Người Lính - Những suy ngẫm của một người lính Đức, 1936-1949
Tôi không bao giờ có dịp thực hành những gì học ở khoá học. Chúng tôi không có những đơn vị pháo binh lớn, và khoá học là chuẩn bị thành lập những đơn vị đó. Họ muốn mọi người được học và chuẩn bị, nhưng hầu hết chúng tôi đều trở về đơn vị cũ sau khoá học cho đến khi đơn vị mới được thành lập.
Khi tôi tốt nghiệp trường pháo binh, Lilo và tôi lấy một kỳ nghỉ ngắn đến hồ Constance ngay biên giới Đức - Thụy Sĩ. Chúng tôi ở một khách sạn mà trước đây vốn là một tu viện. Chúng tôi đi bơi và đi thuyền quanh hồ và thư thả bên nhau trong những ngày ngắn ngủi. Tôi mặc đồ dân sự và cố gắng quên đi những gì đang chờ đợi tôi khi trở về mặt trận. Chúng tôi cố gắng sống vài ngày cứ như cuộc chiến chưa hề xảy ra và hai chúng tôi có những ngày nghỉ phép bên nhau trong một thế giới hoà bình.
Thật nhanh, Lilo phải đi làm trở lại. Sau khi Lilo về, tôi thăm mẹ tôi, cũng đang nghĩ hè ở núi Alps gần đó, và rồi tôi lên xe lửa trở lại Smolensk và pháo đội ở tuyến đầu.
Mặc dù hầu hết những trận đánh trong suốt mùa hè đều do Phương Diện Quân Nam đảm nhận ở Ukraine, Caucasus, và Crimea, cũng có vài trận ở vùng chúng tôi gần Smolensk. Pháo đội của tôi vẫn yểm trợ tuyến phòng thủ, mặc dù không phải là tuyến mà tôi đã rời trước đó.
Tôi đến đúng ngay lúc chuẩn bị tấn công để lấy lại những khu vực đã mất. Chúng tôi làm thành một hàng rào pháo binh trước cuộc tấn công, và bộ binh tiến lên. Tôi đi theo họ, ngay sát đại đội mũi nhọn để có thể gọi pháo yểm trợ nếu quân Nga phản công. Tiếng ầm ĩ và lộn xộn của chiến trận, cúng như những kích động luôn đi cùng chúng, mọi thứ đều quen thuộc. Khi chúng tôi tiến lên, quân Nga bắn chúng tôi với súng cối. Một trái đạn cối nổ gần tôi, tôi ngã nhào xuống, và tiếp tục nằm đó vì đạn cối tiếp tục bắn, Thiếu Úy Jaschke nắm quyền chỉ huy và điều chỉnh pháo. Tôi nằm sát mặt đất và lắng nghe những tiếng rít của các loại đạn, mảnh, và tiếng kim loại bay sẽ trong không khí. Trận đánh kết thúc nhanh chóng, y tá băng bó vết thương cho tôi. Tôi bị trúng đầu gối vì một mảnh đạn cối. Y tá đưa tôi vào trạm y tế trung đoàn và đưa về trung tâm y tế sư đoàn. Mảnh đạnh đâm vào ngay dưới xương bánh chè. Một lần nữa, tôi gặp may - tôi về nhà với vết thương mà không bị tàn phế.
Xe cứu thương chở tôi đến một trạm xe lửa và về Warsaw, tôi ở đó vài ngày. Từ đó tôi về Bad Schandau gần Dreden, từ đó tôi gọi về nhà. Từ Dresden đến Leipzig chỉ hơn 100km, và cha tôi và Lilo đến thăm tôi (mẹ tôi phải ở nhà để lo lắng công việc vì bà biết tôi sẽ về nhà). Lúc đó là tháng 10 năm 1942.
Bác sĩ chụp quang tuyến đầu gối và thấy mảnh đạn còn nằm phía sau xương bánh chè bên trái, nhưng họ không muốn giải phẩu lấy nó ra, vì chỗ khớp xương sẽ không như cũ nếu giải phẩu, và họ cảm thấy mảnh đạn không có hại gì. Họ chỉ đặt chân tôi vào nẹp để tôi khỏi cử động. Sau một tuần ở Dresden, tôi được chuyển về bệnh viện Leipzig, tôi ở đó cho đến tháng 11. Bi thương lần thứ 3, tôi nhận được huy hiệu thương binh màu bạc.
Đến lúc này, tôi cảm thấy cực kỳ may mắn. Biết bao nhiêu binh lính và sĩ quan Đức chiến đấu liên tục ở mặt trận Nga cả năm trời, hoặc lâu hơn, mà chưa được về nhà. Tôi bị thương và gởi về điều trị 2 lần và được về đi học. Tôi chưa bao giờ chiến đấu trong một thời gian dài liên tục như những người kém may mắn khác. Thần may mắn đã để mắt đến tôi.
Tôi gặp Lilo gần như hàng ngày trong thời gian ở nhà. như mọi khi, tôi đến chỗ làm của cô và đi ăn tối, xem phim, kịch, ca nhạc. Chúng tôi cảm giác rằng mọi việc đều không chắc chắn để lập kế hoạch cho tương lai. Chúng tôi cố gắng không nghiêm trọng hoá vấn đề hay nghĩ về điều gì đó nghiêm túc. Chúng tôi chỉ lo bây giờ là mua vé phim hay gặp bạn bè và vui đùa. Chúng tôi cố gắng tạo ra thời gian vui vẻ với nhau và không nhớ đến cuộc chiến ở Nga. Lilo thật tốt đối với tôi, vì cô ấy luôn vô tư và dễ thương, và tôi cần tiếng cười và những niềm vui. Tôi sẽ phải trở lại chiến trường trong thời gian ngắn, nhưng giờ cho đến đó chúng tôi không muốn nói đến điều đó hay để nó làm cướp đi thời gian của chúng tôi.
Lilo vẫn phụ trách ở tiệm hình, và chụp tôi và tấm hình trong lễ phục với lon trung uý, với các huân chương: Chữ Thập Sắt hạng nhất và hạng nhì, huân chương mùa đông (cho mùa đông đầu tiên ở Russia), Sturmabzeichen (cho việc cận chiến trong chiến đấu), và Verwundeten - Abzeichen (huy hiệu thương binh) bằng bạc (bị thương 3 lần).
Vì thiếu nhân lực và trang bị cho chiến trường, mọi thứ đều thiếu thốn ở hậu phương, nhất là vài mặt hàng thực phẩm (thịt, cà phê, trà, chocolate, ...), và mọi thứ bắt đầu tệ hơn. Lúc đầu, khi mọi thứ trong chiến tranh còn theo ý chúng tôi, người ta chấp nhận sự thiếu thốn mà không phàn nàn - nhưng bây giờ chiến tranh không như ý, người ta bực bội vì sự thiếu thốn nhiều hơn. Dân chúng hình như sợ hãi và chán nản.
Chiến dịch nước Nga vẫn chưa chắc chắn trong thời điểm này. Nhìn vào bản đồ, chúng tôi có thể thấy cả một đất nước rộng lớn phía sau mặt trận. Chúng tôi chỉ chiếm được một phần nhỏ phía tây của cả nước. Đó là phần quan trọng nhất, với phần lớn nền công nghiệp, nhưng vẫn còn khá nhiều khu công nghiệp xung quanh Moscow mà chúng tôi chưa chiếm được - và người Nga đã dời nhiều nhà máy qua dãy Ural, quá khỏi tầm tay của chúng tôi. Tôi biết rằng chúng tôi không tiêu diệt được quân Nga. Tôi đã từng thấy binh lính mới từ Siberia, và tôi biết không còn hy vọng cho một cuộc chiến nhanh chóng.Tình hình ngày càng chán hơn, nhất là với cái chết của Fritz, và tôi biết tỉ lệ tôi sẽ chết trong chiến tranh rất lớn. Nhưng tôi vẫn muốn thấy cuộc chiến kết thúc bằng sự chiến thắng, và tôi nghĩ dân Đức cũng như vậy.
Tôi thăm Brunsbuttelkoog, nơi tôi sinh ra, với mẹ tôi tháng 11 năm 1942, trước khi trở lại mặt trận. Mẹ tôi chỉ tôi chỗ chúng tôi đã ở khi tôi sinh ra. Chú tôi bây giờ làm chủ việc buôn bán mà cha tôi đã lập ra. Tôi vẫn nhớ những con tàu đi qua con sông đào và hụ còi vào ban đêm. Cũng tốt cho chúng tôi khi hai mẹ con giành thời gian với nhau. Sau khi mất đi Fritz, bà chỉ còn bám bíu vào tôi, và tôi biết bà đã biết chắc rằng tôi sẽ chết ngoài chiến trường. Vì tôi cũng kết luận như vậy, nên tôi không chỉ làm vui lòng bà, mà còn giành thời giờ đi với nhau.
Chúng tôi đi vào một tiệm vào một buổi chiều. Bà tìm thấy một khăn quàng cổ bằng lông cừu và mua nó. Khi chúng tôi bước ra ngoài, bà nhấn nó vào tay tôi.
"Của con đó," bà nói, nước mắt trào ra và bà ôm chặt lấy tôi. Chúng tôi đứng đó, ôm chặt lấy nhau cho đến khi bà ngừng khóc.
Khi tôi trình diện với hậu cứ sau khi điều trị, tôi được tin là ai đó trong bộ chỉ huy tối cao quyết định là tôi lập ra một trường huấn luyện lính trượt tuyết thay vì trở lại đơn vị cũ. Hồ sơ của tôi từ Học Viện Quân Sự Potsdam có lời khen rằng tôi trượt tuyết giỏi. Quân Đội cần một trường dạy truợt tuyết, và người ta bắt đầu lập hồ sơ và bỏ tên tôi vào đó. Mùa đông ở Nga cần lính biết trượt tuyết đường dài với đầy đủ trang bị trên người, và tôi phải lập một trường để dạy chúng. Nhiệm vụ của tôi là tìm một địa điểm tốt để mở trường.
Tôi đi đến Alps, nơi có nhiều cơ hội tốt vì tuyết lúc nào cũng có, và bắt đầu tìm địa điểm. Tôi được chỉ vài chỗ. Tôi đến từng nơi và nhìn kỹ, kiểm tra để chắc có đủ chổ để dựng nhà và chỗ tập cho lính. Tôi bỏ 2 tuần ở Alps và trở về làm báo cáo.
Khi tôi mang báo cáo đến hậu cứ, tuy nhiên, tôi được biết rằng lệnh đã thay vì Stalingrad đang nghiêm trọng và cần viện binh. Lệnh mới cho tôi là trình diện với Tập Đoàn Quân Số 6 của Đại Tướng Paulus ở Stalingrad.
Chương 18
Ngày 17 tháng 12 năm 1942, tôi đón xe lửa đi Rostov, gần Stalingrad, nơi tôi nhận nhiệm vụ mới ở một đơn vị đặc biệt ở Stalingrad. Đó là một chuyến xe lửa chở hàng kèm thêm vài toa chở hành khách, tiêu chuẩn bình thường của những chuyến tàu đến và rời Stalingrad.
Tôi dừng lại Kiev một ngày để chuyển xe lửa, một thành phố cổ kính xinh đẹp và là thủ đô của Ukraine. Mặc dầu thành phố bị hư hại sau trận đánh, nhưng nó vẫn hoạt động như một thành phố và nhiều người Nga vẫn còn ở dây. Nhà hát thành phố vẫn hoạt động, và tôi vào xem trình diễn vào tối hôm đó. Diễn viên là người Nga, mặc dù hầu hết khán giả là người Đức.
Trên xe lửa từ Kiev đến Rostov, tôi vượt qua biển Azov trong đêm Giáng Sinh. Tôi ngồi trong toa hành khách trên một đoàn tàu hàng chậm chạp với một nhóm sĩ quan cũng đi Stalingrad. Tất cả chúng tôi đều biết đánh nhau dữ dội ở Stalingrad và chúng tôi đi đến trong tình trạng nguy hiểm, nhưng chúng tôi không biết tình trạng xấu như thế nào, vì tình trạng thực tế không được thông báo rộng rãi. Nhiệt độ bên ngoài cực lạnh, dưới 0 độ rất xa. Dưới ánh trăng sáng, biển Azov đóng băng như một ảo ảnh của một sa mạc trong bóng đêm màu xanh lạnh lẽo. Nhìn như một tấm tranh bức tranh siêu thực hơn là một địa hình địa lý có thật. Trong trực giác, tôi có thể tưởng thượng 3 người đang cưỡi trên lạc đà vượt qua biển Azov dưới ánh sao trắng trong bầu trời đêm. Tôi giật mình ra khỏi cơn mộng tưởng cảnh đẹp tuyệt vời của cảnh vật chìm trong ánh trăng lạnh giá cũng là cơn lạnh giết người ở ngoại ô Moscow. cả hai đều đẹp nhưng cũng chết người. Tôi rồi cửa sổ và đi vào bên trong. Tôi nhập bọn với các sĩ quan với những bài thánh ca.
Tôi đến Rostov, một thành phố rất cổ của nước Nga và không lớn bằng Kiev, vào ngày Giáng Sinh năm 1942. Thành phố cũng bị hư hại vì chiến tranh, nhưng không đến nổi lắm. Xuống ga xe lửa, tôi được hướng dẫn đến trinh diện ở Bộ Tư Lệnh lực lượng phòng thủ Pháo Đài Rostov. Đến đó tôi trình diện Đại Tá i.G. Heisenberg, tham mưu trưởng, một người cao và gầy trong tuổi 40.
"Tôi sợ rằng anh phải ở lại đây một thời gian." ông nói, giọng buồn bã. "Quân Nga đã bao vây Tập Đoàn Quân 6, xe cộ không chạy đây đó được nữa. Chỉ có cách duy nhất là hàng không, và thời tiết làm tê liệt hết máy bay ngoại trừ tiếp viện đạn dượt cho Stalingrad và tải thương."
"Jawohl, thưa Đại Tá".
"Cho đến khi thời tiết tốt hơn và anh có chuyến bay vào Stalingrad, anh sẽ giúp tôi vài công việc ở đây. Bộ Tư Lệnh lực lượng phòng thủ Pháo Đài Rostov cần báo cáo hàng ngày về Tập Đoàn Quân 6 ở Stalingrad cho Phương Diện Quân Nam. Tôi không có thì giờ cho chúng, và tôi không có ai để giao công việc đó. Tôi hy vọng anh là người làm báo cáo giỏi."
Heisenberg bố trí bàn làm việc cho tôi, và tôi làm việc cho ông ta trong phòng hành quân của lực lượng phòng vệ pháo đài. Văn phòng nằm trong một công sở chắc là của Đảng Cộng Sản trước đây, vì nó rất đẹp và bày biện sang trọng - những thứ mà tôi chưa từng thấy ở Nga cho đến giờ phút này.
Chúng tôi nhận được các báo cáo của Tập Đoàn Quân 6 và gởi cho Phương Diện Quân Nam, vì nó rất quan trọng với các chỉ huy ở Rostov để biết tình hình Stalingrad. Sông Đon chảy qua Rostov và chảy tiếp về biển Azov, và sông Volga chảy qua Stalingrad. Kế hoạch đầu tiên là giữ sông Don và Volga, cách nhau khoảng 150km, và để tạo mọt tuyến phòng thủ vững chắc khu vực giữa để bảo vệ vùng Caucasus khỏi bị phản công. Dầu từ núi Caucauss sẽ được an toàn. Nếu chúng tôi không chiếm được Stalingrad, tuy nhiên, chúng tôi phải bỏ kế hoạch này. Rostov, với những cây cầu bắt qua sông Don, trở thành rất quan trọng trong trường hợp rút khỏi Caucasus nếu không chiếm được Stalingrad - và tình hình ở Stalingrad ngày càng tệ đi. Rostov đã được tuyên bố thành một pháo đài (từ mà chính phủ bây dùng để đặt cho những thành phố mà lực lượng ở đó không được rút lui trong bất cứ tình huống nào) vì nó là chìa khoá của đường tiếp tế duy nhất của chúng tôi vào Caucasus và là đường rút lui duy nhất của lực lượng trong đó.
Dù tôi không muốn vào trong khi tình trạng nguy kịch ở Stalingrad, lệnh của tôi là phải vào đó. Tôi gọi đến sân bay hàng ngày để coi có chuyến bay nào không, nhưng thời tiết vẫn xấu. Cuôi cùng, ngày 1 tháng 1 năm 1943, bầu trời trong và sáng - thời tiết rất tốt cho các chuyến bay. Tôi đến sân bay, chắc chắn là tôi sẽ có chuyến bay hôm nay, nhưng được nói là có lệnh từ Fuhrerbefehl (lệnh trực tiếp từ Hitler) vừa đến từ Berlin là không một người lính nào được gởi đến Stalingrad nữa. Chính phủ cuối cùng cũng nhận thấy tình hình hết hy vọng - và tôi một lần nữa nhận được một giải thoát mới trong cuộc đời.
Vì không thể vào Stalingrad, tôi được bổ sung và lực lượng phòng thủ pháo đài Rostov. Rõ ràng là tôi tự tạo cho mình một công việc, và tôi lại lăn vào công việc mới.
Nhiều thường dân ở Rostov làm việc cho quân Đức, làm công việc như lúc trước, hầu hết là dọn dẹp và giúp việc. Trong số những người Nga làm việc ở đây, tôi gặp một phụ nữ trí thức người Nga biết nói tiếng Đức. Một đêm, tôi làm việc khuya và mê mải với bản báo cáo tôi đang thảo và tôi quên mất thời gian và không biết đã quá khuya cho đến khi người dọn dẹp bước vào văn phòng.
"Xin lỗi," bà ta nói bằng tiếng Đức. "Tôi không biết ông còn ở đây."
"Bà nói được tiếng Đức à?" tôi hỏi, hoàn toàn ngạc nhiên.
"Vâng, tôi học ở đại học." Bà ta vào khoảng ngoài 30, hơi mập, mái tóc vàng được cột bím, mắt xanh dương, và nụ cười nhẹ nhàng.
"Vậy là tôi nghĩ bà không phải là người dọn dẹp chuyên môn." Những chỗ đi qua, tôi luôn cố gắng làm quen với người địa phương, và bà ta là một cơ hội tốt để làm quen.
"Tôi là một cô giáo." Bà nhún vai. "Nhưng trường học đã đóng cửa. Tôi phải sống, và tôi làm bất cứ việc gì."
Tên bà ta là Olga Malenkov, và tôi trò chuyện với bà tìm hiểu về cuộc sống ở Nga. Rõ ràng, chính quyền Cộng Sản nhúng tay vào mọi khía cạnh cuộc sống của người dân Nga và thu nhận nhiều người làm dò xét cho chính quyền nên người dân Nga không tin bất cứ ai - kể cả thân nhân của họ. Một nhận xét vu vơ cũng có thể bị dịch thành lời phê phán chính quyền và có thể bị bắt và gởi đến trại lao động vài năm. Bà ta hoàng toàn không có cảm tình vớ chính quyền của bà, và hình như bà ta không quan tâm về việc chúng ta hay người Nga sẽ thắng trận, một việc dường như rất lạ đối với tôi.
"Ít ra Cộng Sản cũng là người Nga," bà nói khi tôi hỏi điều đó. "Tôi không tin là nước Đức Phát Xít sẽ tốt hơn."
Từ vài cuộc chuyện trò với bà ta, tôi rút ra nhận xét là cuộc sống trong Liên Bang Xô Viết thật là khắc nghiệt, ngay cả những người sống trong đô thị. Nhưng bà ta vẫn nhất quyết không tin rằng người ta sống cuộc sống tốt hơn bên ngoài nước Nga.
Tin tức hàng ngày từ TĐQ 6 về cho PDQ Nam về con số binh lính bị chết hàng ngày, số bị thương, số đạn dượt được tiếp, lương thực, và vũ khí. Báo cáo cũng cho biết vị trí các đơn vị và các hoạt động họ đối mặt (pháo, tăng, súng nhỏ....) Tôi có thể nhìn thấy tình hình trên bản đồ của chúng tôi, và các bản báo cáo tạo nên một bức tranh ác liệt cực độ và ngày càng tệ đi. Cảm giác rợn người rằng nếu tôi đi vào Stalingrad chỉ để bị chết hay bị bắt. Rõ ràng không có sự vượt thoát từ đó ra ngoài vào thời điểm này. Các báo cáo cho thấy tiếp vận đạn dượt lương thực tiếp tục giảm hàng ngày và thương vong càng cao. TĐQ 6 cuối cùng không còn chịu được tổn thất hơn được nữa. Lệnh của Hitler phải chiến đấu đến người cuối cùng còn hơn rút lui rõ ràng trở thành một kết quả bi thảm.
Vì các bản báo cáo được đưa thẳng đến Hitler, nên chúng phải được lựa từ ngữ cẩn thận. Chúng không bao giờ nói tình hình thật vô vọng, vì điều đó chỉ đem cái tiếng "sợ hãi" đến cho viên sĩ quan trách nhiệm. Một sĩ quan không thể nói rằng mọi sự đều thất bại và anh ta chuẩn bị đầu hàng. Anh ta chỉ báo cáo những sự thật và để chúng tự nói lên. Thật sự là ngu dốt để giữ quân chúng tôi ở lại Stalingrad mà không có cách gì giải thoát họ thay vì cho phép họ rút lui. Nhưng họ có lệnh phải ở lại, và họ đã ở lại. Và tôi được lệnh nhập với họ, và tôi đã phải đến đó nếu như thời tiết không xấu. Những lỗi lầm quân sự một cách ngu ngốc chắc chắn là từ HItler - người hoàn toàn không có kiến thức quân sự và kinh nghiệm không quá cấp bật hạ sĩ - nắm lấy quyền chỉ huy quân đội hàng ngày. Đành rằng chúng tôi phải tỏ ra "chủng tộc thượng đẳng", theo sự tuyên truyền của tiến sĩ Goebbels, và người Nga - những người có trí tuệ dẫn quân đội họ chạy dài - là những kẻ "dưới con người". Sự mỉa mai của vấn đề là tất cả biến thành một sự cay đắng.
Người Nga đúng ra chỉ cần vòng qua Tập Đoàn Quân 6 sau khi bao vây họ, để họ chết khô, và tiến đến Rostov để cắt đứt con đường duy nhất từ Caucasus. Sau này trong chiến tranh, họ có thể làm điều đó. Bây giờ thì không, có thể vì họ không có đủ sức để thực hiện điều đó.
Là một phần của bộ tham mưu của pháo đài Rostov, tôi giúp ra kế hoạch rút lui lực lượng chúng tôi từ vùng núi Caucasus về Ukraine. Công việc của chúng tôi là sao quân Đức có thể rút lui thành công ra khỏi Caucasus trước khi quân Nga có thể chiếm Rostov và cắt đứt độc đạo này. Tuy nhiên, sự thật là ngoài lý do là chỉ thời gian biển Azov đóng băng thì mọi người mới rút ra được ngoại trừ tăng hạng nặng. Chỉ với 2 - 3 cây cầu bắt qua sông Don rộng 200 mét, không cách nào để cho tất cả các đơn vị rút lui có trật tự.
Giúp đỡ vạch ra kế họach nắm chắc thất bại và rút lui, bên cạnh việc đọc những bản báo cáo từ Stalingrad, là một sự chán nản cực độ. Chúng tôi không biết chắc những gì xảy ra ở các mặt trận khác, vì chúng tôi biết chính phủ không phát tin thua trận. Sau những thành công về quân sự, từ việc chiếm đóng Rhineland năm 1936 cho đến việc hành quân đến ngoại ô Moscow năm 1941, thật lạ và có linh tính báo trước của sự bất lực để biết rằng chúng tôi đang bên bờ thảm hoạ thua trận. Nó tổn thương lòng tự hào của tôi để nhìn thấy sự nghiệp quân sự tốt đẹp của tôi bị mất đi vì sự lãnh đạo vô lý của một người không được huấn luyện quân sự, kiến thức, hay kinh nghiệm. Mặt trận vẫn xa biên giới Đức, và chúng tôi vẫn hy vọng - có thể bỏ cuộc ở đây - cho một thay đổi tốt hơn. Tôi trở nên cay đắng về lệnh ngu ngốc và dã man của Hitler, chết thay vì rút lui và tập họp lại - như tất cả các quân đội khác.
Đúng ra tôi phải ở lại Rostov cho đến khi lực lượng của chúng tôi rút hết ra khỏi Caucasus và Rostov bị tấn công, nhưng sự may mắn đã xen vào một lần nữa. Một buổi sáng đầu tháng 2 năm 1043, khi tôi đến làm việc và được báo là Đại Tá Heisenberg muốn gặp tôi. Tôi trình diện ông ta, ông chào lại tôi và cười, một việc ít thấy ở ông ta.
"Chào buổi sáng, Đại Uý Knappe," ông nói. "Chúc mừng anh. Anh không những được thăng chức đại úy, mà còn được chuyển qua Pháp để giúp thành lập và huấn luyện TĐQ 6 mới."
Tôi không thể tin ở tai mình được nữa. Một lần nữa, tôi lại may mắn: tôi được kéo ra khỏi sự chết chóc ở giây phút cuối, trước khi quân Nga tấn công và chiếm Rostov.
Ngày hôm sau, tôi chào tạm biệt Đại Tá Heinsenberg và mọi người và đón xe lửa trở về Đức. Xe lửa chạy thường xuyên giữa Đức và Rostov, mang đồ tiếp tế vào và mang thương binh, lính đi phép, và lính thuyên chuyển ra. Tôi là người đầu tiên trình diện ở hậu cứ tại Altenburg.
Khi tôi trình diện ở đó ngày 17 tháng 2 năm 1943, tôi được phép nghĩ 3 tuần nghỉ phép "về từ mặt trận phía đông", mặc dù tôi chỉ ở Rostov chỉ vài tuần. Tôi về Leipzig, về đúng ngay lúc radio thông báo - trước khi làm lễ mặc niệm - sự chiến đấu anh dũng cho đến viên đạn cuối cùng" của lực lượng chúng tôi ở Stalingrad. Chính phủ bị buộc phải thông báo việc thua trận ở Stalingrad, vì không thể dấu một tai hoạ quá lớn. Tất cả chúng tôi đều cay đắng về những cố gắng không ngừng của chính phủ đánh lừa dư luận và che dấu sự thật.
Stalingrad là điểm ngoặc của cuộc chiến đối với chúng tôi. Đã có những Stalingrad nhỏ trước đây, tất cả những nơi đó đều bị xảy ra bởi những mệnh lệnh ngu ngốc không thể tin được của HItler bắt binh sĩ phải chiến đấu đến người cuối cùng, mặc dù nó chỉ mang đến sự tàn sát những thanh niên Đức, thay vì sáng suốt rút lui và tái tổ chức và tiếp tục chến đấu. Những trận đánh tuyệt vọng kiểu này xảy ra ngày càng nhiều, tổn thất của chúng tôi tiếp tục tăng lên, và quân Nga bắt đầu chọc thủng phòng tuyến của chúng tôi thường xuyên hơn. Không những chúng tôi bị thương vong trên trận địa, mà tù binh Đức còn bị bắt bởi những con số lớn. Nguyên một TĐQ đã bị bao vây và thua trận, là một ví dụ, với tất cả các trang thiết bị. Nó đã xảy ra ngày càng tệ trong một thời gian, nhưng sự tan rã của Tập Đoàn Quân 6 ở Stalingrad với cuộc rút lui của Phương Diện Quân Nam ra khỏi vùng núi Caucasus đã làm cho tôi thấy rõ là chúng tôi không thể đánh bại quân Nga. Hệ thống tuyên truyền của Goebbel tiếp tục cố gắng để đưa ra một bộ mặt tốt đẹp về sự việc, nhưng sau khi Stalingrad mọi người biết suy nghĩ đều biết rằng chúng tôi không thể thắng trong cuộc chiến chống người Nga. Bây giờ chúng tôi phải bỏ vùng đất màu mỡ Ukraine và túi dầu Caucasus, những thứ nếu chúng tôi thiếu thì chúng tôi không thể thắng Liên Bang Xô Viết. Đến mức đó, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng có ngày Liên Xô sẽ có thể tấn công vào nước Đức. Sự kiêu ngạo của sự thượng đẳng vẫn chưa bị sức mẻ - cho dù sau khi bị tất bại có tầm cỡ ở Stalingrad!
Kỳ nghỉ phép của tôi không vui như trước đây vì cuộc thất bại ở Stalingrad. Một màu tang bao trùm nước Đức. Khiêu vũ nơi công cộng bị cấm đoán, nên Lilo và tôi chỉ còn đi coi nhạc và kịch. Chúng tôi đi trượt tuyết ở Alps, Áo, một phần để tránh xa những tin tức u ám và những buổi truy niệm liên tục được phát ra từ radio. Chúng tôi nhận thấy không khí trên cao, bầu trời xanh, tuyết trắng sạch mang lại sinh lực cho chúng tôi sau khi nghe những tin tức chán chường.
Lilo và tôi bây giờ quyết định sẽ làm đám cưới trong kỳ nghỉ phép kế đến. Cuộc chiến rõ ràng là không kết thúc sớm, và chúng tôi không muốn chờ lâu hơn nữa.
Chương 19
Trên đường đi nhận nhiệm vụ mới ở Pháp, tôi dừng lại 1 ngày ở Paris. Tôi đi thăm viếng Paris một lần nữa, nhưng tôi đi thang máy lên đỉnh tháp Eiffel lần này thay vì leo lên từng bậc thang như lần trước. Thành phố không cho tôi cảm giác phởn phơ như tôi đã cảm giác trước đây. Tôi cảm thấy ít nồng nhiệt hơn, có thể, vì tôi đã lớn hơn hay có thể vì cuộc thất bại vô nghĩa ở Stalingrad. Những kinh nghiệm ở Moscow và Stalingrad đã làm tôi trở nên già dặn đến mức ấy? Ở tuổi 26, tôi vẫn còn rất trẻ. Nhưng chứng kiến quá nhiều cái chết, và bây giờ thất bại, tôi không còn cảm thấy trẻ trung như tuổi của mình, và tôi cảm thấy không còn lý thú với Paris như lúc trước.
Tôi đóng tại một ngôi làng gần một thành phố Pháp Quimper, tỉnh Brittany, nơi đây chúng tôi tổ chức lại Tập Đòan Quân 6 mới. Quimper gần bờ biển Atlantic và hệ thống tường phòng thủ Alantic bảo vệ cuộc tấn công từ Anh của quân Đồng Minh.
Tôi trình diện với tiểu đoàn trưởng mới, Thiếu Tá Nickisch. Ông ta bị thương ở Stalingrad và được chuyển về điều trị phía sau trước khi TĐQ 6 bị bao vây. Ông ta rất nghiêm túc trong thời khoá biểu các công việc huấn luyện trước mặt, vì ông biết chắc chúng tôi sẽ được tung vào chiến đấu ở Nga trở lại sau khi chúng tôi được huấn luyện đầy đủ.
Pháo đội mới của tôi là Pháo Đội 9, TĐ 3, Trung đoàn 194, SĐ 94 BB. Người thượng sĩ nhất mới của tôi, Naumann, đã đến từ trước, và anh ta và tôi chuẩn bị đón tiếp người và ngựa. Sĩ quan pháo đội, Thiếu Úy Duestenberg, và sĩ quan tiền sát, Thiếu Úy Euringer, đến ngay sau đó, và cả 4 chúng tôi bận rộn khi người, ngựa, thiết bị bắt đầu đổ đến. Trong khi tôi tạo nên pháo đội mới, tôi vẫn nghĩ về pháo đội cũ tôi đã bỏ lại ở Nga - Lammers, Boldt với đôi lông mày rậm, người y tá thú y, người thợ rèn, có thể tất cả đã chết. Con người có thể sống sót bao lâu trong tình trạng chiến đấu liên tục?
Khoảng chừng 10 phần trăm binh lính là những cựu quân nhân từ TĐQ 6 cũ được phục hồi sau khi bị thương hay đang nghỉ phép khi Stalingrad bị bao vây. Những người còn lại đều là tân binh. May thay, Duestenberg, Euringer, và Naumann đều là những lính cựu đầy kinh nghiệm, làm cho công việc của tôi dễ dàng hơn rất nhiều. Cả 4 chúng tôi đều quen với công việc và chuẩn bị công việc phía trước.
Chúng tôi dùng những lính cũ để huấn luyện tân binh. Vì chúng tôi nghĩ là phải trở lại mặt trận ngay sau khi tân binh được huấn luyện, chúng tôi thi hành nhiệm vụ rất nghiêm chỉnh vì chúng tôi muốn binh lính được huấn luyện cẩn thận khi quay lại Nga. Công việc hàng ngày và hàng tuần tương đối giống như ở Plauen khi thuấn luyện, pháo thủ, lính giữ ngựa, và lính thông tin. Mỗi ngày bắt đầu từ 5 giờ sáng cho lính coi ngựa và 6 giờ sáng cho những người khác về tất cả các công việc mà tân binh phải học. Ngay cả cựu binh cũng phải tập luyện lại, vì họ phải học để làm việc với nhau và trở thành một đơn vị liên kết với nhau. Chúng tôi chỉ có thể dạy cho tân binh những thao tác và kỹ năng và hy vọng là những cựu binh trong số họ có thể dạy cho họ những gì đang chờ đón ở chiến trường. Bên cạnh việc huấn luyện, chúng tôi là lực lượng phòng thủ chính ở Bức Tường Atlantic nếu quân Đồng Minh tấn công từ Anh, nên chúng tôi đẩy mạnh việc huấn luyện đến giới hạn mà binh lính có thể chịu đựng được.
Khu vực Quimper chưa bị chiến tranh đụng đến. Tôi không nghĩ là có đơn vị nào được đưa đến đây trước đây, nên sự có mặt của quân đội là cái gì mới đối với dân chúng. Không xa lắm là bờ biển nơi có các công sự của Bức Tường Atlantic và các căn cứ tàu ngầm ở St. Nazaire và Lorient. Những nơi đó bị quân Đồng Minh ném bom, và dân chúng ở Quimper nhìn thấy máy bay ném bom bay ngang và nghe tiếng bom nổ, nhưng họ chưa trải qua trực tiếp những tàn bạo của chiến tranh.
Tôi đến thăm Bức Tường Atlantic và căn cứ tàu ngầm Lorient trong một dịp cuối tuần. Những tàu ngầm được chứa trong các kiến trúc như một cái lô cốt lớn mà Hải Quân gọi là "pens" (tạm dịch là bến), và những cái bong bóng rất lớn được treo lơ lững phía trên để bảo vệ chúng khỏi bị máy bay bay thấp tấn công (máy bay địch có thể bắn hạ các bong bóng, nhưng làm như vậy họ sẽ phơi mình ra cho các súng phòng không). Quân Đồng Minh ném bom các "bến" tàu ngầm nhiều lần từ trên cao, nhưng không làm hư hại nhiều. Nếu họ có thể ném bom từ các cao độ thấp hơn thì kết quả đã khác hơn nhiều.
Brittany là một nời rất đẹp, với những ngôi làng xinh xắn. Chúng tôi làm nhiệm vụ chúng tôi, huấn luyện binh lính, ngày này sang ngày khác. Dân địa phương không cần thứ gì. Họ tự trồng trọt lấy, và họ cũng vui lòng bán cho chúng tôi bất cứ thứ gì chúng tôi muốn.
Mọi việc hình như yên ắng ở mặt trận phía tây, nên tôi xin nghỉ phép về đám cưới. Đề nghị được chấp thuận, và gia đình chúng tôi chuẩn bị cho lễ cưới.
Ở Đức vào lúc đó, một buổi tiệc mừng được tổ chức đêm trước ngày cưới cho gia dình và bạn bè cô dâu chú rể. Khác khứa, đem chén đĩa cũ để đập xống sàn nhà để chúc may mắn - và cô dâu phải dọn sạch các mảnh vỡ.
Tuy nhiên, khi tôi chuẩn bị đi phép, lệnh đưa ra hủy bỏ tất cả các cuộc đi phép vì tình trạng khẩn cấp. Tệ hơn nữa là tôi không thể gọi điện thoại hay đánh điện tín để báo cho Lilo, vì mọi việc đều bị giữ bí mật. Họ tiếp tục buổi tiệc đêm trước ngày tôi mà không có tôi, nghĩ rằng tôi không thể về vì lý do quân sự và tôi không thể báo cho họ.
Mười ngày sau, lệnh cấm nghĩ phép được hủy bỏ và tôi lên thời biểu đám cưới lại. Lần này, tôi thấy cô đẹp hơn, nhất là trong áo cưới. Chúng tôi làm nghi lễ dân sự rồi làm lễ ở nhà thờ. Buổi lễ ở nhà thờ được tổ chức ở ngôi nhà thờ lịch sử Thomas ở Leipzig, nơi Martin Luther rao giảng bài thuyết giáo đầu tiên của ông ta, nơi nhạc sĩ nỗi tiếng Richard Wagner rửa tội, và nơi Johann Sebastian Bach chơi đàn organ suốt 27 năm và viết hầu hết các bản nhạc của ông. Lilo mặc bộ đồ cưới thật đẹp và tôi mặc lễ phục và mang kiếm. Trung đoàn bộ binh đóng ở Leipzig cho mượn một xe ngựa để đưa chúng tôi đến nhà thờ làm lễ và đưa đến khách sạn cho buổi tiếp tân. Chúng tôi không đi đâu cho tuần trăng mật, vì thời giờ quá ngắn. Cũng không cần thiết, vì chúng tôi đã có thứ mà chúng tôi muốn - có nhau.
Rất mau, tôi phải trở lại với công việc huấn luyện ở Pháp. Từ biệt Lilo bây giờ là người vợ thật khác với những lần giả biệt trước, nhưng ít ra lần nay tôi không phải trở lại ngay đến với chiến trường.
Tháng 6 năm 1943, sau hơn 3 tháng huấn luyện cật lực, các đơn vị của Tập Đoàn Quân 6 bắt đầu thao diễn, tập trận, thực tập phòng thủ chống quân Đồng Minh đổ bộ vào bãi biển. Rommel đến để quan sát cuộc tập trận. Đây là lần đâu tiên tôi gặp lại ông ta kể từ khi ông chỉ huy ở Trường kriegschule Pótdam, và cũng là lần cuối cùng tôi thấy ông.
Tháng 7 năm 1943, sau khi cuộc tập trận chấm dứt, tôi nhận được 3 tuần nghỉ phép. Lilo đang có bầu đứa con đầu lòng, và tôi rất nóng lòng trở về. Cô vẫn xinh đẹp và vui vẻ. Một lần nữa, chúng tôi lại đi coi phim, kịch, hoà nhạc - cố gắng tận hưởng những thời gian ngắn chúng tôi có bên nhau.
Một đêm khi Lilo và tôi đang coi hoà nhạc, mẹ tôi nhờ người đến kêu tôi về ngay lập tức vì cha tôi bị đau tim. Ông đã chết khi tôi về đến nhà. Ông được 58 tuổi và bị tim đã một thời gian. Tôi nghĩ cái chết của em trai tôi Fritz đã làm cái chết đến nhanh hơn. Cha tôi đã đau đớn tột cùng khi nhìn Fritz đau đớn hàng ngày suốt 7 tháng ròng rã, và tôi nghĩ nó đã làm tổn thương đến sức khoẻ của ông. Vết thương lòng để lại bởi chuyện đó trở thành vĩnh viễn, và biết rằng đứa con trại duy nhất còn lại gần chắc chắn sẽ chết vì cuộc chiến trở thành gánh nặng về tình cảm, nó quá nặng để cha tôi gánh vác. Và nó đã vật đổ cha tôi tháng 7 năm 1943.
Tôi đã ở Quimper 5 tháng, từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 8 năm 1943. Chúng tôi được lệnh lên đường.
Chương 20
Quân Đồng Mịnh đổ bộ lên Sicily vào ngày 10 tháng 7 năm 1943, và đến tháng 8, tình hình không thuận lợi cho chúng tôi. Sư đoàn mới của tôi được tách ra khỏi Tập Đoàn Quân 6 và được lệnh đi Ý để đề phòng. Chúng tôi lên xe lửa ở Quimper. Tiến trình lên tàu của lũ ngựa không kinh nghiệm, sơ hãi với sự vụng về của lính mới là mọi việc khó khăn. Chúng tôi cũng vượt qua các khó khăn, và đi từ Quimper đến Modane, Savoy, biên giới Pháp - Ý. Chúng tôi xuống xe lửa ở Modane và hành quân bộ đến Alps, và nghỉ đêm ở đó. Tôi được lệnh đến lều của tiểu đoàn trưởng, Thiếu Tá Nickisch, sau khi chạng vạng. Đến nơi, tôi thấy 2 pháo đội trưởng kia cũng đang ở đó.
"Chúng ta phải đi bộ vượt qua núi Alps," Nickisch nói. "Cấp trên sợ du kích Ý có thể đặt mìn trong hầm xe lửa chui qua núi Alps và có thể cho nổ khi xe lửa đi qua. Họ nghĩ tốt hơn đi bộ qua núi, chúng ta có thể tự bảo vệ mình nếu cần thiết."
Đây sẽ là một kỳ công to lớn! Tôi trở lại lều của mình và gọi 2 sĩ quan lại, Thiếu Úy Duestenberg và Thiếu Úy Euringer. Tôi cho họ biết tình hình. Chúng tôi sẽ đi theo con đường mà Hannibal đã đi qua núi Alps với đoàn voi của ông ta. Ngựa của chúng tôi phải kéo những khẩu súng rất nặng và những xe chất đầy đạn và vật dụng. Chúng tôi sẽ đi bộ qua đèo ở đỉnh Mont Cenis và đi xuống bên kia núi vào Ý. Mont Cenis cao khoảng 2100 mét. Rõ ràng đây là công việc "herculean" (hercule: người có sức mạnh vô địch) cho ngựa của chúng tôi và cho những ai quan tâm.
Tôi dậy lúc 5 giờ sáng và kiểm tra việc chuẩn bị cho cuộc hành quân. Chúng tôi bắt đầu đi lúc 6 giờ và bắt đầu gian khổ leo qua đèo. Chúng tôi không ngồi trên ngựa, hay ngồi trên các xe ngựa, nhưng đi bộ và giúp kéo ngựa đi. Chúng tôi đi trên con đường mới hiện đại, nhưng thỉnh thoảng cũng thấy con đường Roman cũ mà Hannibal đã đi qua, vì nó chạy song song với con đường chúng tôi đang đi.
Những con ngựa gồng sức trong bộ yên cương kéo những chiếc xe nặng nề qua núi. Ít ra con đuòng được tráng nhựa và bánh xe có thể quay dễ dàng; nếu phải vượt qua địa hình để đi, tôi không nghĩ chúng tôi có thể vươt qua được. Chúng tôi ngừng lại cứ 30 phút 1 lần để nghỉ ngơi thay vì 1-2 giờ như bình thường. Thời tiết rất đẹp, nắng, không khí trong lành, và bầu trời trong xanh. Khu vực cũng rất đẹp, với những ngọn núi cao bao xung quanh chúng tôi. Nhưng leo lên con đường núi dốc và phải kéo nặng là công việc cực kỳ khó nhọc với lũ ngựa. Sau 9 giờ, lúc giữa chiều - chúng tôi đến được đỉnh đèo và biên giới Ý.
Chúng tôi dừng lại ở một hồ nhỏ với mặt nước trong như pha lê, cho ngựa ăn uống và nghỉ ngơi 2 giờ đồng hồ trước khi đi xuống núi. Phải công nhận đây là chiến công tinh thần khi đem được tất cả súng ống và thiết bị qua khỏi đèo. Từ đây, chúng tôi có thể nhìn thấy toàn bộ con đường đi xuống phía bên kia, với con đường uốn khúc, những khúc cua gấp, và những con suối nước chảy ào ạt.
Chúng tôi biết đi xuống cũng không dễ dàng; tất nhiên nó dễ và nhanh hơn lúc đi lên, nhưng cũng dễ bị tai nạn. Với ngựa, đi xuống núi cũng khó khăn và nguy hiểm. Mạc dù súng và xe có thắng, nhưng chúng là những cái thắng thô sơ chỉ gồm có một khúc gổ cọ sát vào bánh xe. Không những nó không có hiệu quả trên đường dốc, mà chúng còn mòn mau chóng. Mặc dù 2 con ngựa phía sau đội 6 con ngựa có thể giúp kéo chiếc xe lại, nhưng chúng sẽ không chịu nỗi nếu toàn bộ sức nặng của chiếc xe đẩy vào chúng.
Chuyến đi xuống núi thật căng thẳng đối với mọi người, vì chúng tô biết sự nguy hiểm luôn kề cập. Đến khi xuống hết núi, chuyến đi vượt núi Alpss trở thanhf một cuộc luyện tập khó khăn nhất mà chúng tôi đã từng trải qua. Chúng tôi xuống hết dốc sau khi tối. Chúng tôi dựng lều gần một thị trấn Ý tên Susa, ở một đồng cỏ được bao quanh bỡi những rừng cây. Một con suối chảy ngang qua đồng cỏ, và lính coi ngựa lấy nước cho ngựa uống và tắm ngựa ở con suối. Pháo đội có 180 người đã rất mệt và 165 con ngựa đã kiệt sức đêm đó. Khi mọi việc xong xuôi đã là nửa đêm, mọi người chỉ đổ vào trong các lều và ngủ như chết.
Chúng tôi ở Susa thêm một ngày để cho người ngựa mệt nhừ nghỉ ngơi. Binh lính tắm rửa giặc giủ và viết thư. Thời tiết rất dễ chịu nên ngủ trong lều không có vấn đề gì.
Trong lúc này, xe lửa lại được cung cấp cho sư đoàn, và ngày hôm sau chúng tôi lên xe lửa ở Susa và đi về phía Piacenza. Chúng tôi xuống xe ở Alessandria và đi bộ đến Piacenza. Con sông Po chảy qua Piacenza, và những cây cầu trên sông Po là những điểm quan trọng chiến lược vì chúng tôi cần chúng để tiếp tế cho lực lượng ở miền Nam nước Ý. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ những cây cầu đó. Lính Ý canh gác các cây cầu; chúng tôi ở đó để canh chừng, trong trường hợp quân Ý bỏ rơi chúng tôi và rút ra khỏi cuộc chiến. Chúng tôi không thể để cho họ làm điều đó, vì nó sẽ để hở toàn bộ miền Nam Châu Âu cho quân Đồng Minh tấn công.
Các đơn vị tiền phương đã đến đó trước chúng tôi, và tất cả các đơn vị đều được cấp chỗ ở. Pháo đội của tôi ở trong một ngôi làng bên ngoài Piacenza. Trong vài ngày đầu, chúng tôi ngủ trong lều. Lực lượng chúng tôi trong khu vực Piacenza gồm một trung đoàn bộ binh và tiểu đoàn pháo binh chúng tôi. Các thành phần khác của sư đoàn ở các cây cầu khác bắt qua sông Po. Sau vài ngày ở lều, chúng tôi được có chỗ ở tốt hơn. Chúng tôi được phát quân phục khaki (ka ki) của Afrika Korp thay cho bộ quân phục màu xám (Bắc Phi đã mất về tay quân Đồng Minh và quân phục của họ bây giờ được dùng ở Ý).
Piacenza là thành phố như một bức tranh, một thành phố tiêu biểu cho các thành phố Ý thời trung cổ với các pháo đài, tường thành. Các pháo đài được xây dựng cách đây vài thế kỷ vì sự quan trọng của các cầu. Giống như hầu hết các thành phố cổ ở Ý, Piacenza có nhiều lối đi có mái vòm và những quảng trường buôn bán trong trung tâm thành phố nơi người dân địa phương hay tụ tập.
Chúng tôi ở khu vực Piacenza chỉ 2 tuần thì nhận được lệnh vào một đêm là chính phủ mới của Ý có kế hoạch giản hoà với quân Đồng Minh và quay lại chống chúng tôi và chúng tôi phải tước vũ khí quân Ý trước khi chúng được dùng để chống lại chúng tôi. Chúng tôi ra kế họach tập dượt pháo binh vào ngày hôm sau, và tiểu đoàn pháo binh chúng tôi mời tất cả các sĩ quan của trung đoàn pháo binh Ý đóng ở Piacenza tham gia quan sát cuộc tập dượt. Chúng tôi đã đến tham gia vài cuộc tập dượt của họ, và những sự trao đổi kiều này là rất bình thường. Bây giờ, khi họ đến để quan sát buổi thao dượt của chúng tôi, chúng tôi sẽ tước vũ khi của họ và bắt họ như tù binh. Đây là nhiệm vụ rất phiền hà mà chúng tôi không muốn làm. Chúng tôi đã có quan hệ rất thân thiết với họ, và nhiều người trong số họ mang huân chương chữ thập sắt vì họ đã phục vụ dưới sự chỉ huy của quân Đức trong chiến dịch Châu Phi. Chúng tôi cảm thậy, về phương diện cá nhân, là chúng tôi có lệnh để làm một hành động phản bội. Nhưng đó là mệnh lệnh, và chúng tôi phải thi hành chúng.
Khi những chiếc xe buýt chở khoảng 30 người đến nơi và sáng hôm sau, chúng tôi nói xin lỗi họ về lệnh tướt khí giới của họ cùng với tất cả các lực lượng của quân đội Ý. Chúng tôi đã có hầu hết các sĩ quan của trung đoàn pháo binh. Trung đoàn bộ binh của chúng tôi đã ở trong các vị trí xung quanh Piacenza, và pháo đội của tôi chỉ ở cách đó khoảng 2 km.
Tuy nhiên, các lực lượng Ý nhận lệnh không để cho chúng tôi tước vũ khí, và khi bộ binh chúng tôi đến gần họ, họ nổ súng. Bộ binh rút lui và yêu cầu chúng tôi yểm trợ pháo binh. Sau đó vài chiếc xe bọc thép Ý tiến đến gần và tỏ ra đe doạ chúng tôi, chắc họ nghĩ rằng sự lui quân của bộ binh là một cuộc rút lui. Bộ binh nổ súng vào họ, mấy chiếc xe bọc thép quay lại và biến mất. Tình hình có lẽ chúng tôi phải chiếm Piacenza bằng vũ lực, dù cho dân chúng vẫn còn ở trong thành phố. Vì chúng tôi muốn tránh để dân chúng không bị thương vong, người tiểu đoàn trưởng bộ binh và tôi quyết định bắn một loạt pháo vào quảng trường thương mại của Piacenza để họ thấy thành phố sẽ bị thiệt hại như thế nào nếu chúng tôi dốc toàn lực lượng. Quảng trường vắng tanh, vì dân chúng biết xung đột có thể xảy ra và họ ở trong nhà. Quân Ý không có cơ hội chặn được chúng tôi nếu chúng tôi tấn công, vì họ không sử dụng được pháo binh - pháo chưa được bày trận, và chúng tôi bắt giữ hầu hết các sĩ quan pháo binh.
Tôi chuẩn bị và bắn 1 loạt 4 trái đạn vào quảng trường. Rồi chờ đợi. Khoảng 20 phút sau, một xe gắn máy chở một sĩ quan cao cấp trên thùng xe đi ra, vẫy lá cờ trắng, thành phố đã đầu hàng. Loạt pháo làm cho họ hiểu được họ không cách gì chống lại. Chúng tôi tạm giam giữ binh lính Ý trong các doanh trại của họ, và bộ binh giữ an ninh các cây cầu bắt qua sông Po.
Không phải ở đâu cũng thuận tiện như ở Piacenza. Ở Genoa và Sanova, Hải Quân Ý nắm các hoạt động quân sự, và họ từ chối đầu hàng; hai thành phố này bị chiếm bằng vũ lực và thiệt hại cho cả 2 bên. Sư đoàn của tôi tham dự ở Genoa, bộ binh được đưa đến nhanh chóng bằng xe tải; pháo binh theo sau, nhưng khu vực này có nhiều núi nên trận đánh đã kết thúc khi chúng tôi đến nơi. Toàn bộ sự việc tước vũ khí quân Ý chỉ kéo dài vài ngày.
Rất khó khăn khi sử dụng ngựa kéo pháo ở Ý vì nhiều núi và thời tiết nóng, nên tôi lấy xe chiếm được của đơn vị pháo binh cơ giới của Ý ở Piacenza và lần đầu tiên trở thành cơ giới hoá. Quân Đức ở Ý bây giờ trở thành 100% cơ giới hoá; ở Nga khoảng chừng 25%; ở Pháp, khoảng 60%. Được cơ giới hoá sau bao năm dùng ngựa kéo xe cứ như hai cuộc sống khác nhau. Với ngựa, mọi người, từ lính coi ngựa cho đến pháo thủ, lúc nào cũng phải chăm sóc cho ngựa - cho ăn, uống, chải lông, và nhưng công việc khác - bây giờ, chúng tôi chỉ cần dừng xe lại, tắt máy, và quên chúng đi cho đến sáng hôm sau. Chúng tôi để ngựa lại cho nông dân địa phương và trả họ tiền để chăm sóc ngựa cho đến khi chúng được đưa về Đức. Cuối cùng giấc mơ của tôi trở thành pháo binh cơ giới trở thành sự thật sau 7 năm trong quân đội!
Sau trận đánh ở Genoa, chúng tôi bắt đầu nhiệm vụ chiếm đóng. Sư đoàn phân chia khu vực chiếm đóng cho từng đơn vị. Pháo đội của tôi được giao ở một khu vực trong vùng Riviera dài khoảng 75km. Đơn vị chúng tôi có trách nhiệm khu vực chung với một tiểu đoàn kỵ binh - mô tô, chỉ huy là Đại Úy Otto Beloff.
Nhiệm vụ của chúng tôi là canh chừng quân Đồng Minh có thể đổ bộ vào khu vực Italian Riviera. Quân Ý đã xây các vị trí pháo vào trong núi, tôi tịch thu súng của họ thêm vào súng của chúng tôi. Tôi có đủ pháo cho một tiểu đoàn pháo binh thay vì một pháo đội, mặc dù quân số vẫn chỉ là một pháo đội. Nếu xảy ra việc đấu pháo giữa chúng tôi và Hải Quân Đồng Minh, chúng tôi sẽ bị yếu thế hơn nhiều. Nếu quân Đồng Minh đổ bộ ở đây, chúng tôi sẽ không đủ mạnh đệ cầm chân họ lâu dài, nhưng dãy Alps phía sau chúng tôi sẽ là một lá chắn thiên nhiên. Tất cả cấc cầu, đèo, hầm qua Alps đều đã được quân Ý đặt mìn trước đây, và nó trở thành một phần trách nhiệm của chúng tôi phá hủy chúng nếu chúng tôi không chặn được quân Đồng Minh đổ bộ.
Khu vực của tôi chạy từ Ventimiglia, biên giới Pháp đến Savona (căn cứ Hải Quân), với Imperia nằm ngay giữa. Tôi chịu trách nhiệm về pháo binh và Beloff trách nhiệm về bộ binh. Tôi chọn Imperia để làm bộ chỉ huy, và Beloff chọn một ngôi làng gần đó. Tôi tìm được một biệt thự bỏ trống, của một người bạn của Mussolini tên Faravelli và dọn vào đó. Tôi được biết chủ nhà đang ở một căn nhà khác của ông ta trên núi.
Căn biệt thự có 25 phòng. Phòng tắm có cả nước biển và nước ngọt, và tôi có thể chọn tắm bất cứ loại nào. Biệt thự nhìn ra Địa Trung Hải, ở giữa biệt thự và biển là đường quốc lộ và đường sắt. Tôi ở trong biệt thự với người giúp việc và người lính mô tô liên lạc và văn phòng làm việc gần đó.
Thời gian ở Imperia là thời gian sung sướng nhất của tôi trong suốt cuộc chiến. Ngoại trừ làm quen với súng và đạn dượt Ý, chúng tôi ít có việc gì để làm, vì phòng ngừa một cuộc tấn công hầu như không xảy ra. Trước đây, công việc phiền nhất là chăm sóc cho lũ ngựa nhưng bây giờ chúng tôi không phải lo nữa, cuộc sống thật an nhàn. Có lần Đại Úy Beloff và tôi thay đồ dân sự và lái xe đến sòng bài Monte Carlo để đánh bạc (vì Monte Carlo đứng trung lập trong chiến tranh). Từ Monaco, chúng tôi đi Nice, và trở về Imperia.
Nhiệm vụ sung sướng ở Imperia quá ngắn. Quân Đồng Minh đổ bộ ở Salerno vào tháng 9 năm 1943, và Thống Chế Kesselring, tư lệnh toàn bộ lực lượng Đức ở khu vực Địa Trung Hải, quyết định dùng sư đoàn của tôi làm đơn vị phòng thủ chiều sâu băng qua chiếc giày Ý (hình dáng nước Ý giống chiếc giày ), phía Nam Rome, rõ rằng ông nghĩ là quân Đồng Minh không thể tấn công Salerno và miền bắc Ý trong cùng một lúc. Chúng tôi nhận lệnh lên xe lửa vào lúc 6:30, và nhận ra lên tàu với các phương tiện cơ giới nhẹ nhàng hơn ngựa rất nhiều. Chúng tôi lại đi qua Piacenza và qua ngoại ô Rome.
Phần của tuyến phòng thủ, gọi là tuyến Gustav, đươc giao cho chúng tôi là ở phía bắc Naples. Hai sư đoàn khác nhận các phần còn lại ở tuyến phòng thủ. Chúng tôi xuống xe lửa ở Vallerti và đi bộ vài cây số đến vị trí, như mọi khi. Chúng tôi chuẩn bị tuyến phòng thủ, vẫn còn cách xa mặt trận 95km. Tuyến phòng thủ đi ngang qua thị trấn Castelforte, nhưng chúng tôi tránh thị trấn vì nó sẽ trở thành một mục tiêu mời mọc cho đồng minh và thay vào đó là lập tuyến phòng thủ phía nam của thị trấn.
Công việc đầu tiên là làm quen với địa hình trong khu vực. Chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng phòng khi tuyến trước gần Naples bị chọc thủng, bộ binh có thể rút về tuyến chúng tôi. Lúc đó quân Đồng Minh sẽ phải đối mặt với những đơn vị mới và nghỉ ngơi đầy đủ phòng thủ sâu, được yểm trợ bởi pháo binh quen thuộc với địa hình và biết những nơi có thể trở thành mục tiêu trong khu vực. Khi chúng tôi giữ phòng tuyến, các đơn vị từ phía trước sẽ rút về phía sau và được nghỉ ngơi cũng như chuẩn bị phòng tuyến mới và làm lực lượng trừ bị. Rất khó để quân đang rút lui dừng lại và quay trở lại chiến đấu, nhất là khi đối phương ép mạng ngay sau lưng, và địch luôn làm điều đó. Nên chức năng của chúng tôi phải là quân rút lui vượt qua phòng tuyến rồi đóng lại và chặn đứng quân địch đang đuổi theo. Chúng tôi có một quân đoàn, với 3 sư đoàn trên phòng tuyến và một sư đoàn dự bị. Sư đoàn chúng tôi ở phần sát với Tyrrhenian sát Địa Trung Hải. Sư đoàn ở giữa ở khu vực sòng bài Monte, và sư đoàn thứ ba ở biển Adriatic.
Hàng ngày chúng tôi bận rộn quan sát địa hình. Bộ binh lo canh chừng mọi khe suối hay hẽm núi trong khu vực và xây các tuyến tiền duyên, bao gồm giao thông hào và hố chiến đấu. Tôi phải lập ra các khu vực có thể trở thành mục tiêu cho việc yểm trợ pháo binh. Tôi đi dến các khu vực với bộ binh và tìm hiểu nơi nào họ cần phải cố thủ, và lập ra các kế hoạch theo đó. Chúng tôi có thì giờ làm hết tất cả mọi việc vì mặt trận vẫn ở xa về phía Nam. Chúng tôi ở trong một đất nước nhiều núi đồi, rất dễ phòng thủ, vì xe tăng địch không thể hoạt động được. Cơ bản là, cách tấn công duy nhất vào chúng tôi là bằng bộ binh.
Sau khi hoàn tất tuyến phòng thủ mới, chúng tôi chỉ chờ đến phiên chúng tôi nhập trận. Bộ binh đào hầm hố trú ẩn. Tôi đặt súng trong một vườn cam phía sau môt con rạch nhỏ, và mọi thứ đều sẵn sàng. Chúng tôi có thể nhìn thấy ngọn núi Vesuvius từ đây. Khu vực và thời tiết thật đẹp, và chúng tôi có rất nhiều cam từ các vườn cam. Phụ nữ ở các ngôi làng lân cận thường ra giặt giủ gần vị trí của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ mất khoảng 2-3 tuần trước khi mặt trận sẽ lùi đến chỗ chúng tôi.
Ngày 19 tháng 11 năm 1943, tôi nhận được điện tín là Lilo đã sinh con trai vào ngày 12 tháng 11, tên Kláu-Jurgen. Bản điện tín cũng báo rằng Lilo và đứa bé phải chạy ra khỏi Leipzig sau một cuộc ném bom dữ dội và đứa trẻ đang nằm trong bệnh viện nhi đồng ở Braunschweig trong điều kiện tồi tàn. Vì tình hình ở đây yên nên tôi xin nghỉ phép để về thăm Lilo và con. Khi rời đơn vị, tôi chở cam và gà tây đầy cốp xe, những thứ rất hiếm ở Đức.
Đến Leipzig, tôi choáng váng vì sự tàn phá bởi không quân Đồng Minh. Leipzig thật tương phản khi so với Rome không bị hư hại, nơi mà tôi vừa rời khỏi. Vì phải đổi xe lửa để đi Blankenburg, nơi Lilo đang ở tạm nhà ngời chú, tôi ghé về nhà mẹ, thay đồ dân sự, để lại một số cam và gà tây cho bà, và đi Blankenburg, với số thức ăn còn lại mang theo.
Khi thấy tôi, Lilo nhào vào vòng tay tôi và khóc sướt mướt. Cô kể tôi nghe toàn bộ câu chuyện về việc sinh Klaus-Jurgen. Sau khi sinh vài ngày ở một bệnh viện tư nhân nhỏ, Leipzig bị một trận bom tệ hại nhất cuộc chiến vì nó là môt trung tâm xe lửa quan trọng. Quân Đồng Minh ném bom cháy trên một khu vực rộng và một phần lớn của Lepzig đã bốc cháy. Bệnh viện nơi Lilo và Klaus ở bị trúng bom và bốc cháy. Lilo và Klaus ở dưới tầng hầm khi người ta cố dập lửa ngay phía trên. Lửa được dập tắt, nhưng điện nước bị cúp - không chỉ riêng bệnh viện, mà hầu hết Leipzig. Không điện và nước, không thể sống nổi. Lilo không thể cho Klaus bú, vì không có sữa, và cô bị nhiễm trùng nên không thể cho bú bằng sữa mẹ. Cô phải rời khỏi thành phố ngay nếu không thì Klaus sẽ chết. Mẹ cô đề nghị nên đi nhà anh của bà, cậu của Lilo, ở Blankenburg, trên vùng núi Harz.
Bình thường, xe lửa đi Blankenburg mất khoảng 4 tiếng, những chuyến đi này mất 24 tiếng, không chỉ vì trận bom đã làm ngưng trệ dịch vụ xe lửa và đường sắt bị hư hại, mà rất nhiều người dân Leipzig phải di tản ra khỏi thành phố. Trong suốt thời gian đó, Klaus không được bú và không được sưởi ấm. Khi Lilo đến được Blankenburg, Klaus bệnh rất nặng, và cô biết cô không thể giữ con ở Blankenburg. Cô phải đi đến bệnh viện gần nhất, cách khoảng 60km. Cô đón được một xe cứu thương và đưa con đến một bệnh viện nhi đồng trên con đường đóng băng nguy hiểm.
Khi họ đến bệnh viện, một nữ bác sĩ khám Klaus. Nó gần chết và bác sĩ ráng cứu sống nó. Nó cân nhẹ hơn lúc mới sinh. Mặc dù không chết, nó trong tình trạng thập tử nhất sinh trong vài tuần. Lilo cuối cùng phải để Klaus ở bệnh viện và quay về Blankenburg. Những thử thách mà cô phải chịu đựng thật khủng khiếp, và chỉ đến bây giờ tôi mới được biết câu chuyện. Tôi an ủi cô và thầm nguyền rủa cuộc chiến tranh đã gây ra những gì đến cho vợ con.
Chúng tôi đón xe lửa từ Blankenburg đi Braunschweig, nơi Klaus nằm bệnh viện, và ở đó, ngày 8 tháng 1 năm 1944, lần đầu tiên tôi được nhìn con tôi. Nó đã 8 tuần tuổi, những vẫn thiếu cân trầm trọng và nhìn thật tệ. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy trẻ sơ sinh trước đây, ngoại trừ những đữa trẻ trông khoẻ mạnh, mập mạp trong tranh ảnh, và con tôi nhìn nhỏ thó và bệnh hoạn.
Trước khi quay lại Ý, chúng tôi may mắn tìm được cho Lilo một chỗ để ở. Chú của cô ở Blankenburg có 3 đứa con và cô không muốn làm phiền ông nếu như không thật cần thiết. Chúng tôi tìm được một căn phòng ở nhà một viên bác sĩ (chính phủ bắt buộc những ai có dư phòng để phải cho những nạn nhân bị mất nhà thuê). Klaus vẫn phải ở bệnh viện thêm vài tuần nữa sau khi tôi đi, nhưng không trong tình trạng nguy hiểm nữa. Cu cậu đã bắt đầu hồi phục lúc tôi đi, mặc dù mất thêm nhiều thời gian để trở nên mập mạnh.
Tôi lên đường trở lại Ý ngày 24 tháng 1 năm 1944. Khi đi qua Leipzig và thấy cảnh hoang tàn của thành phố, tôi biết những trận bom đã làm thoái chí dân chúng. Hệ thống tuyên truyền nói rằng những trận bom chỉ làm nhân dân đoàn kết và ý chí cứng rắn hơ. Nó cũng đúng vì người ta sẽ ghét những ai gây ra điều này đến với họ, nhưng việc ném bom cũng có hiệu quả làm người ta thoái chí - nhất là những người lao động, họ không có đủ giấc ngủ hay nghỉ ngơi vì họ phải đi tránh bom suốt đêm. Người dân bắt đầu mong muốn chiến tranh chấm dứt càng sớm càn tốt.
Khi đoàn xe lửa đến ga Florence và tôi đi xuống, nhiều sĩ quan Đức đang có mặt trong sân Ga và hướng dẫn tất cả những ai mặc quân phục Đức đến một chỗ. Quân Mỹ đã đổ bộ lên Anzio (chúng tôi gọi đây là chiến dịch đầu cầu Nuttuno vì Nettuno là địa danh ngay chỗ đổ bộ), và tất cả các sư đoàn chủ lực đều bị cột chặt vào các mặt trận chống lại quân Đồng Minh đang tiến về phía bắc từ khu vực Salerno, không có quân sẵn sàng chống lại địch ở khu vực này. Nên tất cả các quân nhân nghỉ phép hay điều trị trở về đều được chặn lại và thành lập các đơn vị tạm thời để chặn quân Mỹ ở Anzio/Nettuno cho đến khi các sư đoàn chủ lực đến nơi. Là sĩ quan, tôi được hướng dẫn đến một khách sạn gần đó. Tất cả các sĩ quan đều được phỏng vấn về kinh nghiệm của họ, và tôi được giao chỉ huy một tiểu đoàn gồm 3 đại đội tạm thời, kể cả lính hải quân và không quân.
Florence cách Anzio khoảng 370 km. Chúng tôi đến Rome bằng xe buýt và chuyển qua xe tải. Các sĩ quan đợi ở Anzio và hướng dẫn chúng tôi vào tuyến phòng thủ đã được thành lập. Tiểu đoàn tôi được phân một phần của phòng tuyến về phía đông nam của tuyến phòng thủ vòng quanh khu vực đổ bộ. Tôi chỉ định mỗi đại đội phụ trách một phần nhỏ, giữ một số lính trừ bị, và chờ những gì sẽ xảy ra. Tuyến phòng thủ dài khoảng 45km, tạo thành nửa vòng tròng bao quanh đầu cầu của quân Mỹ. Chúng tôi có súng cá nhân, nhưng không có tăng, pháo, hay súng máy. Với binh lính không kinh nghiệm và chưa bao giờ làm việc với nhau trước đây và được chỉ huy bởi những sĩ quan xa lạ, chúng tôi không phải là những đơn vị chiến đấu có hiệu quả, và không có súng máy, súng cối, xe tăng, pháo binh, chúng tôi không chịu đựng được lâu nếu quân Mỹ tấn công. Nhưng họ không tấn công. Họ chỉ phòng thủ. Chúng tôi đợi họ tấn công, nhưng rõ ràng là họ cũng đang đợi viện binh. Một trận đánh yên lặng nhất tôi được chứng kiến. Chúng tôi thấy tàu chiến đậu ngoài khơi, với khinh khí cầu bay phía trên để bảo vệ tàu không bị máy bay bay thấp tấn công.
Hai kẻ thù chỉ ngồi và đợi đối phương. Vài ngày sau, quân chính quy đến nơi và thay thế chúng tôi và chúng tôi trở về đơn vị của mình. Tôi mừng vì tướng chỉ huy Mỹ không phải là Patton, vì với một tướng lãnh xông xáo đã có thể chiếm được Rome mà không cần những nỗ lực lớn. Một khi họ để cho chúng tôi có quân chính quy vào các vị trí đối đầu, họ phải chiến đấu trên từng bước tiến.
Khi tôi đến gần phòng tuyến Gustav trên đường về pháo đội, chiến trận đã đến gần Casino. Đến gần khoảng 35 km, tôi bắt đầu nghe tiếng pháo hạng nặng, âm thanh như sấm sét ở đâu đó khá xa. Và khi đến gần hơn, tôi bắt đầu nghe tiếng pháo hạng nhẹ. Cuối cùng, âm thanh chiến tranh trở nên quen thuộc với những tiếng gầm rú hỗn loạn, với tiến đạn cối, súng máy và súng trường bên cạnh tiến pháo. Như trước đây, ở Pháp và Nga, tiếng gầm rú liên tục này đã trở thành một phần tự nhiên trong cuộc sống của tôi ở mặt trận và tôi không suy nghĩ về nó, nhưng lần này rất khác lạ, và tôi bỗng suy nghĩ với chính mình, "Trời! Lại nó, với những trận đánh từ ngày này qua ngày khác." Lúc trước, tôi chưa bao giờ suy nghĩ hay cảm thấy kiểu này, và nó cũng không bao giờ xảy ra nữa. Tôi luôn kiểm soát được nổi sợ hãi trong khá khứ. Có thể lần này vì tôi mới được nhìn Klaus lần đầu, và cuộc sống bây giờ có nghĩa hơn lúc nào hết, và nó ảnh hưởng đến tâm lý tôi hơn bao giờ. Có thể vì tôi đã không chiến đấu trong một thời gian, hay có thể vì chúng tôi chắc chắn sẽ thua trận. Lý do gì đi nữa, trở lại chiến trường lần này tôi không có tinh thần chút nào.
Khi tôi trình diện với tiểu đoàn trưởng, Thiếu Tá Nickisch, ông chào tôi với nụ cười rạng rỡ.
"Anh mong ước thứ gì nhất, Knappe?" ông ta hỏi.
"Chiến tranh kết thúc," tôi nói một cách mệt mỏi.
"Sau đó," ông ta đưa đẩy.
Tôi nhìn ông. Hình như công có tin gì đó cho tôi.
"Anh đã được chọn huấn luyện thành sĩ quan tham mưu", ông nói. "Xin chúc mừng".
Tôi vui sướng và hãnh diện tột độ, vì được chọn huấn luyện sĩ quan tham mưu là vinh dự lớn nhất của các sĩ quan trẻ trong quân đội Đức. Bạn không thể yêu cầu điều đó; bạn chỉ có thể được chọn. Có thể một trong những lý do tôi được chọn là tôi đứng thứ 24 trong khoá huấn luyện năm 1938 trong số 4 nghìn sinh viên của 4 học viện quân sự. Đến lúc đó, số của tôi được đổi từ 24 thành 12, có nghĩa là những người phía trên tôi hoặc đã chết hoặc đã bị thương nặng. Một thống kê ớn lạnh! Có thể hầu hết họ đã chết ở Ba Lan, Pháp, Nga, Bắc Phi, hay Ý.
Người thay thế tôi đã nắm lấy pháo đội, và tôi được chỉ định vào ban tham mưu của sư đoàn bộ binh 17 ở bênh cạnh để bắt đầu được huấn luyện tại chỗ. Việc huấn luyện sĩ quan tham mưu có 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu là huấn luyện tại chỗ, trong thời gian này người được huấn luyện sẽ được nhận vào một sư đoàn, quân đoàn, tập đoàn quân, hay phương diện quân để học bằng cách khảo sát trực tiếp các công việc của sĩ quan tham mưu như thế nào. Giai đoạn 2 là qua một loạt các lớp huấn luyện đặc biệt ngắn về chiến thuật xe tăng, pháo binh, công binh, v.v..., để cung cấp cho người được huấn luyện có kiến thức rộng về tất cả các loại hoạt động quân đội cần thiết cho một sĩ quan tham mưu. Giai đoạn 3 là Trường Tham Mưu, trường lập ra để huấn luyện việc chỉ huy cấp sư đoàn.
Trong thời gian huấn luyện tại chỗ, một trong những điều đầu tiên tôi học được là một phần trong những trách nhiệm của tôi là phải biết tất cả những người quan trọng trong sư đoàn. Là pháo đội trưởng, tôi chỉ cần biết tiểu đoàn trưởng của tôi và các pháo đội trưởng trong tiểu đoàn bên cạnh ngưởi chỉ huy bộ binh mà chúng tôi phải yểm trợ. Nhưng bây giờ tôi được biết một sĩ quan tham mưu sư đoàn phải biết tất cả các trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trường, chỉ huy pháo binh, v.v... Tôi bỏ ra ngày đầu tiên để biết mọi người, coi vị trí chúng tôi trên bản đồ, và xem lại các kế hoạch phòng thủ của sư đoàn trong tuyến phòng thủ Gustav. Một vài trận đánh đang xảy ra, và sĩ quan hành quân sư đoàn tóm tắt cho tôi những gì đang xảy ra, các vị trí, và các chỉ huy ở đó. Tôi được chỉ định bỏ vài ngày với sĩ quan hành quân, chỉ quan sát các nhiệm vụ và chức năng của anh ta. Tôi có thể nghe điện thoại, nhưng hầu hết chỉ quan sát. Sau đó tôi đi vài ngày với sĩ quan tình báo, và sau đó với sĩ quan tiếp vận, chỉ quan sát nhiệm vụ và chức năng của mỗi người. Tiếp đó tôi làm việc với sĩ quan hành quân, tham gia quan hệ trực tiếp với các trung đoàn trưởng. Tôi quan sát những nguời khác nhau làm việc, họ nhận báo cáo từ các trung đoàn ra sao, và họ tổng kết các báo cáo như thế nào và gởi lên quân đoàn. Thỉnh thoảng tôi giúp ai đó làm việc, nhưng hầu hết là quan sát và học hỏi. Mặc dù tôi đã từng là sĩ quan phụ tá tiểu đoàn và làm việc một thời gian với các sĩ quan cao cấp ở Rostov, tôi vẫn luôn là sĩ quan tuyến trước và không biết chút gì về công việc của sĩ quan tham mưu.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: