Dòng sông Qua một bãi hoang đầy cỏ dại đến bờ sông. Nắng dịu như không nắng. Buổi chiều mùa mưa nằm dài hai bên dòng nước. Tuấn đi với Hoài, bàn tay chàng cầm lấy bàn tay kẻ đồng hành. Những ngón gầy guộc luồn vào nhau. Người đàn ông im lặng mà người đàn bà cũng im lặng. Một âm sắc mơ hồ gợn bên tai. Đấy là tiếng gió nhẹ quyện vào ngàn cỏ hay chỉ là hơi thở… Xuống khỏi một mấc đất, Tuấn đỡ tay qua vóc lưng ẻo lả bên cạnh. Người yêu của chàng vẫn không nói gì và mặt nàng đượm những nét bình yên, trầm mặc của một buổi chiều hoang vắng. Đôi mắt hướng vào xa xôi. Vẻ huyền bí lạnh lẽo của hai tròng mắt khiến chàng hơi rùng mình. Chỉ thoáng một chút thôi.
Tuấn nhìn qua dòng sông. Dải nước rộng khiến cho cảnh vật bên kia phải nhòa đi. Chỉ thấy một dải cây xanh, một dải đất màu nâu sẫm và những miếng trời thấp thoáng. Giữa cảnh bát ngát mịt mùng, đối tượng của thị quan đột nhiên mở rộng cả ba chiều. Thêm một lần, Tuấn hơi ngạc nhiên về đôi mắt chàng vì thấy chúng bé nhỏ tội nghiệp mà có thể bao quát nổi cả một quãng không gian rộng đến thế. Tuấn lại nhìn đôi mắt người yêu; và nàng cũng nhìn chàng mỉm cười. Tuấn nhớ đến một thi sĩ đã ví mắt người đẹp với dòng sông:
Mắt em là một dòng sông… Tuấn sung sướng nhưng không chỉ nghĩ đến một dòng sông vì hai mắt Hoài ghi nhận hai dòng sông giống nhau. Ta nghĩ đúng hay nhà thơ ấy nghĩ đúng. Tuấn tự hỏi lẩn thẩn như vậy. Tuy nhiên chàng chịu thua, vì hai dòng sông của chàng cũng vẫn chỉ là một. Cao hứng chàng khẽ ngâm câu thơ kỳ dị. Người đàn bà nhìn chàng âu yếm hơn nhưng nàng vẫn cười và chỉ cười.
Tuấn lại nhớ đến một thành ngữ đã ví đôi mắt là cửa sổ của linh hồn. Chàng soi mói nhìn vào hai khung cửa đó nhưng không thấy rõ hồn nàng. Chỉ thấy hình ảnh cây cỏ, nước mây và hình ảnh chàng. Chừng như hồn Hoài chính là những hình ảnh ấy. Nhưng Tuấn khẽ lắc đầu. Cử động này phát ra một cách miễn cưỡng, thật miễn cưỡng. Người con gái bây giờ mới lên tiếng. Những âm thanh buột ra từ cổ họng nghe nhỏ nhẹ gần như lẫn với hơi thở:
"Tại sao anh ngó em rồi lắc đầu?"
Tuấn vụt cười lớn, không trả lời. Thiếu nữ mở to mắt. Mặt nàng trở nên nghiêm trang vì nụ cười đã tắt trên môi. Nàng hỏi lại:
"Tại sao thế?"
Tuấn bối rối không biết trả lời thế nào. Nguyên cớ tuy không phức tạp lắm nhưng khó nói. Tuấn hay ngượng ngùng khi có người tra hỏi cảm nghĩ và cử chỉ của mình, dầu người đó là Hoài. Trong lúc thảng thốt, một sức tự động của cơ năng tâm lý khiến Tuấn buông ra lời giải thích vu vơ:
"Vì mắt em đẹp quá".
"Nhưng tại sao anh lắc đầu?"
Tuấn chợt nghĩ tới một câu văn vẻ:
"Anh là con nai nhỏ bé sa bẫy trong mắt em. Có lẽ không bao giờ con vật đó thoát khỏi bẫy nên anh thương hại nó".
Sau câu trả lời, Tuấn thở mạnh hơn vì vừa thoát cơn bối rối. Đối với chàng, câu giải thích này không có giá trị lắm. Nó dối trá, sai lạc tuy Tuấn tự biết nó thật đẹp đẽ. Nhưng Hoài hình như không thể biết hoặc không cần biết là câu trả lời sai với sự thật. Giọng nàng vẫn nghiêm trang:
"Tại sao anh thương hại nó?"
. . . . . . . . . . . . . . .
Tuấn nhận ra một điều hơi khác thường. Người đàn bà nói với chàng bốn lần. Bốn lời nói là bốn câu hỏi. Trong mỗi câu hỏi có một tiếng đôi tại sao? Óc Tuấn chợt bề bộn những tiếng đó. câu chuyện giữa chàng với nàng lúc này đang trong tình trạng giả dối một cách đơn phương. Sự liên lạc của ý tưởng chưa dứt, nên nó chưa thoát khỏi tình trạng giả dối. Tuấn lại trả lời rằng:
"Anh thương con nai ấy vì anh muốn thương nó. Sự thực nó đâu cần đến lòng thương của anh. Nó mắc bẫy nhưng không biết hoặc biết mà vẫn thích thú vì được vào bẫy. Mắt em là cái bẫy thần tiên…"
Hoài không hỏi nữa, nàng ngả đầu vào vai tình lang. Hai người đứng lại. Tuấn giơ tay vuốt nhẹm mớ tóc mướt như tơ. Chàng lại nhìn bờ sông bên kia. Tại sao hoạt-động-trường của ý tưởng lại mênh mông và rắc rối đến thế? Tuấn hơi bực mình vì cái trạng thái ngông nghênh của liên tưởng và của trí tưởng tượng. Từ đôi mắt đến hình ảnh một cái bẫy thần tiên, sự kiện này thật kỳ quặc. Nó vô lý mà giả dáng hữu lý, sai lạc mà đẹp đẽ, vô ích mà hầu như cần thiết. Cái hữu lý, đẹp đẽ và cần thiết ấy được thể hiện rõ ràng trong nụ cười của Hoài. Tuấn không hối hận gì về sự dối trá của mình.
Hai kẻ yêu nhau lại đi theo men bờ sông. Giữa cảnh thanh vắng, buổi chiều bên dòng nước chảy xuôi mỗi lúc một thêm tiêu sái. Gió mạnh hơn lên làm bay tà áo Hoài. Đám cỏ xơ xác dưới chân hai người khẽ run rẩy. Từng đợt rong xanh đậm lập lờ gần bờ. Dăm cây ô môi gần đấy lả lay ngọn lá cao vút vuốt ve nền trời trắng. Bên kia sông cảnh vật không hề thay đổi. Vẫn chỉ có màu cây quyện lấy màu đất. Một thân dừa lẻ loi ngả mình xuống mặt nước. Nó đã đứng đấy tự bao giờ và hình như muốn chờ đợi một cái gì sẽ từ đáy sông chuồi lên chăng. Cái dáng dấp cô độc ấy có một sắc thái bất bình kín đáo.
Hoài vẫn đi bên Tuấn. Họ không cầm tay nữa. Thân thể hai người rời xa nhau hơn. Bước chân đi quen thuộc, tự nhiên vì họ đã đi với nhau nhiều lần. Ngàn vạn bước đi đã hòa nhịp trên những ngả đường khác nhau. Sát bờ sông, đất dưới chân trở nên thẫm màu và yếu ớt. Tuấn để tầm mắt chạy dọc theo làn nước. Ở khúc rẽ xa xa thấp thoáng một cánh buồm trắng đục. Tuấn giơ tay chỉ cánh buồm, bảo Hoài:
"Đằng kia có một con thuyền".
Hoài ngửng đầu cao hơn, giọng nàng vẫn êm nhẹ:
"Em thấy nó trước anh. Em ưa màu trắng nên thích những cánh buồm trắng. Đố anh biết nó nói gì? Nó đọc lại cho em nghe hai câu thơ của Valéry:
Ce toit tranquille, où marchent des colombes, Entre les pins palpite, entre les tombes…". Tuấn nhìn Hoài cảm thông. Chàng nói:
"Chỉ tiếc là ở gần đây không có một nghĩa địa. Nhưng anh chợt nghĩ ra một điều hơi lạ: chừng bảy, tám năm trước đây, anh đã có lần đứng một mình ở bãi than Quảng Yên trong một buổi chiều quạnh quẽ để ngắm dòng sông Bạch Đằng. Hôm ấy anh cũng đã rung động vì một cánh buồm trắng lẻ loi. Hôm nay đây, đứng bên dòng sông này với em, anh lại thấy cánh buồm trắng với niềm cảm xúc xa xưa ấy. Bảy, tám năm qua nhưng hai cánh buồm vẫn chỉ là một. Ngày hôm nay vẫn là ngày hôm ấy. Cuộc sống của muôn loài hình như không có thời gian. Danh từ thời gian phải chăng chỉ là ký hiệu của một ý niệm vô lý và rỗng tuếch…"
Hoài cãi lại thật dịu dàng:
"Em không nghĩ giống anh; em vẫn quan niệm được thời gian. Chắc anh hiểu tại sao em ưa đọc sách của Proust hay của Virginia Woolf. Em muốn theo họ đi ngược lại dòng thời gian hầu tìm lại chuỗi ngày cũ. Cách đây bảy, tám năm em chỉ là một cô gái mới lớn, tóc buông lơi xuống vai và vẫn còn hay khóc lóc giận dỗi để vòi vĩnh thầy me em. Bây giờ em khác trước nhiều và em có anh bên cạnh. Ngày ấy em đâu có anh. Thời gian khiến em già hơn nhưng nó mang anh tới cho em để đền bù lại…"
Ngừng một lát, Hoài lại nói tiếp nhưng bằng một giọng đùa cợt:
"Anh tiếc là gần đây không có một ngôi nghĩa địa cho hai câu thơ của Valéry hả? Có đấy chứ! Một khoảng tâm hồn em là một nghĩa địa. Nơi này đã chôn vùi biết bao kỷ niệm vui buồn, biết bao hình ảnh của những năm qua, nhất là của tuổi thơ ấu…"
Hoài không nói nữa. Đột nhiên nàng thẹn thùng vì thấy lời nói của mình thiếu tự nhiên đến kiểu cách. Tuấn với tay ôm lấy nàng. Cử chỉ này thay cho lời nói vì Tuấn chỉ lặng lẽ cười. Chàng nhìn vào mặt người yêu và thấy bộ mặt đó hơi ngửa về sau. Gã thanh niên khẽ xoay người, luồn hai tay vào mái tóc cô thiếu nữ rồi hôn vào đôi môi có phủ lớp son mỏng. Thân thể nàng mềm đi và thế đứng mất cả thăng bằng. Cái hôn không dài nhưng đủ ma lực tạo nên một sức giao cảm say sưa. Rút hai bàn tay khỏi mớ tóc, Tuấn quay lại nhìn dòng sông và còn nghe thấy sự đê mê chuyển trong thân thể. Tuấn nhận ra là chàng đã hôn Hoài nhiều lần. Nhưng tới một ngàn lẻ một cái hôn rồi, mà sao chàng vẫn thấy say sưa. Vẫn con người ấy, vẫn đôi môi ấy, nhưng mỗi lần chàng hôn nàng, Hoài hình như biến thành con người mới.
Rồi phút xao động cũng qua đi, hai người lặng lẽ nhìn cảnh vật. Cánh buồm trắng đã tới trước mặt. Bác lái đứng ở đầu thuyền. Bác mặc quần dài đen, mình để trần. Khuôn mặt nâu hướng về hai kẻ thành thị. Bác nghĩ về Tuấn và Hoài? Làm sao mà biết được. Tuấn nhìn con thuyền lềnh bềnh trôi trên mặt sông. Thuyền đi, nước cũng đi. Thuyền chắc sẽ trở lại nhưng dòng nước hôm nay không biết có trở lại nữa không. Có lẽ chúng cũng sẽ trở về nhưng không nguyên vẹn. Một phần sẽ hòa với biển cả để rồi sẽ tình cờ tái ngộ với bờ sông từng chút một. Chảy đi rồi chảy về, dòng luân lưu của con sông một ngày một khác nhau nhưng cảnh sông tưởng như chỉ thay đổi rất chậm chạp. Sự di chuyển của dòng nước này có thể phức tạp đến thế hay sao?
Tuấn và Hoài đi tới một gốc cây lạ. Thân cây to lớn mọc gần bờ và ngả choãi về phía bãi. Tuấn rút mù xoa trải xuống một mô rễ để Hoài ngồi. Chàng ngồi bên nàng, trên chiếc khăn tay nàng vừa trải đáp lại. Tuấn dựa mình vào thân cây, vòng tay qua lưng Hoài. Hoài hơi xoay lưng tựa vào sườn Tuấn, đầu ngả xuống vai người tình. Một luồng rạo rực chạy mau trong cơ thể Tuấn. Có lẽ Hoài cũng rạo rực như vậy nên má nàng hồng hào, da thịt nóng hơn và hơi thở mạnh hơn. Tuấn dùng bàn tay vuốt nhẹ vào mái tóc mềm mại và chiếc cằm mịn màng của Hoài. Nàng khẽ cắn vào mấy ngón tay Tuấn…
Tuấn thì thầm gọi:
"Hoài ơi!"
Tiếng gọi hết sức nhỏ nhưng Hoài vẫn nghe rõ. Nàng ơi một tiếng bằng hơi thở, ngửa mặt nhìn lên mặt Tuấn. Tuấn lại gọi:
"Hoài ơi!"
Lần này người con gái không ơi nữa, nàng thì thầm bằng một thứ câu hỏi:
"Cái gì?"
"Anh yêu em".
Hoài đáp lại bằng đuôi mắt sáng long lanh của nàng.
Tuấn nhắc lại lời vừa thốt:
"Anh yêu em".
Hoài khẽ mở rộng đôi môi, chun mũi lại, rồi ghé răng cắn vào tai Tuấn. Mấy hạt răng trắng bóng khẽ nhằn vào chỗ thịt mềm nhất. Nàng thở vào tai tình lang:
"Biết rồi, biết rồi, nhưng anh đừng nói nhiều quá thế làm em sợ".
"Em sợ gì?"
"Sợ rằng một ngày kia anh sẽ ghét em, sẽ bỏ em để đi với người khác".
Tuấn im lặng, khẽ bĩu môi và lắc đầu. Hoài gần như nói hộ Tuấn, giọng nàng nửa đùa nửa thật:
"Anh đừng hòng đi với cô khác. Anh sẽ vĩnh viễn trọn vẹn là của em. Anh yêu người khác em sẽ giết anh".
Khi gần hết câu, Hoài giả bộ cắn chặt răng, cau đôi mày rồi xòe bàn tay khẽ chọc thẳng mấy ngón tay vào ngực Tuấn. Tuấn nhếch mép cười. Hoài ngồi thẳng lên:
"Các cụ chúng ta vẫn thường dùng câu quen hơi bén tiếng. Từ khi yêu anh, em mới biết rõ cái giá trị của câu ấy. Những lúc xa anh, em thường vẫn thấy uể oải, bồn chồn vì thiếu hơi người và thiếu tiếng nói của anh. Anh là sự sống của em…"
"Và em cũng là nguồn sống của anh. Chúng ta cần có nhau. Thiếu em không biết rồi cuộc đời anh ra sao…"
Tuấn định nói nữa nhưng lại thôi, vì anh tưởng như đã tìm thấy ngay lời giải đáp cho nỗi thắc mắc này. Anh ngồi nhích ra cho khỏi mỏi. Một điếu thuốc Cotab được giắt vào môi anh. Cây diêm xòe lửa. Khói trắng bay lên và tan ngay trong gió.
Trước khi gặp Hoài, Tuấn đã yêu nhiều thiếu nữ khác. Anh vốn đa tình. Từ mười bảy tuổi đã bắt đầu lảo đảo trong trường yêu đương và trường thi cử. Hẹn hò với gái nhiều quá thì đâu còn thì giờ để học hành; mà lười học tất nhiên hay hỏng thi. Để đạt mục tiêu về khoa cử, Tuấn đã phải học lâu hơn những bạn hữu khác mấy năm. Lỗ mất mấy năm nhưng lại đạt nhiều kinh nghiệm về cuộc đời, nhất là trong địa hạt ái tình. Thuở thanh xuân của Tuấn thật sôi nổi. Năm đang theo lớp đệ tam, Tuấn bị đuổi khỏi trường công vì anh bướng bỉnh, hay trốn học và nhất là đã ngổ ngáo ném thư tình cho một cô trong lớp. Chẳng những không thèm đáp lại tiếng lòng của gã thiếu niên si tình ấy, giai nhân đã đem bức thư trình với ông hiệu trưởng. Ông hiệu trưởng bèn họp một vài nhân vật có thẩm quyền lại để định lại thái độ đối với tên học trò hư hỏng. Không được học trường công thì học trường tư. Nhưng trường tư cũng không dung cho tên đãng tử này. Lý do vì Tuấn luôn luôn thiếu tiền học phí. Mỗi tháng ông bố làm công chức ở Quảng Yên gửi về Hà Nội cho con trai đủ tiền ăn học. Ông con chỉ trả tiền ăn chứ ít khi trả tiền học. Thằng bé mới lớn phải chi phí quá nhiều vào việc yêu đương. Gã lao đao vì đàn bà. Yêu nhiều thì tốn kém nhiều. Kẻ nào đã từng yêu tất phải công nhận điều đó.
Người ta bảo mối tình đầu là mối tình say đắm nhất. Tuấn không tin thế vì đến mối tình thứ mấy, Tuấn mới biết mùi vị nồng nàn của ái tình. Ngày ấy Tuấn gặp Trâm. Hai đứa yêu nhau. Tuấn hai mươi bốn tuổi còn Trâm mới mười chín. Nàng là học sinh lớp đệ tứ còn chàng theo học lớp dự bị ban văn khoa đại học. Tuấn yêu Trâm một cách điên cuồng. Có một buổi trưa Tuấn hẹn ba giờ chiều mai đi chơi với Trâm. Và suốt hai mươi bảy tiếng đồng hồ, Tuấn quên cả giờ ngủ để chờ giờ hẹn. Gã sinh viên thức trắng đêm, liên miên hút thuốc lá. Chiều hôm sau, khi vào ngồi trong rạp ciné với Trâm, Tuấn thấy thân thể rã rời vì mệt mỏi. Vào khoảng giữa phim, Tuấn ngả đầu xuống vai Trâm mà ngủ.
Chưa được một năm thì mối tình giữa Tuấn và Trâm tan vỡ. Không phải vì Tuấn bỏ Trâm mà vì Trâm bỏ Tuấn. Cô bé vừa trẻ, vừa đẹp, tính nết đang độ lông bông hay thay đổi. Cái chuyện chán người cũ âu cũng là chuyện thường. Chỉ có Tuấn là buồn. Gã đau khổ ra mặt, tưởng như mối hận lòng này chẳng bao giờ nguôi được. Nhưng chỉ ít lâu sau nỗi đau khổ của Tuấn cũng dịu hẳn đi. Thiếu đôi mắt này lại có đôi mắt khác. Mất đôi môi này lại tìm được đôi môi nồng đượm hơn. Đến khi gặp Hoài, Tuấn quên Trâm. Bên cạnh Hoài, hình ảnh Trâm cũng như những hình ảnh của Hương, của Yến, của Thanh, của Băng, của Ngà… khi xưa chỉ còn là những cái bóng mờ, rất mờ, thấp thoáng khi ẩn khi hiện. Ấy là không kể đến một số hình ảnh đã lặn mất tăm…
Tuấn bỗng nhiên cười thầm: dạo trước khi ngồi bên Trâm, chàng cũng đã từng bảo Trâm rằng: "Này em, nếu thiếu em đời anh chắc chắn sẽ không còn nghĩa lý gì". Và Trâm cũng đã từng bảo Tuấn: "Anh ơi, thiếu anh em sẽ chết". Thì ra, trong lúc âu yếm nhau, người ta thường nóng đầu nên hay bạo miệng.
Nhưng Tuấn bỗng đăm đăm ngó Hoài. Chàng thấy Hoài khác với tất cả những người đàn bà đã đi qua đời chàng. Dưới những cặp mắt khách quan, có lẽ Hoài không đẹp đẽ gì lắm. Nàng cao và mảnh khảnh. Trừ làn da mịn màng với đôi mắt vừa huyền ảo vừa say đắm, bộ mặt Hoài không có gì mỹ miều. Tuấn yêu Hoài vì tâm hồn nàng đa cảm tột độ. Đó là một thiếu nữ nhiều đam mê và dám yêu với tất cả cõi lòng. Khi yêu nàng không hề do dự, không hề mặc cả. Hoài khôn khéo, tế nhị nhưng liều lĩnh. Nàng không thể dè sẻn về tình cảm nên lòng yêu của người đàn bà này đổ mạnh như thác nước; ở lòng thác, nước xoáy thành những hố sâu để bảo vệ tình yêu, nàng đã làm những chuyện rất ít người đàn bà dám làm. Đôi lúc Tuấn sợ hãi và mường tượng về tâm hồn Hoài vì chàng bị ngợp dưới một bầu trời lộng gió, cao và xa đến vô cùng… Hoài với Trâm khác nhau hẳn. Trâm biểu dương cho cái đẹp vô hồn của một pho tượng tuyệt mỹ bằng cẩm thạch. Hoài biểu dương cho cái mênh mông của sự rung động. Những âm ba rung cảm ấy lan rộng bát ngát. Không biết có nên đưa trường hợp Trâm cũng như các thiếu nữ khác đã từng nằm trong tay Tuấn ra làm loại suy cho trường hợp Hoài không? Có thể là không.
Giọng Hoài nũng nịu bên tai Tuấn:
"Anh nghĩ gì thế?"
"Anh nghĩ về em".
"Nghĩ gì về em?"
Tuấn lại bối rối. Hoài có thói quen hay đặt câu hỏi. Nàng nhắc lại:
"Nghĩ gì về em?"
"Anh tự hỏi tại sao anh yêu em và em yêu anh".
"Như vậy anh nghĩ về cả hai đứa chứ đâu chỉ nghĩ đến riêng em. Thế tại sao anh yêu em?"
Tuấn không trả lời nữa, khẽ tát yêu vào má Hoài, nhắc lại đầu đề một cuốn phim Pháp chiếu ở Saigon cách đây ít lâu:
Sois belle et tais-toi! Buổi chiều bên sông hạ nền trời xuống thấp. Dòng nước loang loáng trôi. Dăm ba cánh buồm lướt nhẹ trong dáng điệu kiên nhẫn, bình thản. Gió thổi mạnh hơn phả vào khí trời cái gây gấy lành lạnh của cảnh sắc cô tịch. Những cánh chim vội vã bay, vạch các đường vô hình vào không gian. Thỉnh thoảng có con ném lại vài tiếng kêu tuy yếu ớt nhưng vẫn đượm một vẻ giận dỗi, khắc khoải. Lũ chim này đang bay về tổ. Ngày ngày, chúng đi rồi về. Từng lớp cánh mỏng run rẩy ở lưng chừng trời. Có con bay xuôi dòng sông, có con bay ngược lại, có con lao qua hai bờ đất. Lối bay chằng chịt các ngả vì loài có cánh ấy xây tổ khắp bốn phương. Sự sống của chúng hiện hình trong cái đà xê dịch loanh quanh, chẳng khác gì sự sinh hoạt của giống người.
Từ một phía chân trời, vài đợt mây xám nhô ra, mang hơi nước tới. Khí lạnh sẽ khiến cho mưa rơi xuống. Vừa lúc trưa trời nắng nhưng bây giờ sắp mưa. Từ nắng đến mưa không có gì ngăn cách cả.
Hoài tháo giày, đứng lên khỏi gốc cây rồi chạy ra sát mé sông. Ở gần bờ, vài cánh hoa ô môi dập dờn trên làn nước đục ngầu. Hoài bảo Tuấn:
"Có mấy cánh hoa đẹp bị rớt xuống nước. Em lội xuống vớt chúng lên nhé".
Tuấn vẫn ngồi hút thuốc lá dưới gốc cây. Giọng chàng thoáng nét e ngại:
"Cẩn thận đấy kẻo ướt hết. Thường có nhiều chỗ nước sâu ngay gần bờ".
Hoài vén quần khỏi mắt cá chân, khẽ đặt bàn chân xuống nước dò xét rồi từ từ lần ra, đón trước lối di chuyển của những cánh ô môi. Hai ống quần nhích cao hơn; một ống lên quá đầu gối. Tuấn ngồi im lìm dưới gốc cây, ép mạnh đôi môi và điếu thuốc lá. Khói đục cuồn cuộn tuôn ra từ hai ống mũi,
Nước ngập đến lưng chừng bắp chân Hoài. Chất lỏng đục ngầu xao động quanh lớp da trắng xanh. Toàn thân run run, Hoài cúi xuống vờn một tay theo một cánh ô môi nhưng bắt trượt nó. Nàng đứng thẳng người lên, khẽ nheo cặp mắt chờ những cánh hoa sau. Một phía sườn của thân hình nàng hướng về chỗ Tuấn ngồi. Sau lớp áo trắng, ngực nàng nhô ra làm nổi bật một hình vòng cung trên nền cây xanh mờ ảo bên kia bờ sông. Hơi thở Tuấn nhẹ hẳn đi. Điếu thuốc lá cháy quá nửa khẽ run run trong mấy ngón tay lơ đãng trỏ ngang. Gã đàn ông bàng hoàng trước một vẻ đẹp khêu gợi bất ngờ như vậy. Lần lượt, gã đăm đăm nhìn đôi ống chân trần trụi và bộ ngực phập phồng của kẻ đang đứng trước mặt. Người Hoài chừng đang tỏa ra một làn khói rất mỏng manh, rất mơ hồ. Hiện tượng ma quái này khiến Tuấn rùng mình và thú tính đột nhiên thức tỉnh rên la trong người gã. Thoáng trong mấy giây đồng hồ, gã muốn chạy xuống sông bế cô gái kia lên bờ và lột bỏ lớp áo quần vướng víu bọc ngoài thân thể nàng…
Nhưng Tuấn trấn tĩnh ngay được. Chàng thở thật mạnh, quay mặt đi, móc điếu thuốc lá khác. Không hiểu vì gió thổi hay vì những ngón tay run mà lửa diêm xòe tới hai lần điếu thuốc vẫn chưa cháy.
Thần kinh Tuấn dần trở lại tình trạng bình thường, Tuấn cười khẽ, thong thả vuốt một ngón tay vào sống mũi mình. Chàng đã từng nhiều lần nằm bên đàn bà để nghe cái đê mê từ da thịt họ chuyển sang da thịt mình. Những trường hợp đó xảy ra rất tự nhiên, tự nhiên đến gần như không có gì đáng chỉ trích. Khoảng mười hai, mười ba tuổi, Tuấn được chứng kiến cảnh ái ân của một cặp Tây đầm bên gác hàng xóm. Ông Tây sống cô độc một mình nhưng thỉnh thoảng lại có bà đầm đến thăm. Lúc bấy giờ đêm đã khuya khoắt, nhà Tuấn có một sân thượng cao và cặp đào kép ngoại quốc không hiểu sao đêm đó khinh suất cứ để đèn điện sáng choang mà không thèm đóng cửa sổ. Từ vụ ấy, thằng Tuấn luôn luôn thắc mắc về những hình ảnh, những cử động kỳ cục, quái dị kia. Nó đang độ ngây thơ, hiền lành nên vẫn mơ hồ nghĩ rằng đó là tội lỗi, là những chuyện xấu xa, dơ dáy. Mặc cảm này ám ảnh nó suốt ba bốn năm trời. Mối tình đầu tiên của nó sạch sẽ, thanh cao lắm. Hai đứa chỉ nhớ nhau, gặp nhau, nhìn nhau và trò chuyện suông, thế thôi. Tuấn không hề dám động vào người con bé sợ nó giận hay khinh Tuấn. Mãi về sau này, khi hai đứa sắp phải xa nhau vì hoàn cảnh gia đình, Tuấn mới dám cầm lấy tay, đỡ lấy lưng hoặc đôi ba lần hôn nhẹ vào má người tình.
Hôm đầu tiên theo ông anh họ đi Khâm Thiên, khi được nằm chung chăn với một đào hát, Tuấn run quá, người nóng bừng như lên cơn sốt. Ả giang hồ phải phì cười vì những cử chỉ lúng túng ngượng ngập của ông quan viên nhãi con. Nhưng từ sau đêm hành lạc tập sự này, mặc cảm tội lỗi của Tuấn bị nứt rạn rồi dần tan rã. Ngạc nhiên, khi có dịp thuận tiện, Tuấn đương nhiên làm lại những động tác ông Tây hàng xóm đã làm. Đấy chỉ là nhu cầu tự nhiên. Tự cổ chí kim tự đông sang tây, hầu hết loài nngười đều cần thỏa mãn nhu cầu đó. Từ đời ông Adam cho đến đời Tuấn, giống đực và giống cái vẫn tồn tại trên cõi đời này và vẫn bám chặt lấy nhau như kim loại bám vào đá nam châm.
Nhưng dầu sao đi nữa, Tuấn thường phải dằn thú tính của chàng lại vì chàng không muốn có những cử chỉ đột ngột, sỗ sàng vì nhân sinh quan của nàng có lẽ không giống với nhân sinh quan của Tuấn. Người con gái ấy còn bị ràng buộc bởi một thứ luân lý công thức. Những khi đi với Tuấn mà gặp một người quen, Hoài vẫn bẽn lẽn ngượng ngập thế nào. Dĩ nhiên, có những trường hợp, Hoài thẹn thò cả với Tuấn. Vả chăng, Hoài muốn dành một cái gì đặc biệt cho đêm tân hôn. Yêu Hoài, Tuấn muốn gò quan niệm sống của mình cho ăn khớp với quan niệm sống của Hoài. Đó là một sự hy sinh êm ái, đẹp đẽ biết bao.
Thật tình Tuấn muốn sống mãi bên Hoài vì chàng đã bắt đầu chán nản trước cuộc sống lông bông với những mối tình tạm bợ. Qua bao nhiêu đợt sóng trùng dương, khi tới một bến nước đầy cảnh sắc lạ lùng, gã thủy thủ đột nhiên muốn ở lại đất liền mãi mãi. Ở đây vẫn được hưởng gió mặn nồng, vẫn nhìn thấy biển khơi, nhưng lối sống hẳn có sự thay đổi. Tuấn vui lòng với sự thay đổi đó. Chắc hẳn cuộc đời sẽ bình yên hơn, sẽ đỡ mệt mỏi hơn. Tuấn đã thấy cần được nghỉ ngơi.
Rồi một ngày kia, gã thủy thủ có lại đi theo tiếng gọi của sông nước hay không. Điều đó không thể biết trước được. Nó tùy thuộc vào sức quyến rũ và mãnh lực ràng buộc của đất liền. Tuy nhiên hiện nay, gã mơ hồ nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ gã có thể dời bỏ cái bến nước tuyệt diệu này được.
Hoài đã vớt được mười cánh hoa. Nàng chạy lại ngồi bên Tuấn như cũ, thong thả xếp hoa vào ví tay. Tuy biết trước câu trả lời, Tuấn vẫn hỏi:
"Em lấy những cánh hoa ấy làm gì?"
"Em sẽ ép chúng vào sách rồi thỉnh thoảng rút chúng ra xem để nhớ đến cuộc đi chơi hôm nay".
Trời bắt đầu tối khi những đám mây đen kéo đến gần đỉnh trời. Gió chiều lạnh hơn và cảnh vật bên kia sông mờ hẳn đi. Dòng sông vẫn cuồn cuộn trôi. Mặt nước xám lại, mất hẳn vẻ bóng bẩy. Xa xa mấy cánh buồm mờ ảo lặn dần trong màu chiều. Và màu chiều được tạo ra do sự hôn phối giữa bóng tối và ánh sáng.
Rời bỏ ven sông, Tuấn và Hoài dắt tay nhau qua bãi cỏ hoang. Cách đây mấy giờ họ đã từ thành phố đi ra bờ sông; lúc này họ lại từ bỏ bờ sông trở về thành phố. Tuấn khẽ đọc bên tai Hoài một câu thơ chàng vốn ưa thích:
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em… Gần đến chỗ để xe vespa, Hoài chợt dừng lại nũng nịu:
"Chỗ này đất gồ ghề khó đi quá, anh bế em đến xe".
Tuấn bế Hoài lên. Hoài vòng tay qua cổ chàng. Hai đôi môi tìm nhau trong khi Tuấn vẫn chập chững bước đi. Đột nhiên Tuấn cắn nhẹ vào vai Hoài. Bị nhột, cả thân thể người con gái giãy giụa trong hai cánh tay người yêu… Đến bên xe, Hoài đòi xuống và Tuấn nhẹ nhàng đặt nàng ngồi lên yên sau. Chiếc vespa rồ máy, chạy trên một quãng đường đất nhỏ rồi lên đường cái. Hoài ôm chặt lấy Tuấn, ép má vào lưng chàng. Xe lao vút giữa hai cánh đồng lúa thẫm đen. Ánh đèn pha xuyên cắm vào đêm tối rồi liếm nhanh xuống măt nhựa.
1960 Bài học đầu tiên Tôi thong thả đi trên đại lộ, tay đút trong hai túi áo. Từng ngọn đèn đêm nằm thấp thoáng sau những chòm lá, đổ ánh sáng yếu ớt xuống mặt đường. Saigon những đêm mưa gió thường có cái dáng yên tĩnh, trầm mặc. Tôi dừng lại bên một gốc cây, xòe diêm châm thuốc lá. Vào những đêm mưa gió nhẹ tôi thường khó lòng ở nhà được. Con người ta hình như mỗi người có một cái đam mê kỳ quái. Sự đam mê của tôi là khoác áo mưa đi bộ hàng mấy giờ liền trong những đêm u ám mà hút thuốc lá vô hồi kỳ trận.
Trong những chòm cây thẫm đen, gió đêm vẫn xào xạc khiến những giọt nước đọng trên các nhành lá rơi không ngừng xuống người tôi. Tôi giơ tay lên vuốt tóc. Đầu tóc tôi đã ướt đẫm.
Đôi chân tôi vẫn chuyển dịch theo một động lực của bản năng. Sự suy tưởng trong tâm hồn tôi hoạt động không theo một hệ thống nao cả. Tôi nghĩ miên man hết chuyện nọ sang chuyện kia. Kể ra, nghĩ ngợi lăng nhăng như thế cũng là một cái thú. Đến ngã ba, tôi rẽ vào một con đường nhỏ. Từ một đại lộ rộng lớn bước vào con đường hẹp này, tôi đột nhiên có một cảm giác mới lạ, khung cảnh ở đây dường như có vẻ thân mật êm ái hơn. Tôi dừng lại một chút để bước chân khỏi khua động mặt đường, ngõ hầu có đủ tịch mịch để nghe ngóng sự thay đổi của cảm giác. Con đường nhỏ này không còn bờ hè mà chỉ có đường trải nhựa. Hai dãy nhà hai bên đến gần tôi hơn. Đường này không có cột điện nhưng cảnh vật không đến nỗi tối tăm nhờ những ánh đèn từ các cửa kính chiếu ra ngoài.
Một chiếc Vespa xuất hiện ở cuối đường tiến nhanh về phía tôi. Ánh đèn pha liếm xuống mặt đường. Chiếc xe lướt qua tôi thật nhanh nhưng tôi cũng kịp nhìn thấy trên xe có hai người, một gã đàn ông và một người đàn bà. Cả hai đều mặc áo mưa nhưng người đàn bà ngồi ở yên sau không quên ôm chặt lấy gã đàn ông. Họ là một đôi vợ chồng hay một cặp tình nhân? Tôi vẩn vơ nghĩ đến hai kẻ xa lạ đó. Không biết lúc này ngồi gần bên nhau họ có hạnh phúc không nhưng chắc chắn họ không cô độc như tôi. Tôi rít mạnh một hơi thuốc lá, phà khói vào lòng đêm, tiếp tục chuyển bước và nghe tiếng giày của mình giẫm lên mặt nhựa. Tiếng giày lúc này yếu ớt hẳn đi, có lẽ vì nhựa đường mềm hơn hè xi măng và vì đế giày tôi đã ngấm nhiều nước hơn trước.
Đi đến giữa phố tôi bỗng dừng lại một lần nữa. Lần này cảm giác của tôi vụt thay đổi một cách rõ rệt hơn vì trong gió nhẹ đưa tôi thoáng nghe thấy một điệu đàn vĩ cầm. Bảo là một điệu đàn e không đúng vì kẻ sử dụng đàn chỉ là một người mới tập. Mấy dây đàn tội nghiệp đang tức tối dưới chiếc archer. Những âm thanh phát ra không ngọt ngào một chút nào. Có thể nói là chúng đang gắt gỏng hậm hực với nhau. Tiếng đàn khiến tôi bật lên một tiếng cười khẽ vụt nhớ đến cô đào Audrey Hepburn trong phim
Ariane. Lúc xem phim này tôi ưa nhất những dáng điệu của cô trong những "pha" cô ngồi tập kéo đại vĩ cầm. Do đấy những lúc này tôi cứ đinh ninh rằng kẻ đang tập kéo vĩ cầm kia là một tiểu thơ vừa đẹp vừa duyên dáng. Tôi đã đến bên hàng giậu trước nhà
nàng nhưng tôi không nhìn thấy bóng dáng
nàng. Tiếng đàn vang ra từ một cửa sổ đóng kín.
Cô bé có lẽ say mê cây đàn của mình lắm. Trong bài tập của cô, các nốt đàn xuống xuống lên lên hoài với đầy sức nhẫn nại. Chừng nửa năm nữa nếu còn có dịp qua đây chắc tôi sẽ có thể nghe
nàng kéo đàn như một nhạc sĩ hẳn hoi. Tôi lại nhớ đến phim
Ariane nhưng lần này tôi nghĩ tới mấy gã nhạc sĩ tzgiane nhiều hơn. Nếu tôi không quên được nét mặt của Audrey khi nàng ngồi tập kéo đại vĩ cầm thì tôi cũng không thể quên những lúc mấy gã tzgiane tấu đàn cho Gary Cooper tán gái. Tiếng vĩ cầm của bọn nghệ sĩ giang hồ đó quả là đầy sức truyền cảm dễ mê hoặc lòng người. Thế rồi trong óc tôi, giữa hình ảnh mấy nhạc sĩ tzgiane trong phim Ariane, bỗng hiện ra một hình ảnh khác của một nhân vật xa xưa mà tôi được biết từ lúc còn nhỏ tuổi. Nhân vật đó cũng là một ban nhạc ở khách sạn Coq d’or ở Hà Nội khi tôi hãy còn là một đứa bé con đang theo học lớp ê-lê-măng-te… Mỗi lần nghĩ đến gã tâm hồn tôi thường man mác một mối cảm hoài nhè nhẹ vì hình ảnh gã khiến tôi không thể nào không nghĩ đến cả một khoảng dĩ vãng xa xôi… Con đường vắng trước mặt tôi đêm nay vụt trở nên dài hun hút. Nhìn vào chiếc cửa sổ đóng kín trước mặt tôi thầm từ biệt
người con gái kéo đàn để tiếp tục bước đi với hình bóng gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or và cả một thời xa xưa trong tâm tưởng. Khi tôi biết gã, tôi mới chưa quá mười ba tuổi. Cuộc đời tôi trong quãng thời gian ấy có một kỷ niệm đặc biệt mà tôi không bao giờ có thể quên được. Vô tình trong đêm nay hình ảnh cũ của gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or đã một lần nữa gợi ra cái kỷ niệm kỳ diệu ấy của một thời đã mất. Đó là kỷ niệm giữa tôi với bà phán K…, người đã dạy tôi bài học đầu tiên. Trong hoạt động của liên tưởng,
người con gái tập kéo vĩ cầm đã gợi lại cho tôi Audrey và mấy gã tzgiane: Audrey và mấy gã đó gợi lại cho tôi anh chàng nhạc sĩ tiệm Coq d’or, và anh chàng này gợi về cho tôi bà phán K… ở giữa nhiều nhân vật khác.
Mẹ tôi chết từ khi tôi lên tám tuổi. Người qua đời trong một phòng bệnh ở nhà thương Phủ Doãn. Lúc người hấp hối, tôi và đứa em nhỏ đứng bên giường. Người lớn đưa chúng tôi đến đó. Thấy ai nấy sụt sịt khóc chúng tôi cũng sụt sịt khóc. Những giọt nước mắt trẻ con chảy ra một cách vu vơ. Chúng tôi nào đã biết thương tiếc là gì, nào đã hiểu rằng chết tức là từ biệt những người thân yêu mãi mãi để về với lòng đất mà làm mồi cho dòi bọ… Chúng tôi trở thành những đứa bé mồ côi mẹ. Đáng lẽ cha tôi phải đích thân coi sóc tôi nhưng vì người vốn phóng khoáng bừa bãi nên sự coi sóc đó gần như không có. Ban ngày cha tôi đến sở làm việc, nhưng tối tối ông đến nhà các bạn hữu đánh bài đến khuya. Có nhiều đêm ông không về nhà. Công việc gia đình gần như nằm trong tay một anh bếp.
Tôi vẫn còn nhớ hình dáng, điệu bộ và tính tình anh bếp này. Tên anh là Cẩm. Người anh to lớn, nước da ngăm đen. Ai gặp anh tất nhiên phải để ý ngay đến đôi tai anh, to và vểnh. Chiếc mũi anh trông cũng nghịch lạ. Nó hếch lên một cách rất ngạo đời kéo theo cả cái môi trên khiến cho hàm răng hô có cơ hội xuất hiện thường xuyên. Cả ngày anh không nói một câu, chỉ lầm lì làm việc, lầm lì ăn rồi ngủ. Cho đến bây giờ nhiều khi nghĩ đến anh tôi vẫn không thể hiểu được là sống ở trên đời này, anh ta cảm thấy mình sướng hay khổ. Con người ấy thoạt trông thì thấy chất phác quê mùa nhưng nhìn kỹ thì lại thấy có vẻ thâm trầm, bí mật. Dạo ấy tôi hay bướng bỉnh với anh nhưng vẫn hơi sờ sợ anh. Kể ra tôi sợ anh cũng phải vì tôi có tính ngủ hay gác mà đêm đêm phải ngủ chung giường với anh. Cái tính tệ hại đó thường tùy theo thái độ của tôi đối với anh ngày hôm ấy mà sinh ra kết quả xấu hay tốt. Nếu ban ngày tôi làm anh bất mãn thì nhất định là đêm hôm ấy khi tôi vừa đặt chân lên bụng anh, anh hất nó xuống liền. Có khi anh không ngần ngại dùng bàn tay hộ pháp đập xuống mông đít tôi. Nhiều bận anh đánh đau quá làm tôi choàng thức giấc, chết ê ẩm cả mông mà không dám kêu ca gì. Tôi biết tội tôi lắm. Trái lại, nếu hôm nào tôi tỏ ra ngoan ngoãn với anh thì đêm đó tôi sung sướng như ông hoàng nhỏ. Tha hồ gác, tha hồi giãy; anh bếp kia coi như không có ai nằm bên cạnh anh. Anh chịu đựng đến cái mức độ đôi khi tôi phải lấy làm lạ. Kể ra định sống hòa bình với anh ta không phải là chuyện khó khăn. Muốn làm anh vui lòng tôi chỉ cần tuân theo vài điều kiện: đừng nhảy lên giường trải nệm của cha tôi, đừng vứt giấy hoặc rác bẩn ra sàn đá hoa, đừng lôi trẻ con đến nhà, và nhất là đừng có sờ vào cái đàn bầu của anh treo dưới bếp. Anh bếp Cẩm của tôi biết gảy đàn bầy! Kể cũng lạ, có ai ngờ cái con người tai vểnh mũi hếch như vậy mà cũng dám học đòi nghề ti trúc. Thường thường cứ vài ngày anh lại lôi cây đàn xuống lau chùi cẩn thận. Cây đàn thật đơn giản: bầu đàn làm bằng một cái gáo dừa, thân đàn là một nửa ống nứa sơn xanh, còn cần đàn là một que tre vót nhẵn, vút lên như cái xe điếu ống, dây đàn mỏng tanh bóng loáng. Cả mấy tháng tôi mới thấy anh bật dăm ba tiếng tơ.
Những lúc ấy anh ngồi xếp chân vòng tròn trên phản gỗ, người hơi nghiêng nghiêng. Anh nheo mắt, hếch thêm chiếc mũi, một tay nắm cần đàn vừa uốn lên uốn xuống vừa rung rung theo nhịp que đóm ở tay kia bật phừng phừng vào sợi dây căng thẳng. Đôi khi cao hứng anh còn hát theo tiếng đàn. Giọng anh khô khan, ngắn ngủi. Anh biết có một bài ca độc nhất mà đến nay tôi chỉ còn nhớ được mấy câu đầu:
Trèo lên cây khế nửa ngày, Ai làm chua xót lòng này, khế ơi! Khế chết khế lại mọc chồi… Việc anh bếp Cẩm can thiệp đến đời sống hàng ngày của tôi quanh đi quẩn lại chỉ liên hệ đến mấy điều kiện như tôi vừa kể. Ngoài ra anh sống theo lối sống của anh, tôi sống theo lối sống của tôi. Anh đi chợ, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa còn tôi đi học. Trường tôi ở tận phố Hàng Điếu. Tôi không nhớ rõ ngày ngày ở trường tôi có chịu học hành gì không. Chỉ nhớ rằng tôi rất ưa trò xé giấy vở để gấp thuyền và làm tàu bay cũng như chiếm kỷ lục về chép bài phạt, vì ít khi tôi thuộc bài. Cái ông thầy giáo lớp tôi hình như nghiện nghe học trò đọc bài. Ngày nào cũng như ngày nào, thoạt vào đến lớp ông đã gọi một lũ lên trả bài. Hai bên bàn tôn sư, bầy học sinh trẻ ranh đứng thành hàng dài lố nhố như chờ phát chẩn. Mặt đứa nào cũng đăm chiêu lo lắng. Hàng mấy chục cái miệng lầm bầm ôn bài như niệm Phật. Ông thầy ngồi trên bục trước bàn viết, mặt luôn luôn tươi tỉnh, tay mân mê cái thước kẻ gỗ sơn đen. Ông vút học trò một cách rất tự nhiên, rất gọn gàng không một chút ngượng ngập. Việc trả bài được xếp đặt ăn khớp với việc trừng phạt một cách khoa học. Ông thầy này quả thật là thực tế và giàu kinh nghiệm nên không cho phép học trò được khoanh tay khi trả bài. Bất cứ đứa nào, con trai cũng như con gái, mỗi khi trả bài phải đứng sát hẳn vào bàn và đặt một bàn tay úp lên mặt gỗ. Mười đứa trả bài thì đến năm, sáu đứa ăn đòn. Số thước kẻ giáng xuống hình như được định theo một quy lệ bất biến: đọc ngập ngừng, một phát; không thuộc hết bài, hai phát; không thuộc một tí nào, ba phát kèm thêm hai bài chép phạt. Có điều thật kỳ dị là thầy giáo của chúng tôi dữ đòn như vậy mà không bao giờ ông gắt gỏng. Ông vừa đánh vừa nói ngọt như đường phèn:
"Con không thuộc bài hả con? Thầy đánh cho con nhớ nhé!"
"Bài dễ thế mà con ngập ngừng à? Lần sau con chịu khó học kỹ hơn nhé, con!"
"Thế nào, con quên hả? Quên vậy thầy thật buồn lòng. Con không xem thằng Quân đó, bài nào nó cũng đọc trơn làu làu…"
Ông vừa nói vừa cười rất thân mật để lộ ra chiếc răng vàng lóng lánh. Lời của ông thật nhân từ, thật hiền dịu mà ngọn thước của ông không êm ái chút nào. Ông vút khá mạnh và có nghệ thuật. Thước kẻ lúc nào bay xuống cũng hơi nghiêng nghiêng khiến cho cạnh gỗ bập vào tay nạn nhân như một lưỡi dao cùn. Sử dụng thước gỗ như thế thật tài tình, tinh vi hết chỗ nói.
Là thằng học trò chiếm kỷ lục về chép bài phạt dĩ nhiên tôi cũng chiếm kỷ lục về ăn đòn. Hai mu bàn tay bé nhỏ tội nghiệp của tôi đôi lúc sưng lên. Ông giáo khôn lắm, những trường hợp đó ông vẫn đánh tôi một cách bình thản tự nhiên nhưng bắt tôi ngửa tay lên.
Dĩ nhiên tôi không thể nào mến thầy được. Đối với trẻ con, không mến có nghĩa là ghét. Ấy thế mà cái số tôi rõ thật long đong: tôi phải học ông hai năm liền vì năm thứ nhứt tôi rớt kỳ thi Sơ học yếu lược.
Vô tình, tôi trở thành một đứa bé cô độc. Mẹ tôi không còn. Cha tôi vắng nhà luôn. Anh bếp Cẩm với tôi không hợp tính. Em gái tôi còn bé bỏng quá. Chỉ có những thằng học trò cũng lười biếng như tôi là ưa thích tôi. Nhưng tình bạn, nhất là bạn bè trẻ con thì chỉ có thể có tình thân chứ không có tình thương. Tôi cô độc không phải vì thiếu bạn mà vì thiếu tình thương mến đó. Có một dạo ít khi tôi ở nhà. Mỗi khi rời lớp học, tôi đi rong các ngõ ngách để đánh đáo. Tôi chuyên về môn đáo lỗ. không hiểu sao lúc bấy giờ tôi chọi và đục lỗ mả đến như thế. Thật không kém gì xừ Nghiêu Tử bắn cung hoặc cái ông lão trứ danh rót dầu qua lỗ đồng tiền, trong sách cổ. Chúng tôi đánh ăn xèng, tức là những nút chai bằng kim khí đập nhẹp ra, cứ hai mươi xèng đáng giá một xu. Tuy kiếm chác khá giả trong nghề đáo lỗ nhưng có nhiều tối tôi vẫn đến chực tại các quán rượu lớn, đặc biệt là quán Coq d’or ở phố Tràng Tiền để chờ nhặt những nút chai loại hiếm. Tại Coq d’or tôi quen với anh chàng nhạc sĩ kéo vĩ cầm mà tôi đã nói đến ngay ở đầu truyện. Nói là quen cho có vẻ đấy thôi chứ chúng tôi không hề nói chuyện với nhau, bởi lẽ gã nhạc sĩ đâu có thèm để ý tới tôi. Gã còn mải kéo đàn cho Tây, đầm, ôm nhau nhún nhảy. Trái lại, tôi rất để ý tới gã; công việc nhặt nút chai thật nhàn hạ nên tôi có nhiều thì giờ nhận xét về gã. Mặt gã nhỏ bé trắng trẻo, tóc để theo lối "phi lô dốp" dài và bóng mượt, thân thể mảnh khảnh lồng trong bộ tây màu hạt dẻ vào những lúc lạnh trời hoặc một bộ trắng vào những lúc oi bức. Có khi gã mặt sơ mi trần nhưng chẳng bao giờ quên đeo cà vạt. Gã ít nói. Mặt gã lúc nào cũng đượm vẻ buồn buồn. Những khi kéo đàn gã thường đứng dậy, ngoẹo cổ về một bên kẹp cây đàn vào vai một tay nắn phím còn một tay sử dụng archer. Gã thường được thính giả vỗ tay khi độc tấu những bài buồn thảm.
Tuy nghịch ngợm nhưng vốn đa cảm nên tôi cũng thấy lòng rung động mỗi khi nghe tiếng vĩ cầm của gã nỉ non than thở. Có nhiều lúc tôi quen cả nhặt nút chai để ngắm gã kéo đàn. Trông gã đáng yêu biết bao. Nhiều lần tôi tự nhủ khi nào lớn lên tôi cũng sẽ đi học đàn để có thể vào các quán rượu mà kéo những bài sầu thảm như gã… Lúc đã buồn ngủ phải từ biệt vỉa hè quán rượu ra về tôi vẫn còn cảm thấy tiếng đàn ma quái đuổi theo tôi và ám ảnh tôi hoài. Có những đêm tôi nằm mơ thấy mình được đứng trước lũ bạn trong lớp học mà kéo vĩ cầm. Cả ông thầy giáo răng vàng cũng ngồi nghe tôi đờn. Tôi kéo liền một lúc mấy bài. Tiếng đàn của tôi vừa hay vừa buồn khiến cho mấy thằng bạn khóc nức nở. Cả thầy giáo tôi cũng khóc. Ông ôm lấy tôi khen ngợi rồi tỏ ý hối hận vì từ trước đến giờ ông ta đã xử tệ với tôi…
Giữa cái thời kỳ tôi bơ vơ, cô độc, chỉ biết tìm chút an ủi trong thú đánh đáo và thú nghe đàn ấy thì bà phán K… xuất hiện.
Tôi cần nói rõ một chút.
Gia đình tôi dạo ấy trú ngụ trong một căn nhà hai tầng ở ngõ Hội Vũ gần chợ Hàng Da. Thấy chúng tôi ít người mà nhà cửa quá rộng, bạn bè của cha tôi đã giới thiệu hai vợ chồng ông phán K… đến mướn căn gác. Cha tôi bằng lòng.
Ông phán K… đã đứng tuổi. Thân thể ông vừa lùn vừa mập. Mặt tròn trĩnh đầy đặn. Đôi mắt lúc nào cũng lờ đờ như buồn ngủ. Người bà cân đối. Khuôn mặt bầu bầu hơi trái xoan. Đôi mắt tuy long lanh nhưng trông bà vẫn có vẻ dịu dàng trầm tĩnh. Bà ít khi cười nhưng mỗi khi cười, đôi môi xinh xắn lại hé mở để lộ hai hàm răng đều đặn, trắng muốt. Thường những khi tư lự bà ngồi trước bàn nghiêng đầu về một bên, những ngón tay trái thon dài đỡ lấy gò má mịn màng. Đặc biệt nhất là tiếng nói của bà, một thứ giọng nói thong thả, rành rẽ và ấm áp. Dáng đi của bà thật khoan thai, nhẹ nhàng. Hai ông bà phán K… quả là hai sự khác biệt. Bà thanh tao bao nhiêu thì ông bục bịch bấy nhiêu. Vì ông phán đi làm ngày hai buổi nên bà phán thường ở một mình trên gác. Công việc nội trợ đã có một cô sen cáng đáng. Tôi nhận thấy gia đình bà rất ít khách. Trong suốt mấy tháng trời họ ở nhà tôi chỉ một vài lần có người đến thăm nhưng họ đến không được mấy chốc đã cáo biệt ra về. Vì thế, đời sống của bà phán K… rất yên ổn nhàn hạ.
Sau tuần lễ đầu, tôi đã quen thân với bà phán, được bà gọi lên gác luôn để cho bánh kẹo. Tôi khám phá ra một điều đáng chú ý hơn cả là bà phán rất ưa đọc tiểu thuyết. Bà có thể đọc mải mê suốt buổi mà không mệt. Thường thường khi đọc sách bà nằm dài trên chiếc ghế xô-pha trải nệm hoa, đầu kê lên chiếc gối bông thật dày. Một hôm bà gọi tôi lên cho tôi năm xu rồi sai tôi đến hiệu sách ở hàng Bông thuê truyện cho bà. Hai hôm sau bà nhờ tôi đem đổi lấy cuốn khác. Dần dần tôi trở thành tay chuyên đi thuê tiểu thuyết cho bà phán. Bất cứ bà muốn đọc cuốn gì tôi đều đi tìm cho được. Tôi ưa công việc này lắm vì nó cho tôi cơ hội để có thể lên phòng bà luôn luôn. Quen với bà phán rất có lợi. Phòng bà có nhiều bách bích quy nên tôi được ăn luôn; lại nữa bà thường cho tôi tiền, khi ba xu, khi năm xu để đền lại công lao khó nhọc của tôi trong những lúc chạy ngược chạy xuôi tới các nhà sách để tìm thuê sách cho bà. Nhưng những lợi ấy đối với tôi không đáng kể bằng những thú vui tinh thần. Tôi sung sướng được đi thuê sách cho bà vì tôi rất quý mến bà. Tôi rất tự hào mỗi khi tìm thấy một quyển sách khó tìm. Nhìn bà phán thích thú đọc những quyển sách chính tay tôi đi thuê về tôi cũng thích thú lây. Bà ham đọc sách còn tôi rất vui vẻ khi thấy bà ham đọc sách. Chỉ ít lâu sau, tôi gần như trở thành người nhà bà phán, và tôi được bà mặc nhiên cho phép lên phòng bà bất cứ lúc nào. Tuy vậy, không bao giờ tôi lên gác những lúc ông phán K… có nhà. Tôi không ưa ông vì ông không có cảm tình gì với tôi. Ông lớn, tôi nhỏ và người lớn như ông đâu có thèm để ý đến thằng bé con này. Trong thời gian đầu, khi ông mới tới ở nhà tôi, có đôi ba lần tôi lễ phép cúi đầu chào ông nhưng ông chỉ trả lời bằng một cái gật đầu đầy vẻ hững hờ. Hình như ông không ưa những đứa trẻ nghịch ngợm, lười lĩnh, nhem nhuốc như tôi. Do đấy, về sau này, mỗi khi gặp ông tôi không chào nữa, chỉ lảng sang một bên cho ông qua.
Năm tháng sau, đột nhiên ông phán được lệnh nhà nước đổi đi làm việc ở tỉnh khác. Đến ngày lên đường, ông đi trước một mình để bà ở lại Hà Nội. Theo lời cha tôi thì ông phán đi trước như vậy cốt để thu xếp nơi ăn chốn ở tại nơi ông đổi đến, công việc này xong ông sẽ trở về Hà Nội đón vợ đi. Chỉ vì chiều quý vợ nên ông không muốn bà phải lo nghĩ, vất vả trong bất cứ việc gì. Bao nhiêu trách nhiệm gia đình ông tự đảm đương hết.
Mỗi buổi trưa Chủ nhật, cha tôi đi đánh bài từ sáng, chị sen đi đâu tôi không biết, anh bếp Cẩm đang ngủ và ông phán K… chưa thấy về. Từ hôm ông đi tới nay có lẽ đã được ba, bốn hôm. Lúc ấy khoảng hai giờ rưỡi, tôi ngủ trưa vừa dậy. Trời hơi oi bức nên tôi phải vào phòng tắm, dội lên người vài gáo nước cho mát mẻ. Sau đấy vì sắp đi đánh đáo nên tôi chạy lên buồng bà phán để hỏi xem bà có muốn nhờ tôi trả sách cũ thuê sách mới hay không. Vì ngỡ bà còn ngủ nên tôi bước lên thang nhẹ nhàng định bụng trước hết ngó qua lỗ khóa xem bà đã dậy chưa. Nếu bà dậy rồi tôi mới có thể gõ cửa được. Cầu thang trải một tấm thảm dài bằng cói, tôi đi chân đất, tôi lại lên thang rất nhẹ, thành thử nếu bà phán có thức cũng không nghe thấy bước chân tôi. Tôi ghé mắt nhòm qua lỗ khóa thấy bà phán nằm nghiêng trên chiếc xô-pha. Tóc bà xõa tung lòe xòe trên mặt vải. Ngực bà hơi ép xuống nệm. Một chân bà duỗi dài còn một chân co lên chiếc gối bông. Tay phải bà rơi thõng từ trên xô-pha xuống đất. Mắt bà đăm đăm nhìn về đằng trước. Vì lỗ khóa quá bé nhỏ, tôi không thể trông thấy tất cả gian phòng nhưng tôi đoán bà đang nhìn ra phía cửa sổ. Hơi thở bà nhẹ nhàng. Người bà khẽ nhịp lên nhịp xuống trên chiếc nệm hoa. Có điều đặc biệt là hôm nay bà phán mặc một chiếc áo màu xanh nhạt không có ống tay. Lần đầu tiên tôi thấy bà mặc loại áo khoác kiểu như vậy. Trước kia bà luôn luôn mặc một thứ áo cánh dài tay bằng lụa trắng hoặc ngà ngà vàng. Tôi định đẩy cửa bước vào phòng nhưng chợt nhớ là mình vừa nhìn trộm qua lỗ khóa. Mọi khi thì không sao nhưng hôm nay bỗng nhiên tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng nhìn trộm như thế có thể bà phán không bằng lòng. Tôi lại rón rén lần xuống thang khi đến giữa sân tôi quay lại, giả vờ hát lên mấy câu làm ra vẻ mình vừa ở trong nhà bước ra. Tôi mạnh dạn lên thang, càng hát lớn thêm để báo tin cho bà phán biết tôi đến. Vừa gõ cửa đã nghe tiếng bà nói: "Cứ vào đi em". Quả đấm sứ trong tay tôi xoay một vòng. Cửa phòng hé mở, tôi lách vào. Bà phán vẫn nằm yên trên xô-pha. Chiếc gối lúc nãy đùi bà gác lên bây giờ được bà ôm vào ngực. Mớ tóc cũng đã được vơ gọn lại hơn chứ không lòa xòa như trước.
Bà phán hỏi:
"Em vừa đi đâu về mà vui vẻ thế?"
Tôi hơi ấp úng:
"Cháu đã đi đâu đâu… Cháu vừa tắm đấy chứ".
"Mát không".
"Dạ mát".
Bà phán không nói gì nữa. Bà nằm im trên xô-pha, hơi thở nhẹ nhàng. Thấy bà im lặng, tôi bước về phía cửa sổ nhìn ra ngoài. Đột nhiên bà gọi tôi:
"Này em!"
Tôi quay lại:
"Dạ".
"Em đứng làm gì ở đấy?"
"Cháu đứng đây… hóng mát".
Bà phán im lặng một lát rồi tiếp: "Chiều nay nóng lắm nhỉ?"
"Dạ, hơi nóng.
Bây giờ tôi mới nhận thấy nét mặt bà phán hôm nay có một cái gì hơi khác lạ. Trông bà có vẻ bâng khuâng thế nào. Cả giọng nói của bà cũng khác. Bà nói mà hình như không chú ý vào lời nói lắm thì phải. Bà hướng mặt về phía tôi nhưng mắt không nhìn vào tôi. Đôi mắt đó long lanh hơn mọi ngày nhưg lại đượm một vẻ rất xa xôi, huyền ảo. Bà bảo tôi:
"Em mang hộp bích quy ở bàn kia lại đây cho chị đi".
Tôi mang hộp bánh đến đưa cho bà, nhưng bà nằm im không giơ tay đỡ hộp. Bà chỉ nói:
"Em mở ra lấy bánh mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn. Ngồi xuống đây".
Bà phán vừa nói vừa nằm nhích vào, dành chỗ xô-pha cho tôi. Tôi hơi ngần ngại không dám ngồi. Từ trước đến giờ tôi vẫn thân với bà phán song chưa bao giờ được ngồi gần bên bà. Tôi cũng biết là bà yêu quý tôi nhưng sự yêu quý đó chưa bao giờ được thể hiện một cách đặc biệt như hôm nay. Tôi còn đang phân vân thì bà phán đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, kéo tôi ngồi xuống bên bà, đồng thời nhắc lại câu nói trước:
"Em mở ra mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn đấy".
Hơi bẽn lẽn, tôi mở nắp hộp. Trước khi lấy bánh cho tôi, tôi giơ hộp mời bà. Bà khẽ mỉm cười ngồi dậy:
"Ừ, thì chị ăn với em".
Tôi đặt hộp bánh ở đầu ghế. Bà phán nhìn vào hộp rồi khẽ dùng hai ngón tay kẹp lấy một cái bánh đưa cho tôi. Sau đấy bà nhón một cái khác đưa lên miệng. Tôi nhìn theo cái bánh bị gãy một phần ba giữa đôi hàm răng đều đặn. Chúng tôi cùng ăn.
Lát sau, bà nhoài người ra chiếc bàn con bên cạnh để lấy một cuốn sách mỏng. Bà vừa ăn vừa phe phẩy quạt cho bà và cho cả tôi. Bà lại hỏi:
"Bánh có ngon không?"
"Ngon".
"Bích quy bơ đấy. Ăn nữa đi. Chị còn nhiều, hai ba hộp nữa trong tủ".
Đến đây bà phán quàng luôn một cánh tay qua cổ tôi. Không hiểu sao, đột nhiên tôi nóng mặt. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hơi bẽn lẽn ngượng ngập đối với bà. Nhưng tôi vẫn ngồi im. Cánh tay trần của bà động vào cổ tôi. Tôi bối rối nhưng bà phán hình như không để ý. Bà nhắc lại câu nói đã cũ:
"Bánh ngon đấy nhỉ".
"Bà mới có ăn một cái".
Bà phán nhích đến gần tôi hơn:
"Ừ, chị ăn nữa chứ. Nhưng em phải ngồi sát vào chị thì ăn mới vui".
Rồi bà phán khẽ ghì tay kéo luôn đầu tôi ngã vào ngực bà. Xấu hổ, tôi khẽ kéo đầu ra nhưng không được vì cánh tay bà vẫn ghì chặt. Không những thế thỉnh thoảng bà còn đu đưa cánh tay cho cái đầu tôi khẽ nhún nhảy. Một lần nữa tôi khẽ kéo đầu ra. Tuy nhiên tôi không dám cử động mạnh sợ bà giận. Giá lúc này bà buông tôi ra thì chắc chắn tôi sẽ đứng dậy và lảng đi chổ khác. Nhưng bà không buông, và rốt cuộc tôi đành ngồi im. Lúc này mớ tóc đen mềm của bà phán, thơm mùi bồ kết, lại hơi xổ ra, rũ lòa xòa xuống vai tôi. Hơi thở bà lan khắp cổ tôi. Hàng khuy áo bà đã buột ra lúc nào tôi không hay. Và lúc này đột nhiên một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm tôi. (Từ lúc tôi còn bé cho đến năm tôi lên năm, sáu tuổi tôi vẫn thường được ngủ chung với mẹ và thường áp mặt vào ngực người. Những khi đó tôi vẫn cảm thấy một nỗi sung sướng tràn trề của tình mẫu tử. Nhưng bây giờ bị ép mặt vào bộ ngực trắng nõn của bà phán K… tôi lại cảm thấy sung sướng một cách bối rối và hốt hoảng khác hẳn với những lúc tôi áp mặt vào ngực mẹ khi xưa). Ngồi bên bà phán, người tôi bỗng xao xuyến vì một cảm giác chưa từng có. Lần đầu tiên tôi đã khám phá ra một quyền lực kỳ dị ở thân thể người đàn bà. Da thịt bà phán đã mặc khải cho tôi một cái thế giới rất mới mẻ của cảm giác. Cái quyền lực của nó có lẽ còn mạnh hơn quyền lực của một tiếng cười ưng chịu rúc lên từ chiếc cổ nõn của một cô gái mười tám tuổi mà tôi đã gặp năm năm về sau, cái tiếng cười đã khiến tôi phải loay hoay với cây bút trong suốt ba ngày để gò gẫm bài thơ đầu tiên.
Lại thêm cái vẻ kỳ ảo, xa xôi, quái đản trong đôi mắt bà phán lúc đó. Đôi mắt bâng khuâng, mơ màng và đột nhiên trở thành ngây dại đó đã dạy cho tôi hiểu rằng mắt không phải chỉ để nhìn những vật hữu hình nhưng còn để nhìn cả những vật vô hình. Phải, mắt bà đang nhìn những cái vô hình và chính tôi hình như cũng cảm thấy một cách rất mơ hồ cái vô hình đó, một cái gì rất thấp thoáng, rất mong manh, rất huyền diệu mà cho đến sáu, bảy năm sau tôi mới có thể tạm đặt tên cho nó là dục vọng.
Tôi không nhớ rõ tôi đã được bà phán ôm ấp, vuốt ve bao lâu. Mười phút? Mười lăm phút? Tôi vừa mừng vừa tiếc nuối khi bà buông tôi ra để vấn lại mớ tóc. Giọng bà trở lại bình thường:
"Chiều nay em có đi chơi đâu không?"
"Dạ, em sắp đi đây, bà có cần đổi sách không?"
Bà không trả lời, thong thả bước vào giường ngủ sau tấm ri đô ở góc phòng, lấy ra cuốn sách kèm theo một đồng hào ván mới đưa cho tôi:
"Em đưa đổi cho chị cuốn này lấy cuốn
Quả dưa đỏ nhé. Còn đây một hào chị cho em".
Mọi khi được bà phán cho tiền tôi mừng rơn, nhưng lúc này không hiểu sao tôi lại hơi mắc cỡ, không muốn nhận đồng hào ấy. Tuy nhiên, sau mấy giây đắn đo tôi thong thả bỏ nó vào túi, cám ơn lí nhí mấy câu rồi cầm cuốn sách xuống nhà. Tôi không muốn nhận đồng hào nhưng vẫn phải nhận vì nếu từ chối, tôi sợ mất lòng bà phán.
Hai hôm sau, ông phán K… trở lại Hà Nội. Ông về rất sớm trong lúc tôi còn đang ngủ. Khi tỉnh dậy tôi đã nghe tiếng ông nói trên gác. Hình như ông đang truyền lệnh cho con sen thu dọn đồ đạc. Đột nhiên tôi thấy nôn nao trong dạ. Bà phán sắp từ giã Hà Nội, từ giã gia đình tôi, từ giã tôi để đi với chồng! Thế là hết. Từ nay trở đi, tôi lại sống cô độc như cũ, không còn ai để thương mến nữa. Bà phán ra đi, tôi sẽ hết được ăn bánh bích quy của bà, hết được chạy đi thuê sách cho bà để thỉnh thoảng bà trả công cho vài xu, và nhất là hết hy vọng được bà ôm ấp như lần vừa rồi. Lần đầu tiên tôi cảm thấy một nỗi buồn bã. Bà phán sắp đi, bà sắp ra đi. Tiếng ông phán vẫn léo nhéo trên gác. Mỗi lời của ông như kích thích thêm sự nôn nao trong lòng tôi. Tôi chui ra khỏi màn, uể oải bước ra sân. Gặp con sen tôi khẽ hỏi:
"Chị sắp đi đấy à?"
"Trưa hôm nay đi. Đi tàu một giờ".
Tuy biết mình nói thừa nhưng tôi vẫn hỏi thêm:
"Thế bà phán cũng đi hôm nay à?"
"Đi chứ".
Tôi lặng lẽ múc nước rửa mặt, con sen quay xuống bếp nói với ra:
"Ở đây đang vui quá cậu nhỉ. Phải xa Hà Nội buồn buồn là".
Tôi không nói gì nữa. Trưa hôm ấy khi gia đình tôi vừa ăn cơm xong, đã thấy ông bà phán K… ăn mặc chỉnh tề bước xuống. Họ gặp cha tôi để ngỏ lời từ biệt. Hành lý của họ gồm mấy chiếc va-li, hai cái giường, một bộ bàn ghế và những thứ lặt vặt khác đã được con sen thuê xe bò chở ra ga trước rồi. Ông bà phán cũng sắp sửa lên đường. Một giờ tàu chạy mà. Tôi liếc nhìn đồng hồ trên tường: mười hai giờ mười lăm. Dạ tôi lúc này bồn chồn hơn bao giờ hết. Cả buổi sáng nay tôi nghĩ hoài đến bà phán và đinh ninh rằng bà cũng buồn như tôi vì phải xa tôi. Ai ngờ trưa hôm đó trông bà chẳng buồn một tí nào. Trái lại, bà còn tươi cười vui vẻ hơn mọi ngày. Cái vẻ ủ ê của bà trong thời gian ông phán xa nhà đã biến mất. Bà đi kề bên chồng. Người họ sát vào nhau.
Tuy nhiên, tôi biết thế nào bà phán cũng từ biệt tôi. Bà ngỏ lời từ biệt tôi thật. Nhưng trái với dự đoán của tôi, giọng bà chẳng có gì tha thiết quyến luyến cả. Bà chỉ nói: "Cậu ở lại mạnh giỏi nhé!" Vẻ mặt bà rất thản nhiên, vô tình khi nói câu đó. Tôi lí nhí trả lời một câu nhưng vì quá xúc động nên chẳng nói ra lời.
Anh bếp Cẩm đã gọi được một chiếc xe tay. Cha tôi tiễn đưa ông bà phán ra tận ngoài đường. Tôi cũng ra theo. Họ chào chúng tôi một lần nữa rồi bước lên xe. Anh xa phu nâng cao càng xe lên, khẽ ngả người về đằng trước, lấy đà. Chiếc xe chuyển bánh tiến nhanh dần về phía cuối đường. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn theo, hy vọng bà phán sẽ quay lại nhìn tôi.
Nhưng bà không hề quay lại nữa. Ngồi bên chồng bà, có lẽ bà chẳng còn nhớ đến tôi. Hình như chạm phải một hòn đá nhỏ, chiếc xe khẽ nghiêng sang một bên khiến đầu bà phán càng sát vào đầu chồng.
Chiếc xe khuất ở đầu giường. Cha tôi đã vào nhà tự lúc nào, nhưng tôi vẫn ngơ ngác trước cửa. Đôi mắt tôi hơi cồm cộm, không hiểu vì tôi đã quá chăm chú nhìn theo kẻ ra đi, hay vì tôi muốn khóc.
1965