Sách Lược Cứu Nước
Thần Báo 23.06.2008 01:05:17 (permalink)
Sách Lược Cứu Nước
 
Thần Báo
 
Hè 07 vừa qua tại Việt Nam, nhóm anh em phong trào dân chủ cùng với Thần Báo công bố Sách Lược Cứu Nước, thực ra bản văn này đã phổ biến từ Thời Hùng và trải qua bao ngàn năm lịch sử. Để hướng dẫn toàn dân thực hành việc cứu nước Tổ Tiên Việt thuật lại một kỳ tích thắng giặc, một phương thức tổ chức hữu hiệu và thành công – gọi là Kinh Phù Đổng.
 
Giặc Ân xâm lấn nước ta đã ba năm. Vua Hùng tìm đủ cách chống giặc nhưng không thành. Nước mất nhà tan lòng dân phân tán. Một hôm vua nhớ lại lời Tổ dặn trong truyền thuyết Tiên Rồng, “Khi nào cần thì gọi, ta về ngay.” Vua liền lập đàn cầu Tổ về giúp.
 
Trong cơn mưa to gío lớn bỗng thấy xuất hiện cụ gìa áo đỏ, hình dung cổ quái, đùa giỡn với đám trẻ ngoài ngã ba đường. Vua Hùng thấy điềm lạ và đến xin cụ chỉ chước phá giặc. Cụ trả lời, “Vua sai sứ đi khắp nơi mà tìm người cứu nước.”
 
Theo lời cụ, vua sai người đi khắp nơi mà rao truyền và tìm người cứu nước. Làng Phù Ðổng có cậu bé ba tuổi mà không biết đi đứng nói cười. Nhưng khi nghe sứ vua rao thì cậu liền bật nói. Cậu xin con ngựa sắt và cây roi sắt để cậu đánh giặc.
 
Từ đó láng giềng đem gạo vải tới giúp cậu ăn mặc và cậu lớn lên như thổi. Khi sứ vua đem ngựa và roi tới, cậu bé Phù Ðổng liền vươn vai thành người to lớn. Cậu nhảy lên ngựa thì ngựa sắt liền cử động và phun lửa như ngựa thần. Với ngựa lửa roi sắt cậu đánh cho bọn giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt gãy cậu nhổ tre mà đánh tiếp, và ngựa thần cũng phun lửa làm cháy mấy làng. Giặc tan tới núi Sóc Sơn thì cậu cỡi ngựa về trời. Các gốc tre cậu nhổ để đánh giặc được hóa thành tre la ngà. Vua Hùng phong cậu là Phù Ðổng Thiên Vương.
 
I.       Nhận Chân Thực Trạng
 
Vua Hùng tìm gặp Tổ để sống lại “con người đích thực” của ông. Sau khi gặp Tổ ông lập đòan sứ nhân, tức những người cứu lại gia đình. Đoàn sứ nhân đi khắp nơi loan tin và giải cứu toàn dân. Và Phù Đổng vươn vai, công cuộc cứu nước được thực hiện.
 
Truyền thuyết Phù Đổng quả là sách lược trong đại cuộc phục quốc, là phương thức hành động cho tổ chức cứu nước, và là chương trình sống cho bất cứ ai yêu thương dân nước. Với khía cạnh xã hội con người, Phù Đổng trở thành bài học cải hóa từng con người và cải hóa toàn thể xã hội. Và chỉ khi có áp dụng phương thức cải hóa này thì chúng ta mới thoát ách nô lệ của mọi loại giặc dữ trên các phương diện cuộc sống dân nước. Giặc không chỉ là quân xâm lăng cướp nước, hay kẻ nổi loạn phá rối nếp sống trị an, mà còn là những ai những gì làm thiệt hại cuộc sống thanh bình.
 
Cũng như Vua Hùng chúng ta là hiện thân của người cứu nước, diệt giặc, và bảo toàn sự nghiệp thiêng liêng của tiền nhân. Cũng như Vua Hùng chúng ta đã làm hết cách, hết sức để thực hành và nghiên cứu việc tổ chức. Nhưng vẫn không thành, nước mất nhà tan, lòng dân phân tán, đồng minh trở mặt. Đang khi giặc lại được cầm quyền và thừa thắng xông lên, chia để trị và bảo vệ đặc quyền đặc lợi về lâu dài.

Việc tiên quyết của tổ chức cứu nước là chúng ta nhận chân thảm trạng mất nước. Chúng ta lượng định chính xác sức mạnh của giặc, và nhận thực tình hình yếu kém/ hay khiếm khuyết của ta. Nếu không thì việc cứu nước chỉ là ảo tưởng, hay lạc quan trái mùa, hoặc vì quá khiếp sợ giặc mà ta không nhận ra giặc.
 
Bài học nhận chân thực trạng, biết địch biết ta trăm trận trăm thắng.

II. Sống Lại Hồn Nước
 
Thực trạng mất nước là các hoạt động chống giặc thì rất khó thực hiện vì nhân tâm ly tán, càng ngày chúng ta lại càng bước vào ngõ bí của thời cuộc… Nhưng Tổ Tiên đã thắp sáng ngọn đuốc chứa chan hy vọng, Vua Hùng lập đàn cầu Tổ về giúp.

1. Lập đàn –  Việc lập đàn là chúng ta tỏ lòng thành và ý thức của một con người cứu nước. Lập đàn cầu Tổ nói lên tầm mức quan trọng vượt bực trong cuộc Tiên tranh Rồng đấu, dân tranh quân đấu. Cứu một người đã khó huống giờ chúng ta tính chuyện cứu cho cả một dân tộc, cả một đất nước, cả lịch sử giống dòng.
 
Nhìn vào thực tế, có thể có những người/ những nhóm có lòng muốn cứu nước, nhưng vì không có nền tảng tư tưởng dân tộc, không có quan niệm sống phúc đức thì lấy gì làm tiêu chuẩn/ làm thước đo mà phân định ranh giới giữa chánh nghĩa và gian tà, giữa hồn nước và hồn giặc?
 
2. Tổ –  là biểu trưng cho tinh thần, cho sức sống tối cao sức mạnh tối đại của cả một dân tộc, tức là Hồn Thiêng Sông Núi. Tổ là nguồn gốc, là sự sống còn, là niềm hy vọng và là tụ điểm kết hợp của toàn dân.
 
3. Cầu Tổ –  là chúng ta bộc lộ một niềm tin bất diệt, một niềm hy vọng tuyệt đối vào sức sống vô biên, sức mạnh vô tận của dân tộc Việt.
 
Ðây chính là nền tảng đích thực của công cuộc cứu dân cứu nước. Bất cứ nền tảng tư tưởng nào khác sẽ đều biến dân nước thành vong nô, phục vụ cho một nhóm đặc quyền đặc lợi, chẳng mang lại ơn ích gì cho Việt Nam.
 
4. Thời bình –  Tổ còn thương dân mà Tổ hiện về, như đã chỉ dẫn Tiết Liêu làm bánh dày bánh chưng nhằm định quốc an dân. Truyền thuyết vua cha muốn truyền ngôi, dạy Tiết Liêu dâng lễ vật dâng cúng tổ tiên. Đang khi nhiều nền văn hóa khác lại dạy kiếm nhiều thủ cấp của dân láng giềng để được truyền ngôi. Và Tiết Liêu làm bánh dày bánh chưng và làm vua. Ðây là nền tảng an dân trị nước:
 
Tiết Liêu có tinh thần dân tộc: thờ cúng tổ tiên. Hiếu thảo: gia đình là gốc của nước. Ðạo đức: không màng giầu sang nhưng biết lo cho dân, lấy gạo làm căn bản sống của dân. Có khả năng và sáng kiến, phát triển kinh tế: gạo nấu cơm để lâu dễ bị thiu, nhưng làm thành bánh dày bánh chưng thì để được cả tháng … lại nữa, đủ cả đạo trời đạo đất… Con người như thế không đáng gọi là an dân sao?
 
5. Thời loạn –  ở thời bình mà Tổ còn thương con cháu Tổ như vậy, huống chi là thời loạn lạc đau khổ. Con cháu có lúc nào cần Tổ thương giúp bằng khi đất nước đại nạn, đồng bào thống khổ trong cảnh giặc nội xâm hiện nay.
 
Con cháu đang khẩn thiết nhắc nhớ câu Khi nào cần thì gọi, ta về ngay của Kinh Tiên Rồng, và cũng như vua Hùng lập đàn, cầu Tổ về giúp.
 
III. Cụ Tổ Hiện Về
 
1. Cụ gìa –  trong cơn mưa to gío lớn bỗng có một cụ gìa áo đỏ xuất hiện.
 
Mưa to gío lớn chính là điềm linh báo hiệu cha Rồng. Rồng chủ việc mưa gío ở biển cả, rồng linh biển động. Ðây là phần giới thiệu bản chất Rồng của Cụ gìa áo đỏ, tức tinh hoa văn hóa Việt.
 
2. Cụ gìa áo đỏ –  màu đỏ là màu tượng trưng cho phong tục, cho nếp sống truyền thống của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm qua. Khảo cổ hiện nay đã phát hiện nhiều di tích chứng tỏ cả bao ngàn năm trước, dân Việt đã dùng màu đỏ và mặt trời làm biểu hiệu cho mình.
 
Như thế, Cụ gìa áo đỏ đã mang hai dấu hiệu: một thuộc về bản chất và một thuộc về đặc trưng. Chứng thực hai dấu hiệu này Cụ qủa là Tổ, là sức sống đích thực của dân tộc. Cụ chính là biểu trưng của nền văn hóa, của phong tục, của truyền thống, của tinh thần dân tộc Việt Nam.
 
3. Tự tin tự lập  –   Nếu không có tinh thần tự tin tự lập trong một tổ chức để tạo căn bản và sức mạnh tối thiểu, thì dù cho có dùng danh từ hoa mỹ như gọi là đồng minh, thì thực tế lại là nô lệ. Gọi là bạn bè thì thực sự chỉ là thuộc hạ. Gọi là anh hùng nhưng chỉ là con bài chính trị lợi dụng lẫn nhau.
 
4. Cụ Gìa cổ quái  –   hình dung cổ quái –  sở dĩ Cụ bị coi là cổ quái, vì con cháu của Cụ đã sống xa lìa tinh thần dân tộc, đã chối từ Cụ và không còn quen thuộc với Cụ như ngày trước.
 
Thời bình, Tổ được nhìn nhận như bậc tiên ông, quắc thước phi phàm. Thì thời loạn, Tổ xem là hình dung cổ quái vì con cháu Tổ đã lãng quên Cụ, không cầu Tổ mà đi cầu người ngoài… ví dụ cầu thần Kim Quy xây thành Cổ Loa.

Ðây là nhát búa bổ vào đầu chúng ta. Vì những khi mất nước, chính là lúc con cháu thường xa lạ với Tổ. Quên Tổ, mất tinh thần dân tộc, mất niềm tin ở chính mình.
 
Bài học Hồn mất trước Nước mất sau.
 
Tổ về với dân –  nhưng dầu con cháu có xa lạ với Tổ, thì Tổ cũng đã về. Cụ về và vui đùa với đám trẻ con ở ngoài ngã ba đường.
 
Trẻ con –  theo quan niệm và nếp sống của dân ta, trẻ con (con đỏ, con dân) là biểu trưng cho đại chúng. Ðại chúng là những người đơn sơ, thành thật, sống theo bộc phát tự nhiên thuần hậu của con người.
 
Ngã ba đường –  là nơi họp chợ, nơi dân chúng ngày xưa thường tụ họp.
 
Tổ về –  Cụ đã không về trên đàn, không về với vua quan mà Tổ về với dân, với đám đông, với đại chúng bình dân.
 
Lịch sử xưa nay cho thấy rằng, vào những thời suy thoái là lúc giới quyền chức sao nhãng văn hóa dân tộc, và vọng ngoại, cầu ngoại nhân về giúp.

Trong thời kỳ mất nước, truyền thống bất khuất, tinh thần đồng bào, ý thức dân tộc có còn chăng trong giới thường dân nơi đầu đường góc chợ.
 
Tổ về đùa giỡn –  Tổ cũng không hiện về một cách oai linh hiển hách như ở thời bình, trong nếp sống đạo đức dân tộc còn cường thịnh suy tôn. Mà nay trong thời loạn Tổ đang đùa giỡn và hoà mình với đại chúng.
 
Tổ cùng chung cuộc sống với đại chúng. Tổ cùng chung tâm hồn với đại chúng. Tổ ở trong đại chúng. Và Tổ là đại chúng, là dân tộc.
 
Ai muốn gặp Tổ thì phải tìm tới, phải để tâm hồn mình hoà nhập với dân tộc, chớ không thể hời hợt bề ngoài.
 
Ðể nhận biết Tổ –  để thực sự nhận biết đích xác đâu là truyền thống dân tộc, truyền thuyết Phù Đổng nêu rõ mọi yếu tố, từ bản chất, qua nét đặc trưng, qua chính phản ứng của chúng ta, tới cả hạng người, cả nơi chốn và cả những điều kiện tâm lý cần thiết để đặt nền tảng công cuộc cứu nước, trên niềm tin tuyệt đối và sức sống truyền thống trong lòng dân tộc.
 
 IV. Lột Xác
 
1. Người cứu nước –  người dám đến với đám trẻ con để gặp Tổ chính là vua Hùng. Vì là người quyết tâm cứu nước, nên dầu có thấy những cảnh tượng bất thường của Cụ Gìa đang đùa giỡn với đám trẻ con, vua Hùng cũng trực tiếp tìm tới gặp Cụ và xin Cụ dạy cách cứu nước.
 
2. Tại đàn –  Vua Hùng lập đàn cầu Tổ. Trên đàn vốn sẵn có ngai vàng mong Tổ về ngự. Hương trầm nghi ngút, đèn nến sáng ngời, tửu trà heo xôi thơm phức… và quan quân thì thân thành tâm tịnh, binh hầu thì thiện ý khấn vái, dân chúng thì thống thiết cầu kinh, và mọi người đều trông chờ Tổ về, về một cách hiển linh, về giúp dân phá giặc oai hùng chưa từng thấy.
 
3. Không có dấu chỉ –  trên đàn thì chắng thấy dấu hiệu hiển linh, mà ngã ba xa xa ngoài kia thì lại ồn ào những tiếng vui đùa nhộn nhịp.
 
Chúng ta phải thành thực mà nhìn nhận rằng, mẫu người cứu nước như vua Hùng đã phải là người có lòng thành tâm cùng tột, tuệ linh sáng ngời mới có thể nhận ra đó không phải là quái nhân đến quấy phá, mà đó là Tổ.
 
Tuy đã lập đàn, đã chuẩn bị mọi sự, tức đã dự tính nhiều kế hoạch, nhiều chương trình… nhưng vua Hùng đã cương quyết gạt bỏ tất cả để tới ngã ba đường gặp Cụ gìa cổ quái mà học cách cứu nước.
 
Lột Xác –  đây là điểm đột phá quan trọng cho người muốn cứu nước.
 
Không vượt nổi điểm đột phá này, không lột xác… không từ bỏ được những dự tính, những phương thức hoạt động tổ chức cũ… chúng ta không thể thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh mới, không thể đón nhận kiến thức mới, không thể hội nhập vào tổ chức mới. Cũng như không mở rộng tâm trí để đón nhận những bất ngờ, những cổ quái… thì không thể nghe Tổ nói, tức không thể nghe dân nói, không thể nhận ra phương thức hoạt động hữu hiệu cho việc cứu nước của mình.
 
Người dám làm như Vua Hùng –  chắc chắn cũng bị những bạn bè thủ cựu khinh chê chống báng. Nhiều khi họ chống lại vua Hùng, chống lại anh em hơn chống giặc.
 
Những kẻ chống báng vua Hùng –  là vì họ mặc cảm: quá khứ oai hùng vẫn đeo đuổi, uy danh quyền chức vẫn tiềm tàng, hiện tại là bước túng quẩn, sứ mạng không thể xác tín.
 
Và khi chúng ta gặp những người chưa vượt qua điểm đột phá này, nếu nói chuyện tổ chức cứu nước với họ chỉ là nước đổ lá môn, hoặc có thêm một kẻ chống báng. Vậy chúng ta nên để yên cho họ trong “mồ êm mả đẹp” vì họat động kiên trì và tiệm tiến tới khi tổ chức có “dấu chỉ” thì lúc đó người chống báng ban đầu kia sẽ xin gia nhập.
 
Chỉ khi đối tượng có vượt được điểm đột phá này, có lột xác mới dấn thân, mới có cơ may cứu nước, mới được Tổ dạy… mới học được từ nơi dân tộc, mới được tổ chức huấn luyện đào tạo giúp cho.
 
V. Dấn Thân

1. Bất chấp phản đối của đám quần thần kênh kiệu, vua Hùng đã bỏ đàn, đội mưa gió tới ngã ba đường và được Tổ dạy phương thức cứu nước.
 
Nhưng phương thức của Tổ lại cũng cổ quái. Tổ dạy vua sai sứ đi khắp nơi để tìm người cứu nước.
 
Thật là kỳ lạ. Tại sao Tổ không nói rõ vị cứu tinh đó là ai? Tại sao lại chỉ bảo người đi tìm? Nếu chỉ dễ dàng nói vài câu như thế, tại sao Tổ lại phải hiện về? Vua Hùng đã chẳng đang tìm đó sao?
 
2. Nhưng chỗ kỳ quái đó, chính là bài học. Tổ nhắc nhở, Tổ chỉ dạy, chớ Tổ không thể làm thay cho chúng ta. Tổ không giết giặc, Tổ không chỉ huy, Tổ cũng không làm gián điệp, cũng không cho nỏ thần, cũng không thị uy tiêu diệt giặc.
 
Biết bao lần chúng ta cầu mong phép lạ, điềm linh để giết giặc thay. Biết bao lần chúng ta than trách Chúa Phật, các đấng thiêng liêng không tích cực phù độ mà giúp… để chúng ta an nhàn và khoanh tay đứng ngoài mà nhìn giặc chết. Biết bao lần chúng ta trách cứ tổ chức, trách cứ anh em không đoàn kết tạo sức mạnh diệt thù.
 
Vấn đề không phải là Tổ làm, mà là chúng ta phải biết thực thi ý muốn của Tổ. Khi chúng ta biết ý muốn của dân tộc thì chính chúng ta phải tỏ ra là con cháu của dân tộc, bằng cách ra công phá giặc cứu người, để hoàn thành ý muốn, sứ mạng của dân tộc. Phải làm, phải dấn thân thì mới cứu được nước.
 
VI. Tư Cách Người Cứu Nước
 
1. Vua Hùng đã được Tổ chỉ cách –  nhưng trước khi vua thể hiện ý Tổ, chúng ta thử nhìn lại giai đoạn qua.
 
Trước hết, –  Vua Hùng đã sống với thực trạng mất nước, và cũng khởi công từ thực trạng đó. Vua không nuối tiếc uy quyền hão huyền, cũng không mơ mộng chức tước viển vông.

Tiếp đến nhà vua tìm về nền tảng cứu nước. Nền tảng đó là Tổ, là sức sống, là truyền thống siêu việt đang tiềm tàng trong nếp sống của đại chúng, của dân tộc.

 
Với quyết tâm cứu nước, vua đã lột xác, đã sẵn sàng thích nghi và xử dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới.
 
Cuối cùng là dấn thân, không do dự, không ỷ lại, sẵn sàng biến mọi sự, cả những chướng ngại thành phương tiện hữu hiệu.
 
2. Vua Hùng: con người cách mạng –  Vua Hùng là biểu tượng của con người cách mạng cứu nước đích thực. Vì những đức tính như của vua Hùng chính là những điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn thực sự góp phần vào việc phá giặc cứu dân cứu nước.
 
VII. Phương Thức Cứu Nước
 
1. Theo Lời Tổ dạy –  Vua Hùng đã lập đàn cầu Tổ và được Tổ dạy cách cứu nước.
 
Lời dạy của Tổ chính là phương thức cứu nước. Lời dạy của Tổ là ý muốn của Tổ, mà cũng là chính Tổ trong hiện thực và sống động trong hiện trạng đất nước.
 
Theo lời Tổ sẽ là động lực mọi hành động của vua Hùng. Sở dĩ vua Hùng sai sứ đi tìm người cứu nước, sở dĩ các sứ chịu đi, và sở dĩ toàn dân chịu nghe theo lời sứ thì cũng chỉ vì theo lời Tổ dạy.
 
Theo lời Tổ dạy –  trở thành sức sống, trở thành Hồn Thiêng tạo dựng, thúc đẩy điều hợp và hoàn thành công cuộc cứu nước.
 
Sức Sống này sẽ từ vua Hùng truyền qua đoàn sứ nhân, và đoàn sứ nhân truyền qua toàn dân.
 
2. Lên đường hành động –  được Tổ chứng giám, được Tổ chỉ dạy, giờ đây vua Hùng mạnh dạn sai sứ lên đường.
 
Các sứ nhân chính là đại diện, là hiện thân của vua Hùng. Họ là chính vua Hùng đi đến với dân.
 
Như vậy, đoàn sứ nhân là những người cứu nước lên đường hành động/ những cán bộ cách mạng trong tổ chức thuộc hàng chính đảng của vua Hùng. Họ dấn thân thể hiện sứ mạng theo lời Tổ dạy, chớ chưa chắc đã nghe theo lãnh tụ vua Hùng, nếu như vua Hùng không phải là con cháu Tổ.
 
Lớp cán bộ nòng cốt này đem Sức Sống của Tổ đến cho toàn dân. Nhờ họ mà toàn dân nhận được sứ điệp của Tổ, mới có đoàn kết, mới cứu được nước.
 
Vai trò của đoàn sứ nhân, vai trò của tổ chức cán bộ cứu nước chính là trọng tâm của việc đào tạo huấn luyện, là nền tảng trong công cuộc cứu nước. Công tác tổ chức lại được phân nhiệm và liên nhiệm. Việc nước là trăm người trăm việc, mỗi người mỗi việc.
 
3. Ðến với toàn dân –  Ðoàn sứ nhân lên đường, đoàn cán bộ đi hoạt động công tác tổ chức cứu nước. Các sứ nhân này đã chia nhau đi đến với người dân ở khắp nơi.

Mục tiêu hành động đầu tiên của tổ chức cứu nước là dân, chớ họ chưa trực tiếp đối đầu với giặc. Công tác của cán bộ là vận động toàn dân đứng lên chống giặc, và có như thế mới thành công. 

  
Ðoàn sứ nhân lên đường đi khắp nơi, không bỏ sót, không từ khước bất cứ một nơi chốn hay một phạm vi nào. Nơi đó có thể là trong hay ngoài nước, nơi thân thiện hay ở ngay trong lòng địch… với đủ các lãnh vực như văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, kỹ thuật, văn nghệ, giáo dục, thể thao, giải trí, truyền thông… hay là các cộng đồng, cộng đoàn, hội cựu quân nhân, ái hữu tương trợ, dòng tộc, gia đình… hay trí óc, con tim, cuộc sống của bất cứ ai, bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh, sinh hoạt nào của con người, cá nhân cũng như tập thể.
 
Với công tác như thế, đoàn sứ nhân cũng cần phải có những khả năng thích ứng, để có thể phổ biến được thông điệp của Tổ tới cho mọi tầm độ, mọi hoàn cảnh, mọi con người đặc thù.
 
4. Chia nhau công tác –  Ðoàn sứ nhân chia nhau đi, không dồn chung một chỗ, không dành nhau một việc. Mỗi người mỗi khả năng và tùy thuộc hoàn cảnh riêng của mỗi cá nhân mà nhận phần trách nhiệm của mình. Có phân nhiệm mới có tổ chúc.
 
Nếu không phân nhiệm thì đó chỉ là nhóm người ô hợp và mau hợp mau tan. Chính những kẻ gọi là có lòng yêu nước vì sự hăng say phục vụ mà quên nhận định khả năng chuyên môn của mình, nên họ hoạt động thường dẫm chân xô đẩy nhau, đánh nhau thay vì đánh giặc.
 
Vậy thì tổ chức cứu nước là những con người cùng thể hiện các đức tính của sứ nhân, theo hiện tình và khả năng linh động, mà chia nhau trách nhiệm hoàn thành các công tác thực thi sách lược cứu dân.
 
VIII. Vận Ðộng Tinh Thần
 
1. Thức tỉnh niềm tin –   Ðoàn sứ nhân chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ. Nhưng tin của họ thực là đơn sơ: Tổ đã về và sai sứ đi tìm người cứu nước.
 
Nội dung tuy ngắn gọn, nhưng tác dụng lại hệ trọng. Tổ đã về và Tổ bảo đi tìm chứng tỏ Tổ đã độ trì cho công cuộc cứu nước, Tổ đã cho phương thức, và chắc chắn có người cứu được nước.
 
Chúng ta đã có sức sống, có sách lược, có nhân sự… Ðây chính là lúc khám phá, lúc thực hiện. Dầu giặc đang mạnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thắng. Có gì khích động, có gì hứng khởi hơn khi khơi dậy niềm tự tin dân tộc bằng nguồn tin tuyệt diệu này? Dầu ai có tuyệt vọng cũng phải hăng say vui sướng.
 
Như vậy, đoàn sứ nhân loan tin khắp nơi, chính là thể hiện công tác đem tinh thần dân tộc đến cho toàn dân. Nước mất vì dân quên Tổ, quên nếp sống truyền thống siêu việt của tổ tiên. Giờ đây đoàn sứ nhân nhắc cho dân nhớ tới Tổ, giúp dân thức tỉnh niềm tin, sống lại tinh thần và sức sống dân tộc.
 
2. Nhận lãnh trách nhiệm –  Khi đến với dân, đoàn sứ nhân không chỉ loan tin, mà còn phải có hành động cụ thể, họ lục lạo tìm kiếm người cứu nước. Hoạt động này qủa thật đã gây tác dụng thiết yếu.
 
Khi đã phấn khởi nhờ sống lại niềm tin, mọi người chắc chắn sẽ tiếp tay với đoàn sứ nhân mà đi tìm người cứu nước.
 
Khi góp phần tìm kiếm như thế, chính là lúc mọi người đều thấm thía nạn mất nước. Do đó, mỗi người sẽ ý thức và xác định lập trường, bổn phận của mình trong công cuộc cứu nước. Mọi người sẽ lột xác, lãnh nhận trách nhiệm, và dấn thân chu toàn sứ mạng lịch sử.
 
Chúng ta phải nhận rõ ràng rằng, mỗi phương thức có thể khác nhau. Năm 1257, vua Trần Thái Tôn thì đích thân đi đến các làng. Năm 1284, vua Trần Nhân Tôn lại triệu tập Hội Nghi Diên Hồng. Năm 1417, vua Lê Thái Tổ với câu “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần.”
 
3. Công tác đầu tiên –  Ðoàn sứ nhân loan tin và tìm kiếm chính là thực hiện công tác làm cho người dân sống lại Hồn Nước, ý thức nạn nước, nhận lãnh trách nhiệm, và dấn thân cứu nước.
 
Ðây cũng là công tác làm cho mọi người, toàn dân sống trọn nếp sống Việt, trở thành người dân đích thực và trở thành người cứu nước.
 
IX. Thực Trạng Sức Nước
 
1. Sức ở Làng Xã –  Mọi người đã cùng cố công tìm kiếm, và rồi tại làng Phù Ðổng họ đã gặp người cứu nước.
 
Việc gặp thấy người cứu nước tại một làng cũng là nét đặc trưng của văn hóa Việt. Kinh nhấn mạnh người cứu nước được tìm gặp ở trong làng, chớ không phải ở trong cung điện vua chúa hay trong chốn đô thị.
 
Bởi rằng tỉnh thành, thủ đô hay chốn phồn hoa đô hội là những nơi tiện đường giao dịch và giặc có sẵn những phương tiện truyền bá tư tưởng và lối sống chạy theo vật chất của giặc… rất hiếm có những người còn theo nếp sống và văn hóa dân tộc, cho nên mất nước.

Trong nếp sống dân ta, làng xã giữ một vai trò nền tảng.
 
Thể chế làng nước đã được Tổ tiên đặc biệt chú trọng và lưu truyền trong lịch sử. Với thể chế và cơ cấu sinh hoạt tự lập trong lũy tre xanh, làng chính là nơi bảo toàn và hun đúc nếp sống thuần túy dân tộc ngay giữa thời giặc xâm lăng.
 
Trong suốt mấy ngàn năm, xa xưa cũng như hiện đại, mọi thứ giặc từ quân sự cho đến văn hóa, xã hội… dầu tới từ phương Bắc, phương Tây đều chỉ hoành hành được ở những nơi đô thị. Trong làng thôn, những cố gắng quảng bá tư tưởng và lối sống duy vật duy lợi của giặc vẫn luôn bị lũy tre làng ngăn cản.
 
Lịch sử cứu nước của dân tộc ta là một thiên anh hùng ca không dứt với những con người áo vải ở mọi tầm độ mọi nơi mọi thời. Dưới khía cạnh quân sự, làng lại là nơi huấn luyện cho mọi người trở thành nghĩa sĩ chống giặc. Chẳng những hệ thống canh gác nghiêm nhặt luôn luôn bảo đảm có người túc trực, mà còn có các lò võ thuật đào tạo ra nhiều anh hùng lãnh đạo, nhiều nhân tài chỉ huy.
 
Làng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc về mọi phương diện. Vì vậy, trong công cuộc cứu nước, làng giữ vai trò then chốt. Sức Nước phải được phục hồi từ làng thôn. Từ một tổ chức của Vua Hùng và Ðoàn Sứ Nhân là tổ chức Cứu Nước, mà xây dựng và phát triển thành tổ chức Phù Ðổng, theo ý dân và của dân.
 
2. Sức là Người Dân –  Tại làng, đã xuất hiện người cứu nước. Nhưng nhân vật này cũng kỳ lạ. Ðây chỉ là cậu bé ba tuổi.
 
Tính cách bé bỏng của cậu bé tượng trưng cho đại chúng, cho toàn dân. Vị cứu tinh dân tộc chính là người dân.
 
3. Sức đang tê liệt –  Vị cứu tinh chẳng những chỉ ba tuổi, mà lại còn tàn tật, không biết nói, không biết cười, không biết đi, không biết đứng.
 
Như vậy, cậu bé ba tuổi tàn tật kia chính là dân tộc ta dưới thời giặc Ân, cũng giống như hơn 80 triệu đồng bào đang sống dưới ách kìm chế bạo tàn của giặc. Trong bao năm dân ta không thể đi đứng nói cười như những con người bình thường.
 
Cậu bé Phù Ðổng chẳng những là biểu trưng cho toàn dân, mà còn đặc biệt biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc. Sức mạnh đó đã tê liệt, câm nín dưới ách giặc thù. Ðây là bài học quan trọng và đặc biệt. Khi tìm anh hùng cứu nước, có thể mọi người chỉ nghĩ đến vị này phải là một người văn võ song toàn, tài đức trọn vẹn, dáng vóc hiên ngang, diện mạo quắc thước… Nhưng ngờ đâu, vị cứu tinh này lại chỉ là một em bé ba tuổi, mà còn tàn tật, không biết đi đứng nói cười. Thực tế thật phũ phàng.
 
Cứ mỗi lần chúng ta nghĩ tới minh quân thánh chúa, hẳn chỉ biết tới giai đoạn của các Ngài đã thành công, ít nhất là đã vươn vai, mà quên xét đến giai đoạn chuẩn bị tổ chức của các Ngài.
 
Ví dụ, nói tới Ðức Lê Thái Tổ thường thì sử sách chỉ ghi giai đoạn mà ngài khởi nghĩa, tức là năm 1418 khi ngài xưng là Bình Ðịnh Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống giặc. Ít có ai chú ý trong 10 năm chuẩn bị tổ chức, và 10 năm tổ chức khởi nghĩa kháng chiến cho tới khi kết thúc chiến thắng vẻ vang, khôi phục nền độc lập, tự chủ cho dân nước ta. Nhìn vào tiến trình và thời gian chuẩn bị tổ chức cứu nước của ngài, thì cho tới đầu năm 1416 tại căn cứ Lam Sơn, ngài đã cùng 18 anh em với hội thề Lũng Nhai để ra mắt tổ chức cứu nước. Và đừng quên khi nghe tin đất Lam Sơn có Bình Ðịnh Vương Lê Lơi đang mưu tìm người cứu nước, thì Ức Trai Nguyễn Trãi tìm vào dâng kế sách Bình Ngô. Trong 10 năm kháng minh, ngài luôn luôn ở bên cạnh Ðức Bình Ðịnh Vương. Tất cả những văn thư kêu gọi giặc đầu hàng đều được ngài soạn thảo.
 
Bài học tổ chức trăm người trăm việc và mỗi người mỗi việc.
 
4. Sức lắng Nghe Tổ –  Dầu tê liệt câm nín, nhưng cậu bé lại lắng nghe.
 
Sống trong nạn nước, toàn dân/ hay cậu bé Phù Ðổng, phải lặng im bất động. Tuy nhiên mọi người chúng ta đều luôn luôn nôn nóng trông chờ ngày được giải thoát khỏi ách giặc. Mọi người chúng ta cũng luôn luôn sôi sục trông có dịp vùng lên. Và mọi người chúng ta cũng thường lắng tai nghe ngóng, lùng sục từng nguồn tin nhỏ với ước mong đem lại cho nhau niềm hy vọng chống giặc cứu nước. Vì vậy, khi sứ nhân vừa loan tin Tổ về, là có anh nhảy lên bàn thờ lột di ảnh chủ tịch lộng kiếng bao năm bắt buộc phải thờ, mà liệng cống.
 
Riêng tại làng Phù Ðổng cậu bé cấp thời hưởng ứng. Khi nghe sứ nhân, chính là lúc cậu bùng lên niềm hy vọng, sống lại hồn nước.
 
X. Sức Dân Bộc Lộ
 
1. Ðòi hỏi phương tiện –  Ðã gặp lại Tổ, đã sống lại niềm tin, Cậu Bé liền bật nói, toàn dân đều bật nói.
 
Bật nói là dám hiên ngang bộc lộ, dầu mới chỉ bằng lời nói, đây cũng là dấu chỉ của lòng tự tin và phấn khởi. Từ đây người dân đã dám tự hào về mình, dám nói lên niềm tin tưởng của chính mình… chớ chẳng nhắc lại lời loa phóng thanh tuyên truyền của nhà nước.
 
Cậu phát biểu lời đầu tiên là đòi ngựa và roi sắt. Cậu đòi hỏi phương tiện để phá giặc cứu nước.
 
Ðây là dấu chứng sức mạnh tinh thần đã bộc lộ. Khi thoát khỏi tình trạng câm nín, khi tinh thần đã được củng cố, khi ý thức được trách nhiệm với nước, điều đầu tiên người dân nghĩ tới là phương tiện chiến đấu.
 
2. Người dân đòi phương tiện chiến đấu –  cũng là dấu hiệu cho thấy các sứ nhân, tức tổ chức nòng cốt cứu nước đã thành công trong công tác thức tỉnh người dân. Tại khúc quanh quyết định này, vai trò của sứ nhân cũng đổi khác và chuyển sang tổ chức cứu nước của đại chúng.
 
Như trước đây, sứ nhân nói cho dân nghe. Nay dân đã nghe và đã nói, thì sứ nhân lại trở thành người nghe dân.
 
Khi người dân thành tâm tiếp nhận và sống đúng tinh thần Tổ, thì tiếng dân trở thành tiếng của Tổ. Ý dân là ý của Tổ trong hiện trạng của đất nước.
 
Tiếng dân giờ đây chính là tiếng nói thiết thực và hữu hiệu trong công cuộc cứu nước.
 
Khúc quanh này đặc biệt rất quan trọng cho tổ chức cứu nước, chẳng những vì nó quyết định sự thành bại, mà còn thẩm định bản chất của tổ chức. Tổ chức không biến đổi, không trở thành người nghe dân thì chắc chắn tổ chức đó không phải của dân.
 
3. Ðóng góp tài sức  –  Láng giềng từ đó đã đem gạo vải tới để giúp cậu ăn mặc. Khi đã tự tin thì người dân tự động khởi công. Dân sinh dân nuôi.
 
Ăn mặc là nhu cầu nền tảng của đời sống con người. Vì vậy, gạo vải là những gì thiết yếu nền tảng cho công cuộc cứu nước. Ðẹp thay! Cảnh toàn dân tấp nập góp gạo góp vải. Mọi người cùng nhau tự nguyện đóng góp: góp công, góp của, góp tài, góp đức vào tổ chức.
 
Bao thiện chí bấy nhiêu nung nấu, bao tài năng bấy lâu che đạy, bao sức mạnh bấy lâu đè nén, bao phương tiện bấy lâu tích trữ, bao diệu kế bấy lâu ấp ủ… giờ đây tất đều bộc phát, tất cả đều bùng lên như tợ sức nổ của ngọn hỏa diệm sơn thiêu đốt quân thù bạo tàn.

Khi đã lãnh nhận trách nhiệm thì người dân tự nguyện đóng góp, tự túc chu cấp những nhu yếu cơ bản của cuộc chiến đấu.

 
4. Tự động quây quần –  Tất cả gạo vải, mọi sự đóng góp đó đều để giúp cho Cậu Bé Phù Ðổng ăn mặc. Tất cả tự nguyện của toàn dân được tập trung vào nơi Cậu Bé.
 
Ở điểm này khi chúng ta đi tổ chức cần nhớ rằng, người dân chỉ quy tụ quanh Cậu Bé, chớ không tập hợp theo sứ nhân.
 
Dân chỉ theo, chỉ đóng góp cho tổ chức của dân, chớ không theo và đóng góp cho tổ chức của đảng. Nhưng nếu không có tổ chức đảng như Vua Hùng và Ðoàn Sứ Nhân thì sao mà có tổ chức kết hợp toàn dân, tức là Phù Ðổng. Cái mấu chốt thành bại trong công cuộc tổ chức chính là ở điểm này.
 
Chúng ta hãy quan sát thế nào là tổ chức như nhìn một nụ hoa khi nở, bao gồm hai đại phận là tổ chức nhụy, tổ chức đài… và có người không nhận thức tiến trình tổ chức mà đâm ra oán trách đại chúng.
 
Trong giai đoạn đầu của công cuộc thức tỉnh, người dân chỉ mới tin tưởng vào những người thân cận quanh mình trong tầm vóc làng xã mà thôi. Còn những gì sứ nhân hứa hẹn cho dù điều đó có vô cùng quan trọng, nhưng trước mắt dân thì nó vẫn còn viển vông xa vời.
 
Theo đúng tâm trạng con người, thì dân chúng chỉ tự ý quy tụ quanh cậu bé Phù Ðổng, vì chính cậu tỏ ra vài dấu hiệu đặc biệt, chỉ cậu đáp ứng phần nào công tác tìm kiếm và biểu trưng cho tổ chức anh hùng cứu nước.
 
Dân quy tụ theo những ai tỏ ra thực sự có tâm huyết, có tinh thần, có khả năng và hết lòng vì đại cuộc, dấn thân chu toàn sứ mạng chung.
 
Có dân tự ý quy tụ chính là tiêu chuẩn để thẩm định một công cuộc đích thực là của dân, do dân.
 
5. Vận dụng điều hợp –  Khi mọi người góp sức, Cậu Bé Phù Ðổng lớn nhanh như thổi. Gạo vải thu tích không phải để chất đống, cũng không phải dành để tích lũy làm giàu tư riêng cho ai, mà tất cả đều được xử dụng làm tăng trưởng sức sống toàn diện.
 
Trong việc tập trung sức mạnh, vấn đề phân nhiệm và điều hợp giữ phần quan trọng hàng đầu. Sức mạnh toàn dân chỉ có thể thực sự hữu hiệu, khi được vận dụng và điều hợp đúng mức. Nếu không phân nhiệm, không định hướng, sự quy tụ sẽ trở thành hỗn loạn, phân hóa và đối nghịch ngay từ bên trong nội bộ.
 
6. Bài học chung sức –  Ðây là giai đoạn tập trung năng lực toàn dân, mà cũng là bài học đoàn kết.
 
Mọi người vây quanh cậu bé Phù Ðổng, là vì họ đã sống lại niềm tin dân tộc, họ đã ý thức trách nhiệm cứu nước, họ đã tìm ra cậu bé, và cậu bé đã bật nói.
 
Công tác kết hợp toàn dân đã thành công, chẳng những giúp cho mọi người sống thực tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm, mà còn nhờ chứng tỏ kế sách hữu hiệu, qua một số hoạt động có kết qủa thực tiễn.
 
Ðây là những điều kiện thiết yếu cho việc đoàn kết toàn dân. Khi không hội đủ các yếu tố này việc đoàn kết chỉ là chuyện bọt bèo, mau hợp mau tan… hoặc giả chỉ là đoàn kết trong mục tiêu ngắn hạn lợi danh như “bọn tư bản đỏ” thời nay.
 
XI. Phù Ðổng Vươn Vai
 
1. Sức mạnh phương tiện –  Sứ vua đem ngựa và roi sắt tới. Ngựa sắt và roi sắt chính là sức mạnh và phương tiện chiến đấu.
 
Ngựa và roi sắt cũng là biểu trưng của sức mạnh quân sự để phá giặc.
 
Trong khi mất nước và toàn dân vừa vùng lên góp tài góp của, thì ngựa và roi sắt chính là sự đóng góp của toàn dân.
 
Ở nơi đây, chúng ta cần tiên liệu việc chuẩn bị cho những cán bộ thuộc cánh quân sự, không chỉ thao trường đổ mồ hôi và chiến trường bớt đổ máu, mà còn biết nhận thức khi nào ta thả cọp về rừng, và khi nào thì buông đao thành Phật… một cách rõ ràng minh bạch.
 
2. Sức mạnh tổ chức –  Sức mạnh phương tiện phá giặc đó lại do sứ nhân đem tới.
 
Ðoàn sứ nhân, tức là tổ chức cứu nước nòng cốt đã đem Hồn Nước đến với Toàn Dân, và nhờ đó Toàn Dân vùng dậy. Sau đó, đoàn sứ nhân còn phải điều hợp sức mạnh ở các tổ chức làng xã thành tầm vóc toàn quốc, và biến sự đóng góp của toàn dân thành lực lượng chiến đấu chống giặc.
 
Sức mạnh này không chỉ nhấn mạnh ở lãnh vực quân sự, mà còn bao trùm lên các lãnh vực khác, như kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục, ngoại giao… những gì đang ảnh hưởng đến cuộc chiến chống giặc.
 
Phận vụ của tổ chức cứu nước còn nhận rõ sức mạnh hiện thực tiềm ẩn trong dân nước, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế đương thời mà chúng ta biến nó thành sức mạnh cứu nước hữu hiệu.
 
Việc tổ chức và điều hợp, xin nhớ kỹ là chúng ta cần nhân sự, khả năng đặc biệt, và ngành nghề chuyên môn… Tất cả phải được xác định đúng vai trò quan trọng của một tổ chức khả dĩ có đủ sức mạnh, và tầm nhìn xa trông rộng để mà biết quyền biến trước tình thế.
 
Vua Hùng và Ðoàn Sứ Nhân thật đúng là tiêu biểu của những người quyết tâm cứu nước. Trước đây Vua Hùng đã không ngại bỏ hương đàn mà lội bùn đi tìm ông gìa cổ quái. Tới nay, Ðoàn Sứ Nhân lại phải làm “ngựa sắt, roi sắt” theo lời đòi hỏi ngông cuồng của đứa trẻ lên ba tàn tật, của đại chúng, của toàn dân.
 
Thật là gặp những chuyện ngỡ ngàng… nhưng nhờ vậy mà cứu được nước.
 
Qua tấm gương siêu đẳng trên, xin hỏi các bạn đã học hỏi được những gì?
 
Phải chăng chúng ta đã học hỏi được một nguyên lý nền tảng cho mọi sinh hoạt của tổ chức con người, đó là Nguyên lý: Sống Ðộng Hiện Thực, tức là luôn luôn phải tùy theo thực tế hiện hữu mà chúng ta linh động, biến hóa, thay đổi làm sao cho hoàn chỉnh, toàn vẹn và hữu hiệu. 
 
3. Sức mạnh hành động –  Khi nhận được ngựa và roi sắt, cậu bé liền vươn vai thành người cao lớn. Cậu đã ăn nhiều, đã lớn như thổi, nhưng phải chờ cho tới khi có ngựa và roi. Cậu mới vươn vai vượt tới tầm vóc đúng mức của mình để phá giặc cứu nước.
 
Trước đây khi nghe về Tổ, cậu đã bật nói, đã dám bộc lộ chính mình. Nhưng nay có thêm ngựa và roi sắt, cậu mới vùng dậy, mới đi đứng nói cười, mới dám hành động mà không còn khiếp sợ giặc.
 
Như thế, cho dù mọi người đã thức tỉnh, đã quyết tâm, nhưng phải có phương tiện thì toàn dân mới có thể ra tay, mới có thể đối đầu được với giặc. Bằng không có phương tiện thì đều bị giặc tàn sát, tiêu diệt.
 
4. Sức mạnh Toàn Dân –  Nhờ có sứ nhân trao ngựa sắt, cậu bé đã vươn vai. Nhưng khi cậu nhảy lên ngựa, thì ngựa sắt lại biến thành ngựa thần, sống động và phun lửa.
 
Trong chuyện Mỵ Châu, An Dương Vương làm mất Hồn Nước, đi cầu ngoại nhân Kim Quy xây thành ốc Cổ Loa, giữ nước. Mất Hồn Nước là mất Sức Dân, đạo mất trước nước mất sau. Mất dân thì nỏ thần linh nghiệm bắn phát giết vạn giặc… cũng thành nỏ gỗ.
 
Nhưng Phù Ðổng, có dân thì ngựa sắt hóa ngựa thần, phun lửa đánh giặc. Ðây chính là sức mạnh của dân tộc ta.
 
Có toàn dân, ngựa sắt hóa ngựa thần. Toàn dân vươn vai thì mọi sự cũng đều vươn theo. Sức mạnh của toàn dân làm cho mọi phương tiện trở thành hiệu lực một cách thần kỳ. Trở nên linh hiển.
 
Không có hình ảnh nào diễn tả sức mạnh và vai trò của toàn dân một cách ngắn gọn, rõ ràng và đầy đủ như câu chuyện Phù Ðổng này.
 
XII. Vùng Lên Ðuổi Giặc
 
1. Giành lại đất nước –  Ðã có Hồn Nước, đã có toàn dân. Sức mạnh đã tập trung, tổ chức đã có, kế sách phá giặc đã định, phương tiện đã sẵn sàng… thì đây là lúc toàn dân, toàn diện vùng lên diệt giặc cứu Nước. Với ngựa lửa roi sắt, tổ chức anh hùng Phù Ðổng oai dũng chống giặc và đánh cho giặc một trận tơi bời.
 
Khi toàn dân đã có tinh thần, đã có sức mạnh, đã có phương tiện thì việc đuổi giặc ra khỏi cơ quan mà chúng cầm quyền là chuyện đương nhiên. Lịch sử dân tộc ta đã bao ngàn năm chứng minh hùng hồn về chuyện phá giặc.
  
2. Ngọn roi Nhân Thứ –  Ngựa lửa là sức mạnh của đấu tranh, nhưng Phù Ðổng lại dùng roi sắt. Hình ảnh dùng roi sắt nói lên lòng nhân thứ của Tổ Tiên.
 
Phù Ðổng dùng roi chứ không dùng gươm. Roi mang ý nghĩa sửa phạt, đánh dạy… dầu là roi sắt. Ðang khi gươm giáo là hình ảnh của vũ khí chém giết. Xưa nay, dân tộc ta thường dùng chữ đánh, dầu là giặc… đánh giặc. Cương quyết, dũng mãnh để sửa trị, chớ không tàn bạo. Ôi tình nhân thứ khoan dung và qúy trọng con người của văn hóa Việt. 
 
3. Chúng ta phá giặc –  Ðể phá giặc, chúng ta không thể dùng sức mạnh, như sức mạnh quân sự mà thắng giặc. Chúng ta có thể cải hóa từng cá nhân mà không cần dùng tới vũ lực, nhưng không thể dùng lý thuyết suông mà hy vọng cải hóa cả một hệ thống chính quyền của giặc.
 
Quân sự chỉ là phương tiện bất đắc dĩ, nhưng nó lại cần thiết để răn dạy giặc. Không có quân sự, sức mạnh dân tộc không thể bộc phát đúng mức để đánh đuổi giặc.
 
4. Tận dụng năng lực –  Tuy chúng ta dùng roi nhân thứ để chiến đấu với giặc, nhưng không phải nhân thứ mà là ủy mị, mà thiếu quyết tâm. Vì giặc qúa hung bạo và cố chấp, tổ chức Phù Ðổng đã phải đánh đến nỗi gãy roi sắt. Khi roi gãy, chúng ta nhổ tre la ngà mà phang tiếp, đánh cho tới khi giặc đầu hàng.

Chi tiết này nhắc nhở lũy tre xanh. Làng xã Việt là căn bản giữ nước và cứu nước của dân tộc ta xưa nay. Nhổ tre đánh giặc nói lên việc tận dụng mọi năng lực, đặc biệt trên cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội đặc thù của dân nước. Tận dụng tất cả để phá giặc.
 
5. Chấp nhận hy sinh –  Trong trận chiến phá giặc Ân, có mấy làng bị ngựa lửa làm cháy. Sức mạnh chiến tranh chẳng những phá giặc mà cũng gây tàn hại một phần đất nước.
 
Không phải tổ tiên không nhìn thấy tai hại của chiến tranh. Nhưng khi cần thiết, vẫn cứ chấp nhận. Chấp nhận hy sinh, chấp nhận thiệt hại. Tuy vậy, chi tiết trên chứng tỏ tổ tiên vẫn không dấu được nỗi đau buồn vì sự tàn phá của chiến tranh. Tận thâm tâm, tận nền tảng tinh thần Việt, không bao giờ chúng ta vui sướng trên máu lửa.
 
Chấp nhận chiến tranh để cứu người, cứu dân, chớ không vì hiếu chiến.
 
Vì vậy, trong chiến tranh có kẻ hy sinh, người oan uổng, mà cũng có đứa đền tội.
Cũng là cái chết, nhưng giặc thì đền tội, người vô tội thì oan uổng và trong số anh em chúng ta vì chính nghĩa quốc gia mà hy sinh.
 
Cũng gây đổ máu, nhưng ác nhân càng đổ thêm máu thì thêm nợ, tội càng chồng chất, mà đồng bào chúng ta dấn thân phá giặc để cứu người vô tội thì lại thêm công phúc.
 
Cũng chết, nhưng giặc thì chết nhục, người vì chính nghĩa mà hy sinh thì vinh quang.
 
Vì vậy mà cái chết qúy hơn sự sống, cũng như Phù Ðổng Thiên Vương, là tạo công phúc vĩ đại mà thành Thần, thành Thánh. Ngài về trời và được toàn dân tôn thờ kính nhớ.
 
6. Toàn Dân Toàn Diện –  Với việc Tổ trở về, với vua Hùng và đoàn sứ nhân dấn thân, với tổ chức cứu nước, với mọi người góp gạo góp vải, với ngựa sắt roi sắt, với tre làng bị nhổ, với số làng bị cháy… tính cách toàn dân toàn diện của công cuộc cứu nước đã bộc lộ rõ ràng.
 
Mọi người và tất cả, đều được vận dụng để chống giặc: từ những phương tiện vật chất, gạo, vải, sắt, lũy tre, thú vật… đến làng thôn, hệ thống tổ chức quốc phòng, chính trị, xã hội, văn hóa… cho đến tinh thần dân tộc, qúa khứ lịch sử, và cả sông núi, Hồn Thiêng… tất cả đều gom đúc thành sức mạnh thần diệu của dân tộc, tất cả đều góp phần vào việc cứu dân cứu nước.
 
Nhờ có như vậy mà giờ đây chiến thắng mới thực sự là chiến thắng toàn vẹn của toàn thể dân tộc. Có như vậy cuộc sống mới thực sự mở đầu cho tất cả mọi người.
 
XIII. Lập Cuộc Sống Mới
 
1. Thăng hoa và phong thưởng –  Giặc đã tan, nhưng việc cứu nước vẫn chưa xong. Phù Ðổng còn cỡi ngựa lên núi bay về trời.
 
Núi là nơi của Tiên. Lên núi là hình ảnh trở thành phần Tiên.
 
Phù Ðổng là biểu tượng của sức mạnh tập trung của dân tộc, tức phần Rồng. Sức mạnh đó đã được vận dụng tối đa và đã oai dũng đánh đuổi quân giặc. 
 
Giờ đây giặc đã tan, dân nước lại vui hưởng thanh bình, nên sức mạnh đó lên núi, tức không cần phải bộc lộ oai dũng, mà được thăng hoa tiềm tàng vào sông núi, vào tâm hồn của dân nước.
 
Chiến công đuổi giặc trở thành kinh nghiệm sống của toàn dân, trở thành phần tinh thần, phần truyền thống bất diệt, nhập vào Tiên, phần trường tồn của dân tộc.
 
Về trời là sự phong thưởng cao qúy nhất của văn hóa Việt.
 
Phù Ðổng cứu được nước nên đã về trời, và tổ tiên cũng phong thưởng cho tất cả những ai đã vì đại cuộc cứu nước mà hy sinh cũng được về trời.
 
2. Giảm quân chuyển tiếp –  Ngựa sắt đã thành ngựa thần, nên cũng được theo về trời. Vì sức mạnh chiến đấu, bộc lộ trong sức mạnh quân sự, nên khi xong giặc ngựa cũng phải thăng hoa. Hết giặc mà ngựa lửa vẫn còn luẩn quẩn mà đi làm kinh tế, thì hèn chi mà chẳng hại dân? 
 
Trong suốt lịch sử dân tộc, bất cứ thời nào, khi xong giặc là phải gỉam quân số, để họ trở về gia đình với ruộng vườn mà phát triển kinh tế. Thời bình, quân đội của nước ta được luân phiên và chỉ ở mức tượng trưng chớ không mang tính chất quân đội chính quy. 
 
3. Tái thiết Quê Hương –  Giặc tan, các sức mạnh vận dụng chống giặc cũng đã thăng hoa. Nhưng vẫn chưa hết, các gốc tre làng mà Phù Ðổng đã nhổ lên để đánh giặc, nay hóa thành tre la ngà. Tre la ngà là một loại tre cứng, đẹp và bền hơn những loại tre thường. Phù Ðổng đã nhổ tre làng để phá giặc thì nay được bồi hoàn bằng tre la ngà, loại qúy hơn. 
 
Ðây chính là hình ảnh xây dựng quê hương. Tre làng tượng trưng cho xã hội ta đã vì chiến tranh chống giặc mà bị hư hại, thì cũng chính tổ chức cứu nước Phù Ðổng cũng sửa sang và làm lại cho lũy tre vững chắc tốt đẹp hơn.
 
Qua diễn tiến vận động cứu nước, để hun đúc sức mạnh Phù Ðổng, toàn dân đã tìm gặp lại Tổ, Tổ không còn là cụ gìa có hình dung cổ quái như trước, mà Tổ, sống với Tổ là niềm tự tin tự hào dân tộc, đã ý thức được trách nhiệm, đã lột xác, đã dấn thân. Toàn dân cũng tận tình cộng tài cộng đức, cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, cùng gánh vác gian lao, cùng hy sinh chiến đấu bên nhau.
 
Tất cả đều góp phần cho dân tộc vươn vai, tất cả đều góp phần để mọi người trở thành Công Dân toàn vẹn. Do đó mà đời sống toàn dân đã trở nên tốt đẹp hơn.
 
4. Sống kỷ nguyên mới –  Qua toàn bộ công cuộc, chẳng những dân tộc ta đã đánh đuổi được giặc nội xâm mà mỗi người cũng dẹp tan được mọi thứ giặc trong chính bản thân. Trên tiến trình trở thành người cứu nước, chúng ta cũng trở thành con người toàn vẹn. Khi cứu được nước, dân tộc ta đã trở thành một khối hiệp nhất, toàn hảo toàn hiệp.
 
Với mọi chướng ngại đã được đánh tan, với những kinh nghiệm tuyệt hảo, với niềm tin chan chứa, và với sức sống tràn đầy, giờ đây khối người toàn hiệp này đem trọn tâm sức cùng nhau xây dựng một cuộc sống mới. Với cuộc sống phát xuất từ tâm khảm của những con người thấm nhuần tinh hoa văn hóa Việt, toàn dân hiên ngang bước vào một kỷ nguyên mới, Xã Hội Ðồng Bào tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta xây dựng và kiến thiết một Việt Nam dân chủ phú cường trong thời đại tín liệu.
 
XIV. Tổ Chức Tiên Rồng
 
Theo đúng Sách Lược Cứu Nước, Đoàn Sứ Nhân của Vua Hùng được tổ chức gọi là Lực Lượng Tiên Rồng, cấu thành và sinh hoạt theo mẫu mực Con Người Tiên Rồng. Tổ chức đặt nền tảng trên nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh, với bốn Hiệp Tính của Con Người, và phân công hay liên nhiệm được biểu trưng đồ thị Hoa Tiên Rồng.

Ngoài ra Mỗi Hoa, Mỗi Cánh gồm nhiều dung độ, thể hiện tình Thân Thương và Bình Ðẳng tột cùng, biểu thị Hoa Bảo Bình, đúng quan niệm Việt về xã hội. Với nguyên lý Sống Ðộng Hiện Thực chẳng những Tổ Chức luôn luôn linh động, biến hóa cho hữu hiệu, mà còn là môi trường để mỗi thành viên thể hiện và phát triển trọn vẹn mọi đặc tính và khả năng của mình trong hiện tình cụ thể.

Khi sống thực theo văn hóa Việt, khi hoạt động cứu nước, là lúc chúng ta thể hiện trọn vẹn chính con người của mình trong cuộc sống, chúng ta hưởng hạnh phúc ngay trong khi thực thi sứ mệnh của mình. Và như thế, chúng ta khởi đầu cuộc sống đích thực của Con Người trong thời đại mới.
 
Con đường đã vạch, phương thức đã sẵn, giờ hành động đã điểm, chúng ta đem ánh sáng thần diệu Tiên Rồng đi làm cuộc cách mạng mở đầu một kỷ nguyên mới. Hoa Tiên Rồng Mở Hội.
 
Làm tại Việt Nam, ngày 14 tháng 8 năm 2007
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.06.2008 01:20:54 bởi Thần Báo >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9