Người Lính - Những suy ngẫm của một người lính Đức, 1936-1949
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 13 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 183 bài trong đề mục
khikho007 11.06.2008 00:51:57 (permalink)
0
 
Sau khi tàu chạy, cuối cùng tôi cũng được ngồi xuống thở và xét lại những hoạt động điên cuồng hai ngày qua. Tương lai nhanh chóng bị đẩy ra khỏi đầu óc tôi, thay vào đó, tôi suy nghĩ về những việc huấn luyện chúng tôi phải làm khi đến vùng hành quân, tôi được biết là biên giới Luxembourg - nếu người Pháp và Anh cho chúng tôi thời gian cho nó. Lũ ngựa cũng cần phải được xem lại. Đeo cầy và những nông cụ hoàn toàn khác xa với huấn luyện chúng trở thành 1 bộ phận của xe ngựa kéo súng gồm 6 con ngựa 1 xe. Nhân sự cũng là một mối lo khác. Kinh nghiệm của những lần thao diễn trước cho tôi biết rất nhiều thứ có thể xảy ra nghiêm trọng nếu các nhân viên không làm đúng chức năng trong một đơn vị. Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu chúng tôi bị tấn công, binh lính cũng đã được huấn luyện và chiến đấu một cách hiệu quả.
 
Đến sông Mosel, gần Koblenz, khoảng 6 giờ chiêu, xuống xe lửa dễ hơn lên xe rất nhiều. Mặc dù lũ ngựa hoảng sợ, nhung cũng đem chúng xuống dễ dàng hơn. Chúng tôi xuống tàu ở Cochem, thung lũng Mosel, và đi bộ đến núi Eifel. Chúng tôi sẽ tiếp tục cuốc bộ nguyên ngày hôm sau sau khi dựng lều nghỉ đêm ở đây. Chúng tôi buộc ngựa sau khi cho chúng ăn uống, cắt người canh gác, dựng lều và ăn uống trước khi đi ngủ khoảng 10 giờ đêm. Chúng tôi ngủ dưới bầu trời đầy sao, tiếng nước chảy róc rách của con sông cạnh bên, và trong tiếng dế, tiếng ếch nhái. Nững con đom đóm bay chập chờn trong bóng đêm. Nnững tiếng động, tiếng thở phì phò, tiếng dậm chân, mùi ngựa quen thuộc làm tôi cảm thấy như ở doanh trại, và tôi chìm vào giấc ngủ.
 
Chúng tôi thức giậy vào lúc 5:30 sáng, sau những lễ nghi buổi sáng, chúng tôi tiếp tục hành quân vào lúc 7 giờ. Mặc dù núi Eifel không cao, con đường dài lê thê vói đường núi dốc, người phải đi bộ thay vì cưỡi ngựa hay ngồi trên xe ngựa. Cảnh vật trên núi khá đẹp, nhưng chúng cũng làm cho cuộc hành quân khó khăn vì nhiều chỗ đường rất hẹp.
 
Dự đóan leo dốc khoảng 3 giờ, nhưng đi được 2 giờ thì một bánh xe chở đạn đi đầu bị gãy. Tôi sai lính liên lạc lên trước báo cho Đại Uý Wimmer là chúng tôi sẽ bị trể, vì các xe sau không thể vượt qua chiếc xe bị gãy. Tiếp đó tôi cho gọi hạ sĩ - thợ rèn Max Knecht lên sửa. Trong khi Knecht và những phụ tá sửa xe, tôi đến bếp kiếm trà uống và chờ. Người đàu bếp là Trung Sĩ Josef Boldt, anh ta có một bộ lông mày chạy từ bên này qua tới bên kia.
 
Sau gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tiếp tục lên đường, lên dốc được khoảng 1 giờ thì bị dừng lại thêm 1 lần nữa. Tôi gởi lính liên lạc lên phía trước và được biết vài cây lớn bị gãy nằm cản đường. Những cây này bị đốn ngã vài ngày trước đây để cản đường nếu quân Pháp và Anh tấn công. Chúng tôi tiếp tục chờ cho đến khi người ta dọn sạch các chướng ngại.
 
Cuối cùng chúng tôi đến vị trí vào khoảng trưa. Chúng tôi ở vào khoảng 5km về phía Đông từ biên giới Luxembourg, hướng tây bắc của Bleialf và Winterspelt, trong một khu rừng khá dày. Một con suối chảy qua, chúng tôi có thể dùng nó để cho ngựa uống và tắm rửa. Đại Uý Wimmer chỉ định chỗ đặt súng, chĩa về phía biên giới, và nguỵ trang chúng. Chúng tôi đem ngựa ra phía sau và đặt dây điện thoại đến các vị trí tiền sát và các ổ súng.
#61
    khikho007 11.06.2008 05:28:34 (permalink)
    0
     
    Chúng tôi không được cung cấp thông tin về tình hình: chúng tôi có bao nhiêu sư đoàn hoặc có bao nhiêu sư đoàn Anh - Pháp có thể tấn công chúng tôi. Luxembourg và Belgium nằm giữa Đức và Pháp, nhưng chúng tôi không nghi ngờ rằng Pháp - Anh sẽ băng qua những nước ấy để tấn công chúng tôi như chúng tôi đã nghi ngờ trong cuộc chiến tranh trước. Có thể họ sẽ làm như vậy, vì nếu họ cố gắng vượt qua sông Rhine, Không Lực Đức (Luftwaffe) sẽ là mối đe dọa cho họ (họ sẽ phơi mình ra giữa dòng sông rộng, và các cầu sẽ bị phá hủy; họ sẽ bị kẹt ở các cổ chai (bottleneck) và trở thành những mục tiêu lý tưởng cho không quân). Chúng tôi nghỉ trận chiến sắp sửa xảy ra, và nhiệm vụ của chúng tôi rất nặng nề trong sự trông chờ đó.
     
    Chúng tôi lập các chu vi phòng thủ và lập tức đào hầm. Mùi đất mới hòa lẫn với mùi lá cây mục toả ra trong buổi chiều tháng 9 nóng nực. Và mùi mồ hôi tiếp tục thêm vào những mùi đó. Sau khi đào xong hố chiến đấu (foxholes), binh lính bắt đầu đào hầm (bunker) Chúng tôi không biết sẽ ở đây đến khi nào, nhưng không ai thích ở trong các hố cá nhân hay trong lều cả. Họ chặt các cây nhỏ để làm hầm. Họ chặt các nhánh cây, rồi cắm sát vào nhau, và trám bùn vào giữa các cây. Mùi bùn rất khó chịu. Trước hết, binh lính làm hầm cho các vị trí quan sát, hầm sĩ quan, rồi hầm cho họ. Những cái hầm được đào sâu vào vách núi, cửa và cửa sổ xoay về hướng địch. Khoảng 7-8 người ở một hầm.
     
    Rehberg dọn lên căn hầm quan sát. Là sĩ quan pháo đội, hầm của tôi phía sau các vị trí tiền sát chừng 3 cây số với các pháo đội. Pháo và các căn hầm được nguỵ trang kỹ lưỡng để không bị phát hiện từ máy bay. Chúng tôi chỉ mất 2 ngày để chuẩn bị cho vị trí chiến đấu. Lammers xây căn hầm của tôi rất khá so với điều kiện hoang sơ chung quanh. Thiếu Tá Raake đến để kiểm tra vị trí và khen ngợi công việc hoàn thành nhanh chóng.
     
    Ông của mang đến tin thiệt hại đầu tiên ở Ba Lan của những người đã cùng phục vụ với chúng tôi ở Plauen. Một trong số họ là sĩ quan tiền sát, anh ta bị thương nặng vì đạn pháo của chính pháo đội anh ta khi một trái đạn ngắn tầm và nổ ngay vị trí quan sát của anh ta. Tin tức làm cho tôi cảm thấy tê tái, không chỉ vì tôi biết anh ta mà vì người đó có thể là tôi nếu tôi đi Ba Lan với pháo đội của mình. Những tin đó làm chúng tôi thấy chiến tranh là "thật" hơn.
     
    Chúng tôi lập tức bắt đầu chương trình huấn luyện để tập ngựa và để cho nhân viên làm việc ăn ý với nhau. Chúng tôi thực tập suốt ngày, mỗi ngày, để cố gắng lập ra sự nối kết cần có để chiến đấu trong một đội hình tấn công nếu có lệnh. Áp lực vì không biết khi nào chúng tôi bị tấn công cũng thúc đẩy chúng tôi làm việc cật lực để trở thành một đơn vị chiến đấu hiệu quả. Chúng tôi được huấn luyện chiến đấu, và với sự tự tin của tuổi trẻ và ngây thơ, tôi không hề nghĩ đến cái chết hay bị tàn tật trong chiến đấu.
     
    Công việc hàng ngày của chúng tôi là miệt mài tập dợt. Địa thế đồi núi làm cho việc huấn luyện rất khó khăn; không có mặt bằng nên người ngựa đều phải làm việc nhiều hơn. Ít ra, thời tiết cuối hè khô, nên chúng tôi không phải lo mưa và trợt té. Ngày qua ngày, và quân Pháp vẫn không tấn công. Wimmer, Rehberg, và tôi - cũng như biết bao người khác, tôi chắc vậy - đều mừng là quân Pháp - Anh để cho chúng tôi đủ thì giờ để người ngựa sẵn sàng trước khi họ tấn công. Cứ mỗi ngày huấn luyện, sự tự tin của chúng tôi càng cao hơn. Và nhiều ngày nửa trôi qua, vẫn không tấn công. Sau 2 tuần, binh lính bắt đầu bày trò cười về nó.


    #62
      khikho007 11.06.2008 05:33:12 (permalink)
      0
       
      Một đêm, Niebergall ghé ngang và nhập bọn cùng Wimmer, Rehberg, và tôi uống rượu. Anh cho chúng tôi biết những tin mới nhất từ Ba Lan. Các diễn biến đều tốt đẹp. "Một chiến thuật gọi là Blitzkrieg," anh nói. "Xe tăng vượt qua phòng tuyến địch, và tấn công phá hủy liên lạc và đường tiếp vận. Sự xuất hiện của xe tăng trong hậu phương còn làm cho quân địch hoảng sợ. Chiến thuật này rất có hiệu quả ở Ba Lan". Niebergall ngay ngất vì sự thành công của chiến thuật mới này.
       
      "Tốt lắm," Wimmer nói. "Bất cứ cái gì cũng tốt hơn chiến tranh hầm hố mà chúng tôi bị lún xuống trong cuộc chiến tranh vừa qua."
       
      Ngày 17 tháng 9, quân Nga tấn công Ba Lan từ phía đông. Lúc đó, quân Ba Lan đã bị quân Đức tiêu diệt gần hết, và quân Nga hầu như không gặp sự kháng cự nào. Rõ ràng, đó là một phần của cái giá phải trả về quan hệ mới giữa Đức và Liên Bang Xô Viết. Nó giống như một sự nhạo báng đối với tôi. Thái độ của tôi đối với chính phủ bắt đầu lung lay về sự tin tưởng.
       
      Binh lính bắt đầu gọi sự có mặt phòng thủ biên giới của chúng tôi là chiến thuật "sitzkrieg," một từ giễu được truyền từ mấy tay lái xe ngựa từ đơn vị này qua đơn vị khác. Một vài khu vực, quân Pháp và Đức thỉnh thoảng rót đạn pháo qua biên giới, nhưng nơi chúng tôi thì im lặng, vì Belgium và Luxembourg không đặt các cứ điểm bên biên giới của họ, vì chúng tôi không tuyên chiến với họ.
       
      Cuối tháng 9, chúng tôi nhận lệnh rút vào làng mạc xa biên giới hơn, nơi chúng tôi có thể sinh hoạt khá hơn, sống trong nhà hoặc các trang trại thay vì hầm. Chắc là Bộ Tư Lệnh Tối Cao biết rằng quân Pháp sẽ không tấn công, mặc dù họ tuyên chiến với chúng tôi.
       
      Pháo đội của tôi rút về một ngôi làng ở Eisenschmitt. Người ta bố trí người ngựa chúng tôi bố trí trên khoảng đất của Bismarck, ngay phía bên ngoài ngôi làng. Bismarck, "Thủ Tướng Thép", là thủ tướng của Đế Chế thứ 2 cuối thế kỷ trước. Đất đai được truyền cho người cháu trai của Bismarck, anh ta đã nhập ngũ và vợ anh ta cùng với đứa con trai 2 tuổi là những thành viên duy nhất của dòng họ Bismarck còn ở trên khu đất này.
       
      Các sĩ quan ở trong các căn nhà trong làng. Có quân đội đóng quân trong làng là một kinh nghiệm mới với các cư dân ở đây, đây là vùng đất nghèo của nước Đức, và dân chúng vui mừng khi có thêm 1 ít tiền mà chúng tôi mang đến cho họ. Chế độ "tem phiếu" làm cho cuộc sống của họ khó khăn hơn.
       
      Tôi nhận được thư của Fritz và biết rằng em tôi cũng bị kêu nhập ngũ. Cậu ta ở Jena, chỗ tôi ở 3 năm về trước, nhưng là bộ binh chứ không phải pháo binh.
       
      Ngày 6 tháng 10, Sự chống trả của Ba Lan chấm dứt và cuộc chiến ở Ba Lan coi như xong. Mặc dù Pháp Anh tuyên chiến với Đức, họ đã không làm gì trong nổ lực chống lại chúng tôi, và chúng tôi vui mừng cho rằng cuộc chiến đã chấm dứt.
       
      Thiếu Úy Niebergalll ghé ngang một đêm với vẻ mặt buồn bã.
       
      "Chúng tôi vừa nhận được tin Dornberg bị chết ở Ba Lan. Anh ta ở tuyến trước với bộ binh để điều chỉnh pháo binh."
      Mặc dù tôi biết là chiến tranh thật sự xảy ra, tôi vẫn chưa chứng kiến đánh nhau thật sự, và tôi cảm thấy khó khăn để chấp nhận cái chết của Dornberg. Hình ảnh ông ta và bà Dornberg ở buổi khiêu vũ ở Plauen hiện lên suốt đêm đó.
       
      Ngôi làng ở Eisenschmitt tổ chức ngày hội ăn mừng chiến tranh chấm dứt ở Ba Lan. Binh sĩ chúng tôi tham gia vui vẻ, vì họ được uống bia miễn phí, ban nhạc chơi thật khuya, và sau những tuần lễ căng thẳng trên núi nên binh lính tận tình tham gia. Với tôi, tôi nghĩ rằng chúng tôi thật sự ăn mừng vì không phải đánhh nhau với Anh - Pháp hơn là chiến tranh chấm dứt ở Ba Lan. Cứ mỗi khi tôi hòa mình vào cuộc vui, lập tức tôi nghĩ về Dornberg và cuộc vui bỗng nhiên mất ý nghĩa.
      #63
        khikho007 12.06.2008 11:06:12 (permalink)
        0
         
        Sáng hôm sau, Thiếu Tá Raake và tất cả các sĩ quan nhận được thiệp mời đến chỗ gia đình Bismarck để mừng thắng trận. Thiệp mời từ vợ của cháu trai Bismarck. Đây là một dịp khá lý thú. Chúng tôi được đi tham quan toà lâu đài, có cả chỗ chơi bowling dưới tầng hầm. Frau von Bismarck là một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp và hoạt bát vào khoảng giữa của tuổi hai mươi. Với cách ăn nói có duyên và sự chủ toạ xuất sắc, cô đã làm cho tất cả chúng tôi cảm thấy rất thoải mái, cô đem đứa con trai 2 tuổi ra giới thiệu đến từng người một.
         
        Thời gian trôi qua và không có dấu hiệu của cuộc tấn công từ Pháp, chúng tôi tập luyện nhẹ nhàng hơn và cho lính nghỉ ngơi nhiều hơn. Dù vẫn còn đang tình trạng chiến tranh với Pháp và Anh, mọi người đều cảm thấy cuộc chiến đã thật sự chấm dứt sau khi Ba Lan thua trận. Tháng 10 và tháng 11 trôi qua mà không có gì xảy ra ngoại trừ thời tiết mùa đông khắt nghiệt hơn mọi năm. Chúng tôi bắt đầu huấn luyện chiến đấu mùa đông, để giữ binh lính bận rộn và nhanh nhẹn. Chúng tôi thực hành thành thạo hơn và hợp tác với bộ binh và các pháo đội khác trơn tru hơn. Gần đến Giáng Sinh, có quyết định cho binh lính nghĩ phép mùa lễ. Các lãnh đạo cao cấp chắc chắn không thấy có sự đe doạ từ Pháp, Một nửa quân số được nghĩ lễ 5 ngày trong Giáng Sinh và một nửa kia được nghỉ năm mới như thường lệ.
         
        Niebergall nghỉ Giáng Sinh, và tôi được chọn làm những công việc của anh với cương vị sĩ quan phụ tá tiểu đoàn, người phụ tá quản lý của tiểu đoàn trưởng. Sĩ quan phụ tá phải gặp gỡ tất cả các pháo đội trưởng và cần phải hoà hợp với những người khác.
        Tôi có một người khách bất ngờ trong dịp này. Liebelt, người bạn học lớp trung học của tôi, bỗng nhiên bước vào văn phòng của tôi trong bộ đồ bộ binh.
         
        "Liebelt!" Tôi la lên khi trong thấy anh. Tôi nhảy lên và ôm lấy anh ta. "Gặp bạn vui quá!"
         
        "Tôi được phân bổ đến đơn vị bên cạnh, " anh vừa nói vừa cười cười toe toét. "Tôi hy vọng là tìm được cậu ở đây."
         
        Cậu ta và Ebert đang học ở trường Y Khoa, nhưng thỉnh thoảng sinh viên bị nhập ngũ để làm công việc cứu thương vài tuần.
         
        Liebelt bị động viên, nhưng sẽ quay trở lại trường sớm.
         
        "Anh có tin tức của mấy đứa kia không?" Tôi hỏi.
         
        "Friedrich bị thương ở Ba Lan."
         
        "Có nặng không?"
         
        "Rất nặng." Liebelt trả lời buồn bả. "Không biết anh ta có qua khỏi không."
         
        Tim tôi chùng xuống, và hình ảnh của Herr Hoffer lại hiện lên trong trí tôi thêm 1 lần nữa.
         
        Đêm Noel, những người còn lại ở pháo đội tập trung lại trong một ngôi nhà lớn bằng gỗ được đặt những bàn dài Mỗi người lính được mọt chai rượu và một cái bánh Noel nhỏ. Chúng tôi hát những bài hát Noel, và Đại Úy Wimmer phát biểu ngắn về lý do tại sao chúng tôi phải ở phòng thủ ở đây. Những buổi tương tự cũng tổ chức ở các đơn vị khác dọc theo biên giới Đức - Bỉ và Luxembourg, Hoà Lan, và Pháp. Mục đích của chúng tôi là vui giáng sinh với nhau. Tôi đi vòng và chúc Giáng Sinh với mọi người. Tôi ngồi xuống 1 bàn cùng với Boldt, Lammers, Schmitt, và Knecht. Những người lính đã giúp tôi thật nhiều, và tôi nói cảm ơn họ. Họ cười và đùa với tôi. Trừ những người phải canh gác và lo cho ngựa, không có nhiệm vụ nào trong đêm và ngày giáng sinh. Mọi thứ đều yên bình và đẹp đẽ trên vùng núi Eifel.

        #64
          khikho007 12.06.2008 11:11:05 (permalink)
          0
           
          Sau buổi tiệc Giáng Sinh ở pháo đội, Thiếu Tá Raake mời các sĩ quan uống rượu ở BCH tiểu đoàn đóng trong một nhà nghỉ của thợ săn.
           
          "Quý vị," ông nâng ly, "vì hoà bình. Nếu quân Pháp không tấn công chúng ta trong khi chúng ta tấn công Ba Lan, tôi chắc chắn rằng họ sẽ không tấn công nữa."
           
          Tôi nghĩ phép 5 ngày trong dịp đầu năm. Đây là lần đầu tiên tôi về nhà kể từ khi chiến tranh với Ba Lan bắt đầu. Fritz cũng được về, và thấy là lạ khi nhìn cu cậu trong quân phục. Cậu ta vui vẻ chào tôi và đùa với tôi là không được dùng vẻ mặt cấp trên ở nhà. Tôi chọc cậu ta lại là với vai anh, tôi luôn luôn cao cấp hơn cậu. Mẹ tôi lo cho hai chúng tôi, tôi cố gắng trấn an mẹ bằng lập luận của Raake: nếu Pháp không tấn công trong thời gian chúng tôi tấn công Ba Lan, họ chắc chắn sẽ không dám tấn công bây giờ. Fritz thì luôn hăm doạ.
           
          "Nếu họ dám, chúng ta sẽ cho họ nếm nùi như bọn Ba Lan."
           
          Cha tôi chỉ nhìn và không nói gì, mặc dù hình như ông khó chịu với lời nói của Fritz. Chị Inge cau mày và im lặng.
           
          Tháng Giêng năm 1940 trôi qua với những hoạt động huấn luyện tiếp tục. Tháng 2, chúng tôi nhận lệnh lên xe lửa đi đến miền Trung nước Đức, có thể là một thành phần của lực lượng dự bị chiến lược. Kinh nghiệm đưa ngựa lên xe lửa lần trước làm cho lần này dễ dàng hơn. Ngựa cũng đã biết người chăm sóc, và đã được di chuyển, nên dễ dàng sai bảo. Chúng tôi xuống ở Magdeburg và tiếp tục đi bộ đến Leitzkau, một ngôi làng nhỏ gần đó, và tiếp tục huấn luyện.
           
          Thời tiết mùa đông rất lạnh, nhưng chúng tôi được trang bị áo ấm. Chúng tôi phải đập băng để lấy nước cho ngựa hầu như hàng ngày, và cuối tháng giêng binh sĩ có thể trượt băng trên mặt sông mà không sợ làm vỡ mặt băng.Mặc dù mùa đông 1939-1940 rất lạnh so với mọi năm, chúng tôi có chỗ ở tốt nên không việc gì. Leitzkau là một ngôi làng khá vui, nên chúng tôi thích ở đây. Chúng tôi di chuyển từ khu vực nghèo nhất nước Đức trong vùng núi Eifel đến một trong những nơi thịnh vượng nhất. Mặc dù lương thực vẫn bị trong chế độ tem phiếu, nhưng những nông dân địa phương có rất nhiều thịt, sữa, trứng, và bơ.
           
          Các sĩ quan ăn uống trong một khách sạn nhỏ. Chúng tôi đưa thức ăn cho nhân viên khách sạn, họ nấu nướng cho chúng tôi và lấy tiền công. Người quản lý khách sạn, Willy Kurtz, một nguời rất cao, khoảng 50. Ông có vẻ nặng nề và đầu hói, và là một người rất dễ mến với đôi mắt xanh. Bố ông ta cũng đã làm quản lý ở đây, và ông ta không biết bất cứ ở đâu trừ 2 năm phục vụ quân đội trong chiến tranh thế giới. Ông và Wimmer thường hay nói về cuộc chiến hầm hố.
           
          "Có những lúc chân của tôi không bao giờ khô suốt cả mấy tuần," có một lần Kurtz nói. "Cả thân tôi cũng ướt suốt ngày. Chúng tôi chỉ ngồi chịu khổ sở ngày này qua ngày khác, cuộc sống dường như dừng lại, và chờ đợi cái lệnh khủng khiếp là xung phong xáp la cà."
           
          Nghe họ nói chuyện, tôi bắt đầu thấm thía nổi lo sợ của Wimmer về 1 cuộc chiến tranh hầm hố.
           
          Tư lệnh sư đoàn, Thiếu Tướng von Studnitz, đến Leitzkau kiểm tra trong tháng 3. Ông có vẻ như một người khá lý thú, mặc dù với lon thiếu uý, tôi chưa có dịp tiếp xúc ông. Trong lúc ông kiểm tra, ông cùng ăn tối với chúng tôi ở khách sạn Kurtz. Tôi không ngồi cùng bàn với ông, nhưng tôi có thể nhìn thấy hoạt bát so với một vị tư lệnh. Và ông đi vòng quanh các bàn để chuyện trò.
           
          Ngày 3 tháng 4, chúng tôi di chuyển nữa, lần này đến Overath gần Cologne, ngay phía đông sông Rhine. Một lần lửa, chúng tôi lên xe lửa. Bây giờ thì chúng tôi thành thạo lắm rồi. Chúng tôi tiếp tục huấn luyên, tập vượt sông, bảo vệ pháo từ các cuộc tấn công, và các hoạt động khác.
           
          Ngày 1 tháng 5 năm 1940, tôi được lệnh trình diện Thiếu Tá Raake. Ông chào lại tôi và mời ngồi.
           
          "Niebergall được thăng cấp lên pháo đội trưởng ở một tiểu đoàn khác," ông đi thẳng vào vấn đề. "anh có thích làm sĩ quan phụ tá của tôi không?" Tôi trả lời một cách tự động, tất nhiên, vì trở thành sĩ quan phụ tá tiểu đoàn là một bước lớn và theo hướng tốt nhất đối với tôi.
           
          "Tôi rất làm hân hạnh, thưa Thiếu Tá,"
           
          Tôi rộn ràng và vui mừng. Sự nghiệp của tôi tiến lên một cách đẹp đẽ. Thường thì một sĩ quan tiến thân từ sĩ quan tiền sát lên sĩ quan pháo đội, rồi đến phụ tá tiểu đoàn, tiếp là pháo đội trưởng. Tiếp đó là sĩ quan phụ tá trung đoàn - hoặc vào trường Đại Học Tham Mưu nếu tỏ ra xuất sắc.
           
          Là sĩ quan phụ tá của Thiếu Tá Raake, tôi phải biết ông rõ hơn. Ông hiểu biết và say mê chiến thuật Blitzkrieg, như nó đã xảy ra ở Ba Lan. Mặc dù biết rõ về chiến tranh hầm hố (trench warfare) và rất sợ nó. Ông thấy được làm chiến thuật Blizkrieg làm cho chiến thuật cũ bị lạc hậu đi như thế nào. Tôi rất phục Raake và thường cố gắng học tập tính cách của ông ta.
           
          Trong thời gian này, tôi thắng giải thi bắn súng ngắn ở Overath. Đầu tháng 5, ngay sau khi tôi trở thành sĩ quan phụ tá tiểu đoàn, chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch tổ chức một cuộc thi bắn súng toàn sư đoàn. Thiếu Tướng von Studnitz là một người lính kỵ binh, và ông ủng hộ kế hoạch của chúng tôi. Đây chắc chắn làm một cuộc tranh tài thú vị.
           
          Nhưng nó không bao giờ xảy ra. Sáng ngày 10 tháng 5 năm 1940, Đức tấn công nước Pháp.
           
          #65
            khikho007 12.06.2008 11:14:28 (permalink)
            0
             
            Chương 14
             
            Ở địa vị của tôi, tôi không biết cuộc tấn công Pháp sắp xảy ra. Chúng tôi di chuyển đến Overath, gần biên giới phía tây, không mang đến cho tôi một nghi ngờ gì vì rất bình thường khi chúng tôi di chuyển. Sẽ không tốt cho binh lính khi họ ở một chỗ, vì binh lính sẽ trở nên trể nãi và không huấn luyện nghiêm túc. Ở nơi mới, chúng tôi có địa hình mới và tình huống mới để chúng tôi có thể khai thác huấn luyện. Trong trường hợp này, chúng tôi di chuyển trong kế họach chiến lược lớn, những cấp bậc dưới tư lệnh sư đoàn đều không biết điều này.
             
            Thiếu Tá Raake nhận lệnh tối ngày 9 tháng 5 năm 1940, sẵn sàng hành quân vào lúc 8 giờ sáng vào sáng hôm sau. Ông gọi tôi vào văn phòng.
             
            "Sẵn sàng báo động vào lúc 5 giờ sáng," Ông nói. "Đây không phải là luyện tập. Đây là chuyện thật. Chúng ta tấn công Pháp vào ngày mai. Chuẩn bị các mệnh lệnh tối nay, đưa ra vào sáng mai. Người hạ sĩ quan đánh máy không được phép rời văn phòng cho đến khi báo động lúc 5 giờ sáng."
             
            "Jawohl, thưa Thiếu Tá," Tôi trả lời. Mặc dù ngạc nhiên vì những thay đổi, tôi lập tức làm việc. Công việc của tôi, một sĩ quan phụ tá, phải chắc chắn các chi tiết phải rõ ràng và mọi việc đều đúng kế hoạch.
             
            Tôi ra với Schwabenprinz trước khi báo động, kiểm tra các pháo đôi để chắc chắn bếp núc chuẩn bị và binh sĩ được đánh thức. Mọi thứ đều phải chính xác về thời gian, vì thời biểu xe lửa rất đúng giờ. Và đây là cuộc báo động toàn phần, chúng tôi không được để lại bất cứ vật gì.
             
            Đúng giờ, các pháo đội đều tập hợp hàng ngủ và sẵn sàng hành quân. Chúng tôi đợi lệnh từ sư đoàn để tiến quân - nhưng chúng tôi không nhận được lệnh từ họ suốt ngày hôm ấy. Chúng tôi chỉ đợi. Qua radio, chúng tôi được biết là Nước Đức đã xâm lăng nước Pháp. Tôi nói chuyện suốt ngày với Thiếu Tá Raake và các chỉ huy pháo đội trong khi chờ lệnh. Chúng tôi nghĩ rằng vì số lượng quá lớn về binh sĩ, xe tăng, pháo tự hành, và các đơn vị khác quá đông trong cuộc tấn công nên chúng tôi phải đợi cho đến khi đến lượt mình.
             
            Thiếu Tá Raake quả quyết rằng lần này cũng sẽ là chiến thuật blitzkrieg như ở Ba Lan. Wimmer thì chắc rằng chúng tôi sẽ phải lặp lại một cuộc chiến tranh hầm hố như thời chiến tranh thế giới. Đại Úy Witnauer, pháo đội trưởng pháo đội 2, và Đại Uý Wagner, pháo đội 3, đồng ý với Raake. Vì cả hai đều chưa đến 30, và không ai có nổi lo sợ của Wimmer.
             
            Ngày hôm đó thật dài, chỉ ngồi và đợi lệnh hành quân. Văn phòng Raake, trung tâm đầu não của tiểu đoàn, luôn tấp nập với những hoạt động, các thiếu úy từ các pháo đội chạy lên chạy xuống để tìm tin tức mới nhất. Tất cả tin tức chúng tôi nhận được đều tích cực. Quân đội tiến đều đặn ở Luxembourg, Bỉ và Hà Lan. Tôi đi theo Raake vào buổi chiều đến các pháo đội trò chuyện với lính để coi tinh thần của họ đến đâu. Tinh thần của họ rất cao, nhất là với những tin tức có lợi, mặc dù cũng như chúng tôi, họ mệt mỏi chờ đợi và nôn nóng chờ đợi tiến quân. Nếu họ có sợ viễn cảnh chiến tranh, thì tôi không nhận thấy điều này. Họ chơi đùa, cứ như họ đang ở Plauen. Những sĩ quan dự bị chúng tôi trò chuyện với những người có kinh nghiệm để biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tất cả các sĩ quan trẻ đều chắc rằng cuộc tấn công Pháp sẽ tương tự như cuộc tấn công Ba Lan.
            #66
              khikho007 12.06.2008 11:18:08 (permalink)
              0
               
              Cuối cùng chúng tôi cũng nhận được lệnh hành quân vào sáng hôm sau, 11/5/1940. Tôi hơi thất vọng lần nữa vì pháo binh - ngựa kéo thay vì pháo binh cơ động. Chúng tôi phía sau mặt trận ít nhất là một ngày hành quân, và với ngựa kéo, chúng tôi ngày càng tụt hậu xa hơn. Chúng tôi cột ngựa vào xe, súng và đi khoảng 25km đến ga xe lửa. Kế hoạch di chuyển đã được chuẩn bị từ các sĩ quan hành quân sư đoàn. Công việc của tôi là chỉ định vị trí các pháo đội vào các thời điểm cần thiết, pháo đội nào đi trước, và các công việc về hậu cần.
               
              Mất khoảng 45 phút để lên tàu, vì chúng tôi đã làm công việc này khá thành thạo. Chúng tôi lên tàu ở ngoại ô Cologne. Với 3 pháo đội, cần 3 chuyến tàu lửa để di chuyển cả tiểu đoàn. Chúng tôi đi tàu chỉ 18 cây số, vượt qua sông Rhine. Chúng tôi được đi xe lửa vì chắc đường đường được giành cho xe tăng và pháo binh cơ giới. Chúng tôi xuống tàu ở Euskirchen, tây nam của Cologne, chúng tôi tiếp tục hành quân bộ đến biên giới Bỉ.
               
              Chúng tôi thuộc Phương Diện Quân A, Tư lệnh là Đại Tướng von Rundsted; Tập Đoàn Quân 4, do Đại Tướng von Kluge tư lệnh, và Quân Đoàn 8 bộ binh (BB), tư lệnh là Tướng Heitz. Chúng tôi vào Bỉ ngày 13 tháng 5. Trung đoàn BB mà chúng tôi yểm trợ tiến phía trước chúng tôi, theo đội hình hành quân, vì chúng tôi phải sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Chúng tôi đi qua rừng Ardennes, địa hình đồi và cây cối rậm rạp. Chúng tôi hành quân liên tục 7 ngày trước khi được nghỉ ngơi một ngày.
               
              Chúng tôi phải sẵn sàng tiến quân lúc 6 giờ sáng. Trong tiểu đoàn tôi, những người giữ ngựa, đầu bếp và sĩ quan trực nhật của các pháo đội phải dậy lúc 4:30 sáng. Giờ đó, trời còn rất tối. Buổi sáng sớm còn lạnh, và thường rất ẩm ướt vào sáng sớm vì sương hay mưa. Chim chóc cũng bị đánh thức khi đầu bếp nổi lửa nấu cà phê hay trà và 2 cái nồi thật lớn của bếp dã chiến. Đầu bếp bỏ tất cả những gì cần nấu vào trong nồi và nấu cho đến khi chúng tôi rời chỗ lúc sáu giờ. Và những cái nồi đó tiếp tục được nấu trên bếp di động trong khi hành quân.
               
              Một ly trà nóng thường giúp tôi đẩy lùi cái lạnh buổi sáng. Binh lính bắt đầu dậy và vệ sinh cá nhân và làm cho khu vực sống lên và ánh sáng bình minh chậm chạp đẩy lùi bóng đêm. Mọi người đến các bếp kiếm trà hay cà phê, bánh mì, bơ và thịt nguội, thỉnh thoảng có Pate hay những món khác. Rồi thì tiếng xích, tiếng bánh xe nặng nhọc trên con đường ghập ghềnh, một ngày mới lại tiếp tục.
               
              Sau 4 giờ hành quân, chúng tôi dừng lại cho buổi ăn chính trong ngày. Chúng tôi luôn dừng lại ở những nơi có nước cho ngựa, có khi chỉ là 1 khe nước nhỏ. Chúng tôi cho ngựa ăn uống và coi chúng có bị trầy sướt hay sưng tấy và kiểm tra móng trước khi ăn. Vì không có phản ứng của địch, nên bếp núc được bày ra và bữa ăn nóng được nấu lên. Chúng tôi có khoảng 45 phút để ăn. Đây là bữa ăn nóng duy nhất trong ngày, mặc dù đầu bếp có thể nấu soup cho buổi tối. Họ cũng chuẩn bị cà phê và trà cho lúc giải lao. Sau khi ăn trưa, chúng tôi tiếp đi đi cho đến 5-6 giờ chiều, hoặc cho đến khi chúng tôi đến được vị trí chỉ định. Tất nhiên, thời tiết thỉnh thoảng ảnh hưởng đến cuộc hành quân. Trung bình chúng tôi đi được 40 km mỗi ngày, nhưng thay đổi từ 20 đến 50 km tuỳ thời tiết và địa hình.

              #67
                khikho007 12.06.2008 11:22:01 (permalink)
                0
                 
                Sư đoàn chỉ định mục tiêu hàng ngày cho chúng tôi, họ chỉ cho chúng tôi nghỉ đêm ở những đâu. Nếu được, chúng tôi cố gắng đến một ngôi làng nào đó, nơi có nước uống và chỗ ngủ. Nếu không có làng mạc, chúng tôi ngủ giữa đồng hoặc cắm lều. Việc đầu tiên sau khi dừng quân là đặt khoảng 10-15 trạm gác (trong làng hay trong rừng thì đặt trạm gác nhiều, ngoài đồng trống thì ít hơn) và đặt súng ở những vị trí mà chúng tôi có thể chiến đấu hoặc di chuyển ngay nếu cần. Chúng tôi đặt súng hướng về phía mặt trận. Ngựa được cho ăn uống, rồi đến lượt chúng tôi.
                 
                Các pháo đội trưởng tập trung 185 binh sĩ của mình và cho biết tình hình mặt trận, phòng tuyến ở chỗ nào... Lúc đó thì đã 7:30 - 8 giờ, mọi người nói chuyện, nghỉ ngơi hoặc viết thư rồi đi ngủ. Các sĩ quan có túi ngủ (sleeping bag) binh lính có mền. Mọi người tự tìm những chổ thoải mái rồi đặt lưng. Sau 12 giờ di chuyển và thêm 1 giờ kiểm tra xung quanh, tôi ngủ một cách dễ dàng.
                 
                Khi trời mưa, chúng tôi cố gắng tìm nhà hay nông trại để ngủ nếu có làng mạc. Nếu ngoài đồng trống, cứ 4 người một nhóm, họ nối lều của họ với nhau và làm thành 1 cái lều đủ cho 4 người ngủ. Các pháo đội trưởng luôn luôn có lều riêng vì phải giữ những thiết bị, tài liệu khỏi bị ướt.
                 
                Chúng tôi không nghe được tiếng súng từ mặt trận, vì bây giờ chúng tôi cách xa mặt trận ít nhất lầ 2 ngày đường. Nhưng chúng tôi thấy những chứng tích để lại. Khi chúng tôi đi qua những bãi chiến trường - xác xe tăng cháy, cầu sập, xác thú vật. Cây gãy ngang mặt đường cứ vài trăm mét. Hầu hết đã được dọn qua một bên, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi phải dọn để lấy đường đi. Nơi cầu sập, công binh đã làm các cầu phao tạm.
                 
                Đến Bra, Bỉ, chúng tôi phải để con ngựa đầu tiên lại vì nó đã kiệt sức. Sau một đêm trong 1 công viên, sáng hôm sau chú ngựa không bước nổi nữa. Tôi tự hỏi lúc đó tại sao bác sĩ thú y Lutzow không bị kiệt sức như lũ ngựa. Ông ta phải đi với chúng tôi suốt ngày, ban đêm lại phải loay hoay lo cho chúng. Ông ngủ rất ít và tôi thường thấy ông vừa ngồi trên ngựa, vưa đi vừa ngủ giật trên đường hành quân.
                 
                Một người khác là những thợ rèn của các pháo đội. Lúc đầu không đến nổi nào, nhưng khi đến Bomal, Bỉ, chúng tôi vượt qua cầu phao qua sông Ourthe. Đến dốc cầu bên kia, một bánh xe súng bị gãy và chúng tôi phải dừng lại chờ cho đến khi họ sửa xong. Từ đở trở đi, các thiết bị bắt đầu hư hỏng thường xuyên, và chúng tôi phải dừng lại nhiều lần để cho các thợ rèn sửa chửa.
                 
                Bonsin, Bỉ, bụi và nóng. Phía nam của làng Houx, chúng tôi vượt sông Maas. Ngày 17 tháng 5, tiểu đoàn thám báo của sư đoàn bắt được bảy trăm tù binh. Ngày 18 tháng 5, chúng tôi được biết Brussels đầu hàng. Ở Osternerée, chúng tôi dừng lại trong một công viên rất đẹp trên đất của Vua Bỉ. Ở đây, ngày 19 tháng 5, cả sư đoàn chúng tôi được nghỉ ngơi 1 ngày. Mọi người tắm rửa, giặt giũ, viết thư. Nhiều người lăn ra ngủ suốt ngày. Chúng tôi tiếp tục hành quân ngày 20 tháng 5 và tiến vào Rance, Bỉ, nơi chúng tôi phải cưa những cây lớn ngã chặn đường để lấy đường đi. Chúng tôi đi qua nhiều xe tải chở đầy sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh.
                 
                Ngày 21 tháng 5, chúng tôi bắt đầu vào đất Pháp. Hôm đó, chúng tôi được lệnh bất ngờ tách ra khỏi Phương Diện quân A và nhập vào Tập Đoàn Quân Kleist (tên của Đại Tướng Kleist). Và chúng tôi đi thẳng đến sông Somme.
                #68
                  khikho007 12.06.2008 11:29:41 (permalink)
                  0
                  Đến bấy giờ, mọi việc đều giống như một buổi thao diễn đối với chúng tôi, ngoại trừ chúng tôi đi theo dấu của chiến tranh, đi qua những bãi chiến trường đã xảy ra vài ngày trước và thấy những gì còn lại của một trận chiến. Chúng tôi đã quen với bụi và mùi của thuốc súng và mùi xăng nhớt trong thao diễn, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi ngữi thấy sự chết chóc. Súc vậy chết khặp nơi, chúng là những nạn nhân của đạn, cối, pháo, bom. xác chúng này trương phình lên giữa đồng với chân chổng lên trời. Tôi được biết mùi thối rữa, bụi, thuốc súng, khói, xăng là mùi của chiến tranh. Đây là lần đầu tiên tôi hít phải mùi chiến tranh, và mùi này sẽ trở thành rất quen thuộc trong năm năm đến.
                   
                  Lần đầu tiên nhìn thấy lính chết làm tôi bị kinh hoàn. Chúng tôi được huấn luyện đem đến cái chết nhanh và hiệu quả nhất, và tôi biết rằng người ta chết trong chiến tranh. Nhưng "biết" trong kiến thức hoàn toàn khác với thấy và trải qua nó. Chúng tôi có các sĩ quan trong trung đoàn bị chết ở Ba Lan, đương nhiên, chúng tôi cảm giác được tổn thất. Nhưng từ "bị giết" vẫn là một từ mang ý nghĩa "thụ động" nếu so sánh với ý nghĩa của nó khi thấy trước mặt mình là một cái xác máu me, không toàn thây, thối tha mà trước đây là một cơ thể sống khoẻ mạnh. Bây giờ là một xác ghê tởm, bất động nằm trên mặt đất.
                   
                  Những người lính chết đầu tiên tôi thấy là lính Pháp - Marốc. Họ bị giết trong một nghĩa trang, và họ nằm ngổn ngang, tay chân họ trong những vị trí kỳ quái, mắt và miệng mở. Sự kiện mà tôi không thể nào quên được. Đây là những gì mà chúng tôi mang đến cho người khác và họ mang đến cho chúng tôi. Một điều khủng khiếp khi biết rằng đây là những gì mà chúng tôi sẽ thấy, sẽ làm hàng ngày cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Từ giây phút đó, cái chết luôn lảng vảng quanh chúng tôi bất cứ nơi nào chúng tôi đi. Tuy nhiên, chúng tôi đã được huấn luyện cho chiến tranh, và chúng tôi phải học cách chấp nhận kề cận với cái chết.
                   
                  Chúng tôi hành quân từ Englancourt đến Guise, nơi đã bị tàn phá hoàn toàn. Xác xe tăng cháy nằm khắp nơi trên đường phố, và con đường ra khỏi thị trấn dốc và hẹp và bị tắc nghẽn vì đủ loại xe của Pháp bỏ lại. Chúng tôi vượt sông Oise ở Proix, sông đào Somme ở Morcourt, và đóng quân trong một nông trại lớn ở Omissy. Rồi tiếp tục đến Moislains, và từ đó đi Hénencourt.
                   
                  Những cuộc tập dượt không chuẩn bị cho chúng tôi về những người tị nạn và những ngôi nhà bỏ trống. Nên chúng tôi không đi vào những thành phố lớn với ngựa và pháo, mà ở nông thôn. Các nông trại bỏ trống và chúng tôi thường gặp những người chạy nạn. Họ rời bỏ nhà cửa vì họ thấy chiến tranh đến gần họ. Vì họ không biết phải làm gì, họ hoảng hốt và bỏ chạy. Thật buồn khi nhìn họ: đàn bà, trẻ em, và những ông già trên xe đạp và xe bò chất đầy những gì họ có thể chở đi được, và họ không biết đi đâu. Người ta làm nghẽn đường bằng đủ loại xe cộ chất đầy các vật dụng. Đúng ra, chiến thuật tấn công blitzkrieg như một cơn lốc vượt qua rất nhanh, cách tốt nhất là cứ ở nhà và chờ cho mặt trận vượt qua. Chúng tôi luôn nói họ về nhà, chiến trận đã qua và không phải sợ hãi nữa, nhưng họ hình như cứ mê muội và không nhận thức được. tôi cảm thấy hối hận là chúng tôi đã phải làm như vậy đến với họ. Họ phải trả một giá khủng khiếp vì nước Pháp tuyên chiến với chúng tôi.
                  #69
                    khikho007 12.06.2008 11:34:31 (permalink)
                    0
                     
                    Chúng tôi kinh ngạc về tốc độ tiến quân của chúng tôi ở Luxembourg, Bỉ, Hà Lan và miền Bắc nước Pháp. Ngày 25 tháng 5, chúng tôi đến gần sông Somme, nơi quân Pháp đã xây một phòng tuyến mới để chận chúng tôi lại. Toàn bộ xe tăng của chúng tôi đã tiến về bờ biển eo biển nước Anh khu vực Dunkirk với cuộc hành quân blitzkrieg, nhưng quân đội Đức vẫn chưa vượt qua sông Somme. Bây giờ đang tập trung một lực lượng lớn để tấn công phòng tuyến Pháp để tiến về Paris.
                     
                    Đến sông Somme, Raake, Wimmer, Wagner, Witnauer, và tôi lên phía trước, cùng với bộ các sĩ quan chỉ huy bộ binh, để quan sát toàn bộ khu vực. Khu vực của chúng tôi được chỉ định trên bản đồ bởi các sĩ quan hành quân sư đoàn, nhưng các vị trí riêng biệt cho các đại đội bộ binh và các pháo đội không được phân bố cho đến khi các chỉ huy quan sát địa hình. Trung đoàn trưởng bộ binh, Đại Tá Haushofer, chỉ định từng vị trí cho mỗi tiểu đoàn, và mỗi pháo đội yểm trợ từng tiểu đoàn. Các chỉ huy pháo đội tìm nơi tốt nhất để đặt các vị trí quan sát và các vị trí tốt nhất để đặt súng trong khu vực của họ. Sau khi chọn các vị trí cho toàn bộ các đơn vị, chúng tôi gởi các hạ sĩ quan về để họ đưa súng vào vị trí.
                     
                    Chúng tôi có vị trí khá tốt bên bờ sông cao phía bắc con sông. Tiện lợi hơn, có một con đường chạy dọc theo bờ sông. Phía bên kia, bờ sông thoai thoải, và chúng tôi có thể nhìn xa khoảng 4 - 5km. Quân Pháp chỉ bố trí vài tiền đồn trong khu vực chúng tôi thấy được, ẩn mình trong các vườn cây hay nhứng con rạch nhỏ chảy ra sông Somme. Ngôi làng Proyart được bố trí đầy giao thông hào. Tuyến phòng thủ chính của họ sâu khoảng 4 - 5km trên những ngọn đồi gần làng Villers Bretonneux. Địa hình cao hơn của chúng tôi và phòng tuyến của họ cách xa sông khoảng 5 km làm chúng tôi có thể tấn công dễ dàng hơn. Chúng tôi biết chúng tôi sẽ không gặp sự chống đỡ cho đến khi chúng tôi tiến đến tuyến phòng thủ gần làng Villers-Bretonneux.
                     
                    Sông Somme rộng khoảng 100 mét ở chỗ chúng tôi. Binh lính đào giao thông hào rồi đào hầm. Chúng tôi không biết chúng tôi sẽ ở đây bao lâu, nhưng biết chắc sẽ là một trận đánh lớn và chúng tôi sẽ tiến lên, nên đoán sẽ ở đây khoảng vài ngày.Điều kiện sống ở đây còn hoang sơ hơn ở vùng núi Eifel, nhưng binh lính làm cho họ cố gắng thích nghi hoàn cảnh mới. Chúng tôi đặt bộ chỉ huy tiểu đoàn trong một ngôi nhà bỏ trống phía sau một mô đất. Tôi có thể ngủ trong nhà thay vì trong hầm.
                     
                    Ở đây, chúng tôi bắn phát súng đầu tiên của cuộc chiến và tham dự cuộc giao chiến trực diện đầu tiên. Buổi chiều hôm sau, quân Pháp tấn công bằng một trận pháo. Tiếng nổ của đạn pháo lúc đầu nhói óc, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy tôi làm quen với chúng khá nhanh. Cuộc đấu pháo của 2 bên dường như dài vô tận. Mặt đất như bùng nổ, mùi thuốc súng, đất đá văng cao, và những hoạt động cuống cuồng. các pháo thủ xung lên vì kích thích và cả vì sợ, dộng từng trái đạn về phía quân Pháp. Khi trận đánh ngưng, chúng tôi như choáng váng - vì mệt, vì kích động, và từ sự im lặng bất ngờ bao trùm ngay tiếp theo sau của những tiếng ầm vang của trận đánh. Chúng tôi cảm thấy đầu óc nhẹ hẫng.
                     
                    Chúng tôi kiểm tra thương vong của các pháo đội và thấy mọi người đều hưng phấn cao độ. Tuy nhiên, chúng tôi có thương vong, Đại Uý Wagner, pháo đội trưởng pháo đội 3, bị thương nặng vì mảnh. Cứu thương băng bó ông rồi đưa về tuyến sau. Sau đó, khi tình hình vết thương cho phép di chuyển, ông ta sẽ được đưa về các bệnh viện ở Đức. Sĩ quan pháo đội của Wagner, Trung Úy Karl Schumann, thay thế ông làm pháo đội trưởng.

                    #70
                      khikho007 12.06.2008 11:39:48 (permalink)
                      0
                       
                      Sau khi Wagner bị thương, tôi bắt đầu coi cái chết một cách nghiêm trọng hơn. Rõ ràng là có thể là tôi, hay bất cứ ai, và mọi người đều có thể là người kế tiếp. Thật khó chịu khi thật sự nhận thấy mình không phải là bất tử.
                       
                      Tối hôm ấy mưa rất lớn, và binh lính bỏ hố các nhân dựng lều trú mưa. Tôi cảm thấy may mắn khi khô ráo ngồi trong nhà và nghe tiếng mưa rơi trên mái mà không phải đội mưa. Pháo binh cơ giới của chúng tôi tiếp tục quấy nhiễu quân Pháp suốt đêm. Tình hình sáng hôm sau khá yên tỉnh ngoại trừ chúng tôi bắn pháo thăm dò về phía con đường và các vị trí quan trọng phía sau phòng tuyến địch - và pháo thăm dò của địch cũng làm như chúng tôi.
                       
                      Ngày 28 tháng 5, quân Pháp tấn công chúng tôi lần nữa, lần này không chỉ pháo binh, mà còn máy bay cường kích và tiêm kích, và xe bọc thép. Pháo đến trước, và chúng tôi lập tức phản pháo. Tiếng súng bắn và tiếng động của chiến tranh lại nỗi lên, và sự kích thích lại đổ đến. Bỗng nhiên chúng tôi để ý đến các tiếng nổ xung quanh chúng tôi, làm đất đá bắn cao lên không, và mạnh hơn đạn pháo, và chúng tôi nhận ra vài chiếc máy bay Pháp đang ném bom vào vị trí chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục tác xạ, máy bay ném bom rồi khoảng 1 tá hay hơn máy bay tiêm kích tiếp tục bắn phá. Tiếng động cơ may bay làm thêm tiếng ầm vang và rối loạn của trận đánh. Sau đó, khoảng 20 xe bọc thép cố gắng tấn công chúng tôi, nhưng họ không đọ lại pháo binh nên nhanh chóng quay lui về phía Proyart. Chúng tôi đã bắn 361 viên đạn để chặn đứng cuộc tấn công. Chúng tôi tiếp tục bị pháo suốt đêm hôm hôm ấy, và chúng tôi trả lời bằng 3 loạt mỗi giờ. Chúng tôi đã quen với tiếng đạn pháo và cảm thấy không bình thường nếu không nghe chúng. Định nghĩa của từ "bình thường" thay đổi một cách nhanh chóng chỉ trong vài ngày.
                       
                      Tôi nhận thấy chiến đấu vừa phấn khởi vừa sợ. Phấn khởi vì trong những tiếng bom đạn và các hoạt động làm chúng tôi sống trong trạng thái cao độ của sự kích thích. Sợ vì bất cứ lúc nào một tiếng nổ cũng có thể đưa chúng tôi vào thiên thu. Không ai biết một phút sau anh ta còn sống hay không.
                       
                      Vì xe tăng của Pháp cũng như của chúng tôi đều đã đến eo biển Anh, nên các trận đánh chỉ có pháo binh, thỉnh thoảng có thêm không quân và xe bọc thép, và các toán tuần thám được tung ra khoảng trống giữa con sông và dãy đồi. Mục đích của các toán tuần thám là dò xét tình hình, bắt tù binh, và dọn sạch khu vực để quân Pháp không thấy chúng tôi xây cầu phao qua sông và cố phá việc xây cầu. Các cuộc tuần thám thay đổi quân số từ 5 người cho đến một đại đội 180 người, tuỳ vào mục đích của cuộc tuần thám. Từ tù binh, chúng tôi biết rằng đối đầu chúng tôi là Sư Đoàn Thuộc Địa Số 4 với các trung đoàn lính Senegalese và Sư Đoàn Bắc Phi Số 7 với Trung Đoàn 10 Ma Rốc và Trung Đoàn 3 Algerian.
                       
                      Công việc của tôi là giữ liên lạc với các pháo đội, tiếp vận cho tiểu đoàn, chuẩn bị lệnh cho các pháo đội di chuyển nếu bộ binh chọc thủng phòng tuyến. Nếu bộ binh chọc thủng, pháo binh phải di chuyển theo để bộ binh không tiến ra khỏi tầm để chúng tôi có thể yểm trợ. Chúng tôi không di chuyển cả 3 pháo đội cùng một lúc, vì pháo binh phải luôn có sẵn bất cứ lúc nào để yểm trợ nếu địch tấn công vào bộ binh. Các pháo đội sẽ di chuyển từng đơn vị một, và BCH Tiểu Đoàn sẽ đi với pháo đội đầu để họ có thể tìm vị trí đặt súng ở nơi kế tiếp.
                      #71
                        khikho007 12.06.2008 11:44:01 (permalink)
                        0
                         
                        Trong thời gian này, chúng tôi đấu pháo với pháo binh Pháp. Chúng tôi bắn phá những mục tiêu quan trọng để quấy phá địch, không cho họ nghỉ ngơi, bắn vào đường xá, cầu cống và hệ thống thông tin liên lạc. Thỉnh thoảng, chúng tôi bắn khoảng 100 đến 150 quả đạn dọc theo một đoạn giao thông hào dài khỏang 2 cây số, hoặc chúng tôi bắn vào tuyến sau của địch để quấy phá. Hoặc bắn hú họa vào bất cứ chỗ nào, đôi khi cũng làm địch bị thiệt hại.
                         
                        Chúng tôi ở sông Somme 9 ngày trước khi mở cuộc tấn công vào vị trí phòng thủ Pháp. Khi chiến dịch vào Dunkirk chấm dứt với cuộc di tản của quân Anh và lực lượng tăng của chúng tôi rảnh rang cho các hoạt động sắp tới, chúng tôi chuẩn bị cuộc tấn công để chọc thủng phòng tuyến Pháp để tiến về phía Nam đến Paris.
                        Đêm 4 tháng 6 khá căng thẳng. Mọi người không ai ngủ được. Thiếu Tá Raake đến bàn trực nơi tôi làm việc và ngồi xuống. Ông mồi một điếu thuốc và hút một cách chậm chạp, rít vào thật sâu và từ từ nhả khói.
                         
                        "Làm việc khuya hả Knappe", ông lên tiếng.
                         
                        "Tôi phải làm xong mấy cái giấy tờ này."
                         
                        "Bọn Pháp đào hầm như lũ chuột chùi," ông nói những gì đang suy nghĩ. "Và rõ ràng bọn chúng có hàng khối đạn pháo. Cuộc tấn công sẽ không dễ dàng. Tôi linh cảm bọn chúng biết được cuộc tấn công ngày mai cũng chúng ta."
                         
                        "Chúng ta yểm trợ bộ binh hết mình," Tôi nói. "Chúng ta biết chính xác địch ở đâu, và chúng ta sẽ tập trung tác xạ vào những nơi đó." Tôi tin rằng cuộc tấn công sẽ thành công.
                         
                        "Proyart được bảo vệ bằng những ngọn đồi chắn trước mặt. Quân Pháp sẽ bắn xuống quân ta từ những điểm cao đó, và lính Ma Rốc và Senegale là những người lính thiện chiến. Chúng ta sẽ sai lầm rất lớn nếu đánh giá thấp họ." Ông đứng lên và gạt tàn. "Chúc ngủ ngon Knappe, đêm nay sẽ rất ngắn và ngày mai sẽ rất dài." Nói xong, ông bước ra. Tôi hơi lo âu khi thấy ông ta lo sợ. Bình thường ông rất cứng rắn.
                         
                        Làng Proyart là mục tiêu của bộ binh trong ngày đầu tiên. Chúng tôi khai hoả vào phòng tuyến Pháp lúc 5 giờ sáng. Chúng tôi biết chắc khoảng cách và có thể điều chỉnh bằng mắt thường để bắn bất cứ các mục tiêu nào. Chúng tôi biết đường xá phía sau tuyến địch, và chúng tôi biết những giao lộ và những chỗ quan trọng.
                         
                        Khi bộ binh bắt đầu tấn công, chúng tôi chuyển làn đến các vị trí pháo binh và cối của địch. Chúng tôii biết các vị trí này từ các vị trí quan sát và từ máy bay trinh sát. Thiếu Tá Raake chỉ định từng mục tiêu cho các pháo đội và cơ số đạn bắn vào mỗi mục tiêu. Luftwaffe (không quân) cũng ném bom vào các vị trí quân Pháp. Bộ binh chiếm được các ngọn đồi trước Proyart, nhưng họ bị dừng lại vì sự bắn phá của pháo binh hạng nặng nên không thể chiếm Proyart. Khi không thể với đến mục tiêu của ngày đầu tiên, họ đào hầm trú ẩn; đương nhiên họ sẽ tấn công lại, nhưng đã mệt mỏi và quyết định tấn công vào sáng hôm sau. Chúng tôi phải biết các vị trí phòng thủ để khỏi bắn lầm. Chúng tôi tiếp tục giao chiến ác liệt suốt ngày hôm đó và suốt đêm.
                         
                        Đến tối, tôi đang làm bản báo cáo các hoạt động trong ngày cho Raake, Đại Úy Wimmer bỗng nhiên bước vào văn phòng. Khuông mặt ông cho tôi thấy có việc gì đó không ổn.
                         
                        "Chuyện gì vậy, thưa Đại Úy?"
                         
                        "Rehberg, anh ta chết rồi. Tôi nghĩ phải cho anh biết tin này, vì anh ta lạ bạn của anh."
                        Tôi nghe những lời đó, nhưng ý nghĩa của chúng không thấm vào ngay. "Ý ông là sao?" Tôi hỏi ngớ ngẩn.
                         
                        "Đồi 84, phía tây Proyart," Ông nói thêm, như điền vào một bản báo cáo. "một tay súng bắn tỉa đã bắn anh ta. Bọn Senegal thích nấp trên cây và bắn tỉa. Anh ta bị trúng đạn."
                        #72
                          khikho007 12.06.2008 11:49:56 (permalink)
                          0
                           
                          Những lời nói bắt đầu thấm. Tôi có cảm giác trống không lẫn bàng hoàng. Một sự thù hận tê tái dâng lên trong tôi. Wimmer vẫn đứng trong tư thế đau khổ, nhìn tôi với vẻ mặt đau đớn.
                           
                          "Sau hơn hai mươi năm, tôi đã quên cảm giác như bây giờ." Ông nói. Rồi bất ngờ biến mất khỏi căn phòng nhanh chóng như khi bước vào.
                           
                          Tôi làm xong bản báo cáo, mặc dù đầu óc của tôi không tập trung được nữa. Rồi bước ra ngoài trong bóng đêm, cố gắng làm dịu đi nỗi rối loạn trong tôi. Ánh chớp của đạn pháo, và tiển nổ tiếp theo ánh lửa khi các pháo đổi bắn trong đêm, hình như nhấn mạnh cái chết của Rehberg. Người ta bị giết trong chiến tranh, tôi tự nói. Nó sẽ xảy ra và tôi sẽ mất bạn bè trong chiến trận.
                           
                          Tôi muốn nói chuyện với Raake về điều này. Có thể ông ta kinh nghiệm hơn và có thể giúp tôi thích ứng. Tôi vào nhà và bước vào văn phòng ông ta.
                           
                          "Chuyện gì vậy Knappe?" Ông hỏi khi nhìn tôi.
                           
                          "Thiếu Úy Rehberg đã chết rồi." Tôi buông giọng.
                           
                          Ông nhìn thẳng vào tôi trong vài giây. "Tôi nghĩ là anh nên uống một chút gì đó." Ông vớ lấy cái tủ. Ông rót cho tôi một ly cognac và tôi uống một ngụm. Ngụm rượu mạnh thật hiệu nghiệm cho đầu óc tôi. Raake đốt thuốc lá và hút một hơi dài.
                           
                          "Cái giá của chiến tranh rất cao," ông vừa nói vừa đúng dậy và bước đến cửa sổ, nhìn ra ngoài bóng đêm. "Nước Đức không thể lấy lại vị trí của nó trong lòng Châu Âu nếu không có chiến tranh, vì kẻ thù phía Tây chúng ta sẽ không cho phép điều đó. Chúng ta không thể chiến đấu mà không có thương vong." Ông quay lại và nhìn tôi. "Cuộc sống của Thiếu Úy Rehberg là một trong những cái giá mà chúng ta phải trả để tái lập cho nước Đức vị trí đứng đắn của nó ở Châu Âu."
                           
                          "Tất nhiên." Tôi đáp. Trong 1 khoảnh khắc, Hình bóng Herr Hoffer lại thoáng qua đầu óc tôi. Ông ta, trong 1 phương diện nào đó, đã đoán trước cái chết của Rehberg.
                           
                          "Tất cả chúng ta đều sẽ mất bạn bè trước khi cuộc chiến này chấm dứt. Có lẽ cách tốt nhất là đừng làm bạn với ai hết, nhưng điều đó sẽ không xảy ra. Chúng ta cần tất cả bạn bè đẻ có thể đương đầu với những gì ở phía trước. Chúng ta không thể dừng với người Pháp. Chúng ta chỉ phải chịu đựng mất mát như những con người thật sự."
                           
                          "Ông nói đúng," tôi uống cạn ly rượu. "Cảm ơn Thiếu Tá."
                           
                          Tôi nhỏ nước mắt cho bạn trong bóng đêm muôn trùng. Cái chết đã lảng vảng quanh đây. Nhưng đây là lần đầu tiên nó chạm đến tôi thật gần. Đại Úy Wagner bị thương nặng, nhưng ông ta còn sống để về nhà. Rehberg thì không bao giờ trở về. Vĩnh viễn. Anh đã biến mất trên mặt đất này. Là một người bạn, cái chết của anh đã mang đến một sự hủy diệt tàn bạo nhất với tôi trong cuộc chiến này. Đây không phải trò chơi, như những cuộc tập trận lúc trước. Chiến tranh có nghĩa là sự sống của những người bạn thân thiết bị hủy hoại trong tích tắc.
                           
                          Xác của Rehberg được mang về trong đêm đó. Chúng tôi chôn anh vào 7 giờ sáng hôm sau, trong một nghĩa trang từ cuộc chiến trước. Tôi dự buổi tang lễ cùng với Wimmer và 15 người khác trong pháo đội. Xác của anh vẫn còn nguyên vẹn. Mặc dù đã 22 tuổi, anh trông trẻ hơn khi chết - Nếu như anh còn ở nhà, chắc hẳn đang tràn ngập sự sống của một thanh niên trẻ trung, thay vì phải nằm đây, một nạn nhân chiến tranh lạnh ngắt và tái nhợt. Cái chết trở thành 1 phần của tư tưởng tôi từ giây phút ấy. Thấy cái chết của những người lính Ma Rốc là một kinh nghiệm ghê gớm - nhưng đó là cái chết của kẻ thù. Khi các xác nằm trước mặt là ai đó bạn biết và làm việc chung với nhau, ai đó bạn thích và làm thân, ai đó mà cuộc đời chỉ vừa mới bắt đầu...
                          #73
                            khikho007 12.06.2008 11:55:48 (permalink)
                            0
                             
                            Đời lính không còn là những ngày vô tư như lúc đóng quân ở Plauen. Chúng tôi phải học cách chấp nhận và cố gắng vượt qua với các nhiệm vụ.Chỉ có 1 điều làm chúng tôi cảm thấy dễ chịu khi chúng tôi chôn Rehberg và vài người lính bộ binh khác trong nghĩa trang của cuộc chiến trước - những ngôi mộ trong nghĩa trang cho thấy cuộc chiến tranh trước tệ hại hơn nhiều. Chúng tôi có thể nhìn thấy hàng trăm người được chôn trong nghĩa trang này trong chiến tranh thế giới, và chúng tôi chỉ có vài người. Chiến thuật mới đem lại thương vong ít hơn. Dù sao, cảm giác này làm tôi thấy nhẹ nhàng đôi chút.
                             
                            Rehberg được thay thế bởi Thiếu Úy Jaschke, một người nhỏ con và tóc vàng, mắt xanh lơ, và nước da khá đẹp. Và anh ta chứng tỏ là biết học hỏi và cầu tiến.
                             
                            5:30 sáng hôm sau, chúng tôi mở màn bằng một cuộc tác xạ tập trung 15 phút vào Proyart. Rồi chuyển làn và bộ binh tấn công lại. Sĩ quan tiền sát theo dõi bộ binh và địch để điều chỉnh pháo vào tuyến quân Pháp. Chúng tôi tiếp tục bắn chặn vào tuyến sau, cầu cống, giao lộ, và các vị trí quan trọng. Nhưng quan trọng nhất là yểm trợ bộ binh.
                             
                            Khi di chuyển qua sông Somme và tìm chỗ đặt súng, chúng tôi phát hiện quân Pháp đã đặt mìn trên đường nên chúng tôi phải tránh chúng. Trước khi pháo vào vị trí, chúng tôi được tin bộ binh đã chiếm Proyart, nên chúng tôi tiếp tục hành quân. Chúng tôi quay về hướng Nam, hướng Paris, và tiếp tục đội hình hành quân. Bộ binh bắt 314 tù binh Ma Rốc ở Proyart.
                             
                            Trong 9 ngày chúng tôi ở sông Somme, quân Pháp đã đặt mìn các cầu về Paris, và bây giờ họ phá hủy chúng khi rút. Ngày 8 tháng 6, ở sông Avre, địch lợi dụng địa thế địa hình dễ phòng thủ phía bên kia bờ sông và dừng lại chiến đấu. Lần này, toàn trung đoàn pháo binh vào vị trí- tất cả 36 khẩu 105mm và 12 khẩu 150mm - tạo thành một rào lửa trên vị trí quân Pháp ở bờ bên kia. Địch rút lui, chúng tôi vượt sông qua các cầu phao.
                             
                            Ở Sacy le Grand, chúng tôi tập trung ở sông Oise. Quân Pháp 1 lần nữa quay lại chiến đấu ở các vị trí phòng thủ thiên nhiên bên kia sông và các cầu bị phá hủy. Ở đây, chúng tôi đem vài khẩu pháo đến sát bờ sông và bắn thẳng vào cái ổ súng máy bên kia sông. Bộ binh tung ra các cuộc đột kích, tiếp đó thì đổ bộ qua bên kia sông. 9 giờ tối, công binh làm xong cầu phao, và chúng tôi đưa 1 pháo đội qua sông. Đêm hôm đó, sư đoàn bắt được một tin liên lạc của Tập Đoàn Quân só 4 Pháp ra lệnh cho quân của họ đoạn chiến. Chúng tôi ngừng bắn và để cho họ rút lui để tránh thương vong, quân Pháp để lại vài ổ súng máy và một số quân để chúng tôi nghĩ rằng họ vẫn còn ở đó. Khi chúng tôi đưa toàn bộ pháo binh qua sông, một cầu phao bị sập và chúng tôi phải dừng lại 4 giờ để công binh sửa cầu. Cuối cùng thì chúng tôi vượt hết qua cầu và tiếp tục hành quân về hướng Paris. Quân Pháp cho ngã rất nhiều cây cối cản đường để làm cuộc hành quân chậm lại. Bộ binh mất 12 người ở cuộc tấn công bên sông Oise.
                             
                            Chúng tôi vào vị trí ở Verneuil và Fleuriné. Đêm 11 tháng 6, quân Pháp tấn công chúng tôi ở Senlis lúc 10 giờ đêm. Cuộc tấn công diễn ra suốt đêm và ngày hôm sau. Tiếng nổ liên lục của trận đánh - những âm thanh trộn với nhau, tiếng nổ của pháo binh và cối, tiếng giòn giã của súng máy, từng tiếng 1 của súng trường trộn lẫn vào nhau tạo thành âm thanh của một cơn giông tố - bây giờ hình như gắn liền với cuộc sống. Ba lần trong trận đánh, chúng tôi phải thay đổi vị trí quan sát vì vị trí bị pháo địch bắn phá dữ dội. Năm giờ chiều ngày 12 tháng 6, chúng tôi đưa các pháo đội về lại khu rừng phía Bắc của Senlis khi bộ binh rút lui và chấn chỉnh đội hình, và quân Pháp lập tức tấn công chúng tôi bằng không quân và pháo binh. 4 giờ chiều ngày 13 tháng 6, bộ binh mở cuộc tấn công thứ 2 vào Senlis. Pháo địch pháo mãnh liệt vào vị trí các pháo đội, vị trí quan sát bị súng máy của lính Senegal bắn từ các cây cao, và máy bay Pháp oanh tạc vào các vị trí phía sau. Chúng tôi rút tiền sát viên về một căn hầm lớn, và suốt đêm, vị trí cũ bị pháo binh Pháp trực xạ. Cuối cùng chúng tôi chiếm được Senlis và tiếp tục tiến về Paris. Đó là trận đánh dữ dội và đẩm máu, với thiệt hại nặng nề của cả 2 bên, nhưng đó là trận đánh lớn cuối cùng trên con đường đến Paris.
                            #74
                              khikho007 12.06.2008 12:01:35 (permalink)
                              0
                               
                              Ngày 14 tháng 6, từ 8 giờ đến 3 giờ chiều, chúng tôi hành quân một mạch 45km không nghỉ và vào vị trí gần sông Marne, trong một công viên tuyệt đẹp, khoảng 45km đông bắc từ trung tâm Paris. Chúng tôi có thể nhìn thấy tháp Eiffel từ công viên. Chúng tôi đã hành quân tổng cộng 800 km từ Overath đến Paris. Chúng tôi được nghỉ ngơi vài giờ để tắm rửa, nhu cầu quan trọng nhất của chúng tôi lúc này, vì bụi đất bám đầy sau những ngày chiến đấu.
                               
                              Tuy nhiên, khoảng 9 tối thì có báo động và chúng tôi được lệnh di chuyển vào vị trí chỉ phía nam của Tremblay, sông đào Ourcq, nằm giữa chúng tôi và sông Marne. Paris đã tuyên bố mở cửa (nghĩa là quân phòng thủ sẽ không chống cự để thành phố không bị hư hại) ngày hôm trước, nhưng đơn vị Pháp trong khu vực sông đào là lính thủy vừa tòng quân để bảo vệ Paris đã không nhận được lệnh và tiếp tục chiến đấu. Cây cầu bắt qua sông đào chưa bị phá hủy, và lính thủy bảo vệ nó với súng máy.
                               
                              Cây cối khá nhiều trong khu vực này, xen lẫn với những ngôi làng nhỏ. Con sông đào nằm ngay phía nam của một ngôi làng. Con đường chạy xuyên qua làng, hai bên là các cửa hiệu và nhà cửa. Khoảng 30 mét sau một khúc cua là cây cầu. Bộ binh bị ghim lại ở cây cầu vì súng máy của quân Pháp từ bên kia cây cầu bắn qua, con sông đào rộng khoảng 12 mét. Bộ binh cố gắng làm câm khẩu súng máy bằng đạn cối nhưng không thành công, họ yêu cầu pháo binh trợ giúp. Chúng tôi không thể bắn từ tuyến sau bằng sự điểu khiển của tiền sát viên, vì cây cối quá nhiều và khoảng cách quá ngắn. Cách duy nhất là đưa pháo lên tuyến trước và trực xạ vào vị trí súng máy, như chúng tôi đã làm ở sông Oise.
                               
                              Tôi lên phía trước với bộ binh, và khi họ yêu cầu, tôi gọi một khẩu 105mm từ Pháo Đội 1 lên. Người chỉ huy bộ binh chỉ tôi căn nhà phía bên kia sông đào, ở đó khẩu súng máy đang bắn ra. Chúng tôi đi đến khẩu pháo và nói các pháo thủ chuẩn bị. Tôi phải lắp sẵn đạn vào súng, đẩy nó qua khúc cua (bây giờ chúng tôi đang ở sau một căn nhà), ngắm, và bắn vào ổ đại liên cách khoảng 25 mét. trước khi họ bắn vào chúng tôi. Đây không phải là việc của tôi, nhưng tôi muốn chắc là nó phải có hiệu quả. Bảy người chúng tôi đẩy khẩu súng. Khẩu đội trưởng là một thượng sĩ thay vì 1 trung sĩ như thường lệ, có lẽ vì người thượng sĩ cũng muốn chắc chắn. Họ đặt viên đạn vào buồng đạn, và tôi kiểm tra để biết chắc mọi việc đã sẵn sàng.
                               
                              "Theo hướng dẫn của tôi, chúng ta sẽ đẩy khẩu pháo vòng qua góc đường, và tôi sẽ ngắm và hô lệnh bắn. Các anh nghe rõ không?" Tôi nhìn xung quanh, cả 6 người gật đầu.
                               
                              "Lên!" Tôi ra lệnh.
                               
                              Chúng tôi đẩy khẩu súng vòng qua góc tường nhà ở khúc cua. Ánh chớp của khẩu súng máy từ trong hầm ngầm của ngôi nhà bên kia sông đào khi chúng tôi nhắm và giật giây súng. Quân Pháp bắn chúng tôi trước, khi viên đạn được bắn đi, cả 7 chúng tôi đều nằm dài trên mặt đất. Tôi biết tôi bị trúng ở cổ tay trái, nhưng tôi cố nhìn qua bên kia sông đào xem chúng tôi có tiêu diệt khẩu súng máy không. Chỉ thấy khói bốc lên từ chổ đặt khẩu súng, và bộ binh đã tràn qua cầu.
                               
                              Tôi bò đến chỗ nấp phía sau góc tường và kiểm tra vết thương. Một viên đạn đi vào phía sau bàn tay và đi ra chỗ cổ tay. Máu rỉ ra chỗ vết thương. Tôi cảm thấy tê; cơn đau sẽ đến sau. Tôi nhanh chóng kiểm tra thân thể. Mặc dù không bị trúng đạn chỗ nào khác, nhưng tôi tìm một lỗ bên thân áo, một qua tay áo, và một qua túi đựng bản đồ. Tôi cầu nguyện cảm ơn trời đất cho vết thương duy nhất này. Xạ thủ súng máy bắn khá hay, nhất là khi họ chỉ là thủy thủ! Và 3 pháo thủ khác cũng bị trúng đạn, may mắn là không ai chết.
                               
                              Cây cầu đã mở, và sáng hôm sau sư đoàn vào Paris.

                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 5 của 13 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 183 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9