Bên kia chiếc cầu- Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Chân Trời Mới 26.05.2008 21:30:48 (permalink)
Bên kia chiếc cầu

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

 
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/52249/A782E007C50744EEB5D1367FE287E369.jpg[/image]


Nguồn : Tuoithohatnang-
Truyện do chính tác giả đánh máy

Sưu Tầm : Chân Trời Mới



Dòng sông nhỏ chảy êm đềm qua làng, đúng ra chỉ là một con rạch. Ông cha đã đào nó không biết tự bao giờ. Từ bên này sang bên kia bờ rạch, chèo thuyền chỉ mất độ mươi phút. Nước được dẫn từ đó vào những đám ruộng, những vườn cây.

Sơn đã lớn, ở xóm làng này, bên cạnh dòng sông nhỏ – Sơn thích gọi như vậy. Dòng sông! Tiếng gọi đơn giản và tha thiết biết bao nhiêu! Dòng sông già tuổi hơn Sơn, nhưng lại chậm lớn hơn. Đến mùa đông năm nay, Sơn được mười tám tuổi. Họ hàng và lối xóm khen cậu bé “lớn như thổi”. Nhưng dòng sông thì vẫn vậy - vẫn lặng lờ như chính nó lúc Sơn thấy hồi Sơn còn để chỏm. Nhưng Sơn mơ hồ biết rằng trong cái lặng lờ ấy chứa đựng cả một sức sống. Sơn biết mỗi ngày nước sẽ mang đi một chút đất của hai bên bờ, của đáy rạch, làm lòng rạch rộng hơn. Con rạch nhỏ rồi sẽ chảy ra dòng sông lớn. Sơn chỉ nghĩ đến đó. Rồi thôi. Trí óc còn nông cạn quá! Nhưng trước mắt, trong mỗi ngày của đời sống, là dòng sông.

Cũng nơi đây, Thảo Giang đã lớn. Trái với Sơn, Thảo Giang lớn một cách nhẹ nhàng. Dáng người mảnh khảnh, nhỏ nhắn, xinh tươi, Thảo Giang đương ở giữa một đứa bé và một người lớn. Mỗi buổi trưa, đứa bé mang cơm ra đồng cho cha, đội chiếc nón lá lụp xụp, mặc áo màu nâu và đi chân đất để dễ lội ruộng. Nhưng mỗi buổi chiều, “người lớn” thư thả đi dọc dòng sông nhỏ, tóc xõa ra chấm xuống nửa lưng, mang đôi guốc mỏng, và trên cổ phất phơ mảnh khăn màu xanh. Đó là những lúc Thảo Giang đi lên nhà ông bác ở xóm trên, là một thầy đồ. Không biết Giang đến đó để làm gì, chỉ biết rằng mỗi lúc cô bé đi ngang qua trước mặt Sơn, lòng Sơn như có một nỗi xao xuyến nhỏ. Giống như mặt nước lặng lờ của dòng sông, lúc có gió thoảng đưa ngang sẽ gợn lên một chút sóng.

Sơn mơ ước có ngày mình sẽ tự tay đóng một chiếc thuyền, để tha hồ đi lại trên sông.
Khi Thảo Giang đi bộ một mình, Sơn sẽ mời cô bé xuống thuyền, để đưa đi cho nhanh. Chắc chắn là Thảo Giang sẽ nhận lời. Vì hai gia đình đâu có xa lạ gì với nhau. Cùng một làng xóm, cùng một lũy tre, cùng một con rạch, tình láng giềng từ đời kiếp nào vẫn thân mật. Có điều, từ khi Thảo Giang tròn tuổi trăng, cô bé đã có vẻ giữ ý lắm.
Mỗi khi đi đâu, Thảo Giang thường cắm đầu đi thật nhanh, không dám nhìn ai – hay lại là không thèm nhìn ai? - Sơn nghĩ như vậy. Sơn lấy làm tiếc rẻ những ngày còn nhỏ dại, không phải e dè chi cả. Đến nay, mất nhiều dịp để nhìn ngắm Thảo Giang rồi. Thầy đồ đã già yếu, bệnh liên miên. Bọn Sơn phải nghỉ học. Vậy là mất luôn cả những dịp nhìn Thảo Giang rón rén đi vào sân nhà thầy đồ. Tuổi hoa niên của Sơn tưởng như đang đến lúc ngừng lại, lặng lẽ như mặt nước sông nhỏ chảy êm đềm qua làng.

Mùa đông sắp qua hết. Sơn bắt đầu cảm thấy chán những buổi sớm ra đồng, những buổi trưa ngủ giấc ngắn trong chòi, những buổi chiều nhàn rỗi đi lang thang trên bờ sông, và những đêm tối ngồi nhìn mẹ dệt vải. Cuộc sống bình lặng đến gần nhàm chán. Người mẹ góa bụa có lẽ bằng lòng như thế. Nhưng Sơn chưa đến tuổi có thể chấp nhận một cuộc sống như vậy. Cái hình ảnh to lớn nhất ảnh hưởng một cậu bé tuổi ấu thơ đã sụp đổ.
Đó là hình ảnh của thầy đồ. Sơn không còn có ý nghĩ mong ước mình sẽ nối gót thầy đồ để làm “kẻ sĩ” nữa. Trước mắt Sơn, bây giờ chỉ còn một thầy đồ ốm yếu, bệnh hoạn, nằm mòn mỏi với mớ chữ nghĩa nửa đường. Và mảnh sân vuông lúc trước lố nhố bọn trẻ, bây giờ cô quạnh biết bao! Ta sẽ như thầy đồ chăng? Không! Có lý nào!... ta không mơ làm “sĩ” nữa. Sơn đã nhận ra một điều rõ rệt, là Sơn đang khát khao một cái gì mới mẻ đến trong đời sống lặng yên này, một cái gì thật khích động để phá tan sự nhàm chán trong sinh hoạt của mình.

“Cái gì đó”…, không phải là tiếng trống nổi lên dồn dập giữa sân đình, hay tiếng pháo nổ dòn trong những đám cưới. Sơn, mỗi chiều, dõi mắt nhìn sang bên kia bờ sông với niềm háo hức. Sơn đã qua đó một vài lần. Không có gì khác hơn bên này. Bước lên bờ sẽ gặp ngay những vườn cây trái. Nhưng niềm háo hức không phải ở đó. Sơn mơ hồ cảm thấy rằng, qua khỏi những mảnh vườn ấy, chắc sẽ có những điều thú vị hơn. Là một cánh đồng bát ngát, là một dãy núi, hay là một chân trời?...

Vườn cây trái bên kia bờ sông là vườn của ông Bá Huê. Nó lại là ranh giới của làng. Đó là hai lý do ngăn cản lũ trẻ nít không được lai vãng nơi ấy. Thường những kẻ được qua vườn là các gia nhân của ông Bá Huê sang để bón cây vun trái. Mỗi mùa vườn cây trổ hoa rồi đậu trái, toàn những trái quý. Ông Bá Huê sai người hái trái để đem “tiến” lên tận kinh đô. Danh vọng của ông cứ nhờ đó mà lên. Và vườn cây bên kia sông cũng vì thế mà trở thành khu vực bất khả xâm phạm. Sơn không buồn mơ chèo thuyền qua đó, nhưng niềm mong ước cứ theo ánh mắt của Sơn chiếu thẳng sang cái màu xanh đậm bên kia bờ, như muốn xuyên thủng những cành lá dày đặc để nhìn thấu chân trời phía sau. Nhưng chỉ đến đó, tia mắt phải ngừng lại. Và niềm mong ước không lớn được nữa. Sông vẫn lặng lờ đời sông. Người vẫn bình yên đời người. Buổi sáng ra ruộng, trưa ngủ giấc ngắn trong chòi, và chiều chiều ngóng mắt nhìn theo bóng Thảo Giang phất phơ chiếc khăn xanh đi lên xóm trên. Đôi lúc Sơn đánh bạo, gọi Thảo Giang lại, hỏi vẩn vơ mấy chuyện. Cô bé cũng ngừng lại, trả lời Sơn. Nhưng cô bé không bao giờ nhìn ngay mặt Sơn. Mảnh khăn xanh là phương tiện duy nhất để Thảo Giang che đôi má ửng hồng. Rồi cô bé quày quã bước nhanh, để lại trong mắt Sơn một đôi mắt đen láy ngộ nghĩnh. A, trong đôi mắt ấy là cả một dòng sông, là cả một vườn cây, là cả một đồng lúa…. Là cả một thời thơ ấu vui tươi, của Sơn, của Thảo Giang, của bọn trẻ nhỏ ở xóm làng này. Sơn chưa biết mình nghĩ gì về Thảo Giang, nhưng dường như đôi mắt vừa dịu dàng vừa lanh lẹ đó mỗi lúc đi qua là để lại cho Sơn một niềm mơ ước.

Đến một hôm ông Bá Huê huy động dân làng làm một chiếc cầu bắc ngang dòng sông nhỏ. Lý do thật giản dị là ông Bá không muốn mất thì giờ và nhân lực mỗi khi phải qua vườn bằng thuyền. Chiếc cầu được làm bằng ván, chiều ngang vừa hai người đi. Có tay vịn bằng ống tre, nhưng kiên cố lắm, vì những chân cầu được chôn sâu xuống đáy rạch. Ngót một tuần lễ, chiếc cầu được hoàn tất. Những người nhân công làm việc trong vườn cây của ông Bá Huê có thể qua sông bằng chiếc cầu ấy. Lũ trẻ có thể leo lên cầu chơi, nhưng chỉ đến đó, không được qua vườn.

Sơn cũng thích lên chiếc cầu ấy, đứng nhìn xuống dòng nước. Nước có lúc xanh rì như màu mạ, có lúc đen thẫm lại như chứa đựng trong nó những điều huyền bí. Trí tưởng tượng của cậu bé cũng theo đó mà tăng dần. Nhưng cái màu xanh dày đặc bên kia bờ vẫn không mỏng được một chút nào. Chiếc cầu từ sau khi làm xong, trở thành một nơi cuốn hút bọn trẻ lớn. Nhưng cũng sau khi có chiếc cầu, đôi mắt Thảo Giang đã u buồn như một cánh rừng hoang. Bởi cha của cô bé, một đêm tối trời, đã ra đi và biệt tích không còn trở về làng.



1011



Sơn vứt cọng cỏ chỉ xuống dòng nước. Cọng cỏ yếu ớt từ từ chảy xuôi theo cùng với những chiếc lá, những mảnh bèo con. Tự nhiên Sơn nghe nao nao trong lòng. Nước đã đổi sang màu đen thẫm. Chiều sắp tắt. Lũ trẻ không còn ở đây. Mẹ của Sơn chắc giờ này cũng đã về nhà. Đêm sẽ xuống với ngọn đèn dầu leo lét. Tiếng khung quay sẽ cất lên như hòa nhịp với đời sống. Sơn nhắm mắt lại. Có một ngày nào ta sẽ xa rời nơi này không?
Ta không mong như vậy. Nhưng mơ hồ cảm thấy vẻ thanh bình ở làng thôn này có một cái gì giả tạo quá. Ta biết mơ ước gì? Những người trai tráng đã lớn lên, tiếp tục công việc ruộng vườn của ông cha, và sẽ có vợ, có con. Rồi họ sẽ già, sẽ nằm xuống bên cạnh ngôi nhà của họ, hoặc trong mảnh vườn, hoặc giữa cánh đồng ngập nước. Sơn cũng vậy chứ? Vì đó là lề lối, là mơ ước muôn đời của những người sống sau lũy tre này. Sơn còn biết mơ ước gì hơn?

Sơn nghe có một làn gió nhẹ thoảng qua, dường như có đưa theo mùi hương của lúa. Sơn mở mắt, thấy mình vẫn đang đứng ở trên cầu. Nhưng theo sau làn gió ấy, là Thảo Giang. Thảo Giang sắp đi ngang qua mặt Sơn. Cô bé lên cầu làm gì? Chừng như bước chân của Thảo Giang bắt đầu luống cuống khi cô bé thấy Sơn đứng giữa cầu. Chiếc khăn xanh không có ở trên cổ. Thảo Giang chỉ còn biết đưa tay nắm một nhánh tóc che ngang má, và cắm đầu bước nhanh. Nhưng đúng lúc Thảo Giang đi ngang qua mặt Sơn, thì chiếc guốc mỏng bị vấp một mắc gỗ của ván cầu làm Thảo Giang lảo đảo suýt ngã. Sơn vội vàng đưa tay đỡ lấy cô bé, một cách không chủ ý. Thảo Giang kêu lên một tiếng nhỏ, rồi ngượng nghịu quay đi.

Sơn bỗng nhiên có cảm tưởng mình vừa mới làm một điều gì sai. Đôi mắt u buồn của Thảo Giang như đang có một chút long lanh. Chừng như cô bé sắp khóc.

- Thảo Giang qua bên đó hả?

Đôi mắt Thảo Giang liếc nhìn qua phía vườn cây, cô bé ấp úng:

- Dạ… dạ… ông Bá nói em qua vườn, ông cho một ít nhãn.

Sơn ngạc nhiên:

- Chi vậy?

- Dạ… không biết.

Sơn muốn nói một điều gì, nhưng thôi. Sơn cũng vừa nhận thấy mình tò mò hơi quá. Thảo Giang cũng sẽ không nói gì hơn là những câu thưa dạ. Sơn mỉm cười:

- Thảo Giang đi đi nhé!

- Dạ.

Rồi Thảo Giang tiếp tục đi. Sơn ngơ ngẩn mấy giây, và tự hỏi không biết tại sao ông Bá Huê giàu có và keo kiệt hạng nhất trong vùng lại cho một gia đình nông dân tầm thường những trái cây quý nhất của vườn ông? Một chút nghi ngờ thoáng qua trong trí Sơn. Đợi cho chiếc bóng mảnh mai của Thảo Giang khuất sau cổng vườn, Sơn nhẹ bước đi theo.

Hết cây cầu, Sơn vào được trong vườn. Không thấy người gác vườn già nua mọi ngày thường la mắng bọn trẻ nít lân la nghịch ngợm. Sơn nhìn quanh, và thấy Thảo Giang đứng cách mình độ mươi thước. Trước mặt Thảo Giang, còn có một người nữa. Sơn rón rén bước tới nấp sau một thân cây to. Người lạ mặt trong vườn là một thanh niên, có lẽ lớn hơn Sơn độ ba, bốn tuổi. Hắn mặc áo gấm màu xanh lục nhưng lại mang giầy tây, đang nhìn Thảo Giang bằng đôi mắt ti hí như muốn biến mất dưới cặp lông mày đen rậm.

- Cô Thảo Giang, đây là vườn nhà của tôi. Cô cứ tự nhiên muốn hái thứ gì thì hái.

Ở đàng kia, Thảo Giang đương luống cuống, không biết nói gì. Tên thanh niên cười hề hề:

- Nè, cô Thảo Giang, có nghe tôi nói gì không?

Thảo Giang ấp úng:

- Dạ nghe, nhưng … thôi… xin phép cậu, tôi phải về.

Tên thanh niên ngăn lại:

- Kìa! Cô Thảo Giang cứ hái trái cây đem về cho bác gái dùng để mau khỏi bệnh.

- Thưa cậu thôi ạ. Tại… tại vì ông Bá nói lắm, tôi phải đến đây, sợ cãi lời thì mang tội. Nhưng tôi không dám… không dám tự tay hái trái đâu. Xin phép cậu… cho tôi về.

- Nè, cô Thảo Giang!...

- Thưa cậu, sắp tối rồi…

Gã thanh niên cười thật nham nhở. Dường như đàng kia Thảo Giang sợ hãi lắm. Thảo Giang lùi lại mấy bước. Gã thanh niên thót lên ngồi trên một cái cây to và thấp, như thản nhiên trước vẻ run sợ của Thảo Giang. Cô bé quay lưng đi. Gã thanh niên gọi:

- Lại đây, Thảo Giang!

Tiếng gọi của gã vang dội trong vườn cây âm u. Thảo Giang chợt bỏ chạy. Đôi chân của cô bé cuống quít giẫm trên lá khô nghe xào xạc. Gã thanh niên phóc xuống, chạy theo.
Ba bước của gã thật dài. Và hắn nắm được tay của cô bé. Thảo Giang kêu rú lên, mặt xanh mét. Cô bé như không còn đủ sức để vùng chạy, chực khóc òa.

Sơn rời gốc cây, phóng ra chận trước mặt gã thanh niên. Máu nóng dồn bừng bừng trên da, Sơn hét lên:

- Buông người ta ra!

Gã thanh niên trố mắt nhìn Sơn. Tên công tử chẳng mấy khi ra khỏi nhà ấy không biết Sơn là ai. Nhưng sự hiện diện của Sơn ở đây là một chuyện trái phép. Hắn gầm gừ:

- Mày… là thằng nào?

- Không cần biết. Tôi bảo anh thả Giang ra.

Rồi không đợi tên kia nói gì, Sơn dùng hết sức mình đẩy hắn ra. Thảo Giang vuột ra khỏi tay hắn. Sơn la lớn:

- Thảo Giang, chạy đi!

Thảo Giang cắm đầu chạy ra khỏi cổng. Gã thanh niên tức tối sấn đến, đấm Sơn một quả. Nhưng Sơn né người tránh được và bồi trả lại cho hắn ta một quả. Cái đấm trúng ngay mũi tên con trai làm hắn ta kêu lên đau đớn. Sơn biết mình sẽ không yên với tên này nếu cứ nấn ná ở đây, nên Sơn phóng người chạy đi. Tên nọ rượt theo. Sơn chạy đến giữa cầu.

Một ý nghĩ hiện nhanh trong trí. Sơn nhảy ùm xuống nước. Trên cầu, tên thanh niên lúng túng với bộ y phục màu xanh. Sơn đã lặn mất tăm dưới làn nước in màu xám thẫm của trời chiều. Tên nọ chỉ còn biết kêu to “Ăn trộm, ăn trộm”… Và đợi đến khi có người chạy đến, thì mặt nước đã trở lại yên lặng như tờ…

Sơn nấp dưới đám lau lách, chờ lúc trời thật tối mới leo lên. Ở chỗ này là bờ ruộng, khá xa xóm nhà. Không còn ai ở ngoài đồng. Thấp thoáng đàng trước, ánh đèn từ các mái tranh là những đốm sáng nhỏ xíu. Sơn cởi chiếc áo, giũ những cọng cỏ lau và rác rến, rồi lấy vẻ thư thả đi ngõ tắt về nhà.

Mẹ Sơn trố mắt khi nhìn thấy con trai vẹt những cành cây bước vào vườn sau. Bà ngạc nhiên hơn nữa khi thấy áo quần của Sơn ướt lem nhem. Bà kêu lên:

- Sơn! Con sao vậy?

Sơn đưa ngón tay trỏ lên môi, rồi bước nhanh vào nhà để thay đổi bộ quần áo. Khi trở ra, Sơn thấy mẹ vẫn còn đứng bên cạnh đống rơm rạ dùng để lót ổ cho gà. Người mẹ đưa mắt nhìn con, có vẻ thắc mắc:

- Ban chiều mẹ nghe ở gần xóm trên có ăn trộm vào vườn nhà ông Bá. Mà người ta bắt không được, vì tên trộm nhảy xuống nước mất dạng. Hình như ở đâu chỗ cây cầu thì phải.

Sơn mỉm cười:

- Họ có nhìn mặt tên trộm được không mẹ?

- Chắc là không. Khi dân làng chạy đến thì có thấy gì đâu!.. Nhưng nè Sơn, tại sao quần áo của con lại ướt mèm vậy? Mà tại sao con lại đi ngả sau?

Sơn giật mình, ngó quanh như sợ có người nghe được. Sơn kéo mẹ vào nhà, đóng cửa lại và kể hết cho bà nghe chuyện xảy ra ban chiều. Người mẹ lo lắng:

- Nhưng liệu con có yên với thằng con ông Bá Huê không? Thật khổ! Động vào kẻ có thế lực là có mà đeo gông con ạ!

- Mẹ đừng sợ. Chỉ có một mình hắn thấy mặt con. Hắn không biết nhà mình đâu. Con sẽ tránh gặp hắn, thế là xong.

Mẹ Sơn thở dài:

- Đừng có đi lên cầu nữa. Thế nào hắn cũng lưu ý chỗ đó.

- Dạ.

- Ra ruộng cũng vậy, đội nón để che mặt bớt đi. Hắn mà thấy được thì khổ đó con à.

Hai mẹ con lặng im. Mẹ Sơn dọn cơm lên chiếc chõng tre. Sơn uể oải ăn cơm như chưa bao giờ cảm thấy chán ngán như vậy. Cái giây phút làm anh hùng đã qua, qua thật mau. Sơn được làm một “hiệp sĩ vì dân trừ bạo” thật chớp nhoáng.

Bây giờ ngồi trước mâm cơm hẩm, Sơn thấy mình trở lại là một cậu bé tầm thường. Ngày mai không còn được bước chân lên chiếc cầu nữa, cái hình phạt ấy tự mình phải đặt ra nếu không muốn nạp mạng cho ông Bá Huê. Ngày mai ra ruộng cũng phải đội nón sụp xuống che bớt mặt lại, chắc cũng ít có cơ hội ngửa mặt nhìn trời xanh mây trắng. Miếng cơm dừng lại ở cổ. Sơn cố nuốt, và chợt liên tưởng đến Thảo Giang. Thảo Giang xinh xắn quá, và cũng yếu ớt quá. Nếu ngày mai, ngày mốt, tên con trai ông Bá Huê kia tìm đến nhà Thảo Giang để chọc ghẹo, làm sao Sơn dám vào can thiệp?
Đụng mặt với hắn lần nữa, chắc sẽ không thoát.
Ôi Thảo Giang! Nỗi mơ ước đã trôi xa như cọng cỏ chỉ ban chiều rồi chăng?

Đêm tối chan hòa khắp mảnh vườn khi bữa ăn đã xong, và ngọn đèn dầu được khêu lên sáng thêm. Sơn đứng một mình trong vườn, lặng nghe tiếng khung cửi của mẹ quay đều. Ở xung quanh , nghe mùi nồng của rạ. Đống rơm rạ phơi ở sân mấy ngày nay rồi. Công việc của Sơn cho ngày mai là bó rơm lại, chất vào bếp để dành chụm lửa. Cái công việc phụ nhỏ nhặt của một nông dân là như thế, xem ra cũng quan trọng lắm. Hầu hết nhà dân nghèo ở đây đều đun bếp bằng rơm, hiếm có nhà dùng củi. Cũng như nhà cửa chỉ lợp mái bằng tranh, đắp vách bằng đất. Nhà gạch, nhà ngói chỉ tìm thấy dăm ba cái, như nhà ông Bá Huê. Và cũng như tất cả những của ngon vật lạ đều phải đem “tiến” cho vua dùng. Dân quê chỉ biết đến cơm gạo. Đời sống như thế đã là thái bình lắm.

Sơn ngồi xuống nền đất, cầm một nắm rơm lên. Sơn cảm thấy lòng không yên ổn. Trong vườn có tiếng ễnh ương kêu đâu đó, dưới bụi lau, hay sau ao nước. Sơn thở dài, nghe tiếng mình hòa vào đêm tịch mịch. Nhịp sống sẽ đều đều như thế này, hay từ ngày mai sẽ có một điều gì đổi khác?...


1213


Cọng sắt ngời sáng trong tay Sơn, phiến đá mài đã phủ đầy bụi kim khí óng ánh. Sơn vuốt nhẹ cọng sắt, nghe nóng lên như da thịt của chính mình. Sơn giắt thử vào thắt lưng, rồi đứng dậy, Sơn mỉm cười. Ta sắp thành một Kinh Kha hay một tráng sĩ nào đây? Sơn đấm mạnh vào không khí, tưởng như có tên thanh niên con ông Bá Huê trước mặt. Sơn thu tay về, rút cọng sắt ra, và phóng vào cây chuối. Phập! Cọng sắt dài hai tấc đã lút gần hết vào thân cây chuối. Cùng với lúc Sơn cất giọng cười khoái chí, Sơn nghe một tiếng rú nhỏ đàng sau lưng.

Sơn quay lại. Thảo Giang! Cô bé đang ôm lấy cột cửa, mặt tái xanh. Sơn ngạc nhiên một chút, rồi vội vàng chào hỏi:

- Thảo Giang qua chơi à?

Cô bé chưa hết run sợ, nói:

- Dạ.. Anh Sơn làm gì ghê quá vậy?

- À, à… tôi tập phóng dao.

Rồi Sơn bước tới rút cọng sắt ra khỏi thân chuối, đưa ra trước mặt. Thảo Giang rùng mình, nói:

- Đâu phải con dao! Cái dùi…

Sơn sáng mắt lên:

- Ừ đúng rồi, cái dùi! Cái dùi!

Thảo Giang nhìn Sơn, lộ vẻ thắc mắc. Sơn vuốt tay trên cái dùi, nói:

- Nó chỉ là cọng sắt nhỏ, nhưng được mài rồi, thành cái dùi. Thảo Giang biết tôi mài nó trong bao lâu không? Ba ngày đó!

- Để làm chi vậy?

- Để tôi…

Sơn định nói tiếp, rằng để tôi giắt ở trong lưng, để tôi có thể ung dung đi lên cầu, đi thăm dòng sông của tôi. Để tôi có thể ra đồng mà không phải đội nón che bớt mặt. Để tôi có thể sang thăm bác và Thảo Giang mà không sợ ai dòm ngó. Để tôi gặp thằng con ông Bá Huê, tôi trị tội hắn… Nhưng nhìn thấy đôi mắt Thảo Giang hiền dịu quá, Sơn không nói nữa. Sơn chỉ là một đứa bé. Thảo Giang cũng chỉ là một đứa bé. Cả hai đều lớn lên ở thôn làng này. Hai gia đình biết nhau từ con rạch này. Chưa có cha mẹ ai dạy con sự thù hằn cả. Sơn nghĩ thế rồi đem cái dùi cùng phiến đá mài cất vào góc bếp.

Thảo Giang đứng ở ngưỡng cửa, dáng nhỏ nhắn như một con mèo. Khi Sơn quay ra, Thảo Giang hỏi:

- Anh Sơn, chiều nay anh không ra sông hở?

Sơn đứng thẳng người, thở dài:


- Không. Từ bữa đó, tôi đã không còn lên cầu nữa.

- Thảo nào…mỗi chiều Giang không thấy anh ở đó.

- Thảo Giang vẫn đến nhà thầy đồ?

- Dạ.

- Thầy tôi hết bệnh chưa?

Thảo Giang lắc đầu:

- Dạ… Thầy vẫn vậy, không thuyên giảm.

Sơn ngồi xuống một thân cây chuối mới đốn, nói:


- Thảo Giang qua đây, có xin phép bác gái chưa?

- Dạ rồi. Mẹ Giang nói Giang qua thăm bên này, cám ơn anh đã…

- Đừng, Thảo Giang! Tôi không phải là hiệp sĩ. Tôi cũng nhát gan như bao đứa con trai khác.

Thảo Giang lộ vẻ xúc động, giọng cô bé run run:

- Hôm ấy nếu không có anh Sơn, chắc Giang chết mất.

Sơn cười nhẹ:

- Tôi còn nhiều điều băn khoăn chưa hiểu… Nếu Thảo Giang không ngại gì, Thảo Giang ngồi chơi, cho tôi hỏi…


- Dạ…
Thảo Giang ngồi xuống ngưỡng cửa, e dè xoắn xoắn vạt áo nâu. Chiếc khăn xanh không có ở trên cổ.

Lặng yên một lúc, rồi Sơn nói:

- Có thật ông Bá Huê… muốn biếu nhãn cho bác gái hôm đó không?

Thảo Giang gật đầu:

- Thật. Mẹ Giang bệnh, Giang đến xin ông Bá cho mẹ nghỉ cấy. Ông ấy tỏ vẻ lo lắng lắm, bảo Giang chiều đó tới vườn, ông cho trái cây. Giang không bao giờ muốn nhận nhưng ông Bá nói như vậy là phải tội. Giang đến đó, không ngờ chỉ gặp tên Hộ con của ông ấy thôi.

Sơn nhíu mày:

- Ông ta có thâm ý gì?

Thảo Giang cúi đầu đáp nhỏ:

- Ông Bá muốn mẹ Giang… gả Giang cho tên Hộ…

- À ra thế!

Sơn thốt lên rồi lặng im, đưa tay hờ hững nhặt mấy cọng rơm vương vãi trên đất. Sơn nghĩ đến cái dùi, mới mài có ba ngày… Sơn buồn cười cho cái sự trẻ con của mình. Dễ dầu gì Sơn dám đối diện với tên Hộ, nói chi đến chuyện dùng cây dùi để tấn công hay hăm dọa hắn. Người lớn khôn ngoan hơn, đã nói chuyện với nhau trước rồi.

Khi Sơn ngước lên, thấy Thảo Giang đăm đăm nhìn ra phía ao nhỏ. Đôi mắt Thảo Giang buồn rười rượi. Sơn bồi hồi hỏi khẽ:

- Này Thảo Giang, bác bên nhà … có bằng lòng không?

- Bằng lòng việc gì?

- Thì… thì việc tên Hộ đó.

- Giang còn nhỏ, mẹ Giang chưa tính gì hết. Mà nếu có, thì cũng không phải là với thằng cha nham nhở hôm ấy.

- Bác gái không sợ ông Bá Huê dùng thế lực để ép buộc sao?

Thảo Giang rắn giọng lại:

- Cha của Giang đã dặn… không bao giờ làm thân với gia đình ông Bá Huê.

Sơn giật mình, chợt nhớ đến cha của Thảo Giang. Người nông dân hiền lành ít nói ấy, sau hôm hoàn thành cây cầu đã bỏ nhà đi biệt. Sơn muốn hỏi Thảo Giang về sự việc khó hiểu ấy. Nhưng đôi mắt u uẩn kia như sa sầm hẳn lại, như không muốn nói thêm một điều gì nữa.

Thảo Giang đứng lên, sửa lại vạt áo, nói:

- Nhưng chuyện đó không quan trọng bằng chuyện sắp tới đây.

- Chuyện gì vậy Thảo Giang?

- Bác của Giang trở bệnh nặng lắm. Hôm nay bác muốn gặp tất cả những người học trò.

Sơn hoảng hốt:

- Thật vậy sao? Tôi phải đến thăm Thầy ngay.

- Anh Sơn, nhờ anh nói dùm với các anh khác nhé.

- Được rồi. Thảo Giang cũng sẽ qua đó chứ?

- Dạ. Mẹ Giang bảo tối nay Giang ở lại bên bác để sắc thuốc. Lương y nói… chắc là bác không qua khỏi đêm nay.

- Vậy Thảo Giang đến Thầy trước nhé! Tôi đi gọi mấy anh bạn rồi sẽ đến sau.
Thảo Giang “dạ”, rồi chào Sơn để đi. Còn lại một mình Sơn trong sân vườn, Sơn lại nghĩ đến cái dùi, nghĩ đến cảnh nhàn rỗi của mình bao ngày nay. Thầy đồ sắp chết! Cái hình ảnh thần tượng to lớn của Sơn đã lu mờ từ mấy tháng nay, bây giờ lại sắp biến mất. Thầy đồ chết, bọn Sơn sẽ không còn ai dạy dỗ cho dăm mớ chữ nghĩa, hòng đi thi Hương, thi Hội. Sơn sẽ hoàn toàn là một nông dân, sẽ lớn lên và nối tiếp cuộc sống của ông cha. Sơn sẽ như Tùng, như Huệ, như Đại… mãi mãi là những người thấp cổ bé miệng. Có phải đời sống đã sắp bày như thế rồi chăng?

Sơn sửa lại quần áo cho chỉnh tề, khép cửa lại, cài then, rồi ra khỏi cổng nhà. Trời bây giờ đã nhá nhem tối. Tiếng ễnh ương kêu vang dưới những rãnh nước như bao ngày vẫn đều đặn hòa điệu buồn chốn thôn quê.



**


Nhà thầy đồ ở tận xóm trên. Khi Sơn cùng ba người bạn vào đến cửa, đã thấy ngọn đèn dầu được thắp sáng trong nhà. Mảnh sân vuông lúc trước dùng làm nơi học hành của bọn trẻ, bây giờ vắng ngắt, trơ trơ mấy chậu kiểng xơ xác. Bốn người bước vào nhà, đã thấy có sáu, bảy người học trò nữa đứng ngồi bên giường của thầy đồ. Chén thuốc để trên bàn còn đầy, nhưng cái cơ thể dẹp lép của người nằm trên giường như không còn cần đến sức sống.

Nước mắt Sơn dâng đầy tròng. Sơn bước tới, khe khẽ quỳ bên chân giường. Đôi mắt thầy đồ nhắm kín lại như người ngủ say, nhưng những nhịp thở đứt quãng, mệt nhọc chứng tỏ thầy đang gắng sống những giây phút quý giá nhất.

Thầy đồ cựa mình, mở đôi mắt trắng đục một lát rồi hỏi thều thào:

- Ai đây?

Sơn cầm lấy bàn tay của thầy, run run nói:

- Thưa thầy, Sơn đây ạ.

- Đứa nào nữa?

- Thưa thầy, có anh Tùng, Huệ và Đại.

Người bệnh cố gắng nhấc đầu dậy để nhìn kỹ mấy người học trò, nhưng rồi phải nằm trở lại để thở dốc. Sơn thấy se thắt cả lòng, vừa vuốt ngực cho thầy, vừa ứa nước mắt. Cái cảnh này, Sơn đã thấy cách đây ba năm, khi cha của Sơn lâm bệnh. Người nông phu chết đi, để lại cho vợ con một mảnh vườn nhỏ và ngôi nhà xiêu vẹo. Cái cày và con trâu, theo công nợ mà bán cho người. Mẹ con Sơn phải đi cấy mướn. Nay nhìn thầy đồ nằm thoi thóp, Sơn tự hỏi thầy sẽ để lại gì cho bọn học trò nửa đường này? Cái ước mơ làm kẻ sĩ chắc sẽ tàn lụi theo ngày tháng. Sơn thương thầy, nhưng cũng nghe thương thân, Sơn muốn khóc ròng như một đứa bé.

Đại cất tiếng khẽ:

− Thưa thầy, xin thầy ráng uống miếng thuốc…

Thầy đồ xua tay, cười héo hắt:

- Khỏi con! Thầy không còn sống bao lâu nữa… Chắc sẽ không qua khỏi đêm nay.

Đám học trò có người khóc tấm tức. Thầy đồ thở dài:

- Gặp mặt đông đủ các con đây, thầy vui mừng lắm… Nhưng lại thương các con làm sao! Thầy chưa mãn nguyện vì… Thầy còn thiếu trách nhiệm với các con.

Sơn lại vuốt ngực cho thầy, nói:

- Thưa thầy, con xin thầy nằm nghỉ.

- Thầy còn khoẻ lắm các con ạ. Thầy muốn nói với các con rằng… thầy rất ân hận vì đã không dìu dắt các con đến nơi đến chốn. Xóm làng ta chưa có ai làm rạng rỡ hết. Mà thầy thì…

Nghe tiếng sụt sùi trong đám học trò, thầy đồ ngừng lại, đảo mắt yếu ớt nhìn quanh, rồi thều thào:

- Đừng khóc các con! Cái kẻ đáng khóc phải là thầy đây. Thầy phải khóc vì sự bất lực của thầy. Còn các con, các con chưa mất hy vọng đâu!... Hãy lại đây, nghe thầy nói…

Cái ngọn đèn nào lúc sắp tắt cũng phải bùng lên. Thầy đã đến những phút cuối cùng rồi!
Bàn tay thầy đồ giá lạnh trong tay Sơn. Sơn tưởng thầy sắp chết sau một giây nữa thôi. Nhưng không, đôi mắt trắng đục, giương to lên, như muốn lôi kéo tất cả những tinh anh của thời trai trẻ trở về. Thầy đồ nói tiếp:

− Nếu thầy không nói cho các con nghe những điều mà thầy được biết thì khi chết đi thầy sẽ đắc tội với trời đất. Các con sống ở xóm làng này, trăm sự đều tùy thuộc vào làng xã và mấy tên bá hộ trọc phú. Các con có biết gì ngoài cái vốn liếng eo hẹp của các con đâu. Chỉ có thầy, biết mà không làm gì được, thì thật là vô lý nếu thầy giữ kín mà đem xuống lòng mộ.

Đám học trò nhìn nhau ngơ ngác. Cái điều gì mà quan trọng đến nỗi một người già nua quên mất sự trối trăng thông thường về gia tài của mình, về ngôi mộ, về chiếc quan tài mà mình sẽ nằm trong ấy?

Sơn kéo tấm chăn bông đắp lên tận ngực của thầy đồ, che kín thân hình còm cõi đang run rẩy của thầy. Thầy nói:

- Cái điều đau đớn trọng đại như thế mà không ai biết. Còn những kẻ biết thì ngậm miệng không dám nói. Nhưng một kẻ sắp về chầu Phật… như thầy đây, phải nói để các con liệu mà sống.

Sơn kê miệng gần tai thầy đồ, nói:

- Xin thầy dạy cho. Chúng con nghe đây.

- Các học trò của thầy! Các người trai trẻ ưu tú đây! Biết gì không? Mảnh đất mà các con đang sống, đã thuộc vào tay giặc rồi! Thầy đau đớn biết bao khi phải nói như vậy. Cái hòa ước khốn nạn đã đem dâng ba tỉnh Nam Kỳ cho giặc Tây. Thế mà các con, dân quê ngu muội, có biết gì không?

Một giọt lệ lăn từ khoé mắt già nua xuống gò má của thầy như nước thấm xuống nền đất nứt nẻ cằn cỗi. Thầy đồ nghẹn ngào:

- Trong lúc giặc đang khiếp vì sự kháng cự của dân ta, thì vua quan ta lại e sợ súng ống của giặc. Trong lúc giặc không ngờ là có sự hòa hoãn, thì ta lại bằng lòng ký giấy cắt đất. Cái tin đau buồn ấy, thầy biết từ mùa hè. Nhưng có biết làm gì hơn? Thầy bệnh hoạn, sắp chết, bất tài… Còn lũ trẻ các con sống trong cái làng hẻo lánh này, bị bao kín bằng lũy tre xanh này, làm sao biết được rằng khắp nơi dân chúng đang phẫn nộ. Người ta đã kết nạp nhau thành nghĩa quân, chống Pháp để dành lại đất. Còn chúng ta ở đây, đời sống còn yên lành quá! Nhưng… một mai, giặc sẽ đến. Rồi các con có yên không? Thầy nói thế để các con biết trước mà liệu. Đời bình yên rồi cũng sẽ không còn.

Thầy đồ ho một tràng, người mệt lả như muốn ngất đi. Sơn vuốt ngực cho thầy. Mấy người con trai phía sau quỳ hết cả xuống đất. Ai cũng nghe rõ tiếng gió đông rít lên ngoài vách nứa. Ngọn đèn dầu dường như hơi lao chao ánh lửa. Không gian chợt yên lặng như cảm thông với nỗi u uất của một người tuyệt vọng.
Giây lát sau, thầy đồ lại sức, tiếp tục trối trăn với đám học trò:

- Thế hệ của các con, không phải là thế hệ của thầy nữa. Đừng bắt chước mẫu người của thầy. Cái học nhà nho chỉ giúp ta sống cho phải đạo người, biết rõ lẽ trời… quý giá lắm! Nhưng không còn thực tế để giúp ta cứu nước. Trước kia thầy mong các con thành Tú Tài, Cử Nhân. Nhưng từ ngày nghe tin chua xót ấy, thầy thấy một điều rõ rệt là thầy không còn mong như vậy. Các con hãy làm một cái gì khác. Thầy muốn nói rằng… khác với hình ảnh con người khoa bảng, mơ ước áo rộng khăn to mà bao lâu nay người ta đã vẽ.

Mười đứa học trò yên lặng. Sơn đưa tay vặn ngọn đèn dầu cho sáng thêm. Một chút rạng rỡ hiện trên gương mặt thầy đồ. Giọng thầy trầm xuống:

- Các con hiểu thầy nói gì không? Điều khổ sở nhất của thầy, thầy đã nói hết. Các con còn trẻ lắm, gắng mà tranh đấu để giữ ruộng, giữ làng. Giặc đã nắm quyền cai trị ta ở trên giấy tờ. Thì sớm muộn gì chúng cũng sẽ đến đây. Lúc đó nhà tan cửa nát. Đau khổ lắm các con ơi! Giặc có súng ống tối tân, nhưng không phải vì thế mà ta khiếp sợ. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài thành dùi….


Sơn giật mình. Thầy đồ vừa nói một điều rất khích động. Sơn đã thấy rồi! Cái đó có thể làm Sơn nghe máu trong tim cuồn cuộn, không phải tiếng trống dồn dập nổi lên giữa sân đình, hay tiếng pháo nổ dòn trong những đám cưới. Mà là lời của thầy vừa nói đó!
Cái màn tối ngu muội đang được xé rách giữa tâm hồn Sơn. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài thành dùi! Sơn đã mài sắt bao nhiêu ngày. Sắt chưa nhọn, nhưng bây giờ lửa hăng hái đã bén. Sơn nhìn thầy đồ. Bỗng nghe tim đau nhói. Ôi, thầy của con, người sinh đồ nho nhã một đời, tưởng yếu ớt như cọng cỏ, không ngờ mang trong lòng cả một nghĩa khí to lớn.

Những tiếng ho làm giọng thầy đồ đứt quãng:

- Tội nghiệp các con!... Sống mà không biết là mình sống… Nô lệ mà vẫn tưởng là được… thái bình. Cái lũy tre đã che mắt các con… Không thấy sông rộng, không thấy núi cao, sao gọi là con trai cho được!...

Thầy đồ thở hổn hển, nước mắt sống chảy ràn rụa xuống hai gò má xương xẩu. Đợi cho cơn ho của thầy dứt, Đại ra hiệu cho anh em đứng lên, rồi nói nho nhỏ:

- Chúng mình hãy ra ngoài cho thầy nằm nghỉ. Tôi thấy thầy nói nhiều, e… có hại.

Rồi Đại cúi xuống sửa lại tấm chăn cho thầy đồ. Đám học trò rón rén đi ra sân.
Sơn nhìn lên vòm trời xám ngắt. Một chút ánh trăng giải trên làn mây u ám. Còn mảnh trăng khuyết thì đã lẩn trong mây. Khung cảnh buồn như chưa bao giờ. Ở đây, mọi màu sắc đều đồng nghĩa với sự chết chóc. Gió đông thổi rít qua cây lá, đập vào da thịt Sơn, tưởng như hơi thở hắt của người bệnh. Sơn đưa mắt nhìn lén vào cửa sổ. Thấp thoáng trong nhà có bóng Thảo Giang bên cạnh giường của thầy đồ. Tay cô bé nâng chén thuốc, miệng nói gì nho nhỏ với người bệnh. Sơn thấy thầy đồ xua tay, và kéo Thảo Giang ngồi xuống. Đèn dầu leo lét không che giấu được trên má Thảo Giang nước mắt tuôn chảy.
Sơn thấy thầy đồ thở những hơi mệt nhọc. Nhưng đôi môi khô héo vẫn thều thào những lời dặn dò. Sơn thương thầy quá! Một người không vợ, không con, ở phút cuối chỉ còn đứa cháu gái. Sơn liên tưởng đến cha của Thảo Giang. Sự biệt tích của ông, chắc thầy đồ biết. Và chắc cũng có liên quan đến điều mà thầy vừa nói với đám học trò.

Sau ý nghĩ ấy, Sơn vùng bước nhanh vào nhà. Thảo Giang đang nâng đầu thầy đồ lên, ghé tai nghe những lời thầy nói bây giờ đã bắt đầu khó khăn. Sơn quỳ xuống bên giường, nghe tiếng thầy như hòa trong sương khói:

- Nghĩa quân đông lắm!... Chờ khi họ qua làng, các con xin gia nhập… Cha của cháu, Thảo Giang à,… chắc chú ấy đang ở Tân Hòa. Đừng… đừng qua đó, nguy hiểm… Thế nào nghĩa quân cũng sẽ về… khi chiếm lại được đất…

Thảo Giang nức nở:

- Bác ơi! Cháu làm sao biết được cha cháu ở cánh quân nào mà theo?

- Nghĩa quân đông lắm… vì kết nạp dân chúng mọi nơi. Nhưng dù đông… vẫn ở dưới… bóng cờ của Trương…Công…Định. Đừng đi một mình nghe cháu! Nước non rộng thênh thang. Đợi nghĩa quân…qua làng…rồi…rồi…

Sơn ôm bàn tay giá lạnh của thầy đồ, nói như một lời hứa:

- Thưa thầy, chúng con sẽ theo nghĩa quân.

Thầy đồ gượng cười. Sơn nhìn đăm đăm vào bàn tay thầy. Gần hết đời người, bàn tay ấy trung thành với ngọn bút lông. Đến nay Sơn mới có dịp nắm lấy bàn tay thầy để nhận thấy những mạch máu, những nếp xương nổi lên dưới làn da xám ngắt, giống như sông, như núi, chạy ngoằn ngoèo trên một giải đất. Có phải đó là ước mơ thầy vẽ cho bọn học trò ngu muội hay không? Chúng con sẽ theo nghĩa quân. Vâng, thưa thầy! Sẽ chiếm lại đất, sẽ chống lại giặc. Chúng con có tre làm mác, có sắt làm dùi. Nhưng cái con người mang tên Trương Công Định mà thầy vừa nhắc tới, có phải là thần tượng của chúng con không? Người ấy ra sao? Già hay trẻ? Mập hay gầy? Thấp hay cao? Người có giọng nói miền nào? Người cũng sinh ra tại quê hương này và đau lòng vì mất nước? Chúng con phải biết một chút gì về hình dáng người – để mai đây nghĩa quân qua làng, biết đâu sẽ thấy người trước mặt. Sơn muốn hỏi như thế, nhưng nhìn lại thầy đồ, đã thấy gương mặt của thầy im lìm như tượng đá. Đôi mắt trắng như muốn nhìn xuyên thủng cả mái nhà để thấy bầu trời rộng. Môi thầy không còn mấp máy nữa… Thảo Giang nấc lên một tiếng nghe nhức buốt cả tim. Sơn không còn biết nước mắt mình sẽ chảy ra hay đã đông lại thành tuyết mất rồi?

Bên con rạch nhỏ chảy qua làng, thầy đồ đã đi chuyến đò cuối.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.05.2008 21:55:30 bởi Chân Trời Mới >
Attached Image(s)
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9