(url) TÁC GIẢ VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 17 bài trong đề mục
phamnguyennhung 11.06.2008 11:54:53 (permalink)
Vương Trùng Dương Tiểu Sử 
Tác giả: Vương Trùng Dương





1. Tiểu Sử Vương Trùng Dương

Ông sinh năm 1946, tên thật Trần Ngọc Dưỡng. Quê Quảng Nam - Đà Nẳng.

Ông viết văn dưới các bút hiệu: Vương Trùng Dương, Trần Lư Nguyễn Khanh, Hoàng Bích Yên, Vương Chân Nhân. . . và nhiều bút hiệu khác để viết phiếm luận.

Tổng Thư Ký Trung Tâm Văn Bút Nam Cali. Trưởng Khối Báo Chí của Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam Cali. Hiện nay đảm nhận Trang Tiếng Việt Mến Yêu của BDDCTTVNNC trên nhật báo Người Việt tại quận Cam. Tổng Thư Ký tạp chí Thế Giới Nghệ Thuật. Biên tập trên nhiều tờ báo như Saigon Times - Trẻ Magazine - Mẹ Việt Nam - Dân Quyền...


2003-07-14 07:37:34
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.06.2008 03:55:14 bởi Viet duong nhan >
#1
    phamnguyennhung 11.06.2008 12:05:49 (permalink)

    DANH NHÂN NƯỚC VIỆT

    Vương Trùng Dương biên soạn

    Loạt bài viết về Danh Nhân Nước Việt cho trang Tiếng Việt Mên Yêu và trên trang web xuquang cách đây 5 năm để con em và giới trẻ hải ngoại biết thêm về tinh thần bất khuất của tiền nhân đã dũng cảm, bất khuất để bảo vệ nền tự chủ đất nước trước sự xâm lăng của các triều đại bên Tàu. Nay tìm lại được một số bài để đăng tải lại trên trang web của Cali Weekly, hình minh họa của ViVi – VTrD 2008

      
                              TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)
                      Anh Thư Khởi Nghĩa Mở Ðường...
     

    Vào đầu thế kỷ thứ I, nước ta còn bị lệ thuộc nhà Ðông Hán (25-220) bên Tàu, Thái thú Giao Chỉ là Tô Ðịnh vô cùng bạo ngược, làm lắm điều tàn ác, người người oán hận. Chính sách ngoại biên của nhà Hán với nhiều luật lệ ngặt nghèo, khắt khe đã khơi dậy ngọn lửa oán hờn trong lòng dân nước Việt.
    Trưng Trắc sinh năm Giáp Tuất (năm 14 sau Tây Lịch), quê ở Mê Linh (Yên Lãng, Phúc Yên nay thuộc vùng Hạ Lôi, Yên Lãng, Vĩnh Phú). Cha là Trưng Ðịnh, làm quan Lạc Tướng ở huyện Mê Linh. Mẹ là bà Man Thiên, tức Trần Thị Ðoan, dòng dõi Hùng Vương.
    Gia đình ông Ðặng Tập ở Chu Diên thuộc dòng dõi Lạc Tướng, con trai ông là Ðặng Thi Sách, khôi ngô, giỏi võ nghệ, có tinh thần yêu nước. Ðược tin ở Mê Linh có hai nữ lưu có ý chí kiên cường, dám chém đầu Tích Lâm khi buông lời khả ố, chọc ghẹo nên tìm đến kết thân.
    Thi Sách và Trưng Trắc cùng chung chí hướng, tài giỏi võ nghệ, tâm đầu ý hợp nên kết nghĩa phu thê.
    Năm 39, Tô Ðịnh giết Thi Sách. Vừa giận thù nhà, vừa hận nợ nước, nên Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị chiêu binh mãi mã phất cờ khởi nghĩa đánh quân nhà Hán. Sau khi làm lễ để tang chồng, Trưng Trắc thảo tờ hịch kể tội ác của quân nhà Hán và kêu gọi dân chúng đứng dậy chống giặc thù để phổ biến khắp nơi
    Dưới bóng cờ nương tử, nghĩa binh Mê Linh phá quận trị Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về dưới bóng cờ khởi nghĩa nhằm tiêu diệt quân xâm lăng. Chẳng bao lâu, quân của Hai Bà Trưng đã đánh hạ được tất cả 65 thành, Tô Ðịnh khiếp sợ, chạy về Nam Hải chịu tội với vua Hán.
    Tin thắng trận bay đi, nhân dân các quận Hợp Phố (Quảng Ðông ngày nay), Cửu Chân và Nhật Nam (Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay) hưởng ứng rất đông theo tiếng gọi của hai vị nữ anh thư. Thanh thế của lực lượng khởi nghĩa thật lừng lẫy.
    Trưng Trắc lên ngôi vua, tự xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh chấm dứt 150 năm Bắc thuộc lần thứ nhất (111 trước Tây Lịch đến 39 sau Tây Lịch). Trưng Trắc lên ngôi vua, phong cho Trưng Nhị làm Bình Khôi Tướng Quân, nắm giữ toàn thể quân lực.
    Tháng Chạp, năm 41, vua Hán Quang Võ phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, mang 20 vạn quân sang đánh. Trận kịch chiến dữ dội giữa đại quân của Mã Viện với dân binh do Trư­ng Nữ Vương thống lĩnh đã diễn ra ở Lăng Bạc (Ðông Triều - Yên Phong, Hà Bắc). Quân Mã Viện mai phục trên các triền đất cao giữa vùng Lăng Bạc bị Trư­ng Nữ Vư­ơng đem quân tới chận đánh. Trận chiến đầu tiên với đạo quân của Mã Viện đã mang lại thắng lợi nhưng quân sĩ đã hy sinh quá nhiều; trước tình thế đó, Trư­ng Nữ Vư­ơng thu quân về giữ Cấm Khê (Hà Nội - Quốc Oai - Hà Tây).
    Mã Viện xin tang cường thêm quân rồi tiếp tục kéo binh xâm lược, trận huyết chiến lại xảy ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Ðáy. Qua bốn trận thư hùng với quân địch, hàng vạn quân dân Việt đã bị giết và bị bắt. Quyết chống trả với quân giặc đến cùng, Trưng Nữ Vương phải bỏ Cấm Khê lui quân về đến Hát Giang, nơi đây vì quân ít, thế cô và cùng đường, hai vị anh thư không muốn rơi vào tay quân địch bèn gieo mình xuống sông tự vận để bảo toàn danh tiết. Ðó là ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43). Theo Nam Sử, Trưng Trắc hưởng hương 29 tuổi.
    Mã Viện đem phủ trị về đóng ở Mê Linh, dựng trụ đồng nơi phân chia địa giới, khắc sáu chữ: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nhằm đe dọa, người dân cam phận sống trong cảnh lầm than!
    Ngày nay, ngoài quê hương Mê Linh, tại bãi Ðồng Nhân ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội có ngôi đền cất từ năm Nhâm Tuất (1142) thờ Hai Bà Trưng rất lớn. Tại Hát Môn, Sơn Tây có Miếu Hát thờ Hai Bà Trưng, theo dân gian, nơi nầy rất linh thiêng...
    Ðể tỏ lòng tôn kính, hàng năm vẫn tổ chức lễ kỷợ niệm hai vị anh thư Trưng Trắc và Trưng Nhị vào ngày mùng 6 tháng 2 Âm lịch.
    Trong “Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca” có bốn câu:
    “Bà Trưng quê ở Châu Phong
    Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
    Chị em nạng một lời nguyền
    phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân...”
    Sách “Hồng Ðức Quốc Âm Thi Tập” có những vần thơ vịnh Hai Bà Trưng:
    “Giúp dân dẹp loạn trả thù mình
    Chị rủ cùng em kết nghĩa binh
    Tô Ðịnh bay hồn vang một trận
    Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.
    Mới dày bảo vị gia ơn trọng
    Ðã đội hoa quan xuống phúc lành
    Còn nước, còn non, còn miếu mạo
    Nữ trung đệ nhất đấng tài danh”.
    Vua Tự Ðức đã đề cập về hai vị nữ anh thư: “Hai Bà Trưng là khách quần thoa, thế mà lóng hăng việc nghĩa, còn làm rung động được triều đình nhà Hán! Dẫu thế lực yếu, thời vận ngửa nghiêng, cũng đủ dấy dức lòng người, rỡ ràng sử sách...”
    Ðây là hại vị nữ lưu đầu tiên trong lịch sử nước nhà đã dấy lên ngọn cờ khởi nghĩa, chống trả ách xâm lược của Bắc Phương.
    Sau ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đất nước lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài đến 5 thế kỷ (43-544).
                                          Vương Trùng Dương
    #2
      phamnguyennhung 11.06.2008 18:18:57 (permalink)
                   DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
                                      Vương Trùng Dương biên soạn

                                     TRIỆU NỮ VƯƠNG (248)
                             Nhụy Kiều Tử Chiến Ðông Ngô


      Sau ngọn cờ khởi nghĩa của Trung Nữ Vương (40-43), trải qua hai thế kỷ nước ta bị chìm đắm trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai, từ Ðông Hán đến thời kỳ Tam Quốc ở Trung Hoa có Ngụy (220-265), Thục Hán (221-263) và Ðông Ngô (222-280); nước ta lệ thuộc dưới sự thống trị của Ðông Ngô, dân tình vô cùng khổ sở, lầm than.
      Về quốc hiệu, theo dòng thời gian, nước ta về đời Hồng Bàng gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương gọi là Âu Lạc. Vào giai đoạn Tiền Hán và Hậu Hán ở Trung Hoa thì đời Triệu Vũ Vương (207-137 trước Tây Lịch) đến năm 111 trước Tây Lịch gọi là Nam Việt, năm 111 trước Tây Lịch đến năm 203 sau Tây Lịch gọi là Giao Chỉ. Năm Quý Mùi (203) Thái Thú Sỹ Nhiếp và Thứ Sử Trương Tân dâng sớ xin vua Hiến Ðế đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu và kéo dài cho đến đời Lý Nam Ðế (544-548)... Về đất đai, bởi sự thay đổi liên tục do việc phân chia và sát nhập của Trung Hoa. Khi Triệu Ðà được Lưu Bang (Hán Cao Tổ 206-194 trước Tây Lịch) phong làm Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông), chia nước Âu Lạc ra làm hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Vào thời Hán Vũ Ðế (140-87 trước Tây Lịch), Nam Việt bị nhà Hán chiếm luôn, đổi thành Giao Chỉ bộ. Giao Chỉ bộ gồm chín quận, có sáu quận thuộc vùng Quảng Ðông, Quảng Tây và ba quận thuộc về nước ta hiện nay là quận Giao Chỉ (Bắc Việt), quận Cửu Chân (Thanh hóa, Nghệ An) và quận Nhật Nam (từ Hoành Sơn đến đèo Hải Vân). Giao Chỉ bộ đặt dưới quyền cai trị của quan Thứ Sử, mỗi quận dưới quyền cai trị của quan Thái Thú... tất cả đều do triều đình ở Trung Hoa bổ nhậm.
      Năm 226 Sỹ Nhíp qua đời, lợi dụng thời kỳ còn tranh giành quyền thế ở Trung Hoa, con trai Sỹ Nhíp là Sỹ Huy lộng hành, tự động lên thay quyền Thái Thú. Ngô Ðại Ðế ổn định xong tình thế, chia đất Giao Châu từ Hợp Phố về Bắc đặt tên là Quảng Châu, cử Lữ Ðại làm Thứ Sử; từ Hợp Phố vào Nam gọi là Giao Châu, cử Ðái Lương làm Thứ Sử. Riêng đất Giao Chỉ về miền Bắc Việt bấy cử Trần Thì thay Sỹ Huy làm Thái Thú. Trong giai đoạn đó còn có sự sát nhập, thay đổi đất đai nên danh xưng dễ bị nhầm lẫn.
      Sỹ Huy chống lại việc bổ nhiệm của triều đình Ðông Ngô nhưng trước thế mạnh của binh lực nên quy thuận, Sỹ Huy bị bắt và chém đầu với tội nghịch thần. Ðông Ngô áp dụng chế độ trực trị như Ðông Hán nên quan quân ác độc hoành hành. Dưới chính sách cai trị thật hà khắc, người dân phải gánh chịu bao cảnh điêu linh, khốn khổ.
      Bấy giờ, ở quận Cửu Chân (vùng Nông Cống, Thanh Hóa hiện nay) có vị nữ lưu tên là Triệu Thị Trinh, còn gọi là Triệu Nguyên, sinh ngày 2 tháng 10 năm Ất Tỵ (225), cha mẹ mất sớm nên ở với người anh là Triệu Quốc Ðạt, một hào trưởng ở miền núi Quảng Yên, Cửu Chân.
      Dù mồ côi cha mẹ nhưng ảnh hưởng hình ảnh vị hào trưởng tiếng tăm lừng lẫy trong vùng nên anh em được luyện tập các môn võ nghệ của nhiều võ sư chân truyền. Triệu Thị Trinh thể hiện thiên tướng con nhà võ, tinh thông cách bày binh bố trận và tài sử dụng cung kiếm, làm cho đấng mày râu cũng phải kính nể. Vào tuổi đôi mươi, Triệu Thị Trinh là ngư­ời có sức khỏe, giỏi võ nghệ, tính cương cường, gan dạ và mưu trí.
      Triệu Quốc Ðạt rất hào khí, có đức độ và có tài thao lược, được mọi người nể trọng. Ông có tinh thần yêu nước và có ý chí khôi phục giang sơn, được bốn người bạn tâm phúc là Vương Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc và Tốn Thận, có tài đức vẹn toàn nên muốn phất cờ chống trả ngoại xâm. Triệu Quốc Ðạt bất mãn chính sách cai trị bạo tàn của nhà Ðông Ngô nên âm thầm tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Ðiền (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Ðấy là một thung lũng giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía bắc vào.
      Triệu Thị Trinh muốn tham gia dưới bóng cờ của anh nhưng người anh có ý can ngăn, lo phận gái khó đảm đ­ương trọng trách. Thời gian anh em ở với nhau, gặp người chị dâu là Giang Thị vô cùng cay nghiệt, luôn luôn bất hòa với Triệu Thị Trinh. Thấy em gái đã trưởng thành, người anh muốn cho em lập gia đình để có đời sống riêng tư nhưng bà không muốn bị ràng buộc trong cuộc sống khi mọi người trong nỗi thống khổ. Bà trả lời:
      - Tôi muốn c­ỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Ðông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm cúi đầu, còng lư­ng để làm tì thiếp người ta.
      Khi Triệu Thị Trinh phát hiện được Giang Thị gởi thư cho Thứ Sử Cửu Chân báo rằng anh em Triệu Quốc Ðạt có âm mưu triệu tập lực lượng khởi loạn. Giang Thị muốn lập công và xin tha thứ cho chồng... Triệu Thị Trinh giết người chị dâu nối giáo cho giặc, phản chồng, hại em, rồi vào ở trong núi, chiêu mộ hơn một nghìn nghĩa binh, tạo được uy danh, lấy đồi An Phổ để phất cờ khởi binh.
      Năm Mậu Thìn (248), Triệu Quốc Ðạt cùng Triệu Thị Trinh, mỗi người một nơi, đồng lúc khởi binh đánh quân Ðông Ngô. Thể hiện tính quật cường của bậc nữ lưu, bà tỏ ra can đảm phi thường, cầm quân thật tài giỏi nên tôn bà làm chủ tướng. Bà xuất quân đánh thành Nông Cống, hình ảnh Triệu Thị Trinh “Ðầu chít khăn lam, mình mặc áo võ trang màu biếc, tay cầm bảo kiếm, tay cầm cờ lệnh, hùng dũng lạ thường...” ngồi trên mình voi, xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân, thống lĩnh quân sĩ xông pha chiến trận.
      Trong thời điểm chiến trận sôi sục, Triệu Quốc Ðạt hy sinh đền nợ nước; thay Triệu Quốc Ðạt, bà tập hợp quần hùng, tiếp tục chiến đấu với quân Ðông Ngô. Từ đó, đánh tới đâu quân giặc tan tành tới đó, nhiều thành trì bị hạ. Trong thời gian ngắn đã chiếm giữ được quân Cửu Chân, quân Ðông Ngô khiếp sợ, tôn xưng là Lệ Hải Bà Vương. Thứ Sử Châu Giao hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận: “Toàn thể Châu Giao chấn động”.
      Quân Ðông Ngô kiếp đởm, kinh hồn, bạt vía đã phải thốt lên:
      Hoành qua đương hổ dị
      Ðối diện Bà V­ương nan
      Nghĩa là:
      Vung giáo chống hổ dễ
      Giáp mặt Bà Vua khó
      Truyền thuyết cho rằng Bà Triệu thu phục con voi trắng một ngà với lời rao truyền trên núi Quan Yên để thu phục mọi người:
      “Có Bà Triệu tư­ớng
      Vâng lệnh trời ra
      Trị voi một ngà
      Dựng cờ mở nư­ớc
      Lệnh truyền sau trư­ớc
      Theo gót Trưng Vương....
      Hay tin cuộc khởi nghĩa ở Cửu Chân và Thứ Sử Châu Giao mất tích, vua Ðông Ngô tức giận phái ngay Lục Dận, Ðốc quân Ðô úy Hành Dương là sang làm Thứ Sử Giao Châu, kiêm chức Hiệu Úy. Tăng cường binh mã tiếp viện ùn ùn kéo sang. Một t­ướng từng trải với trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm Thứ Sử. Lục Dận đem 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải, chức tư­ớc ra dụ dỗ mua chuộc phần tử ham danh ham lợi. Triệu Thị Trinh vẫn kiên cư­ờng đánh nhau với giặc không hề nao núng.
      Sau 6 tháng chống chọi, vì quân ít thế cô, có kẻ phản bội thông báo tin tức cho quân Ngô, Triệu Nữ Vương đem quân về Bồ Ðiền (nay là Mỹ Ðiếng, Mỹ Hóa, Thanh Hóa) rồi tự sát trên núi Tùng ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Bấy giờ bà mới 23 tuổi. Bậc Nữ Vương hy sinh lúc còn trinh trắng nên còn gọi là Triệu Trinh Vương.
      Sau khi Triệu Nữ Vương mất, năm Giáp Thân (264) vua nhà Ngô lấy đất Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đóng đô ở Long Biên.
      Triệu Nữ Vương mất đi, để lại tấm gương rạng rỡ bậc anh thư kiệt liệt, tiếng thơm còn mãi muôn đời.
      Về sau, vua Lý Nam Ðế khen ngợi bà là ng­ời trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: “Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Trong “Hồng Ðức Quốc Âm Thi Tập” có bài thơ ca ngợi công lao của Triệu Nữ Vương:
      “Cao một trượng, cả mười vừng
      Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng
      Họp chứng rừng xanh, oai náo nức
      Cưỡi đầu voi trắng, tiếng vang lừng
      Mác dài trỏ vảy, tan tành giặc
      Ngôi cả lăm le, học họ Trưng.
      Ví có anh duyên định mấy
      Thời chi Ðông Hán dám lung lăng”.
      Trong “Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca” có những dòng thơ đề cập đến hình ảnh của bà:
      “Ðầu voi phất ngọn cờ vàng
      Sơn thôn mấy cõi, chiến trường xông pha
      Chông gai một cuộc quan hà
      Dù khi chiến tử còn là hiển linh
      Nay ở Phú Ðiền còn có đền thờ bà.
      Cũng như Mã Viện áp dụng chính sách bạo tàn sau cuộc khởi nghĩa của Trưng Nữ Vương, lập trụ đồng để đe dọa; Lục Dận nham hiểm, sai người trừ yểm để tránh hậu họa xảy ra. Người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu, chữ Ẩu có nghĩa là mụ nhưng sử sách vẫn đề cập tính gan lì của bậc nữ lưu. Hình ảnh bậc nữ lưu “vú dài ba thước” đều do sử sách Trung Hoa dựng nên để phác họa chân dung dị tướng và hoang đường... vô hình trung lại ghi vào trang sử nước ta.
      Nhìn lại trang sử nước nhà, từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ ba, đất nước có các bậc nữ lưu nổi dậy, phất cao ngọn cờ chính nghĩa, xưng Vương, kiên cường chống trả quân xâm lược đang thống trị với chính sách bạo tàn. Khởi đầu cho kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam với hình ảnh bậc anh thư liệt nữ phất cờ khởi nghĩa, cầm gươm xông pha nơi chiến trận, tuy ngắn ngủi nhưng để lại trang sử hào hùng cho dân tộc.
                                       Vương Trùng Dương
       
      #3
        phamnguyennhung 13.06.2008 07:20:33 (permalink)
          DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
         Vương Trùng Dương biên soạn


                                           
         Lý Nam Ðế (544-548)
        Vạn Xuân Lưu Sử Anh Hùng

          Trong thời kỳ Nam Bắc Triều ở Trung Hoa (420-589), Bắc Triều có năm triều đại: Bắc Ngụy (386-534), Ðông Ngụy ( 534-550), Tây Ngụy (535-557), Bắc Tề (550-577) và Bắc Chu (557-581); Nam Triều gồm bốn triều đại: Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-557) và Trần (557-589) đều đóng đô tại Kiến Khang (Nam Kinh) thống trị toàn miền Nam Trung Hoa.
        Sau khi loại Tề, lập nên triều đại nhà Lương, Vũ Ðế (520-550) muốn tạo dựng thế lực hùng hậu nên âm mưu, tranh giành quyền lợi ở biên cương và tiếp tục con đường thôn tính ở phương Nam.
        Nhà Lương cử “Tiêu Tư sang làm Thứ Sử đất Giao Châu. Tiêu Tư là một người tàn bạo, làm cho lòng người ai cũng oán giận” (Trần Trọng Kim - Việt Nam Sử Lược). “Bấy giờ Thứ Sử Tiêu Tư cai trị đất Giao Châu cũng đi theo vết xe đổ của bọn Tô Ðịnh, Lục Dận, Lữ Ðại; nhân dân đất Giao Châu thấy ngột ngạt vì cái không khí nội chiến, ngoại xâm...” (Phạm Van Sơn ố Việt Sử Toàn Thư).
        Lợi dụng tình thế tranh giành ảnh hưởng triều đại ở Trung Hoa, nước Lâm Ấp cho quân sĩ tràn sang Giao Chau để cướp phá và quấy nhiễu.
        Theo “Việt Sử Tiêu Án” của Ngô Thời Sỹ (1726-1780): “Nước Lâm Ấp vốn là đất Tượng Quận của Tần, phái Ðông là Biển, phía Tây giáp nước Qua Oa, phía Nam thông với nước Chân Lạp, phía Bắc tiếp giáp Hoan Châu nước ta”. Trong giai đoạn đó, người dân Giao Châu vừa chịu sự lệ thuộc của phương Bắc vừa bị bất an ở phương Nam nên dân tình vô cùng khốn đốn.
        Trước nỗi thống khổ của dân tộc dưới ách thống trị hà khắc, năm Tân Dậu (541), có bậc anh hùng, tài kiêm văn võ tên là Lý Bôn, nổi dậy chống trả ngoại xâm.
        Lý Bôn, còn có tên gọi là Lý Bí, tổ tiên người Trung Hoa, chạy sang Giao Châu lánh nạn đã bảy đời, trở thành người bản xứ ở Thái Bình (nay thuộc vùng tiếp giáp giữa huyện Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây).
        Lý Bôn sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503), thân phụ là Lý Toản, trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh, người Ái Châu (Thanh Hóa). Mồ côi cha mẹ sớm, được vị thiền sư đem về chùa Linh Bảo nuôi dạy cho đến khi trưởng thành.
        Rời chốn thiền môn, lý Bôn đảm nhận chức Giám Quân (trông coi quân sĩ) ở Cửu Ðức, Ðức Châu ( nay là Ðức Thọ, Hà Tĩnh); vì thấm nhuần lòng từ bi của Phật Giáo, thấy chính sách cai trị đầy tham ô, tàn ác nên từ chức về quê ở huyện Thái bình, Phong Châu chiêu tập anh hùng hào kiệt, nghĩa binh để nổi dậy chống ách thống trị của quân Lương.
        Lý Bôn kết hợp cùng tù trưởng Châu Diên là Triệu Túc, cùng với Tinh Thiều, Phạm Tu, Trương Húc, Trương Hán... Võ sư Phạm Tu, tuổi đã gần thất thập liền hưởng ứng, kêu gọi dân làng, chiêu tập nghĩa quân theo ngọn cờ khởi nghĩa của Lý Bôn. Tinh Triều, gia đình giàu có, giỏi văn chương, làm chức quan Lang ở Quảng Dương môn, bất bình với chế độ, lui về quê, được tin khởi nghĩa, liền tham gia.
        Tháng Giêng năm Nhâm Tuất (542), Lý Bôn khởi binh chống quân nhà Lương. Trong thời gian ngắn, chiếm giữ được thành Long Biên, Thứ Sử Giao Châu là Tiêu Tư trốn chạy về nước.
        Ðầu năm Quý Hợi (543), vua nhà Lương cử tướng Lư Tử Hùng đem quân sang trấn áp; được tin, Lý Bôn đem quân sang nghinh chiến đấu ở Hợp Phố (Quảng Ðông), quân Lương bại trận, rút lui về nước. Trong khi đó, quân Lâm Ấp lợi dụng loạn lạc, lại tràn sang quấy phá, Lý Bôn cử tướng Phạm Tu đem quân tiêu diệt ở Nhật Nam và Cửu Ðức, quân Lâm Ấp thua trận, mang tàn binh bỏ chạy.
        Vào dịp Nguyên Ðán năm Giáp Tý (Tháng 2-544), sau khi loại trừ được ngoại xâm, Lý Bôn lên ngôi, xưng là Nam Việt Ðế, niên hiệu Thiên Ðức, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Lý Nam Ðế thiết lập triều chính, Phạm Tu coi về võ quan, Tinh Thiều đứng đầu quan văn, Triệu Túc làm Thái Phó; đó là ba chức quan đứng đầu trong triều đình. Con trai của Triệu Túc là Triệu Quang Phục, được xem là tướng trẻ, tài ba và dũng lược.
        Lý Nam Ðế cho xây dựng chùa Khai Quốc ở Yên Hoa, Yên Phụ (nay là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội) Nam Ất Sửu (545), vua nhà Lương cử Dương Phiên sang làm Thứ Sử Giao Châu rồi sai Trần Bá Tiên làm Tư Mã, phối hợp Tiêu Bột và Dương Siêu, thống lĩnh đạo quân sang đánh nước ta.
        Lý Nam Ðế đem ba vạn quân đương đầu với đại quân nhà Lương ở Chu Diên (Hải Hưng), thua trận, lui về cửa sông Tô Lịch cầm cự, nơi đây lão tướng Phạm Tu đã hy sinh, Lý Nam Ðế đem quân về giữ thành thành Gia Ninh (nay là Việt Trì, Phú Thọ), đại quân Trần Bá Tiên đem quân tiến đánh, Lý Nam Ðế phải lui về giữ thành Tân Xương ở Phong Châu. Sau đó, Lý Nam Ðế rút quân về đóng ở động Khuất Liêu (Phú Thọ), nơi đây, nhà vua khôi phục lại binh mã để cầm cự với quân của Trần Bá Tiên.
        Sau thời gian chiến đấu, xông pha chiến trận, vì sức khỏe Lý Nam Ðế bị yếu kém nên giao quyền bính lại cho Tả tướng quân là Triệu Quang Phục để điều binh khiển tướng.
        Lý Nam Ðế mất ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (13-4-548). Hưởng dương 46 tuổi. Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương.
        Trong thời gian Lý Nam Ðế thất thế lui quân về Khuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với người cháu họ là Lý Phật tử đem quân chạy vào Cửu Chân, bị quân nhà Lương đánh đuổi chạy sang Lào, đầu nguồn sông Ðào Giang, có động Dã Năng, đóng ở đó xưng là Ðào Lang Vương, lấy quốc hiệu là Dã Năng.
        Năm Ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, không có con nên nên quyền bính về Lý Phật Tử. Sau nầy Lý Phật Tử dùng thủ đoạn để lật Triệu Quang Phục, dựng lại cơ nghiệp Hậu Lý Nam Ðế (571-602) nhưng rồi thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa.
        Nước ta rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603-939)!
        Sách “Việt Sử Tiêu Án” luận rằng: “Có ba vạn quân đều sức nhau, thiên hạ khó ai địch được. Nay Lý Bảo, Lý Bí có có quân đến năm vạn người mà không giữ được nước, có phải kém tài đâu, không may gặp phải Bá Tiên là người khéo dụng binh...” Và đây cũng là bài học quý giá cho lịch sử cho hậu thế bởi sự thiếu đoàn kết với nhau, Lý Thiên Bảo muốn tạo dựng cơ nghiệp riêng, không chung vai sát cánh với người em để tiêu trừ quân thù nên thế lực bị suy yếu trước sức mạnh của đối phương.
        Lý Nam Ðế nổi dậy chống ách thống trị của nhà Lương, dựng nên cơ nghiệp nhà Tiền Lý, tuy chỉ trong thời gian ngắn nhưng đã thể hiện chí khí quật cường, nổi dậy đánh đuổi quân giặc.
        Ðể tưởng nhớ bậc tiền nhân, có hàng trăm ngôi đền, miếu thờ Lý Nam Ðế và các tướng quân ở miền Bắc.
        Ghi lại hình ảnh của Lý Nam Ðế, sách “Khâm Ðịnh Việt Sư“Ư nhận xét: “Tuy Lý Nam Ðế không đủ sức chống chọi với giặc mạnh, việc lớn không thành, nhưng thừa thế dấy binh, tự xưng làm vua, mở đường tự chủ cho nhà Ðinh, nhà Hậu Lý về sau nầy, há chẳng phải là vẻ vang to tát lắm sao”.
        Trong “Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca” đã ghi:
        “Kể từ Ngô Tấn lại đây
        Hai trăm mười bốn nam chày cát phân
        Cỏ cây han chứa bụi trần,
        Thái bình mới có Lý Phần hưng vương,
        Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
        Binh qua gặp lúc phân vương lại về
        Cừu dân đã quyết lời thề
        Văn thần, võ tướng ứng kỳ đều ra
        Tiêu Tư nghe gió chạy xa
        Ðông Tây muôn dặm quan hà quét thanh
        Vạn Xuân mới đặt quốc danh
        Cải nguyên Thiên Ðức, đô thành Long Biên...”
        Trải qua năm thế kỷ đất nước bị lệ thuộc, từ Trưng Nữ Vương, Triệu Nữ Vương đến Lý Nam Ðế có nhiều cuộc nổi dậy nhưng chỉ thu hẹp địa phương, chưa tạo dựng được ảnh hưởng rộng lớn, chưa đánh bật được thế mạnh của ngoại xâm nên suốt thời gian dài đó, trang sử nước nhà chỉ để lại ít hình ảnh tiêu biểu nêu trên.                                   VươngTrùng Dương  
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2008 07:31:08 bởi phamnguyennhung >
        #4
          phamnguyennhung 13.06.2008 15:26:59 (permalink)
          DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
           
          Vương Trùng Dương biên soạn



           
            Triệu Việt Vương (548-571)


             Anh Tài Dạ Trạch Lưu Danh

             
           

          Sau khi Lý Nam Ðế mất, tất cả quyền bính được giao phó cho Tả Tướng Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục và thân phụ là Thái Phó Triệu Túc (quê ở Châu Diên, nay thuộc Vĩnh Tường, Vĩnh Yên) vừa là tướng tài vừa là công thần đã theo chân Lý Nam Ðế từ khi phất cờ khởi binh.
          Triệu Quang Phục nhận thấy quân nhà Lương còn hùng mạnh, khó đương đầu trong lúc thế lực còn yếu kém nên đem một vạn quân kéo về vùng đầm lầy Dạ Trạch (địa danh bãi Màn Trò, Hưng Yên). Nơi đây, địa thế vô cùng hiểm trở, chung quanh là vùng đầm lầy rộng mênh mông, lau sậy bao phủ, ở giữa có bãi cồn đất khô ráo vừa làm doanh trại vừa canh tác, trở thành sào huyệt an toàn.
          Nam Mậu thìn (548), Triệu Quang Phục xưng vương là Triệu Việt Vương, còn gọi là Dạ Trạch Vương.
          Vốn quen thuộc với địa hình và sông hồ, Triệu Việt Vương áp dụng chiến thuật đánh lẻ tẻ, đêm đêm cho quân lính dùng thuyền độc mộc ra đột kích quân nhà Lương để thu nạp vũ khí là lương thực, ban ngày cho quân sĩ thao dượt và canh tác. Quân Lương muốn dùng đại binh để xâm nhập nhưng không thể thực hiện được, trong thế lưỡng nan dù cho quân sĩ đóng bao bọc Dạ Trạch, mỗi ngày thêm hao hụt nên đành án binh bất động. Năm Canh Ngọ (550) “Gặp lúc nhà Lương có việc loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Thiên phải mang quân về, chỉ lưu Tỳ Tướng là Dương Sàn ở lại. giữ nhau với Triệu Việt Vương. Việt Vương tung quân đánh giết được Dương Sàn, quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Việt Vương tiến về ở trong thành Long Biên” (Ngô Thời Sỹ - Việt Sử Tiêu Án).
          Sau khi ổn định được tình thế, Triệu Việt Vương cho thiết lập triều chính, khôi phục lại giang sơn mà Lý Nam Ðế rút lui trước sự xâm lăng của quân nhà Lương.
          Trong khi đó, như đã đề cập, “Lý Nam Ðế thất thế lui quân về Khuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với người cháu họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân, bị quân nhà Lương đánh đuổi chạy sang Lào, đầu nguồn sông Ðào Giang, có động Dã Năng, đóng ở đó xưng là Ðào Lang Vương, lấy quốc hiệu là Dã Năng. Năm Ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, không có con nên nên quyền bính về Lý Phật Tử”.
          Năm Ðinh Sửu (557), Lý Phật Tử thấy vắng bóng quân Lương bèn đem quân về đánh với Triệu Việt Vương nhằm khôi phục lại nhà Lý. Sau năm lần giáp chiến với quân của Triệu Việt Vương ở Thái Bình đều thất bại, Lý Phật Tử xin cầu hòa; Triệu việt Vương thấy Lý Phật Tử thuộc con cháu của nhà Tiền Lý nên đành thuận ý. Ðịa giới hai miền được phân chia ở Quần Thần (Thượng Cát, Từ Liêm). Triệu Việt Vương đóng ở Quần Thần (Thượng Cát, Từ Liêm) và Lý Phật Tử đóng đô ở Ô Diên (Ðại Mộ, Từ Liêm). Lý Phật Tử muốn thể hiện tấm lòng giao hảo với tình thông gia với nhau nên đem con gái là Cảo Nương gả cho con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang. Lịch sử lại tái diễn như năm 208 trước Tây Lịch, Triệu Ðà cho con là Trọng Thủy gả cho con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu, trong âm mưu thôn tính, Triệu Ðà cướp nước Âu Lạc. An Dương Vương đem Mỵ Châu chạy đến Mộ Dạ (Ðông Thành, Nghệ An), rút gươm chém đầu Mỵ Châu rồi nhảy xuống bể tự tận.
          Trong khi Triệu Việt Vương chăm lo đời sống của dân chúng thì Lý Phật Tử đã nuôi ý đồ thôn tính nên trang bị quân sĩ để tạo thế lực hùng mạnh.
          “Năm Tân Mão (571), Lý Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương, Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Ðại Nha (nay thuộc Ðại An, Nam Ðịnh), nhảy xuống sông tư tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Ðại Nha. Nay còn có đền thờ ở làng Ðại Hộ, gần huyện Ðại An” (Trần Trọng Kim ố Việt Nam Sử Lược).
          Trải qua bảy thế kỷ, hình ảnh dùng tình cảm thông gia để mưu toan ý đồ thôn tính đất nước, trước kia kẻ chủ mưu là Triệu Ðà, sau nầy nạn nhân là Triệu Việt Vương!
          Tại Trịnh Hà, Mỹ Hóa, Thanh Hóa, trước kia, Triệu Quang Phục đóng mạc phủ, dân chúng lập đền thờ tưởng niệm. Lý Phật Tử chiếm được thành Long Biên, xưng đế hiệu (Hậu Lý Nam Ðế), đóng đô ở Phong Châu, cử Lý Ðại Quyền giữ Long biên và Lý Phổ Ðịnh giữ Ô Diên.
          Bấy giờ ở Trung Hoa, nhà Tùy đánh dẹp được nhà Lương, năm 581, Dương Kiên lên ngôi Hoàng đế, tức Tùy Văn Ðế, đem quân đánh xuống phía Nam, kết thúc thời kỳ Nam Bắc Triều, lập nên cơ nghiệp nhà Tùy (581-618).
          Năm Nhâm Tuất (602), vua nhà Tùy sai Lưu Phương đem đại binh sang uy hiếp, Lưu Phương vừa dàn binh vừa cho người chiêu dụ Lý Phật Tử, Lý Phật Tử khiếp sợ nên xin hàng. Từ đấy đất nước bị rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba kéo dài đến 336 năm (603-939).
          Với hình ảnh Triệu Việt Vương, Ngự Chế Việt Sử Tổng Vịnh đã ghi:
          “Dạ Trạch Vương, Dạ Trạch Vương, uyển tại thủy trung ương.
          Ðịa lợi hề khả cứ, đạo trở hề nan tường.
          Vi lô hề thương thương, nê náo hề uông uông.
          Ðộc mộc thuyền hề nhiệm xuất một
          Bá Tiên quy hề thùy năng đương
          Bỉ kỳ chi tử hề vọng Thục
          Dưỡng hổ hề di ương,
          Ðại Nha hải hề thùy diếu diếu.
          Trường An thành hề sa bường bường”
            Bản dịch của Lam Giang:
          “Giữa đầm Dạ Trạch xưng vương
          Ba quân cứ hiểm, một phương tranh hùng
          Bớ lau xanh ngát trùng trùng
          Ðường quanh nẻo tắt, nước bùn gần xa.
          Cỡi thuyền độc mộc xông pha
          Mặc lòng quân Việt, vào ra đêm ngày.
          Bá Tiên cao chạy xa bay
          Ngọn cờ chiến thắng từ rày ai đương?
          Gã kia lai lịch chưa tường
          Mến ơn vua Lý nên thương một cành
          Quân thần bên nước xanh xanh,
          Cắt cho phần đất, gã tranh nỗi gì!
          Ai ngờ nuôi cọp thì nguy,
          Lòng tham Lũng Thục kể gì nhân luân
          Ðại Nha gặp bước phong trần,
          Ðìu hiu sóng nước gởi thân tang bồng.
          Cơ đồ một phút như không,
          Trường An đá nát, bụi hồng vấn vương”
          Trong Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca ghi rằng:
          “Triệu Vương giáp trận Thái Bình
          Lý thua rồi mới thu binh xin hòa
          Triệu về Long Ðỗ, Nhị Ha,
          Lý về Hạ Mỗ, ấy là Ô Diên...
          ... Trở về giả chước vấn yên
          Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang
          Triệu Vương đến bước vội vàng
          Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua,
          Ðem con chạy đến Ðại Nha
          Than thân bách chiến phải ra đường cùng”!.
          Sách xưa luận rằng vì Triệu Việt Vương không muốn mang tiếng soán đoạt ngôi báu của nhà Tiền Lý nên khi Lý Phật Tử ngỏ lời giao hảo, Triệu Việt Vương thuận tình cho tròn đạo nghĩa công thần với Lý Nam Ðế. Lý Phật Tử đánh thắng Triệu Việt Vương không phải vì tài ba dũng lược mà vì âm mưu với người thân để nắm cơ hội thuận lợi. Khi nghe quân nhà Tùy hùng mạnh xâm lăng, bán đứng đất nước để yên thân nên cam chịu ách thống trị của Bắc phương mà tiền nhân đã dày công khôi phục.
                                                  Vương Trùng Dương
          #5
            phamnguyennhung 14.06.2008 07:27:26 (permalink)
             DANH NHÂN NƯỚC VIỆT 
              Vương Trùng Dương biên soạn


                 Mai Hắc Ðế (722)
               Khơi Nguồn Khởi Nghĩa Ðường Lâm

            Sau khi Lý Phật Tử xin thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa để chịu ách Bắc thuộc lần thứ ba, đất nước Giao Châu lệ thuộc vào nhà Tùy (589-617) vào năm 603.
            Khi Ðường Thái Tông lập nên triều đại nhà Ðường (618-907), trong thì dùng Phòng Huyền Linh, Ðỗ Như Hối, Ngụy Trưng; ngoài thì dùng Lý Tính, Lý Tích để thu tóm bốn phương vào một mối.
            Vào đầu thế kỷ thứ VIII, sau thời gian Võ Tắc Thiên giữ ngôi Nữ Vương, lấy quốc hiệu là Chu, Lý Long Cơ lập lại vương triều nhà Ðường, đưa thân phụ lên ngôi Hoàng Ðế là Ðường Duệ Tông, vài năm sau ngôi báu được nhường cho Lý Long Cơ là Ðường Huyền Tông, thời Trung Ðường.
            Ðời Ðường Huyền Tông (713-756), nền văn học nghệ thuật của Trung Hoa được đánh dấu thời kỳ cực thịnh, thi ca thời Sơ Ðường (618-713) và Thịnh Ðường (713-776) rất lẫy lừng bởi những nhân tài xuất hiện như Vương Xương Linh, Vương Duy, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Trương Kế... để lại biết bao áng thơ trác tuyệt cho hậu thế, tạo niềm hãnh diện trong văn học với ánh hào quang trên văn đàn quốc tế.
            Thế nhưng, từ Ðường Thái Tông đến Ðường Huyền Tông vẫn áp dụng con đường bành trướng của các triều đại cũ, cố mở rộng chính sách chinh phục từ Tây Vực đến Triều Tiên sang phía Nam bờ cõi, duy trì chính sách cai trị bằng vũ lực vì vậy quan lại ở biên cương có cơ hội trấn lột .
            Năm Kỷ Mão (679) Giao Châu đổi thành An Nam Ðô Hộ Phủ, đóng đô ở Giao Châu, thay đổi khu vực, chia ra 12 châu và 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khởi nguồn từ đó.
            Trong 12 châu đó gồm: Giao Châu, Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Trường Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái Châu, Hoan Châu và Diễn Châu. Vì vậy, danh xưng địa danh Giao Châu kể từ đó gồm 8 huyện chung quanh khu vực Hà Nội ngày nay.
            Ðất nước An Nam trong thời gian đó luôn luôn bị loạn lạc giữa nội tình và ngoại xâm. Có nhiều cuộc nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Ðường, trong đó có Mai Thúc Loan, huyện Thiên Lộc, Hoan Châu (nay thuộc Thạch Hà, Hà Tĩnh).
            Quê hương của Mai Thúc Loan nổi tiếng với quả vải, người dân phải thu hoạch rất nhiều rồi chọn lọc ra loại tuyệt hảo để cống phẩm cho quan chức hưởng thụ và mang về dâng cho triều đình. Nạn cống triều với quả vải, còn gọi là lệ chi được gọi là “cống lệ chi” làm cho dân tình điêu linh, khốn khổ.
            Sống trong cảnh lầm than đó, dòng họ Mai đã cam chịu từ đời nầy sang đời khác trong mảnh đất được gọi là gò họ Mai. Thế rồi, người đàn bà bất hạnh với cảnh đói rách phải đi làm thuê quần quật để lo cho miếng cơm manh áo, mang lấy bào thai, đẻ ra dứa con đen thui, đặt họ mẹ tên là Thúc Loan ở làng Ngọc Trừng.
            Theo sách Thiên Nam Ngữ Lục thì người đàn bà nghèo khó nầy đến xem nấu muối, bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình rồi mang thai.
            Tuy đen đủi, xấu xí nhưng Mai Thúc Loan thông minh, lanh lợi, có sức khỏe lạ thường và vô cùng gan dạ. Là người con chí hiếu, Mai Thúc Loan phụ giúp cho thân mẫu làm lụng, vào rừng kiếm củi. Thế rồi, cuộc đời bất hạnh lại ập đến cho cuộc đời cậu bé khi thân mẫu bị cọp vồ chết để cam phận trong cảnh đời mồ côi.
            Mai Thúc Loan sớm sống cuộc đời tự lập, đi làm thuê cho gia đình làm lò đúc đồng, được thời gian rồi không chịu cảnh bị ức hiếp của bọn quan lại, hào phú nên theo phường săn bắn cho thỏa nguyện với cuộc sống.
            Nhờ có sức khỏe và nhanh nhẹn nên Mai Thúc Loan trở thành tay đô vật và giỏi cung tên, được dân địa phương bầu làm thủ lĩnh. Người thợ săn Mai Thúc Loan có mồi thủ truyền kiếp với thù dữ nên bất chấp hiểm nguy, nghe nơi nào có bóng dáng thú dữ lai vãng liền tìm đến để diệt trừ. Tính gan dạ, cang cường ỳ đó đã tạo niềm tin với mọi người nên khi có giạc Chà Và và Côn Lôn cướp bóc, dân làng tôn Mai Thúc Loan lãnh nhiệm vai trò “Ðầu Phu” để chống trả với giặc cướp.
            Rồi mùa vải lại đến, quan quân nhà Ðường bắt dân chúng phải thu hoạch và cống nạp, Mai Thúc Loan lãnh trách nhiệm cầm đầu nhóm dân phu, băng rừng lội suối để mang cống phẩm về châu, huyện.
            Hận thù trước ách thống trị đó, Mai Thúc Loan liền hô hào dân chúng nổi dậy, năm Nhâm Tuất (722), năm Khai Nguyên thứ mười đời Ðường Huyền Tông ở Trung Hoa, cuộc phất cờ khởi nghĩa của Mai Thúc Loan được thành công khi chiếm được Hoan Châu, lập căn cứ cho công cuộc nổi dậy chống Bắc phương.
            Mai Thúc Loan chọn căn cứ Hùng Sơn, Ðại Sơn đề xây hào,đắp lũy và xây thành Vạn An, tự xưng là Hoàng đế và được mệnh danh là Mai Hắc Ðế.
            “Ðường đi cống vải từ đây dứt
             Dân nước đời đời hưởng phúc chung”.

            Cuộc khởi binh của Mai Thúc Loan được tiến hành chớp nhoáng nhờ sự hưởng ứng của dân làng, nghĩa binh từ vùng nầy lan rộng sang làng khác, có được đạo quân đông đảo , tuy chưa được huấn luyện thuần thục nhưng cũng áp đảo được quân giặc.
            Ðể tạo uy thế mạnh mẽ, Mai Hắc Ðế cho sứ giả vượt đèo Ngang vào Nam, qua Vụ Ôn sang Tàu, liên kết với Chân Lạp và Lâm Ấp để chống cự với quan quân nhà Ðường; và được sự hỗ trợ của hai nước láng giềng nầy.
            Mai Hắc Ðế chiếm được phủ thành Tổng Bình (Hà Nội), quan Ðô Hộ Quang Sở Khách hoảng sợ phải tháo chạy về nước xin cầu viện binh.
            Nhà Ðường phái quan Nội Thị là Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khách đem đại quân trở lại xung trận với Mai Hắc Ðế.
            Trước vũ lực hùng mạnh quả quân Bắc phương, Mai Hắc Ðế khó chống cự nổi nên rút vào vùng núi Hùng Sơn, còn gọi là Rú Ðụn, bên bờ sông Lam, cầm cự được thời gian ngắn, lâm bệnh nặng rồi mất.
            Ngày nay ở núi Vệ Sơn, Nghệ Tĩnh còn có vết tích di tích thành cũ của Mai Hắc Ðế và còn đền thờ ở Nam Ðàn, Nghệ Tĩnh.
            Tuy cuộc nổi dậy để khôi phục lại giang sơn đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn nhưng đã nói lên ý chí quật cường của con người bất khuất trước ách thống trị của bạo lực. Người dân nhớ ơn Mai Hắc Ðế , lập đền, ghi lại ánh thơ:
            “Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
            Vạn An thành lũy khói hương xông
            Bốn phương Mai Ðế lừng uy đức
            Trăm trận Lý Ðường phục võ công...”.
            Trong Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại hình ảnh của Mai Hắc Ðế:
            “Quan Ðường lắm kẻ tham tài,
            Bình dân hàm oán, trong ngoài họp mưu.
            Mai Thúc Loan ở Hoan Châu
            Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
            Hiệu cờ Hắc Ðế mở ra,
            Cũng toan quét dẹp sơn hà một phương.
            Ðường sai Tư Húc tiếp sang,
            Hợp cùng Sở Khách, hai đàng giáp công,
            Vận đời còn chửa hanh thông,
            Nước non để giận anh hùng nghìn thu
            Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn
            Hùng Sơn gió lặng khói lang không...””.
            Mai Hắc Ðế mất đi, An Nam chìm đắm lại trong thời kỳ Bắc thuộc. Và, trong thời gian sau đó, triều chính nhà Ðường rơi vào tình trạng bất an bởi Ðường Huyền Tông say mê Dương Quý Phi, An Lộc Sơn làm chức Tiết Ðộ Sứ kiêm cả khu vực Bình Lư, Phạm Dương và Hà Ðông (nay là Sơn Tây) để rồi làm cuộc tạo phản năm 755, Ðường Huyền Tông phải bỏ ngôi vua, lánh nạn ở đất Ba Thục. Mai Thúc Loan khởi nghĩa với địa lợi, nhân hòa nhưng chưa gặp thiên thời, nếu đúng vào giai đoạn tranh quyền ở Trung Hoa thì công cuộc quang phục quê hương sẽ được lâu dài.
            Gần bảy mươi năm sau, mới có ngọn cờ khởi nghĩa được tiếp nối với hình ảnh Phùng Hưng.
                                                   Vương Trùng Dương  
            #6
              phamnguyennhung 14.06.2008 21:12:53 (permalink)
                DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
                   Vương Trùng Dương biên soạn
               
                                                                              Bố Cái Ðại Vương (791)
                      Tấm Lòng Phụ Mẫu Chi Dân
               
               
              Sau khi dẹp được cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn và thanh trừng đồng giảng kéo dài suốt mười năm (755-765), kế thừa Ðường Huyền Tông là Ðường Túc Tông (756-762), Ðường Ðại Tông (762-778), Ðường Ðức Tông (780-805)... chính sách cai trị của nhà Ðường càng thêm khắt khe để ngăn chận sự tạo phản và vơ vét tài sản, của cải dân chúng nhằm đền bù vào thiệt hại bị đổ vỡ trong thời tao loạn. Vai trò Tiết Ðộ Sứ càng ngày càng đầy uy quyền và tệ trạng cường hào ác bá được bảo vệ bởi quan chức chính quyền làm cho dân tình khốn đốn.
              Tình trạng đất nước An Nam, sau hai thập niên Mai Hắc Ðế qua đời, năm 742 bị rơi vào Bắc thuộc lần thứ tư, ách thống trị lại đè đầu trên người dân An Nam.
              Ðầu năm 783, nhà Ðường áp dụng chính sách thuế má nhằm thu vén lợi tức của người dân gây nên tình trạng khốn khổ.
              Nhân cơ hội đem quân sang cai trị ở Cửu Chân, quan Ðô Úy Cao Chính Bình giữ vai trò đô hộ An Nam, hùng cứ một phương, tung hoành, tác quái, quân lính được thể, lộng hành, cướp bóc. Chính sách sưu cao, thuế nặng do Cao Chính Bình áp dụng làm cho người dân An Nam điêu đứng, đói rách!
              Ở Ðường Lâm, Phong Châu (nay là Ba Vì, Hà Tây) có gia đình họ Phùng, trước kia đã theo ngọn cờ khởi nghĩa của Mai Hắc Ðế.
              Ông bà Phùng Hạp Khanh có ba anh em là Phùng Hưng, tự là Công Phấn, Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả ba anh em đều có sức khỏe phi thường, gan dạ, lanh lẹ, mưu chước, nổi tiếng với tài săn bắt thú dữ, mọi người đều thán phục.
              Tiếp nối dòng máu quật cường của thân phụ nên khi cha mẹ qua đời, Phùng Hưng giữ vai trò thủ lĩnh ở Ðường Lâm.
              Trước nỗi thống khổ của người dân, Phùng Hưng chiêu tập nghĩa binh, dân làng, khởi điểm từ Ðường Lâm, nổi dậy chống với quan quân nhà Ðường. Cuộc khởi nghĩa từ làng, xã đã mang mạng thắng lợi, theo lời kêu gọi, dân quân các vùng lân cận đồng lòng hưởng ứng công cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Cao Chính Bình đem quân đàn áp nhưng bị thất bại, kéo dài từ năm nầy sang năm khác cũng không dẹp được thế lực vừa hư vừa thực, lúc ẩn lúc hiện của nghĩa binh Phùng Hưng.
              Năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng đổi tên là Cự Lão, xưng là Ðô Quân, Phùng Hải là Ðô Bảo, cùng hai tướng là Phùng Dĩnh và Bồ Phá Lặc cùng quân sư mưu lược là Ðỗ Anh Hàn đem năm đạo quân đến đánh thành Ðại La, còn gọi là Tổng Bình (nay là Hà Nội). Cao Chính Bình đem bốn vạn quân dàn trận để nghinh chiến, sau vài ngày giao tranh, quân Cao Chính Bình nao núng nên rút vào trấn thủ thành.
              Chiếm được thượng phong, Phùng Hưng cho nghĩa binh vây kín để cô lập, Cao Chính Bình hoàng sợ, phát bệnh rồi chết, Phùng Hưng chiếm được thành trì, phong cho Phùng Hải làm Thái Úy, con của Phùng Hưng là Phùng An làm Ðô Phủ Quân. Giữ được thành một thời gian ngắn, lo chỉnh đốn công việc triều chính cho giai đoạn quang phục, chẳng may, Phùng hưng bị bệnh, qua đời. Dân chúng thương tiếc, lập đền thờ ở vùng Thịnh Hào (nay là Ðống Ða, Hà Nội), tôn xưng là Bố Cái Ðại Vương (bố là cha, cái là mẹ, xem như bậc phụ mẫu).
              Dân chúng và quân sĩ muốn lập Phùng Hải nhưng nội bộ lủng củng, Bồ Phá Lặc lập con của Bố Cái Ðại Vương là Phùng An lên nối nghiệp để tiếp tục vai trò của thân phụ đang còn dang dở. Theo mưu kế của Bồ Phá Lặc, Phùng Hải bị lưu đầy ra ở động Chu Nhan. Phùng An cầm quyền được hai năm nhưng không gầy dựng được thế lực hùng mạnh để đương đầu với quân nhà Ðường.
              Nhà Ðường phong Lý Phục làm Tiết Ðộ Sứ và Triệu Xương làm Ðô Hộ đem đại quân sang uy hiếp. Lão tướng Triệu Xương dùng phương kế vừa đe dọa vừa cho người chiêu dụ, nhận thấy khó đương cự nên Phùng An xin đầu hàng.
              Ðất An Nam lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.
              Theo lời truyền, Bố Cái Ðại Vương rất hiển linh, giúp dân chúng mỗi khi hoạn nạn. Sau nầy sự hiển linh đó giúp cho Ngô Quyền khôi phục được sơn hà, lập đền thờ Bố Cái Ðại Vương ở Quảng Bá (Hà Nội), Triều Khúc (Hà Tây), ở Ðại Ứng, Phương Trung, Hoạch An (Hà Tây)... lưu truyền cho hậu thế.
              Các triều đại sau đều phong tặng danh thần, gọi Bố Cái Ðại Vương là Phu Hựu Vương Tín Sùng Nghĩa Ðại Vương.
              Trong Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca tóm lược cuộc đời Phùng Hưng qua các dòng thơ:
              “Ðường Lâm mới có Phùng Hưng
              Ðã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào
              Cõi Tây nổi việc cung đao,
              Ðô Quân tôn hiệu, Tảo Thao hiệp tình
              Ðem quân thẳng đến vây thành
              Ðại La thế bức, Chính bình hồn tiêu
              Nhân phủ trị, mở ngôi triều
              Phong châu một giải nhiếp điều mấy niên
              Ðế hương phút trở xe biền
              Ðại Vương Bố Cái, tiếng truyền muôn thu
              Phùng An con nối thơ ngu
              Nghe quan nhu viễn, bày mưu hàng Ðường”
              Sau khi thống trị đất An Nam, nhà Ðường tạo được thế mạnh nên đem quân trấn áp nước Lâm Ấp. Riêng đất An Nam, nhà Ðường vẫn lo mối nguy cơ cho cuộc nổi dậy nên vào giữ thế kỷ thứ IX, nhà Ðường sai Cao Biền, vừa là tướng giỏi, vừa là nhà địa lý, phù thủy cao tay ấn, sang làm Tiết Ðộ Sứ. Vua nhà Ðường đổi An Thanh làm Tỉnh Hải, Cao Biền trấn ém nhân tài đất Nam và áp dụng việc cai trị có phép tắc, ít tàn bạo hơn những quan chức trước kia. Sau khi Cao Biền trở về làm Tiết Ðộ Sứ ở Tứ Xuyên, người cháu là Cao Tầm được thay thế. Bước sang đầu thế kỷ thứ X, lá bùa của Cao Biền trấn ém “Lĩnh khí ở phương Nam” không còn hiệu nghiệm?. Vẫn có ngọn cờ làm rạng danh trang sử với hình ảnh Ngô Quyền cùng quê cha đất tổ ở Ðường Lâm.
                                                     Vương Trùng Dương  
              #7
                phamnguyennhung 15.06.2008 20:57:42 (permalink)
                             DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
                                                 Vương Trùng Dương biên soạn
                 
                 
                                                   Ngô Quyền (897-944)
                                         Tài Cao Thao Lược Bạch Ðằng
                 
                 
                Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ IV (603-939) kéo dài từ triều đại nhà Ðường đến thời kỳ Ngũ Ðại Thập Quốc, còn gọi là Ngũ Quý (907-960) ở Trung Hoa. Năm Ðinh Mão (907), nhà Ðường mất ngôi, Trung Hoa rơi vào tình trạng loạn suy bởi sự tranh giành quyền lực, lần lượt nắm quyền thống trị trong giai đoạn ngắn, lập nên Hậu Lương (907-923), Hậu Ðường (923-936), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-950) và Hậu Chu (951-960).
                Lợi dụng tình thế, năm Ðinh Mão (907), nhà Ðường suy tàn, thế lực với bên ngoài suy yếu, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng ở Hồng Châu (Ninh Giang, Hải Dương) được lòng tín nhiệm của mọi người, nổi dậy giành quyền tự chủ, thay quan nhà Ðường làm Tiết Ðộ Sứ đất Giao Châu. Một tấm lòng son nhưng mệnh vắn, nắm quyền được thời gian ngắn thì qua đời, con là Khúc Hạo nối nghiệp cha được mười năm, cải chính lại việc hành chánh và thuế má cho phù hợp đời sống người dân. Năm Ðinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay, giữ vai trò Tiết Ðộ Sứ. Trong thời gian nầy, Lưu Cung ở Quảng Châu, bất hòa với nhà Hậu Lương, đứng lên lập triều chính, xưng đế, quốc hiệu là Ðại Việt, sau đó đổi thành Nam Hán.
                Năm Quý Mùi (923) Vua Nam Hán đem quân sáng đánh thành Ðại La, bắt được Khúc Thừa Mỹ rồi cử Lý Tiến làm Thứ Sử và Lý Khắc Chính làm Tiết Ðộ Sứ đất Giao Châu, áp dụng chính sách đàn áp, cuộc sống người dân trở lại thời kỳ đen tối.
                Năm Tân Mão (931) vị tướng của Khúc Hạo ở đất Ái Châu (Thanh Hóa) là Dương Diên Nghệ, còn gọi là Dương Ðình Nghệ, chiêu mộ nghĩa binh, đánh dẹp được quân Nam Hán, chiếm được Ðại La, làm Tiết Ðộ Sứ. Dưới quyền của Dương Diên Nghệ có hai vị tướng tài là Ngô Quyền, trung hậu, thẳng thắn và Kiều Công Tiễn, mưu mô, gian ác. Dương Diên Nghệ có người con gái là Dương Như Ngọc, tuổi vừa đôi mươi, tài sắc vẹn toàn, Ngô Quyền và Kiều Công Tiễn đều yêu thương Như Ngọc. Ðể tỏ sự công bằng và chọn người tài ba nhằm gả chồng cho con gái, Dương Diên Nghệ tổ chức cuộc thi tuyển cho nha tướng có cơ hội thi thố tài năng. Cuối cùng chỉ còn Ngô Quyền và Kiều Công Tiễn được lọt vào vòng chung kết. Cuộc thi phi ngựa và phóng lao đến lúc kết thúc, con bạch mã của Ngô Quyền lao về phía trước bỏ rơi con hắc mã của Kiều Công Tiễn, tức giận trước đối thủ, Kiều Công Tiễn rút cung bắn vào chân ngựa bạch mã cũng là lúc ngọn đao của Ngô Quyền cắm vào mục tiêu hình nộm.
                Tài ba và dũng khí của Ngô Quyền làm mọi người thán phục, Ngô Quyền chiếm được trái tim Như Ngọc giữa ba quân.
                Cùng quê cha đất tổ với Bố Cái Ðại Vương, Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Ðinh Tỵ (897) ở Ðường Lâm. Thân phụ là Ngô Mân, vị hào trưởng đức độ và khí khái, luôn luôn tự hào trên mảnh đất quê hương đã sinh sản ra vị anh hùng đầy nghĩa khí phất cao ngọn cờ, chống trả ngoại xâm.
                Theo Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu ((1230-1322, bản khắc năm 1697) hình ảnh Ngô Quyền “Khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có trí dũng, sức có thể nhấc vạc giơ cao”, được trau dồi võ nghệ và cung tên rất thuần thục nên tuy còn trẻ đã nổi tiếng trong vùng.
                Khi Dương Diên Nghệ nuôi ba nghìn giả tử (con nuôi) nhằm ý định khôi phục thế lực nhằm tạo thơi cơ chống cự với quân Nam Hán. Trong số giả tử đó, Ngô Quyền được coi là người tin yêu nhất trong gia đình họ Dương. Và, thời gian sau, Ngô Quyền trở thành rể quý của Dương Diên Nghệ.
                Dương Diên Nghệ cử Ngô Quyền cai quản xứ Thanh (Châu Ái) và Ðinh Công Trứ (thân phụ Ðinh Bộ Lĩnh) cai quản xứ Nghệ (Châu Hoan).
                Năm Mậu Tuất (938), Dương Diên Nghệ trong chuyến đi săn ở ngoài thành bị Kiều Công Tiễn rình rập, dùng tên độc bắn chết. Loạn tướng Kiều Công Tiễn chiếm được Ðại La, nhiều công thần của Dương Diên Nghệ lên án hành động gian manh bị Kiều Công Tiễn giết hại. Ðể đối phó với tình thế, lo sợ sự phản công, Kiều Công Tiễn cho người sang cầu cứu vua Nam Hán, nắm được cơ hội vua Nam Hán phong tước cho thái tử Hoằng Thao, đem đại quân sang đất Giao Châu.
                Nhận được hung tin, Ngô Quyền sau khi làm lễ phát tang, cùng em vợ là Dương Tam Kha kêu gọi binh sĩ, được sự hưởng ứng của tất cả mọi người, Ngô Quyền thống lĩnh đạo quân kéo ra Bắc trị tôi kẻ phản phúc đang nối giáo cho quân Nam Hán.
                Khi kéo quân tới gần thành Ðại La, Ngô Quyền phải phân vân trước hai thế lực: thù trong và giặc ngoài. Vốn dòng võ quan, Như Ngọc am tường binh thư. sách lược, phụ giúp cho chồng thu phục nhân tâm.
                Sách Thiên Nam Ngữ Lục ghi lời rao tác động tâm lý được phổ biến:
                “Bảo nhau dắt trẻ, phù già
                 Bỏ chưng Công Tiễn, về nhà Ngô Vương”
                Mùa Ðông năm 938, khi đại quân của Ngô Quyền vây thành Ðại La, cho người dùng loa kêu gọi Kiều Công Tiễn đầu hàng, nhận được tin tức tiếp ứng, nhiều võ quan và binh sĩ nổi loạn, nội tình rối loạn, Ngô Quyền đột phá cổng thành, bắt Kiều Công Tiễn, lên án kẻ phản bội rồi chém đầu.
                Trong khi đó vua Nam Hán bàn thảo kế hoạch tiến công, Tiêu Ích cho rằng “Ðường bể hiểm và xa, Ngô Quyền là người kiệt liệt, không nên khinh thường” (Việt Sử Tiêu Án), nhà vua không nghe, cho đạo quân xuôi Nam bằng đường thủy.
                Tháng 12 năm 938, Ngô Quyền áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa nhử, một mặt cho quân sĩ cắm cọc nhọn bịt sắt dưới lòng sông Bạch Ðằng, một mặt cho thủy quân dùng thuyền nhẹ ra vịnh Hạ Long khiêu chiến rồi rút dần vào cửa sông Bạch Ðằng. Hoằng Thao cho chiến thuyền đuổi theo, đợi khi thủy triều xuống, quân sĩ của Ngô Quyền mai phục hai bên bờ sông tung ra xông trận, thủy quân Nam Hán hoảng hốt quay thuyền tháo lui, bị cọc sát đâm thủng, quan quân rối loạn, hàng ngũ tan rã, Hoằng Thao bị giết, máu quân Nam Hán loang đỏ dòng sông.
                Chiến thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Ðằng với quân ngoại xâm ghi lại chiến tích hào hùng cho trang sử, đem lại quyền tự chủ của dân tộc sau 11 thế kỷ bị nội thuộc.
                Năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Ðông Anh, Hà Nội), nhà vua đặt lại triều chính, chỉnh đốn cơ nghiệp cho triều đại dành được quyền tự chủ nhưng rất tiếc, Ngô Quyền làm vua được 6 năm, quan đời ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn (944) , thọ 47 tuổi. Ðền thờ Ngô Vương được lập ở Ðương Lâm
                Sau nầy Hưng Ðạo Vương đại phá quân Nguyên cũng trên dòng sông Bạch Ðằng ghi lại chiến công hào hùng nhất trong lịch sử nước nhà làm vẻ vang dân Việt.
                Vào thế kỷ XIII, bài thơ Hành Dịch Ðăng Gia Sơn của danh sĩ Phạm Sư Mạnh, học trò xuất sắc của Chu Văn An được lưu truyền cho hậu thế hình ảnh thật hào hùng:
                Hành dịch đăng gia sơn,
                Kiều thủ vạn lý thiên.
                Ðổ bằng nam minh ngoại,
                Tân nhật đông nhạc tiền.
                Yên Phụ thiên nhất ác,
                Tượng Ðầu nhẫn cửu thiên.
                Tằng tằng Tử Tiêu vân,
                Hội phỏng An Kỳ tiên.
                Húng húng Bạch Ðằng đào,

                Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
                Ức tích Trùng Hưng Ðế,
                Khắc chuyển khôn oát kiền.
                Hải phố thiên mông đồng,
                Hiệp môn vạn tinh chiên.
                Phản chưởng điện ngao cực,
                Vãn Hà tẩy tinh chiên.
                Chí kim tứ hải dân,
                Trường thuyết cầm Hồ niên.”

                Dịch Nghĩa

                Nhân Ði Việc Quan, Lên Chơi Núi Quê Nhà

                Nhân đi việc quan, thăm núi quê nhà,
                Ngẩng đầu nhìn giữa trời cao muôn dặm.
                Thấy chim bằng tận ngoài biển Nam,
                Ðón mặt trời trước dãy núi phía Ðông.
                Núi Yên Phụ cách trời trong khoảng tất,
                Núi Tượng Ðầu cao chín nghìn mẫu .
                Lớp lớp trời mây phủ trên đỉnh Tử Tiêu,
                Nhân dịp hỏi thăm tiên An Kỳ.
                Sóng Bạch Ðằng cuồn cuộn.

                Tưởng tượng tới thuyền của Ngô Vương.
                Tưởng nhớ hình ảnh vua Trùng Hưng xưa,
                Khoảnh khắc làm xoay chuyển đất trời.
                Hàng nghìn chiến thuyền ngoài cửa biển,
                Muôn vạn lá cờ lệnh trên cửa ải.
                Trở bàn tay tạo bờ cõi bình yên
                Kéo nước sông Ngân rửa sạch vết tanh hôi.
                Mãi đến hôm nay lòng dân cả nước,
                Nhắc mãi năm xưa đuổi bắt giặc Hồ.
                Sách Ðai Nam Quốc Sử Diễn Ca lược ghi:
                “Bạch Ðằng một trận giao phong
                Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu
                Quân thân đã chính cương trù
                Giang sơnrấy có vương hầu chủ trương
                Về Loa Thành mới đăng quang
                Quang danh cải định, triều cương đặt bày...”
                Bài phú Bạch Ðàn Giang Phú của Trương Hán Siêu vào thế kỷ XIV đời nhà Trần nói lên hình ảnh trong chiến trận Bạch Ðằng:
                Bát ngát sóng kình muôn dặm
                Thướt tha đuôi trĩ một màu...
                ... Sông chìm giao ngã, gò đầy xương khô...
                Ðến nay nước sông tuy chảy hoài
                Mà nhục quân thù không rửa nổi!”
                Sau khi Ngô Vương mất đi, nội tình rơi vào tình trạng phân hóa trầm trọng bởi việc tranh quyền trong gia đình, mang lại hậu quả thảm thương ở vương triều và đất nước.
                Ngô Vương lập Dương Như Ngọc làm vương hậu, có hai người con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn; khi Ngô Vương qua đời, để di chúc lại cho Ngô Xương Ngập nhưng Dương Tam Kha, cướp lấy quyền cháu, tự xưng là Bình Vương (945-950). Ngô Xương Ngập thấy nguy nên trốn sang Nam Sách rồi vào núi ẩn náu.
                Dương Tam Kha bắt Ngô Xương Văn làm con nuôi, thới gian nầy có nhiều loạn nổi lên vì bất đồng với Dương Tam Kha. Năm Canh Tuất (950) có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn và hai tướng Dương Cát Lợi và Ðỗ Cảnh Thạc đem quân dẹp loạn. Vừa mới động binh di chuyển đến từ Liêm thì Ngô Xương Văn bàn mưu cùng hai tướng quay trở lại bắt Dương Tam Kha; nghĩ tình cậu cháu nên giáng cấp Dương Tam Kha xuống làm Chương Dương Công (nay là bến Chương Dương Ðộ) để thu thuế nơi đó mà sinh sống.
                Ngô Xương Văn lên làm vua xưng là Nam Tấn Vương, cho người mời Ngô Xương Ngập về chia ngôi vị, xưng là Thiên Sách Vương vì vậy sử gọi là Hậu Ngô Vương.
                Bấy giờ nhà Nam Hán rất mạnh nên Nam Tấn Vương xin thần phục Trung Hoa do đó Hán Ẩn Ðế phong cho Ngô Xương Văn làm Tĩnh Hải Tiết Ðộ Sứ. Giữ ngôi vị được 15 năm (950-965) thì bị bắn chết trong trận giao chiến ở Thái Bình, không có con kế tự nên con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí lên thay, đóng ở đất Bình Kiều. Bấy giờ trong nước rơi vào tình trạng loạn lạc, Ngô Xương Xí xưng là Ngô Sứ Quân, sử ghi đó là thời kỳ Thập Nhị Sứ Quân.
                Ngô Quyền có công gầy dựng nên nhà Tiền Ngô với hình ảnh cao đẹp, mở ra thời đại tự chủ, tiếc rằng con cháu không tiếp nối ngọn cờ chính nghĩa để cơ nghiệp Ngô Vương được trường tồn.
                                               Vương Trùng Dương
                 
                #8
                  phamnguyennhung 16.06.2008 09:49:52 (permalink)
                   NGUYÊN SA,
                              Lời thơ ý nhạc... gởi người trần gian
                    Vương Trùng Dương

                           Tưởng nhớ ngày mất cố thi sỹ Nguyên Sa: 17 tháng 4 năm 1998, Cali Weekly đăng tải lại bài viết sau ngày tiễn đưa ông về cõi vĩnh hằng - VTrD

                        Vào thời điểm cuối thập niên 90, nhiều khuôn mặt tên tuổi trong Văn Học Việt Nam hiện đại nói chung, lưu vong nói riêng đã vĩnh viễn ra đi. Một trong những cây bút nổi tiếng về thơ, văn, biên khảo... đã góp mặt trong suốt bốn thập niên từ quê nhà và hải ngoại: Nguyên Sa.
                  Ngày 10 tháng Giêng năm 1998, Mai Thảo rời xa cõi trần. Vĩnh biệt Mai Thảo được yên nghỉ ở Vườn Vĩnh Cửu - Westminster Memorial Park - Little Saigon, Cali, Nguyên Sa đã “Tiễn Bạn” đồng nghiệp với dòng thơ:
                  “Tiễn nhau nhớ tháng Giêng, mưa
                  Sông hồng mướt động bóng chưa nhập hình
                  Tiễn anh linh hiển u minh
                  Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi”.
                  Thứ Bảy ngày 17 tháng 4 năm 1998, Nguyên Sa không còn nữa, được yên nghỉ cùng nơi chốn với Mai Thảo. Cả hai, cùng thời điểm bước vào con đường văn nghệ, có mối tương quan với nhau và lại ra đi trong bao niềm thương tiếc.
                  Mai Thảo bước vào cửa ngõ văn chương chữ nghĩa trước Nguyên Sa khoảng thời gian ngắn. Sau hiệp định Genève 1954, di cư vào Sài Gòn, truyện ngắn Ðêm Giã Từ Hà Nội được trình làng trên tờ Lửa Việt vào năm 1955 của Hội Sinh Viên Ðại Học Hà Nội, tạo thế đứng cho người cầm bút.
                  Nguyên Sa khởi đầu góp mặt trong dòng sinh hoạt văn nghệ với bài thơ Nga, sáng tác vào Giáng Sinh 1954 ở Solden, trình làng trên tờ Người Việt đã đáp ứng luồng gió mới trong thi ca. Ðầu năm 1956, từ Paris trở về Sài Gòn, vốn yêu thích con đường văn nghệ và ông nhập cuộc.
                  Thanh Tâm Tuyền đã viết những lời chào mừng Nguyên Sa trên trang báo văn nghệ, trong sự mong ước, trong bước khởi đầu của thi phái tự do, có bạn đồng hành với dòng thơ rất tuyệt. Sau bài Nga, bài Tự Do trên Sáng Tạo số 2 tháng 11-56, Tiễn Biệt trên Sáng Tạo số 4 tháng 1-57... từ đó, dòng thơ Nguyên Sa dần đà xuất hiện và được giới trẻ xem như thông điệp tình yêu, truyền đạt cho nhau.
                  Mùa Thu năm 1956, được sự tài trợ của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Mai Thảo đảm nhận tờ Sáng Tạo, quy tụ nhiều cây bút của tờ Lửa Việt, Người Việt đình bản, tên tuổi Nguyên Sa đã xuất hiện đều đặn về tiểu luận văn học, triết học và thi ca. Sau 3 thập niên, trong tác phẩm Chân Dung (Văn Khoa 9-1985), Mai Thảo viết về kỷ niệm, dấu tích với 15 nhà thơ, nhà văn, trong đó có Nguyên Sa:”... Bấy giờ là 1955-1956, Nguyên Sa mới chia tay với tả ngạn sông Seine và Ðại học Sorbonne từ Pháp trở về... Nguyên Sa lập tức đi giầy mặc áo ra sân chơi văn chương... Ðó là bài thơ Nga với tiểu đề “thay cho thiệp báo hỷ”, cũng là bài thơ đầu tiên Nguyên Sa làm từ Paris mang về và trao cho chúng tôi. Báo hỷ thật. Báo hỷ không chỉ về sắp sống chung hòa bình với một vị hôn thê mà thơ ngộ nghĩnh tả lúc như “một con chó ốm” lúc như “một con mèo ngủ”. Mà còn báo hỷ cho thơ. Rằng thơ vừa có tin vui. Rằng thơ Việt Nam có một vì sao mới... Nguyên Sa hồi hương đã đi ngay vào thơ trên lối vào rực rỡ sinh động nhất của thơ lúc bấy giờ. Ðiểm nầy tôi viết như nhận định một sự thật về thơ Nguyên Sa thời kỳ khởi đầu, cái vị trí tiền phong của tiếng thơ Nguyên Sa mới về nước và trong thập niên 50, tuyệt đối không vì cảm tình hoặc xô đẩy của ngòi bút... Thành ra mấy chục năm rồi, cái anh chàng liệu bệu tròn hoay về từ Paris và ra sân với chúng tôi ngày nào đã là tay đua đường trường ngoại hạng. Ðã là một Nguyên Sa marathon”.
                  Mai Thảo, nhà văn có nhiều hệ lụy tình cảm và cuộc sống nổi trôi trong thế giới đèn mầu. Nguyên Sa không ngụp lặn trong thế giới đèn mầu, sống trong phong cách nhà giáo, làm thơ, viết văn, viết báo...
                  Nguyên Sa vẫn giữ phong cách đạo mạo của nhà giáo như thuở nào. Khi đổi đời, tị nạn tại Paris, Pháp, là thành viên trong Văn Bút Việt Nam, Nguyên Sa cùng Minh Ðức Hoài Trinh, Trần Thanh Hiệp và anh em cầm bút xúc tiến việc hình thành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại...
                   Sang định cư tại Cali, Hoa Kỳ, Nguyên Sa thực hiện tạp chí Ðời, sau chuyển sang tuần báo khổ standard, Phụ Nữ Việt Nam và bước vào thế giới âm nhạc, nhà sản xuất băng nhạc, video với Trung Tâm băng nhạc “Ðời”. Thế nhưng, khi hạt cát trở về với cát bụi, hạt cát đã dệt thành những dòng thơ trác tuyệt, nhập vào cung bậc, lơ lửng, óng ánh giữa chốn hồng trần.

                                                                            *
                  Nguyên Sa Trần Bích Lan sinh ngày 01 tháng Ba năm 1932 tại Hà Nội, theo học trường Lycée Albert Sarraut. Khi kháng chiến bùng nổ, gia đình ông tản cư ra Vân Đình, Hà Đông... sau khi hồi cư về lại Hà Nội, năm 1949 ông được gởi sang Pháp đến năm 1953, đậu tú tài và theo học triết ở đại học Sorbonne. Thời gian ở Paris, ông gặp cô Trịnh Thúy Nga và năm 1955 kết duyên vợ chồng, đầu năm 1956, vợ chồng trở về Sài Gòn. Ông là con lớn trong gia đình, năm 1952, thân phụ qua đời, năm 1954 gia đình di cư vào Nam vì vậy ông làm đơn xin trở về nước dạy học để gần gũi và giúp đỡ gia đình. Khi chuẩn bị đi nhận làm Hiệu trưởng trường trung học đệ nhất cấp ở Ban Mê Thuột, tình cớ ông gặp cụ Nguyễn Ngọc Cư và cụ đã nhường cho ông vài giờ dạy triết và Pháp văn ở trường trung học Chu Văn An. Từ đó ông có cơ hội tiếp tục ngành giáo ở Sài Gòn.
                  Theo nhà giáo Lưu Trung Khảo, em rể, Trần Bích Lan:“Bút hiệu Nguyên Sa, ông sử dụng từ thời ở Pháp và theo lời ông thì bút hiệu đó không có gì sâu sắc cả. Thành thực, lúc nào tôi cũng cho tôi là số không, tôi không lớn nên tôi tự cho mình vốn dễ chỉ là hạt cát”. Khi thực hiện tờ Dân Chúng ở Little Saigon, ông đăng thơ lấy bút hiệu là Trần Khiết. Ông cho biết: “Trần Khiết là một tên tôi thấy trong danh sách những người vượt biển bị chết. Nhiều người quen tôi có tên là Khiết, có người bạn học cũ, có người quen thân nên tên Khiết gợi cho tôi một chút man mác nào đó. Một hôm tôi làm xong một bài thơ, muốn tìm một cái tên thật lạ, coi như đăng báo lần đầu tiên và tôi chọn tên ấy trong danh sách những người vượt biển đông bị tử nạn”.
                  Nguyên Sa dạy Triết cho nhiều trường Trung học & Ðại học Văn Khoa ở Sài Gòn. Xây dựng trường Văn Học trên đường Phan Thanh Giản ở Sài Gòn.
                  Từ bài thơ đầu đời Nga xuất hiện trên tờ Lửa Việt, sau đó Nguyên Sa cộng tác với tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo. Năm 1960, chủ trương tạp chí Hiện Ðại, sống được 9 số. Thuở đó, có 3 tờ được trợ cấp của Phủ Tổng Thống, tờ Sáng Tạo của Mai Thảo, tờ Thế Kỷ Hai Mươi của Nguyễn Khắc Hoạch và tờ Hiện Ðại do Nguyên Sa chủ trương, Chủ bút: Thanh Nam và Tổng thư ký: Thái Thủy. Hiện Ðại sống được 9 số từ tháng 4-60 đến 12-60. Nguyên Sa tiếp tục xuất hiện trên nhiều báo ở Sài Gòn và cả tờ Ðất Nước phát xuất từ Ðại học Huế với nhóm Nguyễn Văn Trung, Ðỗ Long Vân do Thành Hiện Ðại đảm nhận phân phối. 
                  Ông nhập ngũ vào Khóa 24 Sĩ quan Thủ Đức vào cuối năm 1966, làm đại diện khóa và trong Ban Biên Tập SVSQ liên khóa 23 & 24 (trong Ban Biên Tập nầy có Giáo sư Lưu Trung Khảo, Luật sư Trần Sơn Hà và tôi định cư ở Little Saigon, nhiều anh em khác ở Hoa Kỳ và Chu Tân ở Đà Nẵng). Nguyên Sa phục vụ tại Trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ năm 1967 đến tháng 4-1975.
                  Năm 1974, ra đời tạp chí Nhà Văn... Nguyên Sa sáng tác trên nhiều lãnh vực, ngoài thơ, văn còn biên khảo về triết học & văn học, giáo khoa, nhận định... Mỗi lãnh vực chỉ có vài tác phẩm nhưng thể hiện được sự sâu sắc, sinh động, mới lạ, giá trị. Trần Bích Lan lấy nhiều bút hiệu, trong đó ngòi bút phiếm luận với tên Hư Trúc trên tờ Sống xuất thủ nhiều tuyệt chiêu sắc sảo, độc đáo mới lạ thoáng hiện giữa chiêu thức chính giáo Thiếu Lâm Tự và tà giáo Tiêu Dao.
                  Tên tuổi nhà thơ gắn liền với thi phẩm Thơ Nguyên Sa, xuất bản cuối năm 1957 tại Sài Gòn, tái bản gần 20 lần. Năm 1987, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội ấn hành tập thơ nầy cùng với nhiều tập thơ thời tiền chiến.
                  Trải qua ba thập niên, Thơ Nguyên Sa, tập hai, sáng tác trong khoảng thời gian 1982 đến 1988 và số bài thơ ở thập niên 60-70, ấn hành tại Cali, nhà xuất bản Ðời, tháng 8, 1988. Thơ Nguyên Sa, tập ba, sáng tác trong khoảng thời gian 1988 đến 1995 (tháng 8, 1988 là thời điểm Nguyên Sa bị giải phẫu ung thư cổ), ấn hành tại Cali, nhà xuất bản Ðời, tháng 7, 1995. Trong 3 tập thơ của Nguyên Sa, tập hai & ba, hình như ít ai biết đề cập đến dòng thơ Nguyên Sa. Trong 55 bài thơ ở tập hai, còn vang vọng bài Tám Phố Sài Gòn; trong 42 bài thơ ở tập ba, có lẽ bài Phân Thân với thể lục bát còn gợi nhớ trong ngôn ngữ thi ca. Thơ Nguyên Sa, tập bốn, xuất bản sau ngày nhà thơ qua đời.
                  Giữa thập niên 1950, ở kinh thành ánh sáng Paris, Nguyên Sa mở cánh cửa vào nền thơ mới, thơ tự do dung dị từ ngôn ngữ lẫn âm điệu, ý thơ rất trữ tình, lãng mạn trong lứa tuổi yêu đương đầy mộng mơ của thời gian đèn sách. Hình ảnh thần nữ ngự trị thi ca theo thần thoại của một thời xa xưa không còn chi phối tâm hồn nhà thơ trẻ ở giảng đường Sorbonne.
                  Nguyên Sa mở lối vào ngôn ngữ thi ca bằng ngôn ngữ trẻ trung, mới, giản dị. Thể tỷ hứng, cách liên tưởng, so sánh của Nguyên Sa, qua bao thập niên, chỉ có ở Nguyên Sa. Hình ảnh “Nga” trong thơ từ ngày còn thuở sinh viên trở thành người tình, người bạn đời đi bên cạnh nhà thơ suốt cả chặng đường dài, mang cả luồng gió lẫn phong ba, tạo nguồn sinh khí trong ngôn ngữ thi ca, để lại dấu ấn trong văn học Việt Nam:
                  “Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
                  Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
                  Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa xe mình
                  Ðể anh giận sao chả là nước biển!...
                  ... Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
                  Với một chữ N
                  Với một chữ G
                  Và với một chữ A...”
                  Thơ Nguyên Sa tập một, gồm 40 bài thơ sáng tác vào giữa thập niên 50 ở Pháp và những bài thơ khi trở về nước. Thi phẩm xuất hiện, được đón nhận như món quà trân quý cho thời kỳ chuyển hướng trong thi ca. Ngoài ra, hồn thơ Nguyên Sa xâm nhập vào cửa sổ, sân trường, cặp sách, trang vở học trò; là nỗi niềm, tâm sự, là nhịp cầu nối kết thương yêu, là lời bầy tỏ chất chứa niềm khát khao, ước vọng của trái tim đang mong mỏi về hình ảnh muốn thổ lộ tình cảm như bài Cần Thiết:
                  “Không có anh lấy ai đưa em đi học về
                  Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
                  Ai lau nước mắt cho em ngồi khóc
                  Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa...
                  ... Không có anh nhỡ một mai em khóc
                  Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi
                  Tóc sẽ dài thêm mái tóc buồn thơ
                  Không có anh thì ai ve vuốt.
                  Không có anh lấy ai cười trong mắt
                  Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong
                  Ai cầm tay mà dắt mùa xuân
                  Nghe đường máu run từng cành lộc biếc.
                  Không có anh nhỡ ngày mai em chết
                  Thượng đế hỏi anh sao tóc em buồn
                  Sao tay gầy, sao đôi mắt héo hon
                  Anh sẽ phải cúi đầu đi về địa ngục...”

                  Bài thơ Tiễn Biệt của ông được Song Ngọc khi còn đi học phổ thành ca khúc Tiễn Đưa nhưng không được chú ý. Bài thơ Cần Thiết, nhạc sĩ Anh Bằng dựa vào ý thơ viết thành ca khúc Nếu Vắng Anh với tiếng hát Lệ Thanh đã tạo đượng tiếng vang. Vào giữa thập niên 60, trong không khí chiến tranh, Anh Bằng đem hình ảnh người chiến binh hòa nhập vào trái tim “em gái hậu phương” làm đẹp hình ảnh cho muôn nghìn mối tình trong thuở chiến chinh:
                  “Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió - Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố - Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về, kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu...
                  ... Có những đêm, âm thầm nghe tin vang xa ngoài tiền tuyến - Nhớ đến anh oai hùng xông pha gian nguy vòng chinh chiến - Phút luyến thương, em chắp hai tay lên nguyện cầu - Mộng ước quê hương thôi hận sầu, ta sớm gần nhau...”
                  Ý thơ Nguyên Sa, dòng nhạc Anh Bằng, tiếng hát Lệ Thanh, Xuân Thu đủ làm rướm máu trái tim, đủ ru hồn chết lặng với yêu thương. Giữa chốn hồng trần, có được hình ảnh, mối tình, tuyệt vời dễ thương như vậy, dù trong khoảnh khắc rồi tan biến trong hư vô cũng mãn nguyện. Có dâng hiến, khổ đau, đọa đày bởi trái tim, ngụp lặn trong nòi tình mới thấm thía từng cung bậc, ý thơ như rượu nồng rót vào đầu lưỡi tử kẻ tình si.
                  Sau gần bốn thập niên, ở hải ngoại Hoàng Thanh Tâm sáng tác ca khúc Cần Thiết theo dòng thơ Nguyên Sa:
                  “Không có anh lấy ai đưa em đi học
                  Ai viết thư để em mang vào lớp
                  Ai lau mắt cho em ngồi khóc
                  Ai dưa em đi chơi trong chiều mưa...
                  ... Không có anh...
                  Anh phải cúi đầu đi vào địa ngục”.
                  Nếu cung bậc của Phạm Duy, Phạm Ðình Chương, Cung Tiến, Từ Công Phụng ru vào hồn người, tỏ bầy với tha nhân dòng thơ của Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên... thì Ngô Thụy Miên lại mang niềm rung cảm dạt dào đưa dòng thơ Nguyên Sa vào vườn hoa âm nhạc.
                  Bài thơ Tuổi Mười Ba:
                  “Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
                  Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
                  Trời nắng ngọt ngào... tôi ở lại đây
                  Như một buổi hiên nhà nàng dịu nắng...
                  Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
                  Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
                  Tôi phải van lơn ngoan nhé, đừng ngờ
                  Tôi phải dỗ như là... tôi đã nhớn...
                  ... Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
                  Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
                  Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
                  Tôi pha mực cho vừa màu áo tím...
                  ... Rồi trách móc: trời không gần cho tay với
                  Và cả nàng hư quá, sao mà kiêu
                  Nên đến trăm lần: nhất định mình chưa yêu
                  Hôm nay nữa... nhưng lòng mình sao lạ quá”.
                  Ngô Thụy Miên đã chọn 16 câu thơ trong bài thơ dài 44 câu để viết thành ca khúc Tuổi Mười Ba với 32 trường canh. Và hình ảnh “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh anh mến lá sân trường” trở thành hình ảnh rất thân quen cho lứa tuổi con tim biết rung động đến những lời tán tỉnh như mượn dòng lá thắm xe duyên. Cuối thập niên 60, Ngô Thụy Miên đã phổ nhiều tình khúc nổi tiếng từ thơ Nguyên sa
                  Nguyên Sa mang kinh đô ánh sáng Paris với hình ảnh người tình tạo thành dòng thơ tuyệt vời, rất nên thơ, trữ tình, mộng ảo, lãng mạn trong sương khuya, dòng sông Seine thơ mộng mang bóng dáng tình nhân.
                  Paris Có Gì Lạ Không Em?
                  “Paris có gì lạ không em?
                  Mai anh về em có còn ngoan
                  Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
                  Em có tìm anh trong cánh chim...
                  ... Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
                  Tóc em anh sẽ gọi là mây
                  Ngày sau hai đấu mình xa cách
                  Anh vẫn được nhìn mây trắng bay...
                  ... Paris có gì lạ không em?
                  Mai anh về mắt vẫn lánh đen
                  Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
                  Chả biết tay ai là lá sen?”
                  Ngô Thụy Miên sở trường về nhịp 2/4 & 4/4, tuy nhiên ca khúc Paris Có Gì Lạ Không Em với nhịp 3/4 tạo nét duyên dáng, hay, dễ thương, vừa thôi thúc vừa khoan thai, được giới thưởng ngoạn âm nhạc đón nhận trong suốt nhiều thập niên qua.
                  Từ Paris về Sài Gòn, Nguyên Sa mang theo tình yêu nồng cháy mà hình ảnh dấu yêu được bắt gặp khi quê hương bị ngăn cách, bị chia lìa làm xoa dịu trái tim. Với màu áo, mái tóc của nơi chốn đã bị ngập chìm trong bóng tối được khơi dậy như ân tình của tình cảm. Trong những tháng ngày di cư với bao nỗi buồn, đau thương khi lạc bước thì Áo Lụa Hà Ðông làm xoa dịu tâm hồn:
                  “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
                  Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
                  Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
                  Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng...
                  .. . Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
                  Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Ðông
                  Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
                  Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”.
                  Ngô Thụy Miên chọn 16 câu thơ trong 28 dòng ở bài thơ, và nhạc phẩm Áo Lụa Hà Ðông rất phổ thông làm sống lại hình ảnh áo lụa thướt tha, dịu dàng bên cạnh hình ảnh sư tử bị gán ghép cho bóng hồng ở địa danh Hà Ðông đã đi vào văn chương.
                  Ở thập niên 50, 60 thơ Nguyên Sa là tiếng lòng được chép tay cho nhau trong tuổi học trò, thập niên 60, 70 Ngô Thụy Miên đã chọn ba bài thơ tình hay nhất trong thi tập của Nguyên Sa để phổ thành ca khúc, giữ nguyên được ý thơ, dòng thơ. Và, duy nhất, mối giao cảm giữa nhạc sĩ được tạo dựng, nối kết từ nguồn thơ thi nhân. Có lẽ, cảm nhận được điều đó, không còn nhạc sĩ nào khác phổ thơ Nguyên Sa, trong đó có bằng hữu gần gũi với nhau qua nhiều thập kỷ.
                  Năm 1974, Ngô Thụy Miên ra đời băng nhạc Tình Khúc Ngô Thụy Miên có 3 nhạc phẩm Áo Lụa Hà Ðông, Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi Mười Ba.
                  Thời qua trôi qua, biến thiên cuộc đời, từ phương trời xa ở miền nam bán cầu, Hoàng Thanh Tâm nối kết âm hưởng của Ngô Thụy Miên chọn 12 trong số 28 câu thơ trong bài Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa:
                  “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt
                  Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
                  Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về
                  Và đêm ơi xin cứ dài vô tận...
                  ... Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
                  Tóc em mềm anh chẳng tiếc mùa xuân
                  Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
                  Vì anh gọi tên em là nhan sắc
                  Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
                  Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
                  Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
                  Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu”
                  Hoàng Thanh Tâm viết thêm 4 câu cho ca khúc được trọn vẹn, và giữ được chất tình nồng nàn, tha thiết, say đắm, đam mê:
                  “Mình dựa vào nhau cho thuyền ghé bến
                  Sưởi ấm đời nhau bằng những môi hôn
                  Mình cầm tay nhau nghe tình dâng sóng vỗ
                  Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn”.
                        Bài thơ Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa trên Sáng Tạo số 31 tháng 9-59 mang nỗi nhớ thương trong tình đôi lứa mà ở thập niên 1940 Vũ Hoàng Chương bày tỏ trong bài Mười Hai Tháng Sáu. Bài thơ nầy được Ngô Thụy Miên phổ nhạc Tình Khúc Tháng Sáu vào năm 1970 nhưng đến năm 1984 mới xuất hiện trong ca khúc Tháng Sáu Trời Mưa.
                  Ca khúc Lúc Chết do Trần Duy Ðức phổ thơ Nguyên Sa như linh cảm hình ảnh cuối cùng của cuộc đời với dòng tâm sự:
                  “Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
                  Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
                  Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không
                  Và đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh...”
                  Dòng thơ Nguyên Sa được đi vào cung bậc của phái nữ, ca khúc Tương Tư do Mộng Lan phổ nhạc qua bài thơ Tương Tư và ca khúc Hoa Lan Giữa Tóc Thề phổ nhạc trong bài thơ Hải Âm. Hai ca khúc nầy do Trọng Nghĩa - Mộng Lan thực hiện qua CD Hoa Lan Dựa Tóc Thề năm 1996.
                  Trong 4 thi tập, hàng trăm bài thơ của Nguyên Sa đã cống hiến cho đời, đóng góp cho nền thi ca Việt Nam, trong đó ở tập I với những bài thờ tình trác tuyệt được chọn lọc và tạo dựng thành ca khúc dễ thương nhất được nghe với dòng thơ diễm lệ, chất ngất yêu thương. Nhiều nhạc sỹ đã phổ thơ Nguyên Sa vì thơ ông như mối lương  duyên với tâm hồn nhạc sỹ trong suốt nhiều thập niên qua...

                  Trong 40 năm cầm bút, tác phẩm Nguyên Sa được viết dưới nhiều thể loại. Truyện dài: Vài Ngày Làm Việc Ở Chung Sự Vụ, Giấc Mơ 1,2,3. Truyện ngắn: Gõ Ðầu Trẻ, Mây Bay Ði. Biên khảo: Descartes Nhìn Từ Phương Ðông, Một Mình Một Ngựa, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, Hai Mươi Khuôn Mặt Nghệ Sĩ Việt Nam Ở Hải Ngoại. Giáo khoa: Luận Lý Học, Tâm Lý Học. Bút ký, Hồi ký: Ðông Du Ký, Nguyên Sa...
                  Khi xa cõi trần, Nguyên Sa để lại những dòng thơ trữ tình, lãng mạn được viết thành ca khúc, tiếng nói yêu thương đã một thời đi vào lớp học, mãi mãi là tiếng tơ lòng ngự trị ở trần gian.

                                                   Vương Trùng Dương
                                             Tạp chí Thế Giới Nghệ Thuật Tháng 4-1998
                  #9
                    phamnguyennhung 16.06.2008 22:43:15 (permalink)
                    HOÀNG TRỌNG,
                                                   cung thương dệt tiếng tơ đồng
                                                                                Vương Trùng Dương

                    Bài nầy được viết nhân lễ tưởng niệm 49 ngày cố nhạc sĩ Hoàng Trọng do nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, nhạc sĩ Nguyễn Hiền, nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng... tổ chức vào tối thứ Bảy, ngày 5 tháng 9 năm 1998 tại phòng hội nhật báo Người Việt, Little Sài Gòn. Và, đăng tải trên tạp chí Thế Giới Nghệ Thuật. Mười năm trôi qua, những nhạc sĩ trên đã ra người thiên cổ.
                    Ðể tưởng nhớ đến nhạc sĩ tài danh có công đóng góp trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, tưởng nhớ mười năm ngày vĩnh biệt cõi trần và ba mươi năm với tác phẩm cuối cùng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, Cali Weekly gởi đến quý độc giả - VTrD 2008

                    Thế kỷ XX qua đi mang theo nhiều vì sao trong vòm trời âm nhạc Việt Nam, vĩnh biệt thế gian nhưng dư âm nhiều tình khúc bất hủ vẫn còn rung động bao trái tim thưởng ngoạn. Người nghệ sĩ tài hoa, đam mê nghệ thuật, giữ được nhân cách trong vườn hoa nghệ thuật đó, với Tiếng Tơ Ðồng vào cuối thập niên 50 đến 70, đánh dấu giai đoạn vàng son của nền âm nhạc nước nhà. Nhạc sĩ của dòng nhạc trữ tình và tình tự quê hương: Hoàng Trọng.
                    Bày tỏ tâm tư tình cảm với người bạn đồng nghiệp sống với nhau qua chiều dài của lịch sử âm nhạc, theo nhạc sĩ Phạm Duy: “Hoàng Trọng đã từng phục vụ cho nền tân nhạc Việt Nam từ lúc phôi thai cho đến khi đã trưởng thành, tất cả đều có một hành trình rất phong phú... Trong đời tôi, chưa thấy ai nhu mì như nhạc sĩ Hoàng Trọng cả”. Với nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Hoàng Trọng là người bạn văn nghệ suốt cả cuộc đời sống với nhau bằng chữ tâm: tâm thành, tâm ý trong nghệ thuật và cuộc sống. Trong bài viết Thuở Bình Minh Của Âm Nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Nguyễn Hiền viết: “Những ai sinh quán ở Nam Ðịnh đều biết thành phố nầy có những nhạc sĩ quen thuộc với đại chúng như Ðặng Thế Phong, Hoàng Quý Phạm Ngữ, tác giả bản Buồn Nhớ Quê Hương, Hoàng Trọng với những bản tango nổi danh và Ðan Thọ...”.
                    Theo nhạc sĩ Ðan Thọ: “Hoàng Trọng là khuôn mặt nghệ sĩ quý báu trong tình bạn từ lúc gặp nhau trong ban nhạc đầu tiên ở Nam Ðịnh vào thời tiền chiến và trải dài qua nửa thế kỷ cho đến lúc vĩnh biệt”.
                    Từ ca khúc đầu tay Ðêm Trăng năm 1938, mới 16 tuổi đến ca khúc cuối cùng Chiều Rơi Ðó Em năm 1978, trong 60 năm, nhạc sĩ Hoàng Trọng đã sáng tác hàng trăm bản nhạc, trong đó có nhiều ca khúc rất quen thuộc, được mọi người ái mộ và sống mãi với thời gian. Nhạc sĩ Hoàng Trọng được mệnh danh là Vua Tango của Việt Nam.

                                                       Theo Dòng Thời Gian
                    Hoàng Trọng, tên thật Hoàng Trung Trọng. Sinh năm 1922 ở Hải Dương, lớn lên ở Nam Ðịnh. Năm 11 tuổi học nhạc với sự chỉ dạy của người anh ruột, nhạc sĩ Hoàng Trọng Quý. Ông chơi được nhiều nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm, hạ uy cầm và sáo. Năm 15 tuổi, học nhạc tại trường Thầy Dòng Saint Thomas Nam Ðịnh và thành lập ban nhạc đầu tiên. Ban nhạc Nam Ðịnh gồm các anh em trong gia đình như Hoàng Trung An, Hoàng Trung Vinh và các thân hữu như Ðan Thọ, Bùi Công Kỳ, Ðặng Thế Phong, Phạm Ngữ, Vũ Dự, Tạ Phước... Ðến năm 19 tuổi, ông tiếp tục nghiên cứu âm nhạc qua sách vở và học hàm thụ từ Universelle de Paris... Hoàng Trọng là một trong những nhạc sĩ tiên phong sáng tác ca khúc cho nền tân nhạc Việt Nam.
                    Ca khúc Ðêm Trăng (1938), Bóng Trăng Xưa (1940), Thu Qua (1941)... xuất hiện trong thời kỳ mở đầu nền âm nhạc Việt Nam.
                    Năm 1945 Hoàng Trọng mở phòng trà, lập ban nhạc lấy tên Thiên Thai ở Nam Ðịnh. Cuối năm 1946, chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ, Hoàng Trọng cùng gia đình lánh cư ở Phủ Nho Quan, Phát Diệm, rồi về Hà Nội. Ðược sinh hoạt trong môi trường thích nghi, qua làn sóng phát thanh, những ca khúc Ðêm Trăng, Thu Qua, Tiếng Ðàn Ai, Lạnh Lùng, Chiều Tha Hương, Khúc Nhạc Xuân, trong đó 2 nhạc phẩm tango Bóng Trăng Xưa & Phút Chia Ly đưa tên tuổi Hoàng Trọng sáng giá và lan rộng khắp mọi miền.
                    Năm 1950, gia nhập vào Quân Nhạc Bảo Chính Ðoàn, điều khiển dàn nhạc nhẹ của chương trình phát thanh Bảo Chính Ðoàn trên đài phát thanh Hà Nội. Từ năm 1950 đến 1954, trước khi di cư vào Nam, Hoàng Trọng sáng tác trên hai mươi ca khúc: Ðường Về, Gió Mùa Xuân Tới, Say Say Say, Bến Mơ, Tiếng Nhạc Trong Sương, Buồn Nhớ Quê Hương, Bên Sông Ðưa Người, Cánh Hoa Xuân, Gió Lạnh Chiều Ðông, Chiều Về Thôn xưa, Mơ Xuân, Hoa Xuân, Gởi Hương Cho Gió, Hững Hờ, Một Nụ Cười, Tiếng Mưa Rơi, Vui Cảnh Mùa Hè, Khóc Biệt Kinh Kỳ, Tiếng Lòng, Lá Rụng... Trong đó có ca khúc Nhạc Sầu Tương Tư, nhạc phẩm trữ tình, tiếng lòng của con tim đang vương vấn trong tình yêu & nhạc phẩm Dừng Bước Giang Hồ sinh động, vui tươi được thịnh hành, trở thành quen thuộc, yêu thích, đưa tên tuổi Hoàng Trọng vang vọng cả nước.
                    Năm 1954, đất nước chia đôi, theo làn sóng di cư vào Nam, ngoài ba mươi tuổi, xa gia đình, sống trong hoàn cảnh gà trống nuôi con: Hoàng Nhạc Ðô, Hoàng Cung Fa, Hoàng Bạch La còn thơ dại. Lấy âm nhạc như nguồn sống, niềm an ủi vô biên để dấn thân trên cuộc hành trình xa lạ . Nỗi niềm đó được thể hiện qua hai ca khúc Chiều Xưa Tưởng Nhớ & Trăng Sầu Viễn Xứ.
                    Với khả năng và kinh nghiệm, lưu lạc ở Sài Gòn thời gian ngắn, Hoàng Trọng cùng bằng hữu thành lập ban nhạc với nhiều ca sĩ tên tuổi để trình diễn trên đài phát thanh Sài Gòn. Theo thời gian, Hoàng Trọng đảm nhận vai trò trưởng ban nhạc Hoàng Trọng, Tây Hồ, Ðất Nước Mến Yêu, lừng lẫy nhất, tên tuổi vang vọng với Tiếng Tơ Ðồng... hoạt động trên hệ thống truyền thanh Sài Gòn, Quân Ðội, Tự Do và băng tần Số 9 Truyền hình Việt Nam.
                    Từ 1955 đến 1960, Hoàng Trọng sáng tác khoảng 40 ca khúc, trong đó có nhiều ca khúc quen thuộc, nổi tiếng như Tình Không Biên Giới, Mộng Lành, Bên Bờ Ðại Dương, Mộng Ban Ðầu, Bạn Lòng, Nhớ Về Ðà Lạt, Tiễn Bước Sang Ngang, Ðàn Yêu...
                    Bước vào đầu thập niên 60, nhiều nhạc phẩm trữ tình, lãng mạn, chất chứa yêu thương làm say đắm hàng triệu thính giả ái mộ với Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím, Một Thuở Yêu Ðàn, Một Người Lên Xe Hoa, Hai Phương Trời Cách Biệt... xuất hiện thường xuyên trên làn sóng phát thanh và rất “ăn khách” qua các hãng đĩa.
                    Nói đến Hoàng Trọng, phải nói đến Tiếng Tơ Ðồng, và ngược lại. Ông đã để lại lịch sử âm nhạc Việt Nam ban nhạc nổi danh, tạo dựng nhiều tiếng hát tên tuổi, đưa nhiều sáng tác của nhiều nhạc sĩ lên đỉnh vinh quang của nền âm nhạc. Khi được mời thành lập ban nhạc để trình diễn trên hệ thống truyền hình, Hoàng Trọng nhận lời. Sau thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 30 tháng 8 năm 1957, Tiếng Tơ Ðồng xuất hiện trên đài Truyền Hình Việt Nam, qui tụ với khoảng 40 ca nhạc sĩ đã gây “dấu ấn” sâu sắc trong làng ca nhạc. Từ đó, Tiếng Tơ Ðồng vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn giới mộ điệu, khán thính giả bốn phương và cũng là môi trường sinh hoạt, tiến thân của nhiều nghệ sĩ.
                    Tiếng Tơ Ðồng đánh dấu giai đoạn vàng son của nền âm nhạc Việt Nam, khán thính giả có dịp thưởng ngoạn cung bậc của thời tiền chiến, âm nhạc bán cổ điển, êm dịu, nhẹ nhàng, mượt mà, mang âm hưởng của thời kỳ lãng mạn Tây phương. Khi Tiếng Tơ Ðồng thành công trên bước đường nghệ thuật, Hoàng Trọng vừa lo chăm sóc Tiếng Tơ Ðồng mỗi ngày thêm sắc thái mới lạ, vừa chuyển hướng sang lãnh vực điện ảnh: nhạc phim.
                    Từ năm 1968 đến 1974, Hoàng Trọng viết hầu như gần hết nhạc phim Việt Nam vào thời điểm đó như Vụ Án Tình, Xin Nhận Nơi Nầy Làm Quê Hương, Giã Từ Bóng Tối, Bơ Vơ, Trao Nhau Lời Cuối, Mộng Cô Ðơn, Còn Ðâu, Duyên Kiếp, Lá Rừng, Người Tình Không Chân Dung, Nàng, Nhặt Lá Vàng, Tình Yêu Không Ðến, Gọi Sầu, Ngậm Ngùi, Ngọc Lan, Sau Giờ Giới Nghiêm, Bão Tình, Muôn Kiếp Ngậm Ngùi, Sao Phụ Tình Anh, Hương Ngọc Lan, Ðường Dài Một Bóng, Năm Hiệp Sĩ Bất Ðắc Dĩ, Còn Gì Cho Nhau, Bẫy Ngầm, Lệ Ðá, Cho Nhau Ân Tình, Mang Xuống Tuyền Ðài, Chiếc Lá Bên Ðường, Hoa Lư, Mùa Mưa Thương Nhớ, Triệu Phú bất Ðắc Dĩ, Ngày Vui Năm Ðó, Vào Thu, Hòn Phụ Tử...
                    Trong các bản phạt phim nầy tiếng hát Lệ Thu trong Người Tình Không Chân Dung rất được thịnh hành ở Việt Nam thuở đó như tiếng hát Celine Dion qua bản My Heart Will Go On trong phim Titanic hiện nay trên thế giới. Về giải thưởng, ông đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật trong năm 72-73 về nhạc phim trong Triệu Phú Bất Ðắc Dĩ.
                    Cũng như nhiều nghệ sĩ tài danh khác, bước đường sinh hoạt nghệ thuật còn dài để cống hiến nhiều tác phẩm nghệ thuật cho đất nước, nhưng sau tháng 4 năm 75 trái tim và khối óc sáng tạo không còn nữa, sống âm thầm với thời gian... năm 1978 mới sáng tác tác phẩm cuối cùng Chiều Rơi Ðó Em như lời tâm sự để chai sẻ nỗi buồn đau.
                    “Chiều rơi đó em, trên đời anh hoàng hôn rồi
                    Chiều rơi đó em, trên đời anh sương lạnh rồi
                    Nhìn nụ hoa thắm mầu tươi, nở đẹp trong bóng chiều rơi
                    Chợt làm bước anh ngập ngừng trên lối

                    Chiều rơi đó em, trên đời anh lạnh tê người
                    Chiều rơi đó em, trên đời anh phai nụ cười
                    Cuộc đời anh vẫn lẻ loi, mà gặp em lúc chiều rơi
                    Thì tình thắm cũng là muộn mất rồi!...”
                    Năm 1992, Hoàng Trọng định cư tại Hoa Kỳ trong diện đoàn tụ. Ðược sum họp với con cái và sống với người vợ cuối đời - ca sĩ Thu Tâm - còn trẻ, chẳng được bao năm, Hoàng Trọng vĩnh viễn ra đi lúc 12 giờ 45, trưa thứ Năm, ngày 16 tháng 7 năm 1998 tại Paolo Alto, Bắc Cali, Hoa Kỳ, hưởng thọ 75 tuổi.
                    Hoàng Trọng đã sáng tác khoảng hai trăm bản nhạc, ông đặt lời cho một số tác phẩm, còn lại với lời viết như Quách Ðàm, Hồ Ðình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Vĩnh Phúc...
                    Những tác phẩm tiêu biểu theo mẫu tự alphabet gồm:
                    Bắc Một Nhịp Cầu - Bạn Lòng - Bẽ Bàng - Bên Bờ Ðại Dương - Bến Mơ - Bên Sông Ðưa Người - Bơ Vơ - Bóng Trăng Xưa - Buồn Nhớ Quê Hương - Cánh Hoa Xưa - Cánh Hoa Yêu - Châu Ðốc Miền Quê Yêu - Chiều Mưa - Chiều Mưa Nhớ Bắc - Chiều Rơi Ðó Em - Chiều Tha Hương - Chiều Về Thôn Xưa - Chiều Vũng Tàu - Dừng Bước Giang Hồ - Ðêm Trăng - Ðêm Về - Ðẹp Giấc Mơ Hoa - Ðường Về -Ðường Về Dĩ Vãng - Em Còn Nhớ Không Em - Gió Lạnh Chiều Ðông - Gió Mùa Xuân Tới - Hai Phương Trời Cách Biệt -Hẹn Gió Xuân Về - Hình Ảnh Quê Xưa - Hoa Xuân - Hồn Thanh Niên - Hương Ðời Ðẹp Tươi - Hương Mộc Lan -Hương Yêu - Khóc Biệt Kinh Kỳ - Khúc Ca Màu Xanh - Khúc Ðàn Tâm - Khúc Hát Mùa Chiêm - Khúc Nhạc Xuân - Khúc Tình Ca Ngày Cưới - Lá Rụng - Lạnh Lùng - Mộng Ban Ðầu - Mộng Cô Ðơn - Mộng Ðẹp Ngày Xanh - Mộng Ðẹp Tình Xuân - Mộng Lành - Mộng Ngày Hồi Hương - Một Người Lên Xe Hoa - Một Nụ Cười - Một Thuở Yêu Ðàn - Mùa Hoa Thắm - Ngàn Thu Aó Tím - Ngỡ Ngàng - Người Ði Chưa Về - Người Tình Không Chân Dung - Nguồn Mến Yêu - Nhạc Sầu Tương Tư - Nhặt Lá Vàng - Nhịp Võng Ngày Xanh - Nhớ Hoài - Nhớ Thương - Nhớ Về Ðà Lạt - Phút Chia Ly - Say Say Say - Thôi Ðừng Lưu Luyến Em Ơi - Thu Qua - Thương Về Quê Cha - Tiễn Bước Sang Ngang - Tiếng Ðàn Ai - Tiếng Lòng - Tìm Lại Hương Yêu - Tìm Một Ánh Sao - Tình Ðầu - Tình Thơ Mộng - Tình Trăng - Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím - Trăng Lên - Trang Nhật Ký - Trăng Sầu Viễn Xứ - Vào Mộng - Vui Cảnh Mùa Hè - Vui Cảnh Xây Ðời...
                    Trong nền điện ảnh Việt Nam, Hoàng Trọng viết nhạc cho rất nhiều phim, trong đó có những phim có tiếng như Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương, Giã Từ Bóng Tối, Người Tình Không Chân Dung, Sau Giờ Giới Nghiêm, Bão Tình...
                    Hoàng Trọng đã được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật trong năm 1972-1973 với nhạc của phim Triệu Phú Bất Ðắc Dĩ.

                                                      Trái Tim Nghệ Sĩ
                    Ông hoàng của nhạc khúc tango sau thời gian cố gắng thực hiện Ðêm Nhạc Hoàng Trọng để đánh dấu 60 năm cuộc đời âm nhạc và 40 năm với Tiếng Tơ Ðồng... Nói đến Hoàng Trọng phải nhắc đến Tiếng Tơ Ðồng và ngược lại. Hơn nửa thế kỷ dấn thân cho nghệ thuật, trong vòm trời âm nhạc Việt Nam, một vì sao rơi, bao nhiêu niềm thương tiếc.
                    Âm nhạc có lẽ nhập vào tận huyết quản của Hoàng Trọng, yêu cung bậc đến nỗi dùng nốt nhạc để đặt tên cho con cái. Thế nhưng, nghệ sĩ sống giữa ngàn hoa song trái tim khô héo trước muôn màu khoe sắc!. Hoàng Trọng lập gia đình năm 1945, được 3 người con rồi chia tay người vợ đầu đời. Trái tim rướm máu, nỗi niềm đó thể hiện qua lời ca tiếng nhạc: “Ai thay ai đổi tơ duyên bước chân sang thuyền. Riêng ta ấp ủ trong tim tình đầu nào quên... Bao nhiêu lá thay màu,. Ngày nào ta vẫn khắc sâu ngàn câu mến thương” (Tình Ðầu). Niềm nhớ khôn nguôi với hình ảnh năm cũ vẫn canh cánh bên lòng “Ai biết thương nhớ bao giờ nguôi. Lạnh lùng trông cánh lá khô nhẹ rơi. Tìm dư âm cũ nhớ nhau mà thôi. Ðêm đêm dõi bóng một người. Tôi đi tìm thuở xa xôi” (Một Thuở Yêu Ðàn).
                    Hơn hai thập niên, Hoàng Trọng sống trong thế giới âm thanh, thế giới đèn mầu, sống giữa bóng hồng thướt tha, yểu điệu thục nữ nhưng bao mối tình đi phơn phớt qua trái tim, lãng đãng như sương khuya, đắng cay trong hơi thở. Hoàng Trọng sống độc thân để nuôi con, ông để trái tim mình trọn vẹn với con. Trong 3 người con, Bạch La là con gái út mang hình ảnh yêu thương thuở xa xưa và Bạch La không muốn hình ảnh người đàn bà nào ngự trị trong trái tim người cha đáng kính. Bản tính nhu mì, con người mẫu mực, trái tim khô héo nhưng tỏa ra rừng âm thanh thánh thót, diệu vợi, huyền ảo, lời ca chất chứa yêu thương, đam mê, trữ tình, nồng ấm.
                    Là nghệ sĩ, người cha, về tình cảm, khó có ai nghĩ đến con cái như Hoàng Trọng. Năm 1975 Cung Fa di tản sang Hoa Kỳ, Bạch La lưu lạc sang Ðức, ông sống trong cảnh cô đơn. Ông mang niềm bất hạnh lớn lao, không còn sống với âm nhạc, không được gần gũi với con cái. Sau 3 năm, con trai và con gái ở phương xa lập gia đình, ông tiến bước với người ca sĩ trẻ, nhỏ hơn khoảng hai con giáp, làm bạn đời để sống bên nhau khi tuổi xế chiều. Ông viết ca khúc Chiều Rơi Ðó Em cho Thu Tâm và hơn thập niên sau đó ông không sáng tác ca khúc nào khác. Với Thu Tâm, được 2 người con là Thiên Út và Kim Mi; Hoàng Trọng muốn truyền máu huyết âm nhạc lại người con gái và tuy còn nhỏ nhưng Kim Mi chịu khó học hỏi, rèn luyện âm nhạc để thừa hưởng di sản tinh thần của thân phụ.
                    Trong sáu năm định cư tại Thung Lũng Hoa Vàng, Hoàng Trọng trở lại với âm nhạc nhưng không được không khí sôi động, hấp dẫn như thuở xa xưa. Ông trở lại với âm nhạc như chim muông trở về rừng tìm tiếng hót cho an ủi tuổi già, cho thỏa lòng khát khao mong đợi. Ông tìm được niềm vui, hạnh phúc gia đình với âm nhạc với sự rung cảm, đồng điệu trên bước đường sinh hoạt văn nghệ. Hoàng Trọng muốn thực hiện “dấu ấn cuộc đời nghệ thuật” nơi hải ngoại nên mê say lao vào công việc. Tuổi già, sức yếu nhưng khi bắt tay vào nghệ thuật lại miệt mài, bất chấp sức khỏe. Và rồi, Ðêm Nhạc Hoàng Trọng là đêm định mệnh cho cuộc đời nghệ thuật, có lẽ ông cũng linh cảm được điều gì đó khi quy tụ đông đảo thân nhân và bằng hữu để cùng nhìn nhau lần cuối trong ngày tháng lưu vong. Sau đêm đó, Hoàng Trọng ngã bệnh, khó thở, non mửa thức ăn, đi vào bệnh viện và bệnh tình ngày càng thêm trầm kha cho đến lúc vĩnh viễn từ biệt cõi trần. Rồi Ngày Sẽ Trôi Qua nhưng dòng nhạc vẫn còn lại vương vấn nơi chốn cát bụi trần gian.
                    Vương Trùng Dương
                    Nguồn- Cali Weekly
                    #10
                      vuongtuyetngoc 17.06.2008 09:19:17 (permalink)


                      Lời Tự Tình Trong Thi Nhạc

                      Vương Trùng Dương


                      Tự nghìn xưa thi ca và âm nhạc đã thể hiện tiếng nói mang niềm rung cảm dạt dào, sâu đậm của con tim. Ngôn ngữ thi nhạc tuy ngắn gọn nhưng đã truyền đạt được tâm tư, tình cảm, tâm tình dâng hiến cho nhau trong trái tim, trong cuộc sống con người. Nếu tình yêu là chiếc cầu thì tình tự là nhịp cầu nối kết với nhau và, tiếng nói yêu đương khởi đi qua lời tự tình. Theo thần thoại Hy Lạp, trong chín vị thần nữ thì năm vị thần chiếm ngự thi ca mà ba vị chi phối nguồn tình ái, lãng mạn, trữ tình... Vì vậy, ngôn ngữ của thi ca dễ được cảm nhận, dễ dàng bày tỏ. Và, khi ngôn ngữ đó có vần điệu, mang âm hưởng trầm bổng, nó dễ dàng đi vào cung bậc, ru thế nhân vào suối nguồn âm thanh.
                      Khuynh hướng lãng mạn được hình thành ở Âu Châu vào thế kỷ XVIII được đề cao về sự thăng hoa tình cảm và trí tưởng trong sáng tạo nghệ thuật. Ðem thực tại từ cuộc sống, tình cảm cá nhân tô điểm bởi mộng mơ, bày tỏ tiếng nói trung thực của trái tim ra khỏi khuôn phép bị trói buộc từ thuở xa xưa. Từ đó văn học nghệ thuật nói chung, thi ca và âm nhạc nói riêng đã tạo ảnh hưởng sâu rộng đến khắp nơi. Những khuôn mặt lớn trong thi ca như Chateaubriand, Lamartine, Alfred de Musset, Alfred de Vigny, Victor Hugo, Avers... Và, những nhạc sĩ tài danh như Wolfgang A. Mozart, Robert Schumann, F. Schubert, Carl M.V Weber, Felix Mendelssohn, Hector Berlioz, Claude Debusy, G. Bizet, R. Wagner, Franz Liszt, F. Chopin, J. Brahms... gieo thi hứng và hồn nhạc chu du bốn phương.
                      Vào tiền bán thế kỷ XX, không khí lãng mạn trữ tình được du nhập vào Việt Nam tạo dựng khung trời mới trong thi ca và nét nhạc trữ tình trong bước khởi đầu nền tân nhạc được đánh dấu vào thời tiền chiến. Qua năm tháng, dần đà trải rộng trên đất nước, ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến nay.
                      Tình yêu, trái tim và ngôn ngữ thi nhạc được thổ lộ, dàn trải qua tâm sự, nỗi niềm đôi lứa, ảnh hưởng từ làn gió mới Tây phương được du nhập vào đất nước.
                      Nhiều khuôn mặt sáng tạo trong thi ca và âm nhạc đã tô điểm trong vườn hoa Văn học Nghệ thuật qua dòng thơ và ý nhạc trữ tình đã vượt thời gian và không gian trong cơn thăng trầm của lịch sử. Có người tự trói buộc, vong thân, chối bỏ thời hoa mộng với con tim nhưng tác phẩm nghệ thuật vẫn là chứng tích của thời kỳ phát triển trong buổi bình minh. Có người được sống trong bầu trời tự do để tiếp nối niềm rung cảm sâu xa của con tim để làm cho vườn hoa nghệ thuật càng thêm phong phú.
                      Theo dòng thời gian và theo tiếng vọng của con tim trong tình yêu, lời tự tình được bàng bạc thể hiện qua thi nhạc:
                      Nhà thơ Hồ Dzếnh mở cửa với lời tỏ:
                      “Em ạ, lòng tôi, tôi ngỡ đâu
                      Ðã dâng em hết buổi ban đầu;
                      Trời xưa huyễn mộng màu hoa nắng
                      Trong thoáng thơ vàng, len ý đau ...”

                      Xuân Diệu đa tình, đa cảm với Tương Tư Chiều:
                      “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm
                      Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em ...
                      ... Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
                      Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi”.

                      Lưu Trọng Lư trong phong trào thơ mới không còn rụt rè, bộc lộ cụ thể với Giang Hồ:
                      “Hãy nhích lại đưa tay ta nắm
                      Hãy buông ra đằm thắm nhìn nhau
                      Rồi trong những phút giây lâu
                      Mắt sầu gợn sóng, lòng đau rộn tình”.

                      Và, hình ảnh đó được bắt gặp ở Vũ Hoàng Chương, nhà thơ phiêu lãng trong men rượu và men tình trong bài Quên
                      “Ðã hẹn với em rồi; Không tưởng tiếc
                      Quãng đời xưa, không than khóc gì đâu!
                      Hãy buông lại gần đây làn tóc biếc
                      Rát gần đây, gần nữa, cặp môi nâu”.

                      Nhà thơ Hàn Mặc Tử, con người mang nhiều bất hạnh trong cuộc sống, đã bày tỏ trong Âm Thầm:
                      “Em có ngờ đâu trong những đêm
                      Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm
                      Anh đi thơ thẩn như ngây dại
                      Hứng lấy hương nồng trong áo em”

                      Cùng thời điểm và cũng bạn thơ với nhau, Bích Khê tỏ tình qua Tỳ Bà:
                      “Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
                      Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
                      Ðâu tìm đào nguyên cho xa xôi
                      Ðào nguyên trong lòng nàng đây thôi”

                      Một trong những bài thơ tuyệt vời trở thành thân quen thời tiến chiến và được nhắc mãi đến mai sau như Tống Biệt Hành, thơ của Thâm Tâm:
                      “Ðưa người, ta không đưa qua sông
                      Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
                      Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
                      Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”.

                      Lời tự tình cho nhau không chỉ dành riêng phái nam mà ở nữ giới. Từ thời tiến chiến, T.T.Kh bày tỏ tâm trạng của mình với người tình:
                      Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
                      Ái ân lạt lẻo của chồng tôi
                      Mà từng thu chết, từng thu chết
                      Vẫn giấu trong tim bóng một người
                      (Hai Sắc Hoa Ti Gôn)

                      Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh mang mối tình ngang trái bởi: “Anh còn sống là mình còn xa cách - Vì cuộc đời hay ghét kẻ yêu nhau” và, mong được trọn vẹn với hình ảnh người yêu:
                      “Anh chết đi để cho mình gặp lại
                      Trong giấc mơ anh sẽ đế tìm em
                      Em sẽ siết anh trong vòng tay và mãi mãi
                      Ngạo với thời gian , ánh sáng và hương đêm”
                      (Tình Chúng Mình Sẽ Được Vẽ Lên Tranh)

                      Nhà thơ Ngọc Tuyết, qua 3 thi phẩm Giọt Ðầy Giọt Vơi, Lá Trở và Sang Mùa, mang tâm sự của mình để dàn trải với tha nhân. Và, lời tự tình với người tình phương trời vô định, nỗi nhớ mong  được bày tỏ:
                           “có một ngày biển không còn sóng
                      có một ngày, ngày không có bình minh
                      có một ngày trời không còn gió lộng
                      có một ngày đất vắng màu xanh
                      có một ngày bốn mùa không còn nữa
                      đó là ngày em sẽ… thôi nhớ anh!”.
                      (Nếu Có...)

                      Và, nhà thơ Hoàng Trúc Ly với hình ảnh nhớ mong người yêu:
                      “Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi
                      Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời
                      Anh nhớ em: núi cao càng hiu hắt
                      Anh thương em: máu vọt bốn phương trời...”
                      (Gặp Người Em)

                      Có muôn vàn bài thơ, có hàng trăm tình khúc đã đi vào trái tim giới thưởng ngoạn qua bao năm tháng, âm nhạc là nghệ thuật dễ truyền đạt nhất từ trái tim sáng tạo đến trái tim thưởng thức. Ở đó, lời tự tình như sự mê hoặc lôi cuốn hấp dẫn, điển hình với:
                      Ca khúc Ðừng Xa Nhau của Phạm Duy:
                      “Ðừng xa nhau! Ðừng quên nhau!
                      Ðừng rẻ khúc tình nghèo
                      Ðừng chia nhau nỗi vui, niềm đau
                      ... Ðừng im hơi đắng cay rời nhau”

                      Dòng thơ của khuôn mặt sớm đa tình Hoàng Cầm trong tuổi ấu thơ, nòi tình đó vẫn còn nóng bỏng cho đến tuổi già với Tình Cầm, được Phạm Duy phổ thành ca khúc:
                      “Nếu anh còn trẻ như năm cũ
                      Quyết đón em về sống với anh
                      Rồi những chiều vàng phơ phất lại
                      Anh đàn, em hát níu xuân xanh”

                      Quang Dũng nổi tiếng với dòng thơ đầy hào khí và lãng mạn ở thập niên 40, bài Ðôi Mắt Người Sơn Tây qua dòng nhạc của Phạm Ðình Chương làm sống lại tên tuổi của Quang Dũng khi ở bên kia vỹ tuyến:
                      “Vừng trán em vương trời quê hương
                      Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
                      Tôi thấy xứ Ðoài mây trắng lắm
                      Em có bao giờ em nhớ thương”

                      Ca khúc Mộng Dưới Hoa của Phạm Ðình Chương được phổ rất tuyệt qua dòng thơ trong bài Tự Tình Dưới Hoa của Ðinh Hùng:
                      “Nếu bước chân ngà có mỏi,
                      Xin em dựa sát lòng anh.
                      Ta đi vào tận rừng xanh
                      Vớt cánh dong vàng bên suối”

                      Bài thơ Cần Thiết của Nguyên Sa, Song Ngọc phổ nhạc:
                      “Không có anh lấy ai đua em đi học về
                      Lấy ai viết thơ cho em mang vào lớp học
                      Ai lau nước mắt cho em ngồi khóc
                      Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa”

                      Anh Bằng dựa vào ý thơ viết thành ca khúc Nếu Vắng Anh:
                      “Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió
                      Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố
                      Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về
                      Kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu”

                      Mang hình ảnh lãng mạn ở Pháp, giữa thập niên 50, thơ Nguyên Sa được xem như những trang thư cho tình yêu cho tuổi trẻ, Paris Có Gì Lạ Không Em được Ngô Thụy Miên phổ nhạc:
                      “Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
                      Tóc em anh sẽ gọi là mây
                      Ngày sau hai đứa mình xa cách
                      Anh vẫn được nhìn mây trắng bay”

                      Ngô Thụy Miên đem vào cung bậc chất ngất yêu thương trong Tháng Sáu Trời Mưa, thơ Nguyên Sa:
                      “Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
                      Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
                      Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
                      Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu”

                      Hoàng Thanh Tâm phổ thành ca khúc bài thơ trên và tô điểm thêm:
                      “Mình dựa vào nhau cho thuyền ghé bến
                      Sưởi ấm đời nhau bằng những môi hôn
                      Mình cầm tay nhau nghe tình dâng sóng vỗ
                      Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn”

                      Du Tử Lê đến với thơ tình từ thập niên 60, và trở thành khuôn mặt tên tuổi nơi hải ngoại. Với Du Tử Lê, ngôn ngữ, tình yêu là lẽ sống mầu nhiệm trong sáng tạo nghệ thuật. Với Hiến Chương Tình Yêu, thơ Du Tử Lê, “còn lời đường mật nào hay hơn, quyến rũ hơn”? được Nguyên Bích viết thành nhạc phẩm:
                      “Khi em lạnh tôi biến thành ngọn lửa
                      Ðốt yêu thương than nóng hực ân tình
                      Cả nghìn chương chỉ chép chuyện đôi ta
                      Khi em viết tôi biến thành giấy bút”.

                      Chàng Du Tử nòi tình nầy ru tình nhân qua Một đời Ðể Nhớ, nhạc của Song Ngọc
                      “Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
                      Buổi chiều chăn gối thiếu hơi ai
                      Em đi để lại hồn thơ dại
                      Tôi vó câu buồn sâu sớm mai”

                      Bên cạnh Song Ngọc, Trần Duy Ðức phổ thành ca khúc Chỉ Nhớ người Thôi Ðủ hết Ðời

                      Từ nơi xa xôi, Thái Tú Hạp ngỏ lời thăm hỏi qua Chiều Nhớ Hoàng Thành, Khúc Lan đem dòng thơ vào nét nhạc:
                      “Em vẫn giữ bài thơ trong chiếc nón
                      Dù cho đời mưa nắng đuc Kim Luông
                      Mưa có buồn trên đôi bờ thương bạc
                      Em vẫn còn thắp lửa đợi chờ anh?”

                      Những dòng thơ trong bài Ma Soeur của Nguyễn Tất Nhiên được Phạm Duy đưa vào cung bậc làm thăng hoa tình yêu giữa tâm hồn lãng tử với người tình bé nhỏ qua ca khúc Em Hiền Như Ma Soeur:
                      “Ta nhờ em ru ta
                      Hãy ru tên vô đạo
                      Hãy ru tên khờ khạo
                      Em yêu nầy em yêu”

                      Bài thơ Tình Tự của Huy Cận lại mang tâm trạng của người yêu:
                      Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ
                      Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa
                      Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ
                      Tình rộng quá, đời không biên giới nữa”.

                      Khép lại bài viết qua ca khúc Tình Tự Mùa Xuân của Từ Công Phụng:
                      “Em, lại đây với anh
                      ngồi đây với anh
                      trong cuộc đời này
                      nghe thời gian lướt qua
                      mùa xuân khẽ sang
                      chừng như không gian đang sưởi ấm những giọt tình nồng...

                      ... Ðã qua đi ngày tháng uá môi sầu nhớ tình người buồn tênh...
                      Em chút giọt lệ ấm, khóc mừng một ngày hạnh phúc miên man...”

                      Ngày nay, ở hải ngoại rất nhiều bài thơ được phổ thành ca khúc, nhiều phạt phẩm nói lên tiếng nói của con tim đầy ngọt ngào yêu thương để chia xẻ, an ủi vỗ về cho nhau trong tháng ngày lưu lạc, trong cuộc sống tha hương. Từ nghìn xưa cho đến nay, từ Ðông sang Tây, ngôn ngữ tình yêu không có gì thay đổi, không có gì khác lạ, nếu có, chỉ thay đổi từ rụt rè, e ấp sang dạn dĩ, táo bạo, từ lời lẻ bóng gió, ẩn dụ, nên thơ sang gợi dục, cuồng nhiệt, đam mê... Lời tự tình có khi chứa đựng sự đường mật, lừa dối, quyến rũ, ru ngủ để lôi kéo đối tượng vào vòng tay ân tình nhưng vẫn là nhịp cầu trao đổi để làm đẹp lòng nhau, dù biết lọc lừa nhưng có còn hơn không! Nghệ sĩ sáng tạo cho tâm sự của mình cho tha nhân, và không có gì đẹp bằng mượn nó để tỏ bày từ tiếng vọng trái tim.

                                                             Vương Trùng Dương  Nguồn - xuquang.com
                      #11
                        vuongtuyetngoc 17.06.2008 18:04:23 (permalink)
                        Trái Tim Nghệ Sĩ
                        Ông hoàng của nhạc khúc tango sau thời gian cố gắng thực hiện Ðêm Nhạc Hoàng Trọng để đánh dấu 60 năm cuộc đời âm nhạc và 40 năm với Tiếng Tơ Ðồng... Nói đến Hoàng Trọng phải nhắc đến Tiếng Tơ Ðồng và ngược lại. Hơn nửa thế kỷ dấn thân cho nghệ thuật, trong vòm trời âm nhạc Việt Nam, một vì sao rơi, bao nhiêu niềm thương tiếc.
                        Âm nhạc có lẽ nhập vào tận huyết quản của Hoàng Trọng, yêu cung bậc đến nỗi dùng nốt nhạc để đặt tên cho con cái. Thế nhưng, nghệ sĩ sống giữa ngàn hoa song trái tim khô héo trước muôn màu khoe sắc!. Hoàng Trọng lập gia đình năm 1945, được 3 người con rồi chia tay người vợ đầu đời. Trái tim rướm máu, nỗi niềm đó thể hiện qua lời ca tiếng nhạc: “Ai thay ai đổi tơ duyên bước chân sang thuyền. Riêng ta ấp ủ trong tim tình đầu nào quên... Bao nhiêu lá thay màu,. Ngày nào ta vẫn khắc sâu ngàn câu mến thương” (Tình Ðầu). Niềm nhớ khôn nguôi với hình ảnh năm cũ vẫn canh cánh bên lòng “Ai biết thương nhớ bao giờ nguôi. Lạnh lùng trông cánh lá khô nhẹ rơi. Tìm dư âm cũ nhớ nhau mà thôi. Ðêm đêm dõi bóng một người. Tôi đi tìm thuở xa xôi” (Một Thuở Yêu Ðàn).
                        Hơn hai thập niên, Hoàng Trọng sống trong thế giới âm thanh, thế giới đèn mầu, sống giữa bóng hồng thướt tha, yểu điệu thục nữ nhưng bao mối tình đi phơn phớt qua trái tim, lãng đãng như sương khuya, đắng cay trong hơi thở. Hoàng Trọng sống độc thân để nuôi con, ông để trái tim mình trọn vẹn với con. Trong 3 người con, Bạch La là con gái út mang hình ảnh yêu thương thuở xa xưa và Bạch La không muốn hình ảnh người đàn bà nào ngự trị trong trái tim người cha đáng kính. Bản tính nhu mì, con người mẫu mực, trái tim khô héo nhưng tỏa ra rừng âm thanh thánh thót, diệu vợi, huyền ảo, lời ca chất chứa yêu thương, đam mê, trữ tình, nồng ấm.
                        Là nghệ sĩ, người cha, về tình cảm, khó có ai nghĩ đến con cái như Hoàng Trọng. Năm 1975 Cung Fa di tản sang Hoa Kỳ, Bạch La lưu lạc sang Ðức, ông sống trong cảnh cô đơn. Ông mang niềm bất hạnh lớn lao, không còn sống với âm nhạc, không được gần gũi với con cái. Sau 3 năm, con trai và con gái ở phương xa lập gia đình, ông tiến bước với người ca sĩ trẻ, nhỏ hơn khoảng hai con giáp, làm bạn đời để sống bên nhau khi tuổi xế chiều. Ông viết ca khúc Chiều Rơi Ðó Em cho Thu Tâm và hơn thập niên sau đó ông không sáng tác ca khúc nào khác. Với Thu Tâm, được 2 người con là Thiên Út và Kim Mi; Hoàng Trọng muốn truyền máu huyết âm nhạc lại người con gái và tuy còn nhỏ nhưng Kim Mi chịu khó học hỏi, rèn luyện âm nhạc để thừa hưởng di sản tinh thần của thân phụ.
                        Trong sáu năm định cư tại Thung Lũng Hoa Vàng, Hoàng Trọng trở lại với âm nhạc nhưng không được không khí sôi động, hấp dẫn như thuở xa xưa. Ông trở lại với âm nhạc như chim muông trở về rừng tìm tiếng hót cho an ủi tuổi già, cho thỏa lòng khát khao mong đợi. Ông tìm được niềm vui, hạnh phúc gia đình với âm nhạc với sự rung cảm, đồng điệu trên bước đường sinh hoạt văn nghệ. Hoàng Trọng muốn thực hiện “dấu ấn cuộc đời nghệ thuật” nơi hải ngoại nên mê say lao vào công việc. Tuổi già, sức yếu nhưng khi bắt tay vào nghệ thuật lại miệt mài, bất chấp sức khỏe. Và rồi, Ðêm Nhạc Hoàng Trọng là đêm định mệnh cho cuộc đời nghệ thuật, có lẽ ông cũng linh cảm được điều gì đó khi quy tụ đông đảo thân nhân và bằng hữu để cùng nhìn nhau lần cuối trong ngày tháng lưu vong. Sau đêm đó, Hoàng Trọng ngã bệnh, khó thở, non mửa thức ăn, đi vào bệnh viện và bệnh tình ngày càng thêm trầm kha cho đến lúc vĩnh viễn từ biệt cõi trần. Rồi Ngày Sẽ Trôi Qua nhưng dòng nhạc vẫn còn lại vương vấn nơi chốn cát bụi trần gian.

                                     Ngàn Thu Aó Tím
                        Từ ngàn xưa, mùa thu là mùa của thi ca, hội họa và âm nhạc. Mùa thu đến và được thể hiện với âm nhạc Việt Nam trên nửa thế kỷ, tuy nhiên những tình ca mùa thu đã đi sâu vào lòng người, vượt không gian và mãi mãi quyến rũ với thời gian.
                        Nói đến mùa thu, với âm nhạc, nói đến tình ca. Thế giới âm thanh của thương yêu, nhung nhớ, khổ đau trong trái tim rộn rã, nồng nàn, say đắm và rướm máu. Nhiều tình ca mùa thu từ thời tiền chiến cho đến nay đều giống nhau từ giai điệu đến lời ca, êm ái, nhẹ nhàng, lả lướt, thướt tha... như thời tiết mà tạo hóa đã an bài. Những bài ca mùa thu đã trở thành quen thuộc như Buồn Tàn Thu của Văn Cao, Thu Quyến Rũ của Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Ðêm Thu, Giọt Mưa Thu của Ðặng Thế Phong, Thu Vàng của Cung Tiến, Mùa Thu Paris, Nắng Thu, Mùa Thu Chết của Phạm Duy, Mùa Thu Không Trở Lại của Phạm Trọng, Thu Ca của Phạm Mạnh Cương, Hoài Thu của Văn Trí, Thu Tím Lá Vàng của Vân Tùng, Mùa Thu Trong Mưa của Trường Sa, Mùa Thu Cho Em của Ngô Thụy Miên, Thu Hát Cho Người của Vũ Ðức Sao Biển, Thu Sầu của Lam Phương, Nhìn Những Mùa Thu Ði của Trịnh Công Sơn, Tiếc Thu của Trần Thiện Thanh... như những ca khúc tuyệt vời, đã một thời làm vang vọng khung trời mùa thu, vượt thời gian. Hoàng Trọng cũng góp mặt trong rừng âm điệu huyền nhiệm, du dương trác tuyệt đó để làm nhịp cầu chuyển tiếp từ tiền chiến đến nay, ngoài Thu Qua, có Ngàn Thu Áo Tím. Ở hải ngoại, dù không sống trong thời khắc bốn mùa như quê nhà nhưng niềm rung cảm trong thu với ca khúc mang hình ảnh mùa thu với niềm đau thương rất tuyệt vời như những bản nhạc bán cổ điển của những nhạc sĩ tài danh trên thế giới vào thời kỳ lãng mạn của âm nhạc vào thế kỷ XIX.
                        Tiếng hát Thái Thanh, Quỳnh Dao... qua Ngàn Thu Áo Tím đã vượt thời gian và không gian. Thế nhưng, định mệnh với người nhạc sĩ lại đến trong âm nhạc, đôi khi bắt gặp sự linh cảm xa xăm nào đó với tình yêu. Khi viết ca khúc, Thu Tâm vẫn còn bé nhỏ và xa lạ nhưng bốn thập niên sau, ca khúc đó trở thành tiếng lòng, tâm sự của người bạn đời, góa phụ. Trong đêm tưởng niệm, tiếng hát Thu Tâm thay cho nỗi niềm thổn thức, khóc thương với hình ảnh tình quân:
                        “Từ khi xa anh, em vẫn yêu và nhớ. Mà sao anh đi, đi mãi không về nữa. Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ, khóc trong chiều gió mưa, khóc thương hình bóng xưa...
                        ... Anh xa khơi, bóng mưa giăng đầy lối. Anh xa xôi, áo bay trong chiều tím. Anh xa xôi, áo em tím lẻ loi, tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi...
                        Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím. Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím. Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau, tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau...”
                        Cùng với ca khúc Nghìn Thu Áo Tím, ca khúc Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tìm với tiếng hát Lệ Thanh đã làm rung động hàng triệu trái tim thưởng ngoạn âm nhạc.
                        “Trời buồn đem mây tím về chơi vơi khiến lòng tối nhớ :
                        Một mùa thu xưa lúc còn thơ ấu bên vườn mộng mơ.
                        Tôi đã yêu hoa màu tím.
                        Tôi đã hay mơ thầm kín,
                        Hay đứng bên song trông áng mây trôi lướt sang ngàn nơi.
                        Chiều chiều đi trong nắng nhặt hoa rơi ép vào trang giấy.
                        Và màu tôi yêu thuở nào xa vắng bây giờ còn đây.
                        Hiu hắt trăng thu mờ úa
                        Nâng cánh hoa xưa thầm nhớ
                        Man mác không gian mây tím giăng ngang in vào thu vàng.

                        Thu về hoa tím tàn, trần gian ngỡ ngàng và tim tôi xao xuyến mơ màng.
                        Ôi màu hoa mỹ miều, gợi thương nhớ nhiều, ngàn năm tôi mãi còn yêu!...”

                        Trong buổi lễ tưởng niệm, với chiếc áo dài màu tím, người góa phụ Thu Tâm với ca khúc ngàn Thu Áo Tím như lời vĩnh biệt, mọi người đều xúc động, không cầm được nước mắt!
                        Hoàng Trọng đi suốt cuộc hành trình trong chiều dài của âm nhạc Việt Nam. Ông không còn hiện diện trên cõi trần, trong không gian vô tận, thoáng hiện một vì sao màu tím với giải ngân hà bồng bềnh như những chuỗi âm thanh.
                                                             Vương Trùng Dương
                        Nguồn - Cali Weekly
                        #12
                          vuongtuyetngoc 18.06.2008 21:28:31 (permalink)
                          Ngẫm Chuyện Nhân Sinh

                          Tác giả Vương Trùng Dương

                                                            


                                          Đôi Dòng của thân hữu
                            
                           * Năm 1990, Vương Trùng Dương sang định cư  tại California, trong tình bạn bè đã quen biết với nhau từ những thập niên qua, tôi mời anh cộng tác với Saigon Times để góp mặt với nhau. Tuy bận rộn với thời gian đầu nhưng anh vui vẻ vung bút với Chuyện Trong Tuần, sinh động và lôi cuốn.
                          Từ đó, Saigon Times có thêm mục mới với Chốn Bụi Hồng được thân hữu đồng nghiệp như Huy Phương, Cao Mỵ Nhân... đảm trách.
                          ... Những chuyện nhân gian không phải là chuyện lạ mới xảy ra chung quanh trong đời sống chúng ta. Khi trái đất này có sự xuất hiện nhân vật thứ ba là có chuyện. Từ tình yêu ghen tuông hận thù tranh giành quyền lợi, dị dởm, âm mưu để chiếm đoạt tư hữu... nếu có thiên tài như Tư Mã Thiên cũng chưa chắc đã viết hết những bộ sách dày hàng triệu trang. Nghe bạn tôi đang gom góp những chuyện phiếm trong mục Thiên Hạ Sự, Thế Thái Nhân Tình... để in thành sách. Ý kiến hay lắm chứ.  Tôi đã theo dõi và rất thích những mẩu chuyện của Vương Trùng Dương, chứng tỏ anh đọc nhiều và có trí nhớ thật tốt qua từng nhân vật mà anh đã bắt gặp trong sinh hoạt hằng ngày một cách tài tình sâu sắc chính xác và bén nhạy... Tôi tin chắc anh sẽ thành công trong hướng viết này và được đón nhận một cách lý thú.
                                                                                     
                               Thái Tú Hạp

                           

                           
                          * Giữa thập niên 60, chúng tôi gặp nhau ở quân trường tại Thủ Đức và Đà Lạt, anh đảm trách tờ báo trong phạm vi Sinh Viên Sĩ Quan, cũng vì nghiệp nầy, anh suýt bị mang cánh gà, ca bài  giã từ quân trường nhưng rồi “tai qua nạn khỏi” và tiếp tục công việc cho tờ Đường Mới của Khóa I Nguyễn Trãi đến ngày ra trường.
                          Năm 1993, anh Nguyễn Đức Nhuận ra đời tờ Việt Nam Press, trong vai trò Chủ Bút, phụ trách mục Thế Sự Bồng Bềnh, tôi rủ anh làm Tổng Thư Ký và đảm nhận hai mục Nội Tình Trôi Nổi cùng Chuyện Ruồi Bu... với những diễn biến xảy ra ở nơi chốn “gió tanh mưa máu” của Little Saigon. Dĩ nhiên, bụng làm dạ chịu, có sự sóng gió lẫn khó khăn cho tờ báo nhưng vẫn kéo dài đến khi bận công ăn việc làm nên... Việt Nam Press đình bản.
                                                                                     
                           Thiết Trượng

                           
                           
                          * Gần đây, tôi thấy, có dễ không một cộng đồng thiểu số nào, tại Hoa Kỳ, có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, ca sĩ, nhạc sĩ, ngâm sĩ, xướng ngôn viên (gọi chung là nghệ sĩ - - Tới mức, những người không có trước tên của họ, một chữ “nhà,” hay chữ “sĩ” nào, rồi đây, sẽ trở thành... thiểu số!
                          Tuy nhiên, nếu phải tìm cho ra người: Trôi theo (mà không nhập;) ở trong (mà vẫn đứng ngoài) luồng, (thì,) đó là Vương Trùng Dương.
                          Căn cứ trên việc làm hằng ngày của Vương Trùng Dương, (thì,) chỉ danh thích hợp nhất cho anh, là nhà báo.
                          Nhưng, với tôi, anh lại người thận trọng, nâng niu chữ, nghĩa hơn rất nhiều nhà văn, nhà thơ... tên tuổi, tôi được biết.
                          Vì thế, theo tôi, chỉ danh đúng nhất, cho một Vương Trùng Dương, ngoại lệ nầy, là nhà văn.
                          Tôi thích lắm, khi đọc trong “Lời Ngỏ” mở vào tập Ngẫm Chuyện Nhân Sinh, ông viết:
                          “Khi bắt tay thực hiện tác phẩm này, chúng tôi chỉ mong nó trở thành món quà nho nhỏ đến với độc giả để giải buồn”.
                          Mong ước của Vương Trùng Dương, là một mong ước chân thật, khiêm tốn. (Tôi viết nghiêng bốn chữ chân thật, khiêm tốn).
                          Bởi vì, chân thật, khiêm tốn của Vương Trùng Dương, nhà văn, không cùng nghĩa với chân thật, khiêm tốn của các “nhà,”  các “sĩ” khác...
                          Do đó, với tôi, ông đã là nhà văn, ngay từ những dòng chữ đầu tiên và, cuối cùng của mình.
                                                                                        
                            Du Tử Lê

                           
                           
                          * Với mục Thiên Hạ Sự trên tuần báo Tình Thương vào giữa thập niên 90, qua cái nhìn và ngòi bút của Vương Trùng Dương trước sự kiện đã và đang xảy ra trong sinh hoạt đời sống đầy lao xao, rất lý thú với bạn đọc gần xa.
                          Trong suốt thời gian qua, Nguyễn Ngọc Chấn CNN, anh và tôi đảm trách nhiều tờ báo, chúng tôi chia nhau để tên trong thành phần trách nhiệm, và anh chỉ muốn làm “Thượng Sĩ già trong đơn vị” với Tổng Thư Ký.
                          Anh viết khá nhiều thể loại nên bằng hữu xúi bậy anh in thành sách cho vui nhưng cứ lửng lơ con cá vàng và hẹn mãi cho đến khi lên chức “ông”, nghe lời anh em, tuyên bố “đẻ ra đứa con tinh thần” nên đứa con đầu lòng ra đời trong dự án tuổi già của anh lúc nhả tơ.
                          #13
                            vuongtuyetngoc 19.06.2008 22:32:52 (permalink)

                            Ngẫm Chuyện Nhân Sinh

                                                              
                                                         Đôi Dòng của thân hữu

                            * Với mục Thiên Hạ Sự trên tuần báo Tình Thương vào giữa thập niên 90, qua cái nhìn và ngòi bút của Vương Trùng Dương trước sự kiện đã và đang xảy ra trong sinh hoạt đời sống đầy lao xao, rất lý thú với bạn đọc gần xa. Trong suốt thời gian qua, Nguyễn Ngọc Chấn CNN, anh và tôi đảm trách nhiều tờ báo, chúng tôi chia nhau để tên trong thành phần trách nhiệm, và anh chỉ muốn làm “Thượng Sĩ già trong đơn vị” với Tổng Thư Ký. Anh viết khá nhiều thể loại nên bằng hữu xúi bậy anh in thành sách cho vui nhưng cứ lửng lơ con cá vàng và hẹn mãi cho đến khi lên chức “ông”, nghe lời anh em, tuyên bố “đẻ ra đứa con tinh thần” nên đứa con đầu lòng ra đời trong dự án tuổi già của anh lúc nhả tơ.                                                            Lâm Tường Dũ     * Quen thân với Vương Trùng Dương cũng tròm trèm một con giáp. Lúc đó, tình cờ tôi đọc bài viết của anh về Quách Dược Thanh bị bức tử trong trại tù CS trên tờ Saigon Times, xuống Little chơi, chúng tôi gặp nhau. Quách Dược Thanh là bạn cùng học Sư Phạm với tôi, cùng Khóa với anh và cùng phục vụ tại Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị ở Đà Lạt. Từ hình ảnh người bạn quý đó, mối dây thân tình giữa chúng tôi đến với nhau rồi “tay trái tay phải” trong nghiệp báo. Anh là người bày đặt ra chuyện in ấn hai tác phẩm Chuyện Thổ Tả và Ngựa Hoang của tôi. Anh bảo tôi gom bài viết Chuyện Thổ Tả lại để giao cho anh, vài ngày sau, anh “layout” xong rồi ném lại cho tôi; ở thế “chẳng đặng đừng”, thấy hay hay nên “tới luôn bác tài”. Với Ngựa Hoang thì tôi và anh cùng bằng hữu góp ý “thừa thắng chơi dại” rồi anh lại lo phần kỹ thuật cho tác phẩm... Lần nầy, có lẽ anh tránh tiếng là người chỉ xúi người khác nên mới “phán” phải đáp lễ lại chuyện xúi của bạn bè, vì vậy Ngẫm Chuyện Nhân Sinh được chào đời.                                                       Nguyễn Ngọc Chấn, CNN      * Những mẩu chuyện viết để kể của Vương Trùng Dương có thể gọi gọn là “chuyện thiên hạ”’. Thiên hạ vốn là chính ta, bởi ta ở từ thiên hạ. Những “trọng đại”, những “nhỏ nhoi” trong cuộc sống kết lại thành những hoạt cảnh bình thường, nhưng thân mật. Phiếm là một thể loại rất có hiệu quả trong việc làm sống lại những sinh cảnh của cuộc sống. Người viết phiếm, ít ra phải  cần có những thông minh, duyên dáng, tế nhị và bặt thiệp, để biến những mẩu chuyện kể vụn vặt thành một đề tài vừa “mua vui” vừa đủ để nhẹ nhàng suy ngẫm... Chuyện của ta, chuyện thiên hạ, quanh đi quẩn lại vốn không nhiều, đại loại là những vui, buồn na ná nhau, nhưng lặp lại những câu chuyện đó với một hơi văn chợt như mới, đã là thành công của người viết phiếm, thật không dễù. Vương Trùng Dương, một cây bút đã chứng tỏ được khả năng này.                                                                     Luân Hoán      * Thực hiện tuần báo Đất Nước vào năm 1998, tôi mời chị Minh Đức Hoài Trinh làm Chủ Bút và “ông bạn lang bạt” Vương Trùng Dương làm Tổng Thư Ký. Sáng tối, thấy anh tán gẫu, cà phê thuốc lá với bạn bè; thật tình, lúc đó tôi hơi lo nhưng biết tính anh, chẳng có gì bận tâm, quan trọng cả nên đành im lặng, rồi anh quán xuyến nội dung tờ báo đâu vào đó; đặc biệt, mục Ngẫm Chuyện Nhân Sinh của anh trở thành đề tài “thời sự” với chiêu thức của tay viết phiếm vừa bạo vừa vui.    Được biết, anh cộng tác cho nhiều tờ báo ở Nam Cali và các nơi xa, không hiểu anh viết lách lúc nào, chỉ thấy bài viết góp mặt đều đặn trên trang báo. Với anh, làm báo như uống cà phê, hút thuốc lá: niềm vui và thú tiêu khiển. Anh chuyên làm việc bao đồng với đồng nghiệp trong tinh thần tùy hứng, không biết lúc nào anh sẽ cao hứng với công việc của mình, gạn hỏi, anh chỉ trả lời đời còn dài. Khi nghe anh báo tin, chọn vài bài trong mục Ngẫm Chuyện Nhân Sinh để in thành tác phẩm, còn chút gì lưu lại sau thời gian phôi phai, vừa ngạc nhiên vừa mừng cho bạn ta... đến ngày sinh nở.                                                                         Hoàng Sỹ
                            #14
                              phamnguyennhung 21.06.2008 22:00:27 (permalink)


                              Ngẫm Chuyện Nhân Sinh

                               

                              KIM DUNG,

                              Cuộc Đời, Tác Phẩm & Nhân Vật Hư Cấu & Hiện Thực
                              Vương Trùng Dương 
                               
                                   Trung Hoa chiếm trên diện tích rộng lớn, chạy dài từ kinh tuyến 75 đến kinh tuyến 125 và từ vỹ tuyến 25 lên vỹ tuyến 55 với diện tích hơn 3 triệu rưỡi dặm vuông (trên 9 triệu rưỡi cây số vuông).
                              Phía Đông, chạy dọc từ Bắc xuống Nam có các tỉnh Hắc Long Giang (Heilongjiang) giáp biên giới Nga, Kiết Lâm (Jilin) và Liêu Ninh (Liaoning) giáp biên giới Triều Tiên và dọc theo ven biển Tahí bình Dương gồm các tỉnh Hà Bắc (Heibei) có thủ đô Bắc Kinh, thành phố Thiên Tân... Sơn Đông (Shandong), Giang Tô (Jiangsu) có thành phố Nam Kinh, Thượng Hải... Triết Giang có thành phố Hàng Châu, Giang Tô... Phúc Kiến (Fujian) có thành phố Phúc Châu... và Quảng Đông.
                              Từ Đông sang Tây có Quảng Đông (Guangdong), Quảng Tây (Guangxi), Vân Nam (Yuannan) giáp biên giới Việt Nam. Chạy dần vế hướng Bắc có Phúc Kiến (Fujian), Giang Tây (Jangxi), Hồ Nam (Hunan), Quý Châu (Guizhou); Triết Giang (Zhejiang), An Huy (Anhui), Hồ Bắc (Hubei), Tứ Xuyên (Sichuan), Tây Tạng (Tibet – bị xâm chiếm vào thập niên 50);, Giang tô (Jiangsu) Hà Nam (Henan), Sơn Tây (Shaanxi), Sơn Đông (Shandong), Hà Bắc (Hebei), Ninh Hả (Ningxia) Cam Túc (Gansu), Thanh Hải (Qinghai), Tân Cương (Xingjiang); và Nội Mông (Inner Mongolia -  phần đất của Mông Cổ) nằm về phái Tây của 3 tỉnh Đông Bắc: Liêu Ninh (Liaoning), Kiết Lâm (Jilin), Hắc Long Giang (Heilongjiang)...
                               
                                                                                               *
                               
                                   Vào thập niên 40, tiểu thuyết  võ hiệp được xuất hiện ở Việt Nam bàng bạc qua sách báo nhưng chưa tạo được thế đứng trong giới thưởng ngoạn. Ở Đài Loan và Hồng Kông, Kim Dung không phải là nhà văn tiên phong về loại tiểu thuyết đem võ nghệ trong thế giới võ lâm tạo thành tác phẩm - tiểu thuyết kiếm hiệp, võ hiệp kỳ tình, chưởng - nhưng ông là người đã đưa bộ môn nầy lên đỉnh vinh quang. Những cây bút trong tiểu thuyết võ hiệp như Trương Mộng Hoàn, Nghê Khuông, Cổ Long, Gia Cát Thanh Vân, Ngọa Long Sinh, Lương Vũ Sinh, Mộ Dung Mỹ, Nam Kim Thạch, Độc Cô Hồng, Liễu Tân Dương, Trần Thanh Vân... xuất hiện cùng thời điểm với Kim Dung nhưng ngòi bút của Kim Dung như kiếm khách tuyệt luân đem thế giới giang hồ trong võ lâm vào ngôn ngữ văn chương.
                              Tên ông đã gắn liền với bộ môn tiểu thuyết kiếm hiệp bởi bề dày của tác phẩm và được phát hành rộng rãi khắp thế giới. Theo con số thống kê ở Hồng Kông vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, trong thị trường đọc chữ Hán trên thế giới, sách của ông đã tiêu thụ hàng trăm triệu bản. Tại Đài Loan, theo con số công bố của tạp chí People, tháng 10 năm 1994, trong vòng gần 5 năm từ 1990 đến 1994, Kim Dung đứng dầu trong danh sách 10 tác giả có số lượng bản in bán nhiều nhất với 4 triệu 200.000 bản, trong khi Quỳnh Giao đứng thứ tám với 600.000 bản.
                              Tại Trung Cộng, khi tác phẩm Kim Dung được phổ biến, trong năm 1985, nhà xuất bản ở Thiên Tân mua được bản quyền để in và bán ra với số lượng 40 triệu bản.
                              Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đại Hàn, Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai, Ý, Tây Ban Nha, Nga, Anh, Pháp...
                              Ở Việt Nam, theo bài viết của Hồ Tây thì vào cuối năm 1960,  có thêm các tờ báo ra đời, đó là tờ Đồng Nai, Saigon Mai, Tiếng Dân, Mới, Dân Việt. Để có độc giả, Cao Giao hỏi ý kiến Vũ Khắc Khoan về truyện kiếm hiệp mà đi đâu Vũ Khắc Khoan đều kể là mê lắm... Cao Giao đặt Tiền Phong dịch bộ Bích Huyết Kiếm đăng trên tờ Đồng Nai, Đồ Mập dịch Anh Hùng Xạ Điêu cho tờ Dân Việt, Văn Giang thấy hai tờ báo kia có tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung nên nhờ Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử dịch Thần Điêu Hiệp Lữ cho tờ Mới... Khi Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch Cô Gái Đồ Long (Đồ Long Đao, Ỷ Thiên Kiếm) trên nhật báo Đồng Nai, thu hút độc giả khá đông, ở đâu cũng bàn tán từng nhân vật vừa ly kỳ, hấp dẫn. Năm 1962, Hồ Tây và Tiền Phong sang Hồng Kông gặp Kim Dung để bàn thảo về vấn đề chuyển dịch.
                              Sau đó, dịch giả Hàn Giang Nhạn, Phan Cảnh Trung, Lão Sơn Nhân, Từ Khánh Vân nhập cuộc, tác phẩm của Kim Dung xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Sài Gòn với Hiệp Khách Hành, Võ Lâm Ngũ Bá, Thiên Long Bát Bộ, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký... Hầu hết các nhật báo ở Sài Gòn đều tranh nhau đăng tiểu thuyết võ hiệp, tạo thành hiện tượng Kim Dung. Và, hầu hết tác phẩm của Kim Dung đã được in thành sách trước năm 1975...
                              Khi Cô Gái Đồ Long đã làm độc giả say mê thì Đỗ Long Vân đã viết quyển Vô Kỵ Giữa Chúng Ta hay Hiện Tượng Kim Dung, được ghi nhận là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam viết về Kim Dung. Sau hai năm 1967-1968, Tiếu Ngạo Giang Hồ tung hoành trên làng báo Sài Gòn, nhà báo Trần Việt Sơn chuyên về bình luận chính trị trên tờ Chính Luận đem ý nghĩa câu chuyện với hình ảnh Ngũ Nhạc Kiếm Phái của chính giáo đã thiếu tinh thần đoàn kết để đối đầu với Triêu Dương Thần Giáo của tà giáo và rút ra bài học cho công cuộc đấu tranh trong giai đoạn hiện tại.
                              Miền Nam Việt Nam là môi trường phổ biến tác phẩm Kim Dung rộng rãi và có ảnh hưởng sâu rộng nhất vì tên tuổi nhiều nhân vật hư cấu trong tác phẩm của ông đã trở thành quen thuộc trong lúc đó, có nhiều tác phẩm võ hiệp khác của các tác giả ở Đài Loan và Hồng Kông cũng được phổ biến nhưng hình như không được đề cập, bàn thảo.
                              Qua quá trình xuất hiện tác phẩm của Kim Dung hằng ngày dưới dạng “feuilleton”, ngoài lãnh vực phổ biến qua sách báo, còn được thực hiện thành phim, video... với tác phẩm, với nhân vật, phổ biến rộng rãi khắp năm châu. Cuối thập niên 60, ở Pháp và Hoa Kỳ đã có Hội Nghiên Cứu Kim Dung; từ đó đến nay, nhiều nước đã thành lập Hội Nghiên Cứu Kim Dung, trong đó ở Đài Loan, Hội Nghiên Cứu Kim Dung có trên 60,000 hội viên.

                               
                                                                                     Dòng  Đời   Nằm cạnh sông Tiền Đường, Hải Ninh thuộc tỉnh Triết Giang, miền duyên hải phía Đông Trung Hoa nổi tiếng với danh lam non nước hữu tình và cũng là nơi xuất hiện nhiều nhân tài, địa linh nhân kiệt. Nơi đó, trên cổng vào từ đường dòng họ Tra, treo câu đối của vua Càn Long ca ngợi gốc gác và danh giá họ Tra: “Đường Tống dĩ lai cư tộc. Giang Nam hữu sổ nhân gia”.
                              Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1924, ở trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang. Họ Tra thuộc gia đình khoa bảng, vọng tộc lưu danh qua nhiều đời. Kim Dung là người thứ hai trong số sáu anh chị em. Thân mẫu ông là cô họ thi hào Từ Chí Ma, thuộc dòng dõi vọng tộc thế gia ở Hải Ninh. Chẳng may bà qua đời lúc ông còn niên thiếu và được mẹ kế là Cổ Tú Anh nuôi dạy cho đến lúc trưởng thành.
                              Dòng họ Tra nổi tiếng với thư viện gia đình Tra Thị Tàng Thư, lưu trữ sách từ nhiều đời; tiếp nối truyền thống của tổ tiên, từ nhỏ, Tra Lương Dung ham đọc sách nên đó cũng là môi trường thuận lơi để ông học hỏi, tìm tòi.
                              Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Viên Hoa, được đánh giá thông minh, chăm chỉ. Năm  lên tám tuổi, ông đọc bộ tiểu thuyết đầu tiên là bộ Hoang Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo (1897-1944), đọc Giang hồ Kỳ Hiệp của Bình Giang Bất Tiếu Sinh trên tạp chí Hồng Mai Khôi, Cận Đại Hiệp Nghĩa Anh Hùng trên tờ Trinh Thám Thế Giới... thấy say mê nên từ đó đã có mộng sẽ viết về bộ môn này.
                              Kim Dung trưởng thành trong giai đoạn chiến tranh Trung - Nhật bùng nổ dữ dội và quân đội Nhật đã xâm lăng từ Mãn Châu dần đến những tỉnh, thành khác dọc theo duyên hải Trung Hoa, bên cạnh đó, cuộc chiến Quốc - Cộng ngày càng lan rộng đưa đất nước vào cảnh lầm than, đầy biến động.
                              Năm 1937, mới 13 tuổi, mới học năm thứ ba trung học ở huyện Gia Hưng, ông đã cả gan viết một cuốn sách Dành Cho Người Thi Vào Sơ Trung, Tra Lương Dung biên soạn, nhà xuất bản ở Triết Giang ấn hành, được nhiều người trong mấy tỉnh lân cận mua đọc. Có thể nói đó là tác phẩm đầu tay của ông.
                              Hai năm sau, khi lên Liên Hợp Cao Trung, ông viết thêm cuốn Hướng Dẫn Thi Vào Cao Trung, sách cũng được xuất bản và mọi người đều nghĩ đó là nhà giáo, không ngờ đó là cậu học trò tuổi mới mười lăm.
                              Đến năm 1940, khi còn đang học năm cuối bậc Trung Học, vì tình hình chiến sự sôi động, ông phải tản cư qua nhiều phủ huyện.
                              Cũng năm đó, ông viết bài cho bích báo với truyện trào phúng dưới nhan đề Cuộc Du Hành Của Alice (dựa theo truyện Alice in Wonderland) có ý châm biếm nhân vật Thẩm Nải Xương, Chủ Nhiệm ban Huấn Đạo, hình ảnh “con rắn đeo kính” độc đoán, thủ cựu, khắc khe thái quá nên ai cũng chán ghét... nên bị nhà trường đuổi học. Kim Dung chuyển sang học tại trường Cù Châu, mùa hạ năm 1941, chứng kiến hình ảnh rất bất bình khi thấy thấy giáo ỷ vào uy quyền của mình nên chửi cậu học trò, còn nổi giận muốn hành hung. Kim Dung viết bài Một Sự Ngông Cuồng Trẻ Con, bài được đăng trên Đông Nam nhật báo, gây xôn xao cả trường Cù Châu. Nhờ bài báo nầy, Kim Dung được nhà báo Trần Hướng Bình đến trường tìm hiểu; sau nầy Đông Nam nhật báo dời về Hàng Châu, Kim Dung gặp lại Trần Hướng Bình và dấn thân vào nghiệp dĩ trong làng báo.
                              Năm 1942, Kim Dung dịch một phần trong Kinh Thi sang tiếng Anh và biên soạn tự điển Anh-Hán bỏ túi.
                              Năm 1944, ông thi đậu vào Học Viện Chính Trị Trung Ương của Quốc Dân Đảng tại thủ phủ Trùng Khánh nhưng trong thời kỳ nầy có sự tranh chấp giữa các sinh viên với nhau, Kim Dung tham dự vào “cuộc chiến” và không hưởng ứng lời cam kết với  quy ước “tham gia quân đội” nên ông bị khai trừ. Nhờ người anh họ làm việc tại thư viện trung ương, ông được làm việc ở đó, có thì giờ đọc nhiều sách viết về phiêu lưu, mạo hiểm bằng tiếng Anh, và những truyện đó đã ảnh hưởng mạnh đến lối hành văn của ông sau này. Ông cùng hai người bạn cũng trong hoàn cảnh khó khăn nhưng cố gắng ra đời tạp chí Thái Bình Dương, báo đã tiêu thụ hết nhưng gặp thời buổi leo thang, không có vốn liếng để tiếp tục nên mộng ước đành tan vỡ.
                              Ông vượt đường trường đến nông trường Tương Tây ở
                              nơi xa để thử thách với cuộc sống khác. Sau Đệ Nhị thế chiến, khi Nhật thua trận, rút khỏi Trung Hoa, ông quay trở về cố hương Hải Ninh, với niềm ước mong của song thân theo truyền thống khoa bảng gia đình nhưng Kim Dung đã không đáp ứng được điều đó nên hội ngộ cùng thân nhân trong thời gian ngắn và tìm cách ra đi. Ông qua Hàng Châu làm ký giả cho tờ Đông Nam nhật báo, nhưng không lâu, ông lại sang Thượng Hải ghi tên học luật, ngành Quốc Tế Công Pháp ở Đại Học Đông Ngô. Bước vào đại học nhưng với niềm ước mong trong nghiệp báo, gặp thời cơ ông là một trong ba người trong toàn quốc đậu kỳ thi tuyển phiên dịch pháp luật của Đại Công Báo.
                              Ngày 15 tháng 3 năm 1948, khi tờ Đại Công Báo tái bản tại Hương Cảng, ông được cử sang làm việc tại đây. Trên đường từ Thượng Hải đến Hồng Kông, Kim Dung cho biết vốn liếng chỉ có 10 Mỹ kim, mượn của người bạn đồng hành, làm lộ phí. Tháng 11 năm 1949, ông viết một bài dài nhan đề “Quyền Tư Hữu Của Hoa Kiều Theo Luật Quốc Tế” và từ đó chuyên viết về bộ môn Công Pháp Quốc Tế.
                              Năm 1950, sau khi Cộng Sản chiếm được Trung Hoa, ở Hồng Kông, ông trở lại Bắc Kinh với tham vọng vai trò của nhà ngoại giao như đã mộng ước nhưng lý lịch bản thân gia đình tư sản nên bị từ chối. Đồng thời gia đình ông bị qui tội vào thành phần địa chủ, cha ông bị đem ra đấu tố nên từ đó Tra Lương Dung không còn liên lạc với gia đình được nữa.
                              Đến năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân Vãn Báo, viết phiếm luận. Cũng thời gian này, ông có viết một số truyện phim chẳng hạn như Lan Hoa Hoa, Tuyệt Đại Giai Nhân, Tam Luyến, Hữu Nữ Hoài Xuân.... Ông ký bút hiệu là Lâm Hoan và Diêu Linh Lan.
                              Thời gian Kim Dung và Lương Vũ Sinh làm việc ở báo Tân Văn, được La Phù, chủ biên, mớm cho ông con đường đi vào tiểu thuyết võ hiệp. Năm 1953, Lương Vũ Sinh đã xuất chiêu trước với Long Hổ Đấu Tinh Hoa, thu hút độc giả, đem lại kết quả tốt đẹp làm cho các báo khác lưu tâm.
                              Năm 1955, Hương Cảng Thương Báo nhờ La Phù tìm giúp tay viết tiểu thuyết võ hiệp, La Phù đã lưu tâm Kim Dung trước đây, có cơ hội để giới thiệu cho ông vung bút và bộ truyện đầu tay của ông là Thư Kiếm Ân Cừu Lục (Thư Kiếm Giang Sơn) với bút hiệu Kim Dung, được đăng hàng ngày trên nhật báo Tân Văn, mỗi ngày khoảng một nghìn chữ, kéo dài trong hai năm. Được độc giả ái mộ, tên tuổi Kim Dung được nổi hơn Lương Vũ Sinh, khi in thành sách, ở Nam Dương thực hiện thành phim trên truyền hình, tên tuổi ông lại được chấp cánh bay cao.
                              Năm 1956, ông bắt đầu viết tác phẩm thứ hai là Bích Huyết Kiếm, xuất hiện trên Hương Cảng Thương Báo, lúc nầy tiểu thuyết võ hiệp như làn gió mới thu hút độc giả mỗi ngày càng nhiều.
                              Năm 1957, ông bỏ viết báo quay sang làm việc cho công ty điện ảnh Trường Thành, vài truyện phim được thực hiện như Ba Mối Tình, Đừng Bỏ Anh, Tiếng Đàn Khuya nhưng vẫn tiếp tục phóng bút với Tuyết Sơn Phi Hồ, thấy ăn khách, ông viết Phi Hồ Ngoại Truyện, bối cảnh câu chuyện lại xảy ra trước Tuyết Sơn Phi Hồ.
                              Nắm được thị hiếu của độc giả, năm 1959 và 1960, ba
                              tạp chí chuyên về võ hiệp ra đời ở Hồng Kông: Võ Hiệp Tiểu Thuyết Chu Báo, Võ Hiệp Thế Giới, Võ Hiệp & Lịch Sử. Kim Dung xuất hiện trên Võ Hiệp & Lịch Sử với Anh Hùng Xạ Điêu (Xạ Điêu Anh Hùng truyện) với diễn biến trong thời kỳ Thành Cát Tư Hãn của lịch sử Trung Hoa bên cạnh các nhân vật hư cấu như Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế, Trung Thần Thông... làm mê hoặc độc giả.
                              Khi các nhân vật trong Võ Lâm Ngũ Bá (Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện) xuất hiện trên trang báo, cơn sốt về Kim Dung như bùng dậy với từng khuôn mặt và tình tiết được bàn tán xôn xao. Tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ được xuất hiện ở Việt Nam vào thập niên 60 với tựa đề Thần Điêu Đại Hiệp chưa được chuẩn xác vì chữ “Lữ” có nghĩa là đôi bạn chân tình Dương Qua - Tiểu Long Nữ.
                              Sau năm tháng dấn thân qua nhiều tờ báo từ đại lục sang Hồng Kông, Kim Dung muốn tạo dựng cho mình con đường độc lập nên cùng người bạn học là Thẩm Bảo Tân cho ra đời tờ Minh Báo. Nhật báo chỉ có 4 trang, khổ tabloid, trang ba độc quyền với tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Ngày 20 tháng 5 năm 1959, Minh Báo trình làng với Thần Điêu Hiệp Lữ, câu chuyện tiếp nối của Anh Hùng Xạ Điêu, mỗi ngày khoảng 2000 chữ và xuất hiện liên tục trong 3 năm. Tờ báo mỏng manh giữa rừng báo ở Hồng Kông nhưng nhờ Thần Điêu Hiệp Lữ tung hoành trên chốn giang hồ nên Minh Báo càng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thời gian đầu ra tờ Minh Báo, vợ chồng Kim Dung sống trong hoàn cảnh khó khăn, tất cả vốn liếng dồn vào tờ báo nhằm duy trì sự sống còn.
                              Tuy dốc tâm vào việc sáng tác tiểu thuyết nhưng Kim Dung vẫn giữ còn dành thời giờ cho phần bình luận trên tờ Minh Báo rất sâu sắc.
                                 Trước thập niên 50, Kim Dung có “mối dây liên hệ” với vài khuôn mặt của Cộng Sản ở đại lục nên có khuynh hướng thiên tả vì vậy ông đã cộng tác với Đại Công Báo trong suốt 10 năm ở Hồng Kông.
                              Sau thời gian được tin gia đình ông bị bạc đãi và mất liên lạc, ông đã thay đổi lập trường nên trong suốt hai năm Minh Báo ra đời 1959, 1960, với lập trường thiên hữu có những bài bút chiến kịch liệt với tờ báo thiên tả Đại Công Báo. Đứng trên quan điểm chính trị, ngòi bút bình luận sâu sắc của ông đã nâng cáo giá trị tờ Minh Báo. Năm 1957, Kim Dung không cón cộng tác với hai tờ báo khuynh tả là Đại Công Báo và Trường Thành Họa Báo để tham gia vào tổ chức Tự Do Báo Nghiệp Hiệp Hội.
                              Ngày 6 tháng 7 năm 1961, Ỷ Thiên Đồ Long, tiếp nối Thần Điêu Hiệp Lữ, xuất hiện trên Minh Báo đưa tiểu thuyết võ hiệp trở thành hiện tượng trong làng báo. Và, Cô Gái Đồ Long qua bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng xuất hiện trong làng báo ở Sài Gòn, bộ truyện nầy kéo dài được 3 năm. Ba bộ truyện nầy với diễn biến theo dòng thời gian được gọi là Xạ Điêu Tam Bộ khúc.
                              Năm 1960, Kim Dung còn sáng tác đoản truyện Bạch Mã Khiếu Tây Phong, năm 1961 truyện Uyên Ương Đao, và năm 1963 với tác phẩm Liên Hành Quyết nhưng với những câu chuyện riêng biệt, môn phái trong thế giới võ lâm không nằm trong tam bộ khúc đó nên ít gây được sự quan tâm của độc giả.
                              Ngày 3 tháng 9 năm 1964, Thiên Long Bát Bộ ra mắt trên Minh Báo và Nam Dương Thương Báo ở Singapore, kéo dài suốt 4 năm. Trong thời gian nầy, Minh Báo đã có  vị trí vững vàng trong làng báo ở Hồng Kông, Kim Dung có dịp đi ngoại quốc nên Nghê  Khuông thay ông tiếp nối xây dựng tác phẩm. Ở Việt Nam, tác phẩm in thành sách lại chia ra Thiên Long Bát Bộ có 34 hồi  và Lục Mạch Thần Kiếm gồm 120 hồi.
                              Năm 1965, tác phẩm Hiệp Khách Hành mang hình ảnh thi ca vào thế giới võ lâm nhưng bị lu mờ trước hào quang của tam bộ khúc quá tuyệt. Hơn nữa, thời gian nầy, Kim Dung chuẩn bị cho Minh Báo nguyệt san và công việc hình thành công ty Đại Minh Báo trong tương lai.
                              Sau khi tìm được cộng sự, năm 1967, Tiếu Ngạo Giang Hồ hiện diện trên Minh Báo, nhiều tờ báo đã dịch và đăng tải liên tục suốt 2 năm.
                              Trong thời điểm Trung Cộng phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa, phe thiên tả càng đả kích ông mạnh mẽ khi ông ủng hộ đường lối chặt chẽ của nhà cầm quyền Hồng Kông để giữ vững tinh thần độc lập. Và  năm 1968, ông xuất bản thêm tờ Tân Minh nhật báo ở Mã Lai và Singapore, lại ra thêm tuần báo Minh Báo Chu San với tính cách giải trí, mời nữ lưu chủ biên tờ báo và công việc phát triển tốt đẹp.
                              Ngày 24 tháng 10 năm 1969, Lộc Đỉnh Ký xuất hiện trên Minh Báo, liên tục cho đến ngày 14 tháng 9 năm 1972. Bộ truyện sôi nổi và hấp dẫn, độc giả trông đợi ngòi bút Kim Dung tung hoành trong thế giới võ lâm thì ông tuyên bố “gác kiếm”.
                              Kim Dung đam mê sáng tác và làm việc không mệt mỏi, vừa viết báo, vừa viết tác phẩm liên tục hàng ngày vì vậy, nếu tính số lượng chữ viết qua bình luận thời sự và tiểu thuyết võ hiệp, không ai phủ nhận sức làm việc của ông. Qua công trình sáng tác, ông tuyên bố toàn bộ những gì ông đã viết suốt 20 năm qua thành trọn bộ 36 cuốn, dưới nhan đề “Kim Dung, Võ Hiệp Tiểu Thuyết Toàn Tập”.
                              Tháng 4 năm 1973, Kim Dung thăm Đài Loan, hội đàm với Thủ Tướng Tưởng Kinh Quốc, nhiều nhân vật cao cấp của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc cùng văn giới, báo giới để trao đổi và tìm hiểu trong nhiều lãnh vực... Nhân cơ hội nầy, khi trở lại Hồng Kông, loạt bài phóng sự “Thấy Gì, Nghe Gì, Nghĩ Gì Ở Đài Loan”, với cái nhìn khách quan, thực tiễn và sắc bén của ông được mọi  người ái mộ như những tác phẩm đã được ăn khách của ông.
                              Trong suốt hai thập niên, tác phẩm Kim Dung được phổ biến trên nhiều quốc gia thì Đài Loan lại cấm, năm 1978 mới được phép chính thức phổ biến.
                              Đến năm 1980, tờ Võ Lâm tại Quảng Châu đăng truyện “Anh Hùng Xạ Điêu”, mở đầu cho một phong trào đọc Kim Dung ngay tại hoa lục.
                              Sau 28 năm xa cách quê hương, năm  1981, ông cùng vợ con về thăm Trung Cộng. Đặng Tiểu Bình đã mời ông đàm luận nên trong dịp nầy ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều giới chức trong suốt thời gian 6 tuần lễ khắp 13 tỉnh để tìm hiểu và thưởng ngoạn. Năm 1984, ông lại đi Bắc Kinh và lần này có hội kiến với  Hồ Diệu Bang và năm 1985, Trung Cộng thành lập cơ quan nghiên cứu về tình trạng đặc biệt của Hồng Kông sau năm 1997, ông được mời đảm nhận ủy viên trong cơ cấu này, đặc trách tiểu tổ “Thể Chế Chính Trị”.
                              Năm 1985, tác phẩm của Kim Dung được phổ biến ở Trung Cộng, ông đã bị tai tiếng cho rằng đã thay đổi lập trường để tác phẩm được phổ biến trong thị trường rộng lớn và bước chân vào chính trường của Trung Cộng. Có cơ quan ngôn luận trong tay nên ông không ngần ngại nói lên quan điểm của mình trước hiện tình chuyển biến của Hồng Kông.
                              Thái độ chính trị của ông được minh định vào tháng 5 năm 1989, khi xảy ra biến cố Thiên An Môn, ông từ chức vai trò trong cơ quan nghiên cứu đó để phản đối thái độ đàn áp dân chủ của Trung Cộng.
                              Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm hoạt động của công ty Minh Báo (1959 - 1989), ông từ chức Chủ Nhiệm chấp hành, chỉ còn giữ chức Chủ Tịch ban quản trị.
                              Năm 1993, ông lại đi Bắc Kinh để bàn về vai trò của Hồng Kông sau khi Anh Quốc trao trả lại Trung Cộng do lời mời của Giang Trạch Dân. Tháng 4 năm 1993, ông từ chức Chủ Tịch ban quản trị  Công ty Minh Báo, giữ vai trò Chủ Tịch danh dự, và tuyên bố hoàn toàn nghỉ ngơi như dự tính, để có thời gian thăm viếng, tiếp xúc với sinh viên ở các đại học trên thế giới theo lời mời làm giáo sư thỉnh giảng. Ông bày tỏ với thời gian còn lại với tuổi về hưu để hoàn chỉnh lại tác phẩm đã được phổ biến trước đó.
                              Trong 17 năm (1955-1972) từ tác phẩm đầu tay Thư Kiếm Ân Thù Lục đến tác phẩm sau cùng Lộc Đỉnh Ký, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung trên vạn trang.
                              Tổng cộng có 14 bộ tiểu thuyết Võ hiệp của Kim Dung đã lấy những chữ đầu đặt thành câu đối cho dễ nhớ:
                               “Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc
                                Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên”
                              Phi Hồ Ngoại Truyện - Tuyết Sơn Phi Hồ – Liên Thành Quyết – Thiên Long Bát Bộ – Xạ Điêu Anh Hùng – Bạch Mã Khiếu Tây Phong – Lộc Đỉnh Ký
                              Tiếu Ngạo Giang Hồ - Thư Kiếm Ân Cừu Lục  - Thần Điêu Hiệp Lữ – Hiệp Khách Hành - Ỷ Thiên Đồ Long - Bích Huyết Kiếm - Uyên Ương Đao.
                              Năm 1976, đoản truyện võ hiệp Việt Nữ Kiếm tái xuất giang hồ nhằm gởi gấm hình ảnh và bối cảnh trong thời điểm Việt Vương Câu Tiễn và Ngô Phù Sai với mối tình giữa Phạm Lãi và Tây Thi, hoa mộng và ngang trái, được sở đắc với độc giả nhưng quá ngắn nên coi như phần phụ. Có lẽ, sau khi tuyên bố gác kiêm nhưng lại sáng tác đoản truyện nầy vì Kim Dung muốn mượn hình ảnh Phạm Lãi để nói lên con đường của mình khi công thành danh toại.
                              (Còn tiếp)
                              Trích Ngẫm chuyện ngẫm sinh của VTrD
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 17 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9