Mất Nước
Thần Báo 23.06.2008 01:48:44 (permalink)
Mất Nước

 
 Thần Báo
 
 
Sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975, trại tù hàng binh U Minh vừa ăn được chén cháo là phải ra sân tập họp theo lệnh quản giáo, vệ binh với súng AK, vào rừng lấy móp. Móp là loại rễ trông giống ngà voi, còn gọi là bấc hay lậu dùng làm nón cối cho công an bộ đội. Ngà voi này cắm sâu trong rừng tràm sình lầy hoang dại, quấn chằng chịt bởi giây choại hoặc mây rừng. Muốn khai thác người ta phải cắt cây và dọn dẹp quanh gốc, rồi đào sâu xuống khoảng 4 đến 5 thước, và lặn tận thủy phủ mà bẻ rễ. Vô phúc cho ai đang bơi mà bị ngà voi đã bẻ, với sức tống lên mặt nước của nó mạnh đến nỗi có thể đâm bể bụng.
 
Xung quanh lao trường thì bộ đội nón cối dép râu, canh gác cẩn mật. Mặt người nào người nấy lạnh như tiền… Đúng là cảnh sống bạc tình quê hương, bội nghĩa đồng bào của những kẻ thắng trận! Họ trông tợ đang ôm nỏ thần trong tay nhằm nhả đạn sát hại đám người tù oan nghiệt. Và muỗi mòng như trấu, đỉa lền bánh canh, trời lạnh như cắt… đang khi đó, Thần Báo rét lập cập nói chuyện cùng bạn: Giặc ngày xưa bắt dân ta lên rừng lấy ngà voi; giặc ngày nay bắt vào rừng lấy móp! Ôi mất nước thì ngàn đời trước sau vẫn thế!

Nhìn qua khía cạnh làm người thì xã hội Việt hôm nay, con người đang đánh mất chính tâm hồn mình. Điều đáng sợ, là diễn tiến của ngày mất nước 30 tháng tư nó đã xảy ra rất tuần tự hiển nhiên, cho nên nhiều khi ta đánh mất chính mình, mình trở thành giặc, mình làm hại mình mà mình không ngờ!

Mất Nước đã từng xảy ra vào cuối thời Hùng, khi Triệu Đà đem quân xâm chiếm nước ta. An Dương Vương xây thành phòng thủ, nhưng bị sập nhiều lần. Ông cầu Thần Kim Quy tới giúp, và xây xong thành. Thành Cổ Loa cách Hà Nội khoảng 15 cây số, và nay còn di tích. Thành hình trôn ốc, chu vi gần 8 cây số, bề dày của chân thành từ 20 đến 30 thước, cao 4 đến 5 thước, mặt rộng 12 thước. Ngoài thành có hào lũy sâu ăn thông với các sông, nhằm làm đường thoát hiểm khi nguy cấp.

Thần Kim Quy, người xưng là Sứ gỉa Thanh Giang đến từ Biển Đông, còn để lại cho An Dương Vương cái móng chân làm lãy nỏ, bắn một phát là giết cả vạn người. Hình như Kim Quy cũng không thực lòng muốn giúp cho An Dương Vương giữ nước, mà chỉ đợi tới khi mất nước ông mới chỉ ra nội tuyến. Thế thì mọi sự đã mất!

Và Triệu Đà khi biết chuyện nỏ thần liền bày mưu tính kế, sai hoàng tử Trọng Thủy đến cầu hôn công chúa Mỵ Châu của An Dương Vương. Và thời gian ở Loa Thành, Trọng Thủy được Mỵ Châu cho coi nỏ thần, rồi chàng đánh tráo lẫy nỏ.

Lấy được nỏ thần, Trọng Thủy về nước và cùng cha đem quân qua đánh Loa Thành. Khi phát hiện nỏ thần hết linh nghiệm, An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy trốn.

Dọc đường, Mỵ Châu nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc làm dấu cho Trọng Thủy tìm theo. Thấy thế, An Dương Vương rút gươm chém công chúa, và máu nàng chảy xuống biển trai ăn hóa ngọc.

Trọng Thủy chiếm được Loa Thành, dầu thành công trong mưu đồ cướp nước, nhưng thương nhớ vợ chàng nhảy xuống giếng mà chết.

Đã vì ôm mộng xâm lăng, mà phụ nghĩa vợ chồng thì chàng cũng phải chết. Đã vì danh lợi mà không trọn tình nhà, thì cuộc đời cũng không đáng sống, và không có quyền sống! Mặt khác, đã vì tình nhà mà hại nước thì cũng phải chết. Đã vì quyền lực mà hại nhà, thì cũng phải chết!

Rồi từ đó, lấy nước giếng ấy mà rửa thì ngọc trai trở thành sáng đẹp.

1. Giữ Nước

Muốn giữ nước thì phải giữ hồn nước, giữ dân nước, giữ sức nước, và giữ đất nước.

Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quý của dân tộc. Dân nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu. Đất nước chỉ còn, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn.

Và chuyện nàng công chúa làm mất nước, cùng việc An Dương Vương xây Loa Thành, đã trở thành đề tài suy tư cho nhiều thế hệ. Trải qua bao ngàn năm lịch sử, câu chuyện mất nước được tích lũy và truyền đạt như một kinh nghiệm giữ nước của Tổ Tiên.

a. Hồn Nước

Hồn Nước là tinh thần dân tộc, là truyền thống dân tộc để hướng dẫn mọi người trong nước hành động hữu hiệu cho lợi ích chung của toàn dân. Hồn Nước bao gồm toàn thể lịch sử, tinh hoa văn hóa… tạo nên tinh thần sống của một dân tộc, còn gọi là Đạo Sống Việt. Hồn Dân Tộc là hồn thiêng của Ông Bà Tổ Tiên. Các Ngài đã qua đi, nhưng Hồn Thiêng các Ngài vẫn vĩnh tồn ở thế giới bên kia, và có thể phù trợ cho con cháu.
 
Trái lại đã Bỏ Hồn Nước, để chống quân Bắc phương Triệu Đà, An Dương Vương khởi công xây thành, mà không chăm sóc tu chỉnh hay phát triển hệ thống làng thôn nhằm nâng cao đời sống người dân.
 
Điểm đặc biệt, trong suốt dòng lịch sử chưa bao giờ có việc xây thành cho vua chúa. Từ ngày Vua Hùng Dựng nước trải qua mấy ngàn năm, nước ta không có chuyện xây thành. Vua quan Việt luôn luôn sống gần dân, như dân, cùng dân chia sẻ trách nhiệm giữ nước.

Để thấy rõ hậu qủa khủng khiếp của thành trì trên người dân, chúng ta có thể tìm hiểu về các lâu đài ở Châu Âu… Tất cả đều bắt nguồn, hoặc dẫn tới đàn áp, bóc lột, nô lệ. Bởi vì kẻ có gươm, có súng, có lính, có quyền mà lại có thêm thành lũy che chở thì trở thành độc tài toàn trị; đang khi người dân tay không, đơn độc, thì không cả nơi trú ẩn, và biến thành nô lệ. Mặt khác, thành trì còn có nghĩa là những thể chế, những điều luật, những cơ cấu xã hội do nhóm đặc quyền tạo ra và bảo vệ.

Bởi thế, các đời sau thời Hùng, vua chúa ta cũng xây thành nhưng không phải là nơi tập trung bạo lực. Thủ đô, thủ phủ của nước ta cũng chỉ là những cái làng lớn, trang bị một số cơ sở thích ứng cho nhu cầu hành chính, ngoại giao, nghi lễ mà thôi. Bởi thế, khi nguy cấp vua quan ta sẵn sàng bỏ thủ đô mà chạy qua các làng khác. Mất thủ đô đã không có nghĩa là mất nước, như quan niệm của Tây phương.

Việc xây Loa Thành đã tố cáo chính An Dương Vương, và đánh dấu quan niệm suy thoái trong việc giữ nước của ông. Xây thành mà không xây làng, là đi ngược với truyền thống ngàn xưa của dân tộc, do đó, xa lạ với nếp sống của người dân trong nước.

Ngoài ra, sự kiện thành sập nhiều lần, chứng tỏ hoàn cảnh đất nước ta lúc ấy không đủ khả năng, nhân lực, vật lực, tài lực mà cung ứng cho việc xây thành. Thứ đến, nó chứng tỏ rằng ông không chỉ sống xa lìa tinh thần dân tộc, mà còn xa lìa đời sống thực tế và thực trạng hiện hữu của đất nước.

Khi thành sập nhiều lần, đáng lẽ ra ông phải tìm hiểu, phải thay đổi kế hoạch để ứng hợp với hiện trạng, phải tận dụng sức mạnh thiết thực của toàn dân trong công cuộc giữ nước. Nhưng ông lại đi cậy nhờ người ngoài, cầu tài trí của thần Kim Quy, và từ đó, Loa Thành nói lên khuynh hướng vọng ngoại của người lãnh đạo.

Việc lìa bỏ tinh thần dân tộc của ông lại qúa lộ liễu và rõ ràng, đang khi vua quan ta phải nhớ luôn cầu khẩn Tổ, và được Tổ về, chỉ dạy việc nước. Thì ở đây ông không cầu Tổ, mà lại cầu người xa lạ. Thần Kim Quy giúp ông xây Loa Thành, và cho thêm cái móng chân làm lãy nỏ. Nỏ thần, bắn một phát giết vạn người.

Với chiếc nỏ thần này, thì cái tài thiện xạ nổi tiếng của người dân Lạc Việt chúng ta đã trở thành vô dụng, hoặc có thể nói, cả cái tài oanh kích như Thần Báo cũng đã bị coi thường… Toàn bộ khả năng nhân dân trở nên bất khiển dụng trong đại cuộc giữ nước.

Tóm lại, An Dương Vương đạt được ý nguyện với hai vũ khí lợi hại là, (1) thành vững để thủ (2) nỏ thần để công. Từ đó, việc giữ nước chỉ còn tùy thuộc vào cố vấn Kim Quy, chớ ông không cần dân.

b. Hồn Giặc

Đã xa lìa nếp sống dân tộc, chỉ cậy nhờ người ngoài, ông lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy. Mỵ Châu là biểu tượng của tinh thần Việt, đang khi, Trọng Thủy con của Triệu Đà là hiện thân của tham vọng thống trị phương Bắc.

Đang là một tên xâm lăng hung hãn, khiến cho An Dương Vương phải xây thành để chống cự. Nhưng bỗng nhiên, Trọng Thủy được hiên ngang bước vào tung hoành tận thâm cung Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm, Trọng Thủy trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu.

Từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và Mỵ Châu, biểu trưng cho tâm hồn Việt, cũng đã chấp nhận giặc, ôm ấp giặc. Việc bán nước đã tiến hành như thế, Mỵ Châu cũng còn tiến thêm một bước, là chiều chồng đến nỗi đưa nỏ thần, vũ khí tối mật quốc phòng cho Trọng Thủy coi.

Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước cũng còn tạm thời sống trong yên ổn, nhờ thành vững và nỏ thần. Thế mà, sau khi giặc phá thủng thành vững, Trọng Thủy chui vào cung cấm, thì giờ đây, nàng làm theo ý giặc, trao luôn cho giặc nỏ thần.

Bởi thế nàng coi trọng giặc hơn cả sự an toàn của quê hương dân tộc ta. Nàng yêu qúy giặc hơn cả đồng bào, hơn cả đất nước! Thế thì còn gì… là Nước, là Dân?

- Nhưng nàng vẫn thấy chưa cho là đủ. Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc, để ghi dấu cho Trọng Thủy tìm theo.

Thật là chua chát! Nàng tiên Việt của chúng ta đã hoàn toàn quên mình vì giặc. Người nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, hình ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm dứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc. Có còn hình ảnh nào phũ phàng hơn?

Từ thân phận của những kẻ lìa xa tinh thần dân tộc, chối bỏ cội nguồn, thì giờ đây chúng đem chính bản thân, đem máu thịt của Tổ Tiên, để làm phương tiện lót đường cho giặc cướp nước.

- Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng đã hết, không còn, và nàng gục chết. Lâu nay, tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng nàng vẫn còn giữ được chiếc áo Tiên, hay vỏ Việt dầu chỉ là hình thức bề ngoài… Giờ đây nàng lộ nguyên hình làm giặc, là giặc.

Nàng là biểu trưng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc giữ nước. Nhưng nay mất Tiên, thì mất nước.

Mất theo nàng, mất theo cha nàng, đau đớn thay đã kéo theo cả một dân tộc!

2. Mất Nước

Thế là, nàng cùng cha, làm cho nước mất nhà tan.

Chỉ vì cha An Dương Vương từ bỏ truyền thống, xa lìa hiện trạng dân nước, để rồi chính ông đi cậy nhờ và lệ thuộc vào người ngoài.

Bởi đó, con Mỵ Châu cũng chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ý giặc, và chết cho giặc.

An Dương Vương đã để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ vật chất hào nhoáng và lợi ích hời hợt bên ngoài. Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt, dầu nơi bất cứ dạng thức nào trong đời sống dân nước, thì tại phần đó, tại nơi đó, nước bắt đầu mất.

Hồn mất trước nước mất sau!

- Bỏ Dân. Việc bỏ mất hồn nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân.

Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, thì người dân trong nước sẽ bị rẻ rúng khinh khi, bị coi là phương tiện để phục vụ cho quyền lợi của nhóm người thống trị.

Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành, nó tố cáo ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước. Nếu trước đây, mọi người đều là con dân đều được ông chăm sóc. Nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, thì những kẻ ngoài thành sẽ bị phó mặc cho bất trắc.

Thành lại hư sập nhiều lần. Gánh nặng đó lại đổ xuống người dân. Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dãi dầu với công tác đắp đập xây thành. Gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc, ruộng vườn thiếu người canh tác cấy cày. Đã chẳng lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, và bắt dân phục vụ cho ông.

- Xây Thành. Khi xây xong thành, An Dương Vương thực sự sống xa cách dân. Trong suốt mấy ngàn năm thời Hùng, vua quan Việt đã không hề dám xây thành, không hề dám sống xa dân… trái lại để sống với dân, chia sẻ cuộc sống hạnh phúc với toàn dân. Nhưng hôm nay An Dương Vương tự ý rút mình vào ốc đảo.

Đối với An Dương Vương, dân bây giờ chỉ còn có nghĩa là bao gồm nhóm người đang lo phục dịch cho ông ở trong thành. Đang khi toàn dân lại sống ở ngoài thành, ngoài sự chăm sóc của ông, họ trở thành mục tiêu, vùng oanh kích tự do, cho nỏ thần của ông sát hại.

Chuyện khác hẳn với An Dương Vương là cả ngàn năm sau, Đức Lê Đại Hành đi chân đất ra bờ hồ câu cá. Dân chúng Việt bao lại xung quanh, vỗ tay cổ võ mỗi khi cá cắn câu. Sự kiện vua quan Việt sống gần với dân, vui với dân như thế, đã làm cho sứ gỉa Trung Hoa phải ngạc nhiên và thừa nhận sự khác biệt với văn hóa Hán tộc.


- Thêm vào, thành ốc và nỏ thần trở thành vũ khí quốc phòng, thì nó càng khiến cho An Dương Vương sống xa dân hơn. Đã không gần dân, ông cũng chẳng cần dân. Một phát nỏ thần đã có thể giết hàng vạn giặc, nên sự góp sức của dân trong việc giữ nước là không cần thiết. Trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước, người dân trở thành kẻ thừa thãi, thành người ngoại cuộc.

Ông coi dân như giặc!

- Thành Giặc. Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem công chúa gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc.

Việc làm thông gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương tạo ra giai cấp tư bản đặc quyền đặc lợi. Ông muốn từ nay, cả gia đình ông phải trở thành một dòng họ, một đảng phái chính trị độc quyền, và không còn liên hệ với nhân dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống của văn hóa Việt từng đặt nền tảng trên bài học: Công chúa Tiên Dung lấy dân cùng khổ Chữ Đồng!

Thế mà An Dương Vương dám rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành trong mục đích chống giặc, và ông bỏ quên cả những quân dân đang chiến đấu ở trong thành.

An Dương Vương giờ đây ông chỉ cần biết có gia đình ông. Quanh ông chỉ còn có hai người dân: một là con dân Mỵ Châu tiết lộ bí mật quốc phòng, hai là chàng rể Trọng Thủy gián điệp nằm vùng.

Như thế, An Dương Vương chỉ còn Mỵ Châu là con, là dân, một người dân cuối cùng. Ông đã giao Mỵ Châu trách nhiệm quản trị nỏ thần, một thứ báu vật bạo lực tấn công. Ông tập trung quyền lực vào gia đình với những người thân quen.

Việc tập trung quyền lực, từ nay dân trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quyền chức, giúp chúng mặc tình hà hiếp, bóc lột và tham nhũng hối lộ. Ai làm chủ bạo lực nỏ thần, người đó đương nhiên có toàn quyền trên sinh mạng và tài sản của dân. Nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân. Toàn dân trở thành mối lợi, thành món hàng của bọn người chỉ biết trục lợi và quyền lực.

Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống toàn thể dân tộc Việt Nam. Và rồi ách thống trị cũng theo chân Triệu Đà và Trọng Thủy trùm lên toàn thể đất nước Việt Nam.

3. Dân Nước


Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, rồi lại hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch… và An Dương Vương chỉ dựa vào thành lũy, chỉ dựa vào bạo lực nỏ thần, chỉ dựa vào nhóm đặc quyền của ông ở trong nước mà cấu kết với bọn tư bản nước ngoài để mà làm giàu, mà áp bức bóc lột nhân dân… thì việc giữ nước chỉ còn là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi. Nhân dân Việt Nam trở thành mục tiêu cho bất công, cho bóc lột, cho bạo hành. Giữ nước trở thành cướp nước!

Theo truyền thống văn hóa Việt, giữ nước là việc của toàn dân. Không cho dân giữ nước thì chỉ là cướp nước!

a. Sức Nước

- Sức do dân. Dưới khía cạnh sức nước, An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa lìa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xã hội của nước.

Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực của nước. Vậy mà thành còn bị hư sập nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm.

Khi sống trong thành, xa dân, không còn biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị.

Khi được nỏ thần, khi không còn vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy mình trở thành người ngoại cuộc thừa thãi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc giữ nước.

- Sức chiến đấu. Làm mất dân An Dương Vương bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc giữ nước. Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ vì ông đặt trọn niềm tin vào Loa thành và Nỏ thần. Loa thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ thần đang làm mọi người khiếp sợ.
 
Loa thành và Nỏ thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương. Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung. Chính ông đã loại bỏ công dụng của sức mạnh phòng thủ của ông.

Thành đã bị phá lũng, An Dương Vương chỉ còn cái nỏ thần. Nhưng ông lại bị tiếp tục thua trên mặt trận gián điệp, và Trọng Thủy biến con dân ông thành nội tuyến, và nàng đã tiết lộ bí mật quốc phòng.

Khi để Trọng Thủy đánh tráo lãy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đã để mất luôn sức mạnh kỹ thuật. Không sức mạnh, lấy gì giữ nước?

c. Đất Nước

Công cuộc giữ nước bộc lộ rõ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần.

Nếu trước kia chưa xây Loa thành, An Dương Vương còn để tâm chăm sóc toàn thể đất nước. Nhưng khi xây thành, ông chỉ còn giữ lại mảnh đất trong thành. Đối với ông, đất nước ta không còn trải rộng ra khắp bờ cõi, hải đảo… mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở.

Thế nhưng khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại vì tình nhà mà hủy bỏ sự phòng thủ của thành. Rút cuộc, ông chỉ còn thấy có cái nhà của ông.

Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đã không có khả năng giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương thực sự không còn đất sống.

d. Ảo Tưởng Giữ Nước

Thế là hết, An Dương Vương đã để mất hồn nước, để mất dân nước, để mất sức nước, và cũng đã mất đất nước. Tuy nhiên, An Dương Vương lại không ngờ, ông lại vẫn tưởng mình đang giữ nước.

Thực vậy, dầu hồn nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là An Dương Vương đã thực hiện quan niệm cá nhân của riêng ông; dầu người dân có bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng cũng chính nhờ đó mà ông lại dễ dàng thống trị hơn; dầu chàng rể là con giặc, nhưng trước mắt đã trở thành con ông; dầu công chúa nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn còn mặc áo lông ngỗng; dầu giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng vòng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song; và dầu lẫy thần đã bị tráo, chiếc nỏ vẫn còn nguyên dạng như cũ.

Tất cả đều cho An Dương Vương cái ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, và ông là một người lãnh đạo và hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách “đỉnh cao trí tuệ!”

Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước còn và An Dương Vương vẫn còn như đang giữ nước, không phải vì ông phòng thủ hữu hiệu, mà vì giặc chưa xua quân tiến chiếm.

Vì vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ còn cách lên ngựa chạy trốn. Ông không còn gì. Tất cả đã bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đã thuộc về giặc, cũng đã là giặc.

Ôi dân tộc đồng bào!
Ôi giang sơn gấm vóc!

4. Vấn Đề Giữ Nước

Trong công cuộc giữ nước, người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.

Nhưng đàng này, chính An Dương Vương lìa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành. Chính ông nhờ thần Kim Quy, van xin nỏ thần. Chính ông hành hạ dân, từ khước dân. Ông cũng đón rước Trọng Thủy, đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân. Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.

Từ vị trí của người lãnh đạo là phải biết chăm lo cuộc sống an dân thịnh nước, An Dương Vương lại để tham vọng cho ông một ảo tưởng giữ nước, ông là thần là thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần. Ông đã bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của mình.

Từ chỗ coi mình là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không còn nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là mình đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.

Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, ông chỉ còn chuyên dùng bạo lực của thành ốc và nỏ thần.

Cũng từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông chọn một hoàng tử để làm phò mã, dầu đó là con của giặc. Ông còn tập trung quyền lực vào gia đình của riêng ông. Ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ còn cái nỏ thần vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.

Từ đây, đối với An Dương Vương, dân chỉ là một thứ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục ông. Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không còn là người giữ nước, mà đã trở thành tên giặc cướp nước, trở thành một loại Triệu Đà thứ hai.

Làm vua, làm việc nước, nhiều khi còn có nghĩa là giặc nước.

- Thời suy thoái, khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự kìm tỏa của nỏ thần. Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quý nào, mà xây dựng trên võ lực, trên pháp lý của kẻ mạnh, thì cũng mạnh được yếu thua.

- Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân.

- An Dương Vương biến mình thành giặc Triệu Đà thứ hai, là hình thức lộ liễu nhất của thống trị, thủ đoạn, mỵ dân.

5. Kết Luận

Mỵ Châu và Trọng Thủy đều đã chết. Nhưng chúng ta cảm động nhìn những viên ngọc do máu Mỵ Châu trở thành sáng đẹp khi rửa trong nước giếng chôn xác chồng nàng là Trọng Thủy. Nàng đã yêu thương và tin tưởng chồng đến giao phó cả nước non, đưa nỏ thần cho chàng xem. Nàng đã yêu chàng trong tuyệt vọng đến liều lĩnh, khi nhổ lông ngỗng làm dấu trên đường chạy trốn chàng. Và giờ đây, cả những giọt máu của nàng cũng tươi sáng lên khi được tắm trong nước tẩm xác chàng. Ôi tình nghĩa của cô gái Việt! Nàng đã sống trọn tình yêu, dầu cho có phũ phàng.

Làm mất nước là tội chết chém! Với cái chết của Mỵ Châu, Tổ Tiên ta đã xử tử các chủ thuyết cá nhân vị kỷ. Với việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng, thì các chủ nghĩa tập thể bá quyền cũng bị nhận chìm chết theo.

Và bởi thế, chúng ta chỉ có thể sống xứng đáng, sống trọn vẹn và hạnh phúc, khi thể hiện được đầy đủ các đặc tính bẩm sinh vừa cá thể vừa xã hội của mình... Thần Báo kể chuyện mất nước tới đây, thì bạn tù đồng thanh:

“Có nhà mà cũng có nước!
 Có nước mà cũng có nhà!”

Phạm Văn Bản
Lynnwood, ngày 23 tháng 4 năm 2007
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9