 
    
  
    
    
    
        
        
     Kinh Việt
        
        
    
    
    
	
        
    
        
        
            
            
              Kinh Việt 
    
  soạn bởi Thần Báo Phạm Văn Bản
 
  Việt Ðức 1, ngày 20 tháng 9 năm 1982 
  Sikew, Thailand 
  
       
   Chủ Tế: Thần Báo Phạm Văn Bản
 tại Trường Đại Học Cộng Đồng Everett
(Hình của Nhật Báo Herald)
 
 
 
   
  Là người dòng giống Lạc Long 
  Ðồng Bào ta nhớ thuộc lòng chin kinh 
  Tiên Rồng thứ nhất xác minh 
  Hiệp Song Hoàn Chỉnh trọn tình ai ơi 
  Thứ hai Trầu Cau diễn lời 
  Thân Thương nguyên lý làm đời sống chung 
  Thứ ba hướng tới trùng phùng 
  Chữ Ðồng: Bình Ðẳng Tột Cùng là đây 
  Tiết Liêu thứ bốn dựng xây 
  An Dân Thịnh Nước xum vầy ấm no 
  An Tiêm kinh tiếp chăm lo 
  Việc Làng Dân Chủ - đạo phò con dân 
  Vọng Phu thứ sáu góp phần 
  Chồng nào Vợ nấy chuyên cần tăng gia 
  Trương Chi thứ bảy ấy là 
  Căn nguyên hạnh phúc – tình ta sáng ngời 
  Mỵ Châu thứ tám truyền lời 
  Là Kinh Giữ Nước góp đời sĩ phu 
  Kết Kinh Phù Ðổng diệt thù 
  Dấn thân Cứu Nước cho dù gian nan 
  Chín kinh tóm tắt chứa chan 
  Tiên Rồng văn hóa bao ngàn năm qua.
         
 
Ban Giảng Viên Trường Hoa Tiên Rồng Mỹ Châu 
  
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2008 01:28:12 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              1. Kinh Tiên Rồng
     
       Một Bọc Trăm Con  - Hình của Thày Bùi Văn Bảo
      Một Bọc Trăm Con  - Hình của Thày Bùi Văn Bảo Một là trăm và trăm là một: Đồng Bào 
   
   
   
  Khai nguyên minh triết nước ta 
  Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình 
  Từ đây thắm đượm ân tình 
  Trong con chung bọc – mẹ sinh một lần 
  Trọn tình trọn nghĩa ái ân 
  Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau 
  Con người – hai nửa khác nhau 
  Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng 
  Nửa phần còn lại reo mừng 
  Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca 
  Cha Rồng lại nhắn nhủ là 
  “Khi cần thì gọi – có ta về liền!” 
  Tiên Rồng phát triển thường xuyên 
  Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông 
    
  * * * * 
    
  Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng 
  Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui 
  Căn nguyên Nhận Diện Con Người 
  Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng 
  Cha Rồng – biểu tượng nói rằng 
  Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa 
  Và Tiên hiện hữu trong ta 
  Làm nên người thật ấy là nhân sinh 
  Me Tiên – biểu tượng chứng minh 
  Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn 
  Con Người – nền tảng lập ngôn 
  Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây 
  Tiếp theo công cuộc dựng xây 
  Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau 
  Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu 
  Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời 
  Trăm người trăm việc ai ơi 
  Căn cơ Gia Tộc tuyệt vời là đây 
    
  Chẳng như tà thuyết phương Tây 
  Duy tâm, duy lợi… chứa đầy bất công 
  Phân ngôi định cấp cộng đồng 
  Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày 
  Của tài vơ vét hàng ngày 
  Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu 
  Cấp trên cứ thế mà giàu 
  Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền 
  Nào là đảng trị chính chuyên 
  Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân 
  Con người đau khổ muôn phần 
  Biến thành con thú – ta cần xóa tan 
  Thay bằng xã hội thịnh an 
  Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người 
    
  Quân bình tỷ lệ: năm mươi 
   Số con theo mẹ bằng người theo cha 
  Tương đồng tuyệt đối ấy là 
  Hiệp hai hoàn chỉnh – làm đà phát huy 
  Nguyên sinh vạn vật gẫm suy 
  Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người 
  Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời 
  Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca 
    
  Núi – sông giao hữu hài hòa 
  Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời 
  Lý – tình minh định tuyệt vời 
  Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi 
  Nước – nhà lúc thịnh lúc suy 
  Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu 
    
  Mỗi người: sống nét đặc thù 
  Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày 
  Tinh thần – thể chất tỏ bày 
  Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời 
  Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi 
  Cá nhân – tập thể xin mời lo toan 
  Sống nhân – lẫn trí kiện toàn 
  Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng 
    
  Gia đình: thuận vợ thuận chồng 
  Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung 
  Sống tình lẫn nghĩa – ung dung 
  Vô nam dụng nữ - cũng cùng như nhau 
  Vợ chồng, con cháu trước sau 
  Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi 
  Gái trai – hiếu thảo xứng đôi 
  Kính thờ Quốc Tổ - nhớ nôi Tiên Rồng 
    
  Cộng đồng: trên dưới, nhưng không 
  Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày 
  Thời nào mà chẳng nghèo – giàu 
  Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân 
   Tước thiên mà có tước nhân 
  Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười 
  Gia đình – gia tộc, loài người 
  Từ làng đến xã vui cười đoàn viên 
    
  An dân chính sách gắn liền 
  Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no 
  Ðức – tài lãnh đạo chăm lo 
  Chẳng vì chức vị tự do lộng hành 
  Chớ đâu quân chủ chính chuyên 
  Thực ra dân chủ khắp miền lân bang 
  Phép vua thua với lệ làng 
  Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân 
  Chăn dân mà lại ân cần 
  Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày 
  Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay 
  Quang minh chính đại – ra tay cứu đời 
  Sống theo văn hóa sáng ngời 
  Với người khuất mặt – với đời nhân sinh 
    
  Xét về kinh tế xứ mình 
  Thực thi bình sản dân tình an khang 
  Không thừa không thiếu rõ ràng 
  Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi 
  Tấc vàng tấc đất xây đời 
  Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh 
  Trăng thanh gạo trắng hữu tình 
  Tạo ra của cải là vì thân thương 
    
  Con người gắn bó quê hương 
  Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa 
  Xã làng – tổ chức nước ta 
  Vừa làm kinh tế - vừa là chiến khu 
  Giữ làng giữ nước – bao thu 
  Toàn dân là lính diệt thù lập công 
  Có văn lẫn võ – hòa đồng 
  Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh 
  Hỡi cô du kích chung tình 
  Bên anh diện địa – có mình có ta 
  Vừa lo giết giặc – mà là 
  Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào 
    
  Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào 
  Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người 
  Tại tâm – thể hiện vui tươi 
  Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm 
  Trên dương sống mãi như âm 
  Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời 
  Bao điều tôn giáo tuyệt vời 
  Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi 
  Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi 
  Tình chân thiện mỹ - không gì sánh hơn 
    
  Ngày nay nhân loại gặp cơn 
  Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh 
  Gây ra bao cảnh bất bình 
  Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em 
    
  Xin mời thế giới đến xem 
  Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng 
  Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng 
  Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người 
    
  Trăm Con Một Bọc tuyệt vời 
  Công bình bác ái sáng ngời là đây 
  Từ bi hỷ xã chứa đầy 
  Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người. 
 
 
 
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 00:48:56 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
  2. Kinh Trầu Cau
            Trầu Cau - Hình của Thày Bùi Văn Bảo
       Trầu Cau - Hình của Thày Bùi Văn Bảo 
          
    
    
  Kinh Dạy Cách Sống Tiên: 
  Nguyên Lý "Thân Thương Tột Cùng" 
  Thương Nhau Trọn Tình 
  Chết Cho Người Mình Thương 
  Dẫu Chết Cũng Vẫn Còn Thương 
    
  * * * 
    
     Thứ hai diễn tả tình người   Ông bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau   Sinh đôi – hai đứa giống nhau   Tận tình đùm bọc – cơm rau cạnh kề   Có nàng chớm tuổi cặp kê   Luống mong mình có tóc thề sánh vai   Nàng nhìn tư cách anh hai   Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau   Giúp nàng suy tính trước sau   Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh   Chuyện tình đậm thắm xuân xanh   Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà       Ngày kia trông cuốc hóa gà   Gặp em mà những tưởng là “hôn phu”   Người em đành quyết chu du   Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh   Hành trình biển nhớ đoạn đành   Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi       Nhưng anh lòng luống bồi hồi   Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm   Khóc thương – tượng đá đang nằm   Người anh cũng chết biến nhằm cay cau       Thương chồng – nàng mãi âu sầu   Tìm nơi chồng chết hóa trầu giây leo       Từ đây lễ tết, cưới cheo   Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau       * * * *       Gẫm suy bài học Trầu Cau   Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng       Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng   Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh   Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh   Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta   Trăm Con Một Bọc – sinh ra   Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành       Chu toàn trách nhiệm làm anh   Sánh duyên thiếu nữ – đặt thành tương quan    Ðến khi xảy chuyện bất an   Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời       Chẳng như thiên hạ - xử đời   Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em   Tổ Tiên ta lại những xem   Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương   Cả ba – cùng chọn một đường   Ðồng sinh đồng tử - tình thương vẹn toàn   Dương âm – hằng sống bình an   Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi   Vị cay thơm ngát hương môi   Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương       Ước mơ nhân loại đã tường   Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi   Sẵn sàng phải chết – xá chi   Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương       Sống trong xã hội bình thường   Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây   Gia đình gia tộc – xum vầy   Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu   Tương quan xét đến các chiều   Từ làng đến nước – một điều thân thương   Sáng soi chân lý ngàn phương   Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu       Toàn dân – sống thực chung tầu   Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy   Nước nhà – lâm cảnh biến nguy   Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai   Và nền văn hóa thoát thai   Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương   Anh em, con cháu – tỏ tường   Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng       Ngay nay tà thuyết nhìn chung   Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?   Bởi chưng nền tảng khinh thường   Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù   Nhân quyền, cải tiến… tài bù   Bất công chồng chất – cho dù đấu tranh       Ta xem sự thể rành rành   I – you, nị - ngộ… tị ganh hàng ngày   Ðồng đẳng – là chữ giãi bày   Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây       Chẳng như văn hóa phương Tây   Ðộc tài cộng sản … chứa đầy bất công   Ta theo Văn Hóa Tiên Rồng   Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương       Tình Người – xin hãy am tường   Tâm Tụê nơi Mẹ - yêu thương dẫn đầu   Triển khai Kinh tóm lại câu   Bao điều tàng ẩn nhiệm mầu chữ Song    Kết Kinh hiệp ý Chữ Ðồng   Diễn ra chữ Hiệp – Tiên Rồng là đây       Căn nguyên Song Hiệp giãi bày   Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời   Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời   Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua       Tới nay công cuộc chúng ta   Giúp Dân Cứu Nước – vì là quê hương   Tái sinh xã hội kỷ cương   Phục hồi nguyên lý Thân Thương Tột Cùng.   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 00:50:40 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              3. Kinh Chữ Ðồng
      
          Chữ Ðồng Tiên Dung - Chuyện Tranh của Thày Bùi Văn Bảo
       Chữ Ðồng Tiên Dung - Chuyện Tranh của Thày Bùi Văn Bảo 
               
  Kinh Dạy Cách Sống Rồng: 
  Nguyên Lý "Bình Ðẳng Tột Cùng" 
  Sống Với Nhau Bằng Con Người Thật 
  Con Người Tinh Tuyền 
  Ðừng Ðể Ngoại Vật Chia Cách Con Người 
  Chỉ Thấy Con Người - Lấy Con Người Làm Tiêu Chuẩn Căn Bản 
  Tài Của Giúp Người - Mọi Người Cùng Hưởng  
       
     
    
  Thứ ba – Lời Dạy Sống Chung 
  Tổ Tiên kể chuyện Tiên Dung Chữ Ðồng 
  Sống trong xã hội Tiên Rồng 
  Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung 
    
  Có nàng công chúa Tiên Dung 
  Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi 
  Như tiên tung cánh giữa trời 
  Ðang mong tìm kiếm một nơi thanh bình 
    
  Kể ra cho rõ sự tình 
  Chữ Ðồng vất vưởng mỗi mình ven sông 
  Thương thay kiếp sống Cha Rồng 
  Áo cơm không đủ - chất chồng cô đơn 
  Sớm khuya lòng luống mong ơn 
  Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày 
  Rồi chờ cũng có một ngày 
  Ước sao được vậy – kiếp này thảnh thơi 
    
  Sáng nay công chúa ghé nơi 
  Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa 
  Hiện nguyên mình ngọc thân ngà 
  Nào ngờ - dưới cát vốn là ẩn nhân 
  Nước trong – cuốn sạch bụi trần 
  Trôi theo lớp cát – hiện thân Chữ Ðồng 
    
  Cao xanh đã thắt chỉ hồng 
  Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên 
  Mẹ Tiên – bèn xuất bạc tiền 
  Xây làng dựng phố - khắp miền ấm no 
  Con dân – ra sức chăm lo 
  Lập nên cuộc sống tự do thanh bình 
    
  Cha Rồng cũng góp phần mình 
  Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân 
  Tạo ra sung túc muôn phần 
  Cộng đồng phát triển – đang cần bình an 
  Và rồi công cưộc liên can 
  Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu 
  Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu 
  Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời 
    
  * * * * 
    
  Đây Kinh Nền Tảng tuyệt vời 
  Làm Con Người Thật là lời khuyên chung 
  Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng 
  Tổ Tiên lột tả nội dung Tiên Rồng 
    
  Tích xưa – thiên hạ thổi phồng 
  Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi 
  Thứ dân – cũng phải hoa khôi 
  Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu 
    
  Tạo ra giai cấp khác nhau 
  Ăn trên ngồi trốc – bí bàu đấu tranh 
  Bất công xã hội rành rành 
  Chủ nô chế độ - đoạn đành anh em 
    
  Ông bà nhưng lại đã đem 
  Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa 
  Tiên Dung trẻ đẹp như hoa 
  Giầu sang quyền thế - vậy mà yêu dân 
  Chữ Ðồng không khố che thân 
  Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên 
    
  Nàng Dung lưu lạc khắp miền 
  Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ  
  Chàng Ðồng nào dám hững hờ 
  Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên 
  Thấp cao – ván đã đóng thuyền 
  Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia 
  Như dân – trong nước một nhà 
  Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa 
    
  Tiên Rồng văn hóa chiếu tia 
  Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời 
  Nơi đây Chỉ Thấy Con Người 
  Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên 
  Thực thi Bình Ðẳng như Tiên 
  Ta noi gương Mẹ - dùng tiền nuôi dân 
  Gương Cha – cũng được góp phần 
  Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên 
    
  Giúp dân Sống Thực căn nguyên 
  Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa 
  Cháu con noi đức mẹ cha 
  Tài năng của cải chỉ là hỗ tương 
  Chớ dùng tài của đo lường 
  Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa 
  Rồi gieo giọt lệ đầm đìa 
  Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo 
  Gây ra cuộc sống cheo leo 
  Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn 
    
  Tiên Rồng – xã hội thịnh an 
  Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài 
  Chẳng dành hạnh phúc riêng ai 
  Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình 
  Từ người tới vật hữu sinh 
  Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương 
    
  Tuy rằng cũng có ít phường 
  Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành 
  Ðể răn những kẻ lộng hành 
  Toàn dân khinh bỉ - Sử xanh chê cười 
    
  Chẳng như văn hóa xứ người 
  Chủ nô – cổ võ coi người như trâu 
  Cấp cao sẵn thế làm giầu 
  Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền 
    
  Và nền Ðạo Việt lại khuyên 
  Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu 
  Sống theo nguyên lý đặc thù 
  Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người.   
 
 
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 00:52:03 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               Phạm Văn Bản           Nhìn Chung Ba Kinh Nền Tảng       1. Kinh Tiên Rồng: Nền tảng, ta rút ra nguyên lý của sự sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh. Với Kinh Tiên Rồng, chúng ta có được định nghĩa về con người! Hoàn chỉnh, toàn diện, đúng thực! (So với sinh vật kinh tế hay lao động của các chủ thuyết duy vật, duy lợi)... chúng ta cũng được nguyên lý của xã hội con người: Thân Thương Tột Cùng và Bình Ðẳng Tột Cùng.       2. Kinh Trầu Cau: Kinh Trầu Cau rút ra từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai người (hai anh em sinh đôi) để áp dụng vào đời sống xã hội và đặc biệt nhấn mạnh, khai triển khía cạnh Thân Thương Tột Cùng của Kinh Tiên Rồng, của con người. Kinh Trầu Cau đặt nền tảng tương quan giữa người với người, nghĩa là: Thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, và dẫu có chết cũng vẫn còn thương. Vì là nền tảng tương quan giữa người với người, nên cũng là nền tảng sống thực của mọi xã hội, từ gia đình… tới nhân loại.        3. Kinh Chữ Ðồng: Kinh Trầu Cau đã từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai anh em để áp dụng Thân Thương Tột Cùng, thì để dạy bài học Bình Ðẳng Tột Cùng, Tổ Tiên ta lấy lại hình ảnh Tiên Rồng, Công Chúa Tiên Dung: đẹp, sang, giầu, được yêu thương, kính trọng quyền thế cao cả, tột cùng trong xã hội! Theo chữ nho, tiên là người ở núi (vì ghép chữ nhân với chữ sơn) thành chữ tiên, sướng như tiên, như núi của (vật chất).       Qủa là nàng tiên, Tiên Dung giáng trần đến với chàng Chữ Ðồng đói khổ, lang thang nơi bờ sông bãi sú kiếm ăn... có cái khố cũng vì hiếu mà liệm cho cha lúc người lìa trần.        Sống với nhau, phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị vật chất che phủ.        Chàng là rồng ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) khi công chúa Tiên Dung khuôn màn tắm gội… Nàng từ trời xuống, chàng từ đáy huyệt lên.        Nàng giầu sang tuyệt thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm… thế mà lại nên duyên! Xin hỏi xã hội như thế còn kẽ hở nào để ngăn cách, để phân chia giai cấp?       Và nhờ sự song hiệp Tiên Rồng, con người được hạnh phúc. Tiên Dung Chữ Ðồng giúp dân. Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất) … và rồi khi Về Trời dân chúng cũng được về theo, thành tiên, hạnh phúc cực lạc!       Nhìn vào nguyên nhân thảm họa của nhân loại hôm nay, là vì các chủ thuyết đã nhận định sai lạc về Con Người, do đó đặt nền tảng gỉa tạo cho xã hội loài người. Khi quan niệm con người chỉ là con thú tiến bộ, hay sinh vật tiêu thụ và sản xuất…  khi chỉ nhìn được nhận với một số đặc tính mà chối bỏ những đặc tính khác… và khi chủ trương con người đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe thì làm sao có được hạnh phúc an vui?       Những sai lầm về nền tảng đó đã được Tổ Tiên ta giải quyết thỏa đáng với câu chuyện tinh túy của Con Cháu Tiên Rồng. Ý nghĩa kết hiệp giữa hai biểu tượng Tiên Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 theo mẹ 50 theo cha, và Một Bọc Trăm Con, đồng bào ruột thịt. Kinh Tiên Rồng qủa là bản văn nhận diện chính xác và trọn vẹn con người và xã hội con người.       Nhận ra con người gồm cả thân xác, trí khôn, tâm tình và thông hiệp với thế giới siêu linh. Con người là hiệp thể toàn nhất, tự tại và bất khả phân, nhưng con người bẩm sinh cũng là thành phần xã hội. Cùng một lúc, cùng có luôn 100 con người!       Kinh Tiên Rồng, ta đã giải quyết xung đột giữa hai chủ nghĩa cá nhân và tập thể, mà xác quyết rằng thế giới vận hành không phải do mâu thuẫn nội tại, mà nhờ Song Hiệp. Ở cấu thành cũng như mọi sinh hoạt con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đúng đắn và đầy đủ giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như cá nhân và tập thể, gia đình và làng nước, vật chất và tinh thần, kinh tế và đời sống, tình và lý, hữu và vô.       Các chủ thuyết hôm nay thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công vì tạo ra giai cấp mới. Nhưng Kinh Chữ Ðồng của văn hóa Việt, với chàng nghèo đói không khố mà sánh duyên nàng công chúa Tiên Dung, chẳng những đưa ra quan niệm, mà còn đặt ra những nguyên tắc và phương thức hành động để xã hội được thực sự bình đẳng, loại trừ giai cấp đặc quyền, lạm dụng, ỷ lại quyền thế.       Trước thế giới băng hoại, hận thù, mạnh được yếu thua, gia đình suy thoái, tan rã, và con người càng thêm cô độc bơ vơ… Kinh Trầu Cau đặt nền tảng cho sự liên hệ đích thực giữa người với người, cho cách sống thực những mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao qúy của con người.        Không lý thuyết suông, mà chỉ cho ta phương thức thực tế, áp dụng từ trong cội nguồn, trong tâm tư, cho đến thể hiện nơi cuộc sống hằng ngày và thành quả sinh động trước mắt.       * * *       a. Biểu Tượng Tiên Rồng       Là biểu tượng, vì khi nói tới Tiên, chúng ta nghĩ tới ngay một hình ảnh xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan dung, nhân ái... mà còn thoát tục, siêu phàm, như tiên giáng trần, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian, lẫn không gian.       Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, sức mạnh vô song, sức sống vô tận, thiên biến vạn hóa, như linh như hiển, như thánh như thần... khi ẩn mình dưới đáy nước, lúc bay vút lên trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phúc.       Và khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, thì Tổ Tiên ta cũng đã diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người. Bởi khi nói, chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, thì Tổ Tiên ta muốn diễn tả: Con Người là một hiệp thể sinh động, là một kết tinh toàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai biểu tượng Tiên và Rồng.       Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa Con Người vừa biến hóa như Rồng lại vừa trường cửu như Tiên: vừa là hiệp thể siêu phàm, vừa trong thời không lại vừa vượt thời không, vừa linh động lại vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền lại vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương vừa uy lực vô song... 50 thuộc Tiên 50 thuộc Rồng, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên quân bình.       Vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Tổ Tiên ta nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người, thì cũng không loại trừ ai.       b. Tiên Rồng Song Hiệp       Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới các tỷ lệ giữa các đặc tính đó. Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính trong Con Người, một nửa do Mẹ một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng.       Như vậy Con Người là một hiệp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đối. Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp.       Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Và Tiên Rồng Song Hiệp đã thấy bàng bạc khắp nơi trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người.       Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất, vững chắc nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người.       Chúng ta có thể gọi dó là nguyên lý, Nguyên Lý Tiên Rồng Song Hiệp. Chữ song, chẳng những có nghĩa là hai, như lưỡng, nhị.. mà lại thêm ý niệm bằng nhau, như song toàn, vô song... để diễn tả 50 - 50. Chữ hiệp, thì chẳng những có nghĩa đồng ý với nhau, do chữ hợp thêm bộ thủy, mang ý hòa lẫn vào nhau… thành một hiệp thể tự tại toàn nhất.       Khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng xuống biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người.       Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất và bất khả phân. Tuy nhiên không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi.       Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi mỗi trường hợp thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi.         Việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “Khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng là một nhận định đích xác về cuộc sống con người.       Tuy Con Người là hiệp thể toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ lộ rõ rệt, trong khi một số đặc tính lại có thể như thiếu vắng.       Dầu vậy lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngay. Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện và luôn luôn hiện hữu trong Con Người. Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó. Ví dụ: Sự ẩn diện hay bộc lộ còn có thể tùy thuộc vào một số điều kiện. Em bé mới sinh chưa đủ điều kiện thể xác để bộc lộ một số khả năng. Hoặc giả như người hư bộ óc thì không thể bộc lộ khả năng suy tư...       Và như thế, nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn.       c. Nền Tảng Xã Hội Loài Người       c1. Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh       Cũng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, truyền thuyết Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người.       Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa.       Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau mà ta gọi là cộng đoàn, hay xã hội.       Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Đã không chỉ một Con Người đơn độc. Hễ Con Người là có cộng đoàn, xã hội.       Đây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người.       Với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, truyền thuyết Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, xác nhận đặc tính xã hội của mọi Con Người.       Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi biểu tượng Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt.       Đây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo một nền văn hóa đặc thù.       c2. Hai Nguyên Lý Xã Hội       Với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần.       Xác quyết này khác biệt với nhiều nền tảng của văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân. Ví dụ: Như văn hóa Hy Lạp dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm tự cho mình là con rơi của các vị thần. Văn hóa Ấn Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp di truyền: ai sinh ở đầu Bruma là tăng lữ, sinh ở bụng là thương gia, sinh ở tay chân thì làm lính, làm nô lệ... Dân Do Thái thì cho rằng dòng giống của riêng họ được Tạo Hóa đặc tuyển và phải tuyệt diệt mọi giống dân cản trở họ... Chù thuyết Quốc Xã Đức lại cho rằng dân Arya da trắng thuần chủng được đặc quyền thống trị loài người.       Đang khi văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một Xã Hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng.       Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa con người với con người bằng hình ảnh ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần trong một cái bọc.       Tự nguồn gốc, giữa con người không thể có bất cứ một dị biệt nào, chẳng những không dị biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không dị biệt về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hoàn toàn như nhau, hoàn toàn bằng nhau.       Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng, con người bình đẳng tự căn nguyên, Bình Đẳng Tột Cùng.       Ngoài ra, có xã hội nào thân thương bằng những anh em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha. Tuy là anh chị em ruột nhưng cũng ít khi thương nhau đồng đều. Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó khi nhấn mạnh rằng mọi người cùng được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong tình yêu thương nhau.       Biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương nhau. Sự khắn khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đều. Họ thương nhau tận tình.       Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhau. Vì vậy tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, đã vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng ta. Đây là tình Thân Thương Tột Cùng.       Sự diễn đạt của Tổ Tiên thật là tuyệt vời!       Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Đẳng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng.       Mọi người đều là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng, đều là Đồng Bào. Khi dùng chung cho mọi người trong nước, chữ đồng bào đã luôn nói lên truyền thống cao quý của văn hóa Tiên Rồng. Chúng ta cũng có thể dùng chữ đồng bào để chỉ tập thể, hay từng cá nhân. Ta gọi nhau là đồng bào để nhắc nhở rằng mình thì thực sự là anh em, do cùng một bọc Tiên Rồng. Mà là Con Người thì bất cứ ai cũng là đồng bào, Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng.
   Phạm Văn Bản           Nhìn Chung Ba Kinh Nền Tảng       1. Kinh Tiên Rồng: Nền tảng, ta rút ra nguyên lý của sự sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh. Với Kinh Tiên Rồng, chúng ta có được định nghĩa về con người! Hoàn chỉnh, toàn diện, đúng thực! (So với sinh vật kinh tế hay lao động của các chủ thuyết duy vật, duy lợi)... chúng ta cũng được nguyên lý của xã hội con người: Thân Thương Tột Cùng và Bình Ðẳng Tột Cùng.       2. Kinh Trầu Cau: Kinh Trầu Cau rút ra từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai người (hai anh em sinh đôi) để áp dụng vào đời sống xã hội và đặc biệt nhấn mạnh, khai triển khía cạnh Thân Thương Tột Cùng của Kinh Tiên Rồng, của con người. Kinh Trầu Cau đặt nền tảng tương quan giữa người với người, nghĩa là: Thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, và dẫu có chết cũng vẫn còn thương. Vì là nền tảng tương quan giữa người với người, nên cũng là nền tảng sống thực của mọi xã hội, từ gia đình… tới nhân loại.        3. Kinh Chữ Ðồng: Kinh Trầu Cau đã từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai anh em để áp dụng Thân Thương Tột Cùng, thì để dạy bài học Bình Ðẳng Tột Cùng, Tổ Tiên ta lấy lại hình ảnh Tiên Rồng, Công Chúa Tiên Dung: đẹp, sang, giầu, được yêu thương, kính trọng quyền thế cao cả, tột cùng trong xã hội! Theo chữ nho, tiên là người ở núi (vì ghép chữ nhân với chữ sơn) thành chữ tiên, sướng như tiên, như núi của (vật chất).       Qủa là nàng tiên, Tiên Dung giáng trần đến với chàng Chữ Ðồng đói khổ, lang thang nơi bờ sông bãi sú kiếm ăn... có cái khố cũng vì hiếu mà liệm cho cha lúc người lìa trần.        Sống với nhau, phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị vật chất che phủ.        Chàng là rồng ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) khi công chúa Tiên Dung khuôn màn tắm gội… Nàng từ trời xuống, chàng từ đáy huyệt lên.        Nàng giầu sang tuyệt thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm… thế mà lại nên duyên! Xin hỏi xã hội như thế còn kẽ hở nào để ngăn cách, để phân chia giai cấp?       Và nhờ sự song hiệp Tiên Rồng, con người được hạnh phúc. Tiên Dung Chữ Ðồng giúp dân. Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất) … và rồi khi Về Trời dân chúng cũng được về theo, thành tiên, hạnh phúc cực lạc!       Nhìn vào nguyên nhân thảm họa của nhân loại hôm nay, là vì các chủ thuyết đã nhận định sai lạc về Con Người, do đó đặt nền tảng gỉa tạo cho xã hội loài người. Khi quan niệm con người chỉ là con thú tiến bộ, hay sinh vật tiêu thụ và sản xuất…  khi chỉ nhìn được nhận với một số đặc tính mà chối bỏ những đặc tính khác… và khi chủ trương con người đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe thì làm sao có được hạnh phúc an vui?       Những sai lầm về nền tảng đó đã được Tổ Tiên ta giải quyết thỏa đáng với câu chuyện tinh túy của Con Cháu Tiên Rồng. Ý nghĩa kết hiệp giữa hai biểu tượng Tiên Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 theo mẹ 50 theo cha, và Một Bọc Trăm Con, đồng bào ruột thịt. Kinh Tiên Rồng qủa là bản văn nhận diện chính xác và trọn vẹn con người và xã hội con người.       Nhận ra con người gồm cả thân xác, trí khôn, tâm tình và thông hiệp với thế giới siêu linh. Con người là hiệp thể toàn nhất, tự tại và bất khả phân, nhưng con người bẩm sinh cũng là thành phần xã hội. Cùng một lúc, cùng có luôn 100 con người!       Kinh Tiên Rồng, ta đã giải quyết xung đột giữa hai chủ nghĩa cá nhân và tập thể, mà xác quyết rằng thế giới vận hành không phải do mâu thuẫn nội tại, mà nhờ Song Hiệp. Ở cấu thành cũng như mọi sinh hoạt con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đúng đắn và đầy đủ giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như cá nhân và tập thể, gia đình và làng nước, vật chất và tinh thần, kinh tế và đời sống, tình và lý, hữu và vô.       Các chủ thuyết hôm nay thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công vì tạo ra giai cấp mới. Nhưng Kinh Chữ Ðồng của văn hóa Việt, với chàng nghèo đói không khố mà sánh duyên nàng công chúa Tiên Dung, chẳng những đưa ra quan niệm, mà còn đặt ra những nguyên tắc và phương thức hành động để xã hội được thực sự bình đẳng, loại trừ giai cấp đặc quyền, lạm dụng, ỷ lại quyền thế.       Trước thế giới băng hoại, hận thù, mạnh được yếu thua, gia đình suy thoái, tan rã, và con người càng thêm cô độc bơ vơ… Kinh Trầu Cau đặt nền tảng cho sự liên hệ đích thực giữa người với người, cho cách sống thực những mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao qúy của con người.        Không lý thuyết suông, mà chỉ cho ta phương thức thực tế, áp dụng từ trong cội nguồn, trong tâm tư, cho đến thể hiện nơi cuộc sống hằng ngày và thành quả sinh động trước mắt.       * * *       a. Biểu Tượng Tiên Rồng       Là biểu tượng, vì khi nói tới Tiên, chúng ta nghĩ tới ngay một hình ảnh xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan dung, nhân ái... mà còn thoát tục, siêu phàm, như tiên giáng trần, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian, lẫn không gian.       Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, sức mạnh vô song, sức sống vô tận, thiên biến vạn hóa, như linh như hiển, như thánh như thần... khi ẩn mình dưới đáy nước, lúc bay vút lên trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phúc.       Và khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, thì Tổ Tiên ta cũng đã diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người. Bởi khi nói, chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, thì Tổ Tiên ta muốn diễn tả: Con Người là một hiệp thể sinh động, là một kết tinh toàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai biểu tượng Tiên và Rồng.       Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa Con Người vừa biến hóa như Rồng lại vừa trường cửu như Tiên: vừa là hiệp thể siêu phàm, vừa trong thời không lại vừa vượt thời không, vừa linh động lại vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền lại vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương vừa uy lực vô song... 50 thuộc Tiên 50 thuộc Rồng, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên quân bình.       Vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Tổ Tiên ta nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người, thì cũng không loại trừ ai.       b. Tiên Rồng Song Hiệp       Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới các tỷ lệ giữa các đặc tính đó. Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính trong Con Người, một nửa do Mẹ một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng.       Như vậy Con Người là một hiệp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đối. Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp.       Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Và Tiên Rồng Song Hiệp đã thấy bàng bạc khắp nơi trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người.       Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất, vững chắc nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người.       Chúng ta có thể gọi dó là nguyên lý, Nguyên Lý Tiên Rồng Song Hiệp. Chữ song, chẳng những có nghĩa là hai, như lưỡng, nhị.. mà lại thêm ý niệm bằng nhau, như song toàn, vô song... để diễn tả 50 - 50. Chữ hiệp, thì chẳng những có nghĩa đồng ý với nhau, do chữ hợp thêm bộ thủy, mang ý hòa lẫn vào nhau… thành một hiệp thể tự tại toàn nhất.       Khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng xuống biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người.       Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất và bất khả phân. Tuy nhiên không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi.       Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi mỗi trường hợp thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi.         Việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “Khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng là một nhận định đích xác về cuộc sống con người.       Tuy Con Người là hiệp thể toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ lộ rõ rệt, trong khi một số đặc tính lại có thể như thiếu vắng.       Dầu vậy lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngay. Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện và luôn luôn hiện hữu trong Con Người. Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó. Ví dụ: Sự ẩn diện hay bộc lộ còn có thể tùy thuộc vào một số điều kiện. Em bé mới sinh chưa đủ điều kiện thể xác để bộc lộ một số khả năng. Hoặc giả như người hư bộ óc thì không thể bộc lộ khả năng suy tư...       Và như thế, nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn.       c. Nền Tảng Xã Hội Loài Người       c1. Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh       Cũng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, truyền thuyết Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người.       Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa.       Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau mà ta gọi là cộng đoàn, hay xã hội.       Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Đã không chỉ một Con Người đơn độc. Hễ Con Người là có cộng đoàn, xã hội.       Đây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người.       Với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, truyền thuyết Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, xác nhận đặc tính xã hội của mọi Con Người.       Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi biểu tượng Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt.       Đây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo một nền văn hóa đặc thù.       c2. Hai Nguyên Lý Xã Hội       Với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần.       Xác quyết này khác biệt với nhiều nền tảng của văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân. Ví dụ: Như văn hóa Hy Lạp dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm tự cho mình là con rơi của các vị thần. Văn hóa Ấn Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp di truyền: ai sinh ở đầu Bruma là tăng lữ, sinh ở bụng là thương gia, sinh ở tay chân thì làm lính, làm nô lệ... Dân Do Thái thì cho rằng dòng giống của riêng họ được Tạo Hóa đặc tuyển và phải tuyệt diệt mọi giống dân cản trở họ... Chù thuyết Quốc Xã Đức lại cho rằng dân Arya da trắng thuần chủng được đặc quyền thống trị loài người.       Đang khi văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một Xã Hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng.       Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa con người với con người bằng hình ảnh ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần trong một cái bọc.       Tự nguồn gốc, giữa con người không thể có bất cứ một dị biệt nào, chẳng những không dị biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không dị biệt về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hoàn toàn như nhau, hoàn toàn bằng nhau.       Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng, con người bình đẳng tự căn nguyên, Bình Đẳng Tột Cùng.       Ngoài ra, có xã hội nào thân thương bằng những anh em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha. Tuy là anh chị em ruột nhưng cũng ít khi thương nhau đồng đều. Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó khi nhấn mạnh rằng mọi người cùng được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong tình yêu thương nhau.       Biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương nhau. Sự khắn khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đều. Họ thương nhau tận tình.       Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhau. Vì vậy tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, đã vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng ta. Đây là tình Thân Thương Tột Cùng.       Sự diễn đạt của Tổ Tiên thật là tuyệt vời!       Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Đẳng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng.       Mọi người đều là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng, đều là Đồng Bào. Khi dùng chung cho mọi người trong nước, chữ đồng bào đã luôn nói lên truyền thống cao quý của văn hóa Tiên Rồng. Chúng ta cũng có thể dùng chữ đồng bào để chỉ tập thể, hay từng cá nhân. Ta gọi nhau là đồng bào để nhắc nhở rằng mình thì thực sự là anh em, do cùng một bọc Tiên Rồng. Mà là Con Người thì bất cứ ai cũng là đồng bào, Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng.          * * *      
Sau ba kinh nền tảng cho con người và cuộc sống xã hội, tổ tiên ta lại dạy một cơ cấu quan trọng nhất, chi phối mạnh mẽ đời sống con người đó là nước, quốc gia.       Xin tiếp tục trở lại những bài vè Kinh Việt kế tiếp.    Xin qúy bạn đọc cho biết ý kiến - Đa tạ.     
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.06.2008 00:26:21 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                 4. Kinh Tiết Liêu 
           Bánh Dày Bánh Chưng - Hình của Thày Bùi Văn Bảo
       Bánh Dày Bánh Chưng - Hình của Thày Bùi Văn Bảo Kinh Dựng Nước
  
   
    
   
   
   
   
  Thứ tư Tình Nước sáng tươi 
  Tiết Liêu – bài học Con Người An Dân 
  Làng giàu nước đẹp phải cần 
  Mẫu người tài đức giúp dân thái hòa 
    
  Vua Hùng – thánh chỉ ban ra 
  Cúng dâng lễ vật thì là truyền ngôi 
  Và rồi khắp chốn xa xôi 
  Ðã bao hoàng tử nổi trôi đi tìm 
  Tiết Liêu vốn tính lặng im 
  Suốt ngày quanh quẩn chẳng tìm đâu xa 
  Một hôm chàng gặp Cụ Gìa 
  Dạy làm kiểu bánh đậm đà hương say 
  Bánh chưng cùng với bánh dày 
  Chế từ lúa gạo - thường ngày nuôi dân 
  Rồi chàng luyện tập chuyên cần 
  Dâng lên của lễ - xứng phần làm vua 
    
  Từ đây lễ tết đầu mùa 
  Dày Chưng – là bánh tiễn đưa bàn thờ 
    
  * * * * 
    
  Có ai đã mấy khi ngờ 
  Việc vua việc nước – cần nhờ sứ nhân 
  Nước ngoài – văn hóa chỉ cần 
  Mẫu người cai trị thông phần dụng binh 
  Giết người cướp của thao tình 
  Miễn tranh vương gỉa – điển hình sử xanh 
    
  Nhưng nền Ðạo Việt tinh anh 
  Phải tìm lễ vật – mới dành ngôi vua 
  Khởi công bài học thi đua 
  Nhờ ơn Tộc Tổ - làm vua phải cần 
  Mang ra giáo hóa toàn dân 
  Tri ân thủ nghĩa – góp phần dựng xây 
  Non sông trăm họ xum vầy 
  Cùng nhau ăn qủa – nhớ cây người trồng 
  Vẫn theo tiêu chuẩn nghĩa công 
  Ông bà nhắc chuyện Tiên Rồng với câu 
  Long Quân Thánh Tổ - nhiệm mầu 
  Khi cần thì gọi – nơi đâu cũng về! 
  Bao phen linh ứng lời thề 
  Tổ là Hồn Nước – cận kề với dân 
    
  Ðã bao hoàng tử vong thân 
  Ðua nhau vọng ngoại – tảo tần phương xa 
  Quên luôn báu vật quê nhà 
  An Dân Thịnh Nước – mới là xứng ngôi 
  Cần chi những của xa xôi 
  Gây ra mâu thuẫn – vua tôi trị vì 
    
  Nhưng đây Kinh Việt lại ghi 
  Tài tìm lễ vật – những gì An Dân 
  Tiết Liêu vận dụng toàn phần 
  Tâm Tuệ - tìm vật giúp dân hưởng nhờ 
  Thức ăn từ gạo đơn sơ 
  Thêm tài cải tiến – nào ngờ thơm ngon 
  Làm theo hình thể vuông tròn 
  Bảo Bình – hàm ý sống còn trong tên 
  Tuyệt thay chiếc bánh chưng rền 
  Lá xanh gạo trắng – nói lên thanh bình 
  Ta nhìn tấm bánh xinh xinh 
  Bên trong gói ghém bao tình quân dân 
  Muối tiêu đường đậu thịt nhân 
  Ngọt bùi cay đắng – chia phần sẻ san 
  Dựng nên cảnh sống thịnh an 
  Mọi người cùng hưởng – chứa chan công bằng 
  Cũng trong buổi hội hoa đăng 
  Bánh Dày nhuần nhuyễn – xin rằng chớ quên 
  Thời suy – loạn lạc nổi lên 
  Cứu nguy xã tắc – đạn tên không sờn 
  Sứ Nhân nặng nợ công ơn 
  Trước là Sống Thực - biết nhơn biết mình 
  Hai là Hồn Nước quang vinh 
  Cầu xin Tộc Tổ thương tình giúp cho 
  Ba là Lột Xác nguyên do 
  Gĩa từ cái cũ – ta lo sửa trì 
  Dân Thân – điều chót nhớ ghi 
  Anh em cộng tác – xá gì gian lao 
  Là con cháu Việt tự hào 
  Thực thi truyền thống đề cao Tiên Rồng 
    
  Tiết Liêu gương sáng khởi công 
  Sống theo Hồn Nước – hoà đồng toàn dân 
  Quyết tâm lột xác dấn thân 
  Dân an nước thịnh – tỏ phần tài năng 
  Trong Kinh Tổ đã dạy rằng 
  Phải luôn cải tiến - phát tăng nhu cầu  
  Ðưa ra quốc sách khởi đầu 
  Cộng theo cơ chế - nghèo giầu thích nghi 
  Cố công tìm kiếm những gì 
  Giúp dân sống thực – chớ vì quyền uy 
  Làm vua – tuân giữ nội quy 
  Thực hành Lời Tổ - cứu nguy dân lành 
  Lợi dân ích nước – hoàn thành 
  Cộng đồng hạnh phúc – sáng danh Tiên Rồng 
    
  Trong Kinh Dựng Nước Chữ Ðồng 
  Phúc thay! Toàn thể thưởng công Về Trời 
  Kinh Làng – Kinh Nước xây đời 
  Tiết Liêu hướng dẫn những lời An Dân 
  Căn cơ Việc Nước tạo phần 
  Quê hương thịnh vượng toàn dân huy hoàng 
  Hiệp theo thực thể rõ ràng 
  Việc Làng – phát triển nơi chàng An Tiêm 
  Biểu trưng dưa hấu uy nghiêm 
  Biến vùng sỏi đá thành niềm ước mong 
    
  Tổ Tiên muốn nói chữ Song 
  Tiên Rồng Song Hiệp – như trong từng bài 
  Tiết Liêu – Rồng lại trổ tài 
  Làm phần biến hóa – giúp Ngài gặp Tiên 
  Lời khuyên của Tổ gắn liền 
  Trường Tồn – nền tảng nơi Tiên đây rồi 
  Hai phần hoàn chỉnh – truyền ngôi 
  Tạo ra hiệp nhất một đôi song toàn 
  Ðạo Làm Vua – Ðạo Làm Quan 
  Kinh Tiên – Việc Nước hòa chan hai đàng 
  Kinh Rồng – nền tảng Việc Làng 
  Nước Làng Song Hiệp – vẻ vang giống dòng 
    
  Tiết Liêu – gói ghém bên trong 
  Công ơn Thánh Tổ - ghi lòng cháu con 
  Tình người tình nước – sắt son 
  Thực thi nguyện vọng sống còn nước dân 
  Chưng Dày – biểu tượng minh phân 
  Thanh bình loạn lạc – điều cần giải nguy 
  Giúp dân sống thực gẫm suy 
  Mẫu Người Lãnh Ðạo ẩn quy trong bài 
  Nơi đây nói đến chữ tài 
  Cái tài sáng tạo – cùng tài an dân. 
  
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 00:54:07 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
  5. Kinh An Tiêm
 
   
 
 
    
  Dưa Ðỏ - Hình của Thày Bùi Văn BảoKinh Dựng Làng 
    
   
   
   
   
  Thứ năm chú trọng “Trí Thân” 
  Việc Làng Phát Triển trong phần An Tiêm 
  Con dân bày tỏ nỗi niềm 
  Về nền dân chủ trang nghiêm nước nhà 
    
  Lời đồn sự nghiệp dèm pha 
  Người vua Hùng phạt chính là con nuôi 
  An Tiêm trong tuổi đôi mươi 
  Phải đày ra đảo vắng người hoang vu 
  Dầu chàng gắng sức công phu 
  Khai hoang khẩn đất đền bù ơn vua 
  Nhưng rồi cuộc sống vẫn thua 
  Càng thêm đói rách – ruộng chua nước phèn 
  Lang thang chốn lạ chưa quen 
  Mỏi mong hạnh phúc bao năm đi tìm 
  Sáng nay gặp gỡ cánh chim 
  Làm rơi hạt giống im lìm mọc lên 
  Thành giây dưa hấu mang tên 
  Vỏ xanh ruột đỏ dòn mềm thơm ngon 
  Chàng Tiêm ghi dấu dưa tròn 
  Thả trôi xuống biển – mỏi mòn trông tin 
  Lượm dưa – dân kéo đến xin 
  Thành ra làng xã – giữ gìn quê hương 
  Miền hoang phát triển phi thường 
  Dân làng trù phú kỷ cương thuận hòa 
  An Tiêm thay mặt làng ta 
  Chọn dăm trái hấu làm qùa dâng vua 
    
  Từ đây lễ tết đầu mùa 
  Trái dưa Cúng Tổ - dâng đưa trên bàn 
    
  * * * * 
    
  Ôi! Kinh Sống Thực chứa chan 
  Việc Làng Dân Chủ - tương quan Tiên Rồng 
  Sống trong thể chế hiệp đồng 
  Nước làng minh định việc công rõ ràng 
  Thân thương bình đẳng trong làng 
  Thuận trên hòa dưới nhịp nhàng kỷ cương 
  Cũng theo chủ nghĩa tỏ tường 
  Căn cơ gia tộc là đường dựng xây 
  Họ hàng lối xóm xum vầy  
  Sẻ san đùm bọc sống đầy tình thương 
  Ðồng bào ra sức tự cường 
  Ðắp nền dân chủ địa phương vững bền 
  Lễ nghi trống rộn chiêng rền 
  Tay cày tay súng tạo nên thanh bình 
  Lúa vàng nặng hạt ân tình 
  Tre xanh che chở có mình có ta 
  Ðó đây vang vọng ê, a… 
  Trầm hương đình miếu chan hòa khí thiêng 
    
  Rồng An Tiêm – vốn tính siêng 
  Trổ tài vùng vẫy láng giềng – đảo hoang 
  Cố công khai phá dựng làng 
  Ðào kinh dẫn thủy mở mang gieo trồng 
  Cũng như hình ảnh Chữ Ðồng 
  Bờ sông bến nước giúp Rồng gặp Tiên 
  Thoát cơn hoạn nạn triền miên 
  Trút bao thống khổ ưu phiền bơ vơ 
  Cơ trời nào mấy ai ngờ 
  An Tiêm – Chim Lạc tình cờ gặp nhau 
  Dầu như gío thoảng qua mau 
  Tiên Rồng Song Hiệp – đổi màu xanh tươi 
  Ðể mang hạnh phúc cho người 
  Lợi dân ích nước tiếng cười hân hoan 
    
  Phân minh cấp độ lo toan 
  Nước – Làng hai việc chu toàn khác nhau 
  Dấn thân – Việc Nước truyền rao 
  Nặng phần Tâm - Tuệ quy vào Tiết Liêu 
  Nêu cao truyền thống là điều 
  Sức Dân Hồn Nước – theo chiều lòng dân 
  Quốc gia vững mạnh phải cần 
  Tài năng sáng tạo góp phần canh tân 
  Việc Làng – cấp độ dấn thân 
  Nặng về Thân – Trí như phần An Tiêm 
  Thể theo đại chúng ngưỡng chiêm 
  Của – Tài thực tế là niềm ước mong 
    
  Hai Kinh tóm lại chữ Song 
  Tiên nào Rồng nấy – thong dong bao thời 
  Nói lên Hoàn Chỉnh tuyệt vời 
  Khác nền xã hội ngược đời hiện nay 
  Chủ trương cai trị phơi bày 
  Ðấu thầu dân chủ - hằng ngày rêu rao 
  Mỵ dân – chính sách đề cao 
  Phổ thông đầu phiếu – nhưng nào vì dân? 
  Trọng tâm tham chính chỉ cần 
  Cậy tài ỷ của bắt dân phục tòng 
  Vẽ rào pháp chế làm vòng 
  Quản cai trực chỉ từng lòng nhân dân 
    
  Tiên Rồng thể chế tuyệt trần 
  Nước Làng quyền bính định phân rõ ràng 
  Tạo thành hệ thống dọc – ngang 
  Chính quyền căn cứ theo làng mà thôi 
  Thuế sưu, lính tráng, tài bồi 
  Phân chia, cắt bổ… trong nôi bảo bình 
  Góp công góp đức chứng minh 
  Tận tâm vì nước – tỏ tình cháu con 
  An Tiêm có trái cây ngon 
  Dâng vua biếu nước làm tròn việc chung 
  Chàng Rồng đại diện dân vùng 
  Nói lên liên hệ nước cùng làng đây 
    
  Thực hành bài học xum vầy 
  Quê hương dân tộc tràn đầy tự do 
  Cái làng là chốn ấm no 
  Do dân tự lập – tự lo việc làng 
  Mở ra nếp sống huy hoàng 
  Toàn dân cùng hưởng thiên đàng Lạc Long. 
 
 
 
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 01:03:32 bởi Thần Báo >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               6. Kinh Vọng Phu
 

 
 
Ðơn sơ với khúc tình lòng 
  Diễn phần Trường Cửu như trong đề tài: 
  Bồng con ru điệu Nam Ai 
  Trông chồng – thương mãi thương hoài ngàn năm 
    
  Quê nhà – em vốn lo chăm 
  Quản chi bao chốn xa xăm tảo tần 
  Nuôi con - phụng dưỡng song thân 
  Ruộng vườn canh tác – mộ phần sửa sang 
  Việc nhà cho chí việc làng 
  Chiều chiều trông ngóng tin chàng phương xa 
  Eo xèo chì bấc rầy rà 
  Vững chân bàn thạch – nàng là Vọng Phu 
  Hóa thành núi đá ngàn thu 
  Trông ra cửa biển mịt mù lửa binh 
    
  Vào thời đất nước chiến chinh 
  Bao chàng trai Việt đáp tình non sông 
  Gĩa nhà thực hiện nghĩa công 
  Tỏ phần “biến hóa” của Rồng là đây 
  Gia đình – nền tảng dựng xây 
  Việc chung làm trọng niềm tây phải nhường 
    
  Nước làng lâm cảnh tai ương 
  Giúp chồng – ra tuyến tiền phương diệt thù 
  Hậu phương – em tiếp quân nhu 
  Ẵm con mong đón chiến khu khải hoàn 
  Nước nhà – phận sự song toàn 
  Chồng nào vợ nấy – lo toan đắp bồi 
  Và nền văn hóa thăng ngôi 
  Chức năng nam nữ - hiệp đôi Tiên Rồng 
  Gia đình thể hiện việc công 
  Tình nhà tình nước – vợ chồng cùng xây 
    
  Khác nền văn hóa phương Tây 
  Phong trào giải phóng… đang gây sai lầm 
  Con người – tan nát lương tâm 
  Cộng đồng cực hóa – dương âm một chiều 
  Ngụy danh – chính sách thủ tiêu 
  Chức năng làm mẹ - tạo điều nguy cơ 
  Khiến người con gái bơ vơ 
  Hóa thân đực rựa – hững hờ quyên sinh 
  Phá tan hạnh phúc gia đình 
  Biến thành loài thú dục tình mà thôi 
    
  Trầu Cau – nền tảng lứa đôi 
  Thương nhau trọn kiếp – chết rồi vẫn thương 
  Như em – gia đạo kính nhường 
  Hóa thành Người Ðá – thăng hương chan hòa 
  Vọng Phu – trọn đạo nước nhà 
  Biến lên Núi Ðá – thăng hoa trọn đời 
    
  Tổ Tiên nhắn nhủ những lời 
  Chức năng cha mẹ - góp đời Ðứa Con 
  Chẳng như cảnh vợ chồng son 
  Ðứa Con – biểu tượng Sống Còn Nước Dân 
  Nói lên diễm phúc tuyệt trần 
  Góp cho xã hội – sứ nhân Con Người 
    
  Kìa trông thiếu phụ đôi mươi 
  Thương chồng – thương với tiếng cười trẻ thơ 
  Ðảm đang kết chỉ se tơ 
  Tháng năm sừng sững nàng chờ chinh phu 
  Ðăm chiêu đứng ngóng chiến khu 
  Mong chàng hăng hái diệt thù cứu nguy 
    
  Việc chung – chồng xướng vợ tùy 
  Tiên Rồng Song Hiệp – hội quy Ðồng Bào 
  Anh thời việc nước đề cao 
  Giúp em – thể hiện phần nào làm dân 
  Em ơi – đang gánh góp phần 
  Giúp anh – làm trọn nghĩa ân với nhà 
  Nước non – phận sự đôi ta 
  Cùng nhau gánh vác sơn hà Việt Nam 
  Nghĩa công – chồng vợ cùng làm 
  Rồng sống nhờ nước – như Vàm Cửu Long 
  Trổ tài vùng vẫy khắp giòng 
  Tỏ phần biến hóa – mà hòng gặp Tiên 
  Non cao Hòn Vọng Phú Yên 
  Bồng con – nàng đợi đoàn viên cùng chàng 
  Nước non – cơ nghiệp của nàng 
  Chàng đi vì nước – vì nàng mà đi 
    
  Cho nên lý tưởng thực thi 
  Tiên Rồng Nền Tảng chẳng vì lợi danh 
  Chẳng như xã hội hiện hành 
  Tham gia chiến đấu chỉ tanh mùi tiền 
  Tạo ra cảnh sống đảo điên 
  Nhìn nhau gía trị đồng tiền mà thôi 
    
  Kết Kinh – hướng dẫn khúc nhôi 
  Chồng nào vợ nấy – xứng đôi Tiên Rồng. 
 
            
            
         
     
    
 
    
     
 
     
    
    
    
    
	
    
    
    
    
        
            
    
        Thống kê hiện tại
        Hiện đang có  0 thành viên và  1 bạn đọc.
        
 
            
         
     
    
    
    
    
    
    
        
        
        
	
            Kiểu: