Góp ý về thơ phá cách
Bài góp ý này chỉ nói đến sự “phá cách” trong thơ Bát Cú Đường Luật.
Cách biên soạn ra Ðường Luật : Về việc soạn ra Ðường Luật, chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong phần trích dẫn sau đây :
[Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình,
mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.]
(trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)
Đây là Quách-Tấn với cái nhìn tổng quát, thấy việc phải làm trên nguyên tắc.
Nhưng khi vào thực tế của trường ốc, nếu gặp khó khăn trong sự « đúc kết, điển chế » cho thật sít sao với nguyên tác rất là đa dạng, thì cũng phải chọn một giải pháp nào đó đơn giản hơn. Để mà có thể chấm thi. Như trong bài viết của Huệ Thu :
. . . . . . một lối thơ trong trường ốc thì phải câu nệ vào luật . Không thế thì làm sao mà chấm ? . . . . . . Phải chăng đó là cái lý do khiến cho Niêm Luật áp dụng trong khoa cử và hiện được đại đa số người chơi thơ Đường áp dụng, lại không bao gồm được hết những bài thơ nổi tiếng của các thi hào thi bá đời Đường ?
Về những bài thơ bị gọi là « phá cách » :
Những bài thơ nằm ngoài bộ Niêm Luật khoa cử lại rất nhiều. Do đó nên giới bảo vệ bộ Niêm Luật khoa cử cố tìm một giải thích.
* một số thì cho đó là sự « phá cách » của các đại thi hào, với câu « đại gia văn chương bất câu Niêm Luật ».
* một số khác thì tìm cách gán ép cho đó là loại thơ « cổ phong ».
Sự « phá cách » của các đại thi hào không được đa số công nhận :
Về sự « phá cách » của các đại thi hào, rất nhiều người thấy là vô lý, vì có quá nhiều.
Quách-Tấn vẫn gọi những bài ấy là thơ « thất niêm », nhưng không đồng ý với quan niệm ấy nên ông giải thích :
’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật
phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự
Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168)
Quách-Tấn bảo « việc ấy tất có lý do » nhưng cũng không thấy cái lý do, mà chỉ khuyên ta không nên bắt chước.
Sự gán ép gọi là thơ Cổ Phong cũng khó được chấp nhận :
Trong sự gán ép gọi những bài thơ ngoài bộ Niêm Luật khoa cử là thơ Cổ Phong, người ta dùng bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ làm mẫu. Sự thiếu lý rất là rõ ràng như sau :
Bài « Vịnh Dế Duỗi » có câu đầu viết theo cách « lục ngôn thể » là :
Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi
Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến, mà cũng chẳng to như con voi.
Người ta thêm vào một chữ « phải » :
Kiến chẳng
phải kiến voi chẳng voi
khiến cho ba chữ nhì tứ lục đều là Trắc. Trong khi đó nếu muốn thêm cho đúng ý tác giả thì phải viết là :
Kiến chẳng kiến
mà voi chẳng voi
và câu thơ sẽ có ba chữ nhì tứ lục phân minh.
Sau đây là nhận xét từng câu của bài thơ Vịnh Dế Duỗi được dùng làm mẫu cho thơ Cổ Phong :
VỊNH DẾ DUỖI
Kiến chẳng
phải kiến voi chẳng voi - lục ngôn thể bị thêm vào chữ « phải »
Ðời
sanh dế
duổi cũng
choi choi (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Ngắn
cánh lên
trời không
đủ sức ) - nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Co
tay vạch
đất cũng
khoe tài ) - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Mưa
tuôn gió
tạt lên
cao ở } (nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Lửa
bỏng dầu
sôi nhảy
đến chơi } (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Quân
tử có
thương thời
chớ phụ - nhì tứ lục phân minh
Ðể
cho bay
nhảy thử
mà coi. - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Tú Quỳ
Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì tứ lục đều phân minh, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu. (Chỉ khác có phần Niêm sẽ đề cập đến sau.)
Còn thơ Cổ Phong theo định nghĩa thì phải là :
- toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu (vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?)
- toàn bài có thể dùng nhiều vần (vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?)
- không cần phải đối (vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?)
- không cần theo Niêm Luật (vậy tai sao không chọn bài mẫu với nhì tứ lục chẳng phân minh ?
Tóm lại bài Vịnh Dế Duỗi hoàn toàn không phải là thơ Cổ Phong. Mà chỉ là một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Chỉ có việc là nó dùng một phép Niêm không giống với phép Niêm của giới khoa cử mà thôi.
Đúng là Phá Cách hay không ? Những bài thơ bị gọi là « Phá Cách » vẫn sẽ thấy là trúng cách nếu ta coi bài Bát Cú là hai bài thơ Tứ Cú hay Tứ Tuyệt, một trên một dưới.
Niêm và Luật của thơ Thất Ngôn Tứ Cú hay Tứ Tuyệt :
Loại thơ này có hai cách Niêm :
Cách 1/ Niêm câu 1 với câu 3 và câu 2 với câu 4, ví dụ :
VỊ THÀNH KHÚC
Vị
thành triêu
vũ ấp
khinh trần
Khách
xá thanh
thanh liễu
sắc tân
Khuyến
quân cánh
tận nhất
bôi tửu
Tây
xuất Dương
Quan vô
cố nhân.
Vương Duy
Cách 2/ Niêm câu 1 với câu 4 và câu 2 với câu 3, ví dụ :
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
Mục
túc phong
biên phùng
lập xuân
Hồ
Lư hà
thượng lệ
triêm cân
Khuê
trung chỉ
thị không
tương ức
Bất
kiến sa
trường sầu
sát nhân.
Sầm Tham
và hai cách Luật :
bài VỊ THÀNH KHÚC theo Luật Bằng (chữ thứ 2 của câu thứ nhất là Bằng)
bài MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN theo Luật Trắc (chữ thứ 2 của câu thứ nhất là Trắc)
Thơ Bát Cú dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử với dải số kiểm soát 1-8 2-3 4-5 6-7 thì tương ứng với : cặp số 2-3 và 6-7 qui định là hai bài Tứ Tuyệt trên và dưới phải cùng theo phép Niêm 1-4 và 2-3
cặp số 1-8 và 5-6 qui định là hai bài Tứ Tuyệt trên và dưới phải đều dùng một Luật Bằng hay một Luật Trắc
Ví dụ về thơ Bát Cú dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử :
(nguyên văn và bản dịch xin xem phía sau, ở đây xin nói ngắn gọn để khỏi loảng ý)
Thơ chữ Nôm :
bài xướng TÔN PHU NHƠN QUI THỤC của Tôn-Thọ-Tường
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
bài họa TÔN PHU NHƠN QUI THỤC của Phan-Văn-Trị
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Thơ chữ Hán :
Bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Còn những bài thơ bị coi là phá cách của các đại thi hào đời Đường thì không theo sự ràng buộc đó. Mà theo cách phóng khoáng hơn :
Bài Bát Cú có thể dùng hai bài Tứ Tuyệt một nọ theo Niêm 1-4 2-3 và một kia theo Niêm 1-3 2-4, một nọ có thể theo Luật Bằng với một kia theo Luật Trắc.
Ví dụ về thơ Bát Cú không dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử và bị coi là “phá cách” :
(nguyên văn và bản dịch xin xem phía sau)
1/ Niêm giống nhau nhưng Luật khác nhau
Thơ chữ Nôm :
bài HÀ TIỆN của Nguyễn-Minh-Triết
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Thơ chữ Hán có những bài :
DẠ BIỆT VI TU SĨ của Cao Thích
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh
BÁN NHẬT THÔN của Tiền Khởi
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ của Lưu Vũ Tích
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
2/ Niêm khác nhau, Luật giống nhau
Thơ chữ Nôm :
DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
4 câu trên theo Niêm
1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm
1-4 2-3, Luật Trắc
Thơ chữ Hán có những bài :
ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du
4 câu trên theo Niêm
1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm
1-3 2-4, Luật Bằng
KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm
1-3 2-4, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm
1-4 2-3, Luật Bằng
3/ Niêm khác nhau, Luật cũng khác nhau
Thơ chữ Nôm :
VỊNH DẾ DUỖI của Tú Quỳ
4 câu trên theo Niêm
1-3 2-4, Luật
Trắc 4 câu dưới theo Niêm
1-4 2-3, Luật
Bằng Thơ chữ Hán có những bài :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh
4 câu trên theo Niêm
1-4 2-3, Luật
Trắc 4 câu dưới theo Niêm
1-3 2-4, Luật
Bằng HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thích
4 câu trên theo Niêm
1-3 2-4, Luật
Trắc 4 câu dưới theo Niêm
1-4 2-3, Luật
Bằng 4/ Niêm giống nhau, Luật giống nhau. Nhưng Niêm theo 1-3 2-4, cách này bộ Niêm Luật khoa cử không hề dùng đến.
Thơ chữ Hán có những bài :
CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm
1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm
1-3 2-4, Luật Trắc
Sau khi phân tách như trên, thì những bài thơ kê trên đây không hẳn là thơ « phá cách ». Mà chỉ là những cách Niêm khác hơn bộ Niêm Luật khoa cử.
Trong số Đường Thi mà tôi đọc qua, tôi chỉ gặp một bài duy nhất có thể gọi là thơ « phá cách » là :
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 là phép Niêm thông thường
4 câu dưới theo Niêm 1-2 3-4 là phép Niêm chưa từng thấy
VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
Bất
đáo Đông
sơn hướng
nhất niên
Qui
lai tài
cập chủng
xuân điền
Vũ
trung thảo
sắc lục
kham nhiễm
Thủy
thượng đào
hoa hồng
dục nhiên
Ưu lậu tỳ khưu kinh luận học
U lũ trượng nhân hương lý hiền
Phi y đảo tỷ thả tương kiến
Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền.
Vương Duy
BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN
Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay
Về gặp mùa xuân kịp cấy cày
Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc
Hoa đào trên nước đỏ hây hây
Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ
Bô lão làm gương giữ tháng ngày
Khoát áo trở giày tìm gặp bạn
Nói cười trước cổng thật vui thay !
Đinh Vũ Ngọc
Xin mạo muội góp ý.
Lá chờ rơi
Nguyên văn những bài thơ làm ví dụ nêu trên :
VỊ THÀNH KHÚC
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Vương Duy
dịch :
KHÚC CA VỊ THÀNH
Vị thành bụi nhẹ hoen mưa sớm
Quán khách mơ màng sắc liễu xanh
Một chén mời nhau xin nốc cạn
Dương Quan nào có bạn thân anh.
Đinh Vũ Ngọc
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
Mục túc phong biên phùng lập xuân
Hồ Lư hà thượng lệ triêm cân
Khuê trung chỉ thị không tương ức
Bất kiến sa trường sầu sát nhân.
Sầm Tham
dịch :
TỪ ĐÀI MỤC TÚC GỞI CHO NGƯỜI NHÀ
Bên đài Mục Túc xuân sang
Trên sông Hồ ấy lệ tràn thắm khăn
Phòng khuê có nhớ nhau chăng
Thấy đâu ngoài trận sầu giăng chết người.
Đinh Vũ Ngọc
Thơ theo đúng bộ Niêm Luật của giới khoa cử : Thơ chữ Nôm :
TÔN PHU NHƠN QUI THỤC (xướng)
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Trắc
Cật
ngựa thanh
gươm vẹn
chữ tòng (Luật Trắc
Ngàn
thu rạng
tiết gái
Giang Ðông
Lìa
Ngô bịn
rịn chòm
mây bạc
Về
Hán trau
tria mảnh
má hồng
Son
phấn thà
cam dày
gió bụi (Luật Trắc
Ðá
vàng chi
để thẹn
non sông
Ai
về nhắn
với Châu-
Công-Cẩn
Thà
mất lòng
anh đặng
bụng chồng.
Tôn-Thọ-Tường
TÔN PHU NHƠN QUI THỤC (họa)
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Bằng + 1-4 2-3 Bằng
Cài
trâm sửa
áo vẹn
câu tòng (Luật Bằng
Giả
mặt trời
chiều biệt
cõi Ðông
Khói
tỏa đồi
Ngô un
sắc thắm
Duyên
về đất
Thục đượm
màu hồng
Hai
vai tơ
tóc bền
trời đất (Luật Bằng
Một
gánh cương
thường nặng
núi sông
Anh
hỡi Tôn
Quyền anh
có biết
Trai
ngay thờ
chúa gái
thờ chồng.
Phan-Văn-Trị
Thơ lấy từ Đường Thi :
KHÚC GIANG ÐỐI TỬU
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Trắc
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Luật Trắc
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Ðào hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí (Luật Trắc
Lãn triều chân dữ thế tương vi
Lại tình cánh giác Thương Châu viễn
Lão đại đồ thương vị phất y.
Ðỗ Phủ
UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG
Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Ðản
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị)
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Bằng + 1-4 2-3 Bằng
Triều hồi nhật nhật điển xuân y (Luật Bằng
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện (Luật Bằng
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Ðỗ Phủ
HAI BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)
Mỗi buổi chầu lui thường cố áo
Bên sông say khướt mới ra về
Vài ba nợ rượu đâu không có
Bẩy chục đời người dễ mấy khi
Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
Bùi Khánh Ðản
Thơ không theo bộ Niêm Luật của giới khoa cử : Thơ chữ Nôm :
HÀ TIỆN
Giàu
thì ba
bữa khó
thì hai (Luật Bằng
Lần
lữa cho
qua tháng thiếu đầy
Nón
đổi lá
ngoài quần
đổi ống
Dép
thay da
mặt túi
thay quai
Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm (Luật Trắc
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
Thơ lấy từ Đường Thi :
DẠ BIỆT VI TU SĨ
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Cao
quán trương
đăng tửu
phục thanh (Luật Trắc
Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh
Chỉ
ngôn đề
điểu kham
cầu lữ
Vô
ná xuân
phong dục
tống hành
Hoàng
hà khúc
lý sa
vi ngạn (Luật Bằng
Bạch
mã tần
biên liễu
hướng thành
Mạc
oán tha
phương tạm
ly biệt
Tri
quân đáo
xứ tẫn
phùng nghinh.
Cao Thích
ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TU SĨ HỌ VI
Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu
Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau
Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn
Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau
Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc
Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu
Chớ buồn đất khách cùng chia biệt
Anh đến nơi đâu chẳng đón chào !
Đinh Vũ Ngọc
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Bắc
đẩu hoành
thiên dạ
dục lan (Luật Trắc
Sầu
nhân ỷ
nguyệt tứ
vô đoan
Hốt
văn họa
các Tần
tranh dật
Tri
thị lân
gia Triệu
nữ đàn
Khúc
thành hư
ức song
nga liễm (Luật Bằng
Điệu
cấp giao
liên ngọc
chỉ hàn
Ngân
thược trùng
quan thính
vị tịch
Bất
như miên
khứ mộng
trung khan.
Từ An Trinh
NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM
Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc
BÁN NHẬT THÔN
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Bán
Nhật ngô
thôn đới
vãn hà (Luật Trắc
Nhàn
môn cao
liễu loạn
phi nha
Hoành
vân lĩnh
ngoại thiên
trùng thụ
Lưu
thủy thanh
trung nhất
lưỡng gia
Sầu
nhân tạc
dạ tương
tư khổ (Luật Bằng
Nhuận
nguyệt kim
niên xuân
ý xa
Tự
thán Mai
Sinh đầu
tự tuyết
Khước
liên Phan
Lệnh huyện
như hoa.
Tiền Khởi
THÔN BÁN NHẬT
Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn
Chim bay liễu rủ trước nhàn môn
Ngàn trùng cây núi làn mây phủ
Vài nóc nhà bên suối nước tuôn
Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi
Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn
Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện
Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn.
Bùi Khánh Ðản
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Nam
quốc sơn
xuyên cựu
đế kỳ (Luật Trắc
Tống
đài Lương
tạ thượng
y hi
Mã
tê cổ
thụ hành
nhân yết
Mạch
tú hoang
thành dã
trĩ phi
Phong
xuy lạc
diệp điền
cung tỉnh (Luật Bằng
Hoả
nhập hoang
lăng hóa
bảo y
Ðồ
sử Từ
thần Dữu
Khai phủ
Hàm
Dương chung
nhật khổ
tư quy.
Lưu Vũ Tích
ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ
Ðô cũ miền Nam ở chốn này
Ðình Lương đài Tống dấu còn đây
Cây cao ngựa hí hành nhân vắng
Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay
Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt
Cung xưa giếng ngự lá thu đầy
Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu
Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày.
Bùi Khánh Ðản
Thơ chữ Nôm :
DĨ HÒA VI QUÝ
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc
Ở
thế đừng
tranh tiếng
trượng phu (Niêm 1-3 2-4
Làm
chi cho
có sự
đôi co
Đây
cậy đây
khôn đây
chẳng nhịn
Ðấy
rằng đấy
phải đấy
không thua
Duật
nọ hãy
còn đua
đến bạng (Niêm 1-4 2-3
Lươn
kia hầu
dễ kém
chi cò
Chữ
rằng : Nhân
dĩ hòa
vi quý
Vô
sự thì
hơn khỏi
phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
Thơ chữ Hán-Nho :
ÐỘC TIỂU THANH KÝ
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-3 2-4 Trắc
Tây
Hồ mai
uyển tẫn
thành khư (Niêm 1-4 2-3
Ðộc
điếu song
tiền nhất
chỉ thư
Chi
phấn hữu
thần liên
tử hậu
Văn
chương vô
mệnh lụy
phần dư
Cổ
kim hận
sự thiên
nan vấn (Niêm 1-3 2-4
Phong
vận kỳ
oan ngã
tự cư
Bất
tri tam
bách dư
niên hậu
Thiên
hạ hà
nhân khấp
Tố Như.
Nguyễn-Du
Thơ lấy từ Đường Thi :
KÝ THÔI THỊ NGỰ
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng
Uyển
khê sương
dạ thính
viên sầu (Niêm 1-3 2-4
Khứ
quốc trường
như bất
hệ châu
Độc
liên nhất
nhạn phi
Nam độ
Khước
tiện song
khê giải
Bắc lưu
Cao
nhân lũ
giải Trần
Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3
Quá
khách nan
đăng Tạ
Diễu lâu
Thử
xứ biệt
ly đồng
lạc diệp
Triêu
triêu phân
tán Kính
Đình thu.
Lý Bạch
GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI
Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng
Phượng
Hoàng Ðài
thượng phượng
hoàng du (Niêm 1-3 2-4
Phượng
khứ đài
không giang
tự lưu
Ngô
cung hoa
thảo mai
u kính
Tấn
đại y
quan thành
cổ khâu
Tam
sơn bán
lạc thanh
thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3
Nhị
thủy trung
phân bạch
lộ châu
Tổng
vị phù
vân năng
tế nhật
Trường
An bất
kiến sử
nhân sầu.
Lý Bạch
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG
Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG
Đài Phượng từ xưa Phượng lượn chơi
Phượng bay đài vắng nước sông trôi
Cỏ len hoa dại cung Ngô tối
Gấm mục rêu mờ mả Tấn phơi
Che đỉnh Tam Phong mây quyến lại
Bao cồn Bạch Lộ sóng chia đôi
Rưng sầu lòng khách trông kinh khuyết
Mây nổi thường ngăn ánh mặt trời.
Lam Giang Thơ chữ Nôm :
VỊNH DẾ DUỖI
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Kiến
chẳng kiến
mà voi
chẳng voi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Ðời
sanh dế
duổi cũng
choi choi
Ngắn
cánh lên
trời không
đủ sức
Co
tay vạch
đất cũng
khoe tài
Mưa
tuôn gió
tạt lên
cao ở (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lửa
bỏng dầu
sôi nhảy
đến chơi
Quân
tử có
thương thời
chớ phụ
Ðể
cho bay
nhảy thử
mà coi.
Tú Quỳ
Thơ lấy từ Đường Thi :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-3 2-4 Bằng
Lệ
tận giang
lâu vòng
Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Điền
viên dĩ
hãm bách
trùng vi
Bình
vô vạn
lý hà
nhân khứ
Lạc
nhật thiên
sơn không
điểu phi
Cô
chu dạng
dạng hàn
triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Cực
phố thương
thương viễn
thụ vi
Bạch
âu ngư
phủ đồ
tương đãi
Vị
tảo Sam
Thương lãn
tức ky.
Lưu Trường Khanh
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC
Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc
HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Dao
lạc thâm
tri Tống
Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phong
lưu nho
nhả diệc
ngô sư
Trướng
vọng thiên
thu nhất
sái lệ
Tiêu
điều dị
đại bất
đồng thì
Giang
san cố
trạch không
văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Vân
vũ hoang
đài khởi
mộng tư
Tối
thị Sở
cung câu
dẫn diệt
Châu
nhân chỉ
điểm đáo
kim nghi.
Đỗ Phủ
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI
Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng
Hoàng
điểu phiêu
phiêu dương
liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xuân
phong tống
khách sử
nhân bi
Oán
biệt tự
kinh thiên
lý ngoại
Luân
giao khước
ức thập
niên thì
Vân
khai Mấn
Thủy cô
phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lộ
nhiễu Lương
Sơn thất
mã trì
Thử
địa tòng
lai khả
thừa hứng
Lưu
quân bất
trú ích
thê kỳ.
Cao Thích
TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ
Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc
CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc
Chước
tửu dữ
quân quân
tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Nhân
tình phiên
phúc tự
ba lan
Bạch
thủ tương
tri do
án kiếm
Chu
môn tiên
đạt tiếu
đàn quan
Thảo
sắc toàn
kinh tế
vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Hoa
chi dục
động xuân
phong hàn
Thế
sự phù
vân hà
túc vấn
Bất
như cao
ngọa thả
gia xan.
Vương Duy
RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH
Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc
Đỗ
Lăng hiền
nhân thanh
thả liêm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc, bỏ Luật chữ thứ 2
Đông
Khê bốc
trúc tuế
thời yêm
Trạch
cận thanh
sơn đồng
Tạ Diễu
Môn
thùy bích
liễu tự
Đào Tiềm
Hảo
điểu nghinh
xuân ca
hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phi
hoa tống
tửu vũ
tiền thiềm
Khách
đáo đãn
tri lưu
nhất túy
Bàn
trung chi
hữu thủy
tinh diêm.
Lý Bạch
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG
Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc
Bài Ðằng Vương Các dưới đây của Vương Bột còn pha trộn thêm hai yếu tố khác của thơ Tứ Tuyệt là « vần Trắc » trộn với « vần Bằng » và dùng thơ TT « ba vần » thay vì « hai vần » :
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng
Ðằng
Vương cao
các lâm
giang chử (Niêm 1-4 2-3, L. Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc
Bội
ngọc minh
loan bãi
ca vũ
Họa
đống triêu
phi Nam
phố vân
Châu
liêm mộ
quyển Tây
sơn vũ
Nhàn
vân đàm
ảnh nhật
du du (Niêm 1-3 2-4, L. Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng
Vật
hoán tinh
di kỷ
độ thu
Các
trung đế
tử kim
hà tại ?
Hạm
ngoại trường
giang không
tự lưu.
Vương Bột
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Bến sông cao ngất Ðằng Vương Các
Múa hát im rồi loan ngọc đâu
Nam Phố mây bay quanh cột vẽ
Tây Sơn mưa cuốn trước rèm châu
Mây trôi đầm ánh từ bao độ
Vật đổi sao dời đã mấy thu
Ðế tử không còn trơ gác vắng
Trường Giang muôn thuở chảy bên lầu.
Bùi Khánh Ðản
******
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.07.2008 20:42:00 bởi lá chờ rơi >