hương đất nước.
 
Với lòng cảm phục, thương nhớ các cô gái thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh, tác giả Bình Nguyên viết nên bài thơ “Những vầng trăng Đồng Lộc” để góp thêm hoa tươi, hương thơm vào quần thể di tích mười cô gái thanh niên xung phong. Những cáitên Dương Thị Xuân, Phạm Thị Tần, Hồ Thị Cúc…mãi mãi khắc vào bia đá, đi vào nhiều tác phẩm văn thơ, trường tồn cùng thời gian và lịch sử dân tộc.
 
Tôi thích “Những vầng trăng Đồng Lộc” vì “Trăng” trong bài thơ đâu chỉ đơn thuần là một vệ tinh phát sáng huyền ảo cho địa cầu, trăng chính là mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc đã hy sinh xuân sắc, tình yêu lứa đôi, là tri âmđể làm dịu nỗi đau và mất mát chiến tranh. Mười vầng trăng đã chủ động lặng lẽ hạ giới làm bừng sáng cảnh vật, soi tỏ những cánh hoa lấp lánh hương sắc khiến mọi người tự tin hơn vào thế viên mãn của đất nước sau chiến tranh. Bài thơ nói về những người đã khuất - tập thể đồng đội đã hy sinh trong cùng một thời khắc của chiến tranh mà âm hưởng không bi ai, nghe lạc quan sảng khoái. Các cô đã mất nhưng lại hóa thân vào đất trời, vào thời gian, hiển hiện dưới những cái tên Giêng Hai, Tháng Ba, Tháng Tư, … Một Chạp - nghe mới gần gũi, thân thương làm sao.
 
Mấy ai trong đời làm thơ không lấy quê hương đất nước làm điểm tựa, lấy lời ru ca dao, dân ca thuở nằm nôi chắp cánh ước mơ như những vần thơ xao xuyến, thơ thổn thức về quê hương xứ sở, về tuổi thơ, hình ảnh mẹ tần tảo sớm hôm, hai sương một nắng với ruộng đồng như tác giả Bình Nguyên. Trong lịch sử văn học nước ta đã có nhiều bài thơ của các nhà thơ khác nhau ca ngợi hình ảnh người mẹ, người chị, người em - người phụ nữ; từ những ký ức xa xưa, người mẹ trong thơ văn được tác thành những hình tượng gắn với những kỷ niệm khó phai. Từ những năm tháng chiến tranh khốc liệt, một thế hệ nhà thơ chiến sĩ trong đó có Bình Nguyên được trưởng thành và hình như trên mỗi bước đường hành quân gian lao vất vả, các anh đã được sưởi ấm bới tấm lòng nhân hậu, cao cả và bao dung của các mẹ, các chị, các em ở bất cứ nơi nào họ đi qua.
 
Tôi thích bài thơ “Những vầng trăng Đồng Lộc” cũng là thích những tìm tòi của tác giả với một đề tài vốn có nhiều người viết và viết hay, nhưng cái khác của tác giả Bình Nguyên là, những bài thơ trước đó, mười cô gái thanh niên xung phong được nhìn như những anh hùng liệt nữ, nay họ hóa thân vào vũ trụ, thiên nhiên, gió, mây, thời gian năm tháng bốn mùa, núi sông, đất đai, cánh đồng, vào những trăn trở lo toan của cuộc sống thường nhật không ngừng đổi mới, đi lên…
 
Mạn phép tác giả bài thơ “Những vầng trăng Đồng Lộc”, xin được mượn hai câu kết của bài thơ để kết thúc bài bình, xem như nén tâm hương để mượn gió gửi về bảo tàng văn hóa lồng lộng giữa đất trời Nghệ Tĩnh, nơi lưu giữ những chứng tích hào hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả nước ta:

“Các cô đấy các cô đâu
Nén nhang chảy đỏ xuống màu cỏ non”.


Dương Kim Anh
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: TÌNH CA BAN MAI - 30.05.2008 17:54:33
Tình ca ban mai
(Chế Lan Viên)
 
Em đi, như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về, tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Em ở, trời chưa ở
Nắng sáng màu xanh che
Tình em như sao khuya
Rãi hạt vàng chi chít 
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều bay hết
Tình ta như lộc biếc
Gọi ban mai lại về
Dù nắng trưa không ở
Ta vẫn còn sao khuya
Hạnh phúc trên đầu ta
Mọc sao vàng chi chít
Mai, hoa em lại về...

LỜI BÌNH:

 
Nhà thơ Chế Lan Viên với bài thơ Tình ca ban mai có cách biểu hiện thật riêng về nỗi “em đi” và niềm vui “em về”.

Điều sắc sảo mà ân tình trong trạng thái tâm tư trong 4 câu thơ đầu của bài thơ là ở chỗ: Hình ảnh yêu thương của em gắn hoà với sự sống. “Em đi” với không em thì trong nỗi niềm khắckhoải của người yêu em, sự sống cũng rời xa “như chiều đi - gọi chim vườn bay hết”. Tác giả của “Tình ca ban mai” cũng từng thấm thía, chạnh lòng với sự thiếu vắng ấy:
Không em anh chẳng qua vườn
Sợ mùi hương...sợ mùi hương nhắc mình
(Hoa tháng 3)
Cũng chính vì thế mà hình ảnh “em về” như gắn với niềm vui của sự sống, của sức sống thanh tân “Tựa mai về - Rừng non xanh lộc biếc”. Hai câu thơ của Chế Lan Viên diễn tả hình ảnh “em về” sao mà tươi tắn và dạt dào sức sống một cách kỳ diệu - bởi niềm vui như sống dậy, cựa mình trong từng con chữ (rừng – non – xanh- lộc biếc).
Và đây nữa, hình ảnh “em ở” mới thực sự là có em trọn vẹn như màu xanh của sự sống, như ánh nắng sáng của niềm tin yêu, như tình em “rãi hạt vàng chi chít” trên vòm trời đêm của hạnh phúc – tình yêu.
“Em ở” có “tình em” và có “tình em” cũng có nghĩa là tình anh bừng dậy. Tình ý của mấy câu thơ của Chế Lan Viên mang theo cả sự toả lan, hô ứng thật tình tứ và thú vị:


“Tình em như sao khuya
Rãi hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang bóng chiều bay hết”
Sự chuyển vận của cảm xúc tâm tình trong bài thơ tạo được ấn tượng đặc sắc bởi những câu thơ có sự chuyển hoá từ tình cảm mỗi người – tình cảm mỗi em, của anh, sang phía tình cảm của đôi lứa, sang tiếng nói chung điệu, chung tình. Hoá ra, nhà thơ đã khám phá vẻ đẹp mà cũng là sức mạnh lạ lùng của tình yêu. Vẻ đẹp cùng sức sống ấy như ánh lên từ sắc mầu nẩy nở như lộc biếc của tình yêu con người. Hai chữ “lộc biếc” được nhà thơ điệp lại như một thứ thông điệp vĩnh hằng của tình yêu, mà cũng là thứ thông điệp đầy sinh lực của sự sống muôn loài.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2008 18:58:47 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Trăng vàng, trăng ngọc - 31.05.2008 18:47:32
TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC
 
Hàn Mặc Tử

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò...
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là trăng của Rạng Ngời.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!

 
 
Lời bình:
 
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!”
Hàn Mặc Tử đang reo to lên với mọi người. Ta ngỡ như nhà thơ đang nhảy nhót mừng vui. Như điên cuồng: “Ai mua Trăng tôi bán Trăng cho”. TRăng nào của riêng Hàn Mặc Tử? Nhưng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử lại là một góc rất riêng của thi nhân. Như mỗi một Người-Thơ đích thực đều có một vầng trăng của riêng mình. Tôi không so sánh được Hàn Mặc Tử với thi tiên Trung Hoa Lý Bạch – nhà thơ của Rượu và Trăng, bởi giữa hai nhà thơ là hai thế giới hoàn toàn khác. Điều có thể khẳng định là ở Việt Nam ta, Hàn Mặc Tử là người viết về trăng hay số một trong số những thi sĩ lãng mạn 1932 – 1945. Vầng trăng đã trở thành sự gắn bó định mệnh với nhà thơ, trăng càng viên mãn thì thân thể nhà thơ càng bị đau đớn hao khuyết. Vẻ đẹp của trăng đã được Hàn Mặc Tử cảm nhận bằng chính nỗi đau thể phách của mình. Có hiểu vậy ta mới thấy mỗi lời thơ của Hàn Mặc Tử như được rứt ra tự sâu thẳm tâm hồn.
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!”
Trăng của Hàn Mặc Tử. Mang nỗi đau vò xé thể xác nhưng tâm hồn đầy khát vọng của nhà thơ. Lời, từng lời choáng ngợp, sáng láng. Bệnh tật đẩy nhà thơ ra khỏi thế giới người bình thường, do định kiến của xã hội. Sự đày đọa thể xác cũng không bằng sự đày đọa tinh thần nhà thơ phải gánh chịu: cảm giác cô đơn. Hàn Mặc Tử cô đơn, cô đơn khủng khiếp. Có ai làm người mà lại thích cô đơn, nên người nào lâm vào cảnh đó cũng cố tìm một nguồn chia sẻ. Với Hàn Mặc Tử, là Trăng. Phải, chỉ còn Trăng cạnh nhà thơ, an ủi tâm hồn, vực dậy trong nhà thơ những tâm tư, khát khao vươn về cuộc sống. Khát vọng lớn lắm nên những câu thơ như huyết mạch sôi lên gấp gáp: “Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!”. Trăng là phần đời, là sự sống của Người:
“Tôi đang cầu nguyện cho Trăng tôi”
Không chỉ là bạn tâm tình, trăng đã thành sự hoá thân: “Tôi cũng Trăng mà nàng cũng Trăng” (Huyền ảo); thành nguồn thơ bất tuyệt: “Cả miệng ta trăng là trăng” (Một miệng trăng). Người “chơi giữa mùa trăng” để thấy mình tan ra trong cảm giác hoà nhập với ánh sáng. Trăng thành nguồn sáng trong đêm tối đời Người. Cho nên ta không lấy làm lạ khi đi vào vườn thơ của Hàn Mặc Tử, ta đã được tắm trong luồng ánh sáng kỳ ảo của Trăng, trong đủ mọi cung bậc cảm giác, lúc ấm nồng, khi ớn lạnh. Nguồn Thơ, Nguồn Trăng, “Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang?”. Một khi còn khat khao giao cảm với đời, nhà thơ làm sao có thể đánh đổi vầng trăng để mua về sự tuyệt vọng?
Hàn Mặc Tử đã vào cõi vĩnh hằng tròn 50 năm*, nhưng đã mấy ai hiểu hết tấm lòng nhà thơ? Viết những câu thơ như đùa, như bỡn kia, nhà thơ đã phải sống, phải cảm “bằng máu, bằng lệ, bằng hồn”, sống đến tận cùng sự sống.
Vẫn là vầng trăng đêm đêm toả sáng, chúng ta có thể coi là chuyện bình thường. Nhưng vầng trăng đã trở thành cõi – thiêng – liêng toả sáng hồn thơ Hàn Mặc Tử: “Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời”. Ngậm ngùi cho cuộc đời thi nhân, ta càng khâm phục, kính yêu người – thơ ấy: từ căn bệnh tuyệt vọng, từ cuộc sống đau thương, vẫn vươn lên nhập cuộc với Đời, bám víu lấy Đời bằng những luồng tơ trăng mỏng mảnh. Để sống. Để kết tụ hương – thơm qua những vần thơ diễm lệ:
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!”
Qui Nhơn tháng 8 – 10 năm 1990
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Gửi em, cô thanh niên xung phong - 31.05.2008 18:49:39
Gửi em, cô thanh niên xung phong
 
(Phạm Tiến Duật)
Có lẽ nào anh lại mê em
Một cô gái không nhìn rõ mặt
Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất

Người tinh nghịch là anh dễ thân
Bởi vì thế có em đứng gần
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là "Thạch Nhọn"
Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón

Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn
Tiếng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để
Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.

Tranh thủ có ánh sáng đèn dù
Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt
Mọi người cũng tò mò nhìn anh
Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối

Em ơi em, hãy nghe anh hỏi
Xong đọan đường này các em làm đâu
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.

Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều
Những con đường như tình yêu mới mẻ
Ðất rất hồng và người rất trẻ
Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim

Những đội làm đường hành quân trong đêm
Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng
Rực rỡ mặt đất bình minh
Hấp hối chân trời pháo sáng
Ðường trong tim anh in những dấu chân.

Chiếc võng bạc trên đường hành quân
Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi
Lại đường mới và hàng nghìn cô gái
Ở đâu em tinh nghịch của anh?

Bụi mù trời mùa hanh
Nước trắng khe mùa lũ
Ðêm rộng dài là đêm không ngủ
Em vẫn đi, đường vẫn liền đường

Cạnh giếng nước có bom từ trường
En không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiểu bom nổ chậm
Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy...

Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại
Sẽ giật mình đường mới ta xây
Ðã có độ dài hơn cả độ dài
Của đường xá đời xưa để lại
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái
Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngòeo trên mặt đất.

Ơi em gái chưa một lần rõ mặt
Có lẽ nào anh lại mê em
Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim
Tên em đã thành tên chung anh gọi:
Em là cô thanh niên xung phong. 


lời bình:


1. Sáng tác ngay trên đất lửa ác liệt của khu IV Hà Tĩnh, nơi “giặc điên cuồng trút hàng vạn bom rơi” . Vẻ đẹp những o thanh niên xung phong quả cảm đã đi vào nhiều bài thơ bài hát ca ngợi, nhưng có thể nói bài thơ của Phạm Tiến Duật giúp ta nhận ra rõ dáng nét, tâm hồn của cả một thế hệ thanh niên, những người con gái bằng xương bằng thịt mà lại có sức sống mãnh liệt vượt lên bom đạn.
2. Thơ kháng chiến chống Mỹ gắn với tuyến đường Trường Sơn có nhiều bài sâu sắc mà cảm động, lại rất giàu chất hiện thực. Chính không khí của những ngày chống Mỹ làm nên cảm hứng thơ ca hướng về với con người - biểu trưng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Thơ của Phạm Tiến Duật, người chiến sĩ lái xe, viết ngay trong mưa bom bão đạn mà lại tươi rói sức sống tuổi xuân của một lớp người trưởng thành từ thực tế chiến đấu đã được đông đảo quần chúng đón nhận. Thô ráp, một mạc mà lại rất sinh động, tươi trẻ, chứa đựng tinh thần lạc quan của thế hệ chống Mỹ. Có lúc đằm sâu trong Nhớ, có lúc ngang tàng phóng khoáng bụi bặm đầy chất lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Riêng bài thơ này đã lý giải một tình yêu người lính – tình cảm trong chiến đấu, nảy nở giữa chiến trường, nơi sự sống – cái chết cách nhau một ranh giới mong manh đã ghi đậm dấu ấn tâm hồn tuổi thanh xuân trong hình tượng cô thanh niên xung phong.
3. Cũng như nhiều bài thơ trong giai đoạn này ngồn ngộn những chất liệu hiện thực, tác phẩm của Phạm Tiến Duật kể về cuộc gặp gỡ với những nữ thanh niên xung phong mà trung tâm chính là em - một cô gái không không nhìn rõ mặt. Từ cuộc gặp gỡ cụ thể ấy, nhà thơ đã nâng tầm nhân vật trữ tình thành bức tượng đài nghệ thuật ngôn từ về lực lượng thanh niên xung phong thời chống Mỹ.
4. Cái may mắn của thế hệ hiện nay là được hưởng hoà bình và được hưởng thụ nhiều tiện nghi về vật chất cũng như tinh thần. Nhưng sẽ là một thiệt thòi nếu thiếu những hiểu biết về một thời dân tộc đã anh dũng lập nên bao chiến công, không cảm nhận được về con người của một thời đã trực tiếp viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Sẽ là một thiếu sót nếu thế hệ hôm nay lãng quên quá khứ. Chúng ta thường dễ xúc động trước những người ngã xuống vì lý tưởng độc lập tự do của dân tộc, dễ cảm thương trước những thiệt thòi hôm nay của các o pháo binh Ngư Thủy, các o TNXP Đồng Lộc mà có thể không hiểu được rằng: vào thời ấy, họ đã phải hy sinh lặng thầm, không hề tính toán thiệt hơn.
5. Những bài thơ của một thời có thể sẽ bị chìm vào quên lãng, lạc lõng trước những âm thanh hip-hop, rock-rap hiện đại. Nhưng nếu ta chịu khó hiểu, ta sẽ sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân và đất nước mình. Hãy đọc và cùng hoà vào cảm xúc rất trong trẻo của thời đại chống Mỹ ở bài thơ này, ta sẽ hiểu thế nào là Sự Sống, Tình Yêu mạnh hơn bom đạn và cái chết./.
                                                                                    Trần Hà Nam
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2008 18:52:18 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: THAY LÁ - 31.05.2008 18:54:47
THAY LÁ
 
TG: Lê Trung Nguyệt

Đã lâu rồi
Anh chắng nhìn em
Như cái thời ấy nữa.
Sao lại thế?
Người ơi sao lại thế?
Cây bàng cũ đã bao lần thay lá
Búp xanh lại ngơ ngác thuở ban đầu
Hãy chớp mắt nhìn nhau
Cho mùa lá rụng
Để cái nhìn lên búp tơ non
Mơn mởn trời xanh trên cành cổ thụ.

Anh sẽ lại thấy em
Như thuở ban đầu
Hãy chớp mắt đi anh
Cho cái nhìn thay lá.

Lời bình:

Một cuộc tình dù đẹp đẽ và hạnh phúc nồng ấm đến đâu chắc hẳn cũng phải có đôi lần người trong cuộc cảm thấy có những điều bất ổn mặc dù có thể đó chỉ là những linh cảm mong manh, khó nói. Tôi đã bắt gặp cái cảm gíac rất mơ hồ nhưng cũng rất thật ấy trong bài “Thay Lá” của Lê Trung Nguyệt.
“Đã lâu rồi
Anh chẳng nhìn em
Như cái thời ấy nữa”

Thời gian có sức mạnh ghê gớm, nó có thể chữa lành những nỗi bất hạnh nhưng cũng có thể bào mòn những niềm hạnh phúc. “Đã lâu rồi”, thời gian đấy!, “anh” đã không còn có ánh nhìn say đắm với “em” như cái thuở ban đầu ấy nữa. Không hiểu rằng ta có đòi hỏi quá nhiều hay không khi biết rằng chẳng có gì trên cuộc đời này là không thay đổi mà vẫn cứ mong muốn có những điều cứ phải tồn tại vĩnh viễn. Khi ánh nhìn của người yêu không còn như trước nữa, ấy là trong cảm nhận của riêng ta, thì bỗng thấy thảng thốt:
“Sao lại thế?
Người ơi, sao lại thế?”

Người phụ nữ thường nhạy cảm và yếu đuối là thế, có một sự thay đổi nào đó dù rất nhỏ cũng làm họ thấy lo lắng về một điều xấu có thể xảy ra và muốn tìm hiểu nguyên nhân của nó. Hai câu hỏi dồn dấp toát lên cái vẻ gấp gáp, nóng lòng muốn biết sự thật mà như một lời thổn thức.”Người ơi”, tôi cảm nhận ở tiếng gọi tha thiết ấy một tình cảm yêu thương da diết nhưng vẫn có gì đó như dè dặt, xa xôi.
“Cây bàng cũ đã bao lần đổi lá
Búp xanh lại ngơ ngác thuở ban đầu”

Câu chuyện của thiên nhiên, cây lá được “xen vào” một cách khéo léo, tự nhiên. Cây thay lá, điều ấy có gì lạ đâu nhỉ? Và rồi…
“Hãy chớp mắt nhìn nhau
Cho mùa lá rụng
Để cái nhìn lên búp tơ non
Mơn mởn chồi xanh trên cành cổ thụ”

Hãy làm mới lại, trẻ lại chính cái nhìn của “anh” để nó trở về “tơ non” của “thời ấy” như cây thay lá mỗi mùa thu. Tình yêu vẫn luôn cần phải hâm nóng để có được cái cảm gíac mới mẻ, vâng, đấy là cái mà “em” mong chờ nơi “anh”. Nỗi mong chờ, khát khao ấy thật giản dị nhưng cũng thật cần thiết, phải không? Nó như khí trời ta vẫn thở mỗi giây, không thể thiếu được dù rất dễ bị lãng quên bởi chính sự hiển nhiên không thể thiếu của nó
“Anh sẽ lại thấy em
Như thuở ban đầu
Hãy chớp mắt đi anh
Cho cái nhìn thay lá”

Hỡi những người yêu dấu của chúng tôi ơi, các anh hãy tự nhìn lại mình đi, các anh có nhận thấy trong lúc nào đó mình đã nhìn người yêu bằng ánh nhìn của những chiếc lá vàng úa mà chưa chịu rời cành không?. Nếu vậy thì “Hãy chớp mắt đi anh, cho cái nhìn thay lá!”, chắc chắn rồi “anh sẽ lại thấy em như thuở ban đầu” và tình yêu sẽ là mãi mãi với những ai biết nuôi dưỡng nó, “thay lá” lá cho nó!
Và cuối cùng tôi xin được trả lời câu hỏi của chính mình: “Không hiểu rằng ta có đòi hỏi quá nhiều hay không khi biết rằng chẳng có gì trên cuộc đời này là không thay đổi mà vẫn cứ mong muốn có những điều cứ phải tồn tại vĩnh viễn?”. Không! Với tình yêu thì không bởi để tình yêu tồn tại vĩnh viễn là ta phải biết thay đổi nó. (chà, nói một hồi thấy luẩn quẩn quá, nhưng mọi người hiểu mà, phải không?)


Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Khoảng cách - 31.05.2008 18:57:04
KHOẢNG CÁCH
(Bùi Kim Anh)

Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
Chỉ một lần thôi êm ả
Dẫu đã có bao lần vội vã
Anh vẫn là anh xa cách giữa cuộc đời

Sẽ chẳng bao giờ có được giữa lòng tay
Chút ấm áp hương người thương nhớ
Một bông cúc muộn mằn mới nở
Dẫu vàng tươi vẫn trơ trọi cuối mùa

Một tình yêu tha thiết hẹn hò
Anh vói em chỉ là trong mộng ước
Một giấc mơ rất gần mà không thực
Rất mặn nồng mà trống trải đơn côi

Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh
Chỉ một lần thôi là tất cả
Để cứ đến rồi đi trên đường cúc nở
Không hương mùi vẫn gợi nhớ âm thầm.

Lời bình:

“Khoảng Cách”, tựa đề bài thơ đã dự báo “điều chẳng lành” rồi, và quả thế thật: “Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh”, một sự ngăn trở có lẽ là không thể phá bỏ được, bởi thế mà “sẽ chẳng bao giờ” dù “chỉ một lần thôi êm ả”. Giữa hai người là một khoảng cách vời vợi “Anh vẫn là anh xa cách giữa nỗi đời”, đọc đến câu này tôi bỗng nhớ đến mấy câu thơ của Xuân Diệu “Em là em; anh vẫn cứ là anh/ Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” (Xa Cách), sự xa cách đáng sợ nhất là xa cách về tâm hồn giữa con người với nhau bởi mọi khoảng cách về không gian đều có cách để vượt qua, và thậm chí cả những khoảng cách về thơi gian cũng có thể khắc phục được, ấy là sự đồng điệu giữa hai tâm hồn của những thế hệ khác nhau.

Sẽ chẳng bao giờ có được giữa lòng tay/ Chút ấm áp hương người thương nhớ”, một tâm trạng khát khao trong vô vọng, ấy là biết rằng không bao giờ nắm được “hương người thương nhớ” dù rất muốn thế. “Ấm áp hương người", sao mà thân quen, gần gũi nhưng cũng rất đỗi mong manh, mơ hồ không sao nắm giữ, không sao mô tả được, chỉ thấy thương nhớ thế thôi. Phải chăng sự ngăn trở ở đây là vì cái lẽ gặp không phải lúc khi mà “Một bông cúc muộn mằn mới nở/ Dẫu vàng tươi vẫn trơ trọi cuối mùa” thế đấy, muộn màng thì dù “vàng tươi”, dù tha thiết cũng chỉ là “trơ trọi”, là cô lẻ mà thôi. “Người ơi gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không”, đấy là tâm trạng nàng Kiều, nàng lo lắng cho sự “biết có duyên gì hay không” là lo lắng cho tương lai sợ rằng có thể có trắc trở, nhưng “biết có” thì vẫn còn chút hy vọng là có thể có hoặc không. Còn “em”, “em” chắc chắn một điều rằng “em” gặp anh là một sự muộn màng như hoa cúc nở về thu, bởi thế mà “Sẽ chẳng bao giờ…”

Một tình yêu tha thiết hẹn hò/ Em với anh chỉ là trong mộng ước”, tôi muốn trở về với sự xa cách về tâm hồn giữa hai con người ở khổ thơ đầu, khi đọc khổ thơ ấy tôi tưởng chừng như có sự trách móc nào đó của cô gái vì sự “bất đồng điệu” giữa tâm hồn của hai kẻ yêu nhau bất hạnh ấy, nhưng có lẽ không phải thế! Hình như là tâm hồn họ không dám cùng cất tiếng, không dám đến gần nhau, không dám hòa vào nhau chứ không phải là không tìm thấy “nhịp điệu chung”, bởi vậy mà “Một tình yêu tha thiết hẹn hò” nhưng cô gái vẫn dặn lòng rằng “Em với anh chỉ là trong mộng ước”, vâng chỉ dám nghĩ là mộng thôi, không mong nó là thật. Cảm xúc ấy lại tiếp tục trải dài, miên man với hai câu tiếp theo: “Một giấc mơ rất gần mà không thực/ Rất mặn nồng mà trống trải cô đơn”. Trời ơi! mơ mơ - tỉnh tỉnh, hư hư - thực thực, hai cái ấy cứ đan quện vào suốt khổ thơ để rồi âm hưởng còn sót lại là “trống trải”, là “cô đơn” sau tất cả những “tha thiết”, những “mặn nồng”.

Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh”, điệp khúc này được lặp lại một lần nữa như để nhấn mạnh lại cái sự không thể vượt qua của những ngăn trở, “Sẽ chẳng bao giờ em đến được cùng anh/ Chỉ một lần thôi là tất cả”, dẫu vậy mà vẫn “Để cứ đến rồi đi trên đường cúc nở/ Không hương mùi vẫn gợi nhớ âm thầm”. Muộn màng, cách trở nhưng vẫn "âm thầm" nhớ, nhớ không quên được nên “cứ đến rồi đi” và vẫn mãi khát khao “Chỉ một lần thôi là tất cả”… dù “em” đã “trên đường cúc nở”, đã muộn màng cả tuổi xuân?

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Tan vỡ - 01.06.2008 21:10:57
 
Tan vỡ
 
 TG: Dư thị Hoàn

Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
Con nai rừng của em...
 
Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có một lần...
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em
 

Lời bình:
 
   Vâng! chỉ vì cái tội "lơ đãng" mà anh - nhân vật trữ tình của chị - "mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ / bút viết xong không đậy nắp bao giờ”. Chị không hề trách cứ, không lời phàn nàn,... bởi có thể là anh mải nghĩ, mải làm rồi quên đấy thôi. Ai mà chẳng có lúc lơ đãng. Hơn nữa chính sự lơ đãng nhiều khi đem lại cho cuộc sống một chút lãng mạn. Và anh, anh cũng đáng yêu hơn. Dưới mắt nhìn của chị, anh như "con nai rừng ngơ ngác" trong thơ Lưu Trọng Lư giữa đêm vàng hư ảo:

    Ôi anh yêu, lơ đãng đến là
   Con nai rừng của em...


    Hai câu thơ của chị Dư Thị Hoàn đẹp trong cái nhìn thi vị và thật dễ thương bởi tình yêu chân thật. Được biết chị là con người ý tứ và cẩn trọng trong hình thức, thế mà, chị vẫn dành cho anh - nhân vật hay "lơ đãng" được nói đến trong bài thơ - một sự bao dung.
    Cứ ngỡ " tất cả rồi sẽ dễ qua đi, qua đi”, hai con người yêu nhau kia "sẽ thành vợ thành chồng". Câu chuyện thơ khép lại. Nào ngờ... cái điều chị muốn trao gửi đến bạn đọc lại không chỉ là sự "lơ đãng" thường tình mà lại là một vấn đề lớn hơn không thể tha thứ trong tình yêu:

    Nếu không có một lần...
   Một lần như đêm nay
   Sau phút giây
   Êm đềm trên ghế
đá
   Anh không cài lại khuy áo ngực cho em


    Những câu thơ gãy đổ, dự báo một tình yêu tan vỡ. Anh có thể quên đóng ngăn kéo, không đậy nắp bút và gì gì đi chăng nữa nhưng đừng bao giờ “lơ đãng" kiểu đó. Dư Thị Hoàn không đòi hỏi một sự viên mãn trong tình yêu bởi chị đã từng viết: "Nếu anh cũng như em / đòi nhau sự viên mãn / thì điểm gặp nhau của chúng ta / còn thảm hại hơn hai hòn bi" (Viên mãn). Thế nhưng thật khó chấp nhận một sự thật phũ phàng đến thế. Ai mà không có lúc thiếu cẩn trọng trong việc làm song tình yêu lại không cho phép, bởi tình yêu vốn mong manh, dễ vỡ.
    "Người mà đến thế thời thôi...” thì dẫu chỉ một lần, "một lần như đêm nay" cũng dẫn đến một kết thúc buồn. Xin sẻ chia cùng chị nỗi đau được bộc lộ một cách mãnh liệt và trần trụi trong bài thơ Tan vỡ.
 
Nguyễn Mậu Hùng Kiệt




<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2008 21:12:52 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Hò hẹn mãi cuối cùng em mới đến - 04.06.2008 19:12:58





Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Hoàng Nhuận Cầm
 
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi

Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Hót lên! Dù đau xót một lần thôi

Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa

Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra

Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi...

(Theo bản in trong tập Xúc xắc mùa thu - NXB Hội Nhà văn - 1992)

Bình thơ
Có những hẹn hò làm tình yêu thêm thi vị. Có những hẹn hò để rồi xa nhau. Có những hẹn hò để rồi có bài thơ như Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến của Hoàng Nhuận Cầm. Tôi vẫn luôn thích những sự lỡ làng trong thơ anh. Một hạnh phúc tưởng như đến tay rồi chợt vỡ, một tình yêu vẹn tròn rồi chia xa, và những hẹn hò từ từ khép lại ….
Đây là một trong những bài thơ viết hay về sự hẹn hò trong tình yêu. Vốn dĩ, hẹn hò là một phần của tình yêu, thật hiếm có những tình yêu mà không hò hẹn. Nhưng cách cảm nhận của Hoàng Nhuận Cầm lại thật đặc biệt. Đặc biệt trong nỗi đợi chờ không phải là vô vọng, vì cuối cùng thì "em cũng tới", nhưng khi em tới thì không phải anh không còn đợi nữa, mà chính mùa thu đã không còn kiên nhẫn với cuộc tình…Bởi lẽ:
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi
 
Hoàng Nhuận Cầm vốn giỏi dùng những hình ảnh thật cụ thể để diễn đạt những cảm giác vô cùng mơ hồ, tinh tế. Thấy bông hoa sót lại cuối cùng để biết một mùa thu đã qua, và người đọc cũng cảm nhận được nỗi đợi chờ đã mòn mỏi thế nào! Cuối cùng em cũng đến, nhưng đến chỉ để thấy có những điều quý giá đã trôi qua...
Ta đã chán lời vu vơ, giả dối
Hót lên! dù đau xót một lần thôi

Tiếng thơ như chưa bao giờ thành thật đến thế, thành thật để kiếm tìm một tiếng nói chân thành từ trái tim không toan tính, để con người đối diện với nhau không qua một tấm mặt nạ nào! Có lẽ cũng bởi sự thành thật một cách hồn hậu đó, mà thơ Hoàng Nhuận Cầm tìm đến được với bao tấm lòng, bao tình cảm tri âm!
Khổ thơ thứ ba của bài thơ, tôi thích nhất, vì nó chất chứa trong đó rất  nhiều suy tưởng. Một sự suy tưởng giản dị, nhưng nó không phải không chứa trong đó một quan niệm rõ ràng về tình yêu!
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa

Không hiểu vì đâu nhiều bạn trẻ thường hay chép lệch thành "Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói/ Rằng bồ câu không chết lẻ bao giờ". Nếu như thế, câu thơ vẫn hay nhưng lại hay theo một cách khác. Tôi thích cách suy tưởng của anh, bồ câu không chết trẻ cũng như những mong ước về tình yêu là vĩnh viễn. Tình yêu một mặt nào đó cũng là hiện thân của cái Đẹp mà con người hằng khát khao vươn tới và chiếm lĩnh một cách trọn vẹn. Vì thế mà bồ câu không chết trẻ, cũng như những tình yêu không có quyền chết trẻ, những khát khao không có quyền lụi tàn. Em hay là cơn bão tự ngàn xa. Tứ thơ không mới, nhưng lại lạ trong nỗi sợ hãi của con người, sợ hãi mà vẫn đón nhận, vẫn đợi chờ, vẫn phấp phỏng trong âu lo và hạnh phúc.
Khổ thơ cuối cùng là một sự so sánh có phần chua chát, nhưng chua chát một cách ngộ nghĩnh, một các bâng khuâng và tiếc nuối, cái chua chát của một người còn trẻ:
Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán gió - lại ra

Tưởng như tình yêu chỉ là một trò đùa, dễ dàng và chóng vánh với người con gái. Nhưng nếu để ý thì ta lại nhận ra một sự bao dung. Trái tim ấy là một tấm lòng, một tình yêu luôn chờ đợi, dẫu bé nhỏ nhưng vẫn là tổ ấm đủ để chở che cho những cơn gió vô tình một lần lạc bước. Để rồi cuối cùng, có một lần em đến, một lần em nói, một lần em đứng đó…. Chỉ có điều "mùa thu hoa cúc cướp anh rồi"… Đã bao lần đọc câu thơ này, tôi vẫn cảm thấy nỗi chông chênh của một con người, vừa quyết định sẽ lên tàu thì con tàu vụt chạy đi mất. Tàu thiếu đi một hành khách và người đi thành kẻ lỡ đường….
Câu thơ cuối cùng của bài thơ lưu lại trong ấn tượng người đọc bởi từ "cướp" rất đậm "chất" Hoàng Nhuận Cầm. Nó giúp ta không quên những ngày anh còn là người lính làm thơ. Chất lính tráng ấy vẫn đôi lần trở về trong thơ anh như một gợi nhớ, một dấu ấn, một nét riêng đặc biệt.
Thoáng đọc Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, người ta có thể nghĩ, ừ, bài thơ này "kết thúc có hậu" vì cuối cùng em cũng đến kia mà. Nhưng dư âm bài thơ, cách kết thúc của bài thơ lại cho ta một cảm nhận khác. Ấy là dư âm của sự lỡ làng... Ta có thể đợi nhau, nhưng cuộc đời không đợi ta. Vì thế mà đã có rất nhiều tình yêu đẹp trong cuộc đời, nhưng chẳng biết có bao nhiêu trong số đó, đi trọn vẹn được đến cuối đường?
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Tiếng cười trong trẻo - 05.06.2008 13:11:11
TIẾNG CƯỜI TRONG TRẺO
Trần Thị Mỹ Hạnh
    
Khi không khóc được thì cười


Cười nghiêng ngửa trước đầy vơi tủi hờn
Nỗi mình lắm cái đa đoan
Nỗi nhà đau đáu mênh mang tuổi đời
Tưởng dòng nước mắt cạn rồi
Đâu ngờ nước mắt khi cười trào tuôn
Ngọt ngào mặn đắng hoàng hôn
Chát chua bươn trải càng thương yêu mình
Đất trời vốn chẳng yên lành
Dòng trong bến đục , ân tình,lo toan
Không khóc được thì cười vang
Tiếng cười trong trẻo át ngàn nỗi đau
                                              

Lời bình
    
Trái tim phụ nữ vốn dĩ đa thanh , phức điệu lắm rồi ,phụ nữ mà ‘’giời  bắt làm thi sĩ ‘’ thì mức độ tăng tiến lại càng  hơn gấp bội,thế nhưng mở đầu bài thơ nữ sĩ họ Trần lại phán một câu gọn ơ khẳng định ;
  ‘’ Khi không khóc được thì cười’’
Thoạt  nghe có vẻ đơn giản  kiểu nói lấy được ,không khóc thì cười  chớ sao,nhưng là loại đơn giản đã được trui  trong lò bát quái nhân sinh quan của người  từng’’ bươn trải ‘’bao nhiêu đắng cay ,thất bát của cuộc đời mới luyện thành bản lĩnh khóc cười như ý làm vậy.Khóc lóc có giải quyết được gì đâu , ông cha đã chẳng từng căn dặn  cháu con đó sao:’’khóc nhục,rên hèn ,van yếu đuối’’.Thế thì cười lên đi ,tiếng cười tạm thời  xua tan bóng tối ,oán thù , ,nói theo y học tiếng cười là liều thuốc bổ, tiếng cười làm giãn nếp nhăn giúp quý ông ,quý bà cãi lão…’’trước đầy vơi tủi hờn’’.Nói như vậy nhưng hàm ẩn trong cái động  thái ‘’cười nghiêng ngửa ‘’ ấy có một cái gì đó xót xa cố nén  ‘’.Mà đúng rồi ‘’tủi  hờn, đa đoan, mênh mang nỗi đời’’ thì đố ai mà cười vô tư cho được  .Giá như tác giả đừng quá bộc bạch :’’Tưởng dòng nước mắt cạn rồi-Đâu ngờ nước mắt khi cười trào tuôn ‘’thì độ nén của tứ thơ sẽ ngấm sâu hơn vào lòng người đọc .Thật ra’’ cười nghiêng ngửa ‘’để’’nước mắt khi cười trào tuôn ‘’thì cũng không có gì là ghê gớm lắm đâu bởi đó là chuyện thường ngày ở…phim ,ở báo  !Phải đạt đến cảnh giới ‘’cười là tiếng khóc khô không lệ ‘’ kia mới tổng hoà các mối quan hệ xã hội trong quá trình sống ‘’ ngọt ngào mặn đắng-chát chua bươn trải’’thì cái độ yêu mình mới không gói gọn trong tính cá thể nhỏ nhoi  mà ít nhiều đã vươn ra ngoài cuộc sống .Có thế sự yêu mình mới phát sáng hơn , đáng quý hơn.
Khổ cuối  tác giả khái quát một vấn đề không có gì mới ,một quy luật muôn đời bất biến với hàng loạt các sáo từ ‘’dòng trong, bến đục, ân tình,lo toan’’ đã được chẳng những thơ ca mà các loại hình nghệ thuật khác đề cập đến từ thuở nảo thuở nao rồi  .Tuy nhiên  Trần Thị Mỹ Hạnh không rườm lời đâu ,chị chỉ muốn mượn hai câu đầu của khổ cuối như lưỡi dao để vót nhọn từ ‘’cười vang’’  trong câu ‘’ Không khóc được thì cười vang ‘’cứa vào tim những con người yếu đuối ,thiếu bản lĩnh dễ đầu hàng nghịch cảnh . Tôi nghe như từ hai chữ ‘’cười vang‘’có  cả hình ,cả ảnh có  âm sắc, âm giai đủ để thôi thúc con người phát tán nỗi đau trong tiếng cười vang tràn đầy tinh thần lạc quan của kẻ đã thấu triệt lẽ đời bi,hoan,ly,hợp . Tôi mãnh liệt tin rằng những con người  yếu  đuối ấy khi đọc bài thơ Tiếng cười trong trẻo ngấm câu này, thấm từ  ‘’cười vang’’ này ,nếu  đang  ‘’tủi hờn,  chát chua đớn đau’’ định sẽ làm một việc dại đột nào đấy  sẽ mau chóng  cười vang . Và khi đã cười vang được rồi thì tội gì mà không sống ,chiến đấu  kia chứ .Cuộc đời dài lắm mà !
Từ những  suy ngẫm mang tình chủ quan, ở góc độ người đọc cố gắng thấu cảm,chiếm lĩnh tác phẩm  tôi mạo muội nghĩ rằng giá như  tác giả cắt câu thơ cuối cùng đi để tiếng cười vang trong câu áp chót làm nhiệm vụ kết bài thì âm hưởng của tiếng cười vang ấy sẽ ngân nga  đồng vọng mãi trong lòng người đọc .Lý giải’’Tiếng cười trong trẻo át ngàn nỗi đau ‘’  làm gì  khi ‘’lòng đã tới rồi bút bất tất phải nói nữa ‘’  (Kim Thánh Thán) .
Bài thơ thuần lục bát ,giản dị ,từ không mới ,tứ không mới mà để lại dư ba cuốn hút người đọc phải chăng  là vì con chữ bình thường đã được nhà thơ điểm nhãn trở thành ‘’con mắt thơ’’?
 
Nguyễn Hàn Chung
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.06.2008 13:14:14 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Cảm nhận thơ hay cùng với lời bình - 05.06.2008 13:39:21
Bờ sông vẫn gió
Tác Giả: Trúc Thông


Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
một lần cuối ... một lần về cuối thôi.
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần.
Con xin ngắn lại đường gần
một lần ... rồi mẹ hãy dần dần đi ...
***

 
Lời bình:

Trong đời sống người dân miền châu thổ thì con sông là nguồn sữa phù sa nuôi dưỡng cánh đồng, mùa vụ. Ấy là xét về giá trị thời gian. Còn từ độ nhìn không gian thì hình ảnh con sông được xem là một điểm mốc hẹn mang giá trị lâu dài, có khi thành vĩnh tồn. Vĩnh tồn ngay cả khi nó bị lấp đi! Cái con sông – “Bờ sông” – xưa tiến đưa, nay đang mong đợi ở bài thơ này được Trúc Thông sử dụng với cả hai yếu tố: không gian, thời gian và lồng cộng với hai biểu tượng tinh thần là: lá ngô và làn gió. Một thời gian mang niềm thương nhớ khôn khuây, một không gian không đổi dời, một thứ tiếng gọi thao thiết đêm ngày của gió quê, và một thứ sinh thể mang cái màu sắc thiên thu đã lay động lên, hoá thượng thanh khí lên là chiếc lá ngô – nơi cõi phần ký ức. Bốn thứ lực tác động tạo hình ảnh, hình tượng này, chúng đã hoá thân vào nhau làm một - một niềm hướng tưởng duy nhất: Miền cố hương.

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
một lần cuối ... một lần về cuối thôi.
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh...


Nỗi nhớ quê hương trong tâm tưởng người tha hương mặn mòi, da diết lắm. Người ta xưa nay hằng “chiều chiều ra đứng ngõ sau ...” khi nhìn sông thấy khói sóng lúc cuối ngày mà buồn, khi nhìn trăng sáng đẹp mà nhớ. Vâng, còn biết nói thế nào, đến cả loài cầm thú cũng đã phải “ba năm quay đầu về núi” kia mà.
Niềm tha hương ở bài thơ này, với người mẹ - người đã dành cả quãng ngày xanh tuổi trẻ cho con cháu, nay da mồi, tóc bạc, tuổi đã vào cuối hoàng hôn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện ước cuối cùng, về thăm quê hương bản quán, mà khoảng dặm đường nào có xa xôi: “Con xin ngắn lại đường gần ...” . Lẽ thường người con đứng trước khoảng cách “đường xa dặm thẳng” mới phải mong cho “ngắn lại” chứ?! Chính từ cái “nghịch lý” này mới hoạ rõ lên cái “nghịch phận”. Tình thơ bởi thế mới sâu nặng, mới ám ảnh. Và cũng bởi thế mà không phải ngẫu nhiên, trong một bài thơ, nhà thơ đã sử dụng từ “xin” tới ba lần : Xin người hãy trở về quê; Lệ xin giọt cuối để dành; Con xin ngắn lại đường gần . Từ xin trong ngôn ngữ tiếng Việt mang đậm tính thân phận, nhân tính, Phật tính như : cầu xin, xin ăn, xin học ... Vậy nên từ này chỉ được dùng khi tấm lòng có việc chân thành hay ai cảm. Trúc Thông với tâm thi thành và ai đã sử dụng ba lần từ xin . Qua đó niềm thân phận buồn thương, lệ tình mẫu tử lung linh ngời sáng lên tính luân lý và đạo lý sâu sắc.
Sự dụng công đầy tính kỹ thuật của bài thơ cũng là một thành công cần được soi tỏ. Nếu ta thấy tổng lượng câu chữ của bài thơ là 12 câu với 84 chữ, một bài thơ có số lượng câu chữ giản thiểu như vậy, nhưng ở phần phân lượng chữ lại được nhà thơ sử dụng gia tăng, đẩy nhân đầy ắp lên. Tính cả cụm từ “một lần” thì bài thơ có những 6 chữ được sử dụng lặp đi lặp lại thành 24 lần chữ. Lặp ngôn tới tỷ lệ như vậy mà khi thưởng thức không phải người kỹ tính không dễ nhận ra. Ấy là bởi, trong một thi phẩm khi tình thơ, hồn thơ đã toả sáng lên, động vang lên, tạo ra một trường xung cảm mạnh mẽ giữa thi phẩm và người thưởng thức thì khi ấy tính hình thức, kỹ thuật đã trở thành một phương diện cấu thành, biểu đạt của nội dung nghệ thuật; tình thơ khi ấy cất cánh bay thoát ra khỏi cái “cốt – ngôn ngữ”, thơ đã đi từ cái cá thể - mang dấu vết ngôn ngữ và thân phận - đến nhập vào hợp thể, đồng vang nơi tiếng nói (thanh ngữ ) chung. Đó là nơi ẩn cư truyền nối thiêng liêng của cõi phần tâm tình, tâm linh; nơi mà kỹ thuật ngôn ngữ chỉ còn tồn tại như một lễ nghi trước bàn thơ tinh thần: Hồn thơ màu nhiệm.
Bờ sông vẫn gió thực sự là một thi phẩm có giá trị nghệ thuật của Trúc Thông góp cho kho tàng nghệ thuật thơ và thơ lục bát nước nhà
Đỗ Trọng Khơi
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Chuyện dân gian - 07.06.2008 16:00:37
CHUYỆN DÂN GIAN
 
Vũ Cao

Giữa trưa trời đổ mưa rào
Không quen bỗng gặp cùng vào trú mưa
Bập bùng gió đập phên thưa
Mái nghiêng lại dột không chừa áo em
Nhẹ nhàng tôi nép sang bên
Nhường nơi khất gió cuối thềm cho nhau
Em cười: mưa vậy mà lâu
Anh xem, lại một chuyến tàu nữa qua!
Nhưng rồi mây tản đi xa
Và mưa bỗng tạnh, nắng nhoà bóng cây
Tôi chìa tay để bắt tay
Hỏi thăm nơi ở mai này lại chơi
Thế rồi người ấy yêu tôi
Tôi yêu người ấy thành đôi vợ chồng
Cái duyên nghĩ cũng lạ lùng
Trú mưa một lát, cảm thông một đời
Đến nay người ấy vẫn cười:
- Gía như buổi đó ông trời chẳng mưa!

Lời bình:


          Bài thơ đúng là “chuyện dân gian” nhưng đó là chuyện dân gian thời nay. Nói cặn kẽ, đúng hơn là một “chuyện cổ tích” - một thể loại của chuyện dân gian - có nhân vật, có tình huống, có diễn biến tình huống, có thắt nút, mở nút và nhất là một kết thúc có hậu (đặc trưng của truyện cổ tích), chứ không đơn thuần là… chuyện dân gian chung chung. Và, đã xem như là một chuyện cổ tích thì điều gì trong “chuyện” đã “làm nên” ông Bụt, cô Tiên có phép “thần thông màu nhiệm” đem đến điều lành, cái hậu cho con người trong CHUYỆN DÂN GIAN đây?

Rõ ràng, không có gì khác ngoài MƯA, mưa đã làm nên chuyện “hội ngộ kỳ duyên” cho chàng trai và cô gái trong bài thơ. Cơn mưa rào có vai trò “quyết định” như ông Bụt, cô Tiên đã… kết “thành đôi vợ chồng” cho họ.

Mở đầu CHUYỆN DÂN GIAN là một tình huống: cơn mưa rào đến bất ngờ (giữa trưa trời đổ mưa rào), chàng trai và cô gái không hề quen biết nhau vào trú mưa cùng một lúc. Nếu chỉ vậy thì có gì đáng nói. Điều đáng nói là cơn mưa rào khá lớn, lại có gió to, chỗ trú mưa không được tốt lắm (Bập bùng gió đập phên thư/ Mái nghiêng lại dột không chừa áo em). Cái nút thắt trong CHUYỆN DÂN GIAN là ỏ chỗ này đây. Nếu chàng trai là người vô tình, dửng dưng thì hà cớ gì lưu tâm đến cô gái. Đằng này “chàng” có để ý, có lưu tâm mới phát hiện (đúng hơn là thấy rõ mưa đã “không chừa áo em”. Ngẫm một chút, người đọc dám chắc lá khi vào trú mưa “anh” đã “để mắt” đến “em” rồi, vì nơi trú mưa chỉ có… hai người. Chính vậy mà, khi thấy mưa “không chừa áo em”, “anh” thật áy náy, băn khoăn. Không chần chừ so tính “anh’ đã nhẹ nhàng nép sang bên “Nhường nơi khuất gió cuối thềm cho nhau”. Thế mới gọi là đàn ông, mới đáng mặt là đấng “nam nhi quân tử” chứ! những lời thơ “nhẹ nhàng”, “nép”, “nhường”, “cho nhau” thật gợi, thật cảm, cho thấy cử chỉ, việc làm của “anh” rất ý tứ, khiêm nhường, lịch sự, đầy tính tôn trọng và rất văn hóa đối với “em”. Người đọc hẳn đồng tình và “em” cũng rất xao xuyến, không thể thờ ơ trước việc làm đó của “anh” được. Điều đó có nghĩa là “anh” sẵn sàng hứng chịu cảnh mưa dột và gió lùa, nhưng ta biết chắc là lòng “anh”rất vui, phải không bạn? Hơn thế, theo sự “mách bảo” của trái tim, người đọc sẽ thẩm cảm được độ rung động của “em” qua những lời đằm thắm, chân tình: “Em cười: mưa vậy mà lâu/ Anh xem, lại một chuyến tàu nữa qua!”
Thế là rõ rồi. Bởi lẽ đã là mưa rào thì đâu có lâu, nhưng “em cười: mưa vậy mà lâu” vì “em” sợ mưa lâu thật thì “thương” và “tội” cho anh quá! Chỉ cần qua câu thơ này thôi, đủ thấy nhà thơ Vũ Cao rất tinh tế, sâu sắc về tâm lý, tình cảm của phái đẹp. Và, chỉ cần “em cười: mưa vậy mà lâu”, người đọc cũng ngẫm được bao nhiêu điều… sau đó. Như vậy, cái thắt nút của CHUYỆN DÂN GIAN được mở ra. Từ lúc chàng trai nhường chỗ trú mưa, cũng là lúc cô gái tỏ ra “quan tâm” đến mưa hơn, đúng hơn là mong mưa mau tạnh hơn, thực chất là đã ngầm “để mắt” đến chàng rồi. Chính việc làm đẹp của chàng trai đã “cảm” cô gái, làm cho trái tim cô gái ấm dần lên, rung động lên, “nhịp đập tình yêu” đã có cơ “bừng cháy” khi có điều kiện.

Cái gì đến ắt nó phải đến. Theo “diễn biến” của bài thơ, thì mưa phải tạnh, hai người trú mưa cũng phải tạm chia tay. Điều thú vị chàng trai đã chủ động đưa tay bắt tay “em” tạm biệt, nhưng vẫn không quên “hỏi thăm nơi ở mai này lại chơi”. Chất xúc tác này chính là điều kiện để tạo nên một kết thúc có hậu: “Thế rồi người ấy yêu tôi/ Tôi yêu người ấy thành đôi vợ chồng”
Vui với hạnh phúc, người con trai tự luận một chút về “cái duyên”: “Cái duyên nghĩ cũng lạ lùng/ Trú mưa một lát cảm thông một đời/ Đến nay người ấy vẫn cười/ - Giá như buổi đó ông trời chẳng mưa!”
Quả thật “- Giá như buổi đó ông trời chẳng mưa!” thì chắc chắn không có CHUYỆN DÂN GIAN. Bài thơ thật nhuyễn về vần điệu, đằm thắm, dung dị trong lời chữ, ngọt ngào thi vị ở tứ thơ, thật sự ấn tượng người đọc bởi ý ngĩa dân gian của nó. Cám ơn đại tá – nhà thơ Vũ Cao, từng danh tiếng với bài thơ “Núi đôi” cách đây hàng nửa thế kỷ, nay lại có CHUYỆN DÂN GIAN góp cho nền thơ lục bát Việt Nam thêm một thi phẩm độc đáo.

(MINH QUANG)
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Có một điều - 07.06.2008 16:07:26
CÓ MỘT ĐIỀU

(Nguyễn Kim Thuý)


Có những việc em không thể thay anh
Những việc chỉ duy mình anh làm được
Tình yêu đâu là trò chơi cá cược
Em càng không phải người lật quân bài

Có những khó khăn trên chặng đường dài
Em không sợ những gì đang cản lối
Nhưng em sợ một lời anh từ chối
Cầm tay em qua sóng gió cuộc đời

Có những tuổi thơ nay đã xa vời
Anh đã lớn và em không còn bé
Nhưng tại sao chỉ một lời nói khẽ
Ba tiếng thôi mà không ghép thành câu?

Có những điều em chẳng nói được đâu
Rất đơn giản vì em là con gái
Vì trái tim luôn đặt ở bên trái
Nên em sợ mình sai lầm…biết đâu…

Có một điều em đợi từ rất lâu
Dù biết chắc: Chẳng bao giờ anh nói!

Lời bình:

“Thụ động” trong tình yêu, đó là một nét đặc trưng của nữ giới Á Đông, trong đó có Việt Nam. Như vậy không có nghĩa là tình yêu của những cô gái này kém phần mãnh liệt và bỏng cháy mà nó mang một nét rất riêng, ấy là sự kín đáo và ý tứ trong hành động mặc cho lòng có bừng cháy yêu thương. Những “ngọn lửa” tình yêu như thiêu đốt tâm hồn ấy đã tràn thành những vần thơ nóng hổi đợi chờ trong “Có một điều” của Nguyễn Kim Thuý.

“Có những việc em không thể thay anh
Những việc chỉ duy mình anh làm được
Tình yêu đâu là trò chơi cá cược
Em càng không phải người lật quân bài”

Có những việc em không thể làm thay anh được ấy là chính vì anh mới là người phải “chủ động” và chỉ duy một mình anh làm được thôi. Tác giả đem trò cá cược ra để đặt cạnh tình yêu rồi khẳng định rằng tình yêu và trò cá cược không thể là một được, điều đó tưởng chừng không có gì đáng chú ý vì hiển nhiên nó là vậy. Thế nhưng, câu tiếp theo mới là điểm chốt: “Em càng không phải là người lật quân bài”, vâng cũng chỉ là lời khẳng định thêm rằng em không thể chủ động được nhưng với hình ảnh “lật quân bài” của trò cá cược tạo nên cho người đọc một cảm giác đầy mạo hiểm của một trò chơi mà được - thua không thể biết trước, và:

“Có những khó khăn trên chặng đường dài
Em không sợ những gì đang cản lối
Nhưng em sợ một lời anh từ chối
Cầm tay em qua sóng gió cuộc đời”

Nhưng em sợ một lời anh từ chối”, sự được - thua làm cô gái lo ngại nằm ở chính điều này đây. Những khó khăn “cản lối” không làm “em” lo ngại hay chùn bước, “em” sẵn sàng đối mặt, sãn sàng vựợt qua chỉ cần “anh” “cầm tay em qua sóng gió cuộc đời”. Thế nhưng “em” không biết được rằng khi “em” cứ thổ lộ lòng mình cùng “anh” thì “anh” có “từ chối” hay không? Bẽ bàng lắm “anh” ơi, nếu điều thổ lộ của “em” lại chẳng nhận được một sự đồng tình từ phía “anh”. Tâm trạng e ngại này thật dễ hiểu với những phụ nữ Á Đông chúng ta, chúng ta không thể mạnh dạn lao vào tình yêu, thể hiện tình yêu hết mình bất chấp phản ứng của “đối tượng” như những phụ nữ Tây Phương dạn dĩ được.

“Có những tuổi thơ nay đã xa vời
Anh đã lớn và em không còn bé
Nhưng tại sao chỉ một lời nói khẽ
Ba tiếng thôi mà không ghép thành câu?

Có những điều em chẳng nói được đâu
Rất đơn giản vì em là con gái
Vì trái tim luôn đặt ở bên trái
Nên em sợ mình sai lầm…biết đâu…”

Hai khổ thơ tiếp theo mang đầy tâm trạng, như có gì trách móc, giận hờn lại vừa như có gì lo sợ, thẹn thùng. Cô gái trách chàng trai sao chỉ có ba tiếng ấy mà chàng không ghép được thành câu, rằng cô là con gái vì thế mà “em chẳng nói được đâu”. Không chỉ là trách móc, tâm trạng cô gái còn chứa một sự thấp thỏm vì cô thực sự không hiểu ý chàng “Nên em sợ mình sai lầm…biết đâu…”. Rồi sau tất cả những giằng xé của yêu thương mà không dám ngỏ, mà sợ không được đáp lại, bài thơ kết thúc bằng hai câu:

“Có một điều em đợi từ rất lâu
Dù biết chắc: Chẳng bao giờ anh nói!”

“Em” đã thầm mong “anh” sẽ nói điều ấy với “em” từ rất lâu rồi, vậy mà… Hai câu kết của bài thơ như một sự khép lại bởi lời khẳng định: “Dù biết chắc: Chẳng bao giờ anh nói!”, không còn gì nữa, “em” tin chắc là không thể hi vọng điều gì nữa. Nhưng thế thì cô gái có chờ nữa không? Câu hỏi này tôi tự đặt cho mình rồi cứ day dứt mãi về nó. Tôi vừa mong cô gái hãy quên đi hình bóng ấy để đón chờ một tình yêu mới thực sự dành cho cô, lại vừa mong cô hãy chờ thêm chút nữa để rồi một ngày gần đây, khi đọc những dòng này chàng trai kia sẽ hiểu và đáp lại tấm lòng của cô; rồi câu chuyện của họ lại là một chuyện tình kết thúc có hậu. Biết đâu rằng chàng trai lại chẳng trách yêu cô gái bằng câu hát: “em yêu anh rồi sao em chẳng nói?...”

Đấy, ai dám bảo tình yêu như thế là không mãnh liệt, không cháy bỏng? Phải yêu dạt dào lắm “em” mới có thể thốt nên những lời thơ tha thiết như vậy. Cái ý nhị là ở chỗ này đây, chẳng có một lời yêu nào được nói ra, nhưng “em” biết, “anh” biết và người đọc biết rằng… rằng… r ằng “Em y êu anh!” và em mong lắm anh hãy nói đi, nói với em “ba tiếng thôi” ngọt ngào.

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Xa cách - 07.06.2008 23:10:53
XA CÁCH
 
Nguyễn Bính

Nhà em cách bốn quả đồi,
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng;
Nhà em xa cách quá chừng,
Em van anh đấy, anh đừng thương em”

LỜI BÌNH:

Bài thơ chỉ vẻn vẹn có bốn câu mà làm tôi liên tưởng đến hình ảnh của cả một làng quê với những cô thôn nữ e ấp. Để nói lên sự cách trở giữa hai người cô gái đã mượn quả đồi, ngọn suối, cánh rừng làm những “chướng ngại vật”. Không hiểu rằng sự cách trở này chỉ đơn thuần là cách trở về địa lý hay còn có những khó khăn không thể vượt qua giữa cô gái và chàng trai bởi “chim vào lồng, cá cắn câu…” nhưng tôi muốn cảm nhận bài thơ theo hướng rằng ấy là chỉ bởi đường xa hay bởi nàng mượn cớ đường xa mà nói thôi.

“Em van anh đấy, anh đừng thương em”, chắc hẳn trong tim cô gái cũng có chút gì đó dành cho chàng trai, bởi thế mà cô phải “van” anh đừng có thương em; “van” là một động từ vừa có tính cầu xin vừa như một lời năn nỉ. Phải chăng cô gái “van” chàng là bởi cô sợ rằng nếu chàng cứ thương thì rồi cô cũng sẽ… đến thương chàng mà thôi. Vậy là cô gái đã từ chối tình cảm của chàng trai nhưng vẫn thể hiện cho chàng biết rằng ấy là tại “Nhà em xa cách quá chừng” chứ chẳng phải tại lòng em hẹp hòi với anh. Từ chối như thế thì làm sao chàng lại đành lòng “ngại núi e sông” mà không đến với nàng, mà không “thương” nàng cơ chứ. Đấy, e ấp, ý vị là ở chỗ này đây, mà chan chứa yêu thương cũng là ở chỗ này đây!

Tôi đã có lần đem so sánh thơ Nguyễn Bính với các món ăn miền quê như tương, cà… và thầm cười cái tâm hồn ăn uống qúa “lớn” của mình. Thế nhưng, thật sự là thơ Nguyễn Bính trong tôi cũng có cái ngon lành, cái hấp dẫn và sự quen thuộc đến không thể dứt bỏ được như những món ăn “quê mùa” (nhưng bây giờ là “đặc sản” rồi!), lâu ngày không ăn là nhớ, là thèm đến bứt rứt.

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Em chẳng đẹp đâu - 07.06.2008 23:23:05
*** EM CHẲNG ĐẸP ĐÂU ***
- Đặng Hấn -
Em ơi! em chẳng đẹp đâu
Không tin cứ lấy gương tàu mà soi
Ừ thì có thắm làn môi
Ừ thì hai núm má cười, đã sao?
Thông minh, trán tất nhiên cao
Đã là con gái mắt nào chẳng xanh?
Kể chi suối tóc mát lành !
Cứ lười không cắt, tóc anh cũng dài
Bảo em son phấn là sai
Nhưng trời nắng đẹp, má ai chẳng hồng!
Chưa già, tất phải trẻ trung
Chị anh hồi sắp lấy chồng, chả thua!
Sao lại cười, rõ lạ chưa?
Hay là em ngỡ anh đùa trêu nhau?
Thật đấy mà, chả đẹp đâu!

 
Lời bình:
 
Tôi đã đọc nhiều bài thơ tả về nét đẹp của người con gái, nhưng đọng lại trong lòng tôi lại là một bài thơ của Đặng Hấn với một tựa đề rất ngộ nghĩnh: Em chẳng đẹp đâu.
Ta cứ thử hình dung có một chàng trai ngồi nói chuyện với một cô gái, đang vui vẻ thì bất chợt chàng cất lời:
"Em ơi em chẳng đẹp đâu
Không tin cứ lấy gương tầu mà soi!"

Không gian sẽ chùng xuống, cô gái bối rối vì chưa ai nói với mình như thế cả. Có thể cô sẽ nghĩ thầm "rõ khéo chàng này vô duyên tệ". Chàng trai phớt lờ cái nhìn ngạc nhiên của cô gái và tiếp tục chứng minh vì sao chàng nói như thế:
"Ừ thì có thắm làn môi
Ừ thì hai má lúm cười đã sao?
Thông minh, trán tất nhiên cao
Đã là con gái, mắt nào chẳng xanh
Kể chi suối tóc mát lành
Cứ lười không cắt, tóc anh cũng dài!
Bảo em son phấn là sai
Nhưng trời nắng đẹp má ai chả hồng?"

Người đọc có thể hình dung ra má của cô gái sẽ ửng hồng lên vì hạnh phúc khi nghe chàng thất lên những lời này. Thì ra là chàng khen ta đấy, khen mà tỏ vẻ là không quan tâm đến những nét đẹp của ta. Nhà thơ đã tạo cho mình một phong cách viết thật độc đáo, viết mà như không viết. Câu chữ rất tự nhiên nhưng lại rất thâm thuý. Ừ thì "em chẳng đẹp đâu" bởi môi thắm, má lúm đồng tiền, mắt xanh, suối tóc dài... đều là những thuộc tính tự nhiên của người con gái.
Sau khi kể ra một loạt điều chứng minh em không đẹp, có lẽ cảm thấy lời nói mình chưa thuyết phục cô gái lắm nên chàng trai hùng hồn tuyên bố tiếp:
"Chưa già tất phải trẻ trung
Chị anh, hồi sắp lấy chồng chả thua"

Đến đây thì cô gái dù có khó tính, hay chậm hiểu đến mấy cũng sẽ không giấu nổi nụ cười, vì biết chàng đang đùa, đang trêu mình. Chàng trai thấy cô cười thì biết mình đã thành công rồi nhưng vẫn giả vờ nghiêm nghị:
"Sao lại cười, rõ lạ chưa?
Hay là em ngỡ anh đùa trêu nhau"

Câu thơ thật tự nhiên làm người đọc cảm thấy chàng trai đang thú nhận với cô gái rằng "Nãy giờ anh chỉ đùa trêu em thôi. Thật ra anh đang ngợi ca nhan sắc của em đấy!"
Bài thơ khép lại bằng lời khẳng định "Thật đấy mà, chả đẹp đâu" và chắc chắn chàng trai sẽ được nhận một ánh mắt sắc như dao cau của cô gái. Ta như nghe được tiếng cười cố nén lại của chàng trai trong câu nói này.
Yêu nhau, ca ngợi nhan sắc của người mình yêu là chuyện thường tình. Nhưng Đặng Hấn đã ca ngợi theo cách riêng của anh, độc đáo và hóm hỉnh làm cho người đọc thích thú. Những câu thơ rất nhẹ nhàng và tự nhiên nhưng lại cuốn người đọc vào trong đó. Chỉ là thơ thôi nhưng khi đọc vào ta như nghe cả tiếng cười khúc khích của cô gái, cảm nhận được giọng cười cố nén của chàng trai. Chỉ là thơ thôi nhưng khi đọc ta sẽ thấy từng thay đổi trên nét mặt ngừơi con gái, từ ngạc nhiên, ngơ ngác đến bối rối thẹn thùng và vẻ mặt nghiêm nghị một cách hài hước của chàng trai nữa. Chỉ là thơ thôi nhưng ta có thể "nghe" và "thấy", ít có tác giả nào lại thành công đến thế! Không biết bạn cảm thấy thế nào chứ riêng tôi cảm thấy đây là bài thơ thật tuyệt.


Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Dạ khúc - 10.06.2008 14:53:58

Dạ khúc - Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có buổi chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
Cho tôi  chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy


Ngọt ngào như trái nho tươi
Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi
Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như là chiếc bóng
Hoa tàn một mình em không hay
 
Bình thơ:
 
 
Có lẽ những ai đã từng đọc những trang tùy bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng sẽ không thất vọng khi đọc thơ tình của ông. Rất trong sáng, dịu nhẹ, bâng khuâng...
Dạ khúc là một câu chuyện tình được kể bằng những vần thơ. Câu chuyện có anh, có em, có khởi đầu, và có kết thúc. Lần đầu tiên đọc bài thơ này, tôi đã ngạc nhiên, không hiểu vì đâu một bài thơ đầy ắp những buổi chiều như thế, lại có tên là Dạ khúc.
Cái tên của một bài thơ bao giờ cũng thâu tóm cái thần, cái cốt lõi nhất của bài thơ đó. Với tôi, Dạ khúc là khúc đêm, là một khoảng lặng tĩnh tại, hoang vắng. Thế mà một bài thơ với sáu khổ thơ, sáu buổi chiều, sáu khúc ca hoài niệm lại có tên Dạ khúc !
Nhưng khi đọc trở lại bài thơ tôi đã nhận ra rằng quả thực nhà thơ đã vô cùng hữu ý khi đặt cho bài thơ cái tên đó. Sáu khổ thơ bắt đầu bằng sáu sự tìm kiếm “có buổi chiều nào như chiều …”, với thời gian kéo dần từ quá khứ xa đến hiện tại. Sự lặp lại đó đã tạo cho âm hưởng chung của bài thơ, đó là sự - lần - tìm - kỉ - niệm. Cũng vì sự lần tìm kỉ niệm ấy mà người đọc biết, câu chuyện tình đó đang qua hoặc  đã qua rồi.
Sự vận động mãnh liệt của dòng thời gian qua các khổ thơ cũng là sự vận động mãnh liệt của cảm giác con người trong tình yêu, từ lúc khởi đầu đến khi kết thúc. Anh và em đã cùng đi qua những buổi chiều, từ buổi chiều xưa, đến buổi chiều qua, và những buổi chiều chỉ có thể gọi tên bằng kỉ niệm “buổi chiều người bỏ vui chơi” “buổi chiều mộng mị vây quanh” “buổi chiều hình như chưa nguôi” , những buổi chiều hạnh phúc, chỉ cho đến một buổi chiều nay, buổi chiều mà lần đầu tiên bóng tối đã đến.
Câu thơ “căn phòng anh bóng tối dâng đầy” là một câu thơ vô cùng tinh tế. Không phải là bóng tối phủ ngập căn phòng mà là bóng tối đang dâng lên, đang xâm lấn dần những khoảng không ánh sáng, thứ ánh sáng của hạnh phúc tình yêu mà con người vẫn chìm đắm. Trong căn phòng ấy , vẫn có anh và em, nhưng hai người dường như đã bị đẩy lùi về hai đầu thế giới mà sợi dây kết nối duy nhất là tình yêu đã không còn.
Hình ảnh “hoa tàn” vô cùng gợi cảm, bởi lẽ chỉ cần hình ảnh đó mà người đọc cảm nhận có một tình yêu vừa đã qua đi, vừa đã tàn lụi. Bông hoa tàn lụi trong bóng tối, như sự kết thúc lặng lẽ của một mối tình. Và người đọc biết rằng sẽ không còn có thể tìm thấy một buổi chiều nào nữa, chỉ còn là bóng tối miên viễn, buồn rầu…. Phải chăng vì lẽ đó, bài thơ có tên “dạ khúc”?
Từ trước đến nay, nhớ đến thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi hay nhớ đến những nàng tiên “quì ôm cát bụi khóc òa như mưa”, nhớ tới những miền không gian giao thoa giữa trần gian và tiên giới… Nhưng Dạ khúc lại là một tình yêu rất đời, rất trẻ, và cũng đầy cảm thông da diết. Nét tài hoa quen thuộc của Hoàng phủ Ngọc Tường, ta vẫn tìm thấy trong những hình ảnh trong sáng, hoặc mơ màng một vẻ đẹp liêu trai. Đó là một bông hoa xuân thì, là vành mi cong hờn dỗi, là mớ tơ xanh, vầng trăng nhân chứng,hay cả lời thề dâng hiến …
Bài thơ là một mối tình đã vỡ, với những dự cảm ngay từ ban đầu, khi chàng trai say đắm trong nụ hôn, anh đã biết “nỗi đau bắt đầu từ đấy” đã biết tình yêu luôn là nơi phát khởi của những nỗi đau. Nhưng đó là nỗi đau đớn ngọt ngào mà ít người chối từ được nó. Và vì lẽ đó, khi bài thơ kết thúc, nó không quá cay đắng, không quá xót xa, mà chỉ là một cảm giác luyến tiếc xa vắng, lặng lẽ….
Rất nhiều bạn trẻ đã chép trong những trang thơ của mình bài thơ Dạ Khúc, và tìm thấy ở đó sự đồng cảm, sẻ chia. Với một bài thơ, một nhà thơ, có còn cần gì hơn thế?

Nguyễn Thu Thủy
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2008 14:56:36 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Đêm sao sáng - 10.06.2008 15:16:36

Đêm sao sáng
(Nguyễn Bính)

Đêm hiện dần lên những chấm sao
Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao
Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh
Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?

Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu
Thấy con vịt lội giữa dòng sâu
Sao Hôm như mắt em ngày ấy
Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu

Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi
Lộng lẫy uy nghi một góc trời
Em ở bên kia bờ vĩ tuyến
Nhìn sao thao thức mấy năm rồi...

Sao đặc trời cao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.
Lời bình:

Nguyễn Bính viết bài thơ năm 1957 tại Hà Nội. Bấy giờ đã là ba năm kể từ ngày cán bộ ta tập kết ra Bắc, với hy vọng chỉ một vài năm - thông qua Tổng tuyển cử cả nước - nhân dân hai miền Nam - Bắc sẽ được sum vầy (theo tinh thần hiệp định Giơnevơ). Nhưng khả năng ấy đã trở nên ngày một diệu vợi. Tiến trình thống nhất đất nước bị ngăn trở! Không phải vô tình mà hầu hết những nhà thơ sinh trưởng, hoặc từng gắn bó với mảnh đất, con người miền Nam đã bắt đầu róng riết cất lên tiếng kêu của nỗi đau chia cắt. Ta có thể đọc thấy ở Xuân Diệu: Đất nước trong tôi là một khối/ Dòng sông Bến Hải chảy qua tim; ở Tế Hanh: Như đất nước: lòng ta chưa thống nhất/ Em ở đâu rồi, em ở đâu?
Nguyễn Bính, mặc dù quê gốc Nam Định, nhưng một thời gian dài trước và sau Cách mạng Tháng Tám đã sinh sống và hoạt động ở Nam Bộ, từng có lúc ông được chỉ định làm Phó chủ nhiệm Tình bộ Việt Minh Rạch Giá (cũng tại đây, ông lấy vợ và sinh được hai cô con gái). Nỗi đau ấy không phải không xuất phát từ một nguyên cớ trong trái tim nhà thơ:
Đêm hiện dần lên những chấm sao
Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao
Đây là một quan sát khá tinh. Hợp lý thôi: trước khi sao mọc, trời đất còn nhòa một khối, lẫn với bóng đêm. Ánh sáng những vì sao như những vệt dấu làm ta phân định rõ ranh giới trời - đất. Ánh sáng bung nở làm vòm trời như được "nâng" hẳn lên, thậm chí: Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh, dù rằng, trời càng sáng thì - như một nghịch lý - mắt nhà thơ lại mờ đi trong tâm trạng thất vọng, nhung nhớ: Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?
Không biết tự bao giờ, và ai là người đầu tiên nhìn dải sao trời ấy mà đặt tên dải Ngân Hà. Rồi sao Thần Nông, rồi cầu Ô Thước? Cách gọi của Nguyễn Bính không thêm gì mới nhưng nó hợp với những điều ông đang nghĩ ngợi và xa xót. Đất nước cắt chia. Ranh giới hai miền Nam - Bắc (đúng ra là hai chế độ chính trị khác biệt) được phân định bởi một con sông. Và, chiếc cầu Hiền Lương đã trở thành biểu tượng của sự ngăn cách ấy: Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh/ Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?... Có lẽ hai câu thơ thứ 7, thứ 8 sẽ làm sáng tỏ hơn nguyên do tại sao nhà thơ lại có những liên hệ này: Sao Hôm như mắt em đêm ấy/ Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu.
"Ngày ấy"- đã ba năm trôi qua. Ai đâu hay đã ngàn ngày có lẻ, nhà thơ - và biết bao con người khác nữa - sống trong tâm trạng "đêm Nam ngày Bắc", chưa kể ở trong ấy, ở "bên kia bờ vĩ tuyến", em cũng Nhìn sao thao thức mấy năm rồi...
Khổ thơ thứ ba có lẽ là khổ thơ "lộ ý" nhất toàn bài. Không có nó, bài thơ sẽ chỉ là một thi phẩm được viết theo hướng cũ "hiện thực phê phán", chứ chưa phải "hiện thực xã hội chủ nghĩa". Bởi thế mà ta bắt gặp ở đây hình ảnh Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi/ Lộng lẫy uy nghi một góc trời... Chỉ có điều, trong khổ thơ này của Nguyễn Bính, ý thơ cứng nhưng điệu thơ mềm. Giọng thơ đọc lên thấy bùi ngùi (Có lẽ do những chữ cuối câu trong toàn bài hầu hết tác giả dùng thanh bằng, và chữ cuối của câu thơ cuối khổ là dấu huyền nên âm điệu bao giờ cũng chùng xuống khi hết một khổ). Và bởi thế mà khổ thơ trên bao giờ cũng tràn xuống khổ dưới:
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Đến đây, ở đây, nhà thơ đã học cách nói dân gian để biểu lộ tình cảm trước sau như nhất của mình. Trước Nguyễn Bính, trong bài thơ Ta đi tới viết tháng 8-1945, Tố Hữu cũng đã nhấn mạnh ý đó thông qua một cách nói dân gian khác: Dù ai rào giậu ngăn sân/ Lòng ta vẫn giữ là dân cụ Hồ. Bây giờ lại đến Nguyễn Bính - thông qua hình ảnh những ngôi sao chi chít, dày đặc, đoàn tụ trên trời mà - cùng với các đồng nghiệp - "tập kết" ý tưởng của mình. Chỉ lạ, đến hai câu cuối: Trời còn có bữa sao quên mọc/ Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em... "hệ câu chữ" vẫn thống nhất (trên sao, dưới vẫn nói về sao), nhưng rõ ràng có một nhánh nhỏ được tách ra từ đây, nó thể hiện tâm trạng đơn lẻ của tác giả: ông vẫn ghì riết lấy nỗi niềm riêng nhớ nhung của mình (dù rằng nó được đặt trong bối cảnh chung của đất nước). Điều này cho thấy có một cái gì đó "bất kham" ở con người Nguyễn Bính. Độc giả hiểu và đồng cảm với nhà thơ, bởi dẫu sao trong số những bài thơ gắn với chủ đề đấu tranh và thống nhất đất nước, Đêm sao sáng vẫn là một trong những bài thơ đi sâu được vào lòng người, dù rằng trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Bính, có thể nó chỉ được xếp vào loại "bậc hai" mà thôi.

(Phạm Nhật Linh)
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Nhà chật - 11.06.2008 11:31:47
 Nhà chật
Lưu Quang Vũ

Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi
Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo
Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình

Nhà chật như khoang thuyền nhỏ hẹp giữa sông
Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống
Phải bỏ hết những gì không cần thiết
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hành lý của mình

Khoảng không gian của anh và em
Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác
Anh không giấu em một nghĩ lo nào được
Ta chỉ có mấy thước vuông để cùng khổ cùng vui

Anh ngẩng lên là ở cạnh em rồi
Bạn thuyền ơi, ngoài kia chiều lộng gió
Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ
Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời

Lời bình:

Có lẽ, phải đến thế kỷ này, song song với việc gia tăng dân số, nhu cầu nhà ở đã trở nên bức bách đối với mỗi con người và trở thành vấn đề nan giải của toàn xã hội... Lưu Quang Vũ từng có những vần thơ ca ngợi thành phố nơi anh sinh trưởng: "trải bao đời thành phố có nhà tôi". Hay đâu, cũng chính bởi "trải bao đời" mà căn phòng anh ở chỉ còn là một ô ngăn, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa một khu dân cư náo nhiệt.
Căn phòng hẹp, thật hẹp! Đến độ, sống trong căn phòng ấy, người ta không còn biết cách sao giấu được thái độ, tâm trạng của chính mình:
"Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác
Anh không giấu em một nghĩ lo nào được"
Thậm chí, hơn thế nữa:
"Nhà chỉ mấy thước vuông sách vở xếp cạnh nồi"
Thì ra, cuộc sống đã nhắc người ta phải biết giữ thăng bằng. Sách vở - Nồi niêu tưởng xa lạ với nhau, ấy vậy mà lại có quan hệ "hữu cơ". Thi hào Đức Hai-nơ từng vẽ ra một xã hội tương lai: đó là xã hội của hoa hồng, bánh mỳ và thơ ca. Dĩ nhiên, để giữ được một cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống "hoa hồng" thì người ta cần phải có thơ ca và cũng cần phải có cả... bánh mỳ. Ngay đến giấc mơ của con người cũng có thoát ra ngoài thực tế được đâu:
"Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo"
Trước kia, Xuân Quỳnh có câu thơ được nhiều người thích:
"Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức"
Chính nỗi lo toan thường nhật đã khiến trong giấc mơ người ta vẫn làm chủ được trạng huống của mình. Đành vậy, biết sao được! "Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo" Cùng chung tồn tại trên một khoảng tường, dưới cái đinh của "chủ nghĩa hiện thực" là "bộ vỏ", là thân xác và cốt lõi của tâm hồn.
Như vậy là, với các biểu tượng đối lập: sách vở-xong nồi, tranh treo-áo phơi (khổ đầu), thuyền-sông, căng buồm-nấu cơm, đi và sống (khổ giữa), cửa sổ (gian phòng) và mắt em _ cửa sổ tâm hồn (khổ cuối), Lưu Quang Vũ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người bài trí sân khấu và gây dựng tình huống cho vở kịch. Độc giả đã nhận ra được phần nào khả năng liên tưởng của anh. Tuy nhiên, nếu nói về sự ví von, thì sự ví von hay nhất và cảm động nhất vẫn là:
"Nhà chật như khoang thuyền nhỏ hẹp giữa sông"
Ngôi nhà này không thuộc dạng "bất động sản". Ngoài ý nghĩa là nơi trú ngụ của con người, nó còn phải có "chức năng" đưa chủ nhân của mình tới những bến bờ xa xăm: "Vừa căng buồm để đi vừa nấu cơm để sống". "Con thuyền" ấy phải chịu tác động của giông bão bầu trời cũng như của nghìn trùng sóng nước. Thậm chí nó có thể bị chìm, bị đắm nếu con người không biết "bỏ hết những gì không cần thiết" trong "hành lý" của mình.
Tuy nhiên, với lá buồm được căng lên bằng tâm hồn đầy khát vọng và với chiếc neo của trái tim sâu nặng nghĩa đời, con thuyền ấy đã vượt qua bao thác ghềnh.
Tiếc thay, trên con đường từ sông ra biển, cách đây gần chục năm, con thuyền ấy đã mắc cạn bên một chiếc cầu... Tai nạn giao thông ập đến bất ngờ đã cướp đi một gia đình nghệ sĩ tài hoa!
Qua bài thơ, Lưu Quang Vũ muốn giãi bày với chúng ta một hoàn cảnh, nhưng trên hết là một phương châm sống, một cách vượt lên gian khó đời thường.
Phạm Khải (1997)

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.06.2008 11:40:13 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Hai quả hồng - 11.06.2008 12:10:57
HAI QUẢ HỒNG
(Vũ Nho)

"Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều"
 
Lời bình:

Người gì mà quái lạ đến như vậy? Ca dao đã từng nói đến chuyện có vẻ lạ lùng:
"Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này"
Hoặc quá hơn chút nữa:
"Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nắm tơ tưởng nghĩ ông láng giềng".
Nhưng người đời rồi cũng chấp nhận. Còn người đàn bà này lại cư xử với chồng như thế thì không thể nào... thương được! Rành rành đây là cách ăn ở cư xử của một người và cũng là một loại người thiếu chính chuyên, được đưa ra đây để mọi người chê bai, diễu cợt, làm gương cho khách hồng quần.
Bao năm nay, người viết bài này vẫn yên tâm với cách hiểu như vậy. Nhưng gần đây ngẫm lại, chợt nhận thấy hình như mình thiếu công bằng và khắt khe.
Người con gái này không yêu chồng hoặc yêu chồng ít hơn yêu trai thì đã hẳn. Nhưng chúng ta đừng vội đem ngay luân lý đạo đức ra kết án cô mà tội nghiệp. Trên đời này có người phụ nữ nào lại không muốn yêu chồng, thương con. Nhưng chẳng may lấy phải người chồng chẳng bao giờ yêu mến thì làm sao mà yêu cho được? Cái thời của những câu ca dao là cái thời "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" thì những chuyện trái duyên không phải là hiếm hoi. Có bao nhiêu cảnh cọc cạch: "chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng". Có bao nhiêu trường hợp chồng chỉ là một "ông lão móm", cô gái "lấy cho qua lần thì thôi". Hay đây nữa một anh chồng:
"Chồng em vừa xấu vừa đen
Vừa kém con mắt vừa hèn chân đi
Chồng em rỗ sứt rỗ sì
Chân đi chữ bát mắt thì ngưỡng thiên".
Người chồng bị ép gả như thế làm sao cô gái có thể yêu cho được? Ông chồng đó chỉ là người được ràng buộc vào cuộc đời người con gái bằng tập tục, lễ giáo mà thôi. Chồng của cô gái này chắc cũng là một người như thế. Còn người được gọi là "trai" đối lập với ông chồng kia là ai? Dĩ nhiên, đó là người không lấy được cô, là người không được thừa nhận trong giấy tờ là chồng. Nhưng có thể anh chính là người bạn "biết nhau từ thuở buông thừng", anh chính là người trai làng mà cô đã từng hò hẹn thề nguyền. Chỉ tại bác mẹ, tại mối manh, tại bao nhiêu trắc trở mà cô không lấy được anh. Nhưng tình xưa vẫn còn nguyên đó, "dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng". Làm sao có thể ngăn được lòng cô vẫn hướng về anh? So ra, người khác còn quyết liệt hơn cô nhiều:
"Ví dù thầy mẹ đan rọ thả trôi
Thả trôi thì thả, lòng tôi vẫn thương chàng"
Còn cô không dám cưỡng lại tập tục, cô đi lấy người chồng mà mình không yêu. Vậy nên cô mới cư xử với trai hậu hơn với chồng, dành phần hơn cho cái người không phải là chồng về danh nghĩa nhưng là chồng trong tình cảm, trong tâm trí của cô.
Điều đáng nói ở đây là đức hy sinh của cô gái này và sự nhân hậu vốn như là bản tính tự nhiên trong tấm lòng phụ nữ. Anh chồng, tuy cô không yêu, nhưng cô vẫn dành cho anh ta một trái, dù là trái hồng chát. Và dù cô không yêu, nhưng cô vẫn dành cho anh ta một phần tình thương chứ không phải "bỏ rơi" tuyệt đối. Duy có bản thân mình thì cô chẳng dành cho mình một chút gì hết. Hai quả hồng, cô đem cho cả hai người. Tình thương cô cũng dành chia cho hai người tất cả. Cô chẳng giữ lại chút gì cho mình, cô chẳng hề nghĩ về mình. Mặc dù hoàn cảnh của cô chắc chắn là hết sức ái ngại, đáng thương.
Dân tộc ta quả thật là nhân ái và độ lượng!
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Tâm sự nàng Thúy Vân - 11.06.2008 14:30:21
Tâm sự nàng Thúy Vân

Trương Nam Hương
Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim.
Ơ kìa sao chị ngồi im
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chị làm chồng
Ðời em thể thắt một vòng oan khiên

Sụt sùi ướt cỏ Ðạm Tiên
Chị thương kẻ khuất, đừng quên người còn
Mấp mô số phận vuông tròn
Ðất không thể nhốt linh hồn đời yêu!

Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh đâu đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Ðường

Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lừa con tim

Em thành vợ của chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy đến nỗi khát khao
Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu?


Tôi chú ý đến cái tên Trương Nam Hương từ khi đọc "Tâm sự nàng Thuý Vân" cách đây vài năm. Hai mươi tư câu lục bát cuốn hút tôi từ đầu đến cuối. Không một chữ thừa. Toàn bài là một sự dồn nén, dồn nén đến tức tưởi, để rồi vỡ dần, vỡ dần, hiện ra một bi kịch trọn vẹn. Truyện Kiều là một chuỗi những bi kịch nối tiếp nhau, những "cung gió thảm mưa sầu" xoay quanh cuộc đời nàng Kiều. Nhưng bên cạnh đó còn ẩn sâu một bi kịch mà chỉ đến Trương Nam Hương mới được phát hiện, khai thác:

Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim!

Ðọc Truyện Kiều, người ta thường ít chú ý đến Thuý Vân. Bởi so với cô chị tài sắc mà bạc mệnh, số phận của cô em xem ra may mắn, suôn sẻ mọi bề. Có nhà phê bình thời xưa nặng lời khi đánh giá nàng "Thuý Vân như một khối đá trơ... chỉ để làm bà quan là hợp..." Người ta quên rằng nàng cũng là một người con gái có tâm hồn, có tình cảm. Trong cuộc đời không chông gai như chị song nàng cũng mang niềm đau khổ khó ai thấu hiểu. Trương Nam Hương đã nói hộ tâm sự của nàng:

Lấy người yêu chị làm chồng
Ðời em thể thắt một vòng oan khiên

Ta còn nhớ, Thuý Vân nhận lấy Kim Trọng bởi lời nhờ cậy "trao duyên" của Kiều. Nàng lấy chồng như một nghĩa cử, cốt cho yên lòng người chị đau khổ. Người chồng ấy- chàng Kim- dù sống với nàng nhưng vẫn canh cánh bên lòng mối tình sâu nặng với Kiều:

Khi ăn ở, lúc ra vào
Càng âu duyên mới, càng đào tình xưa

Tâm tình ấy, dù là người vô tâm nhất cũng nhận ra Thuý Vân làm sao không chạnh lòng, tủi phận! Có người nói: Cái gì cũng có thể chia sẻ, trừ tình yêu. Tình Kim- Kiều chẳng thể san sẻ cho nàng Vân. Còn Thuý Vân, nàng cũng chưa bao giờ yêu Kim Trọng. Cái buổi gặp gỡ trong tiết Thanh minh, tuy "hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa" nhưng "tình trong như đã, mặt ngoài còn e" thì chỉ có Kiều với Kim. Cho nên:

Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim!

Chấp nhận làm vợ Kim Trọng, thay chị trả nghĩa cho chàng, nhưng Thuý Vân không thể dập tắt niềm khao khát được sống được yêu như mọi người con gái bình thường. Bởi vì, đến "máu còn biết chảy về tim để hồng" kia mà! Hai câu thơ tiếp sau như một lời trách cứ:

Sụt sùi ướt cỏ Ðạm Tiên
Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn

Chị đa cảm, thương người lắm, chị đừng quên đứa em, đã hy sinh cho chị, sống một cuộc hôn nhân không tình yêu! Trách cứ dồn nén lại để vỡ oà hai câu thơ rất tài tình:

Mấp mô số phận vuông tròn
Ðất không thể nhốt linh hồn đời yêu!

Tôi yêu nhất hai câu thơ này. Bao nhiêu tài hoa, tình cảm dồn đúc nên mười bốn chữ ấy. Có lẽ Trương Nam Hương là người đầu tiên tạc nên hình ảnh "mấp mô số phận". Phải chăng tác giả muốn gợi đến những nấm mồ, mỗi nấm mồ là một số phận không ai giống ai, long đong, khúc khuỷu, nhọc nhằn. Ðất đen đã chôn kín kiếp người nhưng không thể chôn vùi những linh hồn cháy bỏng khát khao yêu đương. Thế thì em, làm sao có thể chôn vùi niềm khao khát ấy bên chuyện tình của chị, chị ơi! Từng chữ trong câu thơ như linh hồn muốn phá tung song sắt của định mệnh để sống và yêu hết mình. Ðây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, đầy biểu cảm của Trương Nam Hương.

Thuý Vân hiểu rõ cuộc đời oan khổ của chị. Nàng thương chị vô ngần:

Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Ðường

Nhưng chị còn hạnh phúc hơn em:

Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim

Câu thơ như một tiếng nấc xót xa tức nghẹn "Tiết trinh- thương chị- đánh lừa trái tim". Chị đã yêu và được yêu. Còn đó vầng trăng vằng vặc chứng giám tình yêu của chị. Còn em, em chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ được thế. Vì thương chị mà em phải đánh lừa trái tim biết yêu và khao khát tình yêu đích thực của mình để thành vợ người yêu chị. Nỗi đau của em, chị có thấu chăng? Bi kịch của Thuý Vân đã lên đến đỉnh điểm. Nỗi đau dồn vào từng chữ nặng như chị, nhức nhối, xoáy sâu vào tim óc. "Tiết trinh thương chị- đánh lừa trái tim". Oan khốc đổ xuống đầu gia đình Kiều không chỉ làm cho một người con gái phải lìa bỏ người thân yêu, dấn mình vào kiếp giang hồ nhục nhã, xé nát trái tim "trong giá trắng ngần" mà còn khiến một người con gái khác phải "đánh lừa trái tim" mình, dìm sâu nỗi khao khát sống và yêu để trọn tình với chị. Có cái gì như một lời phản kháng, gào thét trong lặng lẽ, căm uất, nghẹn ngào bật lên trong câu thơ.

Bài thơ kết lại bằng một câu hỏi day dứt, quặn lòng:

Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu?

Câu hỏi vọng vào không gian và thời gian. Biết đến kiếp nào em mới được yêu, chị Kiều ơi! Kiếp này em đã là vợ chàng Kim, làm tròn việc thừa gia, trả nghĩa. Nhưng đến bao giờ, bao giờ em mới được một lần dưới "vầng trăng lấm mùi hương hẹn hò" như chị đã từng được thế?

Bài thơ khép lại, mà dư âm về nỗi đau, nỗi khát khao của nàng Vân vẫn đọng mãi trong lòng người đọc. Ðọc "Tâm sự nàng Thuý Vân" ta hiểu thêm một bi kịch mà xã hội Truyện Kiều đã gây ra. Không rõ rệt trào sôi như những thảm cảnh trong đời nàng Kiều, nhưng sâu sắc lắng đọng, day dứt và ám ảnh, Trương Nam Hương đã mở ra tấn bi kịch ấy một cách tài hoa. Cái tài ấy xét cho cùng, chính là cái tình của anh với Truyện Kiều, với nàng Vân tưởng như chìm khuất bên Kiều, nhưng tâm anh đã soi một ánh sáng mới vào hình ảnh ấy. Như Nguyễn Du đã viết:

"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"

Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
RE: Về với ruộng đồng - 11.06.2008 14:39:46
Về với ruộng đồng

Trần văn Lợi


Mỏi mê với chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
Thôi ta về với ruộng đồng
Lại gieo tục ngữ, lại trồng dân ca.

Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
Thong dong rau mắm,nhẩn nha mùa màng
Tiếng chào mở lối dọn làng
Bát cơm gạo mới thơm sang láng giềng

Cõi người là chốn thiêng liêng
Quê hương là chốn bình yên đời mình
Bao lời bia đá anh linh
Khói hương thơm suốt nghĩa tình thế gian

Bến sông ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn,âu lo
Lợi danh một thực, mười hư
Trăm điều khao khát cũng phù sa trôi

Nắng mưa vun xới tuổi đời
Tình quê bồi đắp vào nơi sâu đằm
Ta về hát khúc trăm năm
Gối lên tiếng ếch mà nằm chiêm bao

Bình thơ :

Mãi bon chen giữa cuộc đời bận rộn, đầy rẫy lo toan, bộn bề ích kỷ, có khi nào, mỗi chúng ta chợt nhớ và thèm được trở về một vùng trời bình yên – một quê hương để thương để nhớ:
Mải mê với chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
Cái sự “mỏng”, sự “nông” mà tác giả nói đến phải chăng là thước đo cái quan hệ người – người ? Đáng buồn thay, ngay cả những cử chỉ đơn giản nhất để biểu hiện tình người kia lại “mỏng”, lại “nông” đến thế sao ? Thì “thôi ta về với ruộng đồng, lại gieo tục ngữ, lại trồng dân ca”.
Đôi chân bôn ba trên đường đời giờ đã mỏi, đây là lúc trở về. Về với ruộng đồng bao la bát ngát, về với lũy tre làng dày mịt, về với giếng làng sâu thăm thẳm. Nơi đó ta cùng gieo trồng ca dao, tục ngữ. Ôi, vui sướng biết bao nhiêu ! Hình ảnh của dòng sữa dân gian mát lành lại được gắn với những động từ “gieo”, “trồng” làm cho ý thơ thêm mộc mạc, quê mùa mà lại thanh bạch, sáng trong. Ở đó, tình quê luôn lai láng:
Thỏa thuê cùng với cỏ hoa,
Thong dong rau mắm, nhẩn nha mùa màng
Tiếng chào mở lối dọn làng
Bát cơm gạo mới thơm sang láng giềng
Thật là một chốn yên bình ! Những từ láy “thỏa thuê”, “thong dong”, “nhẩn nha” đã lột tả khá đầy đủ hồn quê sảng khoái, rộng mở, bao dung và phóng khoáng. Điều mà ngày xưa những bậc đại ẩn đã từng tìm thấy ở những vùng quê đạm bạc nhưng lắm nghĩa tình, nơi “ao cạn vớt bèo cấy muống, đìa thanh phát cỏ ương sen”, nơi mà “thu ăn măng trúc đông ăn giá, xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Nói đến quê hương là nói đến những điều giản dị mà thân thương ấy, những cây nhà lá vườn, những “đặc sản” rau mắm, cơm gạo mới…Bình thường lắm nhưng đi xa thì da diết nhớ. Đó không chỉ là vật chất để ngắm nhìn, để hít thở, để nếm ngửi mà còn là những ý niệm thiêng liêng, là cội nguồn tinh thần ẩn náu nơi sâu kín ở mỗi tâm hồn. Hóa ra cái điều tưởng chừng vô cùng trừu tượng là tình yêu quê hương lại hết sức cụ thể, thân thiết và gắn bó với mỗi con người. Lại một định nghĩa mới về quê hương: “Quê hương là chốn bình yên đời mình…”
Đó là chùm khế ngọt, là con diều biếc, là dòng sông quê, là bến đò trăng…Đó là nguyên cớ của bao nỗi nhớ thương khi xa vắng, khao khát trở về khi lầm lạc, thèm được tựa nương khi mệt mỏi với dòng đời thị thành xuôi ngược. Ôi, sao thật thơ thới thảnh thơi. Giọng thơ càng lúc càng như một khúc hát đồng dao vô tư mà nhẹ nhõm:
Bến sông ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều khao khát cũng phù sa trôi
Nơi dòng sông tuổi thơ đó, giờ đây, kỳ diệu thay lại một lần nữa tắm gội cho ta những nhọc nhằn, những âu lo, những tranh giành bon chen nhỏ nhen, ích kỷ tầm thường…Đưa ta về với tuổi thơ hồn nhiên mà trong sáng. Lợi danh, thắng thua rồi cũng như một giấc chiêm bao đầy hư ảo mà thôi. Cái còn lại trong lòng mỗi người rồi cũng chỉ là cái tình quê ấy - bình dị mà chung thủy lắm thay !
Đoạn thơ cuối cùng là một khúc hát đậm đà tình nghĩa mà tác giả đã dành trọn cho quê hương
Nắng mưa vun xới tuổi thơ
Tình quê bồi đắp vào nơi sâu đằm
Ta về hát khúc trăm năm
Gối lên tiếng ếch mà nằm chiêm bao
Ôi, đẹp làm sao tình quê và cũng là tình người ấy. Những hiình ảnh hết sức thôn dã cùng những động từ quen thuộc đã trở thành những lời có cánh lột tả chân thực nhất tình cảm quê hương. Đó cũng là sự gắn kết tự nhiên giữa con người với ruộng đồng làng xóm bởi một tầng nền vô cùng vững chắc “nắng mưa vun xới”, rồi “tình quê bồi đắp”. Khúc hát dân ca xưa từ đây lại ngân nga, rộn ràng. Vâng, đó chính là “khúc hát trăm năm” ru ta vào giấc ngủ mà ở đó, tiếng ếch bên tai văng vẳng như lời đồng vọng thiết tha đưa đến giấc chiêm bao kỳ diệu – một giấc mơ về một vùng trời bình yên của đời người. Giấc mơ ấy có tiếng gọi đò đầy nuối tiếc để kịp trở lại bến sông ngập ánh trăng vàng, là cánh đồng tuổi thơ ước ao với cánh diều căng gió…
Cảm ơn “Về với ruộng đồng” của Trần Văn Lợi. Cảm ơn tình cảm chân thành ấm áp của tác giả. Cảm ơn một tâm hồn rất đồng quê đã cho tôi một sự hòa điệu, đồng cảm. Bài thơ như một khúc ca dao lục bát ngọt ngào bình dị, thâm tình làm sống dậy trong tôi những hình ảnh quê nhà thân thiết có lúc tưởng chừng như đã phôi pha trong vòng xoáy đô thị hóa. Rồi thời gian sẽ trôi, mọi thứ sẽ đổi thay nhưng với bài thơ rất đẹp này, tôi tin có một thứ sẽ còn vẹn nguyên giá trị. Cuộc sống sẽ hiện đại hơn nhưng tâm hồn và tình cảm của con người xin đừng xơ cứng, những mối quan hệ giữa người với người xin đừng “mỏng”, đừng “nông”. Hãy đọc và yêu bài thơ như tôi đã yêu.
Và còn chờ gì nữa, bạn hãy cùng tôi về với quê xưa, về với ruộng đồng, về với chốn bình yên nhất của đời mình. 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2008 17:42:57 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
TIẾNG VỌNG - 12.06.2008 00:51:54
TIẾNG VỌNG (BÌNH THƠ LÊ HẢI)

TIẾNG VỌNG
                                              Lê Hải
Trời lạ cuối Thu lạc bước
Trong ta âm sắc nửa cuộc đời
Yêu hay không vẫn nhận vết xước
Em có nghe tiếng vọng phía chân trời.
 
Lời bình :
 
 Thu nào chả giống nhau, cũng lá vàng và trời xanh thẳm.Nhưng có một lần nhà thơ lạc bước vì phát hiện ra hôm nay Thu khác trước, nó mang “âm sắc nửa cuộc đời”. Ôi “nửa cuộc đời ” rồi sao. Có cái gì man mác buồn tiếc nuối. Nửa cuộc đời nhưng nhà thơ thấy mình chưa làm gì được nhiều. Nhà thơ muốn hối hả đi và tìm, nhưng anh cũng lại đang “lạc bước”. Có cái gì nữa lại như một điều thảng thốt:
                                      Trời lạ cuối Thu lạc bước
Mà “lạc bước” trong “trời lạ”. Ta đọc chậm và nghĩ đi, bất chợt ta thấy một khoảng trống mênh mông, và nhà thơ đang muốn dừng lại. Dừng lại để làm gì? Để nhận thức lại bản thân và cuộc đời, nhà thơ bật thốt lên nỗi đau:
                                                     Yêu hay không vẫn nhận vết xước
Vâng, yêu thì nhận vết xước kiểu của yêu. Bởi vì khi ta yêu, ta chưa chắc đã được yêu. Mà khi được yêu, ta lại thất vọng về đối tượng yêu vì ta lý tưởng quá nhiều vào cái thời tuổi trẻ, cái thời ta chưa nhận thức được là ta có lúc sẽ có:
                   Trong ta âm sắc nửa cuộc đời
nhưng rồi, dừng lại để suy nghĩ, và dù đó là khoảng trống mênh mông ta vẫn cứ bước. Bước đi biết đâu, giữa khoảng trống ấy, ta lại viết lên một điều gì cho chính ta, cho cuộc đời. Thôi thì dù thất vọng kiểu gì cũng là có ích, để ta có thể viết lên giữa khoảng trống ấy những sắc màu mà ta mơ ước, dù có thể không còn nhiều thời gian để làm lại, nhưng không phải là không có thể, ta có quyền hy vọng. Nhà thơ buông dịu dàng một câu: Em có nghe tiếng vọng phía chân trời. “Tiếng vọng” đó là cái gì nữa? Đó chính là nốt nhạc nhân từ của sự tha thứ, độ lượng, của mến yêu cái mà nàng chưa hoàn hảo, nhưng biết đâu vì cả hai người mới có “nửa cuộc đời” thôi mà. Còn đi tiếp. ừ biết đâu…
Bài thơ là một tiếng thở dài của lá nhỏ xôn xao sau một cơn mưa…
 
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Khát quê - 12.06.2008 00:58:18
Khát quê

Nguyễn Xa
Mẹ à thành phố ồn ghê
Người đi đi vội, người về về mau
Người quen hiếm lúc gặp nhau
Giữa đông người vẫn buồn sao là buồn
Thành phố có vạn con đường
Con đi cứ vẫn phải nhường người ta
Đêm thị thành sáng đèn hoa
Chúng con cứ phải ở nhà ngủ thôi
Quán hàng mở khắp nơi nơi
Bữa cơm cũng chỉ nhạt lời bán mua
Nắng dội đầu những ban trưa
Con đi, chẳng gặp vườn thưa láng giềng
Thành phố của người có tiền
Con là của ruộng, làm chim lạc bầy
Bốn năm học ở chốn này
Khát quê, con khát ngày mai – ngày về
 

Từ thuở nằm nôi, cứ mỗi độ trưa hè tôi cứ đắm mình trong câu hát à ơi của mẹ:
“Con đi con nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống,nhớ cà dầm tương”
Thời gian  gõ nhịp nhẹ nhàng để tuổi thơ lớn dần trong ký ức. Ôi hình ảnh quê hương sao dạt dào đến vậy. Kỷ niệm đơn sơ đôi khi chỉ gắn với những sản vật tầm thường: Trái cà, trái ổi với những con người một nắng hai sương. Chỉ có vậy mà hôm nay, ta lên chốn thị thành, phồn hoa đô hội, cuộc sống nhộn nhịp ồn ào thật sự làm ta không sao quen được
Mẹ à thành phố ồn ghê
Người đi đi vội người về về mau
Đó là lời cảm nhận đầu tiên của tác giả Nguyễn Xa đứa con lần đầu tiên xa quê, xa cái tĩnh lặng của trưa hè để rong ruổi nơi đất khách mong thực hiện hoài bão của mình.Tác giả thật sự ngỡ ngàng trước cuộc sống ồn ào, vội vã nơi đây với sự chuyển bước liên tục “đi vội, về mau”. Cái không gian chật chội, bức bối làm sao ta có thể quen được.Ta đã quen rồi với những lúc buồn thường đi lân la nhà bên cạnh tán gẫu. Giờ đây dù chốn đông người sao cảm thấy lạc lõng, đơn côi.
Người quen hiếm lúc gặp nhau
Giữa đông người vẫn buồn sao là buồn
Những lúc buồn nhớ nhà, tác giả chỉ muốn kiếm một vài người quen để trò chuyện nhưng cuộc sống tất bật khiến ai cũng có công việc của riêng mình. Đôi khi trên phố, nhác thấy một vài người quen, nhưng không phải tay bắt mặt mừng chào hỏi vồn vã mà họa hoằn chỉ là cái cười xã giao rồi lại đi ngay. Ôi sao tình ngưòi nơi đây nhạt nhẽo đến vậy.?
 T hành phố có vạn con đường
Con đi cứ vẫn phải nhường người ta
Đêm thành thị sáng đèn hoa
Chúng con cứ phải ở nhà ngủ thôi
Đã xa rồi những con đường mòn trơn trợt khi trời không may đổ mưa, chiếc áo học sinh lấm lem bùn đất. Xa rồi những chiếc đèn dầu leo lét sau những đêm thức trắng học bài thi cuối cấp. Giờ nơi chốn phồn hoa, những con đường chồng chéo, tấp nập, những ánh đèn điện sáng choang không làm cho lòng tác giả ấm áp dù đó là cuộc sống rất văn minh, đối lập hoàn toàn với miền quê xưa đầy gió cát. Nhưng phải chăng qua những phút vui thâu đêm suốt sáng những gì còn sót lại trong hồn mỗi người cũng là tình quê. Đó là thứ tình cảm không giống bất kỳ thứ tình cảm nào trên đời bởi nó đã gắn với mỗi con người từ thuở lọt lòng. Ôi! Sao dạt dào và ấm áp đến vậy?
Cô đơn đi vào giấc ngủ mang theo cả nỗi ước vọng, nhớ quê nhà tha thiết lắm nhưng biết bao giờ mới sống lại không khí xưa, cảm giác bình yên êm ấm của quê xưa:
Quán hàng mở kháp nơi nơi
Bữa cơm cũng chỉ nhạt lời bán mua
Quê nhà, nhớ những bữa cơm gia đình rất đầm ấm dù chỉ đôi ba con cá rô đồng, vài cọng rau đắng nhưng sao tình người chan chứa quá. Giờ đây còn đâu nữa, chẳng còn đâu những buổi bắt tép hái rau lặn lội, giờ chỉ việc muốn ăn giờ nào thì đây, quán hàng mọc san sát nơi nơi. Nhưng sao nhạt nhẽo quá mẹ à! Đó cũng chỉ là những cuộc bán mua vô vị lạ lẫm. “Nhạt lời bán mua”, giọng điệu của tác giả có gì đó chua chát lắm, có phải chăng trong cuộc bán mua ấy tình người cũng nhạt nhoà đi, lợt lạt theo cuộc sống kim tiền?
Nắng đội đầu những ban trưa
Con đi chẳng gặp vườn thưa láng giềng 

Với khói bụi công nghiệp, cái nắng ban trưa thật ngột ngạt, dữ dội. Những lúc ấy, hình ảnh con đường nhỏ dẫn lối đến trường lại hiện về trong ký ức tác giả. Ngày ngày đi len dưới hàng cây xanh che mát, con đi dưới ban trưa mà nghe hồn lắng dịu, một chút gì là kỷ niệm vẫn còn đọng lại mãi trong tim để ta xa quê mang theo cả hành trang là nỗi nhớ. Giờ đây, chiếc bóng ngả nghiêng dưới trưa hè gay gắt, con cảm thấy sao đơn độc trên con phố dài đến thế? Vâng, tác giả đã gởi gắm nơi đây một tâm sự đơn côi không bờ bến, phải chăng lòng mình không thể hòa hợp được với chốn phồn hoa đô hội ?
Thành phố của người có tiền
Con là của ruộng, làm chim lạc bầy
Tác giả cô đơn bởi không hòa nhập được với cuộc sống nơi đây ? Vì sao vậy ? Phải chăng người thành thị không sống tình cảm như người quê ? “Con là của ruộng”, vâng, con biết mình vốn dĩ là người của ruộng đồng quanh năm một nắng hai sương, đầu trần chân đất. Bao năm đắm mình trên con kênh nặng phù sa chốn miền quê đầy nắng gió, vui buồn trên ruộng lúa nương dâu. Biết nâng niu hứng từng giọt sương trên ngọn cỏ lúc bình minh, biết ngắm từng đàn én về tổ khi ráng chiều khuất dần trong nắng nhạt. Bản chất của người quê là vậy, yêu ghét rõ ràng, sống chứa chan tình nghĩa. Giờ sống giữa phố phường đông đúc, tác giả chỉ là cánh chim lạc bầy bơ vơ thiếu tình thân ái.
Bốn năm học ở chốn này
Khát quê, con khát ngày mai - ngày về
Đó là lời nhắn nhủ của tác giả, một nỗi nhớ khát khao một ngày nào đó sẽ trở lại quê xưa. Vâng, một ngày không xa lắm, trên mảnh đất của chốn quê nghèo sẽ đón đứa con xa quê bôn ba xứ người tạo dựng sự nghiệp trở về góp tay vào xây dựng quê hương.
Cảm ơn tác giả Nguyễn Xa đã nói hộ nỗi lòng chúng tôi – những người xa quê lần đầu bước chân lên đại học. Nhưng tôi tin rằng cả tác giả và chúng ta phải biết vượt qua những gian nan nơi đất khách, hòa nhập vào cuộc sống mới để hướng tới tương lai. Hãy đón nhận những gì tốt đẹp nhất bởi vì đâu đó trong cuộc sống, lúc nào tình người và tình quê luôn là những thứ tinh tuý nhất của cuộc sống.   
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Không phải như thế - 13.06.2008 03:04:30
Không phải như thế
 
LÊ VĂN NGĂN
Không phải chỉ một mình tôi dưới rặng thông đêm
vì bên tôi còn có tiếng chân em giẫm lên mặt đường mười năm trước
vì bàn tay tôi còn nguyên cảm giác khi chạm vào tà áo em mười năm trước

Không phải chỉ một mình tôi trở về căn phòng trọ
ngồi lại bên ngọn đèn và trang sách mở
Ngỡ như em sắp thức dậy nhen lửa trong tiếng mưa khuya
đem tặng tôi ly cà phê rất nóng
Luôn luôn, em biết chế biến mọi chất đắng có thêm vị ngọt
để pha loãng nỗi phiền muộn trong tâm hồn người
để làm dịu những vết thương trong tâm hồn người
Không phải chỉ một mình tôi đặt lưng xuống chiếc giường trống trải
Ngỡ như mới hôm qua
em còn cúi xuống thay chiếc áo gối đã nhàu
cười đùa với vài ý nghĩ vừa chợt đến
Phải,
em muốn chỗ nằm cũng phải sạch như cuộc sống những người lương thiện
Có phải vậy không
hỡi người em thân yêu đang nằm lặng yên trong lòng đất


 
 
Lời bình:
 
Lê Văn Ngăn chỉ chọn cho mình duy nhất mỗi một thể thơ tự do, nhưng những dòng thơ ấy được cấu trúc chặt chẽ trong nhịp đi nhẹ nhàng của từng câu. "Không phải như thế" là một trong những bài thơ khá tiêu biểu của nhà thơ Lê Văn Ngăn.
 
Mãi tới dòng cuối mới biết, thơ khóc người bạn tình đã khuất. Người đã cùng anh đi ngoài vườn lạnh, cùng ngồi trong phòng ấm, cùng nằm trên  giường đôi hạnh phúc. Nàng như còn sống! Và người thơ đơn côi không chịu nhận mất mát kia, anh đã ba lần phủ định không phải.
Chính điệp khúc này tạo ra một cấu tứ hiện đại cho bài - một suy tư triết lý khúc chiết,  nhưng không khô khan mà giàu hình tượng.
 
Thử nhấm nháp bốn dòng cà phê trong suy tư này "…em sắp thức dậy… để pha loãng nỗi phiền muộn trong tâm hồn người". Thơ sánh lại như một tứ tuyệt, mưa khuya dòng trên ăn vần rất ngọt với cà phê dòng dưới để tới dòng thơ tiếp theo, chất cafein đã hóa chất thơ và thơ ấy thăng hoa sau chữ pha loãng rất điệu nghệ. Trên màu nhung huyền của mặt tròn cà phê xinh xinh, cái muổng nhỏ chắc phải có trong ấy, không còn khuấy nữa, nó đang múa một vũ khúc tên gọi là pha loãng muộn phiền…
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Ngày không em - 13.06.2008 03:10:24












 











Ngày không em
I.
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay
Luồn kim vào nhớ để may
Chỉ yêu cứ đứt trên tay mình cầm

II.
Em đi như chim về ngàn
Để rơi một cánh hoa tan nát chiều
Tôi đi tìm một tình yêu
Trên dòng sông chứa rất nhiều ban mai
Tôi đi trên dòng sông gai
Lốt chân chim đậu trên vai thành hồ
Không em từ bấy đến giờ
Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang.

ĐỒNG ĐỨC BỐN

Đồng Đức Bốn là nhà thơ ý thức trở về với cội nguồn ca dao dân tộc, một cây bút lục bát khoẻ khoắn và độc đáo của nền văn học đương đại, đã góp phần làm nên cái duyên của thể thơ 6-8 hiện đại. Thơ lục bát anh có một sức thu hút kỳ lạ, đặc biệt là ở những câu thơ kết bài, cứ tạo một dư ba trong lòng người đọc:
Tôi nghe nẫu cả những chiều
Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa
(Quốc kêu)

hay:
Vớt buồn trên mặt sông trôi
Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng
(Đời tôi)

Bài thơ “Ngày không em” cũng có một sức hút như thế. Giọng thơ nhẩn nha, chậm rãi đến thiết tha. Ba khổ thơ được chia làm hai phần, không dùng một dấu chấm câu nào, dường như không có sự kết thúc mà cứ mênh mông, dàn trải… Bốn câu thơ đầu là một bức thông điệp về một nỗi cô đơn, cô đơn vì “không em”. Không em, mọi giá trị thực của cuộc sống như biến thành ảo hết: diều biến thành mảnh trăng chiều, chỉ để may cứ bị đứt.
Qua phần thứ II thì 8 câu thơ như đè nặng xuống, kéo toàn bộ bài thơ chùng xuống bởi sự không tương xứng giữa hai phần. Nếu phần I mới chỉ là lời thông báo “không em”, thì phần II lại là tâm trạng cô đơn của người con trai được nhân đôi lên bởi những câu lục bát:
Em đi như chim về ngàn
Để rơi một cánh hoa tan nát chiều

Cấp độ của nỗi buồn đã nhân lên, giọng thơ đã chuyển sang cái xót xa, đau đớn đến “tan nát chiều” chứ không còn dừng lại ở cái nhẩn nha chậm rãi buồn như khổ thơ trên. Đến hai câu thơ kết bài:
Không em từ bấy đến giờ
Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang

Nỗi buồn ở đây được đẩy lên tận cùng. Hình ảnh lá cờ tang như cứa sâu vào cả bài thơ, bao trùm lên toàn bài thơ là một sự lụi tàn, héo úa, chết chóc. Và chỉ đến câu kết này tác giả mới dùng dấu chấm hết duy nhất trong bài, nhưng bài thơ thì không kết thúc mà cứ lan tỏa một nỗi buồn mênh mang.
Thơ Đồng Đức Bốn là thế, cứ ám ảnh lòng người bởi những câu thơ giàu hình ảnh, tứ thơ sâu sắc. Từ xưa đến nay, thơ viết về tình yêu, về nỗi buồn thất tình thì nhiều lắm, bởi những cung bậc tình cảm này không thể thiếu trong tình yêu. Song có thể nói Ngày không em là một sự thể hiện mới, bởi nhân vật trữ tình trong bài thơ không hướng đến một sự chia sẻ, cảm thông của “đối tượng” mà chỉ là tự bộc lộ cảm xúc thật của bản thân. Cảm xúc thật và ảo th
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2008 03:15:18 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Nhớ máu - 13.06.2008 17:38:27
Nhớ máu
Trần Mai Ninh

Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại - lưng chừng
Gió nghỉ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.

Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.

Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.

Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,,,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuỗi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày

Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giũ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!

Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!

Dao găm để gáy,
Súng màng tang

Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng:

Lời bình:





Kết thúc đêm 9/11/1946 tại Tuy Hòa, thời điểm cuối mùa mưa miền Trung, lòng người Việt Nam yêu nước suốt dải đất đòn gánh này chợt rung lên vì một ngọn gió lạ, một ngọn gió đầy phấn khích cuộn lên giữa thời điểm căng như dây đàn trước lệnh Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Ơ cái gió Tuy Hòa...
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại lưng chừng
Gió nghĩ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộn"

Trần Mai Ninh đấy! Và bắt đầu từ ngọn gió dữ dội ấy, thơ Việt hiện đại có thêm một nhà thơ, một bài thơ bất tử: bài Nhớ máu. Hãy đọc lại bài thơ này với niềm đam mê, với tình yêu, và chúng ta sẽ thấy, cái nhịp thơ Nhớ máu ấy chính là nhịp rock, một loại hard rock mà ngay tới bây giờ cũng chưa dễ thưởng thức được trọn vẹn. Thơ bắt đầu từ ngôn ngữ, nhưng trên cả ngôn ngữ, siêu-ngôn-ngữ chính là nhịp thơ, chứ không phải vần thơ. Nhịp thơ đẩy bài thơ vọt lên phía trước, ấn vào vô thức người đọc, khuấy động tận đáy sâu tâm cảm người đọc. Đã nhiều năm tôi đọc Nhớ máu, ở nhiều hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau, và sau cùng, cái "ấn" vào tôi sâu nhất vẫn là nhịp (rhythm), cái nhịp kỳ lạ của bài thơ này:
 "- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơ hỡi, Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại"

Bạn có nghe nhịp rốc-cứng, metal-rock trong những dòng thơ gằn xuống, thở trào lên, lay giật, xối xả, cuống quít ấy không? Một ca sĩ hard-rock sẽ phải toát đầm đìa mồ hôi khi thể hiện một khúc rock như thế này. Và đó chính là hạnh phúc của Thơ, cái hạnh phúc thường hiếm hoi, kén chọn, quay quắt, cái hạnh phúc không bao giờ cho không bất cứ nhà thơ nào mà không đòi phải trả giá. Trần Mai Ninh đã phải trả giá bằng chính cuộc đời mình cho bài thơ Nhớ máu. Giống như Lorca khi viết bài thơ định mệnh Bi ca cho Ignacio Sanchez Mezias ông đã kêu lên: "Tôi không muốn nhìn thấy máu", thì đó chính là máu của ông, máu của một nhà thơ Tây Ban Nha vĩ đại. Trần Mai Ninh đã "nhớ máu", và đó cũng là máu của chính ông, một nhà thơ Việt Nam quyết tử. Không chỉ "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", mà còn quyết tử cho Thơ, cho sự đổi mới toàn diện Thơ:
"Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới"

Đó là phút giây của xuất thần, của vô thức, của trào dâng, Thơ vọt ra như máu xối - máu của người yêu nước quyết tử, máu của nhà thơ tự do cả thân xác lẫn tâm hồn. "Ơ, những người! - Đen như mực, đặc thành keo - Tròn một củ - Những người gầy sắt lại - Mặt rẹt một đường gươm - Lạnh gáy...". Họ là những chiến binh của nhân dân, một nhân dân dữ dội, quật khởi, bừng ngộ, xứng đáng với một Tổ quốc mới. Tôi nghĩ, nếu không có những phút xuất thần dâng hiến trọn vẹn ấy nơi mỗi người chiến sĩ, mỗi người lính bình thường, thì chúng ta lấy đâu ra chiến thắng sau cùng? Và không có những bài thơ hy sinh toàn diện cho Thơ như bài Nhớ máu, thì lấy đâu ra thơ Việt hiện đại với những bước đi khó nhọc, khổ nạn nhưng chưa bao giờ chịu lùi:
"Dao găm để gáy
Súng màng tang
Chúng nó rú
Cả trại giặc kinh hoàng
Quy-lát khua lắc cắc
Giầy đinh xôn xao
Còi và kèn..." 

Cứ như bạn đang coi một trường đoạn "hot" (nóng) nhất trong phim hành động! Thơ có thể hóa thân không chỉ vào âm nhạc, hội họa, điêu khắc, mà cả vào điện ảnh nữa! Và những montage dứt điểm trong bài Nhớ máu là những montage mà một đạo diễn điện ảnh mạnh tay nghề có thể thưởng thức sâu sắc. "Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai" Trần Mai Ninh có thể thấy bài thơ của mình ròng ròng nơi "tối cao vinh dự". Nơi ấy, chắc chắn không phải là một giải thưởng, dù là giải thưởng to đến đâu! Nơi ấy, là hồn dân tộc, là khí huyết bừng bừng của những người yêu nước trung trực, là nơi "Việt Nam rồi đứng dậy - Sáng vô chừng!".
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.06.2008 03:44:38 bởi coco_trencungtrang >
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Bé cò cò
  • Số bài : 851
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.05.2008
  • Nơi: Cung trăng
Bước đi bước nữa - 15.06.2008 03:41:35

Bước đi bước nữa

NGUYỄN BÍNH

Xê lại gần đây, xích lại đây
Lại đây cho mẹ nhủ câu này:
Mẹ không muốn thế nhưng mà nghĩ
Bấy lâu mẹ đã nhiều đắng cay.

Kể con giờ cũng lớn khôn rồi
Chín suối cha con hẳn ngậm cười
Mẹ muốn bước đi thêm bước nữa
Còn đàn em nhỏ cậy con nuôi.

Con ơi! Mẹ khóc suốt đêm kia
Khóc suốt đêm qua nữa, chỉ vì...
Con mẹ có còn thương mẹ dại
Thì con gái mẹ nhận lời đi

Mẹ cũng không mong sướng lấy mình
Nhưng mà số phận bắt điêu linh
Vả chăng thiên hạ nào riêng mẹ
Gái góa qua đò uổng tiết trinh.

Mai mốt con ơi mẹ lấy chồng
Các con coi mẹ có như không
Khuya rồi đấy nhỉ, con đi nghỉ
Gió bấc đêm nay lạnh ngập phòng...



* Lời bình :

Bài thơ Bước đi bước nữa in trong tập Lỡ bước sang ngang của thi sĩ quá cố Nguyễn Bính. Hẳn là bài thơ này ít được biết tới, nhất là trong các tuyển tập thơ Nguyễn Bính thời gian qua không thấy chọn bài này.

Tác giả viết theo giọng tự sự, bài thơ là lời kể lể, phân trần của người mẹ góa với người con gái lớn trước khi bà bỏ nhà đi bước nữa.

Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng lời nói bình thường của người mẹ, ngôn ngữ thơ giống như lời nói hằng ngày:

Xê lại gần đây, xích lại đây
Lại đây cho mẹ nhủ câu này...

Và cứ thế, người mẹ kể lể sự tình với cô con gái bằng giọng chân quê, mộc mạc. Người mẹ nhắc đến người cha nơi chín suối, nhắc đến phận mình phải dứt gánh ra đi và nhắc đến cảnh ngộ mà người con gái phải thay mẹ gánh vác: Còn đàn em nhỏ cậy con nuôi.

Cái hay ở bài thơ không phải ở ngôn ngữ chắt lọc, mà ở lối tả chân, lối kể lể dẫn dắt người đọc. Người đọc hình dung ra thân phận người đàn bà góa: chồng chết, bà tần tảo nuôi một đàn con dại. Trải qua bao nỗi lận đận, cô quạnh, người đàn bà góa vẫn cam lòng chịu đựng. Rồi cô con gái đầu đã lớn. Rồi người đàn bà góa dự định đi lấy chồng như một số người đàn bà góa khác: Bà tâm sự với con, lời lời như chắt ra từ trái tim nhiều đắng cay, héo hắt: Con ơi! Mẹ khóc suốt đêm kia/ Khóc suốt đêm qua nữa chỉ vì.../ Con mẹ có còn thương mẹ dại/ Thì con gái mẹ nhận lời đi .

Bao nhiêu nỗi niềm sâu kín bà đã nói hết với cô con gái lớn. Bà thú nhận trước con mình rằng bà đã khóc, khóc suốt đêm qua, đêm kia, khóc vì nhiều lẽ... Và bà thốt lên: Con mẹ có còn thương mẹ dại. Chữ mẹ dại ở câu thơ chợt nhói lên, day dứt trong tâm trí người đọc. Người mẹ tâm sự với cô con gái lớn thật lòng như thế, hỏi đã là phận con gái, nào ai nỡ chối từ?

Mẹ cũng không mong sướng lấy mình
Nhưng mà số phận bắt điêu linh.

Người mẹ đã quyết định một điều hệ trọng trong cuộc đời: Bước đi bước nữa. Biết rằng mọi nỗi khôn dại ở đời thật khó lường, nhưng bà mẹ vẫn dứt áo ra đi. Ra đi không phải bà cầu mong điều sung sướng cho mình, ra đi để thoát khỏi thân phận người mẹ góa.

Ở đoạn kết bài thơ, người mẹ đã hình dung ra cảnh mình đi lấy chồng, đi trong tâm trạng tủi hờn, lo lắng. Bởi nhẽ sau lưng bà là một đàn con đã khổ vì thiếu cha, từ đây sẽ càng côi cút hơn vì thiếu mẹ. Cái cơn gió bấc của đất trời hay cơn gió từ đâu thổi lại để bà mẹ cứ buồn lo, cứ thổn thức với chính mình.

Bài thơ gợi ta nhớ đến cảnh ngộ tái giá của những bà mẹ góa thời trước. Còn bây giờ, thời thế đã đổi khác, người mẹ góa tất phải chủ động hơn để chọn lựa cho mình một bước ngoặt mới và những người con hẳn cũng cảm thông, đứng về phía mẹ mình. 

Nguyễn Đức Mậu
Cung Trăng cắt đất phân lô
Đừng tưởng chỉ đám điên rồ mới mua
Bao người lắm của tiền thừa
Cũng tậu vài thửa dẫu chưa được dùng!

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 69 bài trong đề mục