Home
Menu Thư viện
Trang Truyện
Trang Thơ
Nhạc Online
Phim Online
Tranh Ảnh
Ẩm Thực
Tiếng Việt
Diễn Đàn
Xoá
back
Menu
Bài Viết Hôm Nay
Chủ Đề Nổi Bật
All Polls
All FAQs
Threads without reply
New Msg
Members
Sign up
Đăng nhập
Xin chào !
Diễn Đàn Chính
>>
[VĂN HỌC]
>>
Thơ
>>
Thơ Sáng Tác
RSS Feed
Chọn Lựa
Xem trang để In
Chuyển xem chế độ Thread
Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Thay đổi trang:
<
1
2
| Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 30 bài trong đề mục
HanSiNguyen
03.07.2008 20:40:47 (
permalink
)
0
Lời bàn đoạn 4
by NGUYỄN HỒNG BẢY (H7C)
NGƯỜI NGAY MẮC NẠN
Ở đời, sẽ chỉ là một điều bình thường thôi nếu kẻ độc ác gian xảo mắc phải nạn tai, việc ấy hợp với logic nhân quả : gieo nhân nào được quả nấy, và “kẻ ác lâm nạn” thường cũng chỉ nhận được hai tiếng “Đáng đời”
Khốn thay, kẻ ác lại hiếm khi ... lâm nạn, trong tay một khi đã có dồi dào tiền bạc, thế lực, sức mạnh thì quả là cũng khó mà lâm nạn thật.
Ngược lại, kẻ thường xuyên vướng phải trắc trở, rủi ro, tai ương, hoạ kiếp lại chính là những người thân cô thế cô, thấp cổ bé miệng, nghèo khó yếu đuối, thế lực của họ chẳng khác nào thế lực của đứa trẻ lên ba : mỏng manh như bọt bèo, dễ vỡ như bong bóng. Tất cả những tai ương ấy được quy về cho vận số, cho thiên mệnh như một lời giải thích đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu để mà yên lòng ... chấp nhận !!!
Đến trường hợp của những người như Nhạc Phi đời Tống, đại tướng chỉ huy cả toàn quân, được nhân dân yêu mến, lòng trung chói lọi như vầng thái dương, dũng khí cao ngất tận trời xanh, tài cầm quân nghiêng sông lật núi ... vậy mà cuối cùng cũng lâm nạn, chịu chết ở Phong ba đình. Có phải là Nhạc Phi thân cô thế cô đâu, có phải là Nhạc Phi thấp cổ bé miệng đâu, sao cũng vương vào tai ương, hoạ kiếp ? Câu giải thích cũng lại được quy về cho ... thiên mệnh !!!
Người ngay lâm nạn thường được đại đa số quần chúng nhân dân tỏ ra đồng cảm. Xót xa cho họ mà cũng xót xa cho chính bản thân mình chăng ? Mơ ước “thiên lý phục hồi, nhân quả báo ứng” là mơ ước cho họ mà cũng là mơ ước cho bản thân mình vậy !
Phạm Thư, một người tài trí nhưng xuất thân hàn vi, vốn chỉ là một gã xa phu đánh xe cho chủ, giả như nếu cam chịu “Gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới đất lại chồm lên cao” thì hẳn là đã không ... rách việc ! Tài hoa mà chi, sắc sảo mà chi, để cho chúng nhân ghét ghen, đố kỵ lắm vậy ! Lúc ở Tề, nếu Phạm Thư suy nghĩ theo kiểu Tu Cổ (thấy lợi là vồ ngay lấy), hoặc suy nghĩ theo kiểu Trịnh An Bình (thực tế hơn, ít lý tưởng hoá hơn) thì hẳn là cũng không mắc nạn. Tấm lòng hiếu thảo với mẹ cha, tấc dạ thuỷ chung với quê hương, ý chí chân thành trung quân báo quốc, dẫn tới một hành động TRỞ VỀ. Và vừa về là tức khắc mắc nạn.
Đọc qua những diễn biến ấy, người đời sau không khỏi cảm thấy đôi chút chua xót, bùi ngùi vậy.
Hồng Thất Công
2001
#16
HanSiNguyen
24.11.2008 11:15:30 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
-5-
TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI
Bấy giờ hồn phách chưa tan (401)
Phiêu du vất vưởng giữa ngàn ánh sao
Xót mình tuổi trẻ tài cao
Công danh như thể hoa dâu xuôi dòng
Ơn vua lộc chúa chẳng mong
Tình nhà nợ nước há không báo đền ?
Lại còn vương mối oan khiên
Làm sao mắt trả, răng đền mới ưng !
Hồn bay quanh quất nửa lừng
Nát thân bao quản, thẹn thùng nhơ danh
Giã từ nhân thế chẳng đành (411)
Thôi thì lối cũ quẩn quanh tìm về
Phiêu phiêu nửa tỉnh nửa mê
Tai nghe thánh thót tỉ tê tiếng đàn
Đó đây như khóc như than
Ru hồn lãng tử, xóa tan muộn phiền
Lâng lâng thân xác dịu êm
Chìm vào giấc ngủ, vơi niềm xót xa
Chập chờn, gió thoảng hương hoa
Tiêu thiều réo rắt, tiên nga giáng trần
Dịu dàng an ủi ân cần (421)
Cam lồ rửa sạch mọi phần thương đau
Nâng niu bát cháo hớp rau
Khéo tay chăm sóc, ngọt ngào thuốc thang
Hai tuần cửa mả mở toang
Tử thần lảng vảng, khó phương sinh tồn
Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi dương thế, quỷ môn giã từ
Mở to đôi mắt ưu tư
Vẫn còn văng vẳng ôn nhu tiếng đàn
Sương mơ hư ảo chưa tan (431)
Khói trầm vương vất, mơn man phím ngà
Ngoài song dáng liễu thướt tha
Giật mình còn tưởng tiên nga hôm nào
Hoa đồng cỏ nội thanh tao
Quần bô áo vải má đào vẫn xinh
Rõ ràng ngọc khiết băng thanh
Môi hồng tươi thắm, long lanh mắt huyền
Bờ vai tóc xỏa duyên duyên
Vóc mai lả lướt, gót sen hững hờ
Hỏi rằng :-“Ta tỉnh hay mơ (441)
Cớ sao trôi dạt cậy nhờ nơi đây ?”
Nàng rằng :-“Trải đã bao ngày
Tưởng đâu không thoát khỏi tay tử thần
Xót người tứ cố vô thân
Anh tôi chẳng quản nhọc nhằn cưu mang
Đem về từ cánh đồng hoang
Một lòng chăm sóc, thuốc thang tận tình
Cứu người, công Trịnh An Bình
Nơi đây cách biệt kinh thành rất xa
Gian nhân khó nỗi dò la (451)
Yên lòng tịnh dưỡng ắt là khang ninh
Trước sau một chữ đệ huynh
Giúp nhau cho trọn ân tình mà thôi
Đâu cần cảm tạ đầu môi
Miễn là bằng hữu trọn đời thủy chung
Đạo trời bĩ thái, cùng thông
Bây giờ trước hãy an lòng nghỉ ngơi”
Dứt lời dâng thuốc tận nơi
Phạm Thư uống cạn, ngậm ngùi lòng đau
-“An Bình trí rộng tài cao (461)
Việc xưa đã tỏ, việc sau cũng tường
Bởi ta khinh xuất xem thường
Mới lâm họa hoạn đau thương chuyến này
Bỏ Tề về Ngụy thảm thay
Hết còn khoe giỏi khoe hay dối đời
Làm ơn gọi Trịnh giùm tôi”
Thưa rằng :-“Dạ sắt chưa nguôi nỗi sầu
Nhọc nhằn rừng thẳm khe sâu
Dốc lòng tìm kiếm bới đào nhân sâm
Bôn ba hổ huyệt long đầm (471)
Kể chi khổ trí lao tâm tháng ngày
Buồn vui sướng khổ chia hai
Non cao lầm lũi, miệt mài đường xa
Ở đây còn có cha già
Cần gì cứ gọi Quỳnh Hoa chớ phiền
Bây giờ hãy nghỉ cho yên”
Lời còn thánh thót, gót tiên khuất rồi
Phạm Thư xao xuyến bồi hồi
Bước vào cửa mả, gặp người ôn nhu
Tây hiên lại vẳng tiếng tơ (481)
Khi cao khi thấp, hững hờ nhặt khoan
Khuyên người gặp bước gian nan
Đừng lo, đừng nghĩ, chớ than, chớ sầu
Những người trung nghĩa dãi dầu
Trải bao cực khổ gian lao sá gì
Nhớ chăng gương Bá Lý Hề
Bảy mươi chăn ngựa nuôi dê xứ người
Nhớ chăng Câu Tiễn nằm gai
Phơi sương nếm mật, có ngày nên công
Tấn Văn mười bảy năm ròng (491)
Nắm cơm chẳng có, lưu vong bơ thờ
Ngũ Viên khi mới sang Ngô
Làm người quân tử thập thò bụi lau
Lòng trời nhìn lại cũng mau
Nên vương nên tướng, công hầu kém ai
Đàn ru réo rắt bên tai
Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ
Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,
Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh
Hàn Sĩ Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.04.2009 06:43:47 bởi HanSiNguyen >
#17
HanSiNguyen
24.11.2008 11:17:49 (
permalink
)
0
GIẢN CHÚ đoạn 5, trang 29-32
TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI
-by NGUYỄN PHÚ-
1-Phiêu du
: Nhẹ bồng bềnh dạo chơi đây đó. Bay là đà nơi này nơi khác.
2-Hoa dâu
: Bèo hoa dâu, một loại bèo nhỏ xíu, khác với lục bình là một loại bèo lớn.
3-Mắt trả, răng đền
: Do câu tục ngữ
“Mắt trả mắt, răng đền răng
”, ý nói trả thù rửa hận tương xứng với những gì kẻ thù đã gây ra cho mình.
4-Phiêu phiêu
: nhe tênh, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.
5-Lãng tử
: Người lãng mạn, thích ngao du đây đó.
6-Tiêu thiều
: Tiếng tiêu và tiếng nhạc.
7-Cam lồ
:
(
như
Cam lộ)
giọt sương ngọt, một loại nước phép của Quan Thế Âm Bồ tát, hình thành từ những giọt sương ngọt
-ngào lúc ban mai được hứng lấy và tích chứa trong “
Tịnh bình
” (bầu nước tinh khiết), có tác dụng cứu khổ cứu nạn, giải tai giải ách, chữa lành mọi vết thương, lại có thể cải tử hồi sinh (cứu sống được cả người đã chết)
8-Cửa mả mở toang
: (sẵn sàng chờ người ta bước vào) ý nói mong manh giữa cái sống và cái chết, suýt chết.
9-Ngoài song dáng liễu thướt tha
: Một người con gái dáng mảnh mai thướt tha lướt qua ngoài cửa sổ. (Song : cửa sổ, Dáng liễu : dáng người con gái gầy gầy, mảnh mai như cây liễu
10-Hoa đồng cỏ nội
: Người thiếu nữ đẹp ở nơi thôn dã, chốn ruộng đồng.
11-Quần bô áo vải
: Người mặc áo may từ vải bông, quần dệt từ đay gai, người mặc những quần áo tầm thường, không sang trọng, ý nói người nghèo
12-Ngọc khiết băng thanh
: Viên ngọc thuần khiết (không một vết trầy sước), tảng băng trong vắt (không lẫn tạp chất).
13-Xỏa
: Rủ xuống, lả xuống
14-Xõa
: tung ra, xoè ra.
15-Vóc mai
: Thân gầy như cây mai, mảnh khảnh như hoa mai
16-Gót sen
: Gót chân đỏ hồng của một cô gái nhỏ hoặc của một người thiếu nữ xinh đẹp, không phải lao động cực nhọc.
17-Tứ cố vô thân
: Đơn độc, trơ trọi một mình, không có ai là người thân cả.
18-Cưu mang
: Gánh đỡ, bảo bọc, nâng đỡ cho ai đó qua khỏi lúc khó khăn, hoạn nạn
19-Thuốc thang
: cũng như “thuốc men”
-Thuốc : chất trị bệnh
-Thang : chất dẫn thuốc, làm men xúc tác cho thuốc đạt hiệu quả nhanh hơn, cao hơn
20-Tịnh dưỡng
: Nghỉ ngơi yên tĩnh
21-Khang ninh
: Mạnh khoẻ, an toàn
22-Đệ huynh
: cũng như “huynh đệ” nghĩa là anh em.
Các tục ngữ thành ngữ liên quan :
-
Tứ hải giai huynh đệ
: [Người khắp] bốn biển đều là anh em
140
-
Huynh đệ như thủ túc / Phu thê như y phục
: Anh em như tay chân trong cùng một cơ thể (không thể chia lìa) / Vợ chồng như áo quần (có thể bỏ đi, thay bộ khác được). Ý vế sau của câu này chỉ muốn nói “vợ chồng ăn ở với nhau
không phải đạo
” có
thể bỏ nhau tỷ như thay bộ quần áo khác, chứ không hề có ý khuyến khích vợ chồng bỏ nhau.
23-Bằng hữu
: Bạn bè thân thuộc
24-Thủy chung
: Trước sau như một, không thay lòng đổi dạ
25-Bĩ thái
: Từ câu “Bĩ cực thái lai” nghĩa là khổ hết mức, khổ đến cùng cực rồi thì cái ung dung, thư thái, nhẹ nhàng lại đến.
26-Cùng thông
: Từ câu “
Cùng tắc bĩ, bĩ tắc biến, biến tắc thông
” nghĩa là “Khổ ắt là sẽ khổ thêm đến cùng cực, Khổ đến cùng cực rồi thì sẽ có thay đổi, Thay đổi ắt là sẽ thông, sẽ hết bế tắc, hết khổ”.
Ý cả 2 cụm từ “Bĩ thái”, “Cùng thông” cũng giống hệt như câu “
Khổ tận cam lai
” (Đắng hết mức đắng rồi thì cái ngọt sẽ đến).
27-Khinh xuất
: Sơ xuất (sơ ý) xem thường (coi nhẹ, đánh giá thấp) một điều gì đó hoặc một người nào đó.
28-Lâm hoạ hoạn
: Vướng vào tai nạn, mắc nạn.
29-Nhân sâm
: Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.
30-Bôn ba
: Rày đây mai đó, long đong trôi nổi khắp chốn.
31-Hổ huyệt long đầm
: Hang cọp, đầm rồng , ý nói những nơi nguy hiểm, dễ mất mạng.
32-Khổ trí lao tâm
: cả tim lẫn óc đều cực nhọc vất vả vì lo nghĩ, tính toán, sắp đặt công việc
33-Lầm lũi
: cắm cúi đi, chăm chú làm một việc nào đó, không chú ý gì đến chung quanh.
34-Miệt mài
: mê mải, mải miết, cố làm cho xong.
35-Gót tiên
: gót nàng tiên, gót chân người đẹp
36-Bước vào cửa mả
: Sắp chết, lúc gần chết
37-Ôn nhu
: Hiền hoà, dịu dàng
38-Tây hiên
: nhà phía tây, căn phòng phía tây, chái nhà phía tây, mái hiên của căn nhà bên tay trái ngôi nhà chính
39-Tiếng tơ
: tiếng đàn (dây đàn làm bằng tơ)
40-Nhặt khoan
: lúc thì gấp rút dồn dập (nhặt) ; lúc thì thong thả chậm rãi (khoan)
41-Bá Lý Hề
: Nhân tài kiệt xuất thời Xuân thu. Xuất thân cực kỳ nghèo khổ. Bôn ba qua nhiều nước Ngu, Tấn, Sở nhưng ở đâu cũng ba chìm bảy nổi, thậm chí còn nhiều lần bị tù tội, giam cầm, đày ải. Đến năm 70 tuổi vẫn còn phải chăn dê chăn ngựa ở Sở. Vua Tần là Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) biết là người hiền, sai người đem 5 cỗ da dê sang Sở xin chuộc Bá Lý Hề về để vua Tần ... trị tội. Sở vương không biết mưu ấy, cho Bá Lý Hề về Tần. Vua Tần lập tức phong Bá Lý Hề làm thừa tướng, người đời sau nhân sự tích ấy gọi Bá Lý Hề là “Ngũ Cổ đại phu” (vị quan 5 cỗ da dê). Ông có công khuếch trương nước Tần từ vị trí là một nước nhỏ yếu trở thành một chư hầu hùng mạnh, giúp Tần Mục công trở thành vị bá chủ thứ ba trong Ngũ bá sau Tề Hoàn công và Tấn Văn công.
42-Câu Tiễn
: vua nước Việt (nước Việt này là nước Việt cổ, ở tại lưu vực sông Dương Tử, phía nam nước Ngô). Câu Tiễn thua trận bị vua Ngô Phù Sai bắt cầm tù nhiều năm. Câu Tiễn phải nén lòng chịu nhục, bề ngoài tỏ ý khuất phục đầu hàng Phù Sai, bề trong âm thầm tính kế phục quốc. Những năm tháng bị giam giữ ở Cô Tô thành (kinh đô nước Ngô), Câu Tiễn phải trải qua vô vàn cực nhục : phơi sương (ngủ ngoài trời), nằm gai (nằm trên đống gai nhọn để nhắc nhở mình không được quên nỗi nhục mất nước), nếm mật (nếm phân vua Ngô). Phù Sai thấy thế khinh thường, cho rằng Câu Tiễn là kẻ hèn kém, không có gì đáng quan ngại, bèn cho phép trở về nước Việt. Sau Câu Tiễn theo kế sách của đại phu Văn Chủng, đem Tây Thi hiến dâng Phù Sai, khiến cho vua này mê đắm nữ sắc, lơ là việc quân, việc nước. Cuối cùng, Câu Tiễn bất ngờ hạ thành Cô Tô, giết chết Phù Sai, diệt được nước Ngô.
43-Nếm mật
: Nếm chất đắng, nếm phân vua Ngô, để bày tỏ lòng trung thành với Phù Sai, lừa cho vua Ngô khinh thường.
44-Tấn Văn
: Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn. Khi Tấn có loạn, Trùng Nhĩ phải lưu vong qua nhiều nước suốt 17 năm trường, cực khổ gian lao đủ kiểu đủ cách, có lúc đến một nắm cơm ăn cũng không có. Bề tôi trung là Giới Tử Thôi phải cắt bắp chân mình lấy thịt cho vua ăn. Sau về nước cải cách nhiều việc, dùng Khước Khuyết, rồi Tiên Trẩn làm tướng, lần lượt đánh bại đại quân Sở và Tần, trở thành bá chủ chư hầu. Đó là Tấn Văn công, vị bá chủ thứ nhì sau Tề Hoàn công
.
45-Lưu vong
: chạy sang nước khác lánh nạn, sau khi mất nước.
46-Ngũ Viên
: tức Ngũ Tử Tư người nước Sở. Cha và anh của Ngũ Viên bị vua Sở Bình vương nghi kỵ, vô cớ giết chết. Ngũ Viên đau lòng quá chỉ trong một đêm mà đầu tóc đều bạc trắng, ôm mối căm hờn chạy trốn sang nước Ngô. Quân Sở truy đuổi đến bờ sông, Ngũ Viên phải ẩn mình trong khóm lau ven sông, may nhờ một lão thuyền chài cứu giúp đưa sang sông mới thoát nạn. Ngũ Viên được gọi là “người quân tử trong bụi lau” là vì tích ấy. Sau Ngũ Viên làm quan tướng quốc nước Ngô, cùng với Tôn Vũ diệt được nước Sở. Ngũ Viên sai đào mồ Sở Bình vương lên, lấy roi đánh vào xác vua Sở để trả thù cho cha và anh. Lúc cuối đời, vua Ngô Phù Sai không tin dùng nữa, Ngũ Tử Tư ôm hận mà chết.
47-Kỳ hương
: những mùi hương thơm kỳ lạ
48-Dị thảo
: Cỏ lạ
49-Bách hoa
: Trăm hoa
50-Ý 2 câu cuối
: Giữa tất cả những mùi hương thơm, những loài cỏ lạ, những giống hoa quý trên khắp thế gian này, Phạm Thư trong giấc mơ chỉ mơ thấy hoa ... Quỳnh mà thôi ! Ý ngầm là chỉ yêu mến có một mình Trương Quỳnh Hoa mà thôi !
#18
HanSiNguyen
25.04.2009 06:42:33 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Đàn ru réo rắt bên tai
Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ
Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,
Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh
oOo
-6-
ÂN TÌNH RỪNG MAI
Râm ran gà gáy bình minh (501)
Oang oang có tiếng An Bình ngoài sân :
-“Nhân sâm kiếm được vài cân
Bấy nhiêu cũng đủ dăm tuần phục đan
Trời xanh thương kẻ ức oan
Khiến cho cây cỏ những toan tìm người”
Quỳnh Hoa kể vội mấy lời
Người trong nhổm dậy, kẻ ngoài mừng rơn
Nắm tay thuật rõ nguồn cơn
Những ngày ngậm tủi nuốt hờn đã qua
Tránh xa nanh vuốt ác tà (511)
Trở về đất tổ quê cha nương nhờ
Trương lão vốn bậc y sư
Giàu lòng nhân đức, ẩn cư núi này
Quỳnh Hoa em gái mát tay
Khiến nên tráng sĩ có ngày tái sinh
Thư rằng :-“Tình đã trọn tình
Nghĩa đà vẹn nghĩa, tử sinh ghi lòng
Vụng suy, suýt nữa thân vong
Một thân cái thế mắc vòng đào sanh
Trăm khôn một dại đã đành (521)
Biết vầy ở lại đáp tình Tề vương”
Bình rằng:-“Chớ vội lo lường
Bây giờ trước phải tìm phương phục hồi
Mai này khoẻ mạnh lại rồi
Bấy giờ ta sẽ liệu bài sang Đông
Tề vương nghĩa khí, uy hùng
Vua tôi nước ấy thực lòng mến ta
Rồng mây cá nước duyên ưa
Gặp thời khanh tướng, phải cơ vương hầu
Lẽ đời hung trước cát sau (531)
Kinh luân đầy bụng, âu sầu mà chi”
Thư rằng :-“Ám muội bất vi,
Kẻ kia buộc tội thông Tề bội quân
Bây giờ sang đó tiến thân
Mười phần xác nhận gian nhân đủ mười
Tiểu nhân đắc chí cả cười
Tự hào ngậm máu phun người không dơ
Đau đòn rồi lại thấp cơ
Truyền lưu hậu thế tiếng nhơ muôn đời
Ngày nay cơ sự đã rồi (541)
Xét trong năm nước ai người dung ta ?
Triệu, Hàn, Yên, Sở quá xa
Ngẫm đi nghĩ lại phải qua Tây Tần
Dễ dàng khởi nghiệp, tiến thân
Thuận thiên đắc địa, quốc quân oai hùng
Sang Tề, ở Ngụy không xong
Lẽ nào bó gối đợi trông Tử thần
Có thân phải sớm liệu thân
Một lần vụng tính, muôn phần đắng cay
Đổi tên Trương Lộc từ nay (551)
Phạm Thư đã chết dưới tay Ngụy Tề
Kể như dụng tốt, thí xe
Ẩn thân xó núi, đợi khi sang Tần”
An Bình vâng dạ dời chân
Trong lòng cảm phục trí nhân hơn người
Vó câu song cửa thoảng trôi
Thẹn thùa hoa trổ, bồi hồi mộng ươm
Lửa nồng tất phải bén rơm
Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường
Y sư Trương lão mến thương (561)
Gả cho con gái, vẹn đường thất gia
Quỳnh Hoa e ấp chúc hoa
Tàng long Trương Lộc thoắt đà thừa long
Nửa năm tình mặn nghĩa nồng
Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng
Vai kề má tựa ung dung
Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.
Hàn Sĩ Nguyên
#19
HanSiNguyen
25.04.2009 06:48:38 (
permalink
)
0
GIẢN CHÚ đoạn 6, trang 33-35
by NGUYỄN PHÚ
ÂN TÌNH RỪNG MAI
1-Nhân sâm
: Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.
2-Phục đan
: Uống thuốc, cho người uống thuốc. Thuốc Đông y, ngoài thuốc nước dưới dạng thang được sắc (nấu ninh trên lửa nhỏ), còn có 4 dạng khác là cao, đơn, hoàn, tán nữa :
-Cao : Thuốc dán
-Đơn (đan) : viên tròn nhỏ như hạt đậu xanh
-Hoàn : viên thuốc lớn cỡ đầu ngón tay cái, được bọc trong khối sáp tròn
-Tán : Thuốc dạng bột
Ý 2 câu
“Trời xanh thương kẻ ức oan,
Khiến nên cây cỏ những toan tìm người” :
Vì trời xanh cũng thương Phạm Thư vô tội phải chịu ức oan, nên khiến cho Trịnh An Bình dễ dàng tìm thấy nhân sâm, như thể nhân sâm tự đi tìm Trịnh An Bình mà dâng nộp vậy.
3-Y sư
: Người giỏi nghề thuốc
(Sư : người tài giỏi, bậc thầy : master)
4-Ẩn cư
: ở ẩn, không hơn thua, không tranh giành danh lợi với đời.
5-Tử sinh ghi lòng
: Dẫu sống hay chết vẫn luôn ghi nhớ trọn đời.
6-Thân vong
: Mất mạng, chết.
7-Cái thế
: (Anh hùng, tài giỏi) bậc nhất trên đời.
8-Đào sanh
: Chạy trốn tìm đường sống.
9-Tìm phương phục hồi
: Tìm cách (chữa bệnh, dưỡng bệnh) cho mạnh khỏe lại như trước.
10-Nghĩa khí, uy hùng
: Có đủ các đức tính “Trọng tình nghĩa, có chí khí, có oai phong, hào hùng”
11-Rồng mây cá nước duyên ưa
: “Rồng lên mây”, “cá gặp nước” là các hình ảnh chỉ người có tài gặp thời cơ thuận lợi để có thể dễ dàng tiến thân.
12-Cát hung
: Như “Kiết hung” nghĩa là may mắn, và hung hiểm. Tục ngữ :
-Tiền hung hậu kiết : Trước gặp hiểm nghèo, sau lại hóa ra may mắn.
13-Kinh luân
: Nghĩa theo từ nguyên :
-Kinh : sợi tơ
-Luân : chập các sợi to thành từng bó riêng rẽ
-Kinh luân : Công việc quản lý, cắt đặt, sắp đặt mọi sự
thành từng mục riêng biệt cho dễ quản lý. Nghĩa tổng quát là “tài tổ chức, sắp đặt về mặt chính trị”.
-Kinh bang tế thế (nói tắt “Kinh tế”) : quản lý, sắp đặt trông coi việc nước cốt để giúp đời
14-Ám muội bất vi
: Việc lén lút quyết không làm
15-Thông Tề bội quân
: Lén lút tư thông với nước Tề, phản bội lại vua Ngụy
16-Thuận thiên đắc địa
: Thuận theo, xuôi theo ý trời (tức ý dân), được lợi thế về đất đai phì nhiêu nhưng hiểm yếu.
17-Gạo ninh thủy hỏa
: Gạo bỏ vào nồi nước nấu ninh lâu trên lửa (tất sẽ thành ... cơm). Ý 2 câu :
“Lửa nồng tất phải bén rơm
Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường”
“Gạo ninh thủy hỏa”, “Lửa gần rơm lâu ngày phải bén”, “Ván đã đóng thuyền”, đều có chung một ý là “Trai gái gần nhau lâu ngày tất phải bén duyên, sinh lòng yêu thương, gần gũi với nhau”, đó là lẽ thường tình ở đời.
18-Chúc hoa
: Đuốc hoa, ngọn đuốc đốt lên trong đêm tân hôn.
19-Tàng long
: Con rồng ẩn (nơi đáy giếng), chỉ người có tài chưa gặp thời, còn lăn lóc trong chốn hàn vi.
20-Thừa long
: cưỡi rồng, ý nói cưới được vợ danh giá, quý phái. Từ này xuất xứ từ điển tích “Tiêu Sử thừa long”. Tiêu Sử người thời Xuân thu, vốn nghèo khổ, có tài thổi sáo, được Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) yêu mến. Sau Tiêu Sử cưới được Lộng Ngọc, 2 vợ chồng cưỡi rồng bay lên trời vĩnh hưởng tiên phúc.
#20
HanSiNguyen
26.04.2009 06:46:33 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Nửa năm tình mặn nghĩa nồng
Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng
Vai kề má tựa ung dung
Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.
oOo
-7-
VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN
Nói về yết giả Vương Kê
Cầm đầu sứ bộ tiến về Ngụy đô
Tần vương sớm đã mưu mô (571)
Giả vờ đòi đất, thăm dò phân minh
Quân cơ, chính sự, giáp binh
Thử xem chuẩn bị chiến tranh thế nào
May ra gặp kẻ tài cao
Mau mau tiến dẫn về đầu Tần vương
Ngụy mà khinh xuất xem thường
Thừa cơ mở rộng biên cương nước Tần
Vương Kê ở lại vài tuần
Tỏ tường trong đục, giả chân rạch ròi
Bao nhiêu đường sá sông ngòi (581)
Kho tàng doanh trại gộp nơi dư đồ
Lắng nghe nghịch đảng mưu mô
Cười thầm nước Ngụy cơ đồ tất vong
Bấy giờ mọi việc đã xong
Sứ đoàn Tần quốc ung dung ra về
Vượt qua muôn dặm sơn khê
Bỗng dưng thấy giữa đường đi có người
Nón mê, hài cỏ, áo tơi
Chắn ngang chính lộ, ngả người thong dong
Quan quân quát tháo mặc lòng (591)
Giả vờ mê ngủ, tịnh không ngó ngàng
Tam Đình cương, tiếng ngáy vang
Vương Kê thấy lạ vội vàng xuống xe
Chắc là kẻ sĩ dị kỳ
Khoanh tay lễ độ, trọn bề khiêm cung
Chốn này phục hổ tàng long
Cao nhân ẩn sĩ thử lòng khách du ?
Ba lần hỏi, giả làm ngơ
Trước sau vờ vĩnh pho pho ngáy đều
Gió đưa râu bạc phiêu phiêu (601)
Phơ phơ tóc trắng, ra chiều tiên nhân
Bất ngờ sải cánh duỗi chân
Than rằng :-“Một lũ quân thần không ngươi,
Để cho lá mục chôn vùi
Hiền tài mai một, đất trời ủ ê
Khắp trong hai cõi Ngụy, Tề
Chẳng ai đáng mặt một vì minh quân !”
Vương Kê xao xuyến phân vân
Chắp tay ra mắt cao nhân, ngỏ lời :
-“Thành tâm cung kính rước mời (611)
Sang Tần trị quốc, cứu đời, an dân”
Người cười :-“Khéo nói dần lân
Lão đây nào phải hiền thần mà mong
Mai Lâm, thủy tận sơn cùng,
Nếu quan biệt giá sẵn lòng đến chơi
Cũng xin ra sức với người
Dẫn đi cho gặp nhân tài họ Trương
Dễ dàng tranh bá đồ vương
Tận trung báo quốc, danh dương muôn đời
Cầm bằng chẳng muốn thì thôi !” (621)
Nói xong quay gót, nhất thời toan đi
Vương Kê vội vã nằn nì
Lệnh cho quân sĩ dừng xe bên đàng
Xá nhân vội vã gióng hàng
Lòng thành lễ trọng bái trang hiền tài
Băng rừng, vượt suối, qua đồi
Thoắt đà đến trước rừng mai bạt ngàn
Suối khe róc rách miên man
Đó đây vang vọng tiếng đàn chơi vơi
Rừng hoa thoảng tiếng ai cười (631)
Lão nhân dừng bước trước đài liên hoa :
-“Hiền thần vốn thực rể ta,
Họ Trương tên Lộc, ấy là kỳ nhân
Xin quan biệt giá dừng chân
Trà sen rượu cúc tẩy trần đường xa
Xem như huynh đệ một nhà”
Dứt lời Trương lão mời qua thạch bàn
Quỳnh Hoa lo liệu cỗ bàn
An Bình tiếp xá, rượu tràn Tây hiên
Vương Kê thực dạ cầu hiền (641)
Ngồi cùng Trương Lộc huyên thiên chuyện trò
Mấy lời vàng đá phân phô
Trí mưu xuất chúng, tâm cơ hơn người
Ba tuần rượu ngọt nếm môi
Mới quen, sao thấy như người cựu giao
Pháp binh quỉ khấp thần sầu
Kinh bang, chính trị, ngoại giao gồm tài
Tây Tần dễ có mấy ai
Khắp trong thiên hạ bao người dám so
Kém gì Ngũ cổ đại phu (651)
Hàm Dương chung đỉnh chẳng lo thiếu phần
Trương rằng :-“Cũng muốn sang Tần
Đem tài ra giúp thánh quân phen này
Chỉ e cô nhạn lẻ bầy
Một thân đơn độc, trói tay trăm chiều
Vua Tần nếu thực mến yêu
Xin cho họ Trịnh cùng theo về Tần
Người này sức địch vạn quân
Lại thêm mưu lược, trí nhân hơn đời”
Vương rằng:-“Cầu một được hai, (661)
Lẽ nào còn dám vật nài kêu ca
Phu nhân cùng với lão gia
Cùng đi một chuyến, cả nhà thêm vui”
Trương lão cất tiếng cả cười :
-“Có đâu gần đất xa trời tội vương,
Lẽ nào rời bỏ quê hương ?
Thân tàn chẳng muốn vùi xương xứ người !
Mai Lâm vinh nhục cả đời
Một mai nhắm mắt rừng mai là mồ
Tiền đồ con hãy gắng lo (671)
Cố hương mỏi mắt đợi chờ vinh quy
Bao năm theo nghiệp lương y
Chắt chiu công đức ngại gì ngày sau
Hương lân sớm tối có nhau
Chẳng lo đói rét, chẳng sầu đơn côi”
Quỳnh Hoa nước mắt tuôn rơi
Lấy chồng tất phải trọn đời tòng phu
Quản chi cơ cực đói no
Chỉ thương thân phụ bơ vơ dãi dầu
Cha con nương tựa bấy lâu (681)
Nỡ nào ngoảnh mặt quay đầu mà đi ?
Trương Lộc lặng lẽ tính suy :
-“Ngày nay hiếu nghĩa khó bề vẹn hai
Thôi nàng ở lại rừng mai
Còn ta rong ruổi đường dài xa quê
Nhớ nhau trông ánh trăng thề
Người đi vạn dặm vẫn kề đầu song
Bao giờ đại sự thành công
Bấy giờ võng tía kiệu hồng đón đưa
Viễn quy thỏa nỗi mong chờ” (691)
Quỳnh Hoa cảm tạ, gấp lo đăng trình
Đêm tàn, dưới mái nhà tranh
Vợ chồng thủ thỉ ân tình keo sơn :
-“Còn trời còn nước còn non
Trước sau suối lại về nguồn mà thôi
Đừng buồn bã nữa em ơi
Chẳng bao lâu sẽ nối lời ái ân !”
Chia ly phút đã tới gần
Luyến lưu ruột xót, tần ngần lòng đau
Thiên cơ huyền bí nhiệm mầu (701)
Sinh ly tử biệt biết đâu ý trời ?
Giọt sầu tầm tã tuôn rơi
Yêu thương nói chẳng cạn lời yêu thương !
Trời vừa rạng sáng tinh sương
Quỳnh Hoa khép nép ven đường tiễn đưa
Nói bao nhiêu cũng chưa vừa
Bao nhiêu nước mắt cũng chưa thỏa lòng
Một ngày nên nghĩa vợ chồng
Ngàn thu ghi tạc thuỷ chung xứ này
Tạ ơn cha đã an bài (711)
Tạ ơn nương tử những ngày bên nhau
Mai sau đoạt ấn vương hầu
Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?
Hàn Sĩ Nguyên
#21
HanSiNguyen
26.04.2009 06:50:02 (
permalink
)
0
GIẢN CHÚ đoạn 7, trang 35-39
VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN
-by Nguyễn Phú-
1-Cầu hiền : Dùng lễ trọng để thỉnh mời người hiền tài ra giúp nước.
2-Yết giả : một chức quan trong nội cung, phụ trách việc tiếp tân (tiếp khách)
3-Dư đồ : Tấm bản đồ
4-Sơn khê : Núi và khe
5-Nón mê, hài cỏ, áo tơi : Các trang phục của người nghèo, người bình dân
-Nón mê : Nón có chóp tròn nhỏ, rộng vành, đan bằng tre trúc.
-Hài cỏ : Giày bện bằng cỏ (loại cỏ bền dai như cỏ bàng chuyên đan bao đệm ở nước ta)
-Áo tơi : Áo kết bằng rơm hoặc cỏ tranh thành tấm, để khoác ngoài che mưa gió, sương tuyết.
6-Chính lộ : Đường chính.
7-Thong dong : Ung dung, thoải mái
8-Tịnh không ngó ngàng : Tuyệt nhiên không để ý, không ngó ngàng gì đến mọi việc xảy ra ở chung quanh.
9-Tam Đình cương : Gò Tam Đình.
10-Khiêm cung : Cung kính, nhã nhặn, khiêm tốn.
11-Phục hổ tàng long : Rồng ẩn cọp nấp. Ý nói “Có nhiều nhân tài không ra mặt, giấu mình trong bóng tối”
12-Khách du : Khách qua đường, khách đi dạo chơi.
13-Phiêu phiêu : Nhẹ hều, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.
14-Sải cánh : Dang rộng đôi cánh, duỗi thẳng hai tay.
15-Quân thần không ngươi : Vua quan đều có mắt không tròng, có mắt như mù.
16-Hiền tài mai một : Người có tài có đức phải chịu chôn vùi (mai), mất đi (một).
17-Minh quân : Vua sáng, vua hiền, vua tốt.
18-Hiền thần : Bầy tôi giỏi, có tài có đức.
19-Thủy tận sơn cùng : Ở chốn xa xôi, cùng trời cuối đất.
20-Quan biệt giá : Viên quan được vua sai phái đi làm nhiệm vụ đặc biệt (Như “Khâm sai”)
22-Tranh bá đồ vương : Tranh giành chức vị bá chủ chư hầu, mưu toan việc giành giật ngôi vua.
23-Tận trung báo quốc :Hết lòng trung báo đền ơn nước
24-Xá nhân : Thời xưa, trong nhà những quan to, các nhà giàu, các quý tộc thường có nuôi ăn ở 3 lọai người khác nhau :
-Gia nhân : Người giúp việc, làm những công việc lao động chân tay thường nhật trong nhà. Được trả công.
-Xá nhân : Người khách được nuôi ăn và cho trú ngụ thường trực ở trong nhà, tùy sức mình mà tự nguyện giúp việc cho chủ. Không bị đòi hỏi phải làm gì, cũng không được trả công. Địa vị vẫn là khách, cao hơn gia nhân.
-Môn khách : Xá nhân cấp cao.
Mạnh Thường quân nước Tề, Bình Nguyên quân nước Triệu, Tín Lăng quân nước Ngụy, Xuân Thân quân nước Sở v.v ... trong nhà thường có đến 3000 tân khách (Xá nhân + Môn khách).
25-Bái trang hiền tài : Đến viếng trang trại, vái chào bậc hiền tài.
26-Bạt ngàn : Mênh mông.
27-Đài liên hoa : Đài hoa sen, tháp nhỏ thờ Phật hoặc các vị Bồ tát.
28-Kỳ nhân : Người có tài kỳ lạ, khác thường.
29-Tẩy trần : Rũ sạch bụi, Phủi sạch bụi, Rửa sạch bụi (do phải đi đường xa lâu ngày).
30-Thạch bàn : Bàn làm bằng đá.
31-Tây hiên : Mái hiên phía Tây, chái nhà phía Tây, căn nhà phía Tây.
32-Trí mưu xuất chúng, tâm cơ hơn người : Mưu trí, kế sách, cách sắp đặt, xử lý công việc đều trội hơn mọi người.
33-Cựu giao : người quen biết cũ.
34-Kinh bang, “Kinh bang tế thế”, “Kinh tế” : Quản lý coi sóc
việc nước (cốt để cứu đời)
35-Pháp binh quỷ khấp thần sầu : Tài năng chính trị, quân sự đều giỏi đến mức quỷ phải than khóc, thần phải buồn bực, (vì không thể sánh bằng, không thể chống lại được).
36-Ngũ cổ đại phu : Đại phu 5 cỗ da dê, tức Bá Lý Hề, thừa tướng nước Tần thời thịnh trị của Tần Mục công.
37-Chung đỉnh : Cái đỉnh (nồi) và cái vạc, chuyên dùng để nấu thịt trong sân đình vua chúa. Chỉ những miếng mồi ngon, những lợi lộc do quan trường đem lại.
38-Thánh quân : Vua thánh, vua giỏi có tài và có đức độ
39-Cô nhạn lẻ bầy : Con nhạn lẻ, tách ra khỏi đàn.
40-Sức địch vạn quân : Sức chống lại được cả vạn người.
41-Tiền đồ : Con đường công danh sự nghiệp trước mặt.
42-Vinh quy : Về làng, về quê trong sự vinh hiển.
43-Lương y : Thầy thuốc giỏi, thầy thuốc tốt.
44-Hương lân : Hàng xóm láng giềng nơi quê nhà.
45-Tòng phu : Theo chồng
46-Đại sự thành công : Việc lớn (việc kiến công dựng nghiệp) thành công.
47-Viễn quy thỏa nỗi mong chờ : Người đi xa về, là một nỗi mừng lớn lao, cũng thỏa lòng chờ mong.
Tục ngữ có câu “Tân thú bất như viễn quy”, nghĩa là “ Vợ chồng mới cưới hạnh phúc chẳng bằng một người đi xa về”
48-Cảm tạ : Cám ơn
49-Ân tình keo sơn : Tình nghĩa vợ chồng quyến luyến nhau, dính chặt như keo, như sơn, khó nỗi chặt đứt được.
50-Thiên cơ huyền bí nhiệm mầu : Lẽ trời bí mật, con người không thể biết trước được điều gì sẽ xảy đến trong tương lai.
51-Sinh ly tử biệt : Xa nhau lúc sống, chia lìa nhau vì cái chết.
52-Ngàn thu : ngàn năm, mãi mãi.
53-Thủy chung : Trước sau như một, không thay đổi lòng dạ.
54-An bài : Sắp đặt chu đáo mọi việc.
55-Nương tử : Tiếng gọi “vợ”
56-Đoạt ấn vương hầu : Giành được ấn (con dấu) vương hầu, tức là được phong tước “vương, hầu”
#22
HanSiNguyen
28.04.2009 01:26:29 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Mai sau đoạt ấn vương hầu
Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?
oOo
-8-
PHẠM THƯ SANG TẦN
Băng ngàn vượt suối mải mê
Vầng dương le lói, trăng khuya la đà
Gióng cương trực chỉ Tây Hà
Tần kề một bước, Ngụy xa ngàn trùng
Rừng mai khuất đám bụi hồng (721)
Lửa hương se thắt chạnh lòng mà đau
Băng băng xe lướt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt khơi sầu chinh nhân
Xa xa thấp thoáng non Tần
Biết bao gian khổ khó khăn sẵn chờ :
-“Mảng nghe, Tần chẳng có vua !
Thái hậu nhiếp chính, ầu ơ điện tiền
Nhương hầu tung hứng nghịch thiên
Hoa Dương thế lớn đảo điên cung đình
Gian nhân kết đảng lộng hành (731)
Dối trên lừa dưới, chông chênh miếu đường
Tam đầu oai trấn Hàm Dương
Đa nghi, chuyên chế, nhiễu nhương nước nhà
Đỉnh chung, chân vạc chia ba
Tần vương ngồi đó chỉ là hình nhân
Dẫu rằng chí muốn hưng Tần
Chẳng qua pho tượng nhận phần tung hô
Chuột bầy đục khoét của kho
Càng buồn, càng ngẫm, càng lo, càng sầu
Quyền rơm biết tính làm sao (741)
Ôm cằm, bó gối, cúi đầu, khoanh tay
Triều đường rặt những cáo cầy
Xương khô trong mả múa may cung đình
Thằng hề, con rối hiển vinh
Người rơm áo mão, bù nhìn cân đai
Đui mù ra dáng hiền tài
Giả câm giả điếc lộc trời đầy no
Chung quanh lục quốc rình chờ
Rõ ràng thế nước bên bờ vực sâu
Hỏi quan biệt giá nghĩ sao ?” (751)
Vương Kê hết vía, gục đầu thất kinh :
-“Cớ sao thông tỏ nội tình ?
Mọi điều phân tích rành rành chẳng sai !
Tinh thông thuật số mà hay
Hoặc là thần nhãn, có tài nhìn xa ?”
Lộc cười :-“Trong đạo binh gia
Việc đầu tiên, phải biết ta biết người
Thông tin quán triệt nơi nơi
Lão thông địa lý, thiên thời, nhân tâm,
Lược thao, cơ số, lục nhâm (761)
Nội tình liệt quốc thảy nằm trong tay !”
Vương rằng :-“Sự thể ngày nay
Làm sao thoát khỏi nạn tai gần kề ?
Rửa tai cung kính xin nghe”
Lộc rằng :-“Kế lớn khó bề giải phân
Vô mưu sao dám sang Tần
Thân vào hổ huyệt cam phần thịt tươi ?
Vua Tần nếu quyết dùng tôi
Ắt là trừ được ba ngôi lộng quyền
Dụng nhân mà dụng không chuyên (771)
Để cho kẻ xấu nói dèm, uổng công
Bao giờ đến trước ngai rồng
Bấy giờ sách lược mới mong tỏ bày !”
Xa xa mù mịt khói mây
Trống khua chuyển đất, cờ bay tung trời
Nhương hầu đang lúc rong chơi
Tiền hô hậu ủng ngời ngời dung quang
Kỵ binh mở lối dẹp đường
Tàn hồng, tán tía, lọng vàng uy nghi
Lộc rằng:-“Kẻ ấy đa nghi (781)
Không ưa khách tướng cận kề long nhan
Tránh voi, tránh trước cho an
Tiểu tâm nhiễu sự, nghi nan lụy mình !”
Dứt lời cùng với An Bình
Chui vào bao bố, giấu mình trong xe
Loan xa thoắt đã cận kề
Nhương hầu gặng hỏi Vương Kê đủ điều :
-“Biện sĩ là lũ dân điêu
Mồm loa mép giải ra chiều thánh nhân
Chớ đem lũ ấy vào Tần (791)
Khua môi múa mép thêm phần rối ren !”
Vương Kê vâng dạ cho yên
Tạ từ lui gót, thẳng miền Hàm Dương
Một lòng kính phục họ Trương
Trăm điều tiên liệu, tinh tường đủ trăm
Bấy giờ Lộc lại bảo thầm :
-“Nhương hầu kế xảo, mưu thâm cả đời
Có điều tính chậm hơn người
Xe chưa khám xét, chưa thôi ý tà
Thế nào cũng đuổi theo ta (801)
Chi bằng gấp rút chia ra hai đường
Biệt giá đi thẳng Hàm Dương
Tôi tìm lối rẽ, tắt đường mà đi
Khám xe tất chẳng thấy gì
Bấy giờ tụ hội cùng về mới xong”
Vương Kê thực đã tin lòng
Chia tay đôi ngả, bụi hồng đôi nơi
Quả nhiên lốc xoáy mù trời
Kỵ binh thoắt đuổi đến nơi hét hò :
-“Khám xe ! Bắt kẻ cuồng đồ (811)
Chớ cho ngoại chủng lọt vô nước Tần !”
Khám đi xét lại mấy lần
Cuối cùng tưng hửng, tần ngần mà đi
Xá nhân cho chí Vương Kê
Thảy đều thán phục tài nghề họ Trương
Rõ là hào kiệt phi thường
Xét người tính việc tỏ tường tinh anh
Chờ nhau chưa quá nửa canh
Ung dung xe ngựa nhập thành Hàm Dương
Tạm về dinh thự họ Vương (821)
Bồ đào rũ sạch bụi đường bấy lâu
Của ngon vật lạ dâng hầu
Lại cho con cháu dập đầu bái sư
Vương Cung, Vương Kiếm bấy giờ
Phất phơ ba chỏm, thò lò mũi xanh
Ngày sau thiên cổ lưu danh
Gồm thâu lục quốc, tung hoành tài trai
Một tay Trương Lộc tài bồi
Gọi là trả nghĩa giúp người tri âm,
Ở Tần vẫn nhớ Mai Lâm (831)
Trúc tiêu réo rắt, hồ cầm nỉ non
Bao giờ về được cô thôn,
Thăm mồ cha mẹ, cho tròn thân danh
Bao giờ sự nghiệp tác thành,
Vinh thê ấm tử, sử xanh chói ngời
Bao giờ đôi bóng chung đôi,
Lau khô nước mắt cho người chờ mong
Trăng khuya lơ lửng đầu song
Quỳnh Hoa chắc hẳn nhớ nhung bên trời
Nửa vầng trăng sáng chơi vơi (841)
Nửa vầng kia đã khuất vời ngàn dâu
Trời làm dâu bể, bể dâu
Cạn dòng nước mắt, âu sầu trông trăng
Hồn nương mây ấm mấy tầng
Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi
Trời cao có xuống làm người,
May ra biết xót thương đời biệt ly !
Hàn Sĩ Nguyên
#23
HanSiNguyen
28.04.2009 01:28:39 (
permalink
)
0
GIẢN CHÚ
đoạn 8, trang 40-44
PHẠM THƯ SANG TẦN
1-Nhiếp chính : Tạm nắm quyền chính, xử lý mọi việc trong
triều đình thay cho vua còn nhỏ tuổi
2-Nghịch thiên : làm trái ngược lại lẽ trời (Ý nói : Nhương hầu Ngụy Nhiễm là bề tôi nhưng lại lấn quyền, hiếp vua)
3-Tam đầu : Chế độ chính trị do 3 người đứng đầu bộ máy nhà nước, có quyền hành ngang nhau.
4-Hình nhân : Hình người cắt bằng giấy, để phục vụ cho việc cúng bái diệt yêu trừ ma, đặc biệt là khi cúng cô hồn tháng bảy. Ý chỉ người không có sự sống thật sự, không có quyền hành.
5-Quyền rơm : Tục ngữ “Quyền rơm, vạ đá”, quyền hành thì mỏng manh, nhẹ, yếu như cọng rơm; còn tội vạ, trách nhiệm thì nặng như đá tảng.
6-Cáo cầy : Cáo chồn, chó hoang. Chỉ loại người sống theo bản năng, thấy lợi là chụp giật, tranh giành, cấu xé lẫn nhau.
7-Xương khô trong mả : Ý nói những con người sống mà như đã chết, khô mục, rệu rã, không có sức sống.
8-Thằng hề : Kẻ chuyên mua vui cho người khác.
9-Con rối : Người hoặc vật giả, cử động được là do kẻ khác giật dây.
10-Người rơm, bù nhìn : Hình người bằng rơm, đặt ở ruộng rẫy nhằm mục đích xua đuổi chim chóc, không cho phá lúa hoặc hoa màu sắp đến kỳ thu họach.
11-Thuật số : Thuật bói toán.
12-Thần nhãn : Mắt thần. Theo truyền thuyết, trên thiên đình có 2 vị thần, là “Thiên Lý Nhãn”, và “Thuận Phong Nhĩ”. Một người có mắt thần có thể nhìn thấy việc xảy ra cách xa ngàn dặm. Một người có tai thần, có thể đón luồng gió mà nghe được chuyện cách xa ngàn dặm.
13-Đạo binh gia : Phép cầm quân, thuật dùng binh.
14-Quán triệt : Hiểu rõ đến tận cội rễ, ngọn nguồn.
15-Địa lý : Hiểu thấu hình thế đất đai, chỗ nào có thể dàn trận, chỗ nào có thể phục binh, đâu là địa lợi, đâu là tử địa, hiểm địa, để phục vụ cho việc dùng binh.
16-Thiên thời : Xem thiên tượng (gió, mây, trăng, sao) mà biết trước được thời tiết
17-Nhân tâm : Hiểu được lòng dân theo ai, chống ai. Hiểu được ý dân muốn gì, cần gì ...
18-Lược thao : Tài năng, mưu trí trong hành quân, đánh trận
19-Cơ số : Các thuật toán, áp dụng vào việc tổ chức quân đội, sao cho các cánh quân phối hợp chính xác được với nhau.
20-Lục nhâm : Thuật bói toán dựa trên “Dịch lý” của vua Phục Hy (bói Tiên Thiên) và Chu Văn Vương (bói Hậu Thiên) để lại, có thể đoán biết được cả quá khứ, lẫn vị lai.
21-Nội tình liệt quốc : Những chuyện thầm kín, bí mật, thâm cung bí sử của các nước.
22-Giải phân : Giải thích và phân tích một vấn đề nào đó, giúp cho người khác có thể dễ dàng hiểu được.
23-Hổ huyệt : Hang cọp, cũng như “Long đàm” (đầm rồng), là những từ để chỉ các nơi nguy hiểm, dễ đến nhưng khó về, sa vào những nơi ấy khó lòng mà toàn mạng.
24-Tiền hô hậu ủng : Kẻ trước hét dọn đường, kẻ sau ủng hộ.
25-Khách tướng : Tướng vốn xuất thân từ nước khác, không phải là người bản xứ
26-Long nhan : Mặt rồng, tức là “Vua”.
27-Tiểu tâm nhiễu sự : Kẻ có lòng nhỏ nhen, hay gây ra lắm việc rắc rối, gây khó dễ cho người khác.
28-Loan xa : Xe trang trí hình chim loan, chim phượng.
29-Biện sĩ : Kẻ giỏi tài miệng lưỡi, giỏi tranh luận.
30-Mồm loa mép giải : Như “Mồm năm miệng mười”, nghĩa là nói nhiều, nói lắm, hay đặt bày ra nhiều chuyện.
31-Kế xảo : Mưu kế tinh xảo, khéo léo lừa người mắc vào bẫy.
32-Cuồng đồ : Kẻ vừa ngu ngốc vừa cuồng ngông, làm bậy, nói bừa không cần biết gì đến lẽ phải.
33-Ngoại chủng : Kẻ thuộc về chủng tộc khác, không phải là người bản xứ.
34-Bái sư : Vái lạy ai đó, để nhận người ấy làm thầy.
35-Thiên cổ lưu danh : Để lại tiếng tốt đến muôn đời.
36-Tung hoành : (Vẫy vùng) Ngang dọc
37-Tài bồi : Vun đắp cho ai nên người.
38-Người tri âm : Xuất xứ từ điển tích “Bá Nha, Tử Kỳ”. Bá Nha giỏi nghề gảy đàn, Chung Tử Kỳ lại có tài nghe tiếng đàn mà hiểu được tâm sự của Bá Nha.
-“Tri âm” nghĩa là “nghe tiếng đàn hiểu được tâm sự”.
Nghĩa rộng : Người tri âm là người bạn tốt có khả năng hiểu rõ nỗi lòng thầm kín của mình, và cũng sẵn sàng chia sẻ buồn vui với mình.
-“Tri kỷ” (từ tương tự) nghĩa là “hiểu mình”.
39-Trúc tiêu : Sáo trúc.
40-Hồ cầm : Đàn tỳ bà.
41-Cô thôn : Xóm làng nhỏ bé, cô quạnh, vắng vẻ.
42-Sự nghiệp tác thành : Hoàn thành được sự nghiệp.
43-Vinh thê ấm tử : Làm vẻ vang cho vợ, giúp cho con được “tập ấm” (nối chức của cha khi cha chết).
44-Khuất vời : Khuất dạng ở mãi tận nơi xa vời vợi.
45-Dâu bể, bể dâu : Cũng như “Tang thương” là các từ tắt do câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh hóa thành ruộng dâu) mà ra. Các từ này đều có ý nói “việc đời thay đổi”, mới vừa là bể, thoắt đã thành ruộng dâu.
#24
HanSiNguyen
29.04.2009 08:52:56 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Hồn nương mây ấm mấy tầng
Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi
Trời cao có xuống làm người,
May ra biết xót thương đời biệt ly !
-9-
TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG
Nói về yếu địa Tây Kỳ
Ấp phong vạn hộ thuộc về Tần Doanh
Nối đời cho đến Chu Bình (851)
Có công, vua thưởng hai thành Kỳ, Phong
Dần dà thôn tính Tây Nhung
Tần Mục nhân nghĩa võ công hơn đời
Nhìn xa, trông rộng, yêu người,
Lưu danh Ngũ bá chói ngời Xuân thu
Tin dùng Ngũ cổ đại phu
Dân giàu nước mạnh, cơ đồ thênh thang
Hiếu công sự nghiệp vẻ vang
Nghe lời Vệ Ưởng, theo đàng Pháp gia
Quân lương vũ khí hằng hà
Giáp binh cường tráng, chiến xa chật đường
Đời ba mươi mốt xưng vương
Vây Tề, đánh Sở, mở mang cõi bờ
Huệ Văn vương giỏi quân cơ (861)
Thanh gươm yên ngựa, cướp cờ lập công
Gồm thâu Ba quận, Thục trung
Vua tôi lục quốc hãi hùng thiên oai
Con là Tần Vũ nối ngôi
Muốn xem cửu đỉnh, dạo chơi Lạc thành
Trẻ người hiếu thắng ham danh
Cậy tài ỷ mạnh gây thành vạ to
Đỉnh rơi dập nát chân vua
Vũ vương phút chốc giã từ nhân gian
Chiêu Tương năm tuổi đăng đàn (871)
Thay anh cai quản giang san nước Tần
Tuyên thái hậu, Hoa Dương quân
Nhương hầu Ngụy Nhiễm định phần triều cương
Trải ba mươi sáu năm trường
Tam đầu nhiếp chính, Tần vương bù nhìn
Định tâm cải cách lắm phen
Trong ngoài cô lập, buông rèm giả ngơ
Cung vàng điện bạc hững hờ
Rượu ngon thịt béo thẫn thờ, buồn thay
Hiền tài như lá thu bay (881)
Lấy ai báo quốc dựng xây miếu đường
Hình thành cơ nghiệp bá vương
Tung hoành phỉ chí, bốn phương cúi đầu
Khi thiết yến, lúc khai chầu
Bá quan vạn tuế, chư hầu tung hô
Chạnh nhìn một lũ ngây ngô
Tham danh hám lợi, chực chờ bon chen
Tâm tư nặng trĩu ưu phiền
Nước non nặng trĩu sầu riêng một mình
Vương Kê vào trước sân đình (891)
Chi li thuật rõ nội tình Ngụy đô
Dâng lên dăm bức dư đồ
Nói lời tiến dẫn giúp cho hiền thần
-“Người này đáng mặt thần nhân
Tài kiêm văn võ, quỉ thần cũng thua
Hiền tài bậc nhất bây giờ
Pháp binh thông tỏ, thi thư am tường
Thật lòng muốn giúp đại vương
Xin cho kiến giá, bàn phương yên Tần”
Tần vương mải nghĩ xa gần (901)
Một phần nghe lọt, chín phần buông trôi
Hững hờ, không hỏi một lời
Cho làm Tân khách, tạm thời lưu dung,
Bao giờ lập được đại công
Bấy giờ sẽ liệu sắc phong công hầu !
Vương Kê lặng lẽ lui mau
Mặt dài thườn thượt, dạ sầu mênh mang
Đường mây tưởng đã thênh thang
Xăm xăm rời Ngụy, xênh xang về Tần
Ngỡ rằng được gặp thánh quân (911)
Phò vua, giúp nước, an dân, cứu đời
Giúp người, giúp chẳng đến nơi
Vô phương, đành phải liệu bài hoãn binh
Trước sau đối đãi chân thành
Một lòng cung kính, hết tình tri âm
Bàn cờ, cuộc rượu, ca ngâm
Trúc tiêu tiêu muộn, hồ cầm giải khuây
Hồn nương nơi cánh rừng mai
Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau
Lững lờ nước chảy về đâu ? (921)
Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh
Hàn Sĩ Nguyên
#25
HanSiNguyen
29.04.2009 08:54:36 (
permalink
)
0
GIẢN CHÚ đoạn 9, trang 44-46
TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG
1-Yếu địa : Vùng đất quan trọng về mặt chiến lược
2-Tây Kỳ : Vùng đất phía Tây, Tây Bắc Trung quốc, bao gồm các xứ Lũng Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, Hán Trung, Ba Quận. Vùng đất Tây Kỳ này núi sông vô cùng hiểm trở, nhưng đất đai lại phì nhiêu, dân cư đông đúc mà dũng mãnh. Phía Nam thông với Kinh Châu, Tương Dương, phía Bắc là rợ Khuyển Nhung, Hung Nô, sườn phía Đông của giải đất này được che chở bởi núi non trùng điệp, thông với Trung Nguyên (Tam Tấn : Triệu,
Hàn, Ngụy) bằng cửa ải Hàm Cốc, vùng đất Hồ Quan, nhìn ra Tam Xuyên, Đồng Quan, Lạc Dương. Trong lịch sử phân tranh của Trung quốc, có thể nói lực lượng nào khống chế được giải đất Tây Kỳ này đều dễ dàng thành công trong việc thống nhất thiên hạ. Chu Vũ vương(Cơ Phát), Tần Thủy hoàng (Doanh Chính), Hán Cao tổ (Lưu Bang) đều khởi từ Tây Kỳ mà dựng nên nghiệp Đế. Trong thời Tam Quốc (sau Đông Hán), Hán Chiêu Liệt hoàng đế (Lưu Bị) tuy thế lực rất non yếu, nhưng nhờ khống chế được Ba Thục và một phần đất Lũng, cũng đủ để “chia ba thiên hạ” cùng Ngô, Ngụy.
3-Tần Doanh : Nước Tần vốn được vua Tây Chu phong cho họ Doanh, họ ấy vì thế cũng được gọi là họ Tần Doanh
4-Tây Nhung : tức người Khương,Tây Khương, ở giáp giới với Lũng Tây, một tộc người thiểu số thường bị gọi một cách khinh miệt là rợ Khuyển Nhung. Dân ít, nhưng vô cùng dũng mãnh, can đảm. Thường xuyên uy hiếp nhà Tây Chu, sau bị Tần thôn tính dần dần.
5-Tần Mục công : tên là Nhâm Hiếu, vua thứ 13 của nước Tần, trị vì 39 năm (659-621tr.CN) là một trong Xuân thu Ngũ bá.
6-Ngũ cổ đại phu : tức Bá Lý Hề (xem chú thích ở đoạn 5)
7-Tần Hiếu công : tên là Cừ Lương, vua thứ 30 của nước Tần trị vì 24 năm (361-338 tr.CN), cũng là vị vua Tần cuối cùng xưng tước “Công”.
8-Vệ Ưởng : tên là Công Tôn Ưởng, người nước Vệ (nên được gọi là Vệ Ưởng), sau giúp Tần có công lớn được phong tước ở đất Thương (nên cũng còn được gọi là Thương quân, Thương Ưởng). Vệ Ưởng vốn là một trong số các nhân tài kiệt xuất thời Chiến quốc, làm Thừa tướng nước Tần đời Tần Hiếu công, thực hiện đường lối chính trị của Pháp gia, thi hành Bá đạo (đạo làm bá chủ) giúp Tần trở thành một cường quốc. Cuối đời, bị hành hình “Xa liệt” (Năm chiếc xe phanh thây).
9-Pháp gia : Một trường phái triết học, chính trị học thời Xuân thu, do Hàn Phi tử xướng xuất, chủ trương thiết lập cách cai trị chuyên chế ở trong nước, dựa trên những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp, để mau chóng làm cho dân giàu nước mạnh, tiến tới đánh đổ các chư hầu (vốn là các chế độ quân chủ phong kiến mà đất đai và quyền lực bị xé vụn bởi các lãnh chúa địa phương), mục đích thiết lập một nền quân chủ chuyên chế tập quyền, trong đó quyền lực tập trung về một nhà nước trung ương, thành lập ra tỉnh, thành, quận, huyện; xóa bỏ hoàn toàn các chư hầu.
Biện pháp thực hiện của Pháp gia là “Bá đạo” (đạo làm bá chủ : dựa trên sức mạnh, chuyên chế, hình phạt, đánh đổ hẳn cái cũ sai sót, thay bằng cái mới tích cực hơn), đối lập với “Vương đạo” (dựa trên nhân nghĩa, thuyết phục, giáo dục, kiên trì sửa sai, chỉnh lý cái xã hội cũ chưa tốt thành cái tốt hơn) của Nho gia.
Các đại diện xuất sắc của phái Pháp gia gồm có Vệ Ưởng, Lý Tư ... Cả hai đều là Thừa tướng nước Tần, góp công lớn khiến Tần trở nên cường thịnh. Chính Lý Tư sau này đã giúp Tần Thủy hoàng thống nhất Trung quốc, lập nên Đế chế Tần.
10-Hằng hà : (hằng hà sa số) nhiều, rất nhiều (nhiều như số cát ở sông Hằng).
11-Giáp binh : quân mặc áo giáp
-Chiến xa : Xe trận, bằng gỗ được bọc sắt, do trâu hoặc ngựa kéo. Thường chở theo quân cung thủ hoặc quân xung kích tinh nhuệ. Chiến xa là một lực lượng vừa mạnh vừa cơ động, rất quan trọng trong chiến tranh thời cổ đại.
12-Tần Huệ Văn vương : tên là Tứ, con Tần Hiếu công. Đây là vị vua thứ 31 nhà Tần, người đầu tiên xưng “Vương”, vua này võ công thao lược đều hơn người, luôn năm gây hấn đánh phá lục quốc. Hai anh em Tần Vũ vương và Tần Chiêu Tương vương đều là con của vua này.
13-Ba quận : ở phía Nam đất Thục. Thục trung là tên gọi chung chỉ Thục quận và Hán Trung gộp lại, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Đất Ba Thục này vô cùng hiểm trở.
14-Tần Vũ vương : Tên là Đãng, con trai Tần Huệ Văn vương, anh ruột Tần Chiêu Tương vương. Vũ vương là một vị vua trẻ, dũng cảm, nhưng hiếu thắng, do “cử đỉnh” tranh hơn thua với bọn thuộc hạ là Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, bị tuột tay, đỉnh nặng ngàn cân rơi xuống đè dập nát đôi chân. Em là Chiêu Tương vương
lên nối ngôi lúc mới 5 tuổi
15-Cửu đỉnh : 9 cái đỉnh đồng (lư đồng) lớn, do nhà Chu sai đúc bằng đồng đen. Cửu đỉnh tượng trưng cho chín châu lớn trong cả nước, nhà Chu sở hữu cửu đỉnh là nắm giữ biểu tượng cai trị cả thiên hạ gồm 9 châu thời ấy.
16-Lạc thành : thành Lạc Dương, kinh đô của nhà Đông Chu.
17-Tần Chiêu Tương vương : gọi tắt là Tần Chiêu vương, tên Tắc, em ruột Tần Vũ vương. Lên làm vua lúc 5 tuổi, trải qua 36 năm chỉ là hư vị. Sau khi bãi chức Nhương hầu, trọng dụng Phạm Thư, mới lấy lại được thực quyền. Đời vua này để lại nhiều công nghiệp lớn lao, các chiến công cũng vô cùng hiển hách, tạo tiền đề thuận lợi cho Tần Thủy hoàng (cháu gọi Chiêu Tương vương là ông cố) gồm thâu lục quốc sau này.
18-Tuyên thái hậu : Vợ vua Huệ Văn vương, mẹ của Vũ vương và Chiêu Tương vương, nhiếp chính suốt 36 năm trường. Quyền bính trong thời kỳ này được Tuyên thái hậu phân bổ cho 4 người là : Nhương hầu, Hoa Dương quân (2 người em), Kinh Dương quân, Cao Lăng quân (2 người con khác của thái hậu, em Chiêu Tương vương).
19-Hoa Dương quân : tên là Thiên Nhung, em cùng cha với Tuyên thái hậu
20-Nhương hầu Ngụy Nhiễm : Em cùng mẹ với Tuyên thái hậu, làm thừa tướng nước Tần suốt thời gian Chiêu Tương vương còn nhỏ. Sau bị Phạm Thư lấy mất quyền chức.
21-Kiến giá : Gặp vua.
22-Tân khách : Chức quan dành cho người nước khác đến giúp việc cho Tần.
23-Lưu dung : Cho phép ở lại nước Tần, chờ cơ hội lập công giúp nước.
24-Đường mây : đường công danh.
25-Vô phương : hết cách, chẳng còn cách nào khác.
26-Hoãn binh : Kéo dài thời gian, chờ cơ hội tốt hơn
27-Vô vọng : Hết hy vọng, không có triển vọng gì.
#26
HanSiNguyen
30.04.2009 06:52:18 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Hồn nương nơi cánh rừng mai
Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau
Lững lờ nước chảy về đâu ? (921)
Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh
-10-
PHẠM THƯ BIỂU
Tây Tần từng trải việc binh
Tướng hay quân giỏi, tráng đinh can trường
Vui câu túy ngọa sa trường
Bọc thây da ngựa, bốn phương danh truyền
Đông bình Triệu, Bắc phá Yên
Vây Tề, hãm Sở, đảo điên Ngụy Hàn
Khắp nơi trắng xóa khăn tang
Xương phơi chật núi, máu loang ngập đồng
Mặc cho tướng sĩ trận vong (931)
Miễn sao đại tướng nên công muôn đời
Tướng Tần Bạch Khởi thiên tài
Hồ Thương, Vương Hạt đồng thời vang danh
Người trung dũng, kẻ hùng anh
Tiếp tay, chắp cánh, thêm nanh Nhương hầu
Lục quốc in dấu vó câu
Chiến công hiển hách, khô lâu bạt ngàn
Bạch Khởi nhận tước Võ An
Tướng quân, tướng quốc uy càng thêm uy
Nương nhau kẻ xướng người tùy (941)
Nhất hô bá ứng, kể gì Tần vương
Cường thần khuynh đảo miếu đường
Triều trung lấn át, biên cương lộng hành
Tiếng đồn lan khắp kinh thành
Nhương hầu chuẩn bị tuyển binh đánh Tề
Giáo gươm, cờ xí, ngựa xe
Trấn biên nhộn nhịp, kinh kỳ xôn xao
Quyết tâm mở rộng đất Đào
Chiếm vùng Cương Thọ nhập vào đất Nhương
Dựng xây nền móng kỷ cương (951)
Gặp thời thoán vị, làm vương nước Tần
Giả như nước ngập đến chân
Lui về xứ ấy, yên thân chư hầu !
Chị em Tuyên hậu đồng mưu
Chiêu vương biết ý, bạc đầu vì lo
An Bình, Trương Lộc bấy giờ
Suốt năm trông ngóng, đợi chờ mỏi mê
Nghe tin Tần sắp đánh Tề
Biết rằng cơ hội đã kề một bên
Vội vàng viết biểu dâng lên (961)
Nhờ quan yết giả trước đền dâng vua :
-“Trộm nghe : Minh chúa thuở xưa
Công to thì thưởng, tài sơ chẳng dùng
Khó nhọc, bổng lộc trả công
Lập nhiều chiến tích, tước phong công hầu
Trị dân giỏi, chức quan cao
Khiến nên ẩn sĩ đua nhau giúp đời
Lời hèn nếu chẳng đơn sai
Kíp cho áp dụng, chớ bài ngoại nhân
Giả như minh chúa phân vân (971)
Thân này ở lại nước Tần mà chi
Cấp cho một ngựa một xe
Hồ Quan thần sẽ liệu bề giong cương
Xưa nay vua chúa tầm thường
Xa người trung nghĩa, gần phường tiểu nhân
Hiền vương, thánh chúa cao minh
Thưởng công phạt tội công bình, uy nghiêm
Khách khanh Trương Lộc tài hèn
Sức không chịu nổi một phen búa rìu
Có đâu liều mạng nói điêu (981)
Để mà chuốc lấy những điều lụy thân
Chẳng qua chí muốn hưng Tần
Gối sương nằm tuyết đã gần một năm
Hạn hán trông đợi mưa dầm
Ngu dân trông đợi thánh tâm sớm chiều
Phải chăng kẻ nịnh thì yêu
Lời người trung trực bỏ liều không nghe ?
Hay vì yết giả Vương Kê
Chức quan hèn mọn khó bề tiến nhân ?
Khiến nên bệ hạ khinh thần (991)
Chẳng cho gặp mặt, chẳng cần mưu hay ?
Những điều sâu sắc ngày nay
Dám đâu liều lĩnh vung tay viết bừa ?
Trung ngôn nếu hợp ý vua
Kế hay bớt chút thì giờ nghe qua
Giả như nghịch nhĩ sai ngoa
Thân này cam chịu làm ma không đầu
Nêu gương hậu thế về sau :
Trung thần nghĩa sĩ chớ vào Hàm Dương !”
Tần vương đọc hết tấu chương (1001)
Tin thì tin vậy, nghi dường còn nghi
Truyền cho yết giả Vương Kê
Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời
Ly cung chuẩn bị chúc bôi
Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao.
Hàn Sĩ Nguyên
#27
HanSiNguyen
01.05.2009 07:34:06 (
permalink
)
0
Giản chú đoạn 10
PHẠM THƯ BIỂU
#28
HanSiNguyen
01.05.2009 07:38:47 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Truyền cho yết giả Vương Kê
Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời
Ly cung chuẩn bị chúc bôi
Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao.
-11-
KIẾN GIÁ TẦN VƯƠNG
Hoạn quan giữ cửa truyền rao
-“Ai là Trương Lộc mau vào gặp vua .”
Trương Lộc khi ấy giả vờ :
-“Thuở nay chỉ biết Tần thờ ba ngôi
Ngai vàng bỏ trống lâu rồi (1011)
Vua nào nay lại cho vời đến ta ?”
Dứt lời, xộc thẳng vào tòa
Cận thần, hoạn giả thảy là thất kinh
Tấu trình mọi lẽ đinh ninh
Tưởng vua nổi trận lôi đình mau mau
Nào ngờ trúng chỗ thương đau
Trái tim rỉ máu, nghẹn ngào, băn khoăn
Truyền cho đuổi hết thị thần
Bên thềm cung kính, trước sân cúi đầu
Nội cung trân trọng rước vào (1021)
Đãi như thượng khách, thỉnh cầu cần vương
Quì ngay bên gối họ Trương
Lắng tai chăm chút lời vàng hiền nhân
Đáp lời :-“Dạ ! Dạ !” ba lần
Trước sau chẳng vội tỏ phân can tràng
Vua Tần lệ nhỏ hai hàng :
-“Nước nhà bất hạnh, quả vương vô tài
Tiên sinh nay đã đến đây
Sao không dạy bảo, giãi bày thiệt hơn
Phải chăng vì trẫm đức non (1031)
Tiên sinh không luận mất còn thấp cao ?”
Lộc rằng :-“Chẳng phải thế đâu !
Ba lần vua hỏi, lẽ nào không thưa
Chẳng qua đang lúc thẫn thờ
Tin nghi chưa rõ, thân sơ chưa tường
Tỷ Can, Cơ Tử đời Thương
Đều là tôn thất, họ hàng cùng vua
Kể thân, thân mấy cho vừa
Vua không tin cậy, mưu đồ uổng công
Trụ vương tất phải bại vong (1041)
Thành Thang cơ nghiệp bỗng dưng tan tành
Văn vương thấu lý đạt tình
Dẫu sơ nhưng vẫn trọn tin hiền tài
Thực thi kế lạ mưu hay
Trao quyền Khương Thượng đổi thay đất trời
Dựng nên cơ nghiệp ngàn đời
Chuyện xưa còn đó chói ngời sử xanh
Sơ thân chẳng giúp việc thành
Tồn vong chỉ một chữ tin hay ngờ
Thần là khách lạ tình sơ (1051)
Dầm sương dãi tuyết chực chờ gian truân
Kể thân, chẳng có chi thân
Kể tin, tin được ba phần hay không ?
Nói ra đại kế hưng vong
Phạm vào cốt nhục, vương vòng sát thân
Nghẹn lời, mà dạ băn khoăn
Tin nghi hai lẽ, phân vân ngỡ ngàng”
Vua rằng :-“Đá biết tuổi vàng,
Tạ hoàng thiên, giúp an bang cứu đời
Quả nhân một mực theo lời (1061)
Trên thời thái hậu, dưới thời quan khanh
Tiên sinh cứ việc tấu trình
Sơ thân chớ ngại trọng khinh thói thường
Trẫm dù chẳng phải hiền vương
Biết phân cao thấp, hiểu tường trước sau
Bao nhiêu kế lạ mưu sâu
Quả nhân bái gối cúi đầu xin nghe”
Lộc rằng :-“Bá nghiệp gần kề
Đại thần vụng tính, khó bề nên công
E rằng cơ nghiệp tổ tông (1071)
Về tay người khác, chỉ trong sớm chiều !”
Mồ hôi tuôn đẫm hoàng bào :
-“Tiên sinh nói rõ trước sau trẫm tường”
Lộc rằng :-“Mưu sự bá vương
Sâu rễ bền gốc, hùng cường tại dân
Dần dà thôn tính nước gần
Như sâu cuốn chiếu, như tằm ăn dâu
Nước xa tìm cách kết giao
Ấy là kế lớn, lẽ nào nghịch thiên
Nhương hầu, Bạch Khởi đảo điên (1081)
Rõ ràng chỉ biết lợi riêng cho mình
Người hám lợi, kẻ tham danh,
Của kho khánh tận, sinh linh điêu tàn
Đó đây vang tiếng khóc than
Cô nhi quả phụ khăn tang khắp trời
Khô lâu vương vãi nơi nơi
Bao năm chinh chiến, đất trời ủ ê
Cuối cùng Tần được tiếng chê
Hồ Quan cô quạnh trông về Hàm Dương
Hào Sơn còn đó núi xương (1091)
Co mình Hàm Cốc, bá vương nỗi gì ?
Bây giờ lại chực đánh Tề
Nhương hầu thắng trận thêm bề vinh hoa
Thất cơ, tội đến cả nhà
Tặc thần nghịch đảng hẳn là phế vua
Miếu đường Tần quốc bấy giờ
Người dưng khác họ chực chờ lên ngôi !
Ngày nay đại thể rõ rồi
Nếu không tính trước, ngậm ngùi về sau
Ngự lâm củng cố cho mau (1101)
Kế là hạ lệnh Nhương hầu triệt quân
Một bầy gian đảng nịnh thần
Bấy giờ khép tội khi quân thải hồi
Chỉ e vua chẳng dùng tôi
Để cho phản tặc kịp thời ra tay !”
Vua nghe như lửa cháy mày :
-“Tiếc rằng không có nhân tài theo ta
Nội cung ngoại trấn gần xa
Toàn là phe đảng Nhương, Hoa lộng hành”
Lộc rằng :-“Thị vệ, Cấm binh (1111)
Hãy giao cho Trịnh An Bình chỉ huy
Người này ở Ngụy theo về
Nên trang nghĩa dũng, giỏi nghề kiếm cung
Thân cao vóc lớn chí hùng
Tiếng rền như sấm, oai phong hơn người
Anh em kết nghĩa lâu rồi
Đói no chia sớt, sẻ đôi lạnh lùng
Giao cho bảo vệ cấm cung
Ngự lâm quân tất một lòng phò vua
Bấy giờ liệu gió phất cờ (1121)
Bãi quan Ngụy Nhiễm chớ cho đánh Tề”
Vua Tần một dạ tin nghe
An Bình nhận chức Chỉ huy Cấm thành
Trương Lộc ẩn giữa quân doanh
Cơ nào đội nấy giáp binh rỡ ràng
Ngày ngày thao luyện chỉnh trang
Đợi khi hữu sự sẵn sàng ra tay
Thần long giam hãm lâu ngày
Thoát nơi giếng cạn, lên mây vẫy vùng
Tần vương ở miết cấm cung (1131)
Giả mê nữ sắc, tiệc tùng vui say
Dừng có mạch, vách có tai
Mọi bề cẩn trọng, chẳng ai nghi ngờ
Hàn Sĩ Nguyên
#29
HanSiNguyen
03.05.2009 15:36:08 (
permalink
)
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Tần vương ở miết cấm cung (1131)
Giả mê nữ sắc, tiệc tùng vui say
Dừng có mạch, vách có tai
Mọi bề cẩn trọng, chẳng ai nghi ngờ
-12-
AN BÌNH BẮT NGỤY XÚ PHU
An Bình bảo vệ cung vua
Canh phòng nghiêm ngặt, bất ngờ dò ra
Xú Phu họ Ngụy lân la
Luông tuồng nội thất, la cà tẩm cung
Bảnh trai mặt trắng môi hồng
Khiến Tuyên thái hậu đem lòng thương yêu
Trai tơ, gái góa cưng chiều (1141)
Kể chi phép nước, phạm điều nhân luân
Lục tuần bán dạ hồi xuân
Đong đưa đỉnh Giáp non Thần đong đưa
Mây mưa mặc sức mây mưa
Quản chi trát nhuốc bôi nhơ cung đình
Tình tang, dấm dúi tang tình
Bồng Lai rúc rích, rập rình Vu Sơn
Đào Nguyên lối cũ chưa mòn
Đường đường nhiếp chính hỏi còn sợ ai ?
Cặp kè đú đởn trên ngai (1151)
Du dương song tấu hết bài du dương !
An Bình mật báo Chiêu vương
Đùng đùng sấm nổ sét vang cung Tần :
-“Lệnh mau bắt kẻ gian nhân
Đem về cho trẫm đích thân lăng trì !”
Nực cười thay kẻ vô tri
Tưởng đâu lớn mật, ai dè bé gan
Đói ăn vụng, túng làm càn
Roi chưa kịp đánh, râm ran khóc oà
Dám đâu ong bướm vờn hoa (1161)
Chẳng qua dê cỏn oanh già kết đôi
Muôn năm để thế gian cười
Chút lòng ham hố, đi đời nhà ma !
Vua rằng :-“Tội khó dung tha,
Phải cho chém sạch cả nhà mới thôi,
Lơ đi, lửa giận khôn nguôi
Làm ra lớn chuyện, tiếng đời cười chê
Tiến lui bất tiện hai bề
Lại e thái hậu ngứa nghề không dung !”
Cho đòi Trương Lộc vào cung (1171)
Lộc rằng:-“Khó nỗi bít bùng, nhẩn nha
Việc này tất đã lan ra
Đến tai thái hậu khó mà yên thân
Khác nào nước đã đến chân
Mó hang rắn độc, nắn gân cọp già
Tổn thương đến kẻ bướm hoa
Ắt là thái hậu nổ ra tam bành
Giựt dây gian đảng hoành hành
Thế ta còn yếu khó giành phần hơn !
Chi bằng tạm nén căm hờn (1181)
Dùng ngay Ngụy tặc ra đòn mới cao
Gã này thái hậu thương yêu
Hẳn là vì gã, cam chiều ý ta
Triều trung buộc rút chân ra
Từ nay cung ngọc điện ngà rong chơi
Thuận lòng, ta sẽ giao người
Không ưng, ngọc đá đồng thời tan hoang
Ba ngoe gãy mất một càng
Lẽ nào còn sợ Hoa Dương, Nhương hầu ”
Vua khen kế ấy rất mầu (1191)
Giam ngay Ngụy tặc vào sau nội đình
Cắt người canh giữ nghiêm minh
Cho mời thái hậu tường trình đầu đuôi
Ván bài lật ngửa lên rồi
Khéo tay ràng buộc, liệu lời bao vây
Chơi dao, nắm cán mới hay
Chim sa vào rọ có bay đàng trời !
Thái hậu đành phải theo xuôi
Tự ra thánh chỉ, buông lơi quyền hành
Bãi ngôi, giáng chức Cao-Kinh (1201)
Triệt tiêu phe đảng, hậu đình nghỉ ngơi
Chỉ vì một món đồ chơi
Sao sao cũng phải cứu người mình thương
Giỏi thay mưu kế họ Trương
Uốn ba tấc lưỡi gãy càng gian nhân.
Hôm sau triệu tập quần thần
Trước thềm ngoài điện cấm quân sẵn sàng
“Cao Lăng cùng với Kinh Dương
Ngông nghênh cậy thế, vênh vang lộng quyền,
Chăm chăm thu vén của riêng (1211)
Nay cho bãi chức, tước quyền nhị quân
Hiền nhân Trương Lộc thay chân”
Lệnh Tuyên thái hậu bất thần ban ra
Quyền thần gian đảng xót xa
Cao, Kinh cúi mặt - Nhương, Hoa gục đầu
Nhìn nhau chưa hiểu vì sao,
Vua cho Trương Lộc đứng đầu khách khanh
Lẹ làng thâu tóm quyền binh
Vương Kê trợ lực, An Bình tiếp tay
Việc như sét đánh ngang mày (1221)
Gian nhân chẳng kịp trở tay vãn hồi
Hàn Sĩ Nguyên
#30
Thay đổi trang:
<
1
2
| Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 30 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến
:
Chuyển nhanh đến
- - - - - - - - - -
[THÔNG BÁO]
- - - - Thông Báo
- - - - Hướng Dẫn Sử Dụng Diễn Đàn
- - - - Thông báo lỗi của Diễn đàn
- - - - - - - - Phòng đăng bài thử
- - - - Thắc Mắc - Ý Kiến
- - - - - - - - Diễn đàn guest
[THƯ VIỆN VNTHUQUAN]
- - - - Dịch Sách truyện cho Thư viện Online
- - - - Bạn đọc yêu cầu
- - - - Audio Truyện - Thơ
- - - - - - - - Audio Truyện Ngắn
- - - - - - - - Audio Truyện Dài
- - - - - - - - Audio Thơ
[VĂN HỌC]
- - - - Văn
- - - - - - - - Sách truyện tự sáng tác
- - - - - - - - - - - - Tùy Bút - Tản Văn
- - - - - - - - Sách truyện sưu tầm
- - - - - - - - Truyện Tranh
- - - - Thơ
- - - - - - - - Thơ Sáng Tác
- - - - - - - - - - - - Thơ Đường
- - - - - - - - Thơ Sưu Tầm
- - - - - - - - Thơ vui
- - - - - - - - Ca Dao Tục Ngữ
- - - - - - - - Đồng Dao - Vè
- - - - - - - - Danh Ngôn
- - - - - - - - Thơ dịch
- - - - Tác giả - Tác phẩm Phòng Việt Văn
- - - - - - - - Tác giả người Việt
- - - - - - - - Tác giả người ngoại quốc
- - - - Tác giả - Tác phẩm - Phòng Ngoại văn
- - - - - - - - Tiếng Anh
- - - - - - - - - - - - Truyện Tiếng Anh
- - - - - - - - Tiếng Đức
- - - - - - - - Tiếng Pháp
- - - - - - - - Tiếng Hoa
- - - - - - - - Tiếng Nga
[NGHỆ THUẬT]
- - - - ÂM NHẠC
- - - - - - - - Nhạc sáng tác
- - - - - - - - Nhạc tự trình diễn
- - - - - - - - Nhạc phổ từ thơ Thành viên VNTQ
- - - - - - - - Cổ Nhạc
- - - - - - - - Lời bài hát
- - - - - - - - Public Links
- - - - - - - - Tin Tức Âm Nhạc - New Release
- - - - - - - - Old Threads
- - - - - - - - Cà Phê Thư Quán
- - - - Hội Họa
- - - - - - - - Tranh Sáng Tác
- - - - - - - - Tranh Sưu Tầm
- - - - Nhiếp Ảnh
- - - - - - - - Ảnh Sáng Tác
- - - - - - - - Ảnh Sưu Tầm
- - - - - - - - Ảnh Lưu Niệm
- - - - - - - - Kỹ Thuật Chụp Ảnh và Xử Lý Hậu Kỳ
- - - - - - - - Máy Ảnh và Phụ Kiện
- - - - - - - - Ảnh Khỏa Thân Nghệ Thuật
- - - - Thủ Công Mỹ Nghệ + Điêu Khắc
- - - - Sân Khấu - Điện Ảnh
- - - - - - - - Sau Bức Màn Nhung
- - - - - - - - Điểm Phim - Chuyện Màn Ảnh
- - - - Thời Trang - Thẩm Mỹ
- - - - - - - - Thời Trang Thiết Kế
- - - - - - - - Y Phục May Sẵn
- - - - - - - - Trang Sức
- - - - - - - - Trang Điểm
[ĐỜI SỐNG - XÃ HỘI]
- - - - Gia Chánh Ngày Nay
- - - - - - - - Hương Vị Việt Nam
- - - - - - - - Mẹo Vặt
- - - - Y khoa Thường Thức
- - - - - - - - Sách - Tài Liệu Đông Y
- - - - - - - - Sách - Tài Liệu Tây Y
- - - - Du Lịch
- - - - - - - - Phong Tục Tập Quán
- - - - Khoa Học Huyền Bí
- - - - Khoa Học Phổ Thông
- - - - Kết Nối Những Tấm Lòng
[GIAO LƯU - GIẢI TRÍ]
- - - - Kết Bạn Bốn Phương
- - - - - - - - Nhắn Tin
- - - - - - - - Kim bằng hội ngộ
- - - - - - - - Đôi Dòng Lưu Niệm
- - - - Gỡ Rối Tơ Lòng
- - - - - - - - Tâm Sự Bạn Gái
- - - - - - - - Tâm Sự Bạn Trai
- - - - - - - - Những Lá Thư Tình
- - - - - - - - Chuyện Gia Đình
- - - - - - - - Nhật Ký online
- - - - - - - - Kinh nghiệm sống
- - - - Lượm Lặt Đó Đây
- - - - Trắc Nghiệm
- - - - Hỷ Lạc quán
- - - - - - - - Đố Vui
- - - - - - - - Chuyện Cười
- - - - - - - - Tranh Vui
- - - - - - - - Phòng Tán Dóc
- - - - Thể Thao
- - - - Thú Tiêu Khiển
- - - - Chúc Mừng - Cảm Tạ
- - - - Phân Ưu
[TIN HỌC]
- - - - Hỏi Ðáp Tin Học
- - - - Hướng Dẫn Lập trình
- - - - Nhu Liệu
- - - - Đồ Hoạ Vi Tính
- - - - - - - - Photoshop - Hướng Dẫn
- - - - - - - - Chương Trình Hổ Trợ Cho Phothoshop
[CÁC CHUYÊN MỤC KHÁC]
- - - - Phòng Lưu Trữ
- - - - Quảng Cáo - Rao Vặt
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
Classic
Mobile
Original
2000-2025
ASPPlayground.NET
Forum Version 3.9